Âm trầm Tuệ Sỹ
Tuệ Sỹ là bậc danh sĩ cao
tăng, đã trọng nhiệm nhiều chức vụ trong hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam.
Trong và ngoài nước nhiều người biết danh và ái mộ, qua những trầm luân mà ông
chịu đựng non nửa thế kỷ, chúng tôi không nhắc lại nơi đây, vì ai muốn truy tìm
thì rất dễ.
Tuệ Sỹ còn là nhà thơ, nhiều
người biết danh, nhưng ít người được đọc, vì thơ ông ít được phổ biến. Mới đây,
trong nước, nhà xuất bản Phương Đông đã ấn hành tập thơ Những điệp
khúc cho dương cầm, song ngữ Việt-Pháp đối chiếu, do Dominique de Miscault,
nữ họa sĩ người Pháp, chuyển ngữ và trình bày, minh họa, bà gọi là «biểu
cảm đồ họa» (expressions graphiques). Trang bên trái là văn bản Việt-Pháp
nối tiếp, trang bên phải là hình cách điệu nhà sư đang lướt ngón tay trên phía
dương cầm.
Sách gồm 23 bài thơ ngắn,
trình bày trên 53 trang, khổ vuông 21 x 21 cm, giấy tốt, in đẹp và trình bày
trang nhã.
Điều đáng mừng là độc giả Việt
Nam và thế giới có dịp tiếp cận với thơ Tuệ Sỹ, trong niềm đồng cảm nhân loại,
qua thi ca và nghệ thuật. Trong lời tựa, bà De Miscault kể lại :
«Tôi được hạnh ngộ với
Tuệ Sỹ và người thân từ mùa xuân 2003.
Chúng tôi đã học tập phơi trải
và trao đổi hai thế giới, diễn dịch những cảm xúc, đồng thời là dấn thân. Tôi
không phải phật tử cũng không phải kẻ tu hành, lại không biết tiếng Việt, nhưng
thơ Tuệ Sỹ thì đã gặp đâu đó tại châu Âu già cỗi. Đó chẳng phải là những khoảng
hư không mà các tác gia thần bí đã trải nghiệm? Kinh nghiệm phiêu du
trong bóng đêm và tĩnh lặng, cũng như những tâm hồn khắc khoải, vô vọng truy tầm
lời giải đáp cho những hy sinh, dù tự nguyện hay cưỡng chế?»
Bà tiếp xúc với thơ Tuệ Sỹ
nhờ việc lược dịch của một người Pháp được Tuệ Sỹ duyệt lại.
«Tôi cố gắng nắm bắt nội
dung qua những hình ảnh, và không gian sống của Tuệ Sỹ như tôi được
trông thấy và đã khai thị cho tôi. Tôi chọn những từ ngữ và ảnh tượng đơn giản
nhất, đã giản lược và tát cạn tối đa thi pháp để tập trung vào cuộc phiêu lưu
thần bí của nhà sư mệt mỏi vì đời sống và những truy tầm vô vọng…
Vô vọng hay không, vẫn là
câu hỏi. Buông thả theo dòng đời.
Dương cầm và tịch lặng là thần
giao giữa hai lục địa giữa chúng tôi.
Nơi đây không còn là hoài cảm
hay xúc cảm, mà là phân tích khô khan cõi dửng dưng.
Tôi hân hoan được tiếp tục
chia sẻ, và trong dài lâu tính nhẹ nhàng tuyệt đối của đời sống. »
Bài tựa này đã được Hạnh
Viên dịch ở trang 7, tôi dịch lại để đóng góp.
Một cơ duyên khác, là với kỹ
thuật điện tử hiện đại, toàn bộ công trình của TS – Dominique de Miscault và
nhà xuất bản Phương Đông được đưa lên lưới, để người đọc, Việt hay ngoại quốc,
khắp năm châu bốn biển đều có thể thưởng lãm. Năm mươi trang giấy không phải là
công trình to tát gì, nội dung cũng không phải chuyện khai sơn phá thạch, nhưng
là một sự kiện văn học, như cơn gió bất ngờ đưa đóa lan rừng ra ánh sáng.
Tuệ Sỹ không phải là người
tìm danh vọng, nhất là bằng thi ca. Ông không tìm độc giả, tìm tri kỷ, tri âm.
Ông thừa nội lực để sống an nhiên trong tịch lặng giữa cõi ta bà. Nhưng thơ ông
xuất hiện như vầng trăng ra khỏi đám mây, như mùi hương bông sứ chợt thoảng vào
vườn khuya, là một niềm vui chung, và cho người lữ khách ngồi lại bên đường, buổi
chiều, «cười với nắng một ngày sao chóng thế… đỉnh đá này và hạt muối đó
chưa tan», câu thơ ngày xưa của ông mà Bùi Giáng hết lời ca ngợi.
Thơ, thơ gì đi nữa, thì trước
tiên phải là ngôn ngữ. Ngôn ngữ của ai đi nữa thì cũng mang sử tính. Thơ thiền
sư làm bằng ngôn ngữ hàng ngày vẫn vang âm xã hội và lịch sử.
Ví dụ bài cuối:
Giăng mộ cổ
Mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ.
Mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ.
Ý nghĩa chính xác của bài
thơ là gì ta không nên giải thích chân phương. Nhưng từ ngữ thì rõ ràng là trầm
tích đau thương của con người trong lịch sử. Bà De Miscault dịch hay và thoát.
Tôi vẫn táy máy dịch lại xem như góp một nốt đàn vào bản hợp tấu:
Sur les tombes antiques
La pluie du soir se confond en larmes
Des mythes illusoires
En ruine esseulés,
La bruine givre
Les épaules meurtries de laurier
Serrant la statue
J’aime ô que j’aime les espaces innocents
La pluie du soir se confond en larmes
Des mythes illusoires
En ruine esseulés,
La bruine givre
Les épaules meurtries de laurier
Serrant la statue
J’aime ô que j’aime les espaces innocents
Trầm tích lịch sử còn dư
vang rõ hơn trong bài này;
Ngoài biên cương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
Tr. 34
A la frontière
Le grand arbre rougeoie
Le soldat vieillit sur la tombe antique
Le soleil éteint la bataille
Le sang se condense en rosée.
Le grand arbre rougeoie
Le soldat vieillit sur la tombe antique
Le soleil éteint la bataille
Le sang se condense en rosée.
Thơ gì, thơ ai, thơ nước
nào, trong ngôn ngữ vẫn là một thứ ngoại ngữ; người đọc một bài thơ trong
tiếng mẹ đẻ là đã dịch bài thơ ấy ra ngôn ngữ của riêng mình. Gọi là tiếng
lòng.
Trong nghề dạy học và việc
bình luận văn chương tôi có đôi kinh nghiệm về việc dịch thuật và thông ngôn
này. Gặp những bài thơ Tuệ Sỹ việc giảng luận có phần trắc trở. Ngôn ngữ vẫn là
ngôn ngữ chung là tiếng Việt, nhưng tương quan giữa người nói và lời nói thì
khác nhau. Khi Tuệ Sỹ viết đâu đó «Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi
hoang» thì ông không chỉ nói về màu áo, cũng không nói về ngọn đồi, mà phản
ánh tâm linh trong một thế giới khác. Đưa lời thơ Tuệ Sỹ vào ngôn ngữ thế tục e
dễ thành dung tục.
Thơ bao giờ cũng phản ánh ba
tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử ; ngôn ngữ trong những biến
chuyển với thời đại ; và tác giả, qua đời sống hàng ngày ; nhưng ở Tuệ
Sỹ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như đã thăng hoa, thành một siêu
thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý giải chân phưong và đơn phương.
Đầu thế kỷ XX giới văn học
tây phương đưa ra khái niệm «thơ thuần túy», và nghệ thuật nguyên
chất theo nghĩa của hóa học: thực thể nguyên chất đối lập với những thực
thể tạp chất «impur», có lẫn lộn nhiều ngoại tố. Nghệ thuật nguyên
chất là kiến trúc của ngôn ngữ: một dạo khúc dương cầm, một tranh tĩnh vật,
một bài thơ đẹp. Người thưởng thức không pha lẫn vào đó những kỷ niệm, buồn vui
riêng tư, nhất là những thành kiến lịch sử, chính trị. Yêu một chân dung phụ nữ
không phải vì nó hao hao giống một người bạn cũ.
Trong nghệ thuật, dân tộc là
một tạp chất.
Tôi nghĩ khi Tuệ Sỹ đặt tên Những
điệp khúc cho dương cầm, và làm những bài thơ mô tả tiếng dương cầm, là ông muốn
cho tiếng thơ mình trong trẻo, thuần khiết «trong như tiếng hạc bay
qua». Do đó, bình giải thơ Tuệ Sỹ là tạo cơ nguy gây tạp âm không phải lẽ
và không phải lúc. Bài viết này vẫn mang tạp âm là ngoài ý muốn của chúng tôi.
Lấy một ví dụ ngoài đề, cho
thông thoáng. Nhà thơ Phạm công Thiện, thời trẻ, có lúc tu tại một Phật Viện
Nha Trang. Một hôm anh về chơi với nhà văn Võ Hồng, ở lại mấy hôm, khi về Chùa,
anh có thơ:
Mưa chiều thứ bảy, tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Anh tâm đắc thường đọc cho
chúng tôi nghe, và chúng tôi hiểu đại khái, nhưng chưng hửng khi nghe Phạm Công
Thiện, mười năm sau, tự dịch câu thơ ra tiếng Pháp:
Je suis le Retour
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Chúng tôi đã hiểu chung
chung: thứ bảy là trước chủ nhật, cây khế là cây khế, ngọn đồi là ngọn đồi,
nhưng qua bản dịch tiếng Pháp, thì nội hàm câu thơ không phải chỉ có vậy.
Nhưng nghĩ cho cùng, ai làm
sao hiểu hết một câu thơ, kể cả tác giả?
Và cách tiếp cận thơ Tuệ Sỹ
của bà De Miscault biết đâu là cách hay nhất, như câu tiếng Pháp không biết của
ai «la voix du cœur est la voie au cœur»: lời trái tim là lối
đến con tim.
Đọc thơ Tuệ Sỹ. Bằng trái
tim. Nỗi Nhớ
Màu tối mù lan vách đá
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt
Để hờn trên đỉnh gíó
Ta ở đâu?
Cánh mộng phù du
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt
Để hờn trên đỉnh gíó
Ta ở đâu?
Cánh mộng phù du
Tr. 18
Les ténèbres envahissant les
pierres du mur
Immense le souvenir des regards de nos adieux
Et je m’en vais à jamais
Délaissant les chagrins aux cimes de l’ouragan
Où suis-je ?
Frêles sont les ailes de l’éphémère
Immense le souvenir des regards de nos adieux
Et je m’en vais à jamais
Délaissant les chagrins aux cimes de l’ouragan
Où suis-je ?
Frêles sont les ailes de l’éphémère
Tình người:
Ta sống lại trên nỗi buồn ám
khói,
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Tr. 50
Sur mes chagrins enfumés, je
revis
L’Amour des hommes à chaque instant de mes songes
Dès l’origine la parole a été retenue
Comme l’océan retient le reflet du printemps en fleur
Des refrains animent mes ailes épuisées
Pour l’Homme, j’ouvre mes mains au firmament étoilé
L’Amour des hommes à chaque instant de mes songes
Dès l’origine la parole a été retenue
Comme l’océan retient le reflet du printemps en fleur
Des refrains animent mes ailes épuisées
Pour l’Homme, j’ouvre mes mains au firmament étoilé
Trần thế:
Theo chân kiến
Luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u
Thế giới chập chùng
Quãng im lặng
Nghe mùi đất thở
Luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u
Thế giới chập chùng
Quãng im lặng
Nghe mùi đất thở
Tr. 46
Traces de fourmi
Je faufile entre les herbes
Ténèbres des ténèbres
Les mondes s’amoncellent
Silences entre silences
J’accueille la terre respirante.
Je faufile entre les herbes
Ténèbres des ténèbres
Les mondes s’amoncellent
Silences entre silences
J’accueille la terre respirante.
Thơ Tuệ Sỹ cô đúc, hàm súc,
uyên áo. Người đọc không quen cho là khó hiểu, vì tác giả không đề cập đến một
đề tài nào chính xác, không miêu tả không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tâm
cảm và ngoại giới, trầm tư và huyễn mộng. Hình ảnh chập chờn, ngôn từ lảo đảo,
như những tiếng dương cầm đuổi bắt nhau, chưa kịp tương phùng đã muôn đời vĩnh
quyết.
Thỉnh thoảng, người đọc cảm
thấy an tâm trong đôi lời thơ mạch lạc:
Cửa kín chòm mây cuốn nẻo xa
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà
Tr. 26
Người Thơ hé mở một thoáng
tâm linh, nhưng hình ảnh vẫn mang tính cách tượng trưng, xa cách, xóa nhòa tâm
sự cá nhân, pha loãng tình riêng vào làn mưa trên mái ngói.
Đôi khi người đọc gặp vài từ
ngữ, ẩn dụ trở đi trở lại như những ám ảnh, tạo nên dăm viên đá cuội trên lộ
trình cậu bé tí hon, nhưng dễ gì tìm được heo hút đường về.
Ngoại giới biết đâu là ảo
giác:
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền
Tr. 10
Và thơ, tập thơ mình cầm
trong tay, những nốt nhạc, những hàng chữ «đen trắng đuổi nhau
thành ảo tượng». Thơ, tất cả thi ca trên cõi trần này biết đâu chẳng là ảo
giác của ảo giác?
Cần gì để nói thêm về Những
điệp khúc cho Dương cầm của Tuệ Sỹ?.
Phải chăng là tiếng ve sầu
chung thủy, ưu hoài những mùa hạ đã ra đi?.
Tiếng ve trở về,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét