Xuân đã đem mong nhớ trở về
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi.
Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không
có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng
và những bẽ bàng.
Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ
Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang
Ngang.
Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.
Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi
ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam
đời trong mươi chữ:
Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang?
Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập
thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự
Xuân có sang mà hoa không tươi
Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chứ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời
Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa
Xuân đều là:
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay
Đã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói
thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian; và thơ Đường, thơ Tống, người
đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Điều đó có thật, nhưng con người
dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả
bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những
sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.
Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi
Thơ Say gồm có nhiều phần: Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng
... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân
trên đây, bài sau là Mùa Thu Đã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’,
người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời
gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng
Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong
cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một
bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm
7 đoạn, một vần:
Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...
... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở Ái Ân
Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955; mùa xuân đầu tiên xa xứ:
Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Đạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Đạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ...là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.
Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955; mùa xuân đầu tiên xa xứ:
Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....
(...)
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thuở nào....
(...)
Xuân về nhớ thuở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:
Có nghĩa gì đâu một chữ "về"
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề
Theo Chế Lan Viên, chữ "Về" là "cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "[1]
Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ "về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về:
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ "có nghĩa gì đâu", là phỏng theo Xuân Diệu:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - "có nghĩa gì đâu" . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến: "Mười năm thôi nhé mộng tan tành" ...,"Tình mười năm còn lại mấy tờ thư"…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung:
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc "hát ngao" hơn là một anh hùng ca.
Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung
Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt:
Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận:
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột:
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:
Có nghĩa gì đâu một chữ "về"
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề
Theo Chế Lan Viên, chữ "Về" là "cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "[1]
Đây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ "về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về:
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ "có nghĩa gì đâu", là phỏng theo Xuân Diệu:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - "có nghĩa gì đâu" . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến: "Mười năm thôi nhé mộng tan tành" ...,"Tình mười năm còn lại mấy tờ thư"…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung:
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao
Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc "hát ngao" hơn là một anh hùng ca.
Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng
Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(...)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung
Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Đục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt:
Chợ Tết mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(...)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Đoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận:
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột:
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái
Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ?
Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân: thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương:
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài: "loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân" (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc):
Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện:
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
(Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi:
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
(Mở Bút ghi Điềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên:
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng: ai có ngôi?
(Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán:
Kỷ Dậu hồi thanh
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch:
Tiếng vang lịch sử
Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên
Đặng Tiến dịch ké:
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm Ất Mão 1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc:
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài "Xúc Động Cuối Năm " thật buồn:
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : "xuân du thử địa vô phương thảo", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa:
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang
(Đông Hồ)
" Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ "Cô Gái Xuân" (1935) của Đông Hồ.
Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc:
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ?
Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân: thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương:
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Đạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài: "loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân" (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc):
Đạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện:
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
(Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi:
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Đủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
(Mở Bút ghi Điềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên:
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Đèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân rằng: ai có ngôi?
(Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 180 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán:
Kỷ Dậu hồi thanh
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch:
Tiếng vang lịch sử
Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên
Đặng Tiến dịch ké:
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm Ất Mão 1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc:
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(...)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài "Xúc Động Cuối Năm " thật buồn:
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Đông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : "xuân du thử địa vô phương thảo", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa:
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(...)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang rất sang
(Đông Hồ)
" Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ "Cô Gái Xuân" (1935) của Đông Hồ.
Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc:
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây
Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
(Xuân Đối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
(Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài "Xuân Quạnh":
Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài "Đón Xuân Mười Chín" làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973):
Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày
Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây
Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi
Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Đích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
(Xuân Đối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
(Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài "Xuân Quạnh":
Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
Đắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài "Đón Xuân Mười Chín" làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973):
Bấm đốt từ di cư đến nay
Đón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày
Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa
(dẫn trọn bài)
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm:
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi.
Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mâyvà say nhắc tên hai tập thơ đầu tay; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu:
Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ:
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ
ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý vũ Từ
Tác giả giải thích: Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa: hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai [2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết "ta đành mất hết để còn nhau" (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm:
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Đây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi.
Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mâyvà say nhắc tên hai tập thơ đầu tay; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.
Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu:
Ma là Người ... kiếp khác
Người là Trời ... đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
(Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Đoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ:
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Đèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ
ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Đành kết vào hương Thuý vũ Từ
Tác giả giải thích: Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa: hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai [2]. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết "ta đành mất hết để còn nhau" (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).
Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn,
làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu.
Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô
nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn:
Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ ghi chú: Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ: "dừng có mạch, vách có tai"; "xanh vỏ đỏ lòng". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : "tranh tối tranh sáng ", "mắt xanh", "mắt quáng gà", "gà cùng một mẹ", "lợn âm dương", "con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi". " Khúc tân thanh ằ ngụ ý ô đoạn trường". Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận: đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, "tam sao", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, ngày 14-3, giam ở Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là:
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.
Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ ghi chú: Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Đặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ: "dừng có mạch, vách có tai"; "xanh vỏ đỏ lòng". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : "tranh tối tranh sáng ", "mắt xanh", "mắt quáng gà", "gà cùng một mẹ", "lợn âm dương", "con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi". " Khúc tân thanh ằ ngụ ý ô đoạn trường". Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận: đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, "tam sao", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, ngày 14-3, giam ở Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.
Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này.
Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là:
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.
Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.
Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
[1] Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học, tr. 89, 1962, Hà Nội
[2] Bà Vũ Hoàng Chương ( 1919- 2005 ) – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân:
[2] Bà Vũ Hoàng Chương ( 1919- 2005 ) – nhà thơ Đinh Thục Oanh – Xuân Kỷ Mão 1999 đã có bài Mai Thuý Vũ để truy niệm phu quân:
Cao sâu từng nhập bóng cây già,
Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.
Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,
Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.
Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
Vang tiếng chim xanh về hót đấy,
Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.
Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu:
Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,
Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà
Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,
Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.
Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm
Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.
Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,
Một chị một em tình xót xa.
Cây vẫn thân xưa bóng chẳng nhoà.
Vườn trải băng sương trăm thức cỏ,
Xuân còn Thuý Vũ một cành hoa.
Lòng nghe nắng ấm say đôi chút
Cánh để men hồng nhuốm phớt qua
Vang tiếng chim xanh về hót đấy,
Bồng lai hẳn nhớ kẻ đi xa.
Tôi đã hoạ lại, nay nhắc lại để ghi kỷ niệm và tư liệu:
Mộng Trắng Cành Mai, trên cội già,
Nắng thưa mưa nhạt, trắng không nhoà
Sang Tần lỗi bước lầm Tâm Sự,
Bút Nở Hoa Đàm lỡ xác hoa.
Ngồi Quán, Thơ Say, Thuyền Ghé Tạm
Rừng Phong, Đậm Nhạt – Hạc về qua.
Mây xa, xa mãi, xa xa lắm,
Một chị một em tình xót xa.
Đặng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét