Văn Cao - Tiếng hát
Thiên Thai và Trương
Chi là hai ca khúc nổi tiếng từ nửa thế kỷ trước, cấu trúc trên hai truyền
thuyết được lưu hành lâu đời.Thiên Thai là chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi bồng
lai, Trương Chi kể lại niềm đau đớn của chàng ngư dân có tiếng hát
hay, tuyệt vọng vì tình: ai cũng hiểu như thế và hiểu đúng. Gần đây, Phạm
Duy có phát triển thêm ý nghĩa của hai bài hát, trong một loạt bài rất hay đăng
trên Văn Học (California), số 16 và 17 tháng 10, 11 năm 1987, mà Hợp Lưu
đăng kèm trong số này.
Nay chúng tôi muốn đưa một lối
nhìn khác về hai nhạc phẩm, không phải để đi tìm cái độc đáo, lập dị, mà để đưa Thiên
Thai và Trương Chi vào toàn bộ sự nghiệp thơ – nhạc – họa của
Văn Cao, như một đồng bộ thống nhất: hai bài hát đó, chúng tôi xem như là tuyên
ngôn nghệ thuật của Văn Cao – những nguyên tắc thẩm mỹ được đưa ra từ thuở hai
mươi, sẽ chung thủy với Văn Cao đến tuổi xế chiều.
Thiên Thai mở ra bằng một
tiếng hát:
Tiếng ai hát chiều nay vang
lừng trên sóng…
Bồng lai, ở đây, chỉ là tiếng
hát: Thiên Thai là lịch sử một tiếng hát, một tác phẩm nghệ thuật lừng
danh và vô danh. Tiếng hát, không à ơi trên võng, không tỉ tê bên gối, không ê
a dưới ánh đèm màu, không rè rè qua máy phát thanh, và vang lừng trên sóng, vượt
tới vũ trụ và lấn át vũ trụ. Tiếng hát át tiếng sóng là một âm thanh tự thức đè
lên một âm thanh vô thức. Tiếng ai hát… ai hát? Ta không biết và không cần
biết. Một tác phẩm nghệ thuật, khi lìa tác giả, không còn cần tác giả, như đứa
con khi trưởng thành không còn cần mẹ như trước: chúng ta yêu Truyện
Kiềumà không cần biết Nguyễn Du. Biết, dĩ nhiên, «thì cũng tốt thôi» nhưng
không phải là điều chính yếu trong nghệ thuật. Cái sai lầm của cô Mỵ Nương là
đã muốn đồng hóa tiếng hát với người hát: «Anh Trương Chi. Người thì
thậm xấu hát thì thậm hay… Hồ nghe tiếng hát thì thương… Hồ trông thấy bóng anh
chàng thì chê» như lời ca dao quê Văn Cao mà Nguyên Hồng và sau này Phạm
Duy, có kể lại. Mà không cứ gì một cô bé lầu Tây sai lầm, mà cả nền văn nghệ hiện
thực xã hội chủ nghĩa (đã) sai lầm, khi đánh giá những bài hát nói Nguyễn Công
Trứ qua Nguyễn Công Trứ, đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh qua con người Nhất Linh
– mà lại đánh giá sai.
«Thiên Thai là
gì? là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi». Sự đối lập, hay
song lập giữa vĩnh viễn và mong manh, giữa những định hình và những chơi vơi,
là thế giới nghệ thuật. Nụ cười mong manh trở thành miên viễn trong bức họa La
Joconde. Cái không gian như cái giây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu trong
buổi chiều Xuân Diệu – hay buổi chiều Nguyễn Du, bên cầu tơ liễu bóng chiều
thướt tha, những ánh sáng mong manh ấy, là cả một thiên thu.
Một mặt, nghệ thuật là tiếng « đàn
xui ai quên đời dương thế… nhớ quê chiều nào xa khơi… chắc không đường về
tiên nữ ơi», tách rời khỏi thực tế: nghệ thuật là một thế giới riêng, với những
quy luật riêng, bảo vệ và phát huy bản năng sáng tạo, độc lập với hiện thực. Mặc
khác, nghệ thuật cần bám rễ vào thực tại để phát triển, và phả sắc, nhả hương về
lại trần gian. Nói giản dị hơn: nghệ thuật cần thực tại để nảy sinh và cần quần
chúng để trưởng thành và tồn tại, nghệ thuật là ánh trăng thanh mơ tan thành
suối trần gian. Nghệ thuật là một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một
lần, là những cánh hoa trong một bức tranh tuyệt mỹ, không nở không tàn, nhưng
chỉ sống thực khi gặp cái nhìn của người xem: sóng mắt con người đánh thức cành
hoa trong hội họa, và trong ánh mắt đó, nó sẽ nở sẽ tàn như mọi thứ hoa trần thế;
và chỉ có phút bừng sống đó, cành hoa nghệ thuật mới đạt tới đời sống thực và
có khả năng trở thành một cành hoa lý tưởng. Trong khi chờ đợi, cành hoa huệ của
Tô Ngọc Vân, cành hoa cúc của Lê Phổ… vẫn là những hoa xuân chưa gặp bướm
trần gian.
Người nghệ sĩ khi cầm cây cọ
ngòi bút tên tay đều biết rằng ái ân thiên tiên, em ngờ phút mê cuồng có một
lần – một lần thôi, nếu có. Và có thể cái phút mê cuồng ấy không
đến: phút linh cầu mãi không về như lời thơ Hồ Dzếnh. Hoặc đến
không phải nơi phải lúc. Phút mê cuồng ấy linh thiêng, tuyệt đối, là động cơ
sâu xa của sáng tạo mà mỗi nghệ sĩ, mỗi xã hội đều có nhiệm vụ bảo vệ, vì nó chỉ
có một lần. Và khi khai triển chuyểnphút có một lần thành cả một
thiên thu, người nghệ sĩ lại phải tỉnh táo: trước cái phút mê cuồng đó
để chuẩn bị, và sau đó, để hoàn tất. Lúc tỉnh táo, trước và sau đó, anh là người
thợ, phải có dụng cụ, có tay nghề. Anh đừng cả tiếng khinh thường thợ thơ, thợ
vẽ: không có người thơ trong tay, anh suốt đời chỉ nghệch ngoạc, hoặc
rung đùi đợi vợ con hầu rượu hoặc lạc rang, và chửi đời «không có trình độ».
Thiên Thai là luồng điện
hai chiều: người trần thế mê hạnh phúc bồng lai trong khi những tiên cô khao
khát «khúc tình duyên» trần thế. Lưu Nguyễn khi ở Thiên Thai đã «quên
trần hoàn», khi về trần, muốn tìm lại cõi tiên thì Đào nguyên nơi nao?.
Nghệ thuật cũng vậy. Nghệ thuật là cuộc đời muốn hóa thân thành màu sắc, âm
thanh; mà cũng là những âm sắc khô cứng muốn trở lại làm hoa làm lá. Nghệ thuật
là đóa hoa mong chín mọng thành trái đầu mùa, mà cũng là quả cây chín muộn,
nhung nhớ cánh bướm hoang đường từ một mùa xuân xa vắng. Là những lối đi trùng
với lối về, nghệ thuật là cõi hẹn hò ngang trái.
Mỗi ngang trái là một chung thủy và hạnh phúc của sáng tạo nảy sinh từ sự thủy chung đó. Nghệ sĩ cùng bầy tiên đàn ca bao năm, không còn nhớ đường về; anh sống với nghệ thuật cũng vậy: trước giá vẽ, anh chỉ biết vui với cây cọ và màu sắc, mà không cần nhớ cuộc sống, không nên thêm vào một bó hoa hồng để tranh dễ bán, không nên bớt đi một đóa sen cho hợp với đường lối, lập trường. Anh vẽ cuộc sống, nghĩa là vẽ cuộc sống trong anh; dù là vẽ cái ly trước mặt, anh vẫn vẽ ra hàng ngàn cái ly chứng kiến đời anh, bằng một cái ly trong tâm tưởng. Tĩnh vật trước mặt chỉ là cái cớ, làm trung gian giữa tác giả và người xem tranh. Những mối tình lớn không cần trung gian. Những họa phẩm lớn không cần đề tài. Nhưng ngược lại, khi rời khỏi giá vẽ, trở lại đời sống bình thường của xã hội, thì anh lại phải sống bình thường, đau cái đau của con người, vui cái vui của vợ con, buồn nỗi buồn của dân tộc. Nguyễn Du không lăn lóc suốt đời thì không thốt lên được tiếng đoạn trường. Nguyễn Khuyến không lo sốt vó vì lụt lội mất mùa, phần thuế quan thu, phần trả nợ thì không viết nổi câunước trong veo. Nói vậy để trả lời những người hỏi Văn Cao: Sao tài hoa xuất chúng mà đi lãnh việc trong ban khủng bố? Sao lại không? Chẳng lẽ là tài hoa, anh lãnh phần làm nhạc quốc ca thôi, còn việc bẩn thỉu thì để người khác làm thay? Hỏi như thế thì khác gì trách Nguyễn Công Trứ cầm quân dẹp loạn, hay trách André Malraux chỉ huy lữ đoàn thép Alsace Lorraine? Văn Cao có câu thơ thật hay:
Mỗi ngang trái là một chung thủy và hạnh phúc của sáng tạo nảy sinh từ sự thủy chung đó. Nghệ sĩ cùng bầy tiên đàn ca bao năm, không còn nhớ đường về; anh sống với nghệ thuật cũng vậy: trước giá vẽ, anh chỉ biết vui với cây cọ và màu sắc, mà không cần nhớ cuộc sống, không nên thêm vào một bó hoa hồng để tranh dễ bán, không nên bớt đi một đóa sen cho hợp với đường lối, lập trường. Anh vẽ cuộc sống, nghĩa là vẽ cuộc sống trong anh; dù là vẽ cái ly trước mặt, anh vẫn vẽ ra hàng ngàn cái ly chứng kiến đời anh, bằng một cái ly trong tâm tưởng. Tĩnh vật trước mặt chỉ là cái cớ, làm trung gian giữa tác giả và người xem tranh. Những mối tình lớn không cần trung gian. Những họa phẩm lớn không cần đề tài. Nhưng ngược lại, khi rời khỏi giá vẽ, trở lại đời sống bình thường của xã hội, thì anh lại phải sống bình thường, đau cái đau của con người, vui cái vui của vợ con, buồn nỗi buồn của dân tộc. Nguyễn Du không lăn lóc suốt đời thì không thốt lên được tiếng đoạn trường. Nguyễn Khuyến không lo sốt vó vì lụt lội mất mùa, phần thuế quan thu, phần trả nợ thì không viết nổi câunước trong veo. Nói vậy để trả lời những người hỏi Văn Cao: Sao tài hoa xuất chúng mà đi lãnh việc trong ban khủng bố? Sao lại không? Chẳng lẽ là tài hoa, anh lãnh phần làm nhạc quốc ca thôi, còn việc bẩn thỉu thì để người khác làm thay? Hỏi như thế thì khác gì trách Nguyễn Công Trứ cầm quân dẹp loạn, hay trách André Malraux chỉ huy lữ đoàn thép Alsace Lorraine? Văn Cao có câu thơ thật hay:
Cuộc đời ôm tôi như trong một
cái bình
Một tiếng vang vang cả lòng
cả đáy
Văn Cao là vậy, luôn luôn là
vậy, một tiếng vang vang cả lòng cả đáy, dội về biển lớn, vang lừng
trên sóng.
Thiên Thai là cõi vô thủy
vô chung, không có thời gian. Mà không có thời gian thì không có Âm Nhạc. Lô
gíc. Không có khúc nghê thường. Gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách ròn lắng
xa là nghệ thuật, là trần gian, là ý thức của hủy thể. Âm ba thoáng
rung cánh đào rơi trong một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một
lần. Nghệ thuật đã là rụng chiếc lá đầu tiên xuống Đào Nguyên. Nghệ thuật là cố
gắng của con người vượt qua khỏi vật thể, tội lỗi và cái chết trong trần thế và
đã đưa những khái niệm ấy vào Thiên Thai qua Đào Nguyên Hành của
Vương Duy hay chuyện Lưu Thần, Nguyễn Triệu trong thơ Tào Đường mà
Văn Cao có chịu ảnh hưởng như anh đã ghi nhận (1944). Nhưng Lưu Nguyễn chỉ là
nhân vật, nên đã thong dong trở về trần. Còn Trương Chi là người hát, có thể là
tác giả những bài hát, nên phải trả một cái giá đắt hơn.
TRƯƠNG CHI
Có nhiều huyền thoại Trương
Chi. Tình sử Trung Quốc kể chuyện một cô gái mê tiếng hát một người lái buôn rồi
chết, tim hóa đá, cho đến khi người đàn ông trở lại, nhỏ một giọt nước mắt, khối
tình mới tan. Theo truyền thuyết Việt Nam, người đàn ông là một người thuyền
chài, có tiếng hát hay, nhưng bị chê nghèo (hoặc xấu); nhân vật nữ là cô Mỵ
Nương. Có thuyết cho là nàng chết, thuyết khác cho chàng chết, tim hóa gỗ bạch
đàn hay ngọc đá. Văn Cao nhấn mạnh hai chủ đề nhạc và giai cấp, và chuyện chấm
dứt ở cái chết của Trương Chi, chỉ còn lại tiếng hát nức nở bên sông. Không có
chuyện trái tim và nước mắt, Phạm Duy, trong Khối Tình Trương Chi (1945)
kể lại truyền thuyết từ đầu đến cuối. Hai bản nhạc đồng thời với nhau và Phạm
Duy đã có lần giải thích rất hay tác phẩm bạn mình (báo Văn Học, đã dẫn).
Bài hát Trương Chi mở
đầu cho một thế giới sơ khai: Một chiều mưa trăng nước chưa thành thơ, một
thế giới chưa có nghệ thuật, chưa có sáng tạo ; sau đó không gian mới
rung thành tơ: con người đã phát triển được bản năng thẩm mỹ, bằng cách tiếp
thu một cách tiêu cực vẽ đẹp của vũ trụ, rồi dần dần sáng tạo ra nghệ thuật, ôi
tiếng cầm ca thu tới bao giờ. Con người trước tiên tiếp xúc với vũ trụ để tự vệ
và sản xuất, nhờ có nghệ thuật, họ đã bằng những rung cảm mới, ngoài phạm vi
nhu cầu tồn tại. Tương quan giữa tiếng cầm ca và thu tới bao giờ là
tương quan giữa bản năng thẩm mỹ, bản năng sáng tạo và cái đẹp của thiên nhiên.
Thiên nhiên thì vẫn vậy thôi, hay chuyển hóa rất chậm và rất ít, theo chu kỳ,
nhưng ý thức thẩm mỹ của con người ngày càng phát triển nhanh, càng tiến bộ, trở
thành phức tạp, tinh tế. Cho đến một lúc nào đó, con người bỗng thấy lòng
chiều bơ vơ lúc thu vừa sang… Buổi chiều. Mùa thu. Niềm bơ vơ: chúng ta
đã đến những chủ đề cổ điển của văn thơ thế giới, từ nhiều nguồn văn minh khác
nhau. Con người chủng tộc, văn hóa khác nhau có thể cùng rung cảm như nhau, vì
cái đẹp khách quan bàng bạc dưới ánh sáng hài hòa của vũ trụ và cái đẹp chủ
quan ấp ủ trong bản năng thẩm mỹ của con người, bản chất gần nhau. Từ đó, nghệ
thuật là mớ vốn chung cho toàn thể nhân loại, nó phải có tham vọng đáp ứng lại
nhu cầu thẩm mỹ của con người – dĩ nhiên là qua lăng kính ngôn ngữ, văn hóa của
từng dân tộc một. Sáng tạo nghệ thuật làm vũ trụ và con người càng ngày càng
giàu có thêm. Buổi chiều, cũng như buổi sáng, buổi trưa, không đẹp, không xấu:
buổi chiều là giờ an nghỉ, phút chia tay, một ánh trầm tư, một thoáng u hoài
trước cảnh vật phai màu nhạt sắc. Buổi chiều, một thoáng bơ vơ, trở thành một
tình cảm văn nghệ. Có nghĩa gì đâu một buổi chiều (Xuân Diệu).
Nhưng theo đà tiến hóa, nghệ
thuật – và con người nữa, cách ly ra khỏi thiên nhiên, độc lập và có khi đối lập
thiên nhiên, công phá thiên nhiên. Nghệ thuật ngày một ngày hai trở thành một
hoạt động chuyên nghiệp có quy chế trong xã hội. Ngày nay, ai thích lời chim
hót ríu rít tiếng oanh cakhông nhất thiết phải thích âm nhạc; ai yêu phong
cảnh sông Lô bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu, người
ấy không nhất thiết phải yêu hội họa.
Nhưng nghệ thuật, cụ thể là
âm nhạc, hội họa và văn thơ khơi sâu ý thức về cái đẹp, gọi là mỹ cảm trong con
người, giúp con người yêu thêm, yêu sâu sắc hơn ngôn ngữ và những âm sắc thiên
nhiên. Không phải tự nhiên mà con người nghe suối hát theo đôi chim quyên hay ngoài
song mưa rơi trên bao cung đàn… còn nghe như ai nức nở và than… trầm vút tiếng
gió mưa… cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng… Trong trường ca Những
Người Trên Cửa Biển, Văn Cao nói rõ hơn:
Có người không biết trăng là
đẹp
Bỗng nhiên chiều đứng ngắm
trăng lên
Nghe như ai hát trong lòng…
Có người quên hàng chục năm
dĩ vãng
Chợt nhớ ra tất cả những ước
mơ
Của những ngày niên thiếu
(Lá, tr. 72)
Nhờ một câu thơ, một khúc nhạc.
Nghệ thuật là bội số của cuộc đời, nhân cuộc đời thành hàng vạn giấc mơ, từ đó,
Văn Cao đã có thể khẳng định những bức tranh tăng dân số chúng ta. Và
anh giải thích:
Bao tình yêu khát khao hy vọng
Gửi từng cuộc đời nhỏ bé
Từng thế giới con con
Với tôi tất cả
Đều rộng lớn vô cùng
vì những nhỏ bé con con ấy
lớn lên trong nghệ thuật, đều trở thành cái vung tay hùng tráng của người
gieo – (le geste auguste du semeur).
Nhưng cái đẹp trong nghệ thuật
không phải lúc nào cũng lung linh ánh trăng, long lanh tiếng suối, lóng lánh
hơi mưa, nó có thể lem nhem than khói:
Nhạc đang biến thành sự thực
quanh ta
Tôi càng yêu hơn
Những cuộc đời sau bức tường
xám xa lem nhem than khói
Những lá thuyền chen chúc
nép bên nhau
Qua chiếc lưới phới thấp
thoáng bóng người
Cả đến cuộc đời những con hà
lóng lánh
(Lá, tr. 71)
Tác dụng của nghệ thuật thật
lớn lao trong cuộc sống của loài người. Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây, con quan Thừa
Tướng ngày ngày cấm cung trong ca dao làm sao có tầm hiểu biết như thế.
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe
tiếng ngân hò khoan
Mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng lả
lơi
Lả lơi bên trời
Sai lầm của cô gái lầu Tây
là đã mơ người hát qua lời hát, mơ tác giả qua tác phẩm, sau đó muốn chiếm hữu
tác giả – nghĩa là chiếm hữu toàn bộ tác phẩm lẫn nguồn sáng tạo cho riêng một
mình – rồi lại chê nhặt chê khoan. Cô là hiện thân của hệ thống chính trị cưỡng
đoạt văn nghệ từ xưa đến nay. Đường Minh Hoàng yêu chuộng Lý Bạch, Louis nâng đỡ
Molière, bất quá là để mua vui như Lê Thánh Tông dùng nhạc Lương Đăng; còn chế
độ chuyên chính vô sản, từ Staline đến nay, chiếm đoạt nghệ thuật ra sao thì
chúng ta không cần dài lời. Trong bài hát, Văn Cao phớt qua hình ảnh Mỵ Nương,
chút nhan sắc của cô bé dậy thì này không đáng cho chúng ta dừng mắt lại lâu,
như lời chàng Nguyễn Huy Thiệp chịu khó quan sát, những cô gái mới lớn hết
sức đức hạnh và trong trắng lại lén lút đi đọc những chuyện nhảm nhí. Người anh
hùng của các thiếu nữ hoa niên là một gã Đông Juăng nào đó (Sông Hương, số
42, 1990). Điều này, dĩ nhiên là không làm vinh dự cho anh Trương Chi, anh chỉ trách
ai khinh nghèo quên nhau. Quên nhau là thôi, là hơn. Trương Chi dừng chèo là
Văn Cao dừng chuyện. Không cần gì mà phải tim hóa đá để đòi nợ nước mắt. Vì
không ngọc đá nào quý bằng trái tim con người, trái tim biết yêu, biết nhớ,
trái tim ngừng đập là tan với cỏ cây. Trái tim Trương Chi, trái tim Văn Cao
không có gì sánh được. Còn món nợ kia? Ở đời, một anh «phủi» nợ, thì
hết vấn đề. Hai là anh nhận nợ, thì không bao giờ anh trả hết: chết đi, chết kiểu
gì đi nữa, thì anh cũng chỉ mới thoát nợ chứ chưa phải là trả nợ. Lẩn thẩn mà
Văn Cao đòi nợ thì phiền lắm: cả nước nợ anh một bản quốc ca, mỗi chúng ta còn
nợ anh một vài bản nhạc tình, cả mấy cô tiên trên Thiên Thai cũng còn nợ Văn
Cao trái đào thơm. Năm nay bảy mươi tuổi, Văn Cao đã ăn được trái đào thơm nào
đâu? Còn quả đắng, thì suốt một đời, anh phải ăn nhiều lắm. Văn Cao là
chú đạo đồng dâng mật ngọt cho bữa tiệc trần gian rồi suốt đời phải ăn trái đắng.
Trái tim Trương Chi thì đã
tan rã. Nhưng tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung. Đây là định mệnh của tác
phẩm nghệ thuật, là ý nghĩa đặc biệt của nhạc phẩm Trương Chi, chứ không
phải là chuyện tình lẩn thẩn. Phải hiểu như thế mới bắt được mạch thơ Văn Cao
Đêm nay dòng sông Thương
dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta
Ta ở đây không phải là cá
nhân Trương Chi, cũng không phải là Văn Cao, mà là Con Người, Nhân Loại sáng tạo
ngôn ngữ, rồi sáng tạo nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, văn minh, văn hóa để làm
chủ trái đất còn riêng ta. Con người gõ ván thuyền mà ca, giữa cảnh trăng
nước sông Thương đó, đẹp hơn cả hình ảnh Trang Sinh khi vỗ bồn mà hát. Hát rằng: ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh tú làm ngọc
châu, vạn vật làm lễ tống… Mà còn thêm chi cho lắm việc (Liệt Ngự Khấu,
Ngoại Thiên). Bối cảnh có khác nhau, nhưng nội dung chính yếu của chuyện gõ
thuyền, gõ chậu mà ca không khác nhau: con người tự thức, làm chủ thể của ý thức
và ngoại vật. Tự thức ở Trang Tử là tư tưởng lớn lao của ông, tự thức của Văn
Cao là nghệ thuật của mình, làtiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng, mà
cũng là tiếng sóng. Tiếng sóng Kêu khát suốt ngày đêm – Suốt ngày đêm kêu
khát. Nghệ thuật phải là những làn môi. Những làn môi nóng bỏng căng
mình chờ đợi:
Nước ngọt của dòng sông
Bao giờ đổ đầy lòng biển
(Câu khép trường ca Những
Người Trên Cửa Biển)
TỪ SUỐI MƠ ĐẾN BẾN XUÂN
Những tình khúc đầu mùa của
Văn Cao là Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu (1939), Cung Đàn Xưa, Bến Xuân (1942), Suối
Mơ (1943) đã ghi lại những thành công trong thời kỳ phôi thai của nhạc mới,
những năm 1940 và bây giờ vẫn còn nhiều người hát; và nghe lại, ta vẫn thấy
hay, trong khi một số ca khúc đồng thời của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước… đã trở
thành những âm hao lạc lõng. Giải thích hiện tượng này, Phạm Duy đã có một loại
bài hát hay, và anh là người có nhiều thẩm quyền nhất để phán: anh sống, sáng
tác và ca diễn vào thời điểm đó, anh nắm vững lịch sử tân nhạc và tâm lý quần
chúng; về nhạc thuật, Phạm Duy là vua. Vậy chúng tôi tựa cột mà nghe Phạm Duy
Phải đợi cho tới khi tân nhạc
ra đời vào những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta mới có được một loại nhạc
tình lãng mạn do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước,
Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Dzoãn Mẫn…tung ra (…). Tuy nhiên, loại nhạc
tình lãng mạng đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được phát xuất
ra từ một con người tài hoa bật nhất của thế giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người
đó là Văn Cao.
Cái mới, điểm tiến bộ đầu
tiên Văn Cao đưa vào nhạc mới là người đàn bà đẹp, kiều diễm, trang trọng, cao
quý, khác với Cô Hái Mơ, Cô Lái Đò, Cô Lái Thuyền, Cô Hàng Bán Hoa, Cô
Hàng Cà Phê, Cô Láng Giềng trong những bài hát thịnh hành thời đó. Xã hội Việt
Nam ngày xưa không tạo cơ hội cho trai gái gặp nhau, ngoài sinh hoạt công cộng
nơi đồng áng hay hội hè – vốn hiếm. Nơi công cộng, nếu không gặp cô thôn nữ tát
nước bên đàng, thì cùng là cô sơn nữ, cô hái hoa gì đó, vì trai gái không có
quy chế (statut) gặp gỡ. Phải đợi đến Văn Cao, cô gái mới đi thẳng đến nhà người
yêu bên chiếc cầu soi nước để hát theo đàn rồi hẹn mùa xưa
cùng xây nhà bên suối. Người con gái, có thể là khuê các, có thể ngồi trong nhà
mà nhớ người yêu: Ôi vừa thoáng nghe, em mơ ngay bước chân chàng. Đặt
biệt là chữ «ngay» như một phản xạ, một tự do. Phải rồi. Cô gái trong
tình khúc Văn Cao là cô gái tự do, báo hiệu cho một nền văn minh mới. Cô lại đẹp
tuyệt vời, huyền diệu:
Chiều năm xưa
Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu xuân
Dáng hồng thơm hương
Người đẹp kiêu sa này, đi
vào kháng chiến sẽ để lại những lối mòn thơm mãi dấu chân em trong
thơ Nguyễn Đình Thi; ra khỏi kháng chiến thì:
Em đài các lòng cũng thoa
son phấn
Hai bàn chân kiêu ngạo dẫm
lên thơ
trong Mê Hồn Ca của
Đinh Hùng. Nhất Linh đã bảo vệ người phụ nữ, Dương Thiệu Tước đã mơn trớn, và
Văn Cao đã kính trọng người phụ nữ.
Một đặc điểm khác trong tình
khúc Văn Cao là toàn bài hát được cấu trúc như một tác phẩm hài hòa và toàn
bích, như một bài thơ độc lập, có giá trị nhất quán và tự tại. Phạm Duy công nhận: Nếu
đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó thì bài Suối Mơ với Bến Xuân là
cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó các nhạc sĩ còn đang lẩn quẩn
trong cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn Cao đã viết hẳn ra một Bài
Thơ Bên Suối.
Cung Đàn Xưa kết hợp
nhuần nhuyễn những lời thơ thiết tha da diết, xoắn sâu vào nỗi đau thương:
Cung thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ
thương dần pha phôi
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc xuân sắp tàn
(…) Giờ còn mong chi người
hát theo đàn.
Trong thơ mới, có lẽ ngoài
Hàn Mặc Tử ra, chúng ta cũng ít khi thấy ngôn ngữ thê thiết dồn nén đến mức ấy.
Ngôn ngữ Văn Cao thật mới: trong khi các nhạc sĩ khác còn vân vê hình ảnh hoa rụng
thuyền trôi, thì Văn Cao đã có những sáng tạo:
Hồn cầm phong hương hình
bóng xuân tàn
... Hồn cầm lắng tiếng
đời
… Cánh nhạn vào mây thiết
tha
… Có một mùa đào dòng ngày
tháng chưa tàn qua một lần…
Đó là đặc sắc trong lời ca.
Về nhạc lý, chúng ta nghe Phạm Duy phê phán nhạc tình thời đó: Về phần nhạc
thuật ta thấy rằng tất cả những bài hát đó chỉ được coi như là phó sản của những
nhạc phẩm đã được sản xuất trước đây. Tất cả đều nằm trong một khuôn khổ có sẵn
(thể nhạc khiêu vũ tango hay rumba) với những âm hình (dessins melodiques)
mà ta có thể gọi được là cliches. Những tình cảm trong các bài này cũng đều na
ná như nhau, nói chung là tiếng gọi gái của những thanh niên thất tình(Văn Học,
tháng 12, 1986).
Theo Phạm Duy, phải đợi đến Cung
Đàn Xưa, Văn Cao mới đưa nhạc tình trong năm 1943 này lên tới đỉnh cao nhất
của những bài ca ái tình(Văn học, số 15, 1987).
NHỮNG HÀNH KHÚC
Song song với những tình
khúc đầu mùa, mà Phạm Duy gọi bằng tiếng Pháp là le temps de l’innocence –
thời ngây thơ, vào những năm đầu thập niên 1940, một nhạc trào khác phát triển
mạnh là nhạc hùng, những bài hát khỏe, vui của hướng đạo, học sinh, đề cao lịch
sử, đất nước, sức khỏe, bắt đầu từ nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý tại Hải Phòng đến
Hùng Lân, Lưu Hữu Phước. Những hành khúc này có những động cơ xã hội hay chính
trị, hoặc tự nhiên hoặc có lãnh đạo.
Văn Cao là tư tưởng tự do và
tiến bộ, trong thể loại nào cũng giữ hai nét đặc biệt ấy.Văn Cao yêu lịch sử
dân tộc nhưng không nô lệ: tự hào về quá khứ đất nước anh vẫn xem như là một kỷ
niệm đã qua – và tâm thức dân tộc cần phải được vượt qua để tồn tại và tiến
hóa.
Trận Đống Đa là chiến thắng
thần tốc oanh liệt nhất của chiến thuật Việt Nam, của chiến tranh nhân dân và
phong kiến, của bạo lực và chính nghĩa, của chiến lược thuần túy. Nhưng Văn Cao
không hề bị choáng ngợp trước đỉnh cao lịch sử đó, ngược lại, trong Gò Đống Đa,
anh khẳng định:
Thề quyết phấn đấu
Đồng tâm hy sinh
Làm sao cho hơn thời xưa
Rồi cất sức sống ngày mai…
Thăng Long Hành Khúc Ca,
cũng nhắc lại chiến công Tây Sơn, Văn Cao nhìn về toàn bộ lịch sử dân tộc qua
hình ảnh cố đô:
Thăng Long thành xưa
Thăng Long ngày nao
Cờ khoe sắc phất phới
Nhưng hiện tại thì khác. Việt
Nam, lúc đó, là một nước nô lệ lầm than, lạc hậu. Hà Nội là một thủ phủ thuộc địa: bao
năm qua khắp chốn cũ cũng đã mất hết tinh anh. Dù cho bao người bao nhiêu
luyến tiếc… này phường phố cũ, này đường về ô xưa… bóng xưa ngàn năm, thì giờ
đây chỉ còn lại một u hoài xa vắng, hồ phai khi tàn mơ. Muốn dân chúng sống
yên vui, thậm chí sống oai hùng, tiếp nối với truyền thống thì phải biết đổi mới,
tiếp thu khoa học và dân chủ – những giá trị phương Tây mà Nguyễn Trường Tộ đã
trình bày – phải mở tim mở óc chờ gió mới bay về… bao ánh sáng phương tây
từ khắp chốn bay về.
Lấy một ví dụ khác: chủ đề
sông Bạch Đằng. Chiến công hiển hách này được nhiều người đưa ra như một tiêu
chuẩn, một giá trị miên viễn. Hoàng Quy, đồng hương, bạn và thầy nhạc Văn Cao
viết:
Đến bây giờ mỗi khi đi trên
sông Bạch Đằng…
Thì anh em ta vui ca rằng:
Trên sông Bạch Đằng dân Nam
hò reo
Lưu Hữu Phước cũng cho rằng Đằng
Giang vẫn sáng để cho nòi giống soi chung, trong khi đó Văn Cao, trên con sông
quê hương thì buồn thiu:
Bạch Đằng giang sầu mơ bên
lau xanh
Với bến nước xa xôi
… Buồn ai đứng nhìn con sông
xanh biếc ngày xưa
Mà nước mắt mờ rơi…
Đã đành, ở đây lãng đãng nét
u buồn lãng mạn vẫn cố hữu trong nhạc Văn Cao, nhưng không thể phủ nhận tư tưởng
cầu tiến và duy tân của anh. Lưu Hữu Phước thường nói đến nòi giống. Có khi rất
hào hùng. Hào hùng lắm thì kỳ thị:
Đây Bạch Đằng giang sông
hùng dũng
Của nòi giống anh hùng, giống
Tiên Rồng, giống Lạc Hồng. v.v.. .
Thì, trong một đề tài khác,
Văn Cao thực tế và thắm thiết và thân thiết mong:
Dắt giống nòi quê hương qua
nơi lầm than
Cùng chung sức phấn đấu xây đời
mới…
Thời đó, Văn Cao đã có cái
nhìn rất thoáng, rất rộng về dân tộc trong một cộng đồng nhân loại lớn lao: Trong
Công Nhân Việt Nam (1944), bài hát chính thức của Tổng Công Đoàn Việt Nam
hiện nay, anh viết:
Ngoài kia lời non nước đang
nhắc ta
Mau nhấc cao giống nòi
Yêu mến muôn giống người
Tranh đấu cuối cùng
Là đời sống mới dâng xa
Một tình cảm tiến bộ, lành mạnh.
Nói rằng những tư tưởng kia có lãnh đạo, cũng không giảm giá cá nhân Văn Cao. Tố
Hữu cũng được lãnh đạo – và lãnh đạo kẻ khác – tuổi đời và tuổi đảng cao hơn
Văn Cao, mà tư duy chính trị, ở thời điểm đó, còn hạn chế. Tư tưởng tiến bộ của
Văn Cao đã từng lưu hương yêu dấu với suối xưa trôi nơi đâu trong những
phím tơ lưu luyến mấy cung u huyền trong tiếng hát vọng ngàn xưa còn
rung – buồn xa vắng trong tiếng thầm buồn tê tái trong tiếng ngân – như mùa thu
chết rơi theo lá vàng, tâm hồn hoài cổ ấy lao vào những kỷ niệm vang vang hùng
khí: Bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca ra nơi biên cương. Bao chiến
mã lên đường… nhưng cái bất ngờ là Văn Cao không dừng lại ở những «dư
âm mênh mông» ấy, anh còn đòi:
Lập quyền dân tiến lên Việt
Nam
Đòi hạnh phúc đắp xây tự do
Những yêu cầu thiết yếu mà
ngày nay, sau nửa thế kỷ xương máu và lầm than dân tộc ra vẫn chưa đạt tới. Và
vẫn còn có thể hát đắng cay:Tiếng than nơi nơi… Tháng năm dần trôi. Về nhạc thuật,
Phạm Duy đánh giá cao bài Chiến Sĩ Việt Nam: Với tài năng tuyệt
vời của một họa sĩ, Văn Cao vẽ ra hình ảnh chiến sĩ Việt Nam phi ngựa trên đường
xa (…) Tài soạn nhạc của anh tới lúc này đã bỏ xa những nhạc sĩ chuyên nghiệp
khác, đừng nói gì tới những tay soạn nhạc tài tử như Nguyễn Đình Thi hay Đỗ Nhuận.
Trong khi nhạc hùng của Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước dù hay đến mấy cũng không vượt
ra ngoài khuôn khổ của những ca khúc rất chân phương, rất cân đối, rất sách vở…
thì Văn Cao trổ tài soạn nhạc hành khúc như bài Chiến Sĩ Việt Nam này. Câu nhạc
thứ hai dài dằng dặc, với nhịp điệu dồn dập, thay đổi hơi thở luôn luôn khiến
cho câu ca có sức sống mãnh liệt: «Ngựa phi nơi xa xa kìa nghe súng
vang bên trời điệu kèn rộn ràng». Tiếp tới là sự nhắc lại đề (…) Cái hay
của tác giả là đã chuẩn bị để vào cuối câu nhạc sẽ chuyển qua một nhạc đề khác,
để chứng tỏ sự phong phú của bàn tay sáng tác (Văn Học, số tháng 10,
1986).
(Tư liệu: 1944, Văn Cao làm
xong Tiến Quân Ca thì Nguyễn Đình Thi là người xướng âm đầu tiên. Sau
đó, cao hứng Thi rủ Văn Cao làm một bài khác, và làm xong Diệt Phát Xít trước
bài Chiến Sĩ Việt Nam của Văn Cao).
Dân quân du kích cách mạng
bùng mùa thu
Sao vương bóng cờ bay trên
chiến khu…
Đây là hình ảnh đẹp đầu tiên
của cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Con người sống thực tại như một giấc mơ, sống lịch sử như một nghệ
thuật, sống đất nước như một bích họa: ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió…
Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm cây rừng. Bài hát Bắc Sơn, nguyên thủy là
sáng tạo cho vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng vượt khỏi đề
tài, trở thành bài hát của người du kích. Cũng như Tiến Quân Ca, lúc
đầu là bài hát làm cho một khóa quân sự kháng Nhật, sau trở thành quốc ca. Văn
Cao năm 1977 đã viết một đoạn hồi ký dài hai ngàn chữ về bài này ; quốc ca
là sở hữu của dân tộc và lịch sử, chúng tôi không bàn tới trong bài này – vì
không phải nơi, không phải phép.
Cách mạng tháng Tám 1945 đã
đưa dân tộc vào một khúc quanh. Văn Cao làm bài thơ Chiếc Xe Xác Qua Phường
Dạ Lạc đăng trên báo Tiền Phong, bài thơ quan trọng đầu tiên của anh, sau
đó là Ngoại Ô Mùa Đông 1946 đăng trên báo Văn Nghệ thời
kháng chiến, 1948. Bài thơ mới mẻ, mạnh bạo đã có nhiều nét báo hiệu phong cách
thơ Văn Cao về sau.
Toàn quốc kháng chiến. Hà Nội
chiến đấu. Mùa Xuân về, giữa chiến hào xa. Văn Cao ra đi, rạo rực phơi phới
với hai mối tình lớn: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến cũng là Xuân
trăng mật. Bài hát Làng Tôi mang những âm hưởng đằm thắm, dịu dàng, phấn khởi
chưa từng thấy trong những ca khúc trước đó. Văn Cao vốn tiết kiệm tâm sự, kín
đáo về đời tư, nên mãi đến năm 1974, anh mới có bài thơ về chị ấy, Khuôn Mặt
Em, nhưng cũng không lấy gì làm rõ nét. Chúng tôi chỉ phỏng đoán vì hai câu cuối:
Ôi khuôn mặt sáng trong và
bình lặng
Tôi được đầu tiên và còn lại
cuối cùng
Làng Tôi là tình khúc
thiết tha dịu mát. Trăng mật của lứa đôi soi óng ánh vào quê hương yêu dấu:
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền một
dòng sông
Tuy là một ca khúc chiến đấu, Làng
tôi theo đoàn quân du kích… nhưng âm hưởng lưu lại một nguồn sáng lung
linh dịu mát trong niềm nhớ mông mênh, như rừng chiều nhớ cánh đồng chiều
xưa… Có lúc rộn lên vớiNgày Mùa nhanh nhẹn tươi vui:
Ngày màu vui thôn trang, lúa
reo như hát mừng
Với hình tượng lý tưởng súng
tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang, có thể không phản ánh lại những gian
lao của những năm chống Pháp nhưng nói lên những ước mơ của người nghệ sĩ trong
kháng chiến.
Nhưng phải đợi đến trường ca Sông
Lô, Văn Cao mới nói lên được trọn vẹn vẻ đẹp của quê hương, hoang sơ nhưng thân
mật, đơn giản mà hùng tráng, đẹp như một bức tranh. Sông Lô là một bức
tranh:
Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc
bãi dài ngô lau núi rừng âm u
Thu reo bến sóng vàng
Từng nhà mờ biếc chìm trong
một màu khói thu
Những nét đạm thanh ẩn hiện
trên nền màu mờ nhạt, khi nhịp điệu câu ca loang dần ra xa; những hình ảnh liên
tục tạo ra không gian mênh mông, hoang dại và huyền bí. Khí hậu lặng lẽ và lạnh
lẻo bỗng bừng lên ánh sáng ngọn lửa chiến đấu
Sông Lô sóng ngàn kháng chiến
cháy bờ lau thưa
Tiếp theo là ánh sáng của
bình minh: thiên nhiên như hồi quang ý chí con người. Bài hát trở thành lời đối
đáp giữa ánh sáng và ánh sáng
Ai qua bến nắng hồng lặng
nhìn màu nước sông Lô
Rồi vũ trụ bỗng chan hòa âm
thanh, bao la, rộn rã, của tiếng sóng reo vi vu… gió lá vi vu
Sông mênh mông như bát ngát
hát
Bao rừng thu như bát ngát cười
Lời hát say sưa ngợi ca đất
nước và con người nhắc chúng ta khí thế lúc đó, như trong thơ Nguyễn Đình Thi gió
thổi rừng tre phất phới. Trong biếc nói cười thiết tha, hay trong tùy bút kháng
chiến của Nguyễn Tuân chúng tôi đang mơ chung một cơn hỏa mộng…
Văn Cao vẫn bám vào hiện thực,
trong chiến thắng hân hoan, anh nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người
dân buông lưới. Phạm Lương vui bóng chuyền, lều dựng lên ven sông. Phút vẻ
vang, phút hùng tráng là chuyện cực chẳng đã phải làm, để bảo vệ cuộc sống tầm
thường, trong trần gian êm ả
Dòng sông Lô trôi
Mùa Xuân tới
Nước băng qua ngàn
Nước in ven bờ xanh ôm bóng
tre
Trận sông Lô, 1947 là chiến
công đầu tiên của quân đội Việt Nam non trẻ, đặc biệt của ngành pháo binh mới
phôi thai: thời đó, khi sử dụng đại bác bắn vào tàu địch trên sông, ta chưa biết
tính đạn đạo vòng cung, phải kê ngang nòng súng mà bắn như súng trường. Nhưng
chiến công, ngoài tầm quan trọng quân sự, đã có tác dụng tâm lý lớn lao và gợi
cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ.
Về nhạc thuật, Sông Lô được
xem như là đỉnh cao trong sự nghiệp Văn Cao. Anh đã vượt lên khỏi những tiết tấu
đơn giản của ca khúc, đi tới một hợp tấu dài hơi, với nhiều tầng lớp nhịp độ
khác nhau lôi cuốn chúng ta theo điệu nhạc, lời thơ, màu sắc, như một dòng sông
lớn.
Niềm hăng say có lúc chủ
quan và lạc quan quá mức; như Nguyễn Tuân mơ những khải hoàn môn kết toàn
bằng bích đào, Văn Cao trong giai đoạn kháng chiến gian lao, 1949 đã đòi Tiến
Về Hà Nội
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân
trở về
Như đài hoa đón mừng
Nở năm cánh đào chảy dòng
sương sớm long lanh
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu
dấu
Những bông hoa ngày mai
Đón tương lai vào tay.
Giọng ca đã khác với bóng
xưa ngàn năm, hồ phai khi tàn mơ. Nhưng vẫn sắt đá một niềm tin ôi Thăng
Long ngày mai, xây đắp dưới vinh quang bằng chí anh hùng.
Từ nhận xét này, chúng ta có
thể nới rộng tầm nhìn vào tác phẩm Văn Cao, về nhạc, họa cũng như thơ. Một toàn
bộ phong phú, đa dạng mà lúc nào cũng đặc sắc, chung thủy với vài ba ý chính và
một phong cách riêng. Gắn bó với thời đại, Văn Cao thường xuyên tra vấn thân phận
làm người trong và ngoài lịch sử.
Thơ, nhạc, họa Văn Cao là những
triều sóng triền miên lớp lớp xô buồn vui của đại dương vào với đất liền. Tác
phẩm Văn Cao là hơi thở cuộc sống, ngất ngây giông bão và đằm thắm trăng sao.
Nó chắt lọc nhân phẩm con người để dựng lên tinh hoa của thời đại.
Tác phẩm Văn Cao, còn lại là
đóm lửa Văn Cao. Đóm lửa đâu đây: trong bếp nghèo bến Cảng, trong núi rừng
Việt Bắc hay trong cõi biển rộng trời xa. Một ngọn lửa không quay đầu theo gió.
Văn Cao, đóm lửa bập bùng
trong ý thức chúng ta.
Viết cho ngày sinh nhật Văn Cao bảy mươi tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét