Trịnh Công Sơn - Đời và nhạc
Trịnh Công Sơn trong mắt
Thái Tuấn
Trịnh Công Sơn chánh quán Huế,
làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao
Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.
Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm
1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa
trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con
trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.
Trịnh Công Sơn theo học
chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng
lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm
vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay.
Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu,
Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau.
Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.
Anh tự học nhạc một mình, và
đã kể lại:
Thuở ấy, tôi là một đứa bé
thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng
thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu
tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm
cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc
như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi
hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là những năm 56 - 57, thời
của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời
tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt
nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ... Dạo ấy ba
tôi đã mất... (1)
Những câu hỏi người tò mò có
thể đặt ra: một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng
lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế? Thỉnh
thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư
riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.
Tự học đàn hát, rồi sáng tác
một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi
trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm
Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại
Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.
Câu hỏi tò mò thứ hai: tự học
nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao
anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng?
Nói rằng Trịnh Công Sơn là
thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt
Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam - nhất là sau cuộc
đổi đời 1975 - thật không đơn giản.
Mục đích của bài này là giải
thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công
Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ
yếu là khúc quanh 1975.
Chúng tôi cũng muốn cung cấp
cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm,
khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.
Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu,
Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985: "Đến
năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú
sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn
bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý
với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn
Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như
Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác" (2).
Khi đặt câu hỏi : sao một
thanh niên, rất trẻ, chỉ học "trường Tây" mà sử dụng tiếng Việt tài
hoa đến vậy, tôi không có thành kiến - vì bản thân mình cũng chỉ học "trường
Tây"- mà để tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.
Trịnh Công Sơn, có lẽ - đây
là giả thuyết dè dặt - không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà
trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy
nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử
dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà
không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu:
Tình xa như trời/ Tình gần
như khói mây/
Tình trầm như bóng cây/ Tình
reo vui trong nắng/
Tình buồn làm cơn say
... Cuộc tình lên cao vút /
Như chim mỏi cánh rồi / Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Mạch lạc nội tại (cohérence
organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa : "tình xa như trời"
thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như "khói mây" ? "Tình lên cao
vút", sao lại "như chim mỏi cánh rồi"? "Tình reo vui trong
nắng", thì phải đối ngẫu với "tình buồn cơn mưa bay" mới chỉnh,
sao lại say sưa vào đây?
Thật ra, mạch lạc nội tại được
cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ : những từ lặp lại : tình, chim, như, những vần
luyến láy : mây, cây, say, bay, những từ đối lập : xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối
tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ,
bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.
Chúng ta thử so sánh, để tìm
hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn-Từ Linh:
Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh
lá thư
Về đây với thu trần gian ...
Hai ca khúc na ná, vì đều là
ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được
cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố: gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng,
trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết
thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những
câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu:
Lá vàng từng cánh / rơi từng
cánh
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa
Bài Gửi Gió Cho Mây
Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng ở một giới thính giả
khác.
Phạm Duy, thời trẻ, đã có những
sáng tạo tân kỳ:
Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên
đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi), 1947
Sau đó, anh trở về với ngôn
ngữ duy lý:
Bao giờ em giở lại vườn dâu
(hỡi em)
Là một câu thơ tuyệt vời:
vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm
Duy lại bồi thêm câu sau:
Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu
(anh) bước sang...
Quê Nghèo, 1948)
Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ.
Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang. (Tôi đã có dịp trình lên anh
Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à?)
Tác phẩm Lê Thương uyên bác
cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích.
Trịnh Công Sơn sẽ không viết
được những câu văn vẻ như Lê Thương:
Bên Man Khê còn tung gió bụi
mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc
nơi ngàn trùng ...
(Hòn Vọng Phu)
nhưng đã viết:
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông (...)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn ...
(Du Mục)
Những hình ảnh ngoài trí tưởng
tượng của Lê Thương - ông vua đặt lời ca - theo sự đánh giá của Phạm Duy.
Đi vào nền tân nhạc với một
tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những
khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
Trịnh Công Sơn tự học nhạc,
chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được
khích lệ, mới "trao đổi nhạc lý với bạn bè", anh không nói rõ là những
ai.
Câu hỏi thứ hai người tò mò
đặt ra là: học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác
nhiều, nhanh và hay như thế?
Nhiều người cho là tác phẩm
anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.
Văn Cao nhận xét:
"Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu
trúc bác học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào
ra" (3).
Lối nhạc hồn nhiên, dung dị
này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy:
"Về phần nhạc, toàn thể
ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn
giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại" (4).
Một thính giả bình thường,
yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời: "Xét cho cùng, Trịnh
Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở
thơ anh đến với chúng ta" (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không
đúng nhưng tiêu biểu.
Dù cho rằng nhạc thuật đơn
điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa
hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng,
người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa
hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.
Ta thử nhớ lại thời đại phát
sinh tài năng Trịnh Công Sơn.
Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp
Định Genève chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh
chính trị và văn hóa mới.
Ở miền Nam, văn hoá phương
Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.
Sách báo, đĩa nhạc Pháp du
nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối
đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa
hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền
thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ
du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX: uyên bác như
Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp - và phương Tây -
du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng
lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về
Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.
Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh
Công Sơn - học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế - hát Lá Rụng (Les
Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco ; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một
lần với Edith Piaff, Barbara một lần với Yves Montand; trong khi Thanh Tâm Tuyền
dịch Barbara của Jacques Prévert,đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân
Hoàng cũng ngân nga Barbara. Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo
che nắng bằng sách của Sartre.
Người ta thắc mắc về những
tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh
Tâm Tuyền viết Đêm Màu Hồng, về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết
thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành
tranh trừu tượng, v...v... .
Song hành với sách báo, các
cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động: Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp,
Trung Tâm văn hoá Đức ... dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng
văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật
Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật
buồn còn ai, còn ai: ... Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ...
Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso,
nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh
hành một thời. Trong bài viết "Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng" anh đã tiết
lộ " tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những
ca khúc của mình". Ví dụ như: Vết lăn trầm hằn lên phiến đá mà anh gọi
là di thạch: roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát!
Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi
suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí
thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương
trên các báo, tự giới thiệu là "yêu màu tím" và "nhạc họ Trịnh",
hay "nhạc TCS" viết tắt.
Thời kỳ này, Nguyễn văn
Trung đã viết bài Ảo Ảnh Thanh Thuý. Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng
có thể viết một bài hay.
Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản: một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn
"Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm
rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này". Lại là một
yêu cầu khác của thời đại: những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây
đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một
nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh
niên: Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả
đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.
Thời Trịnh Công Sơn cũng là
thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète) chẳng
bao năm mà trở thành huyền thoại: Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh
Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách
trình diễn.
Nhạc Trịnh Công Sơn không phải
là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như
Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.
Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc,
soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất
nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng
không quá đáng.
Phân chất những lớp phù sa
đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói
đến những ảnh hưởng ngoại lai: "Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến
và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về
thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D.
Ellington... Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy
nhạc này để nói lên tâm sự của mình". (5)
Và cũng trên số báo Đất Việt
đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng: "Những năm 64-66, sáng tác có chất
Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca".
"Chất dân ca" ở
đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời
đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống
chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát; "Dân ca" ở đây
không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời
gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của
Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.
Sau này, thỉnh thoảng người
nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong "Thuở Bống là Người", hay điệu ru dân tộc, như "Lời Mẹ ru Con" thì cũng chỉ là
đôi biệt lệ, không tiêu biểu.
Gần đây, sách báo thường
trích dẫn câu Trịnh Công Sơn:
"Tôi chỉ là tên hát
rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời
hư ảo".
Lại phải hiểu chữ "hát
rong" theo nghĩa hiện đại: không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh
Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những
baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận,
Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã
nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là "người du ca chính hiệu":
"Người du ca là một nghệ
sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ
nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người du ca thường khi xuất
hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời
đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con
người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao
vây.
Thành thử những tác phẩm du
ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình
trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội
vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế".
Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì
này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư
danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất
là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.
Văn Cao cũng là một người
sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói "Sơn là một
troubadour (kẻ hát rong) có tài". Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh
dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa "kẻ ngợi ca": "bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui
tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ
hiền" (6). Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời
Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt
cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do,
tháng 8/2000.
Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh
Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà
bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.
Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh
Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là
có ý trang trọng.
Các vị ấy tài cao, ý sâu mà
lòng thì rộng rãi; cho nên lời cũng khoáng đạt.
Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp
Anh
Người con gái Việt Nam da
vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình yêu,
chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời sống thế giới hiện nay,
nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan,
Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard ... Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng
nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao
trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi: cao trào giải phóng dân tộc,
chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ : người phụ nữ Pháp đi
phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1944 mới có quyền đầu phiếu.
Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy
thôi: sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ
Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý
Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan
áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.
Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn,
thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi
ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà
chỉ ... ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi
chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều
mưa đỉnh cao .... Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.
Người đàn bà trong Trịnh
Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm
chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến ...
làm gì?
Người phụ nữ nghe và hát nhạc
Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không
phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô
Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không
phải ... đi lấy chồng: hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài
suốt nửa thế kỷ : Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt... Em ơi tình
duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ ... Và, ở một chân trời khác, họ cũng
không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ
mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc ...
Sau 1975, khi "Em ở
Nông trường, em ra Biên giới" thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở
thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng
có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.
Trong xã hội Việt Nam, cho đến
hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức.
Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người
đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói
vào điều đó.
Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà
bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài
này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc
Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.
Tôi không đủ thì giờ viết về
đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến
chủ quan:
1.- Dù đánh giá ra sao đi nữa,
nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai
mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.
Không có Miền Nam, cũng có
thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một
Phạm Tuyên hay Phan Huỳnh Điểu.
2.- Chính quyền Cộng Sản,
sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công
Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành
công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền
cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ Sài Gòn.
Dùng chữ "chính sách", là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân,
chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng
chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những
năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ
"bạn đường" (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.
Trong chiến tranh chống
Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục
được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là
thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản
chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do
họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có "tiêu
chuẩn" đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu
thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia "hai mươi năm nội chiến
từng ngày "là sai đường lối, bây giờ hỏi "Em còn nhớ hay Em đã
quên" vẫn sai lập trường.
Chấp nhận - dù trong giới hạn
- những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền
Sài Gòn, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận
mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một
nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung Ương Hà Nội
"wait and see" để cho Sài Gòn "phát huy sáng kiến"; nếu
rách việc thì ra tay chận đứng một "quyết đinh địa phương", nếu vô hại
thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.
3.- Về phía Trịnh Công Sơn,
anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975,
hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi Sài Gòn là hợp lý, sau khi đã sáng tác
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Đó là sự chọn lựa tự do của anh.
Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong
trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô
Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải
Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ
mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết : âu cũng là điều may mắn cho
anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.
Anh là người được hưởng nhiều
bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai
cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái
gì mà chỉ đổi chác ; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả
thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết: "Tôi
không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời
đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì
phải có trách nhiệm với mọi người".
Nói thì ngon lành như thế.
Thực tế không đơn giản: người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách
nhiệm? Anh hát "mỗi ngày tôi chọn một niềm vui ", khi bạn anh, Thái
Bá Vân, phó viện trưởng Viện Mỹ Thuật Hà Nội than: "một năm không được một
ngày vui". Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn ... chơi với Sơn. Nhưng chẳng
qua là niềm vui của phận "chim lồng cá chậu"; Hiểu như thế, bạn bè
không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như
anh.
Người ta đánh giá một tác giả
qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà "lẽ
ra" anh ta phải thực hiện. Nhân danh cái "lẽ ra" ấy, người
làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và
oan khuất.
Không những vì chút tình
riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng
ta nên gạt sang một bên nhiều cái "lẽ ra" đối với Trịnh Công Sơn, mà
chỉ xét những cái anh đã làm ra.
4.- Qua bốn mươi năm truân
chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật,
vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình
và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm
thời chưa nói đến.
Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc
Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả
khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận
ra sao?
Trong xã hội Việt Nam ngày
nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa
hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề
của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời hãy ngủ
yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác,
Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn... đều tài cao, nhưng được đào tạo và
trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ
không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu? Vì thực tế: sóng thì ...
về đâu? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị
nhốt vào nhà thương điên.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất
nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với
điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của "công thần"
Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến "hàng thần" Trịnh Công Sơn?
Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại
được "lời gọi của khoảng trống" (l"appel du vide) và ca khúc là
một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả
năng chận đứng bất cứ lúc nào - như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa: thậm chí
bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong
các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành?
Chính quyền dung dưỡng ca
khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm
(ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất
ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ
đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn:
Biển sóng, biển sóng đừng xô
tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân
người
Biển sóng, biển sóng đừng xô
nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm
bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo
ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương.
Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt
chước được mình.
5.- Chứng từ cho giá trị một
tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh
Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước
1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại (7).
Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc
Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe:
"Mặt trận Đường
Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng ... Nghe,
nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn, tình cờ 'gặp' Trịnh
Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm Xưa... Mưa vẫn mưa rơi ... làm sao em
biết bia đá không đau ... Quỷ thật! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên 'ghim'
lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay... Quái
thật ! ... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì
có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở
trong đó. Hình như là cái Đẹp... Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng
nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... Và cũng hơi ma quái thế nào ...
" (8)
Người ác ý có thể ngờ vực :
Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công
Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không
quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện
ở Berlin:
"Năm 1972, khi ấy tôi
là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ
được cái đài Sony rất tốt.
Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi
người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu
tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.
Chúng tôi là lớp người lớn
lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn
rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một
thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh
không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát
quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.
Rất lạ, với tôi khi đó nhạc
Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc,
tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ,
vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca
khúc của Hà Nội khi đó"
Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã
ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối
Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn:
"Mặt đất bao la ... anh
em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ...
Lời ca không phải là tiếng
thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến
cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.
Chúng tôi tiến vào Sài
Gòn...
Nối Vòng Tay Lớn
Chiến tranh nào bao giờ chẳng
có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một
liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi
doá.
Đấy là kỷ niệm thứ hai của
tôi về anh "
Tiếng hát làm chùng tay
súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ
kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao?
Văn học nghệ thuật Việt Nam,
đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó?
"Ngay cả sau này, đôi
khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát "Tôi ơi đừng tuyệt vọng"...
và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng
chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài
Gòn ngày đó " (9)
Ở một chân trời khác, nhiều
người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày
30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng
tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu
vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài
năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.
Một lần nữa, ông Nguyễn Văn
Trung, sau Ảo Ảnh Thanh Thúy nếu viết Trịnh Công Sơn Thực Chất và Huyền Thoại
cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.
Nếu có ai đó nói rằng: Trịnh
Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị
đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.
Vớ vẩn như một số lời ca
trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực? Sự thực trong
bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.
Chế Lan Viên, năm 1984, đã
viết: "Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân
sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn
hoá " (10). Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.
"Không xa đời và cũng
không xa mộ người..."
Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc
12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.
Đám tang ngày 4 tháng tư,
nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người
đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u
hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.
André Malraux có nói đâu đây
rằng "trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội". Trịnh
Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng
cũng không phải là vô tội.
Những đoá hoa đặt trên mộ
Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.
Bây giờ moa mới khóc Toa
đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi
là sông An Cựu.
Sơn ơi, đời này, và sang đời
khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu; an cựu, Sơn ơi.
(1) Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
(2) Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
(3) Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991, tr. 115
(4) Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm Duy Cường, California, 1991, tr. 287
(5) Đất Việt, Canada tháng 6,1986
(6) Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991
(7) Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991.
(8) Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, 1987
(9) Nguyễn văn Thọ, Nhớ Trịnh Công Sơn, Nước Đức, ngày 4.4.2001
(10) Chế Lan Viên, Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết, trong "Ngoại Vi Thơ", tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987.
(1) Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
(2) Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
(3) Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991, tr. 115
(4) Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm Duy Cường, California, 1991, tr. 287
(5) Đất Việt, Canada tháng 6,1986
(6) Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991
(7) Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991.
(8) Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, 1987
(9) Nguyễn văn Thọ, Nhớ Trịnh Công Sơn, Nước Đức, ngày 4.4.2001
(10) Chế Lan Viên, Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết, trong "Ngoại Vi Thơ", tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987.
Đặng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét