Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

Lưu vong, một nỗi niềm từ quá khứ đến tương lai

Lưu vong, một nỗi niềm 
từ quá khứ đến tương lai

Nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nedim Gursel cho rằng: “Văn học thế kỷ XX phần lớn là một nền văn học lưu vong, ở đó bao nhiêu cảm tính tự diễn đạt qua một số phận chung: ra đi và trôi giạt” [1]. Hành trình “ra đi và trôi giạt” luôn thấp thoáng bóng dáng một biến cố chính trị, khi mờ khi tỏ. Trong ý nghĩa ngôn từ ấy, có thể nói con người văn chương lưu vong đầu tiên của nhân loại chính là Khuất Nguyên với kiệt tác Ly Tao. Tuy vậy Ly Tao trong bối cảnh Sở Từ không thể bị tù túng trong bất cứ định nghĩa chằng chịt dây trói nào, nó là tiếng khóc thấu trời xanh của cả một nền văn minh.

1. Khuất Nguyên

Khuất Nguyên sinh năm 343 TCN và mất năm 278 TCN. Ông bắt đầu làm quan khi mới 21 tuổi, dưới ngai vàng của Sở Hoài Vương. Vì chủ trương chính trị của Khuất Nguyên không được tôn trọng, cộng thêm dèm pha, Hoài Vương cách chức ông. Nghe lời bọn xiểm nịnh, Hoài Vương bại vong dưới đao kiếm nước Tần. Con cả Hoài Vương là Khoảnh Tương Vương lên ngôi lại tiếp tục tin lũ nịnh thần rồi bắt Khuất Nguyên lưu đày xuống Giang Nam (khu vực Động Đình Hồ). Ông giải thích chuỗi sự kiện này như sau: “Tất cả đời đều nhơ đục, chỉ một mình ta trong, tất cả mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh, cho nên ta bị đuổi”.

Sử Ký Tư Mã Thiên viết (thực ra đoạn này của Hoài Nam Vương Lưu An, Tư Mã Thiên dẫn lại): “Ly Tao là nỗi buồn trong chia ly… Thơ Quốc Phong mê sắc mà không dâm, thơ Tiểu Nhã oán trách mà không loạn. Ly Tao thực là gồm được cả hai… Văn ông (Khuất Nguyên) ngắn gọn, kín đáo, chí ông trong sạch, nết ông thanh cao; tuy nói những điều vụn vặt, nhưng ý nghĩa rất rộng; việc nhắc đến tuy gần nhưng nghĩa thì xa… Thật là ở bùn mà trong trắng chẳng lây đen”.
Khởi dư thân chi đạn ương hề
Khủng hoảng dư chi bại tích [2]
Ly Tao là đỉnh cao, là cảm hứng và xuất phát điểm của Sở Từ. Xét trên quan niệm mới về tính đa nguồn gốc của văn minh Trung Hoa thì ảnh hưởng của Kinh Thi đến Sở Từ chính là giao lưu văn hóa. Kinh Thi khởi đi từ thơ hai chữ khắc trên giáp cốt văn đời Thương, đến thời Chiến Quốc nó hòa cùng Sở Từ và chảy qua ngũ ngôn Kiến An (Hậu Hán) rồi xuôi thời gian làm thành dòng Đường thi trác việt. Những bài Sở Từ có thể hát lên dần chuyển hóa thành Nhạc Phủ (đầu Hán), còn nhiều tác phẩm vận điệu trúc trắc là trực tổ của lối văn Phú Tụng đời sau. Trên tổng thể, Sở Từ mang bản sắc rất riêng của nước Sở (đứa con sinh ra bởi văn minh Hoa Hạ và Thần Nông). Đặt Sở Từ vào cội rễ văn minh Thần Nông (mẹ đẻ của Lạc Việt) mới thấy hết sự vĩ đại và bất hủ của Ly Tao và tác giả Khuất Nguyên.
Đọc Khuất Nguyên Liệt Truyện trong Sử Ký tôi thấy Tư Mã Thiên có sự đồng cảm thân phận cao độ với Khuất Nguyên. Song, vượt lên giao cảm cá nhân, sự nghiệp của Khuất Nguyên là tiếng nói của cả một nền văn minh độc lập, đau đớn nhìn chính mình đang vật vã trong làn sóng đồng hóa thô bạo bằng can qua. Là tinh hoa của văn minh Sở, Sở Từ đã có những đóng góp cực kỳ lớn lao cho văn minh Trung Hoa. Nghiên cứu thật kỹ Sở Từ, gạn lọc pha tạp và ảnh hưởng, tôi tin rằng người Việt Nam hiện đại sẽ bàng hoàng nhận ra ánh sáng huy hoàng bất diệt của văn minh Văn Lang hôm nào.
“Tứ ngọc cù dĩ thừa ê hề. Khạp ai phong dư thượng chinh”. Tạm dịch: cưỡi con ngựa ngọc dũng mãnh như loài rồng không sừng, ngồi xe có trang trí lông chim Trĩ, che gió bụi để bay bổng (thoát khỏi trần tục). Bạn đọc có nhận ra chiếc xe cắm lông chim Trĩ, và những hình khắc trên trống đồng có một tương quan tất yếu hay không? Nếu chưa tin tưởng, xin nhớ lại Kinh Thư của Khổng Tử từng viết: “Đời Thành Vương (1063 đến 1026 TCN) Việt Thường quốc phía nam Giao Chỉ đem bạch trĩ hiến cống, giao hảo với nhà Chu”. [3] Người Sở còn được gọi là người Kinh, người Việt. Sách Thuyết Uyển có dịch bài Việt nhân ca (của người Sở, viết bằng ngôn ngữ Sở) như sau: “Kim tịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu. Kim nhật hà nhật hề, đắc dữ vương tử đồng chu”.
Người Lạc Việt thờ trời và rất hay hỏi trời. Ví như câu ca “Bắc thang lên hỏi ông trời…”. Tác phẩm của Khuất Nguyên mang rất nhiều nét văn hóa Lạc Việt, đó là lý do ông có hẳn một tác phẩm “Hỏi trời - Thiên vấn” gồm đến 189 câu hỏi dành cho ông trời! Đoạn kết ông viết: “Ta báo cho các bậc tiền nhân nước Sở biết rằng nước nhà đang lúc khuynh nguy, sợ khó được trường tồn”.
Tác phẩm của Khuất Nguyên viết bằng ngôn ngữ nước Sở, muốn thưởng thức trọn vẹn cái hay cái đẹp thì phải đọc bằng giọng Hồ Nam. Đặc điểm này càng chứng tỏ Kinh Thi và Sở Từ không cùng cội rễ. Thật vậy, đọc Kinh Thi với âm Hán Việt vẫn thấy nó du dương không kém thơ Đường, nhưng nhạc tính của Sở Từ thì không thể bảo tồn nơi Hán Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn, [4] âm Hán Việt chủ yếu là âm Hán thời Đường, cho nên tiếp cận Sở Từ rất cần lao lực và những con đường hoàn toàn mới.
Nhạc ký của Khổng Tử nói: Phàm âm thân đều xuất phát từ tấm lòng của con người. Sự rung động của tình cảm sẽ tạo nên âm thanh, từ âm thanh sẽ tạo ra lời ca tiếng hát. Căn cứ vào âm nhạc để biết thời thế. Nếu thời thế bình yên thì âm nhạc êm dịu, còn thời thế loạn lạc thì âm nhạc ai oán, nếu chính trị đồi bại thì có lời ca ai oán vì mất nước, sẽ có sự buồn nhớ đau thương để nói lên nỗi thống khổ của người dân. Theo Đại Việt Sử Lược (1388): Mùa đông năm Nhâm tuất 1202 Lý Cao Tông đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đấy đêm nào cũng sai nhạc công khảy đàn Bà Lỗ, xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc Chiêm Thành, âm thanh ai oán thảm thiết buồn bã oán hờn. Những kẻ tả hữu nghe đến đều nghẹn ngào rơi lệ. Có vị tăng phó là Nguyễn Thường thưa: “Tôi thấy lời tự trong kinh Thi rằng, âm thanh lúc nước loạn thì ai oán, để tỏ ý căm giận cái chính trị bạo ngược; âm thanh hồi mất nước thì đau thương, để tỏ ý lo cho dân trong cảnh khốn cùng cơ cực. Nay chúa thượng đi tuần du không chừng mực, chế độ chính trị và việc giáo hóa thì trái ngược, dân chúng ở dưới thì sầu khổ. Sự nguy khốn đến thế thì thật là tột mức, mà ngày nay nghe cái âm thanh ai oán thì không phải đó là cái điềm loạn ly vong quốc hay sao. Tôi muốn xa giá từ đây trở về, đừng đi chơi nơi cái cung ấy nữa vậy”. Hơn 20 năm sau, điềm gở thành sự thật, nhà Lý bị nhà Trần thay thế.
Chiếu theo lý luận âm nhạc cổ điển Á Đông đã dẫn, tham khảo thêm giọng đọc Hồ Nam (không thật chuẩn) khi diễn tả Ly Tao, tôi nhận thấy rằng nhạc điệu của Ly Tao thật thê lương. Hơn nửa thế kỷ sau ngày Khuất Nguyên mất, nước Sở bị Tần tiêu diệt. Tiếng khóc của Khuất Nguyên chính là điềm báo của văn minh Sở, hoặc nói rộng ra là điềm báo thoái trào của văn minh Thần Nông. Khi Tần Thủy Hoàng đưa 500 ngàn dân - binh vượt Ngũ Lĩnh tấn công Bách Việt, những nhánh nhỏ trong Thần Nông như Mân Việt (Phúc Kiến), Âu Việt (Chiết Giang), Lạc Việt (Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Bộ Việt Nam) lần hồi bị sáp nhập vào Trung Quốc. Bài ca Ngu Cơ của Hạng Võ dưới làn điệu Sở là kết cuộc bi hùng của dân tộc Sở. Lưu Bang cũng hát điệu ấy, nhưng bài “Đại phong ca” đã biến thể. Văn minh Thần Nông vĩnh viễn hòa trộn cùng Hoa Hạ để tạo nên văn minh Hán. Những con người của Thần Nông từ đó trở đi đã thành con dân Hán tộc, chỉ trừ mảnh đất Bắc Bộ Việt Nam kiêu dũng, cô độc thẳng tiến đến tương lai trên con đường đầy gian nan và bất trắc.
Đọc Khuất Nguyên, không hiểu sao tôi cứ nghĩ các thể văn riêng của người Việt (truyện, ngâm, hát nói) và Sở Từ có chung một nguồn cội. Những câu 6 chữ, 7 chữ rồi 8 chữ trong Ly Tao tải nhạc điệu rất gần gũi với Song Thất Lục Bát, Lục Bát và đặc biệt là lối Hát Nói của người Việt Nam. Chữ đệm “hề” đã từng có mặt trong ca dao đồng bằng sông Hồng:
Công anh đắp nấm, trồng chanh
Chẳng ăn được quả, vin cành cho cam
Xin đừng ra dạ bắc nam
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề
Huống tam thu như bất kiến hề
Đường kia, nỗi nọ như chia mối sầu [5]
Điều tôi nhận định được thể hiện rõ nhất tại bài Hát Nói “Vịnh Tiền Xích Bích” của Nguyễn Công Trứ (trích đoạn phần lời ca):
Quế trạo hề lan tương
Kích không minh hề tố lưu quang
Diễu diễu hề dư hoài
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
Phải chăng những tuyệt tác thơ Nôm đồ sộ của nền văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc vẫn còn những mạch ngầm mang dấu ấn văn minh Thần Nông? Trường thiên Ly Tao và Đoạn Trường Tân Thanh chỉ là một hình hài song đối qua tấm gương thời gian hai ngàn năm có lẻ, qua hai bờ nam bắc của Động Đình Hồ?
Có thể Khuất Nguyên đã chọn tiết Hàn Thực của văn minh Thần Nông để ra đi nhằm lôi kéo sự chú ý, cảnh tỉnh thế gian u muội. Dần dà ý nghĩa cổ sơ của Đoan Ngọ bị thay thế bởi đám tang thi hào và lòng thương cảm người đời dành cho ông [6]. Hơn hai ngàn năm sau, Tú Mỡ, một nhà thơ Việt Nam (ở góc độ nào đó cũng là một nhà văn hóa), đã bị đánh lừa nên từng viết:
Cái cụ Khuất bên Tàu
Chết từ hồi tam tổ
Có quan hệ gì ta
Mà sao phải ăn giỗ
Mồng 5 khỏe ăn càn
Mồng 6 ốm nhăn nhó
Có lỡ chết bỏ đời
Thì lại cho tại số
Gần đây hơn người Việt Nam có Trịnh Công Sơn tài hoa. Gần nửa thế kỷ, lớp lớp người Việt Nam thường quên hết mâu thuẫn, chia cách và dị biệt khi thả hồn trong những ca khúc mang họ Trịnh. Theo tôi cái tinh túy trong những tác phẩm của Trịnh Công Sơn không phải ở các nốt nhạc giản dị hoặc giữa vẻ đẹp ngôn ngữ, nó ẩn sâu nơi nhạc điệu của ca từ rất gần với Hát Nói. Truyền thuyết còn nhắc đến bản Diễm Tình u hoài, khắc khoải triền miên từ nước Sở, nay đã thất truyền. Có lẽ nhạc điệu ca từ của Trịnh Công Sơn cộng hưởng với cung bậc hiện đại, đã đánh thức những giọt máu xa xưa nhất trong trái tim mỗi con người Việt Nam, về lời ru đất nước từ thuở Văn Lang Động Đình Hồ.
Đầu thế kỷ 21, tác giả Nguyễn Hữu Liêm đã tả thực thao thức và chiêm nghiệm cá nhân bằng đoản văn “Cái âm điệu tủi thân bi đát”, [7] vô tình như thác xoáy vào tình cảm của cộng đồng Việt Nam lưu vong khắp thế giới. Phản ứng trỗi dậy ồn ào, tưởng như không đến nỗi thế, cũng chỉ vì mạch ngầm ai oán tha phương bị đụng chạm, vì lời nhận xét thuần lý của một triết gia chứ không phải một hồn thi sĩ: “Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miền Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nước mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc”.
2. Văn nhân Hồ Nguyên Trừng
Hơn 17 thể kỷ, sau khi Khuất Nguyên ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La, nước Việt Nam mới có nhà văn lưu vong đầu tiên được ghi nhận. Ông tên Hồ Nguyên Trừng. Người ta không rõ năm sinh, chỉ biết Hồ Nguyên Trừng mất năm 1446. Ông là con cả Hồ Quý Ly, bị bắt sang Trung Quốc năm 1407. Nhà Minh biết tài ông nên hậu đãi trọng dụng, bổ ông làm đến chức tương đương Thứ trưởng bộ công nghiệp ngày nay. Với bút hiệu Nam Ông (ông già nước Nam) Hồ Nguyên Trừng làm thơ, viết văn khá nhiều nhưng tác phẩm xuất sắc nhất của ông là trường thiên “Nam ông mộng lục”. Trước tác gồm 31 phần, do Hồ Huỳnh, Thượng thư bộ Lễ Minh triều đề từ năm 1440, có cả hậu tự năm 1442 của Tống Chương. Ở lời nói đầu, Hồ Nguyên Trừng bảo: Trong xóm mười nhà thể nào cũng có người tín nghĩa như Khổng Tử, huống hồ nhân vật nước Nam không kể hết. Thời gian và chiến tranh làm sách vở tiêu tán hết, nên ông phải viết lưu lại cho đời.
Bằng nỗi niềm thương nhớ cố quốc, hồi tưởng năm tháng đã qua, Hồ Nguyên Trừng ngỡ cuộc đời là một giấc mộng dài. Qua “Nam ông mộng lục” thế giới sẽ biết đến Việt Nam, những con người Việt Nam thật cao cả và đẹp đẽ hiện ra bàng bạc trong đời sống, tín ngưỡng, phong tục, lề thói… Hồ Huỳnh nhận định: "Văn họ Hồ ngắn gọn mà nghiêm trang, cẩn mật, cao nhã mà uyên bác, theo tình kể lại, theo nghĩa đặt lời... Ca ngợi sự tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể uốn nắn phong tục, biểu dương trước thuật thì siêu thoát, thanh tân, có thể nuôi dưỡng tính tình...".
3. Cận đại lưu vong văn nhân
Đầu thế kỷ 20, trong khi cả nước Việt Nam chìm đắm trong đêm dài nô lệ, lớp lớp kẻ sĩ đã lên đường dấn thân cách mạng. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là đỉnh cao nhất của hai trào lưu phục quốc tiêu biểu. Hai người này viết không nhiều, thiên về chính trị, nhưng những áng văn của họ đời đời bất hủ vì nó đã khai sáng cho cả một dân tộc.
Phan Bội Châu sinh năm Đinh Mão 1867, mất năm Canh Thìn 1940. Năm 1905 Phan Bội Châu lưu vong về phía đông, đến Nhật và bắt đầu quãng thời gian 20 năm bền gan với sự nghiệp cởi bỏ xiềng xích cho giống nòi. Năm 1925 ông bị Pháp bắt, ra tòa lãnh án khổ sai chung thân nhưng vì sự phán ứng mạnh mẽ của nhân dân, ông được ân xá và giam lỏng tại Huế đến chết.
Tác phẩm của Phan Sào Nam tiên sinh khá đồ sộ: Việt Nam vong quốc sử, Kỷ niệm lục, Lưu cầu huyết lệ tân thư, Hải ngoại huyết thư, Việt Nam sử khảo, Ngục trung thư, Hà thành liệt sĩ, Truyện Lê Thái Tổ, Tuồng Trưng Nữ Vương, Giác quần thư, v.v… Khi giã biệt non nước lên đường lưu vong, cụ Phan đã làm một bài thơ nói lên chí khí của mình:
Giang san tử hỷ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Nguyện trục trường phong Đông Hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi [8]
Phan Chu Trinh sinh năm Nhâm Thân 1872, mất năm Bính Dần 1926. Những hoạt động chính trị theo cương lĩnh bất bạo động của Phan Tây Hồ tiên sinh khiến ông bị đày ra Côn Đảo rồi lại bị đưa sang Ba Lê. Tại đây ông tiếp tục con đường cứu nước mình đã chọn, và cũng phải nếm mùi nhà ngục quốc sự phạm Santé. Tác phẩm quan trọng nhất của Phan Chu Trinh là “Thư gửi chính phủ Pháp - 1908”, “Thư gửi Khải Định - 1922” và nhiều bài diễn thuyết về dân chủ, đạo đức, luân lý… Bài thơ khởi nghiệp cách mạng của Phan Chu Trinh là “Chí thành thông thánh”:
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang san hòa lệ khấp anh hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ thi văn túy mộng trung
Trường thử bách niên cung thóa mạ
Bất tri hà nhật xuất lao lung
Chư quân vị tất vô tâm huyết
Thỉnh bả tư văn khán nhất thông.
Ông cử Mai Đăng Đệ đã than khóc hai văn nhân lưu vong cùng họ Phan như sau:
“Nhất Phan tử khứ, nhất Phan hoàn, ta tai tổ quốc
Thiên cổ văn chương, thiên cổ tâm sự, thùy vi tiên sinh” [9]
4. Lưu vong thời hiện đại
Thế kỷ hai mươi, những biến cố chính trị thường trực trải rộng khắp thế giới đã sinh ra biết bao nhà văn lưu vong. Riêng với Việt Nam, sự kiện 1975 cũng tạo nên một lớp cầm bút đông đảo sống ở nước ngoài. Có thể nói bài: “Sống và viết như những người lưu vong” [10] là một tổng kết nói lên gần trọn vẹn vấn đề. Thật vậy, nhà văn lưu vong Việt Nam đã chia cuộc đời thành hai mảnh riêng rẽ “sống” và “viết”. Có khi mảnh “sống” còn được bi kịch hóa thêm bằng từ “lưu đày” [11]. Điều này lý giải tại sao văn chương lưu vong hiện đại Việt Nam chưa có những tác phẩm để đời, hay ít ra là những tác phẩm “khai sáng” như thế hệ trước đó. Với Khuất Nguyên, Hồ Nguyên Trừng, viết chính là sống. Có lẽ Khuất Nguyên quyết định chết sau khi đã viết tất cả những gì cần viết. Còn họ Hồ thì chết không lâu sau khi “Nam ông mộng lục” hoàn thành.
Khi dâu bể đã thành hình và ổn định, “sống” lưu vong giờ đây chỉ đơn giản là chọn một nơi cư trú ngoài quê hương. Điển hình như Huỳnh Phan Anh: “Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong. Tôi là một nhà văn Việt Nam sinh sống tại Mỹ do hoàn cảnh riêng của gia đình. Tôi biết rằng có một vài người tại Mỹ tự bỏ tiền ra in tác phẩm của mình rồi tự xưng là nhà văn lưu vong... Nhưng tôi đã và vẫn sẽ là một người Việt Nam” [12]. Công nghệ thông tin mười năm cuối thế kỷ 20 đã giúp các nhà văn, từ nay lỡ có lưu vong thể xác, vẫn không hoàn toàn lưu vong tinh thần, lưu vong văn hóa. Họ có thể “sống” bất cứ ở đâu và “viết” trên nền tảng “lưu vong”. Khi đó, “lưu vong” đến gần thái độ hơn là trạng huống. Điều này vừa được Elfriede Jelinek, chủ nhân giải Nobel 2004 khẳng định: “Tôi di tản vào nội tâm mình, bởi với một người thiên hướng xã hội như tôi, cuộc sống ở Áo là không thể nào chịu đựng nổi”. [13]
“Lưu vong” hôm nay mãi mãi không còn là một khái niệm gợi lòng thương cảm. “Lưu vong” sẽ là trách nhiệm lương tri, trách nhiệm cảnh tỉnh, trách nhiệm đưa ra những cái nhìn đa góc độ trên cùng một thực thể hiện hữu, trách nhiệm của nhà văn với đất nước với nền văn hóa đã hoài thai ra tác giả. Như vậy từ “lưu vong” cũ rích kia không còn phù hợp nữa. Nên chăng hãy mở ra một nền văn học không biên giới, nền văn học số hóa, nền văn chương “viết là sống”. Và chỉ khi nào nước Việt Nam sản sinh ra những tác giả “viết là sống”, mới dám mong chúng ta có một ngôi nhà văn chương ra trò, có tiếng nói giữa đại đồng nhân loại, không thẹn thòi với Khuất Nguyên, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Du và nhiều bậc tiền nhân oanh liệt khác.
5. Kết luận
Giải Nobel 2000 dành cho một nhà văn lưu vong, đã khép lại thế kỷ 20 đầy biến động, và cũng tống tiễn một khái niệm xưa cũ. Nobel đã làm xong nhiệm vụ trong nội bộ nền văn minh phương Tây, hiện nay nó thỉnh thoảng lại dùng giá trị phương Tây để định giá những thứ phi Tây phương. Mong sao giải thưởng kia, với mục đích nhân văn tối thượng (nhưng không cụ thể) của người đề xướng, đừng tự biến mình thành chủ quan, tự cho mình quyền phán xét, qua đó cố chứng thực tính ưu việt của văn minh phương Tây nói chung, và xác thế vị trí của người Thụy Điển nói riêng trong tổng thể văn minh nhân loại. Với một thế giới mở cùng sự tương tác và giao lưu văn hóa diễn ra hằng ngày, các giải Nobel văn chương, hòa bình, thậm chí cả kinh tế, rất dễ biến thành những con bài chính trị.
Giải Nobel văn chương của Cao Hành Kiện là cái kết đáng buồn cho cho một thế kỷ lưu vong. Cao rất giống Khuất Nguyên, ông lưu vong trên chính quê hương mình viết nên Linh Sơn. Khuất Nguyên mang trong lòng nỗi đau của cả một nền văn minh ngỡ là bị hòa lẫn, bị nhìn nhận như man di mọi rợ hàng thiên niên kỷ, bị tước đi vị thế đặc biệt của nó trong lịch sử Trung Hoa. Lẽ biến dịch, thắng thua của thời gian với Khuất Nguyên thật là tương đối. Tầm vóc của ông vượt lên tất cả, nghạo nghễ và phi thường, làm giá trị cho toàn bộ nhân quần đời đời vẫn còn lấn cấn những được mất, thành bại. Ngoài hằng số lưu vong, thật khó so sánh Cao Hành Kiện với Khuất Nguyên. Văn tài Cao Hành Kiện vời vợi, nhưng tác phẩm của ông thiếu sự cảm thông, vắng bóng tha thứ và hàn gắn, những yếu tố làm nên sự bất hủ. Do đó tuyên bố của hiệp hội văn nhân Trung Quốc cuối năm 2000 không hẳn hoàn toàn tùy tiện: “Dường như Hội đồng Nobel mang tiêu chí chính trị thay cho quan điểm văn học, để trao giải văn chương năm nay.”
Thư tịch và chú thích:
Sử ký Tư Mã Thiên, Nhữ Thành dịch, NXB VH 1998.
Trung Quốc Văn học sử, Dịch Quân Tả, Huỳnh Minh Đức dịch, NXB Trẻ 1992.
[1] Nedim Gursel, "Chữ nghĩa của lưu đày, lưu đày của chữ nghĩa", talawas.org, 2003
[2] Tạm dịch: Không phải lo thân mình bị tai ương. Chỉ lo nước non khuynh đảo, tiêu tán công lao tiền nhân.
[3] Xin tham khảo thêm bài viết “Việt Nam thời bán sử và những thông điệp nhân văn”, phiên bản tháng 11.2004. Ở đấy tôi đã định lại vị trí Giao Chỉ đầu triều Chu là vùng bờ bắc trung lưu Trường Giang. Việt Thường Thị nếu không đại diện cho nhà nước Văn Lang sơ khai thì cũng là một bộ tộc trong liên minh thị tộc mẫu hệ Văn Lang.
[4] Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn, NXB KHXH 1979.
[5] Thể lục bát biến thức, trích trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm, Trung tâm học liệu - Bộ giáo dục 1968, trang 9.
[6] Trường hợp này rất giống việc Ky Tô giáo chọn ngày Đông Chí làm Giáng Sinh. Đông Chí vốn là một lễ nghi cổ đại rất quan trọng của tất cả các nền văn minh ở bắc bán cầu. Người ta hay khẩn cầu mặt trời (đang nằm dưới bán cầu nam) trở lại, đem nắng ấm cho nhân sinh và mùa màng. Theo Lễ Ký, buổi tế Nam Giao lớn nhất của văn minh Trung Hoa phải được cử hành hằng năm vào ngày Đông Chí. Với lịch Julian, Đông Chí là 25 tháng 12. Khi lịch Gregorio thay thế lịch Julian thiếu chính xác, Đông Chí trở về ngày 21 tháng 12, Giáng Sinh vẫn được giữ nguyên là 25 tháng 12 như thói quen cũ.
[7] Nguyễn Hữu Liêm, Cái âm điệu tủi thân bi đát, talawas.org, 2003.
[8] Theo quyển: Phan Bội Châu, NXB Tân Việt 1956. Đào Trinh Nhất dịch là:
Non sông đã mất mình khôn sống
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
Đông Hải xông pha nương cánh gió
Nghìn làn sóng bạc múa ngoài khơi
[9] Theo sách: Phan Chu Trinh, NXB Tân Việt 1956. Dịch nghĩa: “Một ông Phan mất đi, một ông Phan (bị bắt) về, than ôi tổ quốc. Văn chương thiên cổ, tâm sự thiên cổ, ai là tiên sinh”.
[10] Nguyễn Hưng Quốc, Sống và viết như những người lưu vong, tienve.org.
[11] Đặng Phùng Quân, Văn chương và lưu đày, nhanvan.com.
[12] Xem Tin văn, Tạp chí VH-NT số 561, 19.2.2004.
[13] Elfriede Jelinek, Nobel 2004, theo báo Tuổi trẻ 16.10.2004.

Đà Lạt 12.2004
Trương Thái Du

Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đôi dòng tưởng nhớ “Con nhà nho cũ”  Nhà văn, nhà báo, nghệ nhân tranh chữ Bùi Hạnh Cẩn (1919 – 2020) đã rời cõi thế ở tuổi 102, đến nay...