Tô Thùy Yên đến với văn học
trên “Cánh đồng Con ngựa Chuyến tàu”, bài thơ làm năm 1956, đăng trên báo
Sáng Tạo thời đó và được độc giả hoan nghênh ngay, nhất là trong giới thanh
niên, học sinh. Thời ấy sinh viên chưa nhiều, quần chúng văn chương còn thưa thớt,
một thế hệ độc giả mới đang chớm thành hình. Với thời gian nhìn lại, bài thơ có
thể xem là một sự kiện văn học vì lời thơ tân kỳ, ý thơ mới lạ, không giống một
bài thơ nào khác trước kia mà đã được người đọc không chuyên
môn văn học yêu thích ngay. Chuyện hiếm, vì công chúng Việt Nam
nói chung là thủ cựu.
Chuyện đẹp, vì bài thơ của
tác giả 18 tuổi đi thẳng đến độc giả 18 tuổi.
Ngày nay Tô Thùy Yên là tác
giả danh tiếng. Bài thơ thanh xuân được những lớp phù sa bồi thêm nhiều ý nghĩa
mới.
Trên cánh đồng hoang thuần một
màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến
đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất
mau.
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt
tàu.
(…) Mặt trời mọc xong, mặt
trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
(…) Ngựa ngã lăn mình mướt
như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết
nâu.
(Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tr
13)
Cánh đồng, con ngựa ở đây
khác với những hình ảnh trong thơ cổ, tranh Đường, tranh Tống, ngược lại phần
nào đó, gợi lên nền “văn hóa đồng hoang” của Nga La Tư thời cổ đại. Chuyến tàu
– nôm na là xe lửa – là biểu tượng văn minh cơ khí và hiện đại. Cuộc va chạm lớn
lao giữa hai nền văn minh đông phương thảo mộc và tây phương cơ giới đã được
nhà văn Phạm Văn Ký, 1910- 1992, vẽ lại trong tiểu thuyết Mất nơi
trú ẩn (Perdre la Demeure, Gallimard, 1961, giải thuởng Hàn Lâm Viện
Pháp), mô tả cảnh xây dựng con đường sắt tại Nhật Bản vào thế kỷ XIX. Ngày nay,
với tậpTHƠ TUYỂN (1) ghi tắt TT, của Tô Thùy Yên, con tàu còn mang nhiều
ý nghĩa khác, như hình ảnh của lịch sử, dân tộc và loài người, tàn khốc và
vô tâm:
Tàu đi, khoan xoáy sâu đêm
thép,
Tiếng nghiến ghê người, thác
lửa sa.
Lịch sử dường như rất vội
vã,
Tàu không đỗ lại các ga qua.
(Tàu Đêm, 1980 , TT, tr 122)
Bài thơ làm trong thời gian
học tập cải tạo miệt Nghệ Tĩnh; con tàu chở những người tù lưu xứ (tr 121), từ
một sự vật cụ thể, mang thêm nội hàm tượng trưng rộng lớn trong
thế giới Tô Thùy Yên:
Thời đại đang đi từng mảng lớn
Rào rào những cụm khói miên
man
( TT, tr 125)
"Trên đường lịch sử sắt
tuôn mau” (tr 120) con tàu đối lập với ngựa; ngựa là hình ảnh loài người
trong thân phận cá nhân, trong một thế hệ, một dân tộc hay thời đại trước tiến
hóa. Sức người có hạn rượt theo bánh xe lịch sử, vô hạn và vô định, vì lý
tưởng chính đáng, vì những say mê cuồng nhiệt và mù quáng, vì “duy ý chí”, vì
hoang tưởng hay chỉ là nạn nhân trong một hoàn cảnh. Cho đến khi “ gục đầu,
gục đầu’
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết
nâu.
Ngựa nâu là màu ngựa thường,
có khi là ngựa thồ, không phải là bạch câu, ô truy hay xích thố. Ngựa của Kim
Trọng trắng tựa “tuyết in”, chấm trên nền cỏ thanh minh như một đóa hoa lê; ngựa
của chinh phu cũng"tuyết in" nổi bật dưới chiến bào “đỏ tựa ráng pha”.
Ngựa của Vân Tiên đen tuyền, lấp lánh dưới kim khôi và siêu bạc rạng ngời giữa
trận tiền. Ngựa của Tô Lang chỉ có “lớp áo” nâu sòng, màu của số phận dân quê,
nói được là màu “dân tộc” cày sâu cuốc bẫm, hay cửa chùa vắng lặng. Khi thua cuộc,
con ngựa -con người- chỉ để lại một “vết nâu”.
Nâu như một giọt máu khô.
Thơ, và nghệ thuật nói rộng
ra, là những giọt máu đang khô, hay đã khô, trên nền mãi mãi non xanh của ngôn
ngữ loài người.
Cuộc đời như thế đấy.
THƠ TUYỂN của Tô Thùy
Yên bắt đầu bằng một câu trần trụi, trong bài nhan đềThi Sĩ làm năm 1960,
có thể xem như là tuyên ngôn. Thơ, thơ ai cũng vậy, bao giờ cũng vậy, là Lời, lẫn
với Đời. Khác nhau ở tỷ lệ: đời ít lời nhiều, hay ngược lại. Ở Tô Thùy Yên đời
và lời cân phân.
Thơ nhẹ cánh, mà đời nặng
gánh. Nói “đời” là mơ hồ, thậm chí hàm hồ. Đời nào, đời ai, đời những ai? Đời
tênh hênh thì thơ cũng tô hô. Ngày xưa Xuân Diệu tự xem như con chim “ngứa cổ
hát chơi”, lại thêm “hát vô ích thế mà chim vỡ cổ”. Tô Thùy Yên không làm thơ để
mà chơi.
Tôi giành giựt đổ máu với
tôi
Từng chữ một
(Thi sĩ, TT, tr 9)
Người xưa kể lại giai thoại
“thôi xao”, nhẹ nhàng như việc "đẩy cửa dưới trăng,tăng xao nguyệt hạ môn", (
chuyện nhà thơ Giả Đảo đời Đường ) không “đổ máu” như Tô Thùy Yên. Lê Đạt nói về
nỗi vất vả trong lao động chữ nghĩa có dùng hình ảnh "phu chữ”; Tô Hoài,
trong bài viết đùa thân mật, diễn nôm là “cu ly chữ”. Tôi có dịp hỏi ý kiến
Lê Đạt, anh trả lời: hiểu như thế không sai, nhưng cục bộ, “phu” còn có nghĩa
là "đại phu", hay "đại trượng phu" theo Mạnh Tử. Đây
là lời nói riêng, không phải là ý kiến.
Tô Lang không chơi chữ nước
đôi kiểu ấy: "đổ máu" là đổ máu, chỉ có một nghĩa, dĩ nhiên là nghĩa
bóng. Đọc thơ Tô Thùy Yên, cũng không nên đọc để mà chơi. Tác giả kén chọn người
đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng báo,
anh mới cho xuất bản một tập THƠ TUYỂN. Viết về anh có phần khó; không phải
ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm. Tôi viết bài này là do yêu cầu
của độc giả, chủ yếu vì lí do tâm cảm và đồng cảm, xem từng chữ của Tô Thùy Yên
như những giọt máu. Ví dụ con ngựa nâu là giọt máu mới đông. Cũng trong bài
tuyên ngôn Thi sĩ:
Bài thơ lọt vào người như kẻ
trộm
Âm thầm
Vơ vét sạch vô tư
( TT, tr 10)
Như vậy đơn vị thơ Tô Thùy
Yên không phải ở câu thơ, như thường lệ, mà là bài thơ có khi khá dài, thường
trên một trăm câu, và từng bài thơ một, phải đặt lại vào toàn thể tập thơ mới
đúng vị trí và ý nghĩa của nó. Trích dẫn từng câu, từng đoạn, dù tiêu biểu, là
việc cực chẳng đã. Đọc toàn tập, chúng ta nhận thấy thơ của Tô Thùy Yên không
có tuổi, cho dù mang nhiều âm vang của lịch sử, trong một giai đoạn chiến
tranh, đổi đời và tù đày khốc liệt.
Bây giờ ta đã già như tuyết
Già vô âm vọng
Già thâm u
Bây giờ ta trẻ như hừng đông
Trẻ như tiếng reo
Trẻ bất tử.
Ta ca ngợi những điều vô ích
nhất,
Như tình yêu, cuộc đời, sợi
tóc cỏ.
(Chim Bay Biển Bắc,
1972, TT, tr 69)
Chàng thanh niên 18 tuổi,
khi kể chuyện Con ngựa Chuyến tàu đã là một tâm hồn già; con người
ngũ tuần vừa ra khỏi trại cải tạo sau nhiều năm lưu xứ với “mái đầu sương điểm”.
Ta về một bóng trên đường lớn,
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
(Câu mở đầu bài Ta
về, 1985, TT, tr 126)
Bài tuyên ngôn “Thi sĩ” làm
1960 đã có những câu:
Những tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.
Với thứ linh hồn quốc cấm,
Tôi tù tội chung thân
( TT, tr 9)
Trong một bài thơ đề tặng
Thụy Vũ, ghi 7-1972 đăng báo Văn (Sài Gòn) số 208 ngày 15-8-1972:
Ôi những rặng cao su thẳng lối
ngay hàng
Ôi những rặng cây mang án tử
hình treo
(Bất tận nỗi đời hung hãn
đó, tr 58)
Lại còn bài này nữa cùng thời
1972:
Sống trên đời chuyện ghê gớm
quá,
Vậy mà ta sống, có kỳ không?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết
như rơm.....
Hề, ta trở lại gian
nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô...
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng
lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời
ta ...
( Bài: Hề, ta trở lại
gian nhà cỏ, TT, tr 43- 45-46)
"Tử tội mừng ơn lịch sử
tha"! Bài thơ ghi thời điểm sáng tác: tháng 7-1972. Tôi ngờ ngợ tác giả nhớ
nhầm, thơ in nhầm ngày tháng chăng? Tôi (vớ vẩn) đi kiểm soát lại thì thấy
đúng, bài thơ đăng trên báo Văn, Sài Gòn số 208 đã dẫn, thời đó, có ghi
rõ: làm ngày 11-7-1972.
Cùng với bài Tưởng tượng
ta về nơi bản trạch, lời thơ bi tráng tuyệt diễm:
Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
Chỉ giận sao mồi lửa cháy
suông.
Thôi nói, bởi còn chi để
nói,
Núi xa, chim giục giã hoàng
hôn.
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,
Áo phơi xanh phới nhánh đào
hồng.
Mùa xuân bay múa trên trời
biếc,
Ta búng văng tàn thuốc xuống
sông
Que diêm tắt mà vẫn phơi phới
đào hồng, trên cõi đời này, chỉ có Tô Thùy Yên! Niềm hạo nhiên đó, Tô Quân còn
gọi là: “cái có nơi ta” trong bài Chim Bay Biển Bắc đã dẫn, làm
ngày 4.8.1972.
Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm
Cuối chặng hành trình quay đảo
nhất
Cả thảy sẽ an nhiên
Trong trật tự hằng hằng của
vũ trụ
A! Loài người thăng tiến được
bao xa?
Trời đất phồng lên cơn giận
dữ
Thổi trận mưa rơm, Cõi Tạm
mù
(Văn số 208, tr 91,
Thơ Tuyển tr 70)
Trước đó, bài Đãng Tử,1971 có
ghi tiền đề: (epigraphe)
Ngày kia trở lại Ngôi Nhà Lớn
Lòng những bằng lòng một kiếp
chơi.
(Báo Văn, số 190, TT,
tr 23)
Mười năm lưu đày, thêm những
lần bị bắt đi bắt lại, âu cũng chỉ là một kiếp chơi! Nắm bắt được điều đó, mới
hiểu thấu bài Ta về (1985) nổi tiếng về sau, được nhiều người trích dẫn,
không phải lúc nào cũng với hảo ý văn nghệ.
Gần đây và hiện nay, về mặt
văn hóa, trong nước đang thảo luận dài dòng về đề tài: truyền thống và hiện đại;
dân tộc và thế giới; cái riêng trong cõi chung… Ý hướng tốt: muốn liên minh cái
nọ với cái kia, điều hòa cuộc sống dân tộc trong một thế giới đang bước đi những
bước khổng lồ.
Thực tế văn hóa, nghệ thuật
không rắc rối như vậy. Người nghệ sĩ làm thơ, vẽ tranh một cách hồn nhiên muốn
sao làm vậy, rồi tác phẩm của họ nó ra sao còn tùy; dân tộc hay hiện đại là do
người xem người đọc. Nếu rung cảm chân thành và sâu sắc thì phải mang đủ hai yếu
tố, với phần liều lượng khác nhau.
Nói rằng điều hòa truyền thống
với hịện đại, ngày nay trở thành một khẩu hiệu, một cách chào hàng trong thị
trường văn hóa. Trong thâm tâm người sản xuất đã có hậu ý đối lập:
làm sao cho có bản sắc dân tộc mà vẫn hiện đại; làm sao theo kịp các trào lưu của
thế giới mà vẫn giữ truyền thống. Hai chữ “mà vẫn” có tính cách lãnh đạo và
tham lam. Mà lãnh đạo và tham lam là phi văn hóa. Người nghệ sĩ chân
chính, dù cho bề ngoài phải chịu ức thúc, nhưng trong đáy tâm hồn,
trong cõi thâm sâu của sáng tạo, họ là những cá nhân tự do sống và
sáng tác với "cái có trong ta" như chữ nghĩa Tô Thùy Yên.
Con người nô lệ, vụ lợi và
xu thời, giỏi lắm là nghệ nhân hay văn công. Trong thực tế sáng tạo, dân tộc và
hiện đại là một đơn vị bất khả phân. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, trong một
tác phẩm mới in, đã nói chí lí và dũng cảm: “cái khẩu hiệu Dân tộc Hiện đại của
văn nghệ chúng ta trong nhiều năm nay là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh
ngay ở mặt tu từ (…) khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống”
(tr 58). Trong một bài khác, anh nói thêm “ Cũng vậyđối với nghệ thuật bản
sắc dân tộc và tính toàn cầu phải được hiểu là một”.(tr 73).
Cần nêu lên tiền đề này trước
khi đề cập đến đề tài cục bộ: Tô Thùy Yên, dân tộc và hiện đại, đặt một trường
hợp riêng lẻ trong cuộc thảo luận chung của đất nước - dù rằng cuộc thảo luận
khập khiểng. Nói khác đi, vấn đề không đặt ra với tôi; với tôi chỉ có thân xác
những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch; nó là thơ Tô Thùy Yên thế thôi,
không dân tộc hiện đại gì ráo. Nhưng với người đọc – người đọc báo chẳng hạn,
người viết có nhiệm vụ (và hạnh phúc) phải cập nhật hóa bài viết, trong bối cảnh
lý luận rộng lớn hơn, hiện hành trên đất nước.
Tô Thùy Yên đến với văn học
Việt Nam ở một giai đọan mới, mở ra tại miền Nam khoảng 1955-1956. Anh là thanh
niên trí thức, đọc nhiều sách báo nước ngoài, trên một mảnh đất mở vào “Thế giới
tự do” thì dĩ nhiên tâm hồn và trước tác cũng phải hiện đại: câu thơ, nhịp thơ,
hình ảnh, ý tứ trong thơ Tô Thùy Yên minh chứng điều đó, chúng ta không cần đồ
họa lôi thôi. Cái chính là làm nổi bật tính dân tộc trong thơ Tô Thùy Yên, đã
đưa thơ anh đến với một nhân loại muôn đời,vượt qua hàng rào “hiện đại”.
Trong số những nhà thơ đương
thời, có lẽ Tô Thùy Yên là người sử dụng nhiều ca dao nhất. Lưu Trọng Lư, một
trong những người phát động thơ mới, thuộc nhiều ca dao, hay nhắc đến những màu
sắc dân tộc, nhưng ít khi đưa ca dao vào thơ. Thanh Thâm Tuyền sành ca
dao, nhưng không sử dụng, thậm chí có thể nói thơ Thanh Thâm Tuyền là một thi
loại phản-ca-dao. Tô Thùy Yên, ngược lại ưa dùng lời ăn tiếng nói dân gian; nếu
không thuộc tục ngữ, ca dao, người đọc có khi không hiểu anh nói gì. Ví dụ bài
thơ mới làm cuối 1993, để Giã Biệt, “từ bỏ căn nhà, từ bỏ quê hương” lên
phi cơ biệt xứ:
Anh ra đi
Bứt ruột mà đi (a)
Như đã một lần cũng bứt ruột
Đi những mười năm tưởng chẳng
còn về
Máu chảy không cầm như nước
theo sông
Thành phố của anh
Nhục nhằn duyên cưỡng ép (b)
Cay đắng phận rau răm (c)
Tim lay lắt chập chờn nỗi đợi
Mòn mỏi nén nhang khuya (d)
Buổi trở lại, trèo lên cây
bưởi cũ (e)
Trông thấy nhau, thương chỉ
để mà thương (f)
Đôi bông đó thôi thì em hãy
giữ (g)
Tưởng tình xưa
Xin bỏ lỗi cho anh
Anh ra đi
Một lần nữa ra đi
Một lần nữa bứt ruột
Thương người ở lại
Thương như mưa (h)
a. Đưa tay mà bứt ngọn ngò
Thương em
đứt ruột, giả đò ngó lơ
b. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép
duyên
c. Cay đắng phận nghèo (mùi
đời)
(thành ngữ).
Gió đưa
cây cải về trời
Rau răm ở
lại chịu lời đắng cay.
d. Anh buồn còn chỗ thở than
Em buồn
như ngọn nhang tàn thắp khuya
e. Trèo lên cây bưởi hái hoa
f. Cây cao bóng ngã qua rào
Trông cho thấy
mặt không chào cũng thương.
g. Một mai thiếp có xa chàng
Đôi bông
thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
h. Bước chân xuống thuyền nước
mắt như mưa.
Dĩ nhiên là còn nhiều câu
khác mà tôi không biết, như “máu chảy không cầm” tôi nhớ mang máng đâu đó,
không tường tận. Muốn tìm ra nhiều điển cố dân gian trong một bài thơ như vậy,
phải lần lên đến Quốc âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, thế kỷ
thứ XV.
Có những giao hưởng tài hoa
và thi vị, trong lời hẹn một ngày về Vườn hạ
Ăn trái chín cây mùa hạ trước
Thấy nhành ớt động bóng chim
quen
( TT , tr 91)
Muốn đi vào tâm tư tác giả,
ta cần biết:
- Chim chuyền bụi ớt
líu lo
Tình thương quân tử ốm o gầy
mòn
- Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng
quen hơi
Trong bài Ta về,
1985:
Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng
( TT, tr 135)
Câu trên gợi lên cảnh “đêm
khuya ra đứng bờ ao” mà ai cũng nhận ra, nhưng không gian bờ ao kết hợp với “rụng”
nhắc lại một câu ca dao khác và gợi ra tâm trạng hờn tủi của người về
Thiếu chi cam rim hường
rim anh không chuộng
Anh đi tìm trái khế rụng bờ
ao.
Một bài khác còn nhắc tới
cây khế dung dị nhưng tuyệt đẹp:
Ta nhớ lắm
Khu vườn xưa, cây khế tím
mùa hoa
Có khi Tô Thùy Yên sử dụng
nguyên si một câu ca dao:
Thôi, em tiếc thêm chi cái sợi
dây dài
Để đến nỗi ngồi hoài bên giếng
cạn?
(TT, tr 150)
Nguyên câu văn ca dao, hóm
mà sâu:
Tưởng giếng sâu em(anh) nối
sợi dây dài,
Ai ngờ giếng cạn em(anh) tiếc
hoài sợi dây.
Bài Mùa Hạ làm
trong trại học tập Nghệ Tĩnh, trực tiếp nhắc nhở nội dung dân gian của một hình
ảnh.
Ngày nghỉ về vườn thăm họ
ngoại
Lòng như con sáo trong ca
dao
(TT, tr 108)
Con sáo là hình tượng tự do:
"con sáo sổ lồng sáo bay”. Vương vấn đâu đó ít nhiều cay đắng, khi nhớ đến
câu trước: "Ai đem con sáo sang sông," so với tình huống của người
dân miền Nam đi học tập cải tạo “ bên kia sông”. Cùng trong trang đó:
Em mặc bà ba ra bến nước,
Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương
nào,
Đến nay lòng ấy còn xao gợn…
Mùa trái cây nào hái tặng
nhau .
(TT, tr 108)
Ngoài “mùa trái cây” gợi nhớ
đời sống Miệt Vườn, chữ “bà ba” là đặc tính của Nam Bộ , nhưng không xuất
hiện nhiều trong thơ. Thường thường ta chỉ thấy “áo lụa Hà Đông” hay là:
Yêu nhau gói trọn hồn trong
áo
Nhớ nhau từ trong tà lụa bay
Đinh Hùng
Võ Phiến thời đó (1972) đã
nhiều lần luận về cái áo dài tha thướt; sau này, ra nước ngoài, anh mới nhớ đến
cái áo bà ba. Tô Thùy Yên trong những câu thơ uyên bác, không ngại dùng những từ
dân dã, Nam Bộ như cười bung (tr 59), lá bung phơi (tr
111), bung nở (tr 212), tiếng hò mời dzô dzô (tr 47), quên
ngang (tr 119). Những lời lẻ dân gian được sử dụng uyên bác:
Tôi gầy yên lặng với âm
thanh (TT, tr 10)
Ngoài ra còn có một số hình ảnh
lấy từ ở đời sống hàng ngày, ở tuổi thơ nông thôn, từ tàu chuối lưa thưa đến
hoa khế tím, con còng, con dế, đến chim bói cá, cá thia lia, những trò chơi trẻ
con như cút bắt, "xu thảy hết... đồng cái thua buồn cũng liệng sông"
(tr 95) ; với những kỷ niệm sắc bén:
Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
(TT, tr 92)
Gà đá, ở đây là những chùm cỏ
cú, làm trò chơi của trẻ nghèo ở nông thôn.
Kỷ niệm thơ ngây, lần xen
vào những câu thơ hào hoa
Con chim lạc bạn kêu trời rộng,
Hồn chết trôi miền dạ lý
hương.
(TT, tr 94)
Trong từ vựng, đặc sắc trong
ngôn ngữ thơ Việt là giá trị những hư từ, như liên từ, giới từ, những công cụ
cú pháp không có nội dung riêng, trái với thơ chữ Hán nặng về thực tế và né
tránh hư từ. Thơ Tô Thùy Yên cô đúc và có phong thái cổ thi nên cũng ưu đãi thực
từ, nhưng hư từ trong thơ anh lại rất đắc vị:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất
trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Ta Về, TT, tr128)
Đọan thơ này thường được
trích dẫn vì nội dung lịch sử và nhân đạo, triết học. "Hoa đã vì ta
nở" nhắc đến câu thơ vua Trần Thánh Tông,1240-1290, trong bàiVườn xuân nhớ
người cũ:
Vạn tử thiên hồng không lạn
mạn,
Xuân hoa như hứa, vị thùy
khai?.
ĐT tạm dịch:
Muôn hồng ngàn
tía suông đua sắc,
Hoa nở, vì ai vẫn
nở nhiều?
Nhưng đừng quên giá trị của
nó về mặt thi pháp, cách sử dụng các hư từ “vì”, “từ”, và cách ngắt nhịp huê dạng
“ từ mỗi” trong câu thơ.
Nói chuyện thơ, chúng tôi
nghĩ nên ưu tiên cho các vấn đề về thi pháp, từ pháp, âm pháp, nói chung là
ngôn ngữ. Dĩ nhiên nội dung của tác phẩm là quan trọng. Trong thời Tô Thùy Yên,
lịch sử dân tộc để lại nhiều hình ảnh sâu đậm, quá khuôn khổ của một bài báo.
Vậy xin khất độc giả đến một
dịp khác.
(1) Tô Thùy Yên,
THƠ TUYỂN. Tác giả xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ 1995. Thơ trích từ đấy.
(2) Thái Bá Vân,
TIẾP XÚC VỚI HỘI HỌA, nxb VIỆN MỸ THUẬT, Hà nội, 1998, chỉ in 400 cuốn, ai đọc
ai không? Đến hôm nay, 2009, chưa thấy tái bản.
Đặng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét