Theo cách phân chia thông thường hiện nay thì Việt Nam và
Nhật Bản ở vào hai khu vực văn hóa khác nhau. Nhật Bản là một nước Đông á,
còn Việt Nam thuộc Đông Nam á. Không dễ gì đem văn hóa thuộc hai khu vực khác
nhau để so sánh, nhưng chúng ta lại rất cần đến nghiên cứu so sánh để có thể
hiểu sâu thêm từng đối tượng và hiểu rộng thêm mối quan hệ giữa các đối tượng
này. Mặt khác, sự phân chia thành các khu vực văn hóa, thực chất cũng chỉ là
một cách làm của các nhà khoa học nhằm phân lập một cách tương đối một thực
thể nào đó, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chia cắt chúng một cách tuyệt đối.
Hơn thế, do tác động của hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc thuộc các khu vực văn
hóa khác nhau lại có nhiều mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì vậy so
sánh để tìm ra những mối liên hệ, rút ra những điểm tương đồng và dị biệt lại
là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Nhật Bản và Việt Nam có thể
coi là những trường hợp như thế. Hơn nữa, Việt Nam và Nhật Bản lại
cùng chịu nhiều ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa, nên có không ít những điểm
tương đồng, nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn những biểu hiện của ảnh hưởng này lại
tìm ra những khác biệt đáng kể.
Chọn Nhật Bản để so sánh, tác giả muốn đạt tới sự nhận thức
sâu sắc hơn về văn hóa Việt Nam và qua đó, góp phần hiểu thêm về mối
quan hệ Đông á và Đông Nam á.
Có nhiều phương pháp so sánh nhưng phương pháp được sử dụng
trong bài này là so sánh theo tiêu chí. Theo chúng tôi có thể chọn 5 tiêu chí
sau đây: 1. Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái. Với nhận thức của khoa học ngày nay, điều kiện tự nhiên và
môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ quan trọng đến sáng tạo văn
hóa của con người. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người là nhân tố
chính tạo nên đặc trưng văn hóa. 2. Sự hình thành nhà nước đầu tiên. Đây là sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi dân
tộc vì sự xuất hiện nhà nước vừa là cái mốc bước nhảy vọt của một cộng đồng
cư dân đưa họ bước vào thời đại văn minh vừa là sự kết tinh của những thành tựu
về văn hóa đã đạt được trước đó, bước đầu định hình một bản sắc văn hóa. 3. Những đặc điểm về cư dân và đặc trưng văn hóa truyền thống. Nói tới văn hóa, không thể không xem xét chính chủ thể của
văn hóa, nên nguồn gốc, quá trình tộc người và đặc điểm của cả cộng đồng là
những yếu tố không thể bỏ qua. Còn đặc trưng của văn hóa truyền thống ở đây
là xét trên những đặc trưng chung nhất của 4 thành tố cấu thành văn hóa. 4. Các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử. Từ khi nhà nước hình thành, mặc dù là sản phẩm của văn hóa do chính con người tạo ra nhưng các hình thức tổ chức nhà nước có tác động rất
mạnh mẽ đến chiều hướng phát triển của lịch sử và chi phối những đặc trưng của
xã hội. 5. Ứng xử với văn hóa ngoại lai. Văn hóa được sản sinh trong một không gian nhất định và giới
hạn của nó thường là môi trường tự nhiên, nhưng văn hóa không bao giờ là đóng
kín. Sự lan tỏa những giá trị của một nền văn hóa này tới những nền văn hóa khác là một hiện tượng tự nhiên, nhưng cách ứng xử trước hiện tượng tự nhiên ấy
là phụ thuộc vào, và vì vậy, phản ánh đặc trưng của chính những nền văn hóa chịu những tác động ấy. Vì vậy đây có thể coi là một trong những tiêu chí để
có thể xét sự tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hóa. Xét theo tiêu chí thứ nhất về điều kiện tự nhiên và môi trường
sinh thái, có thể thấy Việt Nam là một bán đảo với diện tích tự
nhiên hơn 33 vạn km2 và hơn 3000 km bờ biển. Chỉ số duyên hải (ISCL) tính được» 106. Trong khi đó, Nhật Bản là một quần đảo với 3.600 hòn đảo lớn nhỏ quây
quần xung quanh 4 hòn đảo lớn. Tổng diện tích tự nhiên» 377.000 km2 và
29.000 km bờ biển, chỉ số ISCL» 13 (1). Do địa hình dốc, mưa theo mùa tạo thành mạng lưới sông ngòi
dày đặc (trên có tới gần 3.000 con sông lớn nhỏ), xòe theo hình nan quạt ở
phía bờ biển. Do bồi lấp không hoàn chỉnh, vùng đồng bằng hay có úng lụt, tạo
thành vùng sinh thái có nhiều mặt nước chiếm chỗ. Người Việt gọi Tổ quốc mình
là nước. Khí hậu Việt Nam tương đối đa dạng. ở miền Bắc có
4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt. Miền Nam chia thành 2 mùa Khô và
Mưa. Đặc điểm chung là nóng, ẩm, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp,
nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh. Cùng với chế độ nhiệt đới
gió mùa, hằng năm có bão, thiên nhiên cũng đặt ra không ít những thử thách hiểm
nghèo. Mưa, lũ, bão, ẩm, dịch bệnh là những thiên tai mà người Việt thường
xuyên phải đối phó. Do lãnh thổ trải dài trên 15 vĩ tuyến, lại có nhiều mạch
núi cắt ngang, tạo thành nhiều âu khí hậu khác nhau mà rõ nhất là Bắc, Trung,
Nam Bộ. Cùng với sự đa dạng về địa hình, sự khác biệt về khí hậu là những yếu
tố tự nhiên nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa phân bố theo vùng, miền. Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản
đa dạng và phong phú, nhưng nhìn chung trữ lượng không cao. Ưu thế tài nguyên
chủ yếu là đất. Nông nghiệp đã xuất hiện sớm và là ngành kinh tế chủ đạo
trong suốt mọi thời kỳ lịch sử. Một đặc điểm nổi bật của điều kiện tự nhiên Việt Nam là vị
trí địa lý giao tiếp, là nơi giao lưu của nhiều dòng văn hóa và là nơi luôn bị
tác động của khu vực và thế giới. Lãnh thổ quốc gia được mở rộng dần theo thời
gian. Tuy có diện tích tự nhiên rộng hơn, nhưng khác với Việt
Nam, Nhật Bản có tới 75% diện tích là núi và 67% rừng xanh che phủ. Với lượng
mưa không lớn (trung bình khoảng 300mm/năm) và do địa hình núi gần biển, Nhật
Bản không có nhiều sông. 13 con sông được ghi trong các sách địa lý đều ngắn,
nhỏ và nghèo phù sa. Nhật Bản hầu như không có đồng bằng châu thổ (2). Ngay cả
những vùng được gọi là đồng bằng như vùng Kanto và Kansai, thực chất cũng chỉ
là những thung lũng lớn được tạo thành bởi nham thạch của núi lửa.
Nhật Bản có tới 200 núi lửa, 60 ngọn trong số đó vẫn còn đang hoạt
động. Chính vì vậy mà biểu tượng của người Nhật là núi lửa Fuji. Cả nước có
khoảng 300 thung lũng, bị chia cắt thành 7 vùng núi lửa. Bù lại sự chật hẹp về đất đai cư trú và trồng trọt, Nhật Bản
có hệ thống cảng biển dày đặc. Khí hậu Nhật Bản có sự cách biệt khá xa. Có vùng lạnh như
Siberi (đảo Hokkaido), lại có vùng ấm như Đông Nam á
(Okinawa và các đảo cực nam). Quanh năm có 4 mùa rõ rệt nhưng độ ẩm
không cao. Khí hậu nói chung không thật thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Trong khi đó, Nhật Bản được coi là nước thiên tai rất khắc nghiệt với sự
hoành hành thường xuyên của động đất, lũ quét, sóng thần, bão biển và núi lửa. Do địa hình chia cắt, văn hóa Nhật Bản có thể chia thành
nhiều vùng - địa phương. Nghèo về tài nguyên (3) kể cả đất canh tác, Nhật Bản
chỉ có khoảng 2,5 triệu ha đất có thể canh tác được nhưng chỉ
trong một vụ xuân hè. Nhật Bản nằm giữa biển, nhưng trong các giai đoạn lịch sử trước
khi có sự xuất hiện của người châu Âu, vị trí địa lý của quần đảo tương đối
cách biệt nên ít chịu tác động tự nhiên mà thường chủ động du nhập các yếu tố
văn minh từ bên ngoài. So với Việt Nam, Nhật Bản là nước có lãnh thổ tương đối
ổn định. Qua những điều trình bày trên đây có thể rút ra một số nét tương đồng
cũng như khác biệt về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái giữa Việt Nam và
Nhật Bản. Những nét tương đồng có thể thấy qua những đặc điểm mang
tính hình thức như diện tích tự nhiên (33 vạn/ 38 vạn km2), địa hình, khí hậu
đa dạng với đủ các vùng rừng núi, đồng bằng và duyên hải. Cả hai quốc gia đều
phải đối phó với những thiên tai hiểm nghèo... Phân tích sâu hơn những tham số
tự nhiên thì thấy những điểm dị biệt là rất đáng kể. Trước hết đó là sự khác
nhau giữa một bán đảo với một quần đảo, do đó chỉ số ISCL chênh nhau tới hơn
8 lần (13/106). Do đặc điểm này mà tác động của yếu tố biển tới đời sống văn
hóa của mỗi dân tộc rất khác nhau. Sự khác biệt còn thể hiện ở mức
độ thuận lợi và thử thách do thiên nhiên đem lại như khắc nghiệt của thiên
tai, sự phong phú giàu có về tài nguyên và ảnh hưởng của vị trí địa lý. Trong tiêu chí thứ hai: cư dân và đặc trưng văn hóa, Việt Nam luôn
được nhận diện như một quốc gia đa tộc người, ít nhất có tới 54 tộc người với
ngôn ngữ và truyền thống văn hóa khác nhau, nhưng có một dân tộc chủ thể là
người Kinh (hay Việt). Đặc trưng văn hóa Việt được hình thành trong quá trình lịch
sử lâu dài do tác động của nhiều nhân tố, nhưng về đại thể có thể coi những
nhân tố sau đây có vai trò tác động chính yếu: - Tác động của môi trường “nước”. Do tác động này mà hình
thành các dạng thức văn hóa sông - nước với những tính cách của cư dân ở gần/ trên
sông, nước (can đảm, linh hoạt, mềm dẻo, dễ thích ứng, giỏi xử lý tình huống...). - Tác động của hoàn cảnh lao động sản xuất (nông
nghiệp trồng lúa nước). Trong quá trình chinh phục đồng bằng châu thổ, đắp
đê, điều tiết nước để sản xuất và hợp lực phòng chống lũ lụt, người Việt cần
tới sức mạnh cộng đồng. Làng, một loại hình tụ cư đậm tính cố kết trở thành hội
điểm của rất nhiều đặc trưng văn hóa. Trong bảng giá trị truyền thống, đoàn kết
(cố kết cộng đồng), hiếu với cha mẹ (gia đình hạt nhân là tế bào xã hội) và
trọng lão (trọng kinh nghiệm) luôn là những chuẩn mực được đề cao. Nhưng cũng
do hoàn cảnh sản xuất mà người nông dân Việt không quen hạch toán và lường
tính xa. Bình quân (chia đều) trở thành một phương thức hữu hiệu duy trì mối
quan hệ hòa đồng trong làng xã. - Tác động của hoàn cảnh lịch sử mà nổi bật là phải thường
xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược. Tác động này đã tạo nên truyền thống
bất khuất kiên cường, có ý thức độc lập tự chủ cao. Đồng thời cũng chính do
tác động này mà thiết chế cộng đồng được gia cố thêm. Về tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt coi trọng đạo thờ cúng
tổ tiên. Trong quá trình tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, ấn Độ và phương
Tây, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo lần lượt được du nhập vào Việt Nam.
Các tôn giáo ngoại lai và các loại hình tín ngưỡng bản địa đã dung hợp nhau
cùng tồn tại và phát triển. Việt Nam trở thành một xứ sở hỗn dung
tôn giáo. Khác với Việt Nam, Nhật Bản là một quốc gia thuần chủng,
có bản sắc chung rất rõ nét. Trong kết cấu cư dân hiện nay, 99,4% dân số là
người Nhật, bộ phận những cư dân khác còn lại chỉ chiếm 0,6% (gồm 600.000 người
Triều Tiên, 40.000 người Trung Quốc và khoảng 20.000 Ainu). Quá trình “thuần
chủng hóa” này đã diễn ra trong một quá trình lịch sử lâu dài trong điều kiện
quần đảo Nhật Bản sống tương đối tách biệt với thế giới bên ngoài. Địa hình bị
chia cắt bởi núi non, thung lũng và đảo dẫn tới sự hình thành nhiều dạng thức
văn hóa địa phương. Người ta đã từng chia Nhật Bản thành 6 vùng văn hóa là Bắc
hải đạo (đảo Hokkaido), Bắc lục đạo (vùng núi phía bắc, giáp biển Nhật Bản,
chủ yếu là các tỉnh Nigata, Kanazawa), Đông hải đạo (vùng đồng bằng Kanto),
Kinki (vùng đồng bằng Kansai), Tây hải đạo (đảo Kyushu), Nam hải đạo (đảo
Shinkoku và các đảo phía nam). - Xét về tác động của môi trường có thể thấy biển, núi,
thung lũng, khí hậu ôn đới, núi lửa và động đất là những nhân tố tự nhiên tác
động mạnh mẽ và thường xuyên đến quá trình hình thành văn hóa truyền thống Nhật
Bản. Do tác động đó mà tính cách Nhật Bản cứng rắn, tiết kiệm, trung thành với
các giá trị truyền thống và rất cầu toàn. Vị trí địa lý tương đối biệt lập (của
cả quần đảo và của từng vùng) đã tạo nên tính cách đóng kín nhưng lại luôn có
mặc cảm “bị bỏ rơi” nên luôn mong muốn hội nhập và học tập cái hay
ở người khác. - Về hoàn cảnh lịch sử, có thể thấy trong suốt thời kỳ
trung đại, ngoại trừ hai lần tấn công xâm lược nhưng không thành của quân
Mông - Nguyên, Nhật Bản hầu như không phải đối phó với ngoại xâm. Thay vì các
cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, nội chiến giữa các thế lực phong kiến địa
phương diễn ra tương đối thường xuyên và kết cục dẫn đến sự hình thành thiết
chế Mạc phủ mà thực chất là sự thống trị của chính quyền quân sự, đứng đầu là
các dòng họ Shogun (Tướng quân) song song với sự tồn tại phần nhiều
trên danh nghĩa một chính quyền dân sự do Thiên hoàng (Teno) đứng đầu. Hoàn cảnh
lịch sử này đã tạo nên tính kỉ luật, đề cao vai trò người chỉ huy. Chuẩn mực
đạo đức là đề cao giữ chữ tín. Sự phát triển mạnh mẽ của các phong kiến địa
phương tại mỗi thung lũng đã dẫn tới sự hình thành các đơn vị thân binh
(Samurai) sau thành trở thành một tầng lớp có vị trí đặc biệt quan trọng
trong xã hội dưới tên gọi Vũ sĩ (Bushi). Trong xã hội truyền thống, đại bộ phận
cư dân sống ở nông thôn. Họ tụ cư thành các đơn vị gọi là mura (thôn). Khác với
cấu trúc làng ở Việt Nam, trong các mura của Nhật Bản, xã hội có cấu
trúc theo chiều dọc, nghĩa là có trật tự, lớp lang. Mọi thành viên đều có chức
năng, bổn phận rất rõ ràng. Quan niệm “cá mè một lứa” hay “cá đối bằng đầu”,
một kiểu dân chủ làng xã theo lối bình quân chủ nghĩa thường thấy ở Việt Nam,
rất xa lạ với xã hội Nhật Bản. Tôn giáo giữ vị trí độc tôn ở Nhật Bản là Shinto (Thần đạo).
Tôn giáo này đã hòa trộn nhiều yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng thờ tổ
tiên là nữ thần mặt trời. Các tôn giáo khác ở Nhật rất kém phát triển, trừ phật
giáo Đại thừa. Nhật Bản đã có thời coi văn minh Trung Hoa là mẫu hình lý tưởng
để học theo, nhưng Nho giáo khi du nhập vào Nhật Bản không phải là nguyên mẫu.
Người Nhật đã chọn lựa từng bộ phận nhưng rất tuân thủ giáo lý. Hệ thống tuyển
chọn quan lại bằng thi cử hoàn toàn không được người Nhật áp dụng. Trên bình diện cư dân và đặc trưng văn hóa, những nét tương
đồng của Việt Nam và Nhật Bản thể hiện ở chỗ cả hai cộng đồng đều thuộc chủng
Mongoloid và có chung yếu tố Nam á. Văn hóa truyền thống của cả hai dân tộc đều hình thành trên
nền tảng sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên những đặc trưng như tính cộng
đồng cao, trọng kinh nghiệm, tuổi tác, kinh nghiệm đều có nhiều nét tương đồng.
Cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa nên Nho giáo, Đạo giáo và nhiều
chuẩn mực Trung Hoa có thể tìm thấy trong văn hóa cả hai nước. Tuy nhiên, tính chất đa dân tộc của cộng đồng cư
dân Việt Nam rất khác với đặc điểm thuần chủng của người Nhật. Mặt khác sự trội
vượt của yếu tố phương Nam và sự thiếu vắng hoàn toàn hoạt động không du mục
của cư dân Việt và tính trội yếu tố phương Bắc với sự hiện diện của kinh tế du
mục trong một thời kỳ lịch sử của Nhật Bản đã dẫn tới sự khác biệt đáng kể
trong hai nền văn hóa. Nếu như ở Việt Nam, ảnh hưởng từ dưới lên là đặc
trưng chủ đạo thì với văn hóa Nhật Bản ảnh hưởng từ trên xuống lại là xu hướng
chi phối. Việt Nam không có quốc đạo trong khi đó ở Nhật Bản
đạo Shinto được coi là quốc giáo. Sự khác biệt trong văn hóa còn thể hiện ở
tính cách ứng xử của hai dân tộc. Một bên là mềm mỏng, linh hoạt, dễ thích ứng,
một bên coi trọng nguyên tắc, kỷ luật. Trong bảng giá trị đạo đức, người Việt
trọng hiếu còn người Nhật thì trọng tín. Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam được xác định vào cuối
thời Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2500 - 2700 năm. Như vậy là tương đối sớm.
Tuy nhiên đây không phải là kết quả của một quá trình phân hóa xã hội sâu sắc
mà trên cơ sở phát triển nhất định của các tiền đề kinh tế xã hội, những tác
động khách quan của nhu cầu sản xuất và chống xâm lấn đã đẩy nhanh quá trình
này. Ngay sau khi ra đời, nhà nước Văn Lang và sau đó là Âu Lạc đã phải liên
tục đương đầu với quá trình bành trướng xuống phương Nam của các đế chế Trung
Hoa. Đây là điểm khác biệt lớn của lịch sử Việt Nam so với Nhật Bản.
Từ giai đoạn văn hóa Yayoi (thế kỷ III TCN - III SCN), kỹ thuật luyện kim và
nghề trồng lúa nước du nhập vào Kyushu đã tạo nên bước nhảy vọt trong lịch sử Nhật
Bản. Cùng với sự phát triển về kinh tế, phân hóa xã hội trở nên ngày càng sâu
sắc. Vào giữa thế kỷ I SCN, tầng lớp Shucho (thủ lĩnh) giàu có xuất hiện. Sau
đó hàng loạt Kuni (một loại hình nhà nước sơ khai) được hình thành, trong đó
mạnh nhất là nước Wa. Ngay sau khi thành lập, vào năm 57 SCN, nước
này đã xin thần phục nhà Hán mở ra một thời kỳ phát triển theo quỹ đạo của
văn minh Trung Hoa. Về các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử, mặc dù đã
từng tồn tại nhiều kiểu loại nhà nước khác nhau, nhưng xu hướng chủ đạo là sự
thắng thế của hình thức nhà nước trung ương tập quyền. Dưới thời Lý-Trần
(1009 - 1400), mô hình “tập quyền thân dân” tồn tại gần 4 thế kỷ.
Cả thế kỷ XV là thời kỳ thịnh trị của mô hình “tập quyền quan liêu” và thế kỷ
XIX là thời kỳ thống trị của mô hình “tập quyền chuyên chế”. Duy có giai đoạn
từ năm 1600 đến 1789 trong bối cảnh chiến tranh phe phái triền miên, ở đàng
Ngoài tồn tại một thiết chế khá đặc biệt với sự tồn tại song song hai chính
quyền: triều Lê trên danh nghĩa và Chúa Trịnh (chính quyền quân sự) nắm thực
quyền. Ở Nhật Bản, từ thế kỷ VII, dưới tác động của mô hình cai trị
của nhà Đường, Nhật Bản cũng cố gắng xây dựng một chính quyền trung ương tập
quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên hoàng. Tuy
nhiên từ thế kỷ X, chính quyền trung ương suy yếu vì các vị Kokushi do chính
quyền trung ương cử đến đứng đầu Kuni ngày càng có nhiều trang viên (Shoen)
do được tặng biếu. Trong thời kỳ này hình thức xin thầu khai khẩn đất hoang
(Myo) rất phát triển. Người trúng thầu gọi là Tato. Người nhiều ruộng
gọi là Daimyotato. Những người này có rất nhiều Samurai (người hầu cận) làm
cơ sở cho việc hình thành lực lượng vũ trang riêng. Đây chính là nguyên nhân
dẫn tới những cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến địa phương và sự
hình thành thể chế Mạc phủ (Bakkufu) từ năm 1192 và kéo dài cho đến tận cải
cách Minh Trị (1868). Những điểm tương đồng về tổ chức nhà nước của Việt Nam và
Nhật Bản có thể thấy ở 3 điểm: - Cùng chịu ảnh hưởng từ mô hình Nho giáo của Trung Hoa - Đều chú trọng pháp luật - Đặc biệt là thiết chế hai chính quyền ở Việt Nam từ 1600
đến năm 1789 và thiết chế Mạc phủ ở Nhật Bản từ 1192 đến 1868. Sự khác biệt thể hiện ở chỗ: - Việt Nam luôn thiết lập được thiết chế tập quyền mạnh còn
ở Nhật Bản, chính quyền ở các địa phương mới là thế lực chi phối mọi mặt của
đời sống xã hội. Thể chế Mạc phủ chỉ có thể khống chế địa phương về mặt quân
sự. - Do cần tới một đội ngũ quan lại hùng hậu, các chính quyền
phong kiến Việt Nam bắt đầu từ triều Lý (1076) đã tiến hành tổ chức các kỳ
thi để tuyển chọn nhân tài, từ đó hình thành một hệ thống lưỡng ban (văn và
võ). Chính quyền phong kiến Nhật Bản chưa bao giờ áp dụng hệ thống này. Vì vậy
tầng lớp sĩ ở Nhật Bản chính là các Samurai văn võ kiêm toàn. Trong quá trình tiếp xúc với văn hóa ngoại lai, Việt Nam có
ưu thế về vị trí địa lý. Và trên thực tế đã tiếp thu không ít những giá trị từ
những nền văn hóa khác. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng, ứng xử truyền thống
của người Việt với văn hóa ngoại lai thường bắt đầu từ sự hoài
nghi, rồi sau đó buộc phải chấp nhận nhưng tìm mọi cách cải biến theo chuẩn mực
của mình. Trong khi đó, do hoàn cảnh lịch sử và những đặc trưng văn hóa khác
biệt, người Nhật luôn cho rằng ở ngoài Nhật Bản có rất nhiều giá trị văn hóa cao hơn, nếu tiếp thu được sẽ tạo cho văn hóa của họ những bước nhảy vọt (kỹ
thuật đúc đồng, lúa nước, các chuẩn mực văn minh Trung Hoa...), vì vậy ứng xử
truyền thống của người Nhật là xác định đâu là đỉnh cao rồi cố chí
học theo. Điều này còn bao hàm cả việc sau khi nhận ra một mô hình nào đó đã
lỗi thời, họ sẵn sàng từ bỏ để đến với những chuẩn mực cao mới. Đó là trường
hợp Nhật Bản quay lưng lại với mô hình Trung Hoa sau khi chiến tranh thuốc
phiện chấm dứt với thắng lợi của người phương Tây. Từ đây chuẩn mực mà người
Nhật quyết chí noi theo là văn minh phương Tây. Từ những phân tích sự tương đồng và dị biệt theo các tiêu
chí trên đây có thể đi tới một số nhận định tổng quát. 1. Ta thường nói đến sự tương đồng văn hóa giữa
Việt Nam và Nhật Bản (đồng văn, đồng chủng). Điều này đúng vì cả
hai dân tộc đều có những giá trị chung của châu á lấy nghề trồng lúa nước làm
nền tảng kinh tế, đều chịu ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa và xét trên nhiều
khía cạnh cụ thể cũng có thể tìm ra những điểm tương đồng, Chẳng hạn như sự tồn
tại hai chính quyền quân sự và dân sự trong một thời kỳ lịch sử. Đấy là cơ sở
thuận lợi trong quá trình giao lưu, hợp tác và học hỏi lẫn nhau. 2. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng sự tương đồng giữa Việt
Nam và Nhật Bản lớn tới mức có thể dùng chuẩn mực của nền văn hóa này để suy
ra những đặc điểm tương tự ở nền văn hóa kia. Chẳng hạn như tính cách nông
dân trồng lúa nước của Việt Nam hoàn toàn không thể dùng để quy chiếu
tính cách nông dân Nhật Bản. 3. Để có thể học tập và mở rộng hợp tác, nhất thiết phải có
những nghiên cứu cụ thể và sâu sắc. Điều này không chỉ đúng với trường hợp Việt Nam và
Nhật Bản mà còn đúng với các trường hợp khác. Nói rộng ra về sự tương đồng và
khác biệt văn hóa của hai khu vực Đông á và Đông Nam á cũng cần tính tới việc
phải xem xét thật cụ thể từng trường hợp và từng tác nhân dẫn tới sự tương đồng
và khác biệt đó. Chú thích: 1. Chỉ số duyên hải được tính bằng công thức: ISCL = å A/
å L (Tổng diên tích tự nhiên chia cho tổng chiều dài đường bờ
biển). ở Nhật Bản ISCL» 13, Việt Nam» 106, có nghĩa là 1 km đường bờ biển
chỉ che phủ tương ứng với mỗi nước là 13 km2 và 106 km2
diện tích lục địa. Theo đó, chỉ số ISCL càng thấp thì tác động của biển tới
văn hóa càng mạnh. 2. Trong một số sách địa lý của Nhật Bản có nhắc đến châu
thổ sông Ota, tức vùng có thành phố Hiroshima, nhưng thực ra đấy chỉ là nói về
đặc trưng thành tạo chứ quy mô bồi tụ và chất lượng phù sa của vùng này không
giống với châu thổ ở các nơi khác trên thế giới. 3. Thực ra Nhật Bản đã từng có những mỏ khoáng sản lớn như
đồng, bạc, vàng... nhưng tất cả hầu như nhưng đã khai thác hết từ thế kỷ
XVII.26/3/2006 Vũ Minh Giang Nguồn:
www.vanhoanghethuat.org.vn Theo https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét