Tiếng chuông chùa chính là
nhân duyên xúc tác để làm khởi sinh tâm bồ đề, hóa giải những xung đột, trái
ngang, những dằn vặt khổ đau của con người trần tục, tiêu trừ các phiền não,
vơi bớt đi bao nhiêu là ham hố dương trần, gieo thiết tha tình người vào lòng
cuộc sống.
Tiếng
chuông chùa ngân nga, văng vẳng trong không gian rồi tan loãng giữa xóm làng
sau khi đã thâm nhập chốn dương trần và đưa nhân gian vào cõi tịch tĩnh hư
không. Thời gian lắng đọng cùng hồn người. Cảnh vật như cộng hưởng cùng tiếng
chuông. Tất cả đều trở nên lung linh trầm mặc. Tiếng chuông chùa thi vị và đầy
sức cảm hóa làm nảy sinh ra biết bao cảm hứng về âm nhạc và thơ văn, chan chứa
chất liệu cốt tủy của tinh thần Phật giáo cùng với mối sầu cảm ướp đầy tình tự
quê hương. Tiếng chuông chùa quả thật có một năng lực hồi sinh rất lớn.
Vì sự nhiệm
mầu đó nên xưa nay đã có biết bao người phát nguyện đúc chuông, từ vua, quan
cho đến muôn dân:
“Đúc chuông tạo tượng xây
chùa
Trong ba phước ấy dân - vua đều làm.”
Trong ba phước ấy dân - vua đều làm.”
CHUÔNG VANG TRONG ÂM NHẠC
Tiếng
chuông chùa đến trong dòng nhạc Việt khơi lại tâm tình riêng tư của con người.
Nguyễn Văn Đông miêu tả quang cảnh hiu quạnh, cô đơn của lữ khách trong những “đêm
đông” lạnh lẽo:
“Chiều chưa đi màn đêm rơi
xuống.
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời.
Cùng mây xám về ngang lưng trời…”
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời.
Cùng mây xám về ngang lưng trời…”
Hoàng Trọng thời tìm lại giây phút êm đềm lúc về lại mái nhà xưa khi đã “dừng
bước giang hồ” sau một đời rong ruổi:
“Chiều nay sương gió
lữ khách dừng bên quán xưa.
Mơ màng nghe tiếng chuông chiều
vương về bên quán tiêu điều…”
Mơ màng nghe tiếng chuông chiều
vương về bên quán tiêu điều…”
Tiếng
chuông chùa vang vọng trong khúc “nhạc chiều” khiến Doãn Mẫn như quên hết đi
đám bụi trần vương mắc:
…“Chuông chùa vương tiếng
ngân.
Âm thầm trong chiều vắng.
Đường tơ lắng buông trong huy hoàng.
Ru hồn quên hết nỗi chứa chan niềm cay đắng…”
…“Vương sầu làm chi cho ngày thắm phai.
Mỗi khi tiếng chuông vẫn ngân dài…”
Đường tơ lắng buông trong huy hoàng.
Ru hồn quên hết nỗi chứa chan niềm cay đắng…”
…“Vương sầu làm chi cho ngày thắm phai.
Mỗi khi tiếng chuông vẫn ngân dài…”
Còn
Y Vân và Nguyễn Hiền cảm nhận thấy mùa xuân đầy hương sắc và muốn trai gái
trong làng cùng trao nhau câu ân tình “anh cho em mùa xuân” khi nghe tiếng
chuông chùa vẳng trong ánh trăng thanh:
“Ngoài đê diều căng gió.
Thoảng câu hò đôi lứa.
Trong xóm vang chuông chùa.
Trong xóm vang chuông chùa.
Trăng sáng soi liếp dừa…”
Tô
Vũ nhờ “tiếng chuông chiều thu” mà nhớ lại bao kỷ niệm của thời niên thiếu:
…“Từ miền xa tiếng chuông
ngân.
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng”
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng”
…“Hồn ta chìm đắm tiếng
chuông xa vời.
Hồi chuông ngân nga trong
chiều thu ngợp gió”
… “Hồi chuông ngân nga ru hồn
mơ.”
…”Ngày nào khi chiến chinh
xong.
Hồi chuông vui reo như tiếng
đồng.
Chuông ran lời ước cũ.
Chuông ran lời ước cũ.
Tình ta đẹp bao nhiêu.
Hồn anh thầm lắng tiếng
chuông ban chiều”
Riêng với Hoàng Giác tiếng chuông gợi niềm nhung nhớ một bóng hình người đẹp
trong giấc “mơ hoa” xa xưa với lời tâm sự: “tôi liên tưởng ngay đến các cô ở
làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường tôi đi học… Và đấy là bản
nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi”:
“Chuông chiều ngân tiếng vấn
vương lòng trông theo cô hái hoa.
Bước đi bâng khuâng muôn
ngàn sầu nhớ bóng mờ mờ xa…”
Trong khói sương buổi chiều cao nguyên Đà Lạt thời âm giai tiếng chuông chùa
Linh Sơn khiến ưu phiền trầm lắng và tình thương lên ngôi. Minh Kỳ nở nụ cười
khi lòng chợt dâng niềm nhớ “thương về miền đất lạnh” dấu yêu:
“Linh Sơn đâu đây buông tiếng
chuông ban chiều.
Như ru ai say trong giấc mơ
dạt dào.
Cho thế nhân thôi, ru hết u
sầu.
Để lòng quay về bến yêu…”
Âm
hưởng của tiếng chuông chùa cũng đã đi vào thi ca tạo nên một nét đẹp nhân văn
rất đáng quý. Tiếng chuông là phương tiện thiện xảo của cửa thiền để mở đường
nhập vào đời sống tâm linh, là âm thanh trầm hùng kêu gọi thế nhân quay về
trong thực tại. Chuông ngân như một cuộc hành hương từ chốn phong ba về vùng
tĩnh lặng an nhiên.
Tiếng chuông thức tỉnh cả âm cảnh lẫn dương trần, thức
tỉnh bao tâm hồn còn mãi đắm chìm trong cõi mộng, tuy sống trong cõi vô thường
mà không ý thức về sự thật vô thường của vạn thể. Cuộc đời là một hơi thở rất
nhẹ và mong manh, chỉ cần ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả.
Tiếng
chuông chùa như một thông điệp của trí tuệ và từ bi, như lời nhắn nhủ của Đức
Phật: "tất cả những gì theo duyên khởi cũng đều theo duyên diệt."
Trong “Nghi thức thỉnh đại hồng chung” mà các chùa thường đọc và thường được khắc
lên chuông, có mấy câu đại ý rằng: “Xin nguyện tiếng chuông này lan toả trong
pháp giới. Địa ngục dù có tối tăm, tất cả đều được nghe. Nghe âm thanh này tâm
được thanh tịnh. Hết thảy chúng sinh thành bậc chánh giác.” Sư Trí Hải
dịch:
“Giờ con xin đánh chuông này
Tiếng vang thấu khắp mọi nơi xa gần
Ai nghe thấy lòng trần nhẹ bỗng
Đạo Bồ-Đề được chứng lên ngay.”
Tiếng vang thấu khắp mọi nơi xa gần
Ai nghe thấy lòng trần nhẹ bỗng
Đạo Bồ-Đề được chứng lên ngay.”
Đỗ
Phủ khi đến “chơi thăm chùa Phụng Tiên ở núi Long Môn”, trên núi cao ngửa mặt
trông lên bầu trời sao, thân mình tưởng như nằm ngủ trong mây, gần sáng cảm tác
rằng: “nghe tiếng chuông chùa khiến cho lòng người phải tỉnh ngộ sâu sắc”:
“Dục giác văn thần chung
Linh nhân phát thâm tỉnh.”
Linh nhân phát thâm tỉnh.”
Với
người dân Việt thì tiếng “chày kình” gõ lên chuông chùa đã âm vang từ mấy nghìn
năm lịch sử dân tộc vẫn còn lắng đọng trong tâm hồn, cả ngày nay tới mãi mãi
ngàn sau.
Chày kình là chiếc dùi thỉnh chuông có chạm hình con cá Kình. Tiếng chuông luôn
dóng lên để thức tỉnh lòng người. Trong “truyện Kiều” khi tới đoạn miêu tả sự hạ
thủ công phu của Thúy Kiều sau những năm lưu lạc với những chán chường đau khổ,
phải tìm về nương náu nơi cửa Phật để mong thoát kiếp trần duyên, Nguyễn Du
cũng đã có hai câu thơ:
“Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng
chày nện sương”
Cũng nghe tiếng chày kình, nhưng giữa “Hương Sơn phong cảnh” Chu Mạnh Trinh
không chỉ say sưa với cảnh đẹp mà đã giật mình tỉnh thức vì tiếng chuông. Tỉnh
thức để thấy cho rõ sự thật vô thường của cuộc đời. Nhờ như vậy mà con người sống
có ý thức hơn, minh triết hơn. Tiếng chuông ở đây vừa dẫn dắt con người hòa nhập
với cảnh vừa thức tỉnh đưa con người rời cõi mộng ảo quay về với thực tại:
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng
trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.”
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.”
“Muôn hồng nghìn tía tưng bừng
Suối khe hát nhạc, thông rừng
dạo sênh
Chim cúng quả, cá nghe kinh
Sư
Huyền Không khi “nhớ chùa” luôn nhớ đến mái ngói rêu phong ẩn mình trong hoa
lá, hương hoa hòa quyện lan toả. Trong cảnh tịch mịch đó âm ba của tiếng chuông
lại vang lên dịu dàng như lời vỗ về an ủi những cuộc đời hiền lành lam lũ:
“Mỗi tối dân quê đón gió
lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng
thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan
xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái
tranh.”
Tiếng
chuông chùa đối với Quách Tấn như một kỷ vật thiêng liêng nên mỗi lần trông thấy
cảnh núi non chùa chiền hay mỗi khi chợt tỉnh giấc nồng, tiếng chuông cũng hiện
đến:
…“Núi Nhạn chuông ngân trời
bảng lảng,
Đầm Ô sen nở gió thơm tho.”
…“Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân.”
Quách Tấn tâm sự: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa mà trong, thân
không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa lánh hẳn
cõi trần tục”… “Nếu không có tiếng chuông lay mộng thì mộng còn mãi chìm trong
bóng mây rán, hoặc làm con cò vương hương bay lờ lững trong hồ sen yên tịnh”:
…“Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng
chiều đầu non”.
…“Mây tạnh non cao đọng
nắng chiều
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô
liêu.”
…“Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long
lanh.”
Còn
với Tuệ Nga thì “tiếng vọng hồng chung” quả thật đã khiến cho người cõi trần được
tỉnh thức và riêng người tu thời thêm tinh tấn vô ngần:
…“Âm vang tiếng vọng hồng
chung
Gọi người thức tỉnh thoát
vòng u mê
Hồng chung ngát ý Bồ Ðề
Chuông ngân thanh thoát đường
về bến hoa”…
…“Đại Hồng Chung xóa sương
mù
Giúp người tinh tiến đường
tu viên thành”…
Quả
thật tiếng chuông chùa là pháp âm vi diệu, làm thức tỉnh khách hồng trần, quay
về bờ giác ngộ, bỏ ác làm lành, hồi tâm hướng thiện.
CHUÔNG TIÊU TRỪ PHIỀN NÃO
Trong “Nghi thức thỉnh đại hồng chung” cũng ghi mấy
câu ngụ ý rằng: “Nghe tiếng chuông, phiền não vơi nhẹ, trí tuệ tăng trưởng, tâm
bồ đề sinh, lìa chốn địa ngục, ra khỏi hầm lửa, nguyện thành Phật để cứu độ
chúng sinh.”
Bao
khổ đau, ách nạn, chướng duyên phải đối diện trong đời chính là địa ngục, là hầm
lửa, đốt bùng lên bao nhiêu muộn sầu. Tiếng chuông chùa chính là nhân duyên xúc
tác để làm khởi sinh tâm bồ đề, hóa giải những xung đột, trái ngang, những dằn
vặt khổ đau của con người trần tục, tiêu trừ các phiền não, vơi bớt đi bao nhiêu
là ham hố dương trần, gieo thiết tha tình người vào lòng cuộc sống.
Chính vì nghe tiếng chuông ngân mà khách hành hương trút hết mọi nỗi ưu phiền,
như Chu Mạnh Trinh đã tả:
“Lạ cho vừa bén mùi thiền
Mà trăm não với ngàn phiền sạch
không”.
Sư
Nhất Hạnh khi “nghe chuông” cũng đã cảm nhận thông điệp của chuông:
“Nghe chuông phiền não tan
mây khói,
Ý lặng, thân an, miệng
mỉm cười
Hơi thở nương chuông về
chánh niệm
Vườn tâm hoa tuệ nở
xinh tươi”.
Mái
chùa và tiếng chuông là hình ảnh và hồn thiêng của đất nước đã thẩm thấu mặn mà
trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam và trở thành một bộ phận hữu cơ gắn liền với
sinh hoạt làng xã, không thể tách rời. Cha ông ta có câu: “Đất vua, chùa làng,
phong cảnh Bụt”. Chùa đã trở thành trái tim của làng quê và tiếng chuông là biểu
tượng của tỉnh thức.
Nhà
nông nghe chuông công phu khuya mà trở dậy, nhóm bếp thổi cơm rồi chuẩn bị lùa
trâu ra đồng. Buổi chiều họ nghe tiếng chuông thu không mà lùa trâu quay trở về
chuồng. Đêm về tiếng chuông là tiếng canh gà nhẹ nhàng đánh thức dân làng trong
những lúc ngủ say. Chuông chùa quả là cái “đồng hồ báo giờ” của làng xóm:
“Tiếng chuông vượt núi len
sông
Vào làng thức tỉnh dân nông ra đồng.
Chuông không ngại ngày đêm mưa gió thổi
Chuông không vì sông núi bể đèo ngăn
Tiếng của chuông là bản thể xa xăm
Đây vọng lại mấy ngàn năm âm hưởng.”
Vào làng thức tỉnh dân nông ra đồng.
Chuông không ngại ngày đêm mưa gió thổi
Chuông không vì sông núi bể đèo ngăn
Tiếng của chuông là bản thể xa xăm
Đây vọng lại mấy ngàn năm âm hưởng.”
Chúng sinh hãy lắng nghe tiếng chuông của Vương Duy đời Ðường khi ông về vui
thú cỏ cây ở Võng Xuyên (Cốc khẩu sơ chung động, Ngư tiều sảo dục
hi):
“Nhẹ nhàng chuông ngân thung
lũng
Ngư tiều lác đác dời
chân”
Với
Sư Huyền Không, tiếng chuông và mái chùa đã sớm tối đồng hành với người dân quê
Việt Nam, từng nuôi dưỡng tâm hồn cho biết bao thế hệ, để cùng nhau xây dựng
quê hương xứ sở:
“Vì vậy, làng tôi sống thái
bình
Sớm khuya gần gũi tiếng
chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi
dân xóm
Xây dựng tương lai xứ
sở mình”.
Với
Nguyễn Bính thì trong khung cảnh thiên nhiên với nhịp sống hài hòa tinh tế, tiếng
chuông chùa ấm áp đã hiện hữu và gắn liền với con người, với quê hương dân tộc.
Tiếng chuông hiện hữu trong tâm thức mỗi người dân như những hiện tượng thiên
nhiên bình thường nhất:
“Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa
quanh năm
Chuông hôm, gió sớm, trăng Rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm
thế thôi
Mai này tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ
chùa”.
Nguyễn Bính đã phác họa nên một bức tranh thủy mặc làng quê thật đẹp đẽ nên đi
xa ai cũng nhớ cũng thương về chốn cũ:
“Mấy chiều vắng bặt hơi
chuông
Sư bà khuyên giáo thập
phương chửa về”.
NHỚ TIẾNG CHUÔNG CHÙA
Vua
Trần Nhân Tông trong cảnh “chiều thu làng Vũ Lâm” với suối khe lồng bóng cầu
treo, với ngấn nước long lanh cùng nắng chiều nghiêng soi đã để tiếng
chuông ngân vang trong chốn thâm sơn tĩnh mịch đó lại trong tâm hồn và thi ca:
“Núi non quạnh quẽ lá
rơi,
Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền”.
Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền”.
Và
trong “cảnh chiều Lạng Châu” thời:
“Mây thu lạnh lẽo chùa
xưa
Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều”
Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều”
Nguyễn Trãi trong thời gian lui về trí sĩ ở Côn Sơn, huyện Chí Linh tỉnh Hải
Dương khi “nghe mưa” (“thính vũ”) cảm thấy tiếng chuông đi vào giấc mơ thật nhẹ
nhàng. Ngâm thơ rồi nhưng vẫn không ngủ được. Chập chờn mãi đến lúc sáng trời:
“Cửa ngoài tre sột soạt
Nhập mộng chuông khua hoài
Thơ ngâm rồi khó ngủ
Dứt nối đến trời mai”.
Nhập mộng chuông khua hoài
Thơ ngâm rồi khó ngủ
Dứt nối đến trời mai”.
Sư
Huyền Không với tâm hồn sâu nặng tình quê nên khi nghe tiếng chuông ngân lại “nhớ
chùa”, mái chùa của dân tộc:
“Chuông vẳng nơi nao, nhớ lạ
lùng,
Ra đi ai chẳng nhớ
chùa chung.
Mái chùa che chở hồn
dân tộc
Hồ
Dzếnh nhớ lại khi cùng chị nuôi đi lễ chùa đầy hớn hở vui tươi. Nhớ lại thời tuổi
trẻ với nỗi u hoài. Nhớ cái tình, cái hồn tốt đẹp của thuần phong mỹ tục Việt
Nam cái không khí vui tươi dân dã của tục đi lễ hội chùa "Rằm tháng Giêng"
ngày xa xưa:
"Hàng năm tôi đi lễ
chùa
Chuông vàng khánh bạc ngày xưa vẫn còn
Chị tôi thấy vắng trong hồn
Ít nhiều hương phấn khi còn ngày thơ
Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về".
Chuông vàng khánh bạc ngày xưa vẫn còn
Chị tôi thấy vắng trong hồn
Ít nhiều hương phấn khi còn ngày thơ
Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về".
Còn
tiếng chuông chùa của Quách Tấn như một kỷ vật thiêng liêng nên mỗi lần trông
thấy cảnh núi non, bóng tịch dương đổ xuống, chùa chiền từ đâu trong tiềm thức
trỗi dậy, cảnh thiên nhiên gợi nhớ:
…“Núi Nhạn chuông ngân trời
bảng lảng
Đầm Ô sen nở gió thơm tho”.
…“Mây tạnh non cao đọng nắng
chiều
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô
liêu”.
Dù
cho mỗi khi Quách Tấn tỉnh giấc nồng tiếng chuông cũng vẫn vọng đến:
“Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân”.
Với Phạm
Thiên Thư thời hình ảnh cái chuông chùa treo trên gác chuông gợi nhớ lại kỷ niệm
hò hẹn tình cảm cũ:
“Ngày xưa anh đón em
Trên gác chuông chùa nọ
Bây giờ anh qua đó
Còn thấy chữ trong chuông”…
Trước
“động hoa vàng” tiếng chuông chùa đôi khi ngân vọng theo sóng nước đêm trăng rồi
tan loãng vào nhau cùng hình ảnh một chiếc thuyền con buông lái:
“Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào”
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào”
Nghe tiếng chuông vang vọng chơi vơi dần dần thấm đẫm vào từng hạt bụi của thế
giới này và có khả năng làm đảo lộn diện mục của vũ trụ, Phạm Thiên Thư tâm sự:
“Chuông ngân chiều lặng trầm
tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng”…
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng”…
Riêng
với Tâm Minh, kẻ tha hương, thời cõi lòng vẫn rộn ràng dù Xuân đất khách chẳng
còn tràng pháo đỏ và thiếu cả bóng mai vàng. Giữa cái ồn ào náo nhiệt nơi xứ
người, tiếng chuông êm ả thanh thoát của ngôi chùa xưa quê cũ hình như vẫn còn
vang vọng mãi trong tâm hồn như một kỷ niệm khó quên:
“Chúc Xuân lời vẫn ươm tình
nghĩa
Mừng Tết thơ luôn đượm ánh
quang
Thoang thoảng hương trầm
khơi kỷ niệm
Vẳng chuông chùa cũ tiếng
còn vang.”
TIẾNG CHUÔNG
THIÊN MỤ VÀ HÀN SƠN TỰ
Và
sau cùng, nói đến âm ba của những hồi chuông kim cổ cần phải nhắc tới tiếng
chuông chùa Thiên Mụ và Hàn Sơn Tự.
Lần
đầu ghé chốn Thần Kinh và sau đó thực hiện liền bút ký “Mười ngày ở Huế”
Phạm Quỳnh không cố ý "biên tập" thơ tiền nhân. Ông chỉ mượn nửa bài
thơ cũ, thêm bớt đôi chỗ, nhằm "tức cảnh" khác. Có người lại cho rằng
ông chỉ ghi lại nguyên văn mà thôi. Hai câu thơ đó như sau:
“Gió đưa cành trúc la
đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
Phạm
Quỳnh viết thêm: “Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy.
Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng, làng Thọ Xương thì ở
bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở
giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca"
Có
người phân tích kỹ cho rằng tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm sắc của tiếng đồng
được chế tác bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo của Phường Đúc-Huế, nó
được vang xa nhờ vào vị trí đặt chuông trên đồi cao, lại có dòng sông Hương trải
dài như một chất dẫn truyền tự nhiên. Bên dòng Hương lững lờ thơ mộng, tiếng
chuông cứ ngân dài lan tỏa trong không gian. Không gian càng rộng,
càng yên tĩnh, tiếng chuông nghe càng sâu lắng. Chỉ một tiếng chuông nhưng đã đọng
bao buồn vui, khắc khoải của một đời người. Tiếng chuông sẽ tùy hạnh nguyện
đánh chuông của thiền tăng mà âm sắc vang vọng thanh thoát và nhịp điệu của tiếng
chuông sẽ khác hẳn nhau.
Hàn
Sơn Tự về sau được gọi là Phong Kiều tự vì ở gần cầu Phong Kiều. Đến đời nhà Đường
chùa lại được đổi tên là Hàn San Tự. Chùa nổi tiếng nhờ có bài thơ “Phong Kiều
Dạ Bạc” của Trương Kế. Ông sáng tác bài này khi đi thi trượt trở về ghé
qua Tô Châu, tức cảnh mà sinh tình. Trương Kế đã vẽ ra cái hình ảnh kẻ lữ
thứ, đêm dài nằm trên thuyền bên bờ sông nghe quạ kêu sóng vỗ, ngắm đèn chài
leo lét về khuya đắm chìm trong trăng tà sương lạnh với tiếng chuông chùa đang
ngân nga. Quả là hình ảnh của sự thức tỉnh, giải thoát, bỏ lại thuyền ở bến mơ
để vượt lên bờ giác.
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn
thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
Bản dịch của Tản
Đà:
“Quạ kêu trăng lặn sương rơi
Lửa chài, cây bãi đối người
nằm co
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông
chùa Hàn San”
Tiếng
chuông chùa quả thật đã làm nảy sinh ra nhạc và thơ, chan chứa chất liệu cốt tủy
của tinh thần Phật giáo cùng với tình tự đất nước quê hương, nhất là với những
kẻ phải sống kiếp tha phương!
Ngô Tằng Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét