Y gặp
lại người thầy học cũ một ngày mưa lớn. Con đê chạy dọc hữu ngạn sông Đáy chỗ
đó là giữa quãng Ba Thá, Vân Đình. Đường lầy. Kẻ đi ngược, người về xuôi. Cuộc kháng
chiến gian khổ thu lại trong giây phút gặp gỡ bất thình lình một nỗi tủi mừng
rưng rưng và cái hình ảnh buốt lạnh của con đường dài thẳm, trùng điệp hầm hố
dưới mưa bụi trắng xóa. Xa xa dấu vết những làng xóm tiêu hủy còn lại.
Hai
thầy trò nắm chặt tay nhau, mưa vẫn đổ lớn – cùng chạy đến trú dưới một gốc
cây. Nhiều năm tháng qua đi từ ngày bỏ trường lăn mình vào cuộc đời, bây giờ y
đã lớn, đứng cạnh thầy cao hơn thầy hẳn một cái đầu. Thầy thì tuổi già đã làm
cho thân hình nhỏ lại. Nhưng giữa hai người vẫn không có sự thay đổi. Người thầy
vẫn vững chãi và tự tin hơn. Thái độ gương mẫu và che chở bên trong cửa lớp
ngày nào y vẫn nhận được.
“Thầy
ở đâu xuống?”
“Tôi
ở Ba Thá xuống.”
“Thầy
vẫn dạy học?”
Người
thầy học cười hiền lành: “Phải, tôi vẫn dạy học nhưng trường làng vừa bị bom đốt
cháy chiều hôm qua. Hôm nay tôi phải về Ty báo cáo. Ty ở dưới Vân Đình. Tôi mất
hết, chỉ chạy được những cái này.”
Những
cái này: một cái bị cói, mấy bộ quần áo nâu và một cái gậy trúc.
Y
nhìn cái cơ nghiệp nhỏ nhoi vô nghĩa, những đồ tùy thân cuối cùng còn sót lại của
một cuộc đời đạo đức và liên tưởng tới hai hình ảnh: vị chân tu của một thời đại
nào đi truyền bá trong khổ hạnh những tư tưởng đẹp cho nhân loại và hình ảnh một
con đường mưa bay, buổi chiều xuống trên liên khu rộng lớn, người thầy học cũ lại
một mình bước đi trên con đường đó mang trên mớ tóc bạc cái nghề đạm bạc cao
quý, mang nặng nó trong đêm tối và mưa bão.
Mưa
vẫn đổ lớn. Hai thầy trò đứng sát vào nhau hơn. Thầy nhìn trò, gật đầu: “Các
anh đổi thay nhiều lắm. Trưởng thành cả rồi. Nhưng mà ở đâu và bao giờ các anh
vẫn nhận ra tôi, tôi vẫn nhận ra các anh. Anh thì vẫn còn nguyên vẹn cái nhìn
lơ đãng ra ngoài cửa lớp những buổi trưa mùa hạ.”
Y trả
lời: “Vâng, con vẫn thế. Con vẫn nhớ con như thế.”
Giọng
thầy trầm trầm trong tiếng mưa đổ rào rào: “Chúng ta vẫn thế.”
Đôi
mắt sâu của thầy nhìn xuôi theo con đường dài, qua màn mưa về tận cuối đường,
xa hơn cái xa của cuối đường: “Chiến tranh đổi thay hình thể những ngả đường
trên đó chúng ta đi. Tất cả trở nên khó khăn cực nhọc và chua xót hơn cũ. Những
ụ đất. Những hầm hố. Những chiếc cầu đổ. Hình như mưa bão cũng nhiều hơn.”
Và
thầy thở dài: “Chúng ta là những con người cũ đang tập đi trên những con đường
mới.”
Rồi
thầy quay lại hỏi: “Còn anh, bây giờ anh làm gì?”
“Thưa
thầy, con đi buôn.”
“Đi
buôn?”
“Con
bỏ học từ sau Cách mạng tháng Tám. Thuyền hàng của con chắc bây giờ đang ngược
dòng đi lên ở giữa khoảng Rót Rét. Con sẽ đón thuyền ở vùng Bương Cấn và nếu
đêm nay ngớt mưa sẽ đi thẳng tới Phú Thọ.”
Người
thầy “Thế à” một tiếng nhỏ rồi không nói gì nữa. Tính thầy vẫn ít nói. Mưa ào
ào trên đầu. Trước mắt họ dòng sông Đáy đục đỏ chảy đi hung dữ. Bãi xa mịt mùng
bên kia. Người học trò đứng lùi lại phía sau và nhìn thấy sát tầm mắt, những sợi
tóc bạc gió thổi lay tạt trên khuôn mặt mà trông nghiêng vẫn đựng đầy cái vẻ trầm
lặng cũ, những ngày xưa nhìn xuống y trên một nền bảng đen. Những kỷ niệm, những
hình ảnh của một lớp học vừa trở về lướt thướt và buốt lạnh trên khoảng đường
này. Những chùm hoa mùa hạ đỏ chói chang trên góc cửa sổ, sự hé mở của những giấc
mộng ban đầu nở từ những chùm hoa rực rỡ ấy, nhịp bồng bềnh đẩy đưa của tâm hồn
chạy đến những chân trời những thế giới hoang vu. Cánh bướm mỏng của niềm rung
động mới. Những tấm kính sáng trong. Tiếng giảng bài trầm trầm đi giữa hàng ghế.
Tà áo thâm và cái đỉnh mũ trắng. Những bục gạch mưa làm mòn cạnh đi lên từng cửa
lớp. Lối kiến trúc cổ kính của một mái trường xây cất trên nếp thành đổ nát cũ
lượn vòng giữa những hàng cây và những ao đầm. Thành phố ở dưới với tiếng hú
dài của một tiếng còi tàu kéo theo những vệt khói còn treo lâu trên nền trời. Ý
niệm thứ nhất về không gian trong chuyến đi tưởng tượng. Vụ hè sắp tới thấp
thoáng hình ảnh con đường mất hút dưới nắng.
o O
o
Y nhớ
thầy đã về sau một buổi tựu trường có nhiều thuyên chuyển. Cũng một buổi sáng
mưa lớn. Có tiếng giày từ ngoài hành lang đi tới. Thầy vào, đứng lại một giây
nhìn mọi người, nói: “Chào các anh”, đoạn đi thẳng lên bục cao. Giờ học thứ nhất
được dành cho sự làm quen nhau. Người thầy bày tỏ nỗi vui riêng sau mười mấy
năm ở rừng được đổi về một trường thành phố.
Thầy
nói: “Trường cũ ở sát biên giới Hoa-Việt, học trò nửa Kinh nửa thiểu số. Trên ấy
đêm rừng dài và buổi sáng nào cũng dầy đặc sương trong lớp học vừa mở cửa. Rừng
thì trùng điệp ở chung quanh. Sân trường đôi khi còn in những dấu chân thú dữ.
Và rét thì rét ghê rét gớm. Các học trò chân tay cũng cóng buốt và mặt mũi xám
tái lại. Phải đóng kín cửa cho hơi nóng truyền đi một lúc sau mới làm việc được.”
Hình
ảnh của một lớp học biên giới được gợi lên bằng giọng nói đặc biệt trầm trầm.
Cái lối kể chuyện của thầy cũng khác. Và ngay lập tức, trong số bốn mươi lăm học
trò chăm chú lắng nghe, từ một chỗ ngồi tận đáy lớp nhìn lên, y cảm thấy mến
yêu ngay người thầy học mới. Một nỗi mến yêu đặc biệt chưa từng có. Tưởng như một
khám phá, một đổi thay lớn.
Trong
một cuộc đời học trò, từng năm học đi lên, mỗi năm lại gặp một người thầy,
nhưng trong tất cả những người thầy đó, thường vẫn chỉ có một người mà về sau
lúc đã giã từ cửa lớp, ở mãi chỗ sâu xa cách biệt trong cuộc đời, mỗi lần nhớ lại
là người học trò lại nhớ trước nhớ ngay đến người thầy ấy. Tại sao? Có thể vì một
nét mặt, một giọng nói, được khắc sâu hơn vào dĩ vãng. Có thể vì một sự bắt buộc
nào đó, trừu tượng và siêu hình, khiến cho tương quan tình cảm vượt khỏi mức
bình thường, chứa đựng một ý nghĩa rộng lớn hơn.
Bài
luận đầu tiên của y được nhiều điểm nhất lớp. Một sự lạ. Ba hôm sau khi thầy trả
bài, gọi đến tên, ngợi khen và mỉm cười bảo y hãy đọc cho cả lớp nghe một đoạn
văn hay, y đứng dậy, tờ giấy trên tay run run, và giây phút đó đã là cả một dấu
son rực rỡ trong cái lịch sử học trò của y từ trước đến nay vốn rất tầm thường
tăm tối.
Y lười
và lơ đãng. Trên tất cả các môn học, điểm số bao giờ cũng ở dưới cùng. Một sự đội
sổ toàn diện. Suốt đời y nhớ mãi cái giờ học lịch sử ấy của một tên học trò đội
sổ ngồi tối tăm ở cuối lớp, lần đầu đứng lên ngượng nghịu, hồi hộp đọc cho cả một
lớp im sững thán phục thành công thứ nhất của đời mình. Ngồi xuống còn cảm động.
Cả lớp
không tìm hiểu được nguyên nhân sự đổi thay đột ngột này. Chính y cũng không hiểu.
Y đã viết bài luận ấy cho một người xem, nó là cái biểu tỏ cụ thể của một tình
cảm chân thật và tốt đẹp gửi đến cho một người thầy đã tả được một cái trường học
biên giới bằng “những dấu chân thú dữ” và “sương trắng dầy đặc cửa lớp buổi sớm.”
Mưa
vẫn đổ lớn.
Buổi
chiều như đã muốn đến từ bãi sông bên kia. Trời thấp và xám. Con thuyền đầy hàng
ngược dòng ở giữa khoảng Rót Rét bồng bềnh trong ướt lạnh còn là điểm vui ấm bé
nhỏ so với tâm sự của người thầy mất trường, không biết sẽ về một nơi nào trong
mưa bay.
Hai
người cùng cúi đầu suy nghĩ.
Thầy
nói: “Anh vừa nói hiện anh đi buôn đấy nhỉ?”
“Dạ.”
“Các
anh làm thật nhiều nghề. Mỗi người một đường. Cuối tháng trước tôi có gặp một
anh không rõ đã học tôi năm nào, làm khẩn hoang ở một đồn điền Nho Quan. Vùng ấy
lam chướng, nước độc, rất có hại cho sức khỏe. Trông anh ta xanh yếu đáng ngại.
Cứ như anh đi đây đi đó trên một con thuyền, có lẽ lại hay hơn.”
“Kể
thì mấy năm nay, từ ngày ra trường con chưa từng có dịp được đi nhiều, thấy nhiều
như bây giờ. Nhưng nghề buôn không phải là một chí hướng thích hợp. Nhiều lúc
con vẫn cảm thấy đang làm một việc vô ích.”
Người
thầy đáp: “Tôi biết. Nhưng chúng ta bây giờ thường vẫn phải làm ngay cái việc
nhìn thấy trong tầm tay với mà không có quyền từ chối, lựa chọn. Thế hệ các anh
biết bao nhiêu người hiện đang đứng lạc vị trí, băn khoăn tìm đường. Ở tuổi các
anh thật đau đớn. Chúng tôi thì không nói làm gì. Nhiều lúc cực nhọc vất vả,
tôi vẫn thầm cảm ơn trời còn cho mình được cầm cái thước kẻ giảng bài. Tôi làm
gì khác được nếu thôi dạy học?”
Thầy
cười khẽ: “Thói quen của nghề nghiệp đấy: Thấy các anh là hỏi về dự định vào đời.
Không thích đi buôn, anh muốn làm gì?”
“Có
một lần trong giờ luận, thầy nói đùa con có thể trở thành nhà văn, con vẫn ao ước
thực hiện được câu nói đùa ấy.”
“Thế
ư! Tôi không nhớ nữa, nhưng nếu có nói thì nói thực đâu phải đùa. Phải rồi, Việt
văn là môn học xưa kia anh ham thích nhất.”
Giọng
thầy trở nên ân cần: “Cố gắng đi. Biết đâu chẳng một ngày tôi được đọc văn của
một người học trò cũ là anh. Niềm an ủi lớn nhất của một người thầy vẫn là được
thấy người học trò cũ của mình đi vào tương lai trên lối đi đã được phác định từ
trong cửa lớp.”
Mưa
bỗng ngớt đi, tiếng đổ ào ạt dừng lại. Mé sông bên kia, bờ bãi mịt mùng ban nãy
nổi lên dần dần. Nhưng vòm trời thì vẫn thấp nặng và nghi ngút hơi nước. Trận
mưa lớn vừa ngớt chỉ để sửa soạn cho một trận mưa lớn khác sắp đổ xuống.
Hai
người ra khỏi gốc cây. Người thầy nhìn lên trời: “Đã có thể đi được rồi. Tôi phải
đi xuống Ty bây giờ cho kịp.”
Thầy
quay lại, cánh tay gầy yếu đặt lên vai người học trò cũ: “Lâu lắm mới gặp nhau
tôi cám ơn các anh còn nhớ đến tôi. Các anh bây giờ đã khôn lớn cả, đã tự trưởng
thành trong những kinh nghiệm, tôi cũng không có điều gì phải khuyên bảo nữa.
Thôi anh ở lại.”
Giây
phút giã từ này thật là cảm động.
“Con
ân hận không được gặp thầy lâu. Con theo thuyền độ nửa tháng bán hàng xong rồi
sẽ trở lại vùng này. Xin thầy địa chỉ để con được lại thăm trường mới.”
Người
thầy gạt đi: “Chính tôi hiện giờ cũng không biết rồi sẽ được thuyên chuyển đi
đâu. Liên khu trong, một trường mới mở trong núi hay là nghỉ dạy vĩnh viễn không
chừng. Chắc khó gặp lại, anh còn nhớ đến tôi là đủ và đừng băn khoăn về vấn đề
tìm thăm tôi.”
Người
thầy bước đi, cái bị cói nằm trên bờ vai gầy, gậy trúc chống xuống đường lầy. Y
chạy theo thầy: “Con đi buôn cũng không đến nỗi túng thiếu lắm. Thật tình không
dám nghĩ đến chuyện trả ơn, nhưng con có giúp thầy được điều gì không?”
Người
thầy lắc đầu mỉm cười: “Tôi một thân một mình cũng không cần gì. Cám ơn anh.
Thôi anh trở lại.”
Y đứng
sững giữa con đê nhìn theo bóng dáng cổ kính của người thầy. Cái bị cói, cái gậy
trúc, những sợi tóc bạc cứ nhỏ dần mãi. Rồi những cái điểm bé nhỏ ấy nhòa đi
sau màn mưa.
Y gặp
lại người thầy học cũ của y lần ấy là lần cuối cùng. Bán xong chuyến hàng, y
lên bộ về thẳng Vân Đình. Hỏi thăm Ty Học chính ở đó, y được biết người ta đã
nói với thầy là các trường bị phá hủy gần hết, phải đợi một thời gian để lập
trường mới và người thầy đã bỏ đi không để lại địa chỉ.
o O
o
Đến
nay đã mười tám năm.
Viết
văn, tôi thực hiện được cái ước vọng duy nhất của thuở nhỏ. Trong số những
nguyên nhân thầm kín thúc đẩy tôi, tôi ghi nhận lời thầy khuyên nhủ cố gắng
ngày nào trên quãng đường lầy.
Sự đổi
thay quyết định một đời người thường vì những nguyên nhân nhỏ. Ở đây có thể vì
lời khuyên của một người tôi kính yêu.
Từ
đó tôi không gặp lại thầy, cũng không trở lại một cửa lớp nào nữa. Nhưng kỷ niệm
còn giữ được của buổi học ấy, nỗi cảm động đứng giữa hàng ghế đọc bài luận ấy
cho cả lớp nghe – nhớ lại – vẫn đưa tôi trở về được với thế giới học trò. Nó nằm
trong chu vi một lớp học, nhưng rộng và riêng biệt đúng như một thế giới. Chùm
hoa phượng, những phiến kính sáng trong, cái đỉnh mũ trắng, những ngày hè chói
nắng. Câu văn đầu tay vụng dại, bỡ ngỡ. Trên tất cả, khuôn mặt trầm lặng của thầy
ngó xuống như một nỗi bình yên.
Bây
giờ đôi khi ngừng tay trên một trang bản thảo, lúng túng trước một danh từ, một
ý tưởng diễn đạt khó khăn, tôi lại thấy những hàng chữ dập dập xóa xóa trước mắt
bỗng phảng phất giống với trang giấy nháp của bài luận cũ. Hình ảnh người thầy
lúc đó lại hiện lên. Tôi muốn được gặp lại, để nói, ít nhất cũng một lần, với
thầy: “Những trang giấy này có được một phần lớn nhờ thầy.”
Nhưng
mà những dòng chữ tôi viết bây giờ chắc không bao giờ được biết tới những dòng
mực đỏ phê điểm ấy nữa. Buổi gặp mặt cuối cùng. Con đường xa hút dưới mưa trắng.
Số tuổi chất nặng lên cuộc đời đã xế chiều. Giọng nói trầm trầm ấy đã chìm lặng,
tôi linh cảm như vậy. Cái gậy trúc ấy chắc đã rời khỏi cánh tay gầy yếu, rơi xuống
một nơi nào đó, ở ngoài kia.
(Trong
tập truyện ngắn Chuyến tàu trên sông Hồng, 1969)
Những
mảnh vụn – Ngô Ngọc Bội (1929-2018) Truyện
đã cách đây hơn hai mươi năm. Trong một buổi chiều trời bắt đầu se lạnh, từ cơ
quan Mơ ôm về chiếc vỏ chăn tiết kiệm. Nét mặt cô vừa sượng sùng vừa hân hoan,
giơ trước mặt chồng:
− Em vừa mua được cái này. Cũng phải bình nghị mãi, nhà mình “hoàn cảnh” nhất mới
được ưu tiên.
Biền
đỡ cái vỏ chăn vội vàng giơ lên xem. Ðây là cái vỏ chăn hai lớp, can từ hàng
trăm những mảnh vải vụn, mầu xanh công nhân. Những mảnh vụn từ xí nghiệp may
nào đó, rồi một lớp người nào đó chắp vá thành chăn. Biền mừng và thốt lên:
− Thế nhà ta “hoàn cảnh” gì mà được ưu tiên?
Nét
mặt Mơ chợt xịu xuống, dằn dỗi:
− Anh còn không biết hoàn cảnh gì à?
Biền
sực tỉnh liếc nhìn vợ: Ôi… Mơ đã sắp tới ngày.
−
Anh xin lỗi em. Hoàn cảnh công tác của anh. Cái nghề phóng viên quèn trong chiến
tranh này, suốt năm, suốt tháng lang thang, hết Quảng Bình, Vĩnh Linh, lại Hàm
Rồng, Long Ðại, ở nhà em tự lo như vậy, thật cảm ơn.
Nhưng
còn nét mặt ỉu xìu trầm lắng của Mơ, không chỉ hàm chứa giận chồng về mặt vô
tâm, nó còn khắc sâu nhiều điều khác nữa. Trong đó có một điều, từ khi vợ chồng
cưới nhau, cho tới nay đã hai năm, việc sắm sửa đầu tiên cho cái tổ ấm sáu mét
vuông này chính là cái vỏ chăn tiết kiệm. Nó cũng trị giá bằng một phần tư số
lương tháng của vợ anh. Biền an ủi vợ:
− Thôi, đừng buồn nữa em. Có cái vỏ chăn này chúng mình cũng đỡ lo một phần.
Bốn
tháng đi phục vụ chiến dịch Quảng Trị, khi quay về thì Mơ đã sinh cái Lợi được
hai tháng. Lúc ấy trời vẫn còn lạnh. Biền ôm chiếc vỏ chăn ra bàn làm việc của
cơ quan căng màn ngủ. Anh thầm nghĩ: nếu không có cái vỏ chăn này không biết tối
nay anh sẽ chui vào đâu.
Chẳng
biết cái vỏ chăn có bao nhiêu mụn vải, mụn lớn nhất bằng bao diêm, nhỏ nhất bằng
lá lúa. Có lúc lẩn mẩn Biền đã đem ra đếm thử, nhưng lẫn lộn lung tung, nó chẳng
ra hàng lối gì. Nó chỉ là cái vỏ chăn, nhưng nhờ những mép vụn còn ùn lại phía
trong tạo thành một lớp mền dày, giữ hơi ấm tuyệt vời. Nó nặng tới bốn cân. Nó
chẳng mỏng manh như vỏ chăn “con công” của các cô gái. Không đếm được rành mạch
từng mảnh vụn, Biền lại nghĩ tới người nào đó, chẳng biết ở hoàn cảnh nào đã kỳ
công khâu thành? Có phải là một cô gái đang “phục hồi nhân phẩm”, hay một bà
già không có công ăn việc làm. Người ấy chắc phải có tính kiên trì lắm. Khéo
tay và sắt se lắm mới làm nổi. Ðây là một công trình lao động. Công trình mỹ
thuật, chứ không còn ở phạm trù “tiết kiệm” nữa.
Sống
trên mặt bàn làm việc của cơ quan và cái buồng xép sáu mét vuông, vợ chồng con
cái Biền cũng trụ được tới chín năm. Vì cơ quan xa, sáng ra Mơ phải đi rất sớm.
Còn Biền trở dậy ôm tất cả chăn màn về buồng vợ. Nhưng rồi anh phát hiện ra
ngay ở những kẽ tủ, kẽ bàn làm việc có thể nhét chăn màn vào đấy và khẽ nói với
bà phục vụ cho anh để nhờ. Rồi anh tình nguyện riêng buồng này anh sẽ chịu
trách nhiệm làm vệ sinh. Khi anh em trong phòng đến làm việc, thì Biền đã chững
chạc ngồi tại bàn mình. Anh em khen: “Ông Biền lúc nào cũng là người giờ giấc
nghiêm túc nhất!” Biền chua chát: “Tôi nhập được cách sống của loài chuột, loài
gián đấy, ông ạ.”
Thế
rồi năm thứ mười vợ chồng Biền dùng cái vỏ chăn tiết kiệm, anh được cơ quan
phân phối cho căn hộ mười tám mét vuông trên tầng năm − một ngôi nhà tập thể lớn,
cạnh cái hồ nước mới đào của thành phố. Về nhà mới, hai năm đầu chưa có điện nước.
Vợ đi làm xa, ngày nào Biền cũng phải đem quần áo của cả nhà xuống hồ giặt giũ,
và gánh bảy gánh nước lên tầng đổ vào thùng phuy cho vợ con dùng.
Sống
như thế nhưng đời đâu hết hoạn nạn. Mơ lâm bệnh tim. Ba năm trời anh đèo vợ đi
hết bệnh viện Tây y lại sang Ðông y. Rồi Mơ qua đời. Chôn cất vợ xong anh không
dám hủy bỏ thứ gì vợ chồng đã dùng. Kể cả những bộ quần áo tàu tàu của Mơ, anh
đều giặt cẩn thận rồi gấp cất đi. Anh muốn giữ hơi hướng của Mơ mãi mãi. Cũng
có thể những thứ ấy sau này cái Lợi sẽ phải dùng. Nếu không thì cho người thân
của anh, của Mơ còn muôn vàn thiếu thốn. Cha con sống quá khổ cực thiếu thốn
như vậy, Biền chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ bước đi bước nữa. Anh chỉ nghĩ chăm lo
học hành cho con gái.
Mười
bảy năm Biền dùng cái vỏ chăn tiết kiệm cũng là cái Lợi vừa 17 tuổi, cái Lợi vừa
học chữ lại vừa học máy khâu, đi khâu thuê. Một hôm nó ôm về cái vỏ chăn hoa vải
Nam Ðịnh. Mặt cái Lợi tươi hơn hớn, chứ không ỉu xìu như mặt mẹ nó ngày xưa ôm
cái chăn tiết kiệm về. Nó đưa cho Biền:
− Thôi, hôm nay thì bố phải vứt cái vỏ chăn đi, con biếu bố cái này.
Nó sầm
sập ôm vỏ chăn tiết kiệm lao xuống cầu thang. Biền ngồi lặng đi, chẳng ra đồng
ý cũng chẳng phản đối. Khi cái Lợi qua khỏi nhà, Biền quay ra ban công nhìn xuống
bãi rác ở ven hồ. Nơi đó có hai ba người đang bới rác bằng cái cời sắt. Khi thấy
cái Lợi ôm rác ra họ đều ngừng tay, ngóng chờ. Ðứng trên nhà Biền cũng thấy hồi
hộp. Khi cái Lợi vứt cái vỏ chăn xuống bãi rác, mọi người xúm lại lấy cời bới
tung tung ra. Biền nghĩ thế nào cũng có người nhặt. Dầu sao thì vẫn còn dùng được.
Nếu không đem bán cho hàng giẻ rách cũng có giá. Nhưng lạ chưa, họ lại lấy cời
cời lại lẫn với rác bẩn. Họ chỉ nhặt giấy vụn, ni-lông và những mảnh nhôm. Biền
thấy ruột quặn đau. Khi cái Lợi quay lên, Biền khẽ nói với con:
− Con ạ, con vứt đi bố thấy băn khoăn lắm. Vì dầu sao nó vẫn còn dùng được. Hai
nữa nó đã đi gần suốt cuộc đời của bố mẹ. Khi con mới là hòn máu trong lòng mẹ
con.
−
Thì dùng mãi rồi bố cũng phải “hóa kiếp” cho nó chứ?
−
Không, nhưng mà bố còn một băn khoăn lớn nữa, bố chưa được gặp cái người khâu
ra nó.
− Ôi
dào, bố hay cả nghĩ. Coi chừng, bố lẩn thẩn rồi đấy. Cái người khâu ra nó chắc
cũng đã được hóa kiếp rồi.
−
Không, con phải xuống mang về cho bố. Nếu không bố sẽ không chịu nổi.
− Thế
bố định giữ tới bao giờ?
−
Bao giờ bố xuống lỗ thì con chôn theo cho bố. Về dưới ấy bố mẹ sẽ lại đắp
chung.
Cái
Lợi chạy xuống ôm vỏ chăn về, nó giao hẹn với Biền:
− Ðem về thì đem nhưng bố không được đắp nữa. Nhà mình trống trải chẳng có buồng,
chẳng có màn gió. Bố đắp, khách khứa đến chơi, người ta cười con.
Vụ
rét tiếp theo Biền đem trải lên chiếu nằm. Cái Lợi sắm thêm cho bố cái ga bằng
vải hoa, mầu hoa cà phủ lên vỏ chăn cho khuất. Nó ý tứ vì biết bố rất yêu mẹ
nó. Bố dùng mầu hoa cà mới hợp.
Con
gái Biền học giỏi. Tốt nghiệp đại học nó được phân công đi phụ giảng ở trường Ðại
học sư phạm hai. Cách chỗ ở hơn ba mươi cây số. Thế là niêu cơm của hai bố con
Biền phải chia đôi. Lúc này Biền đã ở tuổi năm mươi, sức khỏe thuộc loại B. Mỗi
lần về thăm bố, cái Lợi tỏ ra sốt ruột:
− Thế bố vẫn chịu sống thế này thôi à bố?
− Thế
con bảo bố sống thế nào?
− Chắc
phải hóa kiếp cái vỏ chăn kia đi thì rồi bố…
Nói
thế, nhưng không bao giờ cái Lợi dám “xúc phạm” tới cái vỏ chăn tiết kiệm. Biền
nói với con:
− Thôi thì con cố ở trên ấy vài năm, rồi dần dần xin chuyển về gần bố. Mà có
yêu thằng nào cũng phải yêu cái thằng nó có hộ khẩu ở nội thành. Rồi đưa nhau về
đây mà ở.
o O
o
Thế
là lại qua đi vụ rét thứ hai mươi hai Biền dùng chiếc vỏ chăn tiết kiệm. Hôm
nay trời nắng to, anh mang nó ra hồ giặt. Vừa mới xát bàn chải lên chăn thì từng
đường chỉ khâu mủn tung ra. Hai mươi hai năm rồi còn gì nữa. Nhưng anh vẫn
không chịu bỏ. Anh gượng nhẹ giặt cho sạch, rồi giăng lên bức rào gần đấy,
phơi. Làm xong mọi việc vệ sinh trong nhà để đón mùa nắng ấm thì đã một giờ chiều.
Anh hạ lưng nghỉ và chợp đi một giấc. Chợt có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ vừa rụt
rè, nhút nhát vừa hấp tấp. Biền rút chốt hé cửa. Trước mặt anh là người đàn bà
rách rưới bẩn thỉu. Ðầu đội nón mê, tay xách bị cói. Thấy Biền chị ta lắp bắp,
sợ sệt:
− Em làm phiền bác quá!
− Ăn
xin chứ gì? Biền đang định quay vào lấy ví thì người đàn bà nói nhanh:
− Vâng, em đi ăn xin, nhưng lúc này lên với bác em không phải để ăn xin. Bác là
bác Biền có phải không ạ?
− Phải.
Thế có chuyện gì?
−
Cái vỏ chăn phơi ở dưới kia là của bác ạ?
−
Ðúng. Thế thì sao?
− Có
phải bác đã dùng hơn hai mươi năm nay?
−
Ðúng. Làm sao mà cô biết?
−
Chính tay em đã khâu ra nó!
−
A…a… a! Thật à! Thế thì mời cô tạm vào trong nhà.
Người
đàn bà len lén bước vào góc nhà.
− Cô
ngồi xuống kia, tôi pha nước cô uống.
Người
đàn bà trấn tĩnh dần. Và cố tranh thủ thanh minh để cho chủ nhà chóng tin:
− Nhìn thấy cái vỏ chăn ấy, người em sửng sốt nóng bừng bừng. Cứ thấy như cả cuộc
đời đã qua của mình hiện lên. Em đi gõ cửa từng nhà, từ tầng một đến tầng ba.
Có một bà già phúc hậu bảo vỏ chăn ấy là của bác Biền trên tầng năm, nên em mới
tìm lên chỗ bác.
Biền
cảm thấy có cái gì như mộng ảo, như huyền thoại. Nhưng anh vẫn chưa dám tin và
đang nghĩ cách thẩm tra:
− Có gì chứng minh là cô đã khâu cái chăn ấy?
− Em
làm thì em nhớ, mặc dầu đã hơn hai mươi năm rồi. Bác đem về bác đếm nó sẽ là
1.534 miếng vụn. Không đúng thì bác có quyền lột xác em.
−
Làm sao mà đếm được, nó sẽ lẫn lung tung.
− Nếu
vậy, em sẽ đếm cho bác coi.
−
Chuyện lạ đấy. Vậy cô ngồi uống nước, tôi sẽ mang lên ngay.
Nhờ
trời nắng to, cái vỏ chăn đã khô cong. Người đàn bà ôm vỏ chăn vào lòng nước mắt
dàn dụa:
− Bác cho em xin một viên phấn.
Biền
mở ô kéo chiếc máy khâu của con gái, đưa cho người đàn bà viên phấn mầu. Người
đàn bà đứng lên:
− Bác cho em trải cái vỏ chăn lên giường của bác. Em cứ đếm đúng một trăm thì
bác gạch một gạch vào mảnh giấy của bác.
Biền
lấy giấy bút ra. Người đàn bà vạch phấn lên từng mụn vải một. Miệng đếm một,
hai, ba, bốn… một trăm. Hiểu ra cách đếm của người đàn bà, Biền òa lên sung sướng.
Người đàn bà thấy chủ nhà vui cũng hồ hởi dần:
− Ngày xưa khâu xong cái nào em cũng đều phải đếm như thế này để ghi công. Tý nữa
đếm xong em sẽ dở cho bác xem con số mà em đã ghi ở trong lần trái cái chăn
này, sợ lâu ngày thế, nó có còn nhìn thấy hay không. Xong rồi! Bác thử cộng xem
có đúng với con số em nói với bác không?
− Cô
bảo là bao nhiêu nhỉ?
−
1.534, bác ạ!
−
Ðúng. Chịu “thầy!”
Người
đàn bà lại hăm hở lật trái chiếc chăn. Tít mãi tận góc cuối cùng có miếng mụn bằng
con tem vẫn còn ghi nguyên con số trên, bằng mực cửu long, khá rõ. Hai người
nghỉ tay và cùng uống nước. Biền nhìn người đàn bà, trầm ngâm:
− Ở hoàn cảnh nào mà cô chịu ngồi khâu cái vỏ chăn như thế?
−
Chuyện dài lắm chẳng biết bác có chịu nghe hay không?
Lúc ấy
trời đã gần tối. Nỗi băn khoăn của Biền hàng chục năm nay, lần này có cơ tháo gỡ.
−
Thôi được. Nếu vậy thì hôm nay cô nghỉ lại đây. Chắc bây giờ cô cũng chẳng còn
biết đi đâu.
− Ở
lại đây rồi bác gái về bác ấy xé xác em!
− Vợ
tôi mất từ lâu rồi. Hôm nay thứ tư, con gái tôi nó cũng không về. Cô ở lại với
tôi không vướng bận gì. Rồi cô kể cho tôi nghe câu chuyện của cô. à, hàng ngày
thì cô ở đâu nhỉ? Tên cô là gì nữa?
−
Tên em là Xuyến, Minh Xuyến. Quê em ở dưới đồng bằng. Dưới quê em có một túp
nhà, mẹ em để lại, và ba sào ruộng khoán. Nhưng mẹ em đã chết lâu rồi. Quê em
có tập quán xấu. Rỗi rãi là hay rủ nhau đi ăn xin. Ði ăn xin người ta bịa ra đủ
mọi hoàn cảnh: Bị bão lụt, bị hỏa hoạn, bị nhỡ đường, bị trấn lột. Bị con ốm nằm
bệnh viện lâu, bây giờ ra viện không có tiền về quê… Nghĩa là nói thế nào cho
người ta xiêu lòng.
− Thế
cô cũng đi “hành nghề” lâu rồi à?
−
Cũng đã sáu bảy năm nay.
−
Nhưng ở hoàn cảnh nào thì dễ xin nhất?
− Dễ
nhất là có con mọn ôm trên tay.
− Thế
lần này lên không có con thì cô nói thế nào?
− Cứ
bảo là bệnh tật, là đi kinh tế mới, bị trấn lột ngang đường, cũng tùy cơ ứng biến.
Nhìn từng đối tượng mình xin mà bịa ra cho hợp.
− Cô
cũng nhiều kinh nghiệm đấy.
−
Vâng. Nhưng lần này em lên là vì có con bạn nhắn lên. Nó tên là Thu. Bạn từ
ngày còn ở thanh niên xung phong chống Mỹ. Nghe nói nó mới có con. Nhưng lên tới
nơi thì buồng nó khóa cửa. Hỏi người ta bảo Thu bế con về thăm bà ngoại, em mới
lang thang tới đây.
− Thế
cô là thanh niên xung phong?
−
Vâng. Cả cái Thu nữa. Chúng em đi đợt năm 1966. Hết đợt một, năm 1969 cái Thu
quay ra đi học. Em đăng luôn đợt nữa đến năm 1972.
− Thế
cô khâu cái chăn ấy vào dịp nào. Nhưng thôi, để đến tối kể.
− Ðời
cái Thu cũng khổ cực lắm, anh ạ. Nhưng nó hơn em là có con và được ở thành phố.
Hơn bốn mươi tuổi mà có con được thì mừng lắm. Nhưng nó có con rồi lấy gì mà
nuôi con. Cái cơ quan của nó suốt ngày “đoán gió dò mưa” nghèo như xơ mướp.
−
Thôi được. Cô đi tắm đi. Tôi chạy ra chợ kiếm thức gì về thổi cơm.
− Em
không có quần áo thay. Ði ăn xin em chỉ mặc thế này thôi. Về với cái Thu em
thay bằng quần áo của nó.
− Gớm
ghiếc lắm, bẩn thỉu lắm. Người đã may cho tôi cái chăn tôi đắp hai mươi năm
nay, không được bẩn thỉu thế này. Vừa nói Biền vừa mở hòm lấy ra bộ quần áo của
Mơ − Ðây là quần áo của vợ tôi ngày xưa, cô mang thay. Trong buồng tắm có xà
phòng, có nước bồ kết. Cô tắm gội cho sạch, tôi đi một lúc tôi về.
Ðường
từ nhà ra chợ, trong lòng Biền khấp khởi: biết đâu đây chẳng là số kiếp. Ra phố,
Biền cố ý loăng quăng để cho Xuyến có nhiều thì giờ. Khi về, Xuyến đã mặc bộ đồ
của Mơ đang đứng trước gương chải tóc. Trông Xuyến đã thay đổi hẳn. Xuyến
nguyên là một cô gái đẹp. Nhưng nay thì đã quá tàn tạ. Nhìn thấy Biền về, Xuyến
tỏ ra bẽn lẽn:
− Trông em có giống chị ấy ngày xưa chút nào không anh?
− Chỉ
giống đều là đàn bà thôi. Vợ anh ngày xưa đậm người, còn em thì mỏng như tờ giấy.
− Em
ngày xưa to khỏe lắm, anh ơi. Ngày xưa em năm mươi ba ki-lô, bây giờ em chỉ còn
bốn mươi ba ki-lô thôi.
Cũng
là một cử chỉ rất tự nhiên, khi hai người khác giới cô đơn sống bên nhau, lại
có những hoàn cảnh rất thuận lợi. Biền đi lại phía Xuyến, quàng vai Xuyến cùng
ghé vào gương − “Chúng mình cũng vừa đôi đấy chứ nhỉ.” Xuyến liền ngả đầu vào
Biền, hai người dìu nhau lại giường. Xuyến trơ ra như một khúc gỗ mục.
− Em
làm sao thế?
− Em
chẳng làm sao cả.
−
Như khúc gỗ mục thế này à?
− Em
không biết. Có bao giờ em…
Chợt
có sự thức tỉnh của đạo đức, Biền buông Xuyến ra. Xuyến vùng lên ôm ghì Biền xuống:
− Em van anh, em lạy anh, anh đừng khinh em, đừng bỏ em. Gần chót đời em chưa
biết thế này là thế nào. Anh cho em được làm đàn bà với. Chả nhẽ chết đi em vẫn
là… Cái Thu nó đã có con. Nó đã mãn nguyện. Em tội lỗi gì mà đời hắt hủi em.
Thực
tình Biền cũng không phải là người tuyệt đối đứng đắn. Các cụ bảo rằng: “Rắn đến
nhà chả đánh cũng quái…” Anh lại ôm Xuyến và lăn lộn xoay xở đủ vành. Nhưng Xuyến
vẫn cứ trơ trơ.
− Khốn
khổ, em không còn là đàn bà nữa rồi.
− Ai
bảo anh thế, em còn tất cả.
−
Ðúng, nhưng nó chỉ còn là cái xác thôi. Không có cái hồn nữa. Ngực của em đã
teo hết. Chỉ rõ hai cái núm nhỏ như ngực đàn ông. Nó vô dụng.
− Thế
là hôm nay em được đắp chung với anh cái chăn tự tay em khâu. Ðây là cả đời con
gái của em… Biết đâu trời phật đang định trả công cho em. Ðời em vất vả lắm,
anh ơi. Bố em chết trẻ. Khi bị truy bức, bố em tự sát. Mẹ em ở vậy nuôi em ăn học.
Bà ngầm thu vén em nên người để trả nợ cho đời. Năm mười lăm tuổi em đang học lớp
tám nhưng người em đã phổng phao đầy đặn. Giữa lúc phong trào đi thanh niên
xung phong, phục vụ chiến trường nổi lên rầm rộ. Em xin đi, mẹ em buồn nhưng
không ngăn cản. Ông cậu ruột em lúc ấy là chủ tịch xã, khai tăng cho em hai tuổi
để em được đi. Lúc đầu ra đi chúng em đóng quân ngoài Quảng Bình, sau dần dần
chuyển vào tuyến trong. Những năm đầu em rất khỏe. Ba năm liền không phải thuốc
thang. Nhưng từ năm thứ ba trở đi thì em ốm quặt quẹo. Mái tóc rụng gần hết,
kinh nguyệt thất thường. Thế rồi mất hẳn. Hồi ấy bọn nữ chúng em một trăm phần
trăm mất kinh nguyệt. Nhưng tuổi thanh niên đang hăng hái chúng em cứ ào đi.
Không thấy có kinh nó lại giúp mình đỡ phiền hà. Vì ở chiến trường đâu đâu cũng
thiếu nước, thiếu điều kiện làm vệ sinh. Em đã mất tới gần một năm. Rồi một chị
bác sĩ vào khám sức khỏe. Chúng em nói ra chuyện ấy, chị bác sĩ nghe nét mặt cứ
tái xám. Vội vàng đề nghị với cấp trên cho chúng em lui ra Quảng Bình điều trị.
Hồi ấy chúng em gồm mười bốn chị em. Vì chúng nó mới bị nên chỉ vài tháng là phục
hồi. Riêng em vẫn cứ trơ trơ. Trạm xá chuyển em ra điều dưỡng dài hạn ở đồng bằng.
Trạm điều dưỡng toàn là người què cụt, hay thần kinh. Riêng em chẳng sao cả, chỉ
thấy người dần dần khô đi. Ðiều dưỡng gần một năm thấy em ngán quá. Suốt ngày
chỉ chực hai bữa ăn, lại ngủ, lại đánh tú lơ khơ. Nhiều lần em đòi ra viện,
nhưng chị trạm trưởng nhất định không nghe. Chị động viên: “Em cứ phải kiên
tâm. Nhiệm vụ thanh niên xung phong là vô cùng cao quý, và đầy sự hy sinh. Người
chết thì đã chết rồi, ai thành thương tật thì đã có sở Thương binh ghi thương tật.
Còn em, em xin ra chị chẳng biết ghi cho em thế nào. Lương tâm chị là phải trả
lại quyền làm đàn bà cho em.”
Ðể
cho chúng em đỡ nhàn rỗi dễ sốt ruột, chán nản, chị trạm trưởng bày cho chúng
em tập máy khâu. Nhưng rồi lấy đâu ra vải mà khâu, trong chiến tranh cái gì
cũng khan hiếm. Chị trạm trưởng liên hệ với xưởng may cũng sơ tán gần trại. Người
ta cũng chẳng có vải cung cấp cho chúng em khâu. Xưởng may này chuyên may quần
áo bảo hộ lao động, họ cung cấp cho chúng em những mụn vải, hướng dẫn cho chúng
em can thành những cái vỏ chăn, cái áo gối… bán cho người tiêu dùng. Chính là
cái vỏ chăn này đây.
Em ở
trạm điều dưỡng hai năm, bệnh tình cũng chẳng khỏi. Hòa bình năm 1973, trại điều
dưỡng giải thể, em xin về với mẹ em. Vì lúc đó mẹ em đã già yếu, mà chỉ có một
mình em.
Thế
rồi em nhận được thư của cái Thu gửi về qua địa chỉ của mẹ em. Nó cho biết, nó
đã ra trường từ lâu. Về công tác ở cơ quan “Ðoán gió dò mây.” Nhà riêng ở khu tập
thể X. Nó mong nếu em còn sống thì phải tìm lên chơi với nó. Ðường từ quê em
lên Hà Nội là 90 cây số. Con gái nông thôn như em nói tới lên Hà Nội có khác gì
như tìm đường lên cung trăng. Sáu bảy năm trời em không dám thò mặt đi.
Thế
rồi trận bão lụt năm 1988. Mấy bà trong xóm em rủ nhau lên Hà Nội ăn xin. Em
đòi đi theo, lúc đầu thấy em lành lặn mọi người không cho đi. Em kiếm được cái
bị rách và mấy bộ quần áo rách của mẹ em để lại. Hình như ngày em còn đi vắng mẹ
em cũng đi ăn xin. Ðoàn chúng em đi có bốn bà già và con mẹ Soạn có con nhỏ vừa
tám tháng. Con bé cũng kháu khỉnh. Mẹ Soạn thì mới vừa ba mươi hai tuổi. Người
nhẹ nhõm chắc lẳn da dẻ hồng hào. Nó vào loại “gái một con… mẩy mày sây hạt.”
Nhưng ra đi nó chuẩn bị rất chu đáo. Trong bị nó toàn đồ rách rưới. Nó mang
theo cả nghệ, lá han, phẩm xanh, nhựa xương rồng…
Từ
nhà lên Hà Nội chúng em đi tập thể. Ðến nơi trụ lại ở gầm cầu Long Biên. Trao đổi
hội ý xong mỗi người đi mỗi hướng. Em chưa thuộc thung thổ Hà Nội thì đi theo mẹ
Soạn, em đóng vai chị gái Soạn đi trông nom cháu ở bệnh viện. Cháu gái được mẹ
Soạn hóa trang băng hai mảnh băng. Riêng mặt thì mẹ nó xoa mỏng một lớp nghệ.
Vào nhà ai cũng thiểu não kể lể: Trận bão lụt vừa qua con nó bị tai nạn. Lên nằm
bệnh viện nhi hơn tháng nay, giờ ra viện hết sạch tiền gạo chẳng thể về được.
Bà con “lá lành đùm lá rách, xin sinh phúc…”
Thế
là gần như một trăm phần trăm người ta cho. Có người cho vài trăm. Có người hào
phóng cho cả ngàn đồng. Tối về lại tụ nhau ở gầm cầu. Em và mẹ con nhà Soạn chủ
yếu hoạt động ở các khu vực bệnh viện. Hết Bạch Mai, rồi Việt Ðức, Thanh Nhàn…
vẫn cứ cái giọng điệu như thế.
Lần
mò mãi em cũng tìm đến được chỗ cái Thu ở. Ðấy là một khu tập thể ba tầng. Tầng
dưới là các gia đình. Hai tầng trên là độc thân. Mỗi gian mười sáu mét, ở bốn
người. Bốn cái giường một, bốn cái hòm gỗ, bốn cái bếp dầu. Những thứ nồi niêu,
thùng gạo thì lèn dưới gậm giường. Ðến bữa thổi nấu thì tíu tít. Bốn cái bếp dầu
đốt bốn góc, khói bốc lên mù mịt sặc sụa. Em đã mò được tới buồng cái Thu. Nó ở
một mình dưới gầm cầu thang lên tầng ba. Hôm ấy em nép vào một chỗ theo dõi nó.
Ðã xa cách nhau mười chín năm nhưng cái Thu là loại xinh gái, lại biết ăn diện
nên nó cũng chẳng già đi bao nhiêu. Hôm ấy em không ra mặt mà lại quay về gầm cầu
Long Biên.
Hoạt
động ở Hà Nội hơn 10 ngày. Cuối cùng bà nào cũng được một bọc tiền. Các bà rủ
nhau về làm mùa, em xin ở lại ít ngày. Riêng mẹ Soạn bọc tiền càng lớn thổ lộ với
em: “Lần này về nó em sẽ mua thêm ít sắt thép đổ nốt cái mái bằng. Từ sang năm
trở đi thì không còn lo lụt bão nữa.” Em đưa tiễn mọi người ra bến xe, mẹ Soạn
đưa cho em ba mươi ngàn đồng, bảo đấy là công của em. Số tiền ấy em đi sắm một
bộ áo cánh cũng tạm tạm. Mua ít quà bánh, thuê xích lô đi thẳng tới chỗ cái
Thu.
Hôm ấy
cái Thu đang hí húi thổi cơm, em luồn tay qua đằng sau bịt mắt nó lại. Nó không
cựa mà cũng chẳng kéo tay em ra. Nó hỏi:
− Ai đấy nhỉ?
Em
ghé sát vào tai nó:
− Mày có còn nhận ra ai không?
− Ối
cha mẹ, mày có phải là con Xuyến không? Tiếng mày thì thầm vẫn y như hồi còn ở
Trường Sơn!
Thu
giật bung tay em ra, nó quay lại ôm chầm lấy em:
− Ối trời đất, con Xuyến nó còn sống thật. Hôm kia nó đã giả làm ăn mày đến đây
mà. Con Hảo nó nói: có một đứa ăn xin đến đây hỏi thăm tao. Con Hảo tả hình
dáng, tao đoán đúng là mày. Ðã đến đây thì thế nào mày cũng quay lại.
Hồi ấy
em ở lại chơi với chị Thu ba ngày. Ở cái khu tập thể này còn tới mười sáu chị
em luống tuổi chưa chồng. Cái ngành “Ðoán gió dò mưa” này cũng có những thời kỳ
lãng mạn. Ðào tạo ở trường xong nhiều chị em xung phong lên Mèo Vạc, Lũng Cú,
Sa Pa… rồi thì hải đảo xa xôi, hết tuổi thanh niên trở về già người ta mới cho
về xuôi. Cái Thu cũng là người “tốt” số. Vì có đôi chút nhan sắc, được ông trưởng
phòng tổ chức bao thầu cho về công tác ở Hà Nội. Tưởng là nên vợ nên chồng. Ai
ngờ anh ta bị tai nạn giao thông, chết. Cái Thu héo hắt mấy mất năm.
Thời
nào thì con gái có nhan sắc cũng hay gặp cuộc đời lận đận. Xong đận người yêu bị
tai nạn giao thông, Thu vẫn còn được nhiều chàng trai dòm ngó. Nhưng các chàng
trai đến nhà chơi cứ thấy bốn cô gái độc thân nằm bốn góc nhà, anh chàng nào
cũng ngán ngẩm bỏ đi. Cho đến năm ba chín tuổi, tuổi càng cao, má đào phai nhạt
dần. Thấy nguy to Thu mới giở quẻ phá bĩnh, gây mâu thuẫn với mấy cô cùng buồng.
Cày cục mãi ban quản lý cơ quan mới xếp Thu ở dưới chân cầu thang. Ở một mình
Thu lại trở nên đắt khách.
Có một
anh kỹ sư trạm trưởng trạm điện, tên là Sới tìm đến. Người anh ta thấp lùn cục
mịch nhưng chân thực, thiết tha yêu Thu. Hai người đã cam kết. Sới đưa bạn đến,
ra mắt người yêu. Anh này tên là Thắng. Thắng hào hoa phong nhã, đẹp trai, tiêu
tiền như rác. Không ngờ Thắng bập ngay được Thu. Ðạp thẳng Sới ra ngoài. Hai
người đã sắm sửa quần áo chuẩn bị làm lễ cưới, thì công an đến xích tay Thắng
lôi đi. Một tên tù trọng án vượt ngục lẩn trốn mấy năm nay. Truyện ấy xảy ra
Thu bị chị em chê bai hắt hủi cho là Thu “thả mồi bắt bóng”, đáng đời.
Nhưng
rồi mới đây em lại nhận được thư của Thu báo Thu đã có con. Nhận được thư nó em
khóc rưng rức. Ðời cái Thu thế là toại nguyện, còn đời em thì sao đây. Em chuẩn
bị vội vàng lên với nó. Nghĩ là dịp may hiếm có này vì nhờ có trẻ con, em sẽ bắt
chước mẹ Soạn, bế nó đi ăn xin. Thế nào cũng kiếm cho cái Thu một khoản vốn. Ai
ngờ lên đến nơi thì cái Thu lại vừa bế con về thăm mẹ mất rồi. Em mới lang
thang ra đây lại gặp ngay cái vỏ chăn của anh phơi.
Lần ấy,
Thu cũng hỏi em về hạnh phúc gia đình. Em kể hết đầu đuôi, nó bĩu môi chê em là
phong kiến, là cù lần. Em kể về bệnh tật, nó bảo như thế là chả có bệnh gì. Nó
bảo cơ thể mình cũng giống như cỗ máy để rỉ lâu ngày, bây giờ phải tìm cách lau
dần mà “khởi động” lại. Em hỏi thế khởi động bằng cách nào? Nó phá lên cười ngặt
nghẽo. Nó hỏi lại em: Thế mày có biết ôtô người ta khởi động bằng gì không? Em
trả lời là khởi động bằng bình ắc quy. Thế chẳng nhẽ lại đem bình ắc quy mà cắm
vào người mình.
Nó ấn
ngón tay vào trán em mà dằn dỗi:
− Sao mày ngu thế? Gần bốn chục tuổi đầu rồi mà còn ngu lâu. Mày là phải khởi động
bằng những thằng đàn ông. Những thằng đàn ông hám gái: cổ to, ngực nở, lưng gù…
−
Nhưng tao làm sao mà có được đàn ông?
−
Chuyện đó là ở mày.
−
Nhưng nào em có được như các chị. Ðôi lúc em cũng dùng đôi mắt để lườm liếc.
Nhưng ánh mắt của em nó vô hồn. Muốn dùng nụ cười để quyến rũ. Những nụ cười của
em nó méo mó gượng gạo. Muốn dùng lời nói ý nhị, thì câu nói của em cái giọng ồm
ồm, sống sượng, vô duyên. Thế mà tại sao anh lại bỗng nhiên…
− Có
thể vì em mặc bộ của vợ anh. Lúc đó anh tưởng là vợ anh hiện hình.
Biền
cùng nằm với Xuyến, đắp chung cái chăn do Xuyến khâu. Mà cũng chẳng thấy có tác
dụng gì. Cái chăn cũng là thứ vô sinh, đối với Xuyến. Nam nữ cùng nằm chung mà
Biền thấy hoàn toàn nguội lạnh, y hệt như nằm với người bạn trai. Nhưng tình
thương cảm của Biền đối với Xuyến lại càng dâng cao. Thấy mình phải có trách
nhiệm đối với Xuyến. Phải thực sự đóng vai trò như một “Bình ắc quy”, hay như một
thầy thuốc.
Thế
rồi hai người sống với nhau tới bảy tám ngày, Biền đã sử dụng hết khả năng
nhưng vẫn không giúp gì Xuyến được.
“Thôi
đành vậy em ạ. Chúng ta chẳng được làm vợ làm chồng thì làm người thân trong
nhà, như các cụ ta nói: ‘Chuyến đò nên nghĩa, buổi chợ nên quen’. Cuộc sống của
anh cũng là cuộc sống cô đơn. Từ nay em sẽ về với anh như tình ruột thịt.”
Xuyến
khóc và hứa với Biền: “Xuyến sẽ đưa cái Thu đến, để cùng nhận anh, nhận em với
Biền.”
Cái
Lợi về nhà nghỉ hè với bố. Nó cảm thấy có điều gì khác lạ trong nhà này. Thứ nhất
nó thấy bố nó thay đổi tươi tỉnh, vui vẻ hơn. Nhà cửa gọn gàng ngăn nắp hơn. Nó
thấy chiếc máy khâu của nó có ai sử dụng. Nó phát hiện ra cái vỏ chăn can hàng
trăm miếng vụn đã có ai khâu lại từng đường chỉ đã mủn nát, gói gém cẩn thận, xếp
gọn gàng trong ngăn tủ. Lợi gợi hỏi thì bố nó sẵn sàng kể lại hết. Lợi vội vàng
bỏ thời gian đi tìm hiểu kỹ chuyện này. Thế rồi Lợi đề nghị với bố: cho mời cả
dì Xuyến, dì Thu đến chơi. Lợi tổ chức bữa liên hoan.
Trong
bữa ăn Lợi đem chiếc vỏ chăn tiết kiệm ra, nghiêm chỉnh nói: “Mọi chuyện con đã
biết hết cả rồi. Cảm ơn dì Xuyến đã khâu nên cái vỏ chăn này. Nó đã đắp cho bố
mẹ con. Cả khi con còn là hạt máu trong lòng mẹ con. Con xin suốt đời giữ gìn
cái vỏ chăn này. Con nhận dì Xuyến là mẹ kế của con.”
Vừa
nói, mắt cái Lợi vừa cháy bỏng lên, vì niềm hạnh phúc bất ngờ đem đến cho bố
nó. Nhưng Biền thì não lòng. Biền không thể nói mọi điều sâu kín với con gái,
vì nó còn ngây thơ quá. Nó chưa đến tuổi để nói hết những chuyện của đàn ông,
đàn bà. Nó đang hồn nhiên dồn bố nó vào một bi kịch. Nhưng Xuyến đã đánh ánh mắt
sang cho Thu, gỡ bí cho Biền. Nét mặt Thu cứ dần dần đỏ tấy lên.
Biền
đứng lên nhận những lời tốt lành của con gái.
Hà Nội,
tháng 3 năm 1992
Ánh
trăng – Nguyễn Bản (1931- ) Hai
lần tôi ly hôn và giờ đây vẫn độc thân. Tại tôi tất cả hay phần nào tại chị?
Chị
hơn tôi năm tuổi, họ ngoại xa với tôi, theo luật hôn nhân bây giờ có thể lấy
nhau.
Chị
đẹp lắm, vì vậy lắm lời đồn đại những chuyện trăng hoa. Bố mẹ mất sớm, mười bốn
tuổi chị đã xuống Hải Phòng làm thuê cho một hiệu tạp hóa, người cùng làng.
Mùa
hè năm 1944, Hải Phòng khó sống, chị về làng ở với dì ruột. Thỉnh thoảng chị đến
nhà tôi chơi. Tôi mới ở tuổi thiếu niên mà đã ngẩn ngơ trước sắc đẹp của chị.
Chị thường mặc áo lụa mầu mỡ gà, ít khi vấn tóc, mớ tóc đen mượt chảy dài như
suối qua đôi vai tròn và đầy đặn xuống sau lưng chị. Mỗi khi nói, chị thường
hơi líu ríu, líu ríu nhưng giọng lại rung lên trong ấm lạ thường. Khi chị cười,
mà chị thường luôn cười, tất cả mặt chị đều cười, miệng cười, mắt cười, đôi mắt
đen cong lên, tóc và vai cũng cười theo. Da chị nõn nà, da và lụa như lẫn vào
nhau, những đường cong lằn lên trên quần áo như đang chuyển động. Tạo hóa như
không hề có chút khiếm khuyết nhỏ nào trên khuôn mặt và cơ thể chị.
Một
hôm, chị bảo nóng quá, tối xuống ngủ ở nhà tôi. Cha tôi không ưa chị, không nói
gì. Nhưng mẹ tôi vốn dễ dãi, bảo nhà rộng mát, chỉ có ba người, một dãy phản bỏ
không, cả chục người đến ngủ còn rộng.
Tối
chị đến, hình như vừa tắm gội xong. Tóc chị xõa ra để hong khô, thoang thoảng
mùi hương sả và từ da chị vẫn còn tỏa ra thứ xà phòng thơm ngậy như mùi phấn
rôm.
Bố mẹ
tôi buôn bán, cũng có của, một mình tôi một chiếc màn tuyn trên phản gỗ lát gần
ba chiếu, ở nhà trên năm gian hướng đông. Bố mẹ tôi ngủ ở nhà khách hướng nam.
Chị mặc bộ đồ lót lụa, chẳng để ý gì đến tôi, coi tôi như trẻ con, mặc dầu tôi
đã mười ba và đã đậu xéc-ti-phi-ca[1]. Ðã
thế chị còn trò chuyện với tôi như không, mãi rồi mới ngủ, còn tôi thì bồn chồn
xao xuyến trong lòng. Nhà hướng đông, nằm sát bậc cửa, ánh trăng tràn qua màn
tuyn tưới lên mái tóc và cơ thể chị. Chị nằm nghiêng, quay về phía tôi, khuôn mặt
tuyệt đẹp hơi ngửa lên như hứng trăng, hai tay vươn ra như đang đón ai, đùi nọ ấp
hờ đùi kia, hơi thở nhẹ nhàng. Từ người chị tỏa ra mùi phấn rôm và ánh trăng
cũng như tràn ra từ đấy. Tôi xao xuyến không hiểu từ làn da mịn màng của chị,
hay do ánh trăng, hay do mùi phấn, hay tất cả đã hòa quyện cùng nhau, thậm chí
tôi không còn phân biệt đâu là mầu lụa, đâu là ánh trăng, đâu là da thịt chị.
Tôi như không còn biết mình là ai nữa, đắm đuối, mải mê, hồi hộp nhìn chị, đôi
lúc nhìn lại thân thể da thịt mình buồn nản thấy mình vô nghĩa.
Mãi
tôi mới chợp mắt được, nhưng rồi cứ chập chờn, thỉnh thoảng lại mở to mắt xem
chị có thực không, còn ở bên tôi không hay đã biến mất. Tôi chợt ngủ, chợt thức,
một lần bỗng rùng mình nhận ra đùi chị mịn như nhung, lúc ấm, lúc mát, gác lên
đùi tôi. Tôi để yên không dám cựa quậy, sợ chị rút chân về. Lúc này trăng đã ra
khỏi nhà. Tất cả chỉ còn nhờ nhờ, càng làm tăng cảm giác về làn da chị. Tôi
không rõ mình ngủ thiếp đi lúc nào, nhưng chắc chắn, khi tôi bắt đầu thiếp đi,
đùi chị vẫn còn trên đùi tôi.
Sáng
ra khi tôi choàng tỉnh, chị không còn bên nữa. Tôi vùng ngay dậy tìm chị, xem tất
cả mọi chuyện đêm qua là thực hay hư. Chị đã rửa mặt và đang chải tóc. Chị cười
bảo tôi:
– Ðêm qua chị ngủ ngon quá! Mà sao em hay nói mê thế?
– Thế
à? Em nói mê những gì?
– Ú ớ,
ú ớ… nhưng hình như có lần gọi chị.
– Chị
có thưa không?
– Em
đang ngủ biết gì mà thưa?
Không
thấy chị đến ngủ nữa, tôi hỏi chị, chị bảo, hôm nào thật nóng và có trăng mới đến.
Rồi tôi nghe phong thanh người ta làm mối cho chị một người làm khăn mũ. Sau đó
là đám cưới của chị.
Cũng
may lúc chị cưới tôi đã ra học ngoài Hà Nội, nếu không tôi sẽ buồn. Từ đấy gặp
bất cứ người đàn bà đẹp nào tôi thường cũng đem so, nhưng chẳng ai có thể so với
chị.
Hè
năm sau, tôi nghe chị đã có con, nhưng được mấy ngày con chết và khoảng sau
Cách mạng Tháng Tám, chị bỏ chồng, xuống buôn bán ở tỉnh Nam.
Mỗi
năm tôi càng bước nhanh sang tuổi thanh niên, cùng với những biến đổi của giới
tính, tôi càng hay nghĩ đến chị, đến cái đêm trăng chị ngủ cạnh tôi. Tôi đã học
cùng bao nhiêu bạn gái, cùng lớp, dưới lớp, hầu hết con ông nọ, bà kia, chẳng
ai có thể so với chị, trừ một cô con một ông phán, học dưới tôi hai lớp, khá đẹp,
tôi đem lòng si mê ít lâu, nhưng tất cả mọi nét riêng, nét chung đều không thể
nào mượt mà, hoàn chỉnh như chị, kể cả nước da cô có phần trắng hơn, hồng hơn,
nhưng không thể lẫn vào lụa và trăng như da chị.
Ðôi
lúc tôi lẩn thẩn tự hỏi, nếu như bây giờ chị lại nằm cạnh tôi, hắt trăng ra như
thế, tôi sẽ làm gì, tôi có dừng lại mặc cho đùi chị gác lên đùi tôi để tận hưởng
làn da vừa ấm vừa mát hay không? Tôi, một học sinh chuyên khoa đã mười tám, mười
chín, tương đối đẹp trai? Tôi có còn cảm thấy mình vô nghĩa nữa không?
Mãi
tới năm 1952, một lần đi công tác, tôi mới lại gặp chị. Gặp chị giữa đỉnh đèo
Khế. Tôi từ phía Sơn Dương về. Chị từ phía Cao Vân sang. Chị mặc áo phin nâu,
gánh đôi tay nải.
Chị
nhìn thấy tôi trước:
– Cậu Hoàng!
Tôi
cũng nhận ra chị ngay, mấy ai có dáng người đẹp như thế.
– Chị
Vân!
Chị bỡ
ngỡ nhìn tôi:
– Cậu lớn quá rồi, lại xinh trai nữa.
Không
còn gì bằng được khen như thế, từ nay với chị, tôi không còn là trẻ con nữa.
Như một chàng trai thực thụ, tôi rủ chị tới ngồi nghỉ dưới một bóng cây bên
vách núi rìa đường.
– Cậu
vẫn đi học đấy chứ?
– Em
thôi rồi, em đi công tác.
Tôi
khoe luôn đã đi công tác cho oai, cho chị biết tôi đã là người lớn. Ai ngờ chị
lại hỏi tôi:
– Cậu đã học hết lớp sáu rồi đấy nhỉ?
Thế
đấy, tôi nóng cả mặt, tôi đã học xong tú tài, đã công tác ở một ban huấn học một
cơ quan trung ương; chị vừa khen tôi xinh trai, lại hỏi tôi như thế, tất nhiên
chị chẳng hiểu nghĩa lớp sáu thế nào, nhưng dù sao chị vẫn có phần coi tôi bé
nhỏ, trong khi tôi vẫn hằng xao xuyến mỗi đêm có trăng lọt vào giường tôi, mà lại
gặp nhau tình cờ giữa nơi thơ mộng ở rừng núi này. Tôi hơi giận, không trả lời
chị. Ðã thế chị còn cho biết chị đã lại lấy chồng, hai vợ chồng hiện ở Ðồng Bẩm,
Thái Nguyên.
–
Anh ấy làm gì? – Tôi hỏi sỗ sàng.
–
Anh ấy cắt tóc.
Tôi
hết giận, bỗng thấy thương chị, sao tạo hóa trớ trêu, một tạo phẩm tuyệt mỹ như
thế, cứ đặt vào những tình cảnh éo le. Tôi nhìn chị, chị lại còn đẹp hơn xưa, vẻ
đẹp hoàn chỉnh của người đàn bà đã phát triển đầy đủ. Chiếc áo phin nâu càng
làm tôn lên phần gáy trắng xanh thon thả, mắt chị càng như đen hơn.
Tôi
buột miệng:
– Chị đẹp thế, sao không kiếm một người xứng đáng, thiếu gì người!
Chị
thở dài:
– Các cụ bảo hồng nhan đa truân.
Tôi
lại càng thương cảm chị hơn. Sao tôi không phải là người khác họ, không lớn tuổi
hơn, hoặc ít ra bằng chị? Tôi đang nghĩ vẩn vơ thì một chiếc hen-cát[2] từ phía Cao Vân
bay xoẹt qua đầu. Chị hoảng hốt ôm chầm và dúi đầu vào ngực tôi. Một chiếc nữa
xoẹt qua. Tôi vòng tay ôm lấy chị như để che chở, thầm mong những giây phút này
kéo dài. Nhưng chúng không quay lại. Chị gỡ tôi ra, búi lại tóc, chỉ nghĩ đến
máy bay, không hề hay biết mấy phút vừa qua, một bên vú chị đã ép chặt ấm nóng
trên ngực tôi. –
Thôi, chị em mình đi đi, chị thấy bảo nó bắn mấy người chết ở đèo này rồi đấy.
Chợt
nhớ ra điều gì, chị hỏi tôi:
– Ở chỗ cậu có bị sốt rét không?
–
Có, nhưng em chưa bị.
Chị
mở tay nải, bên trong là thuốc tây, dầu con hổ, xà phòng thơm, v.v… lấy ra một
tuýp pa-u-đrin 100 viên đưa cho tôi:
– Cậu cầm lấy uống phòng, không bị vàng da như ký ninh vàng đâu.
Tôi
miễn cưỡng cầm, và khi chị đi khỏi, tôi cáu kỉnh vứt tung xuống vực. Tôi cần gì
cái thứ ký ninh đắng này!
Hòa
bình lập lại, tôi lại gặp chị ở Hà Nội. Chị đã lấy một người chồng khác, làm
nghề thợ may ngồi chợ. Chị ở sâu mãi tít trong một ngôi nhà ở ngõ Hàng Cháo,
phòng chị ở rộng chừng 15 mét vuông, vốn là công trình phụ.
Thỉnh
thoảng tôi vẫn đến chơi với chị. Mỗi lần đến với chị về, gần như tôi lại thay đổi
người yêu. Có lần suýt nữa tôi đã ngủ với một cô. Một cặp đùi và hông màu nâu hồng
tuyệt đẹp, nhưng ngực hẹp và đôi vú nhỏ rất không cân xứng. Tôi lại nhớ đến
dáng chị nằm như bơi trong trăng. Thế là tôi không ham muốn nữa.
–
Anh thử em đấy thôi!
Và
tôi kéo quần áo lại cho cô. Rồi tôi thôi không đến với cô.
Ba
mươi tuổi tôi vẫn chưa lấy vợ.
Chị
giục tôi:
– Cậu cứ kén mãi, già mất thôi!
Rồi
chị kéo tôi ra tủ gương, đứng sát vào người tôi:
– Thấy chưa, cậu già hơn chị mất rồi!
Chị
cứ đứng sát vào tôi như thế, nhìn gương, nhìn tôi, mớ tóc đen dày chảy như suối
trên vai chị, đôi mắt đen như nhung cong lên, như thách đố. Và mùi phấn rôm. Tại
sao vẫn cứ mùi phấn rôm? Mùi phấn rôm làm tôi nhớ tới ánh trăng. Tôi nhắm mắt lại.
–
Kìa, cậu làm sao thế?
– Em
hơi chóng mặt.
– Thế
à, chị lấy dầu cho.
Chị
thoa lên thái dương tôi. Dầu làm nóng bừng hai bên thái dương, nhức nhối.
–
Thôi, em về đây.
– Ðừng,
nhỡ sao dọc đường thì chết!
–
Không sao, em ra đường thoáng hơn.
Tôi
lấy vợ rồi tôi bỏ vợ. Chị hỏi tôi:
– Tại sao cậu bỏ mợ ấy?
– Có
nói chị cũng không hiểu được.
Chị
cười, dí vào trán tôi:
– Chắc lại phải lòng cô nào chứ gì? Ðẹp trai lại học cao như cậu là hay tệ
lắm!
–
Vâng, nhưng lại phải lòng người có chồng rồi.
– Dớ
dẩn, thiếu gì người, phải đâm vào chỗ nạ dòng, để chị tìm cho, chị mà ưng, cậu
cũng phải ưng.
Chị
tìm cho tôi thật, ba bốn cô, nhưng làm sao chị biết được người tôi muốn lấy phải
như thế nào?
Rút
cục tôi vẫn lấy, rồi tôi lại bỏ, do không bao giờ tìm thấy cảm giác về làn da vừa
ấm vừa mát khi xưa.
Chị
cám cảnh cho tôi và chị:
– Xem ra đường nhân duyên chị em mình đều vất vả như nhau.
–
Vâng, nhầm cửa lung tung cả.
Nói
rồi, tôi nhìn chị xem chị hiểu thế nào. Hình như chị lại hiểu khác, chị bảo:
– Như cậu ngày xưa phải lấy được con quan.
–
Còn chị, đáng ra chị phải là vợ một ông bộ trưởng.
Chị
cười, mắng yêu tôi:
– Chị nói thật tình, còn cậu lại trêu chị.
– Em
không trêu đâu, chị còn đẹp hơn bà Máccốt[3] đấy. Lời
tôi nói thiêng một nửa. Chị trở thành cấp dưỡng cho một ông bộ trưởng. Chuyện
đó xảy ra khoảng thời gian đầu sơ tán chống Mỹ.
Tôi
đến nhà chị, tức tối:
– Làm gì chẳng làm, sao lại nhận cái việc ấy?
– Thế
cậu bảo chị làm gì? Văn hóa chẳng có, chữ nghĩa dăm ba câu, trước còn chạy chợ
nhì nhằng, bây giờ sơ tán, làm gì?
– Tự
chị đi xin à?
–
Chán cậu! Chị biết đằng nào mà lần, mà tự dưng ai dám đến những chỗ ấy, một bà ở
thực phẩm thấy chị cẩn thận, sạch sẽ, giới thiệu cho đấy chứ.
– Thế
bà ta đâu, bà bộ trưởng ấy? Thường thường các ông ấy luôn dành tiêu chuẩn cấp
dưỡng cho vợ mình kia mà!
– Bà
ấy đi sơ tán với các con, thế mới đến lượt mình.
– Ra
chỉ mình họ cần tránh bom đạn thôi ư?… Rồi yên, bà ấy về thì sao?
–
Lúc ấy hãy hay, cứ biết làm là làm đã.
Chợt
nghĩ đến việc vợ con ông ta đi sơ tán cả, đầu óc tôi tối sầm. Tôi mười ba tuổi
còn ngẩn ngơ trước sắc đẹp của chị. Chả lẽ tôi là một ngoại lệ? Chả lẽ ông ta,
một ngoại lệ nghịch đối?
– Chỉ
mỗi mình ông ta ở nhà thôi à?
– Có
bảo vệ nữa chứ.
Chị
nói vậy, tôi nhẹ nhõm đi một chút, nhưng rồi vẫn băn khoăn:
– Chị ăn uống luôn ở đấy chứ?
– Chị
về ăn ở nhà, mình làm gì có tiêu chuẩn ăn ở đấy… Mà sao cậu cứ cật vấn mãi chị
thế?
Ðiều
tôi vẫn kìm giữ, chợt nổ tung ra:
– Là bởi vì em không thích chị làm cấp dưỡng cho ông ta, thế thôi.
Rồi
tôi lảm nhảm:
– Nếu em có quyền, em sẽ cấm chị, nếu em hơn tuổi chị… nếu em…
– Chị
biết rồi… – Chị nói bằng một giọng như người có lỗi. – Nhưng ông ta tốt lắm…
–
Tôi thì kém gì họ, thậm chí học vấn còn hơn họ, tâm hồn tư cách, chắc ai hơn
ai.
Tôi
vừa nói vừa vùng vằng bỏ về.
Bẵng
đi mấy tháng tôi không đến chị, nhưng tôi đâu có được thư thái. Tôi nghĩ ngợi
lung tung. Nghĩ tới các ngoại lệ. Tôi suy diễn đủ chuyện. Rút cuộc tôi vẫn phải
mò đến chị. Chị hơi đẫy ra, trắng hơn, càng đẹp, nhưng hơi buồn. Chưa bao giờ
tôi trông thấy chị buồn. Với tôi, mắt chị bao giờ cũng cười, lần này mắt chị
không cười.
Chị
buồn buồn hỏi tôi:
– Sao lâu cậu không đến chơi?
– Ðộ
này em bận.
– Bận
hay giận chị?
Chị nghĩ
tôi giận nên buồn ư? Tôi chả còn mong gì hơn thế nữa. Tôi cố tỏ ra không phải
tôi giận chị. Nhưng chị vẫn ít khi cười nữa. Khi cười, khi ưu tư. Về phía tôi,
tôi cũng đâm ưu tư về nỗi ưu tư của chị.
Khoảng
một năm sau, tôi thấy chị đeo cái vòng ngọc cẩm thạch. Cánh tay chị như cánh
tay vũ nữ, chiếc vòng ngọc càng làm cho nõn nà hơn.
Tôi
lạnh lùng hỏi chị:
– Chị mới mua à?
Chị
không trả lời câu hỏi mà lại giơ cánh tay lên hỏi tôi:
– Cậu bảo có đẹp không?
Tôi
bực mình:
– Ðẹp là ở cánh tay chị ấy, đâu phải cái vòng, nó vướng thêm thì có.
Từ
đó tôi ít đến chơi.
Mấy
năm sau nữa, lúc Bắc Nam đã thống nhất, chị khoe chị được thưởng phiếu nghỉ ở Sầm
Sơn và hỏi tôi đã lần nào đi Sầm Sơn chưa.
Tôi
trả lời bằng một giọng hờn dỗi, pha chút mỉa mai:
– Ði Sầm Sơn là phải có đôi, tôi có đôi đâu mà đi!
Sau
đó mấy hôm, một buổi sáng, tôi đang đạp xe trên đường Phan Ðình Phùng, một chiếc
vôn-ga đen lướt nhẹ qua tôi. Tôi vô tình nhìn vào trong xe. Nhưng xe lướt nhanh
quá, tôi chỉ thoáng thấy người đàn bà ngồi ở ghế sau, tay đeo vòng ngọc tỳ lên
cửa kính, cánh tay nõn nà như tay vũ nữ. Ngồi cạnh tài xế, ghế trước là một người
hói trán, không rõ mặt, chỉ rõ chiếc kính râm và cái gáy u lên những mỡ.
Từ đấy
tôi chỉ còn gặp chị trong ánh trăng. Mỗi khi trăng tràn vào trong màn, tôi lại
tưởng như chị nằm nghiêng, quay về phía tôi, đùi khép hờ, hai cánh tay vươn ra
đón tôi. Tôi nghe thấy như chị bảo:
– Cậu trẻ con quá!
– Ðến
bao giờ chị mới thôi coi em là trẻ con?
–
Thì đã có lần nào cậu là người lớn đâu!
Tôi
có yêu chị không? Chưa bao giờ tôi hỏi mình như vậy. Và có hỏi cũng khó trả lời.
Tôi có yêu chị không hay tôi chỉ muốn tìm yêu một người như chị? Nhưng nếu tôi
đã khẳng định không ai có thể so với chị, phu nhân tổng thống cũng không bằng,
bao giờ tôi mới tìm được một người như thế?
Tuy
nhiên, tôi vẫn đi tìm trong ánh trăng, ánh trăng từ chị hắt ra đêm hôm ấy, cái
đêm tôi còn làm một thiếu niên trong trắng, ngây thơ, ánh trăng và mùi phấn rôm
làm tôi xao xuyến, chơi vơi mãi trong đời.
Và
chị có cho là tôi yêu chị không?
Ðêm
27-9-1991 – Trăng lên
– –
– – – – – – –
[1] Chứng chỉ hết cấp tiểu học.
(BT) [2] Hen-cát: máy bay
chiến đấu Hellcat của Hải quân Mỹ. (BT) [3] Phu nhân Tổng thống
Marcos của Philippines. (BT) Vũ
điệu của cái bô – Nguyễn Quang Thân (1936-2017)
Thế
là không hy vọng gì nữa rồi. Nhà máy đóng giày phá sản. Cả năm nay Hảo sẽ không
có việc làm. Ðề tài số tiền trợ cấp ban đầu và bản quyền bán cho nhà máy tan
thành mây khói. Khách hàng đã tẩy chay thứ giày bong mũi của nhà máy trước khi
loại keo dán tuyệt vời của Hảo qua được bát quái trận thủ tục.
Vậy
mà cũng phải ăn, phải gửi tiền cho con gái lên Hà Nội học thêm, phải nuôi cái
xe đạp cà tàng, hễ mó đến là ăn vạ tiền nghìn. Rồi chén cà-phê đen buổi sáng,
quên nó một bữa là Hảo thấy mình đang mọc đuôi ra.
Thế
nào cũng phải làm một cái gì! Nhưng ngoài cái chuyên môn được ghi trong mảnh bằng
phó tiến sĩ, Hảo không biết làm gì khác. Cũng không thể như Tứ, họa sĩ ở tầng
dưới. Tứ thường không biết ngày mai mình ăn gì, ăn ở đâu. Tứ nói: “Ðói là con hổ,
đừng nhìn nó, nhìn là nó vồ ngay.”
Nhưng
Tứ đã bước vào phòng đúng lúc Hảo đang nghĩ đến anh, nhem nhuốc như cái xơ mướp
nhúng vào thùng bột mầu.
–
Này cậu, có việc này hợp với cậu lắm. Nhưng pha cà-phê uống cái đã.
Hảo
lóng ngóng múc cà-phê vào phin. Hay là Tứ rủ mình làm bạc giả? Trông mặt y như
đang thu vén quần áo để vào Hỏa Lò.
– Việc
gì thế?
– Giữ
trẻ! Tháng một trăm, có ăn trưa. Ðược chưa?
Tốt
quá – Hảo nghi ngờ, chùm rẻ quạt tóe từ mắt xuống đôi gò má. – Món thơm thế đâu
đến phần mình. Với lại còn cơ quan…
–
Thì đã bảo người ta cần mà! Chăn một thằng bé ba tuổi, nói tập tọe. Vừa chăn vừa
dạy tiếng Anh để lớn lên biết đọc tên cái công ty trong phố và phân biệt được
nhà vệ sinh nam nữ ở sân bay. Việc cơ quan thì để tớ gà cho. Ðăng ký một đề tài
thật kêu, đại khái thế này: “Ném một cái nhìn vào quy trình chế tạo keo dán mũi
giày ở địa phương ta”, nhớ là phải có chữ “ta”, không cần xin trợ cấp, xin hai
năm ngồi nhà nghiên cứu, được chưa?
Không
bị Tứ rủ đi làm bạc giả là phúc rồi. Hảo đăng ký đề tài, anh có chữa lại vài chữ
của Tứ. Ném một cái nhìn, không được. Cuối cùng: Tiếp cận hyperbole tính duy vật
biện chứng… song ngữ: Faire une hyperbola… (tiếng Pháp) và To take a
hyperbole… cộng thêm hai trang đề cương (cũng song ngữ). Ðược rồi, rất có lý! Hảo
qua mặt được chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật tỉnh vốn trước là giáo viên cấp
III. Trong bản dịch đề cương tiếng Anh có mấy tiếng khó dịch, Hảo bịa ra, nhưng
chắc là ông không biết. Ông thường bắt cán bộ làm thuyết minh song ngữ nhưng bản
thân ông không phân biệt được tiếng Pháp với tiếng Anh, trừ tiếng Nga nhờ những
chữ N ngược kỳ lạ của nó.
Ông
nói: “Cậu khá lắm, tính tư tưởng, tính địa phương, đề tài của cậu ưng cái bụng
mình lắm rồi. Nhưng có xin trợ cấp không đấy? Không hả. Tốt, nhớ khao nhé!” Ông
ký một cái rẹt, chữ ký như con bọ cạp đang bò.
Thế
là Hảo có hai năm rỗi rãi. Sẽ khao, sẽ khao. Ông chủ nhiệm và cả Tứ nữa, những
nhà Mạnh Thường quân của khoa học.
o O
o
Một
chú chó Nhật sủa lách nhách rồi te tái luồn dưới chân hai người. “Ồ, Mi-mô-sa,
ngoan nào… Xin mời hai bác…” Chị chủ nhặt vội con chó lên, nghi ngại nhìn cái ống
quần lem nhem của anh họa sĩ dắt mối.
Tứ
xăng xái:
– Tôi dẫn anh Hảo đến như đã hứa với chị. Bây giờ tôi phải đi treo cờ mồng
một tháng năm. Xin hai vị cứ tự nhiên.
Hảo
nhìn chị chủ nhà. Chị đẹp, sang trọng và thừa thãi. Áo quần, mỡ phần, không
gian và thời gian.
– Chắc
anh Tứ đã nói với anh. Cháu cần một người có học trông nom, bố cháu nói ở Nhật
người giữ trẻ đều phải qua đại học. Tôi giao cháu cho anh ban ngày, anh ở lại
ăn trưa, ngủ với nó hai giờ mỗi ngày, nhất thiết phải cho nó ngủ hai giờ như ở
nhà trẻ. Và dạy tiếng Anh cho cháu. Tôi định mướn một cô giữ trẻ. Nhưng chồng
tôi lại muốn có một người đàn ông, anh ấy nói cháu phải có nam tính mạnh mẽ để
đua ganh với đời.
Mọi
việc đã xong xuôi.
Chị
nói: “Ban đầu hẵng biết thế. Còn sau này…”
Rồi
chị nhìn xoáy vào mắt anh (anh khẽ rùng mình). Khuôn mặt lặng lẽ, buồn chán và
sung mãn của chị bỗng bừng sáng. Có lẽ chị cũng có học, không phải loại mướn
vua về múa như anh nghĩ.
Anh
hỏi: “Cháu đâu?”
Rõ
ràng là chị đã quên mất thằng bé. Chị ừ hữ: “Tôi cho cháu về bên ngoại. Anh cứ
gọi nó là thằng Cu. Chúng tôi vẫn gọi cháu thế cho dễ nuôi. Mai xin mời anh đến.”
Sáng
hôm sau chị chủ nhà và thằng Cu đón anh ở cửa. Con Mi-mô-sa đứng cạnh. Nó có vẻ
ngạc nhiên khi thấy anh dám dắt một chiếc xe đạp như thế vào cái sân rải sỏi.
Chị thì nuột nà trong bộ mút-sơ-lin mầu thiên lý, thoa sơ sài một lớp phấn mỏng
lên mặt.
Chị
đẩy thằng Cu lại cho anh: “Nào, Cu chào bác đi, chào thầy đi!”
Cố gắng
như một cái máy không nhạy, nó nói: “Cháu chào cô ạ!”
Chị
chữa: “Chả là tôi đã cho cháu vào nhà mẫu giáo mấy ngày. Con nói lại đi, chào
chú ạ!”
Chị
dẫn anh và nó sang một phòng nhỏ cạnh phòng khách. Một cái bàn học cho trẻ. Chiếc
đi-văng gỗ mà anh sẽ ngả lưng buổi trưa. Cốc và những chai nước lọc.
Chị
nói: “Nghe anh Tứ bảo anh nói tiếng Anh như người Anh phải không? Hôm nào về mà
hai bố con bi bô được với nhau là anh ấy mừng lắm. Anh ấy nói tiếng Anh như
gió.”
Hảo
định cải chính: “Tôi nói tiếng Anh như người Việt,” nhưng thằng Cu đòi ị. Nó
nhăn mặt, duỗi ra và lấy tay bưng đít.
Chị
chủ nhà nói: “Bác để tôi – chị nhăn mũi – “Quên đưa vào đây một cái bô, bà Mùi
ơi!” Người nấu bếp chưa vào, chị đã bế thằng Cu ra ngoài.
Lát
sau chị vào, tay thằng bé, tay cái bô. “Dọc hành lang một đoạn là toa-lét. Anh
cứ đổ vào đó rồi giật nước là được.” Chị đặt cái bô vào góc nhà như người nhạc
trưởng cất gậy lên giá.
Ðiệu
vũ chấm dứt. Hảo nhìn cái biểu tượng nhà nghề trắng muốt, chỉ mong chị chủ nhà
đi khuất. Năm năm trước đêm nào anh cũng nằm mơ thấy mình xúng xính trong bộ quần
áo tiến sĩ cổ truyền.
Chị
đưa anh hai chiếc chìa khóa: “Ðây là khóa phòng. Ðây là cổng. Thỉnh thoảng bác
dẫn cháu đi chơi, tùy ý bác.”
Rồi
chị lên lầu, vẻ tự hào đã hoàn thành nhiệm vụ người đạo diễn.
Hảo
hỏi thằng Cu: “Oát xi-ô nêm?”
Nó
nhìn anh trân trân một giây rồi tái mặt: “Ð… bu mày?” Nó tưởng anh vừa chửi nó.
Phải nói là nó chửi rất du dương.
Ngày
hôm nay phải dạy bằng được câu này cho nó. “Oát xi-ô nêm, tên cháu là gì chứ
không phải câu chửi tục. Nhân loại chưa đổ đốn đến mức biến một câu vấn danh
thành câu chửi.”
Chấm
dứt buổi học tiếng Anh đầu tiên.
Mọi
thứ dù phi lý đến đâu mà lặp đi lặp lại mãi thì vẫn chấp nhận được dễ dàng. Việc
anh thành người giữ trẻ thì cũng chỉ cần một tuần để trở thành dĩ nhiên. Dĩ
nhiên như một giáo sư nổi tiếng ốm đau kéo dài phải đốt sách để sưởi, như việc
cái xe đạp nào cũng phải tòn teng một tấm biển số thời nào. Hai mươi tờ giấy
năm ngàn đủ sức mạnh biến Hảo thành người giữ trẻ mẫn cán trong ba mươi ngày.
Chị chủ nhà không chú ý đến anh hơn bà Mùi, người nấu bếp lầm lũi như cái bóng.
Từ
ngày có anh đến làm, chị được giải phóng khỏi thằng con trai nên rỗi rãi hơn.
Chị lên lầu xuống lầu, đọc sách, trong khi anh túi bụi trong phòng với thằng Cu
và cái bô, đã bắt đầu nhớ cái giá sách, và những ngày nhàn rỗi đọc chữ thánh hiền.
Thỉnh thoảng chị pha một cốc nước chanh mời anh với dáng vẻ của người làm việc
thiện, rồi cũng tiện mồm kể lể chuyện nhà chuyện cửa. Chồng chị trước đây là
thuyền trưởng viễn dương. Nhờ anh mà chị nhìn thấy đô-la xanh rờn đầu tiên và
hình những tổng thống Mỹ quá cố.
Khi
túi đã hơi nặng, anh tìm cách lên bờ. Anh bảo chị: “Thời nay chỉ leo được lên mới
thắng, dưới đất bao giờ cũng thua.” Anh biết đầu tư chiều sâu và lên dần. Bây
giờ anh phụ trách một văn phòng đại diện ở Hongkong, môi giới mua những con tàu
hàng vạn tấn đến những chiếc nịt vú. Anh nói: “Một chuyến đi Nhật cứt đái cùng
mình chỉ thắng một hai cây. Bây giờ ký xoạch một cái tôi có bạc triệu!”
Hảo
không biết chị kể một cách thành thực những chuyện ấy với anh để làm gì, chị có
tâm đầu ý hợp với người chồng ở xa hay không. Chị kể một cách buồn chán, mệt mỏi;
là người tiêu tiền, chị không có cái say mê của những con sói săn mồi. Chị là
con kền kền, cái lười biếng rỉa xác một con voi. Chồng chị thỉnh thoảng có viết
thư, nhưng hai năm nay anh không hẹn ngày về.
Hảo cảm
thấy, với chị thì anh vĩnh viễn không về nữa.
Thằng
Cu có người trông, sạch sẽ hơn. Nó học tiếng Anh cũng khá nhiều và mến thầy. Ðể
giải quyết chuyện cái bô, Hảo đã tập cho nó ra toa-lét mỗi khi có nhu cầu. Cuối
tháng đầu chị trả lương cho anh, đưa luôn cả tháng sau, tặng thêm cho anh năm
mươi ngàn.
Thấy
anh lưỡng lự, chị nói: “Anh cầm đi. Chúng tôi giàu có lắm. Anh không tưởng tượng
được chúng tôi giàu như thế nào đâu. Nhưng ở cái đất hay nhòm ngó nhau thế này
mình cũng phải giữ ý.”
Một
sáng, anh đang ở trong phòng với thằng Cu thì ông Vị đi xe máy đến. Qua cửa sổ
anh nhìn thấy ông chải chuốt hơn ngày thường tuy ít đường bệ hơn so với những
lúc ông đi lại dọc hành lang nghe một cán bộ khoa học thuyết minh cái gì đó sau
lưng mình. Chị ngồi tiếp ông hàng giờ trong phòng khách.
Buổi
chiều trước khi Hảo ra về, chị mời anh uống trà. Chị nói: “Ngày mai tôi phải vắng
nhà mấy ngày. Anh giúp tôi ngủ lại và trông hộ cháu được không?”
Anh
đáp được.
Suy
nghĩ một lúc, chị hỏi: “Anh có biết cái ông hồi sáng đến thăm tôi không?”
Anh
nói: “Không.”
Chị
nhìn anh vẻ tin cậy: “Thôi, chẳng giấu anh làm gì, sợ anh nghĩ tôi không đàng
hoàng. Ông ấy là bồ tôi đó.”
Thấy
Hảo cảm động vì lời thổ lộ ấy, chị duyên dáng níu nhẹ vào ống tay áo anh:
“Nhưng tôi đã quyết định dứt ông ấy ra. Ngày mai chúng tôi cùng đi Sầm Sơn. Lần
cuối cùng rồi thôi. Anh giúp tôi nhé?”
Chị
kể, trước đây mấy năm, chồng chị khéo léo đưa chị đến với ông ấy. Ðối với sự
nghiệp của anh, cũng là của thằng Cu, chị không nề hà. Ông ấy giúp đỡ chồng chị
đến nơi đến chốn nhưng không hề để mắt đến chị, món mỡ trước miệng mèo. Ðã có
ai ở thành phố này dám coi chị như củ khoai cơ chứ? Lòng tự ái nổi lên, chị tìm
cách khám phá con người mẫu mực kia và chị yêu ông ấy lúc nào không biết. Khi
chị hiểu ra sự cao đạo của ông là một cái bẫy chinh phục nguy hiểm của những
người có tuổi thì cũng là lúc chị chán ông ta.
“Cuối
cùng thì chồng tôi thắng, nhưng tôi chẳng được gì. Anh giúp để tôi làm chuyện
chia tay với ông ấy trót lọt.”
Anh
đáp: “Vâng, tôi trông nhà hộ và kín miệng nữa.”
Chị
cười buồn: “Chẳng cần đâu. Cả thành phố biết chuyện tôi với ông ấy rồi. Họ chưa
đưa lên ti-vi là may.”
Hảo
nói: “Chị đừng mang theo con chó nhé!”
Chị
ngạc nhiên: “Vì sao vậy?”
Bỗng
chị mỉm cười: “Tôi nhớ ra Sê-khốp rồi. Anh yên tâm. Thời nay không ai dùng chó
làm môi giới cho yêu đương đâu!”
Ngừng
một chút, lần thứ ba Hảo thấy khuôn mặt chị rạng lên.
Chị
nói hấp hổi: “Tôi sẽ mang theo con chó. Tôi là một con mù mà lại muốn đi tìm ngọc
quý. Mi-mô-sa sẽ dẫn đường cho tôi.”
Chị
mang theo Mi-mô-sa thật. Chị còn tin có một người nào khác đang chờ chị ở Sầm
Sơn ư?
Ba
ngày sau chị và ông Vị về nhà. Một chiếc Toyota đậu trước cổng. Nghe tiếng, Hảo
ra mở cổng như một người gác gian mẫn cán. Anh bất ngờ chạm mặt ông Vị. Nhưng cả
hai không chào nhau, không nói gì. Ôi tiền giấy và sắc đẹp, những lá bài của số
phận éo le.
Nhìn
nét mặt cau có, dồn nén và thân thể sung mãn của tuổi già đang chín một lần trước
khi rụng của ông Vị, Hảo biết là mấy ngày ở Sầm Sơn ông chỉ được xơi thịt thỏ.
Túi tiền có thể vơi chút ít, nhưng cái túi tục lụy kia thì chắc vẫn còn nguyên.
Nó làm ông cáu giận. Hảo nghe tiếng cãi cọ trên lầu ở phòng khách.
Nhưng
rồi ông cũng phải ra đi. Chị gọi dây nói cho xe đến đón ông, tươi tỉnh, lịch sự
đưa ông ra đàng hoàng. Ông thì hầm mặt vì tiền mất tật mang, chỉ biết tự an ủi
là đã giữ gìn được phẩm chất trong chuyến đi biển đầy rẫy những trò ăn chơi tư
sản.
Hảo
biết không mấy người vui vẻ khi bị người tình buộc về hưu.
Chị
chạy đến gặp Hảo sau khi ông đi khỏi, mời anh sang phòng khách uống trà. “Thế
là trút được món nợ Liễu Thăng!” Chị nói, ve vuốt con Mi-mô-sa, nó liếm tay chị,
kiêu hãnh vì đã giành lại được chị và tự hào vì ông già giàu có, oai vệ kia đã
ao ước được một số phận như nó hôm nay mà không có: được chị ve vuốt, nâng niu.
“Sao có một dạo ông ấy dễ thương thế – chị nói – bây giờ thì chỉ dạy dỗ, khuyên
bảo suốt ngày!”
Chị
lại vuốt con Mi-mô-sa, thì thầm: “Sầm Sơn năm nay đẹp lắm, mày có nhớ Sầm Sơn
không con, Mi-mô-sa?”
Hảo
thầm đoán ở Sầm Sơn con chó nhỏ này đã đóng được một vai trò gì rồi.
Anh
không nhầm. Ba hôm sau một chàng trai, trẻ hơn chị vài tuổi, đến nhà. Anh ta dắt
chiếc CBT 125 mầu nòng súng vào sân, cởi chiếc mũ mô-tô khỏi đầu rồi nhoẻn cười
với ngôi nhà. Hảo vị nể nhìn chiếc xe mới thấy lần thứ hai trong đời; lần đầu Tứ
giới thiệu nó cho anh ở bãi xe, nói rằng ở cái thành phố ăn chơi đồ Nhật này chỉ
mới thấy xuất hiện vài cái. Anh gọi chị xuống, bàn giao khách cho chị rồi vào
phòng với thằng Cu. Người khách nhìn anh không chút ngạc nhiên, như chính anh
ta đã từng mướn vài chục thằng đầy tớ cỡ đó.
Họ
nói chuyện với nhau trong phòng khách. Rồi chị thét bà Mùi ra chợ. Bữa trưa có
bún chả, ốc nhồi thịt và một chai Giôn bộ giá nửa chỉ vàng khách mang tới và những
gói kem vừa đông lạnh trong chiếc máy làm kem sau cốp xe. Hảo cùng ngồi ăn với
họ. Hợp đồng đã ghi có ăn trưa. Chị uống vài hớp rượu quý, nói luôn mồm, cười
luôn miệng; trông chị trẻ ra mấy tuổi so với ngày hôm qua.
Chị
giới thiệu khách với Hảo: Anh X. đây là con ông Y. gọi ông Z bằng bác. (Hảo
nghe tiếng họ từ lâu), tốt nghiệp đại học ở Ba Lan, mười năm nay đi đi về về,
không quốc tịch, không hộ khẩu, hộ chiếu ba năm đổi một lần (Cái khoản này thì
chính tôi cũng không biết vì sao mình có – anh nói – lúc cần cứ hỏi pa-pa); nay
là nhà kinh doanh bự, nguồn vốn không xác định rõ nhưng lớn lắm và đảm bảo là
“không có chuyện Nguyễn-văn-mười-hai”, buôn bán từ đầu video đến chổi đót xuất
khẩu… Anh đây còn có một căn hộ ở Vác-xa-va, giữ thường xuyên một phòng ở Pa-lạt
Sin-ga-po và vừa bay từ đó về tuần trước.
Chị
nói: “Ở Sầm Sơn ông Vị tâm sự với tôi rằng không có các ông thì bọn trẻ bố láo
đảo lộn cơ đồ lên mất. Nhưng khốn nỗi ông ấy không phân biệt được cá thu khô với
cá thu tươi ở chợ cá Sầm Sơn, phải không Mi-mô-sa?”
Con chó
vắt ngang trên đùi chị ư ử đồng tình. Chị bảo: “Theo tôi, những người như anh
X. đây…”
Anh
X. đây đưa bàn tay lên. “Hẵng khoan, hồi nãy em nói gì nhỉ? À, ông ấy đã đang
và sẽ, còn anh thì ngay cả khi dùng tiếng Anh, anh không bao giờ chia động từ
theo quá khứ và tương lai cả. Tôi đang nói, tôi đang sống. Thì hiện tại muôn
năm.”
Anh
hạ bàn tay xuống và nhón một con ốc nhồi thịt.
“Ðể
em nói hết đã mà! Theo em thì chính những người như các anh sẽ đưa chúng ta ra
khỏi cuộc khủng hoảng. Có phải thế không, anh Hảo?”
Hảo
nghĩ, không biết chị nói cuộc khủng hoảng nào, của đất nước hay của chị? Anh
đáp: “Tôi không sành chính trị nhưng tôi chắc là muốn giải quyết vấn đề thì ai
cũng phải cứng rắn.”
Chị
là người thông minh. Chị cười hồn nhiên: “Anh nói đúng chóc! Phải thế, chứ như
ông Vị thì… như con sứa ấy!”
Người
khách tỏ ra kém thông minh và ghen tỵ nhỏ nhen khi thấy chị vừa khen anh người
làm nói leo. Anh nhìn cái miệng đỏ hồng rất nóng, nhìn đĩa trứng vịt lộn chưa
ai đụng tới rồi quay sang chị: “Vấn đề là tiền. Em mua quả vịt lộn này bao
nhiêu? Bảy trăm à? Tôi hứa, nếu em ra lệnh, trong ngày mai tôi sẽ (lại sẽ rồi –
Hảo nghĩ) có đủ tiền hạ giá trứng vịt lộn ở thị trường thành phố này xuống một
nửa. Và tôi giữ giá đó trong một tuần, em chịu không?”
Chị
lại cười ré lên, lần này vì lòng tự ái được ve vuốt.
Hảo
nhăn mặt cố nghĩ xem vị anh hùng này làm cách gì và sẽ bỏ ra bao nhiêu để hạ
giá trứng vịt lộn xuống còn một nửa. Nếu anh ta làm được thế, Hảo sẽ cố tranh
thủ ăn lấy vài quả, mấy lâu nay anh quên mất thứ thực phẩm dành riêng cho những
tay bán chủng heo nọc này rồi. Nhưng thật ớn những trò nói khoác! Suy cho cùng
là do lỗi của đế quốc Anh. Chúng sản xuất ra thứ Jhonnie Walker ngon quá!
Sau
khi chấm nước mắt do trận cười, và không ngừng bị ám ảnh bởi từ “cứng rắn” anh
vừa phát hành, chị hỏi Hảo: “Còn anh, anh nói nữa đi, ý anh thế nào?”
Hảo
đáp: “Xin lỗi, tôi không sành chính trị.”
Nhà
kinh doanh giơ tay lên như ông giáo trẻ dạy cho chú học trò chậm hiểu: “Ðây
không phải là chính trị. Ðây là chuyện làm cường dương cả một thành phố. Chúng
ta xẹp như dán quá lâu rồi!”
Chị
lại cười làm một cử chỉ e lệ gọi là rồi nói: “Anh yêu, thế thì anh hạ giá trứng
vịt lộn đi!”
Hảo
muốn tìm sự hưng phấn đang quá đà do chai rượu Anh gây ra. Anh hỏi ‘anh yêu’:
“Bao giờ thì anh định cư hẳn trong nước để làm ăn?”
‘Anh
yêu’ lấy khăn lau miệng, nói qua kẽ răng: “Khi nào chúng tôi có đại biểu trong
quốc hội” – anh cười tinh quái – “Nếu không thì ai bảo vệ vốn liếng của chúng
tôi chứ?”
Sau
bữa trưa họ lên phòng của chị. Hảo trở về cái đi-văng. Thằng Cu đã ngủ, cạnh nó
là một cái bô đầy. Anh múa tiếp điệu vũ của mình rồi nằm xuống cạnh nó. Tiếng
nhạc êm dịu lọt qua bức trần xuống tai anh. Ðó là những bài hát tiền chiến rất
quen thuộc. Anh nhớ mẹ lạ lùng. Cái hố trống trong ngực anh to dần ra, to mãi đến
hư vô. Bữa cơm quá tải làm anh khó ngủ. Anh nhớ mẹ cũng giàu, cũng sang trọng,
sang trọng cả lúc không còn giàu nữa. Cả trong những ngày chiến tranh liên
miên. Tất cả vàng bạc, hạt soàn mẹ đưa anh, lúc đó mới ba tuổi, để tự tay anh
thả vào khe của cái hộp gỗ sơn son trong Tuần lễ vàng. Mẹ bảo với bố: “Tôi gánh
gạo đường xa cho các con.” Miếng vườn cả nhà vỡ hoang ven bờ suối dưới sự chỉ
huy của mẹ, tiếng vo gạo buổi sáng, nước gạo chảy men bờ như sữa. Chim họa mi
hót sau mấy cây ổi mẹ trồng, con rắn mai gầm lâu lâu lại xuất hiện, chạy qua
sân rồi biến mất trong đám hương nhu, làm thành một sự kiện trọng đại.
Rồi
cái tang đầu tiên: bố chết vì bom bi trong một trận oanh kích. Cái tang thứ
hai, người anh cả ở Trường Sơn. Ðến lượt anh, đứa con yêu của mẹ cũng biến mất ở
chân trời Ðông Âu, mang theo hy vọng về một cuộc sống tử tế của cả nhà. Lúc anh
về thì mẹ đã mất. Và cùng với mẹ là cả một vũ trụ đáng kiêu hãnh và nuối tiếc
cũng mất nốt. Hảo như đui mù. Anh không được chuẩn bị cho sự nghèo khổ và bệ rạc,
không được chuẩn bị để sống với người vợ trước đây, để sống trong cảnh ngộ hiện
nay. Không chuẩn bị để thành người ở, làm công cho người đàn bà thông minh
nhưng tinh quái, có lương tri và dâm đãng nữa. Anh cố nghĩ một tính từ khác
nhưng không được.
Thú
thực là anh ghét và ghê tởm khi chị dám cả gan và sai lầm khi đồng lõa đánh giá
nền chính trị thông qua những người đàn ông liệt dương trên giường mình, dù
trong đó có cả một ông xếp không ra gì của Hảo. Và cũng thật khó chịu thấy mắt
chị sáng lên khi con dê con dằm đô-la kia đòi có ghế trong quốc hội của nền vô
sản chuyên chính. Khi đó anh tưởng nếu có cuộc bầu cử thì chị sẽ bỏ cho y ta mười
phiếu một lúc. Nhưng tại sao chị vẫn phát tiền công cho anh hàng tháng? Tại sao
chị vẫn làm cho anh có cảm tình và nhiều lúc thèm muốn chị nữa? Tại sao chiếc
CBT 125 giá ba mươi triệu ở ngoài sân kia vẫn đè cái bóng cao cả của nó lên những
giấc mơ nghèo khổ của anh? Tại sao cái thế giới êm dịu và lung linh những ước
mơ của mẹ, và cũng cả của anh nữa, lại biến mất dễ dàng đến thế? Phải chăng sau
một sự kiện kinh hoàng năm đó lời lão thày bói đã ứng nghiệm?
Mùa
hè ấy thời tiết bình thường, mẹ cho ấp một ổ gà, khi nhắc xuống, trong ổ lúc
nhúc một bầy rắn con, còn mấy cây ổi sau nhà thì ra mười ba quả bứa chua lóet.
Hôm đó, một lão thày bói ôm tay nải qua làng. Mẹ làm thịt một con gà giò, ông
ta xem chân gà rồi nói: “Ông tổ nhà này ngày xưa nhiều thất đức. Bà hãy cẩn thận.
Trong nhà này rồi sẽ có người đi ở.”
Ông
ta còn nói những chuyện nhảm nhí khác.
Dân
quân xóm trói ông vào một cái cọc, phơi nắng nửa ngày rồi mới cho đi. Năm đó bố
chết, rồi đến anh cả. Gia đình trĩu nặng tang tóc. Bây giờ đứa con út của mẹ đi
ở.
Tiếng
nhạc buồn phòng trên ngừng bặt. Cái đầu video bắt đầu rền rĩ những pha phim xếch
(trước đây chị vẫn dùng cái hộp nhựa Nhật Bản ấy để khởi động nhà đạo đức luống
tuổi của chị). Rồi tiếng rên điện tử cũng im nốt nhường chỗ cho nhạc đời hang động.
Con Mi-mô-sa bị bỏ rơi buồn bã vào phòng, liếm bàn tay Hảo thõng xuống đi-văng.
Anh nhắc nó lên, kéo tai nó. Tên ma cô mất dạy, thằng mối lái vô phúc, những
con chó nhỏ vô tích sự thời Sê-khốp hay thời hiện đại đều thế cả. Nằm trong
lòng Hảo nó nhìn lên trần như anh, có thể nó còn thấu suốt hơn anh bằng bản
năng chó của nó.
Một
tuần lễ liền ngôi nhà yên tĩnh ở góc phố ròn rã tiếng CBT 125. Những bữa cơm
trưa quá tải với sự đồng lõa tội lỗi của những chai rượu Anh và kỹ nghệ vi mạch
Nhật Bản. Nhưng chủ nhật anh ta không đến. Chị đưa tiền lương cho Hảo, tăng lên
hai trăm ngàn (để bù trượt giá, chị nói) và giữ anh ở lại ăn cơm tối với chị.
Chị buồn, nét mặt căng thẳng tuy vẫn kiêu sa.
Hảo
đã nếm mùi những cơn cớ tâm sự của chị. Họ lấy ghế vải ra ngồi ở sân sau.
Chị
nói: “Anh tiên tri tài thật. Giá không mang Mi-mô-sa đi thì tôi đâu có rước ngữ
ấy về nhà!”
Chị
nhìn anh với đôi mắt của người vừa thoát khỏi tai nạn. Như một nhà thám hiểm
Nam cực sống sót, chị kể cho Hảo nghe chuyện mấy ngày ở Sầm Sơn.
o O
o
Hôm ấy,
chị để Mi-mô-sa trên bờ biển để xuống tắm với ông Vị. Họ tìm một góc vắng. Vì hễ
hai người mặc áo tắm đi vào đám đông là y như lũ trẻ la lối: “Bố ơi, bố nhường
chúng con đi bố!” Tuy khó chịu vì thứ ngôn ngữ máy nước ấy, nhưng từ cái góc vắng
kia chị vẫn nhìn về phía một bộ phận nhân loại trẻ trung và thô bỉ một cách
chân thành ấy. Còn ông Vị thì tìm mọi cách để sử dụng đôi bàn tay vàng. Ông càu
nhàu: “Tại sao em lại không mặc bộ bi-ki-ni hai mảnh của Thái ấy?” Ông vẫn thường
phàn nàn mốt Hà Nội dạo này quá hở hang, nhưng trong một chuyến đi Băng Cốc về,
chính ông đã mua tặng chị hai bộ bi-ki-ni ấy.
Hôm
đó, chị cố ý mặc bộ đồ tắm cổ điển được mậu dịch quốc doanh đứng đắn của chúng
ta phát hành những năm bảy mươi sau khi mẫu đã được sở văn hóa xét duyệt. Một bộ
đồ tắm có thể cấp bằng tiết hạnh khả phong. Ông Vị đành phải đầu hàng bộ đồ ông
từng duyệt mẫu trước đây. Bực bội vì ông lão sắp bị giảm biên chế ngầy ngà, chị
quên mất con Mi-mô-sa. Trời lại đổ một trận mưa nữa. Thế là họ lạc mất con chó.
Ðến
chiều tối, sau khi ăn cơm xong, khi ông Vị đang càu nhàu lên án bộ đồ tắm khốn
nạn, trút lên đó những từ người ta thường chỉ dùng trong các cuộc tranh luận
triết học và đạo đức, thì anh ta đến. Anh ấy ôm con Mi-mô-sa trên tay. Trong
khung cảnh biển sau cơn mưa, chàng trai thật tuyệt vời.
Chiều
hôm sau, trong khi ông Vị đi nói chuyện về vai trò người phụ nữ mới (bài tủ của
ông) cho công đoàn công ty du lịch thì chị với anh đi vào rừng thông. Chị cám
ơn anh vì đã tìm hộ con Mi-mô-sa. Anh cám ơn vì chị đã làm cuộc đi biển cô đơn
của anh có ý nghĩa. Anh gọi chị là “bà” làm chị kiêu hãnh, sau đó là “chị” làm
chị ấm lòng, và cuối cùng là “em” làm chị sung sướng. Cuộc cách mạng về xưng hô
ấy chỉ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Phút thứ mười sáu thì anh nói là anh
đã thuê hai héc-ta rừng thông chiều nay để không ai được phép lai vãng qua.
Phút thứ mười bảy thì lưng chị đã lấm đầy cát và sau đó chị bắt đầu cuộc hành
trình vào thiên đường lần đầu tiên trong đời. Trước đây ông Vị chỉ mô tả cái
thiên đường ấy cho chị bằng lý thuyết. Những pha mô tả của bọn nhà văn ba xu
thường thay bằng những dấu chấm chấm cũng không làm thỏa mãn chị.
Tối
đó, chị sang phòng ông Vị (họ vẫn thuê hai phòng từ lúc đến Sầm Sơn). Ông rất mừng
vì chị đã tự nguyện nộp xác, vì buổi diễn thuyết thành công, “chị em nuốt từng
lời” và theo cá nhân ông thì cần phải khôi phục khí thế của phong trào ba đảm
đang trước đây.
Chị
ngắt lời ông: “Anh yêu em đi!”
Chị
quyết định tặng ông một bữa tiệc chia ly no xôi chán chè như bữa cơm người ta vẫn
thường cho tử tù ăn trước ngày ra trường bắn. Ông sững sờ vì hạnh phúc, cũng
như kẻ tử tù kia đang nằm mơ thấy cái cọc thì bỗng thấy trước mắt mình một con
gà mái quay, nghẹn ngào nhìn nhưng không ăn được. Ông cũng không ăn được. Ông đổ
tội cho tính đãng trí, bỏ quên chai rượu tắc kè ở nhà, chửi sự quản lý khách sạn
xuống cấp vì cái giường cứ kêu cót két, chửi rủa cả cái váy ngủ của chị, làm gì
mà phải dùng đến hai cửa ra vào làm ông lầm lẫn lung tung, sự xa xỉ điển hình của
nền dân chủ tư sản!
Cũng
như mọi lần, ông chẳng bao giờ chịu trách nhiệm về bất kỳ sự thất bại nào. Tuy
vậy ông vẫn trấn an chị: “Em hãy tin tôi, tôi đã, đang và sẽ cố gắng…”
Sáng
hôm sau chị giục ông ta về để kịp ngày hẹn với anh ấy, người đã mua hai héc-ta
rừng thông một chiều cho chị.
o O
o
Chị
thở dài:
– Nhưng tôi lại chán ngấy anh ta rồi! Thằng tư sản mới cũng chẳng hơn gì
lão đạo đức giả! Sao cái số tôi nó nhọ thế này?
Hảo
tự chửi mình vì quả thật trong anh có lóe lên một chút hả hê dễ hiểu. Anh đứng
lên, xin phép chị ra về.
“Ðừng
vội, anh – Giọng chị thân mật khác lạ – Anh về bây giờ thì tôi chết buồn mất. Tại
sao tôi chỉ gặp phải lũ dở hơi? Chúng chui ở đâu ra lắm thế hả anh?”
Hảo
cảm thấy sự chán chường của chị là thành thật. Nó lan tỏa trên da thịt anh cùng
mùi nước hoa Pháp và hơi thở thơm tho của chị. Suy cho cùng thì chị cũng đáng
thương. Ít nhất chị cũng có cái can đảm và hào phóng làm việc phân phối lại của
cải đã trấn được của những thằng dại gái. Chị đã nuôi được một phó tiến sĩ bằng
ba lần số lương chính của y, vớt y ra khỏi cảnh thất nghiệp dài dài được mã hóa
bằng cụm từ “nghiên cứu có tính chiến lược” trong cái vỏ những đề tài không ai
cần đến. Nhưng anh cứng rắn trở lại, kiên trì sự đố kỵ muôn thuở của người
nghèo, sự ghê tởm của hàn sĩ bị phỉ báng.
Rồi
anh khôn khéo đứng lên.
Số
phận xô đẩy anh theo hướng khác. Mấy tuần sau chị ốm. Thóc mách như một thằng ở
thực thụ, anh đoán thầm nhà kinh doanh không quốc tịch đã kịp đầu tư một “vật lạ”
vào nội địa trước khi bị trục xuất. Anh lên thăm chị, vừa là phải phép vừa bị
lòng nhân ái thúc bách. Chị nằm bất động trên giường, tay duỗi ngoài chiếc chăn
mỏng. Chị đập nhẹ bàn tay như cánh bướm bảo anh ngồi xuống mép giường cạnh
mình. Vì mấy cái ghế xếp Nhật Bản đã bị thu lại và cũng không thể ngồi lên cái
“táp-đờ nuy”, vật duy nhất có thể ngồi lên trong phòng, anh đành chiều ý chị.
Tay anh run lên khi nắm cái mép giường.
Chị
nhìn thấy tất cả trong một cái liếc mắt rồi cầm lấy tay anh, bàn tay chị dịu
dàng như cánh bướm cầu xin sự giúp đỡ. Chị nói: “Anh có thể thu xếp đi với tôi
một vài ngày không?”
Anh
nhìn con Mi-mô-sa nằm dưới chân không đáp.
Rồi
anh đi với chị sau khi hai người đã thu xếp được người trông thằng Cu và nhà cửa.
Anh sẽ phải đưa chị về một bệnh viện nhỏ nào đó ở Hà Nội. Ðúng như anh đoán, chị
cần tống khứ nhanh chóng giọt máu được đầu tư một cách vội vã của nhà kinh
doanh trẻ. Chị cần anh đóng vai một người chồng cho đỡ tủi thân và hợp lý. Từ
khi mới đi lại với nhau, ông Vị đã yêu cầu chị làm việc này ở bất kỳ chỗ nào
cũng được trừ thành phố ông đang nổi tiếng và có quyền lực. Bởi vì dù đứa con
trong bụng chị là của ai thì dư luận cũng sẽ nghi là của ông, điều ấy rất bất lợi
cho ông trong những cuộc bầu cử. Vậy là quá đủ lý do để anh phải đưa chị đi.
Họ
xuống tàu vào lúc xẩm tối, rồi vào một khách sạn gần nhà ga. Cô tiếp tân nhìn họ
một cách tình tứ, bảo họ có thể thuê một phòng cũng được. Chị thuê hai.
Anh
ghi nhận với chị cách làm ăn thoáng của ngành du lịch. Rõ ràng mọi việc đang đổi
mới.
Chị
nói: “Nhà trống thì phải thoáng!”
Họ ở
đêm đầu tiên trong bầu không khí hòa hoãn, không xâm lấn biên giới của nhau.
Hôm
sau, chị vẫn không vào nhà thương ngay. Chị đòi anh đưa đi thăm các địa điểm nổi
tiếng của Hà Nội. Anh đưa chị đi Văn Miếu để tỏ lòng yêu mến văn hóa nước nhà,
đến cầu Thăng Long để ngưỡng mộ tình hữu nghị Xô-Việt. Cuộc đi chơi kết thúc ở
hàng chả cá nổi tiếng giữa những ông Tây bà đầm trả bằng đô-la. Thế là nhờ chị
mà anh đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 9 năm trước thời hạn. Anh định đúng vào
năm 2000 sẽ tập trung toàn lực đi ăn một bữa chả cá đầu tiên và cuối cùng trong
đời. Ăn xong uống cà-phê xong, cái hóa đơn đặt lên bàn làm anh suýt ngất tưởng
như mình vừa mua cả tháp Ép-phen. Nhưng chị rút ví ra kịp thời, trên bộ mặt hơi
xanh xao không chút cảm xúc. Anh nhẹ nhõm thầm nhận xét rằng, chị là người đàn
bà đầu tiên đi ăn với anh mà anh không phải mó tay vào ví lần nào.
Chị
đòi đi Hồ Tây. Họ lên Hồ Tây. Cô bán hàng mang đến cho họ hai cái ghế mây cạnh
gốc cây tù mù và hai chai nước ngọt do Viện kiểm sát nhân dân thành phố X. sản
xuất.
Chị
nắm tay anh: “Anh mệt không?”
Anh
nói: “Văn hóa chỉ khác tình dục ở chỗ nó làm con người ta hào hứng mà không mệt!”
Chị
mỉm cười: “Thế thật! Ở Hà Nội có người đã chi cho tôi hai triệu một ngày nhưng
không hề dẫn tôi đến một di tích văn hóa. Trí thức các anh dễ thương thật!”
Anh
nghĩ: Có lẽ công thức trước đây của họ là: Quán đặc sản – giường ngủ. Còn trí
thức: Văn Miếu – Nhà triển lãm Ngô Quyền. Vào cửa hai trăm đồng một vé, kem que
cạnh đó cũng hai trăm mà những ba màu. Trí thức nói chung là ít phải trả tiền
dù đi với mỹ nhân. Chỉ hơi tốn nước bọt mà thôi. Thời nào cũng vậy.
Chị
không để anh có thì giờ suy nghĩ lan man. Chị xiết mạnh tay anh, bàn tay chị ấm
nóng: “Vậy mà tôi chưa bao giờ lọt được vào mắt xanh một anh trí thức!”
Anh
nói: “Vì chị quá đẹp, còn họ thì quá nghèo. Thánh nhân đãi khù khờ chứ đâu có
phù hộ người hay chữ.”
Chị
bình luận: “Thánh ghen tỵ đấy mà! Chắc cũng có một nữ thánh nào đó ghen ghét
tôi. Tôi cố tìm lấy một người mà không thấy…”
Chị
thở dài. Cái khuynh hướng phủ nhận sạch trơn ba bốn mạng đàn ông một lúc của chị
làm anh khó chịu.
Nhưng
anh thấy mủi lòng, bản chất hay giao động của trí thức. Anh nói: “Rồi chị sẽ
tìm thấy.”
Chị
đột ngột nhìn vào mắt anh: “Anh có biết tại sao chồng tôi cứ nằm lỳ ở Hong Kong
không về? Anh thử đoán xem?”
Anh
im lặng.
Chị
nói:
– Anh ấy bị SIDA! Thật tồi tệ. Hành động yêu nước cuối cùng của anh ấy là
đề nghị HU[1] đăng
ký mình vào danh sách bệnh nhân của Hong Kong, chứ không phải nước ta. Gian lận
thêm cho bọn tư bản một người sa đọa cũng chẳng oan gì! Anh
cảm thấy chạm được vào xúc giác nỗi đau khổ của chị.
Giọng
chị trở lại bình thường:
– Tôi đòi ly dị, nhưng ông Vị khuyên tôi: “Ðừng có đánh mất lòng tin. Khoa
học sẽ chữa được cái bệnh tai quái đó, rồi ngày nào đó chồng em sẽ về. Như thơ
Xi-mô-nốp vậy.” Tôi thì biết thừa tim đen của ông. Nếu ly dị, lỡ tôi đòi lấy
ông, như thế thì sự nghiệp ông tan tành. Vả lại ngân sách ái tình của ông ấy được
tư bản Hong Kong trợ cấp một nửa, nửa kia moi ruột nhà nước thì tiện bao nhiêu!
Tôi nói về ông ấy như vậy anh có coi thường tôi không?
Anh
đáp: “Tôi là nhà khoa học. Tôi thích có dữ kiện trong mọi vấn đề.”
–
Tôi căm ghét ông ấy còn vì câu chuyện khủng khiếp này nữa. Hôm đó chúng tôi đi
xem xi-nê với nhau. Lúc chen chúc vào rạp, một bà nọ dẫm guốc bảy phân lên chân
tôi. Tôi la trời. Ðáng lẽ một câu xin lỗi là xong, chị ta lại chối bay biến và
còn chửi tôi nữa. Chúng tôi túm tóc nhau lời qua tiếng lại. Không biết vì vô
tình hay cố ý, chị ta chửi tôi là “con đĩ non xí xớn với thằng dê già!” Ông Vị
tím mặt. Người ta mời chúng tôi vào phòng vé. Khai tên tuổi nơi làm việc và xin
lỗi nhau. Tối hôm ấy, trên giường nhà tôi, ông ấy chỉ vặn hỏi tôi về người đàn
bà ngoa ngoắt nọ. Ông rút sổ tay ra ghi. Ba tháng sau, tôi gặp lại chị thân tàn
ma dại ngồi bán rau. Chị buộc phải thôi việc, chồng chị nghỉ “bảy mươi phần
trăm”, hai con nhỏ. Tôi hỏi chị vì sao nên nỗi thế. Chị làm thủ kho, để thất
thoát hai mươi mốt miếng xà phòng bảo hộ lao động. Tôi thì tôi biết con nhện
nào đã giật tấm lưới bắt con ruồi cái ốm đói kia. Tôi van xin ông ấy. Nhưng ông
chỉ cười gằn: “Phải nghiêm để nâng cao dân trí.” Thế đấy. Ông trả công tôi bằng
cái quyền chính là thứ tôi và anh, cả chị thủ kho kia nữa đã cho ông ấy. Còn thằng
cha đầu tư? Nó làm tôi sung sướng nhưng nó trả tiền tôi từng ngày, có khi hàng
triệu, nhưng trả từng bữa, nghĩa là trả theo sản phẩm!”
Rồi
chị vòng tay qua cổ anh, chị hôn anh.
Ðêm ấy,
chị sang với anh. Ngon lành và thơm như một múi mít, và thanh thản nữa. Anh
không dối mình là đã hơn một lần anh thèm muốn chị. Nhưng giờ đây, anh lạnh
băng. Cũng chẳng phải anh trinh bạch như gã chăn cừu của Ðô-đê nâng niu giấc ngủ
của cô chủ trên vai mình. Chị cũng không phải là một vì sao lạc. Chị phô bày
cái bản năng dữ dội nhưng bao giờ cũng hồn nhiên của một người đàn bà. Nhưng
anh không thèm chị. Giá chị để cho anh bình tĩnh, anh sẽ an ủi chị như một người
anh.
Nhưng
chị đã quýnh lên và cáu: “Trí thức chỉ là thế này thôi à? Trong sách người ta
không dạy anh ư?”
Chị
hạ mình trước anh, làm cả những điều chị chưa hề làm với người khác. Nhưng anh
chỉ rúm ró lại trong nỗi đau của một hàn sĩ.
Chị
trần truồng đi ra cửa để về phòng mình, ném đại mảnh vải Thái Lan nhỏ xíu vào mặt
anh rồi rít lên trong cơn giông bão đàn bà: “Lại một con sứa nữa? Tôi còn căm
ghét anh hơn cả ba thằng kia!”
Một
tháng sau, khi đã bình phục sau trận ốm, chị cho một anh xích-lô gửi nhờ xe.
Anh ta kể: nhà, vợ con anh bị cháy thành tro, hai tháng nay anh ngủ trong xe ở
sân ga, chân cầu.
Bà
Mùi thầm thì với Hảo: “Cứ cách một đêm hắn lại lên phòng ngủ của cô. Thằng khốn
nạn!”
Hảo
bảo bà: “Ơ-rê-ka! Cô chủ đã tìm thấy!”
Bà
ta chưa được học tiếng Hy Lạp, tưởng anh điên, chạy biến vào bếp.
Tiếng
Anh cuối cùng Hảo dạy cho thằng Cu là ‘The man’ – người đàn ông.
Hôm
sau, anh thôi việc. Anh lững thững đi bộ về nhà. Trời sẩm tối. Một đoàn tàu
hàng dừng lại sân ga. Anh nhìn thấy công nhân xếp dỡ đang chuyển xuống đất mười
hai toa tàu trứng vịt lộn. Những sọt trứng tỏa ra một vòng hào quang, những quả
trứng nhú khỏi đám cọng rơm như đầu dương vật của một loại người hùng mạnh chưa
từng có. Cũng chưa từng có công ty nào ở thành phố này buôn về một số lượng trứng
nhiều ghê gớm như thế.
Sáng
hôm sau trên các phố nhan nhản biển hàng viết bằng phấn: “vịt lộn – hạ giá năm
mươi phần trăm!”
Người
ta lo ngại xì xào rằng, một năm nữa dân số của thành phố chắc sẽ phát triển vô
tội vạ.
(Giải
nhì truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1992)
– –
– – – – – – –
[1] HU: đọc theo “WHO”, World
Health Organization: Tổ chức Y tế Thế giới. (BT) Đêm
cỏ tuyết – Kiệt Tấn (Lê Tấn Kiệt 1939- ) Anh
nói với em nhiều tiếng thâm trầm
Nằm đêm nghĩ lại nát bầm lá gan.
Ca dao
Tôi
dắt Tuyết xuống bờ đê. Mùa gặt đã qua từ lâu, ruộng khô chỉ còn lác đác một vài
gốc rạ. Trăng lưỡi liềm kín đáo ngọt ngào. Tình nhân yêu nhau, trăng yêu tình
nhân, từ muôn thuở. Nhưng có chắc tôi yêu Tuyết? Có lẽ. Nhưng điều đó nào có
quan trọng gì với tôi lúc này. Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu.
Tôi
tìm một lùm cây có bãi cỏ kéo Tuyết ngồi xuống. Trước mặt là con rạch nhỏ. Nước
nhiều hay ít, tôi không để ý. Có lấp lánh ánh trăng hay không, tôi cũng không
biết. Tôi chỉ có một mục tiêu duy nhất: Tuyết.
Khi
nãy trên đường từ cầu Bắc chạy về, Tuyết biểu tôi dừng vespa, vì nàng mắc lắm rồi.
Trước đó hai đứa tôi ăn cháo trắng hột vịt muối, uống trà đá ly cối, hèn gì.
Tôi còn đang loay hoay dựng xe thì Tuyết đã chạy ù xuống ruộng. Xong, nàng ngồi
chồm hổm mà giải thủy tỉnh bơ. Tôi bị kích thích, tim đập mạnh như bước hụt, chới
với. Chẳng phải riêng tôi. Mấy chiếc xe hơi chạy ngang, thắng gấp, tiếng bánh
xe cày trên mặt đường rít nghe ê răng. Không có tai nạn. Cũng may. Khi sắp trở
vào thành phố Vĩnh Long, tôi quẹo xe ở ngã ba và trực chỉ hướng Cần Thơ. Tôi đậu
xe lại ở gần ruộng dưa gang và dắt Tuyết xuống bờ đê. Tuyết ngoan ngoãn đi
theo, thỉnh thoảng cười rúc rích. Còn tôi thì chẳng biết gì đến cười nói, thần
kinh bị kích thích căng thẳng, có lẽ mặt tôi lúc đó hắc ám lắm.
Tôi
tìm lùm cây khuất, từ mặt đường ngó vào không thấy phía sau. Tuyết vừa ngồi xuống
là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Mê mẫn, sung sướng, hạnh phúc. Cứ gọi
là hạnh phúc, dù tôi chẳng có định nghĩa nào về hạnh phúc. Cả người tôi cháy
thành một khối đê mê. Tôi đã biến mất.
Sau
cơn cảm xúc mãnh liệt, tôi vội vã, hấp tấp. Loay hoay, luống cuống, bộp chộp.
Tôi trật ngã, thiếu chút nữa lăn xuống rạch nước. Tuyết kịp nắm vai áo tôi giữ
lại.
Và
cơn dục tình của tôi đã được thỏa mãn. Khi đó tôi mới nghĩ tới hôn nàng. Tôi áp
môi trên má nóng hổi của Tuyết và hít chùn chụt. Nàng vuốt ve lưng tôi, trách
mát: “Anh này đồ quỉ! Đã chưa?” và nàng cười rúc rích. Tôi ngồi dậy. Ánh trăng
mát mẻ trên thân thể nàng thật tuyệt vời và hấp dẫn. Mùi ân ái còn thoang thoảng.
Tuyết hối tôi:
− Thôi mình đi về, không có chị Tư chỉ la em. Hồi nãy xin phép đi có một giờ mà
đi quá mạng, hết lên cầu Bắc rồi lại ghé đây.
Tôi
cố tình chọc Tuyết:
− Em nóng ruột thì ra đón xe đò về trước đi.
Nàng
la:
− Đồ quỉ! Thôi đừng cù nhây, đưa em về sớm, mơi mốt chị Tư còn cho phép đi
chơi. Tối nay thứ bảy đông khách mà quán chỉ có mình chỉ với con Liên, lo hổng
xuể.
Tôi
vừa cặp xe vào hông quán, quả nhiên chị Tư Tùng đã cất tiếng:
− Dữ thần hông! Đi đâu mà mất biệt làm chị lo muốn chết. Cậu chở nó đi đâu vậy?
Tôi
phịa đại:
− Thì cũng chạy gần gần đây thôi. Nhưng hồi nãy lên tới cầu Tân Bình thì xe bị
bể bánh…
−
Thôi cậu đừng có nói dóc. Cái tuồng đó tui rành quá mà!
Rồi
chỉ vào bánh xe sơ-cua gắn trên chiếc vespa, chị hỏi:
− Vậy chớ cái gì đây? Còn mới tinh mà nói bể.
Tôi
giả lả:
− Thôi mà chị. Em biết trễ sợ chị la nên nói gỡ gạc vậy thôi, chị thông cảm.
− Ai
mà dám la cậu. Mà thôi mấy người cũng lớn hết rồi, muốn mần gì đó thì mần. Hồi
nãy tui sợ không biết có tai nạn dọc đường gì không mà đi lâu quá, cả hơn hai
tiếng đồng hồ nên mới nói vậy… Cậu cũng biết tui thương con Tuyết lắm, coi nó
như em ruột, gia đình không có nên…
Lúc
đó khách quen tới, chị đon đả chạy ra chào khách. Tôi thừa dịp thoát thân, chạy
qua phía bên kia quán, kéo ghế ngồi ở bàn đặt cạnh bờ sông. Gió từ bên cù lao
An Thành thổi qua mát mẻ. Những dề lục bình chỉ còn là những khối đen lững lờ
trên dòng nước. Nhìn Tuyết chạy lăng xăng khui nước, chặt dừa, xay rau má, lòng
tôi tràn đầy hạnh phúc mến thương. Thỉnh thoảng nàng liếc tôi và cười ỏn ẻn, đồng
lõa. Chập sau nàng đem tới cho tôi một ly cối nước cam-sô-đa với hai tròng đỏ hột
gà nổi lờ đờ:
− Anh uống đi, bổ lắm!
− Bổ
là có chuyện nữa!
− Đồ
quỉ!
Chị
Tư cưng Tuyết cũng phải. Nhan sắc nàng cũng đại khái thôi, nhưng thịt da mơn mởn
dễ nhìn, cười lúm đồng tiền có duyên tuy hai răng trước có kẽ hở. Nàng hay cười
nói vui vẻ nên kéo khách cho chị Tư cũng bộn – trong đó có tôi. Khi đó tôi vừa
đậu xong tú tài đôi, về Vĩnh Long nghỉ hè. Ban ngày tôi họp bạn đánh đàn, đi
thăm người yêu nữ sinh, hoặc ngủ li bì. Ban đêm tôi la cà. Chị Tư thì tôi biết
từ hồi còn học đệ tứ, thuở tôi bắt đầu mặc quần đa-cờ-rông láng coóng, thắt dây
nịt nhỏ, chải đầu trét bi-dăng-tin, đi giầy mỏ vịt. Hồi đó xuống quán là để uống
nước dừa, ăn cơm gà rô-ti, tán dóc với bạn bè. Và theo dõi đàn anh tán gái để
chờ ngày xuống núi hành đạo (hay hành lạc?) Nói quán nghe rườm rà chớ thiệt ra
đó chỉ là một cái chòi bằng thiếc, khi giương thì mở ra bốn phía, khi sập xuống
thì kín mít. Tuyết nằm ngủ bên trong với Liên, trên một diện tích khoảng hai
thước nhơn hai thước. Quán nằm phía cuối chợ cùng với ba quán khác, hai quán
bán cơm, một quán bán nước cạnh tranh với chị Tư. Bàn ghế bắc xung quanh quán,
không có vị trí nhất định. Tôi thường xuống quán rà rà để được ngửi mùi nem nướng
hay thịt bò xào. Mùi thơm ngọt ngào sực nức, khói tỏa mịt mù mà thú vị biết
bao! Tôi không ăn vì sợ ăn sẽ đâm ngán cái thú ngửi mùi đó. Tôi như một cô hồn
thưởng thức đồ cúng. Tôi hạnh phúc mà không hay. Có lẽ nhờ vậy mà hạnh phúc.
Khi hay, hạnh phúc tan biến.
Sống
như con nít ngây thơ, ngơ ngác, lúc nào cũng khám phá, khám phá nào cũng tuyệt
vời. Tôi khám phá đàn bà như con nít trước một rương đồ chơi bí mật. Lắm lúc
tôi cười, nhiều khi tôi khóc. Tôi mê đàn bà, tôi tội nghiệp tôi, thằng ngốc tử.
Tôi tội nghiệp các nàng đã trót yêu thằng ngốc tử.
Dĩ
nhiên, nếu chỉ ngửi thôi thì làm sao sống nổi. Tôi cũng có ăn. Tôi khoái nhất
món hủ tiếu “đầu trọc.” Không phải ăn vô rồi là rụng tóc trọc đầu, mà bởi món
này do một ông chệt đầu trọc gánh đi bán dạo, gõ nhịp lắc-cắc-cụp trên hai miếng
tre ngắn đã lên nước. Hủ tiếu khô của ông có nước sốt gì nâu nâu sền sệt chan
lên ăn là hết sẩy. Xế trưa tôi một tô, Tuyết một tô, ních vô là thấy hạnh phúc
nằm trong tầm tay, đâu cần gì phải đi hành hương xa xôi trắc trở. Lại thêm giọng
cười rúc rích của Tuyết giữa trưa nắng rạng rỡ miền Nam, với ngần ấy thứ mà
không ngửi thấy hạnh phúc thì dù có tu chín kiếp cũng coi như huề cả làng. Chị
Tư không thích hủ tiếu nên thường làm một tô mì hai vắt, cũng mì khô có nước sốt
mầu nhiệm đó chan lên. Chị buôn bán nhưng tánh chị thật thà. Da chị ngăm đen,
môi dầy, mũi lân và… đa tình. Tụi tôi biết vậy nên dụ dỗ kép Thế xuống quán.
Kép này là một tay tứ chiếng giang hồ, lấy đĩ làm vợ, cao lớn đẹp trai, có nụ
cười lém lỉnh như Gene Kelly. Chị Tư chíp lắm. Mà khi chị đã chịu đèn rồi thì tụi
tôi dễ bề làm ăn với Tuyết và Liên. Có quá quắt thì chị cũng làm ngơ. Có chở đi
quá giờ thì chị cũng xí xóa. Dẫu giận mấy, có “anh Thế” xuống là xong ngay.
Thành thử tôi cũng được rảnh chưn rảnh tay “một mình thong thả mần ăn, khỏe quơ
chài kéo mệt quăng câu giầm…”
Lúc
đầu tôi xuống quán bên kia. Một tối Tuyết ngó tôi nheo mắt cười tình mấy cái là
tôi di cư luôn qua quán chị Tư. Tuyết làm bộ hỏi:
− Anh ghé chơi một chút rồi dọt qua bên kia hả?
−
Không, anh lấy cơm tháng ở đây luôn.
Nàng
cười rúc rích:
− Anh giỏi tài ba xạo!
Tôi
cũng chỉ biết nhăn răng ra cười trừ. Rồi tôi tán tỉnh Tuyết ra sao tôi cũng
không nhớ rõ. Tôi vốn đã ít nói. Mà cuộc trao đổi văn nghệ giữa một cậu tú mới
toanh và một em bé bán nước dừa chắc cũng không có câu nào đáng đi vào văn học
sử. Nhưng hai đứa cũng khắng khít nhau ra rít, đâu cần gì phải vô vọng cổ hay
thao thức viết thư tình. Có lần tôi tò mò hỏi Tuyết:
− Em có yêu anh không?
− Em
hổng biết, nhưng em khoái anh!
−
Khoái ở chỗ nào?
− Tại
anh có hàm răng bẹt-lông, cười có duyên thấy ghét.
Perlon
là hiệu kem đánh răng đang được quảng cáo thời đó, với một nụ cười duyên dáng
và hàm răng đẹp. Tôi có ngó vô kiếng cười thử, thấy răng cửa của mình lớn và
hơi gie ra đằng trước, không có gì đáng ca ngợi. Anh tôi bảo mày hô ống điếu
(?) nên cười có duyên ngầm (!). Chắc tại tôi có cái duyên “ống điếu” nên Tuyết
đâm mê.
Còn
tôi, tôi thèm muốn Tuyết. Yêu? Gọi thế nào cũng được. Có đặt tên cho tình cảm
hay không thì nó cũng vậy thôi. Riêng tôi, tôi không quan niệm tình yêu mà
không có tình dục. Nếu ép tôi bỏ bớt một thứ, có lẽ tôi sẽ giữ lại tình dục.
Tôi thường ngạo mấy cô tình nhân khi các nàng từ chối tình dục: “Em yêu anh bằng
linh hồn, còn xác thịt em để cho người khác? Nếu vậy hãy cho phần thứ hai, anh
xin trả lại em tình yêu.” Kết quả tôi lại bị rầy: “Anh khôn thấy mồ!” Té ra yêu
bằng linh hồn là ngu lắm sao? Tôi bị rầy là nàng đã hiểu. Xong. Thành thử tôi
chỉ có một tình yêu duy nhứt không có tình dục: đó là lúc tôi học tú tài một ở
Mỹ Tho và yêu Hoa. Không phải tôi thánh thiện mà vì lúc đó tôi chưa thành quỉ.
Chưa gặp dịp, có lẽ.
Cùng
lúc dâm lụy với Tuyết, tôi lại thánh thiện với Ánh, người yêu nữ sinh. Tôi tới
nhà Ánh ngồi chơi, rất mực là thư sinh ngoan ngoãn. Nói chuyện gì tôi cũng không
nhớ rõ. Nhưng nghĩ cũng phục tôi luôn. Nói gì mà nói nhây hàng giờ, ngày này
qua ngày nọ, mà không sờ mó mân mê gì cả. Phục lăn. Nhưng xét ra cũng chẳng có
gì đáng phục. Tôi đã no nê dục tình với Tuyết, hơi sức đâu mà mơ ước chuyện gì
khác. “Phàm một con hải cẩu…” nhưng tiếc thay tôi chưa bằng được con hải cẩu.
Tôi chẳng bao giờ hẹn Ánh nơi tối tăm nào khác, bên lùm bên bụi hay (người hẹn
cùng ta tới) bên lùm chuối…
Mỗi
tuần tôi phải dắt Ánh đi xem phim Ấn Độ một lần, với bà má vốn mê phim Ấn Độ.
Tôi thường bẻ một chùm bông thiên lý đem theo. Khi trên màn ảnh hoàng tử và
công chúa bắt đầu nắm tay nhau ca múa và lắc lắc cái bụng cà ri là tôi ngủ gật
với mùi thơm ngầy ngật của hoa lý ở đầu mũi. Nhưng tôi được an ủi lúc ra về.
Ánh theo má đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Trăng lên cao, ngọn dừa dật dờ lấp
lánh, dáng Ánh gầy gầy, bóng Ánh ngã trên đường nhẹ hổng như vết chim bay. Tôi
nghĩ nàng chỉ cần đập cánh là có thể bay lên trời, bỏ tôi lại cõi trần gian dâm
dật này cho Tuyết với đôi mông trắng mát. Có lẽ tôi sẽ khóc, nhưng rất bằng
lòng. Tình thực tôi cũng chẳng giấu giếm gì Ánh. Tôi nói tôi ngủ với mấy cô bán
quán. Ánh không tin và cho rằng tôi nói vậy để lấy le. Đến một hôm, Ánh bắt gặp
tôi chở Tuyết chạy ngang nhà, nàng mới bắt đầu ngờ vực là tôi nói… thiệt.
Mà
trong cái tỉnh nhỏ xíu nầy, đi một vòng là gặp nhau hết, nói gì đi quanh quẩn
năm này tháng nọ. Một đêm gần Tết, tự dưng Tuyết nổi hứng thay áo dài mới xanh
lè quê một cục, nhứt quyết đòi tôi chở đi chơi. Tôi thấy Tuyết vui nên cũng chiều
ý. Tôi chạy lòng vòng lạng quạng. Bỗng Tuyết đòi đi nhà thờ gần cầu Cái Cá. Nhà
của Ánh ngay dưới dốc cầu. Tôi bấn quá, mà từ chối thì sợ em buồn. Tết nhứt rồi,
ai nỡ làm vậy. Nhưng lỡ Ánh bắt gặp, chạy ra níu áo rồi mới tính sao đây? “Di
nhân nan! Di nhân nan!” Gần tới cầu tôi nảy ra sáng kiến (nhờ ơn trên?) Tôi
khóa ga xăng, giả bộ xe lên dốc không nổi. Tôi biểu Tuyết xuống và đi bộ qua cầu
vô nhà thờ trước chờ tôi. Chùi bu-di xong xe sẽ vọt ngon lành như trước, tôi
qua sau. Tôi rất ghét nói dóc. Nhưng nói dóc với Tuyết tôi không thấy lương tâm
bị cắn rứt một chút nào hết. Làm như thể…
Tuyết
bỏ gia đình đi hoang năm mười sáu tuổi. Tuyết cùng một tuổi với tôi. Gia đình
Tuyết ở Gò Công. Tôi không rõ lý do ra đi của nàng, hay nàng đã kể rồi mà tôi
không nhớ. Tôi cũng chẳng để ý. Ôm được Tuyết, vật lộn với Tuyết trên bờ cỏ đối
với tôi là quá đủ. Nếu có ai dọa sao chổi xẹt xuống làm tan băng hà ở Bắc cực,
nước sẽ dâng lên cao ba thước khắp địa cầu, tôi cũng coi như pha. Chỉ cần bụi cỏ
đen và đôi vú trần của nàng, kỳ dư tôi chẳng ăn nhập gì với quả đất quay nhanh
hay chậm. Tôi là một vệ tinh vô danh tiểu tốt quay chung quanh ngực và mông
nàng, quay điên cuồng và hạnh phúc. Cho đến ngày nổ tung trên trục quay, hay đến
lúc tôi lạc quỹ đạo đâm sầm vào hành tinh mẹ và cả hai đều bốc cháy tan tành,
trả lại bụi sao cho ngân hà, cho nguyên thủy, cho khai thiên lập địa, không có
âm, không có dương, không có tôi, không có nàng, không có đam mê, không có dâm
luyến, tôi với nàng chỉ là một. (Bởi duyên cớ nào khiến ta thành hai?).
Khi
trước tôi ở nhà má tôi, gần rạp hát. Mùa hè năm đó tôi dời đô về nhà ba tôi ở dốc
Cầu Lộ cho dễ bề hành hiệp. Nhà ba tôi là tiệm mộc nên giường chõng tha hồ. Đi
chơi khuya về thấy mùng giăng sẵn, giở lên không thấy ai là cứ chun vô ngủ. Tối
tối tôi đi đón Tuyết về. Có lúc trời nóng, gặp ba tôi còn ngồi ngoài hàng ba
phơi bụng hút ống vố, nàng khẽ cúi đầu:
− Dạ, chào bác.
Ba
tôi cười khì khì đồng lõa, hỏi vớ vẩn:
− Tiết đó hả? Lóng rày bán khá không cháu?
− Dạ
khá.
−
Cháu khá mà bác coi bộ thằng Kiệt nó hơi xanh.
− Dạ…
− Tuyết ấp úng.
Tôi
đỡ lời:
− Tuyết có cho tui uống cam-sô-đa hột gà hoài đó chớ.
Tuyết
quay lại la tôi:
− Đồ quỉ!
Một
bận tờ mờ sáng chúng tôi còn mê mệt ôm nhau ngủ thì ba tôi lay dậy:
− Mau mau! Vọt! Má mầy tới!
Tôi
còn đang lính quýnh, ba tôi kéo Tuyết chạy ra nhà sau, giấu nàng trong cầu
tiêu. Tôi giả bộ ngủ tiếp. Má tôi (có lẽ ai mét) ập vào kinh lý. Bà giở mùng thấy
thằng quý tử say ngủ chèo queo một mình nên yên bụng ra về. Tôi ra cầu tiêu kiếm
Tuyết. Sau hồi chới với chúng tôi ôm nhau cười ngất.
Nàng
hỏi:
− Sao má anh khó quá vậy?
Tôi
vớt vát:
− Chắc bả canh ông già chớ đâu phải rình anh.
− Vậy
mà làm em cũng hết hồn.
Ba
tôi trấn an:
− Ôi! Hơi sức nào mà lo! Bề gì đã có tao đứng mũi chịu sào. Cùng lắm là bả bắt
thằng Kiệt về nhà dưới ngủ, không cho ngủ ở nhà tao nữa.
− Ý!
Đâu có được!
Tôi
phản đối tức khắc. Nhưng cũng may, mọi việc vẫn cứ tiếp diễn như trước, đêm đêm
tôi đi đón Tuyết về. Đêm nào tôi ngủ quên thì Tuyết tự động ngồi xe xích lô về.
Tuổi mười tám sao hăng quá sức, đêm nào cũng như đêm nấy. Tôi thấy đời tôi quá
đầy đủ, không dư không thiếu một chỗ nào hết. Đôi khi quá hăng say, tôi đã được
một anh thợ của ba tôi lưu ý:
− Thầy Sáu ác quá! Cái đi-quăng bữa nay giao cho người ta mà thầy làm sao ố hết
trọi, báo hại tui phải cạo sơn lại.
Rồi
anh chỉ mấy vết vân vân trên mặt gỗ sơn làm tôi cũng hơi quê, nhưng cũng hãnh
diện ngầm, sự hãnh diện ích kỷ của con thú đực.
Một
đêm, xảy ra chuyện “trục trặc” với Lộc, anh tôi. Tuyết giận, lẵng lặng bỏ về.
Buổi
trưa tôi xuống quán gặp Tuyết đang ngồi ăn cơm với chị Tư và Liên. Chị Tư mời
lơi:
− Cậu Kiệt ăn cơm.
Được
lời như cởi tấm lòng, tôi kéo ghế xáp vô bàn ăn liền. Để kiểm điểm, tôi gọi
thêm một dĩa phá lấu. Tôi gắp một miếng ngon bỏ vô chén của Tuyết. Tuyết cũng gắp
lại cho tôi một miếng và cười rúc rích. Nàng cười là coi như tôi đã được tha thứ.
Như vậy là huề. Tôi được thể kể thêm chuyện tiếu lâm cho mọi người cười cho vui
bữa.
Ăn
xong, Tuyết kéo tôi ra bàn gần bờ sông ngồi hóng mát. Tuyết đi thẳng vào chuyện
đêm qua:
− Sao hồi hôm anh làm kỳ vậy? Em mắc cỡ muốn chết.
Mặt
Tuyết đỏ gấc, cả vành tai cũng đỏ.
− Em
thương anh mà sao anh làm kỳ vậy?
Tôi
sượng trân, không biết trả lời sao. Tôi ấp úng:
− Anh cũng thấy kỳ thiệt… Nhưng chuyện xảy ra quá bất ngờ, anh đâu có muốn như
vậy. Em giận anh lắm hả?
Nàng
ngẫm nghĩ một hồi rồi lắc đầu. Tôi cảm động nắm lấy tay nàng. Nàng liếc tôi mỉm
cười:
− Thôi bỏ qua chuyện đó. Mà anh đừng có làm vậy nữa nghen. Em thương anh chớ
đâu có thương anh Lộc, bộ anh không biết sao?
−
Anh biết chớ… Thôi anh xin lỗi em.
Tôi
nói tôi biết chớ thiệt ra tôi chẳng biết khỉ mẹ gì hết. Tôi là thằng ngốc tử.
Cho đến bây giờ, khi tổng kết tình hình quốc tế, tình hình quốc nội và tâm lý
ái tình đời mình, tôi cũng chẳng biết là tôi có yêu ai không nữa. Tôi đam mê,
nhiều lúc muốn tự vận thì có. Yêu? Còn phải hỏi lại. Biểu tôi định nghĩa tình
yêu tôi cũng bí luôn.
Sau
lúc con thuyền tròng trành, tôi và Tuyết trở lại khắng khít nhau như trước. Như
không có chuyện gì xảy ra. Tôi lấy thêm một quyết định sáng suốt: Nếu thằng cha
anh tôi còn dở trò lạng quạng là tôi sẽ quyết liệt mời hắn đi chỗ khác chơi. Bằng
võ lực nếu cần. “Ối thôi tôi mời cậu đi ra cho lẹ, nếu còn ở đây ắt sanh tử với
tôi!” Hắn cũng nằm lòng câu hát đó.
Sau
nhà tôi là một sàn nước, trên có để mấy cái lu. Thợ thuyền thường mặc quần xà lỏn
tắm lộ thiên trên sàn nếu làm biếng tắm sông. Lần nào Tuyết về với tôi cũng quá
nửa đêm, lối xóm ngủ hết. Tuyết tắm lộ thiên. Tôi có cái thú đứng ngắm Tuyết tắm.
Thân thể Tuyết trắng muốt, ngực Tuyết no tròn, đứng sững đẹp tuyệt. Đã bao lần
tôi ngã chết trên đó. Mà rủi có chết luôn tôi cũng không hối tiếc. Canh khuya dế
kêu rỉ rả. Khi nàng xối nước ào một cái thì lũ dế êm tiếng. Khi nàng kì cọ thì
tiếng dế lại trỗi lên. Có nhạc, có mỹ nhân, nghê thường là đó. Nếu Tuyết biết
ăn nói văn chương và biết khảy đờn, tôi sẽ ngờ nàng là hồ ly tinh. Ôi con hồ ly
yêu dấu! Tiếng em kỳ cọ trên thân ngà nghe sao mà dâm tuyệt!
Tôi
khổ sở nhứt là lúc mỗi tháng Tuyết treo cờ đỏ hưu chiến mấy ngày. Vào thời kỳ
này đàn bà hay quạu cọ mà tôi còn quạu hơn Tuyết. Tôi đứng ngồi không yên như bị
táo bón, nhăn nhăn nhó nhó như khỉ ăn ớt. Khi nàng hạ cờ xuống là tôi mừng
quýnh như con nít má đi chợ về. Nàng lại có dịp la tôi: “Đồ quỉ, làm gì dữ vậy?”
Nàng treo cờ, tôi khổ sở. Nhưng nàng không treo cờ, lại là một nỗi bận tâm
khác.
Một
lần nàng nói nhỏ với tôi:
− Sao tháng này em trễ quá, có hơn hai tuần rồi. Lỡ em cấn rồi làm sao hả anh?
Đã không
lo, trái lại tôi còn thấy vui:
− Cấn rồi thì mang bầu.
−
Mang bầu kỳ chết!
−
Mang bầu thỉ đẻ chớ kỳ gì!
− Đẻ
rồi làm sao?
− Đẻ
rồi thì nuôi chớ làm sao?
−
Anh nầy nói nghe dễ ợt. Lấy cái gì mà nuôi đây chớ?
Tôi
đặt tay lên vú nàng:
− Thì lấy cái nầy…
Nàng
hất tay tôi ra:
− Đồ quỉ!
Thấy
tôi cười khì khì nàng cũng tủm tỉm cười theo, hai má đỏ rực.
Cách
tuần sau, một đêm tôi thiếp ngủ, khi giựt mình không thấy Tuyết bên cạnh, tôi
hơi lo sao đêm nay nàng không về. Trưa hôm sau, xuống quán thấy có một mình chị
Tư. Tôi hỏi Tuyết đâu.
−
Tuyết nó đang nằm trong quán
Tôi
chui vào quán thấy Tuyết nằm co quắp. Tôi đỡ Tuyết dậy, hỏi:
− Em bịnh hả?
Tuyết
xanh ẻo thều thào:
− Em mệt.
Chị
Tư nói thêm:
− Tuyết nó bị thuốc hành nên mệt.
Cách
đây mấy bữa tôi nghe chị Tư bàn lén với Tuyết về vụ đó. Tôi nắm vai Tuyết lắc lắc:
− Em phá thai phải không?
Tuyết
cúi đầu không nói. Cơn giận đột nhiên bốc dậy trong tôi bừng bừng. Tôi xáng Tuyết
một bạt tai ngã chúi vô góc quán rồi đứng dậy. Tuyết gục đầu, nước dãi nàng chảy
ra ở miệng. Biểu diễn xong màn tạc-dăng nổi giận, tôi nhảy lên vespa rồ ga
phóng thẳng. Chạy lòng vòng một hồi rồi trực chỉ ngã ba Cần Thơ. Chui vô một
cái nhà sàn gọi bia ra uống. Bà chủ quán còn trẻ. Mặc quần áo xốc xếch, một tay
bồng nách thằng con lem luốc, một tay bào nước đá. Tôi vụt hối hận chua xót.
Tôi bỏ chai bia rồi phóng xe trở lại quán chị Tư.
Nghe
tiếng xe đậu lại, Tuyết lồm cồm bò dậy ra đứng vịn ở cửa quán. Mắt nàng đỏ hoe.
Tóc tai bù xù. Tôi ăn năn quá đỗi. Tôi chỉ muốn chạy thẳng ra bờ sông và nhảy
ùm xuống dòng nước đục (không phải để tự vận). Tôi muốn lội băng qua con sông lớn,
tới cù lao An Thành bên kia. Tôi leo lên đó trốn hết mọi người, ẩn dật ở cù
lao, biến thành con xà niên hay con dã nhơn gì đó. Cho không còn ai nhận ra
tôi, cho Tuyết không còn bao giờ nhận ra tôi, gã bạch diện thư sinh sau cái bộ
mặt lông lá. Môi Tuyết khô queo, tay nàng run rẩy. Trời nắng chang chang. Hai đứa
ngó nhau rưng rưng nước mắt.
Rồi
mùa hè qua. Nắng hết vàng rực. Phượng vỹ hết đỏ. Dế hết còn gáy ở sàn nước. Tuyết
hết còn khỏa thân tắm lộ thiên. Và tôi cũng bị đuổi ra khỏi nghê thường. Hai đứa
vẫn còn khắng khít, nhưng nàng ở lại quán, còn tôi lên Sài Gòn bước vào đại học.
Sau khi đậu tú tài, tôi thi rớt liên miên. Thi công chánh: rớt. Thi trường điện:
rớt! Thi sư phạm: rớt! Thi quân y: đậu. Và đậu hạng nhứt, ngành nha khoa.
Ba
tôi vốn ghét nghề “nhổ răng và thiến heo” của đám hành nghề dạo trong xóm nên
ông chửi tôi tàn canh gió lạnh vì tôi thi đậu ngành nhổ răng. Ông nói:
− Tao với má mầy gia tài còn có mấy cái răng ăn cháo, bộ mầy tính học về nhổ
luôn cho hết hả? Rồi bà con đau bụng đẻ, rước mầy tới, mầy nhổ răng cho chết
luôn hay sao? Mầy học cái nghề gì mà ác ôn quá vậy?
Tôi
nản quá nên bỏ ngành quân nha. Tôi lêu bêu vào năm đầu đại học khoa học. Tôi lạc
lõng mất hướng. Tôi chỉ mong cuối tuần để vọt về Vĩnh Long. Có lúc kẹt xe, tôi
về tới thành phố thì trời đã tối mò. Tôi ghé nhà Ánh trước vì gần bến xe. Nhà
nàng ngủ sớm (ông già làm thầy giáo). Một tay gõ cửa mà tay kia tôi còn lận
theo khúc bánh mì thịt chưa kịp ăn.
Chị
nàng ra mở cửa la lên:
− Ánh ơi! thằng Kiệt nó về.
Ánh
chạy ra mừng rỡ. Tôi ghé vào nói chuyện láp dáp một chút rồi vọt, hẹn bữa sau
trở lại. Tôi kêu xe lôi đi thẳng xuống quán. Trên đường, tôi tạt ngang báo cho
ba tôi biết tối nay tôi ghé ngủ nhà để ổng cho đem mùng ra tối về có mà giăng.
Thấy tôi về, Tuyết cũng mừng lắm. Lại một tô hủ tiếu “đầu trọc”, một ly
cam-xô-đa hột gà. Và tôi lại chết thiếp trên ngực hồ ly, bằng lòng, hạnh phúc.
Có dạo
bận học quá, cả tháng không về được, tôi nhận được thư Tuyết. Nàng viết: “… Anh
biết hông, mỗi bữa chiều em bắc ghế ra ngồi trước quán ngó ra đường thấy người
ta đi qua đi lại, em nhớ anh thấy mồ. Chừng nào anh học thuộc bài hết rồi thì
anh mau mau về đây cho em thả mãn…”
Trong
thơ nàng kèm theo một tấm hình sau lưng có viết mấy chữ: “Em xin tặng anh một
đá hoa hồng để làm kỳ nhiểm. Tuyết.”
Kỳ
nhiễm? Hay kỷ niệm? Tôi đoán lờ mờ. Chữ nghĩa không làm tôi bận tâm, nhưng khi
nhìn tôi đâm lo. Thường thì mấy cô nữ sinh cầm nhánh bông hay đóa hoa để làm
duyên khi chụp hình. Đàng nầy Tuyết cầm hẳn chậu bông đưa thẳng ra một bên,
phía trên có cụm hoa hồng bằng nhựa màu. Tôi chỉ sợ nàng mỏi tay buông ra bất tử
thì đổ nợ. Thà nàng giả bộ leo lên máy bay ló đầu ra chụp hình như anh tôi mà
coi bộ còn khá hơn. Chớ cầm chậu bông kiểu này là kiểu chết con người ta. Bữa nọ
thằng bạn lục bóp tôi, lôi ra tấm hình Tuyết, ngắm xong, đọc xong, nó bèn ngửa
mặt lên trời cười hô hố, chảy cả nước mắt nước mũi. Tôi quê quá nên từ đó giấu
biệt hình nàng.
Trở
lại việc học vấn của tôi. Trong cái rủi mà còn có cái may. Một bữa nọ, nhờ phất
phơ trong Chợ Lớn tôi gặp một thằng bạn cũ khá thân. Nó kéo tôi về nhà ở đường
Da Bà Bầu tán dóc. Khi mở hộc tủ kiếm cây viết, nó chợt à một tiếng rồi lôi ra
một xấp giấy đưa cho tôi. Đó là đơn xin du học Canada. Nó nói tao quá tuổi rồi
xin không được, mầy nhỏ hơn tao hai tuổi, đậu hai tú tài hạng bình nên xin có
hi vọng lắm. Tôi nhắm mắt điền đơn, nạp đại rồi quên bẵng. Ba tháng sau, đùng một
cái tôi được mời khám sức khỏe, làm thủ tục xuất dương: tôi đã được chọn. Tôi cầm
tấm giấy mời chới với. Có bao giờ tôi nghĩ tới hay mơ ước chuyện xuất dương.
Nhà tôi đủ ăn, ba má tôi dốt nát. Tôi là một thứ cao bồi hương thôn. Dù tôi có
bận quần jean’s cỡi bò đi chăng nữa, là cũng để chà lết ở miệt vườn. Thế giới của
tôi có cù lao An Thành, có cây đa Cửa Hữu, có cái miễu Bà, có cầu Cái Cá, có bến
xe đò. Và có cái quán nước của chị Tư Tùng. Và trong quán nước có Tuyết, dĩ
nhiên. Tôi không muốn đi đâu hết.
Tấn
thối lưỡng nan. Ông anh thứ ba (không phải Lộc) của tôi biết vậy nên đặc cách
cho một lâu la của anh dắt tôi đi làm hết mọi giấy tờ. Thành thử tôi kẹt cứng.
Tôi chẳng biết gì về Canada hết ráo, từ nguồn gốc cho tới ngôn ngữ. Má tôi hỏi:
“Nghe anh Ba mầy nói mầy sắp đi Cá Bá Đại há? Nghe nói ở đó ngập nước quanh năm,
mầy qua bên đó mần chi vậy?” Tôi bí. Phải chi bà hỏi ở chợ Vĩnh Long có mấy cái
quán cóc, quán nào bán cơm quán nào bán nước, quán nào có mấy cô, tên gì, mấy
tuổi… Tôi bảo đảm sẽ trả lời rót rót, đúng đến chín chục phần trăm.
Nhưng
rồi mọi việc cứ tuần tự diễn tiến, theo một trật tự bất kham. Bánh xe du học cứ
lăn tới và kéo tôi ra cái cứ địa “cao bồi hương thôn”, mặc tình cho tôi trì kéo
lại. Còn ba tháng nữa sẽ xuất dương, rồi hai tháng, rồi một tháng, rồi nửa
tháng. Rồi chỉ còn một tuần lễ. Tuyết có theo dõi tình hình quốc nội do Lộc báo
cáo nên nàng cũng khăn gói lên Sài Gòn để gặp tôi, vì tuần chót tôi kẹt luôn ở
thủ đô để lo giấy tờ, thủ tục, thông hành, hối đoái v.v… Một tối, nàng hẹn gặp
tôi trước rạp Khải Hoàn, không phải để coi hát, mà là để giã biệt. Đúng hẹn,
tôi dắt Tuyết qua chợ Thái Bình ngang rạp hát. Nàng đi guốc mộc xanh, bận quần
sa-teng trắng, áo xá xị màu hường lợt. Lần đầu tiên tôi để ý nàng vẽ mắt đen,
tô son lợt và đeo bông tòn teng. Coi cũng hấp dẫn lắm. Nhưng tôi thích Tuyết tắm
truồng xối nước ở sàn nhà hơn. Tuy nhiên, tôi cũng khen nàng một câu lấy lòng.
Tôi
đề nghị nàng kiếm gì ăn cái đã, vì lúc đó đã hơn mười giờ đêm mà tôi chưa ăn gì
từ chiều. Nàng đồng ý. Tôi hỏi nàng muốn ăn gì, nàng đáp tùy ý anh, em không
đói. Không có hủ tiếu đầu trọc, tôi đề nghị nàng ăn mì ở một cái xe đẩy trong
chợ. Xe cẩn kiếng đủ màu kể lại sự tích Tam Quốc có Quan Công mặt đỏ, sau nồi
xúp nghi ngút là một xì thẫu bụng phệ, không trọc đầu nhưng tôi tin tưởng. Tôi
kêu một tô mì đặc biệt có mì và hoành thánh trộn lẫn. Còn nàng, một chai xá xị
Con Nai.
Bụng
đói nên tôi cúi gằm đầu ăn một mách gần hết mới ngửng lên gợi chuyện:
− Em lên đây hồi nào?
− Hồi
chiều hôm qua.
−
Lên đây em ở đâu?
− Ở
đậu nhà bà dì con Liên trong chợ Bàn Cờ. Còn anh, bữa nào thì đi Da… Da… Cá Đại,
hay cái gì Da Da đó?
− Bữa
nay thứ ba. Còn đúng một tuần nữa thì anh đi. Đi Gia Nã Đại.
−
Cái gì Gia?
−
Gia Nã Đại.
− Ờ,
vậy hả? Gia Nã Đại! Cái tên gì kỳ thấy mồ, nói muốn trẹo bản họng. Nghe nói bên
đó đất thấp nước ngập dữ lắm phải hông?
Không
biết ai đồn cắc cớ như vậy. Tuyết cũng hỏi một câu y chang như má tôi. Tôi giải
thích: Em đừng có lộn Gia Nã Đại với xứ Hòa Lan. Nàng càng mù tịt nên tôi lảng
sang chuyện khác.
− Em
có tính ở lại Sài Gòn để đưa anh lên máy bay luôn không?
− Ý,
đâu có được! Chị Tư bị cúm hổm rày nằm liệt địa. Quán chỉ có mình con Liên coi,
bê búi lắm. Sáng mai em phải về. Hơn nữa…
Nàng
ngập ngừng:
− … Hơn nữa gia đình anh, em chỉ biết có ba anh và anh Lộc. Má anh lại khó nữa,
khi không em nhào vô đưa anh đi coi kỳ chết.
Thiệt
ra nếu nàng đòi đưa tôi ra tới tận phi trường mới là đổ nợ. Vì hôm đó sẽ có Ánh
tiễn tôi, chương trình đã in như vậy rồi, cáo phó đâu có kịp nữa. Tôi dò dẫm:
− Em về dưới rồi tính làm cái gì ăn?
−
Thì bán quán chớ làm cái gì?
− Bộ
em tính bán quán hoài sao?
−
Không bán quán chớ anh biểu em làm cái gì bây giờ?
Tôi ỡm
ờ:
− Thì chờ anh học thành tài về nước cưới em.
Nàng
ngó tôi hoài nghi:
− Anh đừng có nói giả ngộ. Bản mặt anh mà cưới em!
Tôi
kênh kênh:
− Thiệt chớ! Em mà dám chờ thì anh cũng dám cưới cho mà coi.
Nàng
nghiêm mặt (ít khi tôi thấy nàng nghiêm như vậy) làm thằng nhỏ hơi teo:
− Hồi thuở giờ em có biểu anh cưới em lúc nào đâu mà bữa nay anh phát thinh nói
kỳ cục vậy?
Mắt
nàng hoe đỏ. Tôi sợ nàng khóc bất tử nên gạt ngang:
− Em không tin thì thôi, anh không nói nữa.
Nàng
ngó tôi ngần ngừ:
− Mà em hỏi thiệt, anh có thương em hông?
− Có
nói em cũng không tin nên anh không nói.
Nàng
nài nỉ:
− Hồi nào tới giờ em đâu có hỏi, bữa nay em mới hỏi thiệt anh chớ: có thương em
hông đó?
−
Thương chớ, thương đứt ruột.
Thấy
nàng chưa chịu tin, tôi đưa một ngón tay lên thề:
− Đứa nào nói láo cho ông Táo đội nồi cơm.
−
Anh thiệt là ba xạo!
Nàng
cười, tôi cũng cười theo. Nàng cười là tôi đỡ lo. Nàng cười là tôi đã được tha
thứ, chấp nhận. Tôi nắm tay nàng ngó trân trân:
− Bữa nay em đẹp lắm… Anh muốn ngủ với em một đêm chót.
Nàng
ngần ngừ:
− Bộ anh tính đem em về ngủ nhà anh hả?
−
Anh tá túc nhà anh Ba. Má anh cũng ngủ ở đó… Anh về nhà em được không?
− Ý,
nhà dì con Liên em đâu có quen. Hơn nữa nhà có chút xíu, dì ngủ trên gác còn em
ngủ bộ vạt ở dưới với mấy nhỏ. Anh tới đó làm quỉ đâu có được!
Chợt
ngó lên trời tôi đề nghị:
− Hôm nay có trăng lưỡi liềm, hay anh chở em dạo một vòng ra Bình Điền, ở đó có
cây cối…
Nàng
gạt ngang:
− Ở dưới mình khác, ở đây khác. Anh làm bậy bạ lính bắt là hết có đi Gia Cái Đại
luôn đó. Anh ẩu tả, bữa đó ở Cầu Bắc về anh thiệt thành quỉ… Em mà níu anh
không kịp là anh lọt tuốt xuống mương rồi!
Nàng
cười rúc rích. Lời Tuyết nói vô tình càng kích thích tôi mãnh liệt. Tôi nhớ rõ
lắm, tôi nhớ rõ hết, tôi nhớ đóa hoa thầm kín của nàng lần đầu tiên dưới bàn
tay tôi mân mê, sục sạo, tôi nhớ bụi cỏ đen, tôi nhớ ánh trăng mát mẻ trên thân
dưới lồ lộ của nàng. Tôi thèm muốn điên cuồng, tôi thèm thuồng muốn chết. Tôi
cúi đầu tiu nghỉu, như những lần Tuyết treo cờ đỏ hưu chiến.
Nàng
ngó tôi một hồi coi bộ không êm. Nàng kêu tính tiền, trả tiền rồi nói:
− Thôi mình về anh, khuya rồi.
Thấy
tôi cứ ngồi đực mặt ra đó, nàng nắm tay tôi kéo đi, nói nhỏ:
− Thì anh về với em, về Bàn Cờ.
Tôi
riu ríu theo nàng. Về tới đầu xóm, nàng biểu tôi dừng xe lại, tắt máy, rồi dắt
xe theo nàng. Đi quanh co một hồi tới một căn nhà lợp tôn, nàng ra dấu là đã tới.
Tôi dựng xe, theo nàng đi vòng cửa sau mở khóa vào nhà. Bên trong chỉ có một
bóng đèn nhỏ thắp tù mù. Bốn phía vắng lặng. Nàng chỉ lên gác, đưa một ngón tay
lên môi ra dấu cho tôi giữ im lặng. Tôi tuột giày ra. Nàng nắm tay tôi dắt vào
nhà tắm nhỏ hẹp, bên trong kê một cái lu nước và một cái khạp thấp. Nàng khép cửa
lại tối om, tôi không thấy gì hết. Tôi nghe tiếng sột soạt. Tôi cũng trút bỏ quần
áo theo nàng. Tôi mở hờ cửa cho ánh sáng đỏ lọt vào. Ánh sáng đỏ trên da lụa
càng tăng thêm kích thích, tôi muốn cắn lên đó. Tôi mở rộng cửa phòng tắm cho
ánh sáng tù mù vào đầy. Tôi hạnh phúc muốn phát điên. Tôi sắp nổ tung như một
bóng đèn quá cường độ. Tư thế bất tiện mà tuyệt vời. Ngực nàng rung rinh, đôi
bông tai nàng lắc lư, đôi mắt nàng khép hờ mở nửa cánh thiên đường cho tôi lọt
vào (và lạy trời cho tôi đừng lọt ra nữa). Trong trận mưa dục tình, tôi hôn
nàng khắp mình mẩy (tôi chưa hề hôn nàng như vậy). Hai đứa ôm riết, không muốn
rời, không nỡ rời, không chịu rời. Tuyết! Tuyết! Tuyết!
Buổi
chiều hôm sau, đứng một mình ở bao lơn, tôi chợt nhận thức Tuyết đã lọt khỏi tầm
tay tôi biệt mù. Nàng đang ở đâu đó bên bờ Tiền Giang có gió mát, trăng thanh,
hay đang nằm dật dựa trong quán. Nàng đang chặt dừa, xay rau má xôn xao giữa
đám khói tỏa mịt mù của sườn nướng. Tôi chợt lo sợ vu vơ. Tôi lo sẽ không bao
giờ còn gặp lại nàng nữa.
Nhà
anh tôi ở đường Hùng Vương, cạnh đường rầy xe lửa. Bên kia đường là dãy bàng
cao, rất cao, lá lớn xào xạc. Buổi chiều sắp hết, trời chạng vạng. Cơn mưa chiều
vội vã đến, rồi vội vã đi. Gió không có hướng nhất định, lay lắc lá bàng, nước
rơi lộp độp. Tôi chợt sợ hãi, ruột quặn thắt. Bên tôi không có Tuyết, không có
Ánh. Mai mốt đây không có người tình quán nước, không có người yêu nữ sinh, chắc
tôi không sống nổi (tôi nghĩ vậy). Trong cơn bàng hoàng, đầu tôi chợt lởn vởn
bài thơ tôi muốn viết tặng người yêu và người tình:
Tôi
đã khóc như thành đô đã khóc
Mưa chiều nay đánh đắm ngõ đi về
Dãy bàng cao u đọng chút sầu tê
Và rỏ lệ như lòng tôi đã khóc
Tôi
sẽ chết như hoàng hôn đã tắt
Mây bay đi không cuốn được u hoài
Chớm đêm về mưa gió sẽ chia tay
Cho lá nhớ mưa buồn dâng ướt mắt...
Rồi
tôi đi du học. Những năm lang thang ở xứ người, tôi đã yêu những cô gái khác,
ôm ấp những bộ ngực khác, mân mê những bụi cỏ sắc màu khác, chết giấc bên cạnh
những hồ ly khác. Tôi quên bẵng Tuyết. Có lúc tôi yêu đời, có lúc tôi muốn tự vận.
Nhưng may mắn tôi còn sống sót về nước sống giai đoạn bi thương của xứ sở −
cùng những hồ ly khác nữa của quê hương, giữa cái chết và cái sống dằng co mỗi
giờ mỗi phút.
Ngày
về, một nửa những người khi trước đưa tiễn tôi lên đường đã ra đón tôi. Có ba
tôi, có má tôi, có Ánh, có Lộc, v.v.. Dĩ nhiên không có Tuyết. Mọi người kéo về
nhà anh Ba tôi ăn mừng. Tôi mệt quá lăn ra ngủ một giấc, mơ thấy những chuyện
trên trời dưới đất.
Bữa
chiều, tôi đang đứng bên đường rầy xe lửa, chợt ba tôi tới bên cạnh tôi hỏi:
− Ờ Kiệt, mầy còn nhớ con nhỏ Tiết không Kiệt?
Tôi
giựt mình:
− Nhớ chớ ba. Tui nhớ chớ. Bộ nó còn bán quán hả?
Ba
tôi lắc đầu:
− Nó đã đi lấy chồng.
Tim
tôi chợt nhói. Ba tôi nói tiếp:
− Tội nghiệp! Con nhỏ đó có lòng lắm. Nó ghé thăm tao hoài và bận nào nó cũng hỏi
thăm mầy. Hai năm trước, lúc đi lấy chồng nó có lợi nhà mình lựa mua cái tủ ba
buồng chở về Tân Bình. Chồng nó có tuổi, góa vợ, buôn bán coi mòi cũng khá. Năm
rồi nó mang bầu nhưng rủi ro có chửa ngoài tử cung. Khi hay được đem vô nhà
thương thì trễ quá cứu không kịp…
Mình
mẩy tôi vụt lạnh ngắt, xây xẩm. Tôi băng qua bên kia đường Hùng Vương, đi dọc hết
dãy bàng cao rồi chui vào một quán nhỏ. Bên ly bia tôi ngồi khóc lặng lẽ. Tôi
muốn dằn cơn khóc mà nước mắt cứ vọt ra. Tay bưng mặt, tay ôm bụng, tôi tưởng
chừng như ruột gan mình đang đứt ra từng đoạn một. Tôi giận tôi, tôi giận đời sống,
tôi giận đủ thứ. Sao đành để Tuyết nhận chịu bất công như vậy? Trong lúc nàng
đi lấy chồng đàng hoàng (không phải với thằng giỏi tài ba xạo như tôi), muốn
làm ăn đàng hoàng, muốn có con đàng hoàng thì nàng lại lăn đùng ra chết. Chết tức
tửi. Dãy bàng cao còn đó, bài thơ học trò tôi tính tặng nàng hãy còn đó, dù chẳng
bao giờ nàng đọc, có đọc cũng chẳng bao giờ nàng thích:
Đốt
hoàng hôn vỡ thành theo khói thuốc
Ai dày vò mà khói thuốc cong queo
Gió cuốn vội vàng mây phải bay theo
Và tôi gục ngã như hoàng hôn giẫy chết.
Nhưng
không phải tôi, mà là “nàng đã gục ngã như hoàng hôn giẫy chết.” Tôi thương Tuyết
bạc phước của tôi, tôi nghĩ tới những người con gái bất hạnh. Không bao giờ tôi
còn được cái thú viết vớ va vớ vẩn để tặng nàng như thuở còn là học trò nữa.
Tuyết ơi là Tuyết ơi!.
Thôi
nhé em về yên Xóm Cỏ
Sự đời đã trải cuộc yêu đương
Nhớ nhau vẫy bút làm mưa gió
Cho nắm xương tàn được nở hương [1]
Chú thích:
[1] Thơ Trần Huyền Trân.
Diệp Minh Tâm
Theo https://tamdiepblog.wordpress.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét