– Chưa lập gia đình, chắc tại anh còn kén đấy chứ phải không ạ?
Người đàn ông đối diện với Thư hơi có vẻ lúng túng. Duẩn quay nhìn Thư bắt gặp cái cười mỉm trên khuôn mặt trắng im lìm trong bóng chiều chạng vạng. Tự nhiên anh có cảm tưởng đó là khuôn mặt của một pho tượng. Cái ý nghĩ đó Duẩn có từ dạo quen biết Thư khi hai người còn học ở dự bị Văn khoa. Thuở ấy còn có cả Cương. Dạo ấy thật vui. Mỗi người đều như có điều gì muốn nói nhưng họ muốn nói lảng sang những chuyện khác để vui nhộn và quên đi những xao động mà chính họ không biết phải đặt tên cho chúng là gì. Duẩn, như tất cả những người đàn ông mập mạp khác, ưa giễu cợt, mặt luôn đỏ gay (có lẽ vì cười nhiều?) và không có ác ý. Anh quen với Thư qua lời giới thiệu của Cương. Về sau anh được biết hai người yêu nhau. Nhưng anh không hiểu được vì sao họ có thể yêu nhau, vì theo Duẩn nhận xét, họ như hai thái cực. Cương yếu ớt, hơi giống con gái, mặc dù nhiều lúc anh tỏ ra là một người trầm tĩnh – thực ra, Cương thiếu tính chất nóng nảy của một người đàn ông thật sự và vì người anh quá mảnh khảnh. Thư, ngược lại, tính nết cứng cỏi, hơi lạnh nhạt, mặc dù vẻ dịu dàng của những đường nét trên khuôn mặt và thân hình. Rồi Cương du học. Duẩn mất tin Thư. Bây giờ gặp lại, bắt chợt cái vẻ im lìm cố hữu trên nét mặt người con gái, Duẩn tưởng mọi sự chả thay đổi bao nhiêu. Có lẽ trông Thư trầm hơn, ở vẻ đẹp và lối nói chuyện. Ba năm rồi còn gì.
– Tôi đã gặp nhiều cô, nhưng họ làm tôi thất vọng. Tôi mong lấy được một người vợ làm cô giáo, làm cô giáo thì hẳn là biết dạy con hơn…
Duẩn cười trong cổ, có vẻ ngơ ngẩn:
– Thật hả anh?
Phấn, người chủ nhà cười hờ hờ. Thư tự hỏi không biết Phấn có biết là Duẩn đùa anh ta không. Thư có ý nghĩ mỗi lần gặp lại Duẩn, nàng thấy anh béo hơn và giễu hơn – phải chăng những người béo thường hay giễu? Thư không tin như vậy. Ông cụ nàng béo, nhưng ông chẳng giễu bao giờ. Lúc nào cũng lầm lì. Có lẽ ông không giễu được vì tuổi già và cái chết đang chờ ông. Những lúc về sau này ông đánh bạc nhiều hơn và thua đậm hơn, lầm lì và buồn bã hơn. Thư sống trong gia đình với cái bóng của ông đè nặng trong tâm hồn. Nói như vậy không có nghĩa là Duẩn hay giễu vì Duẩn trẻ và cái chết còn ở xa tầm tay anh.
Vài đứa trẻ cầm lồng đèn đi qua, gọi nhau ríu rít, mắt nhìn bọn người ngồi bên trong hàng rào, vẻ tò mò. Thư nhìn quanh lơ đãng:
– Có lẽ nên có vài cái đèn xếp treo lủng lẳng cho nó có vẻ…
Phấn bảo:
– Tôi quên mất vụ đó. Nhà có trẻ con thì tự nhiên mình nghĩ đến điều đó…
Giọng anh ta có vẻ bùi ngùi. Thư kiếm một cái cớ để đi ra ngoài. Nàng thấy thèm đi tung tăng – vẫn thèm đi tung tăng.
– Duẩn đi ra chợ Thủ Ðức với tôi đi. Hình như nhà cũng không có đèn cầy phải không anh? Chả lẽ lại ăn và nhảy dưới ánh đèn tube hoặc trong bóng tối mò?
Duẩn:
– Ðịnh chơi lumière hay sao?
Tuy vậy anh cũng đứng dậy, bảo Khánh đưa chìa khóa xe và theo Thư ra ngoài. Một đôi người trong bọn ngồi hoặc đứng rải rác trên nền đất lẫn lộn gạch vụn và cát, hỏi Duẩn đi đâu đấy.
– Ra chợ mua đèn, – Duẩn đáp.
Lúc hai người ra khỏi cư xá trời đã bắt đầu tối. Thư ngồi sát vào người Duẩn. Duẩn nhấn ga cho xe vọt đi. Con đường dẫn vào Thủ Ðức cong cong. Những cây thánh giá trắng nhờ nhờ trong một nghĩa địa bên đường. Những ánh đèn dầu le lói trong một vài mái tranh. Tòa nhà cao của một trường đạo đối diện với những bức tường dài của trại lính bên kia đường. Chợ Thủ Ðức tưng bừng dưới những ngọn đèn sáng. Những buổi chiều tan học kéo nhau lên đây cả bọn bốn năm đứa duy có mình Thư là con gái. Tại sao thích tham dự vào những buổi họp mặt của bọn con trai hơn là gần gũi với các bạn gái mà Thư thường cảm thấy quá e dè ngại ngùng? Duẩn nhớ rằng mình vẫn chỉ coi Thư là một người bạn trai, dù Thư là người yêu của Cương. Cương vừa thích có Thư tham dự vào những cuộc họp mặt này vừa không. Ở người con trai ấy có nhiều điều u ẩn và hơi lãnh đạm. Từ ngày anh đi ngoại quốc, trong những lá thư gửi về, Thư chợt “nhận ra” Cương. Người ta (không?) yêu người khác vì những tương đồng mà vì những điều có thể rất trái ngược. Thư sống như một con mèo hoang thì Cương khép mình trong khuôn khổ mực thước, hoàn toàn lệ thuộc gia đình. Cố nhiên chẳng phải vì người này hay người kia muốn thế, hay có muốn thì cũng chỉ một phần. Ðứng trước Cương, Thư cảm thấy quá cô đơn nhưng không thể không yêu. Cương thương và yêu người con gái với một lý do gần giống thế.
– Thư nghĩ gì vậy?
Thư cười một tiếng ngắn:
– Ngày xưa dạo bọn mình thường kéo nhau lên đây ăn và bây giờ tôi thấy đói. Có lẽ mình nên ăn một cái gì đi.
Duẩn tán thành. Hai người vào một quán ăn trong chợ.
– Duẩn còn nhớ anh chàng Vĩnh không nhỉ?
– Nhớ, nhớ quá ấy chứ. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp hắn ở phố.
– Còn sống với “ma-đàm” kia không không biết?
– Hình như còn. Không thấy nói đến. Hắn vào biệt kích rồi.
– Tôi không thấy ghét anh ta một mảy may. Tôi phục tài hoạt bát của anh ta. Làm sao mà anh ta đóng kịch giỏi thế?
– Thư còn nhớ một hôm anh ngồi ở trên xe đi chơi suối Lồ Ồ, anh ta giảng cho Thư nghe về danh từ “biên tế” không?
– Nhớ. Tôi chỉ thấy mơ hồ hơn sau khi nghe anh ta giảng – mơ hồ như… biên tế vậy! Nhưng tôi lại nghĩ những người học cao thường có một lối định nghĩ tối tăm nên tôi vẫn tin được. Ðâu ngờ anh ta chỉ là một thứ mật vụ quá tài tình! Chính vì cái tài tình đó tôi lại thấy quí anh ta mới lạ chứ! Tôi còn nhớ một hôm anh ta cho tôi xem lá thư tình của một cô mà anh ta bảo là fiancée, cùng học lớp với bọn mình. Anh ta trỏ cho tôi cô gái ấy. Tôi cũng có dịp đứng ở xa nhìn thấy anh đi cặp kè và nói chuyện với cô nàng. Cô ta là một cô gái e lệ, tóc thề buông xỏa vai, lúc nào cũng ngậm góc khăn tay. Ở xa nhìn vào, làm gì mà không tin là nàng e thẹn trước vị hôn phu. Nghĩ cũng buồn cười. Tôi thấy thương bọn mình dạo ấy lạ, thương cái quá khứ hồn nhiên đến thơ ngây đó. Sau vụ phát giác đó, tôi thấy như có một mối nghi kỵ rơi xuống giữa bọn mình… Không biết Duẩn ra sao, tôi thấy Cương có vẻ buồn thành thật. Anh ta vốn sẵn tính đăm chiêu…
Những kỷ niệm kéo về chập chùng chập chùng và ô hợp. Giọng Duẩn trầm hẳn xuống:
– Cũng may hắn chưa khai thác gì được ở bọn mình. Mà nói cho ngay mình có hoạt động gì đâu mà khai thác?! Toàn một bọn chỉ đấu láo phất phơ…
Ừ tại sao mình chưa hề một lần tham dự? Mình sống như một kẻ đi dạo vậy. Một kẻ đi dạo không mấy chút hăng hái hay thảnh thơi. Làm như thể sinh ra thì phải sống, sống cho hết cuộc sống để chết. Và sống trở thành một bổn phận. Một bổn phận? Phải chăng tôi khất lần việc lấy Thục cũng chỉ vì sợ không dám chuốt thêm một thứ bổn phận nào khác? Tại sao không đủ can đảm hủy bỏ lễ đính hôn để cho Thục đi lấy chồng? Tôi không yêu nàng, không hề yêu nàng. Tôi không hủy bỏ lễ đính hôn vì có lẽ tôi chẳng đủ can đảm và cố gắng làm một việc như vậy. Tôi có hèn nhát lắm không? Tôi có bi quan không? Bạn bè thấy tôi cười nhiều – mặt tôi lúc nào cũng đỏ gay, hiện tượng của một người nhiều sinh lực? Buồn cười thật thôi! – chúng nó tưởng tôi không lo âu. Thực ra, tôi ngao ngán quá đấy thôi, ngao ngán hơn cả là mỗi bữa cơm tôi về nhà, thấy mâm cơm úp lồng bàn phần tôi trên bàn và mẹ tôi đi với một trăm hai chục quân, thằng em mười bốn tuổi bỏ đi lang thang. Chẳng có gì giữ tôi ở trong gia đình cả. Tôi cũng thiếu một cái điều mà tôi cho là đẹp và đáng theo đuổi ở ngoài đời. Tôi đi dạy như một cái máy, mê học trò con gái (một cách thầm kín cố nhiên vì bắt buộc thế) như một cái máy và không thấy điều đó là quan hệ, lê la các tiệm cà-phê quen tán dóc với tụi bạn như một cái máy, và đây chính là điều tôi cần. Duẩn nốc cạn ly ba ba, nhìn người con gái đối diện, đôi mắt cận thị không đeo kính – (Duẩn kỵ đeo kính cận) – hồn buồn bã…
o O o
Duẩn bước ra hiên, mở banh khuy áo ngực và thở ra: một ly sec làm anh chuếnh choáng. Thư ngồi bó chân trên bậc thềm, ngẩng lên, thấy anh, mỉm cười. Không biết có phải rượu làm Duẩn thấy Thư đẹp lạ thường hay vì khuôn mặt trắng của Thư hiện trong bóng mờ mờ trông đẹp như một pho tượng. Duẩn có cái cảm giác như một người sống ở ngoài thời gian. Mọi sự vật như ngưng đọng lại, ngưng đọng lại trên khuôn mặt im lìm của Thư. Anh hỏi mà như không nghe tiếng mình hỏi:
– Ngồi ở đây à?
– Trong ấy ngột ngạt quá.
– Có lẽ vì thế mà vừa nhảy với tôi cô Thủy vừa quạt… Cũng có lẽ cô ấy quạt hơi rượu…
Thư cười nhẹ, ngồi nhích sang một bên khi thấy Duẩn ngất ngưởng bước xuống khỏi thềm nhà. Tự nhiên Duẩn có cái ý thích ngồi dưới chân Thư. Ðiều đó gây cho anh một cảm giác vỗ về. Ðiều đó làm cho Thư cảm thấy diệu vợi…
– Còn nói được như vậy à?
Duẩn ngơ ngẩn một lúc, rồi bật cười:
– Thư tưởng tôi say à?
Thực sự là Duẩn chuếnh choáng. Mấy lần trong khi ôm Thủy, anh giẫm phải chân nàng. Duẩn tưởng tượng lại lúc ôm Thủy trong vòng tay. Ở Thủy có một vẻ mộc mạc của một cô gái miền Nam. Nàng không tỏ vẻ bực bội mỗi lần Duẩn giẫm phải chân, cũng như Duẩn coi việc nàng phe phẩy chiếc quạt trên tay là một điều thú vị. Ý nghĩ đó làm cho Duẩn bật cười một mình.
Bên ngoài, tiếng hát của bọn trẻ rước đèn quanh cư xá đã ngưng từ hồi nào. Trăng đã lên cao. Ánh sáng như có màu xanh. Trước giậu, vài ba cái đèn xếp bị cháy xém còn treo lủng lẳng.
– Trông Thư có vẻ buồn?
Duẩn rút điếu thuốc xòe lửa châm hút. Anh đưa bao thuốc mời Thư.
Nàng mỉm cười lắc đầu:
– Tôi bỏ thuốc từ gần mấy tháng nay vì tự nhiên sợ mùi khói thuốc.
– Tôi hút có phiền không?
– Không, không…
Thư nói như cố không nói ra một điều mà trong thâm tâm nàng muốn nói, muốn khoe, với tất cả sự hân hoan. Duẩn cất bao thuốc vào túi áo, thở ra từng vòng tròn khói nhìn theo chúng uốn éo dưới ánh trăng thành từng sợi mỏng dài và tan loãng. Một sự im lặng bao quanh hai người. Tiếng một bản nhạc có tên Adieu Tristesse từ trong phòng vẳng ra hòa lẫn tiếng giày đi trên sàn nhà của những người khiêu vũ. Máy hát cũ quá. Tiếng kèn nghe rè rè.
– Bao giờ thì mình có thể “adieu tristesse” được?
Thư lên tiếng. Duẩn quay lại (anh có giọng nói hơi cao, như có một cái gì vừa gay gắt vừa giễu cợt ở trong đó), nhìn dáng Thư chao động:
– Hết buồn thì còn vui thế quái nào được!
– Nói là nói vậy thôi… Nỗi buồn thực ra tô điểm cho cuộc sống…
– Tối nay Thư vui chứ?
– Vui. Và thanh thản nữa… mặc dù bữa tiệc có phần nào luộm thuộm. Tôi tưởng Duẩn quen với anh Phấn.
– Quen gì. Tôi mới biết ông ta sáng nay.
– Nhân vật ấy cũng hay hay.
– Bây giờ ông ta chỉ thiếu có một cái, là một cô vợ có học thức một chút để cho ông ta có cái cảm giác là mình cũng có dính dáng tí chút trí thức.
Thư cười một tiếng ngắn:
– Kể ra việc đó đâu khó gì, đối với một người có của như ông ta. Nghĩ cũng buồn cười. Không biết ông ta nghĩ sao… Theo tôi, báu gì cái trí thức, nhất lại là một người đàn bà trí thức.
Duẩn quay nhìn Thư:
– Sao có vẻ chửi bới ghê thế?
– Nhiều khi tôi có ý nghĩ giá đừng học, đừng đọc nhiều, mình lại sống dễ hơn. Suy nghĩ lắm đầu óc đâm trì trệ. Lỡ rồi, đành chịu. Tôi có con, sẽ để nó sống hồn nhiên, như cây cỏ… Nói vậy, cũng khó làm như mình muốn. Có thể, rồi thế hệ con mình sẽ khác, không như bọn mình. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng thế hệ bọn mình sinh ra để chịu một cuộc thí nghiệm…
– Thư nói như thể là Thư sắp có con rồi ấy!
Thư bỗng im, xúc động. Một lát nàng cười nhẹ:
– Tôi sắp có con thật, chẳng phải “như thể” đâu.
Duẩn không tin. Thư cảm thấy không thể không bộc lộ niềm vui vẫn lo âu của mình với Duẩn.
– Không tin tôi nói thật à? Hai tháng rồi…
Thư nói giọng run run, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Duẩn nhìn Thư, vẻ ngạc nhiên pha lẫn nét vui mừng trên khuôn mặt. Anh đặt tay lên bụng Thư giản dị, tự nhiên như Thư là người yêu của anh, và dường như đó là điều anh mong đợi.
– Thế… sao trông Thư… tỉnh thế?
Hỏi xong, Duẩn mới thấy mình có vẻ ngây ngô.
Giọng Thư ráo hoảnh, thật nhỏ:
– Không tỉnh, thì say à?
Duẩn rút tay về, nói như nói một mình:
– Vui nhỉ?
Trong phút giây, Duẩn có cái ao ước được úp mặt vào lòng Thư và được Thư lùa những ngón tay vào trong tóc anh, cái cử chỉ của những người yêu nhau thường làm. Nhiều lúc cảm thấy quá thiếu thốn. Duẩn cần một thứ tình yêu pha lẫn tình bạn trong đó. Ðiều đó nghe thật giản dị. Nhưng sao trong thực tế thật hiếm.
Duẩn nghĩ đến Thục. Mặc dù đã đính hôn với nhau, Duẩn vẫn nghĩ đây là một việc làm trái với ý muốn của anh. Tại sao Thư không là Thục nhỉ? Và tại sao Duẩn không là người đàn ông đã cho Thư đứa con nhỉ? Duẩn lẩn thẩn tự hỏi.
Tiếng Thư nghe xa vắng:
– Tôi giữ đứa nhỏ lại, dù tôi biết mình sẽ phải trả một giá rất đắt. Tôi nghĩ biết đâu sự có mặt của nó sẽ thay đổi cuộc sống và những suy nghĩ của mình phần nào chăng? Có thể nó sẽ là sợi dây ràng buộc tôi vào cuộc sống mà nhiều lúc tôi thấy quá chán ngán?…
Thư cảm thấy bị lôi cuốn bởi chính những điều nàng vừa nói ra. Mình có đang ngụy biện? Nàng thầm hỏi. Thực sự Thư không biết những gì đang chờ đón mình ở cuối cùng chặng đường này. Mặc, nàng cứ dấn bước.
Duẩn cảm thấy bất cứ câu hỏi nào đặt ra bây giờ cũng là thừa. Anh hút hơi thuốc cuối cùng, khum hai ngón tay cái và ngón giữa, búng điếu thuốc văng ra xa sang bên kia hàng rào, điếu thuốc đụng phải bức tường của ngôi nhà trước mặt, những tia lửa tóe vỡ như từ một quả pháo bông tí hon, và rơi xuống trong đám cỏ dưới chân tường. Anh đứng dậy:
– Thư vào nhảy với tôi bản này đi?
– Không. Tôi muốn ngồi nghỉ. Tôi muốn được yên tĩnh. Duẩn vào nhảy đi.
Duẩn tần ngần một lát, rồi quyết định đi vào nhà:
– Tôi đi kiếm rượu uống… Thư uống một ly nhé?
Tiếng Duẩn ngập đi trong tiếng nhạc dồn dập ồn ào…
Chiếc xe rời đường Võ Di Nguy rẽ qua đường Chi Lăng. Trời về khuya, đường phố xe cộ thưa thớt. Thư tưởng tượng cách đây vài tiếng, từng bầy trẻ náo nức cầm đèn lồng đi tung tăng trên các đường phố, và trên những sân thượng, từng mâm cỗ trông trăng được bày ra với bưởi, cam, hồng, bánh nướng bánh dẻo, và những con giống xinh xắn đủ màu. Xa rồi những ngày rằm cùng anh chị em náo nức mua sắm. Thư nhớ lại mùa trung thu dạo nào, mấy bố con xúm lại làm một cái đèn kéo quân. Thư có bổn phận vẽ và cắt những hình người – những hình người vẽ lại những mẫu chuyện cóp nhặt trong thần thoại cổ tích. Ông Lư và Thức vót tre làm đèn và dán giấy. Ðèn đốt lên, ba vòng tròn đầy những hình người quay tròn quay tròn. Bố con cùng ngắm tác phẩm hoàn thành và đang sinh hoạt. Cô bé Lọ Lem đuổi theo nàng Bạch Tuyết và những chú lùn nối đuôi cô bé quàng khăn đỏ, xen vào đó là những nàng công chúa thủy cung nửa người nửa cá, những hoàng tử cưỡi ngựa uy nghi… Cả một thế giới thần thoại được dựng lên, đúc kết, sống động. Bây giờ là những buổi tối trống rỗng cần sưởi ấm bởi một ngọn lửa từ bên ngoài, từ những người bạn, từ một vòng tay của người khác phái. Nhưng những tìm kiếm đó chỉ khơi thêm lỗ hổng cô đơn. Vẫn mặc. Như bị lôi cuốn bởi cơn thác lũ, Thư vẫn tiếp tục lao đầu vào, với một đam mê cuồng nhiệt không tên.
Bất giác Thư đặt tay lên bụng. Giọt máu này cũng giống như cơn đam mê kia. Nó chưa có hình dạng, chưa có giống, chưa có tên gọi. Và chưa được nhìn nhận bởi một ai ngoài người mang nó. Và Thư nhìn nhận nó với một nỗi ngây ngất kỳ diệu. Phải chăng đó chính là cái bản năng đầy nữ tính? Cử chỉ của Thư làm Duẩn thôi nhìn về phía trước quay nhìn theo bàn tay của Thư rồi nhìn Thư, mỉm cười. Thư tìm đọc trong nụ cười đó một ý nghĩa. Nàng chỉ thấy trong đó một sự bao dung có pha lẫn vẻ lạ lùng.
– Nó… đạp chưa?
Duẩn hỏi nhỏ vừa đủ cho Thư nghe. Thư lắc đầu, cười nhẹ:
– Làm gì mà mau thế?
Phấn im lặng lái xe không nghe những lời đối thoại giữa hai người. Với hắn, buổi họp mặt vừa rồi coi như lui vào dĩ vãng. Hắn không đạt được điều mà hắn mong muốn, là tìm được một cô vừa ý hắn. Có lẽ hắn thích Thư. Khuôn mặt có vẻ trong sáng. Cái nhìn khôn ngoan lanh lợi. Lối nói chuyện chứng tỏ người có học. Tính nết thâm trầm. Nhưng từ lúc Thư nhận lời đi với Duẩn, hắn tự ý loại nốt Thư khỏi đầu óc.
Thư cảm thấy bàn tay Duẩn vỗ vỗ nhẹ lên vai nàng. Và chiếc xe rẽ vào một ngõ hẹp đường Chi Lăng. Ðường hẻm vẽ một hình cong, vắng ngắt, không một ánh đèn. Lờ mờ một vài bóng cây màu đen sậm. Chiếc xe quẹo thêm một lần nữa về tay trái và nằm lọt giữa hai dãy nhà có những bức tường cao, vôi loang lổ, ít những khung cửa sổ. Hẻm có vẻ một nơi gồm những xưởng – xưởng gì Thư không rõ – nhưng Thư có cảm tưởng như vậy. Vành trăng hiện ra trên bờ một bức tường cao đổ xuống lòng hẻm một ánh vàng nhạt mờ mờ. Thư có cảm giác đang đi vào một thế giới xa lạ không tên gọi. Ðiều đó gây cho Thư một thích thú như người tham dự vào một cuộc phiêu lưu. Thư có thể hỏi Phấn và sẽ được giải thích. Nhưng nàng im lặng để giữ cho mình cái cảm giác ban đầu. Thư cũng có thể bảo với Phấn và Duẩn nàng muốn về nhà và nàng sẽ trở về nhà, sẽ dùng chìa khóa riêng mở cửa, sẽ bỏ giày leo lên căn gác nhỏ bé thiếu khí trời, sẽ thay quần áo trong im lặng, sẽ nằm sấp trên chiếc giường sắt một người của nàng và sẽ tiếp tục nghe ngóng cái sự sống nhỏ bé đang nẩy mầm trong thân thể nàng với một niềm lo-âu-pha-lẫn-thích-thú-riêng-tư-không-chia-xẻ, không-thể-chia-xẻ.
Nhưng một sức lôi kéo làm Thư vẫn cứ tiếp tục yên lặng. Bất giác Thư tự hỏi mà mình mong mỏi gì ở họ, ở Duẩn chứ? Thư biết rằng nếu nàng cứ tiếp tục im lặng, như thế có nghĩa là ngày mai trở về nhà, nàng phải chịu đựng cái nhìn trách móc và dò hỏi của bà Lư. Tại sao từ bao giờ đến giờ hai mẹ con vẫn vô cùng cách biệt? và dường như bà Lư cũng chẳng tỏ vẻ buồn bã, hay ít ra, ý thức về sự cách biệt này. Bà chỉ có một mối bận tâm: đi nhà thờ và cầu nguyện, cầu nguyện như một cái máy cho bà và cho phần hồn của cả gia đình đang dần dần phân tán, mỗi người một ngả. Từ đó Thư có ý tưởng cầu nguyện là một chứng tỏ của sự bất lực. Và Thư khước từ sự bất lực đó. Thư muốn được tin tưởng ở tương lai, tương lai của cuộc sống này, chẳng phải cuộc sống ở bên kia cõi sống phân cách bằng sự chết.
Phấn cho xe dừng lại trước một khung cửa sắt. Ánh đèn từ bên trong hắt ra đổ dài trên mặt hẻm thành một vệt sáng mờ. Một con chó bẹc-giê từ bên trong nhảy xô ra sủa vang. Âm thanh chát chúa như chợt đánh thức Thư dậy cùng với tiếng máy xe vừa tắt ngấm. Không gian tĩnh mịch của con hẻm bị xé toang, kéo theo vài tiếng sủa khác đáp lại từ xa. Phấn mở cửa xe xuống, quát khẽ:
– Ky Ky! Im nào! Ði vào trong nhà!
Con chó nghe tiếng chủ, im bặt, nhưng vẫn còn gầm gừ trước hai người khách lạ lúc ấy cũng vừa bước xuống xe. Tiếng giày đi, lết trên sàn xi-măng. Phấn loay hoay mở cửa sắt. Tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa và đoạn xích sắt đập vào cửa vang lên những tiếng động khô khan. Con chó quýnh quít đập đuôi phía bên trong. Nhưng cửa vừa mở nó thoát ngay ra ngoài. Phấn quát gọi:
– Ky Ky! Ði đâu? Vào nhà mau!
Con chó không nghe, làm một vòng quanh chiếc xe đậu trước cửa rồi cuối cùng theo ba người vào nhà, lúc quấn bên chân chủ, lúc theo đánh hơi hai người khách.
Thư bước chậm chậm, nhìn những khung gỗ la liệt trong ánh đèn vàng kệch hắt lại từ một ngọn đèn tù mù treo lủng lẳng cuối xưởng. Nàng đoán chừng đây là một xưởng dệt. Ðồ đạc lộn xộn chật chội. Phấn bước vội vào phía trong bật thêm một ngọn đèn nữa rồi trở ra loay hoay tra chìa khóa vào ổ khóa một cái cửa ăn thông sang căn bên mặt. Thư đứng lại trong bóng tối. Bây giờ nàng mới cảm thấy mỏi rã rời, chỉ muốn được ngả lưng xuống một cái giường nệm nào đó. Nàng ngó Duẩn lúc ấy đang nhìn quanh dáo dác, vẻ chán chường.
Tuy nhiên Duẩn đã có vẻ tỉnh táo hơn lúc ngồi ở tiệm cà-phê. Anh thọc tay vào túi tìm diêm quẹt lửa châm điếu thuốc. Bàn tay run run. Ánh sáng rung động hắt lên khuôn mặt nhiều thịt, lúc nào cũng đỏ gay của anh và mái tóc bơ phờ. Các bạn thường gọi đùa Duẩn là “Tây say.” Duẩn nhận biệt hiệu đó không phản kháng, không buồn phiền một cách dễ dãi như anh đã dễ dãi chấp nhận nhiều sự việc khác, như việc đính hôn với Thục, chẳng hạn. Tất cả chỉ là một lô những sự tình cờ đến nỗi đôi khi làm Duẩn ngơ ngác mỗi lần nghĩ lại. Duẩn còn nhớ những lý lẽ người ta đưa ra để buộc anh phải làm lễ đính hôn với Thục. Giá Duẩn đừng ra thăm Thục khi nhận được điện tín của nàng báo tin mẹ nàng chết…
Thật ra mùa hè đó Duẩn cũng muốn có một lý do để rời Sài Gòn. Những người như Duẩn có thể làm bất cứ việc gì, đi bất cứ nơi nào không cần lý do. Nhưng đôi lúc để thi vị hóa cho một chuyến đi, Duẩn mong có một cái cớ. Và không có cái cớ nào mà lại thi vị cho bằng ra thăm người yêu và chia sẻ với người yêu nỗi buồn mất mẹ. Sự hiện diện của Duẩn trong đám tang đó ngày hôm sau được truyền đi khắp cái thành phố nhỏ bé nơi ông cụ thân sinh ra Thục giữ một chức vụ quan trọng, để rồi tiếp đó là một cuộc đính hôn giữa Duẩn và người con gái hơn anh đến ba tuổi. Vì thể diện của gia đình Thục và cá nhân Thục, Duẩn về Sài Gòn với chiếc nhẫn đính hôn trên ngón tay mà bà cụ Duẩn đã nghiêm trang đeo vào tay anh, chiếc nhẫn cưới của bà. Bà mẹ anh lại quí Thục vì tính nết hiền lành, ngoan ngoãn. Duẩn chỉ ý thức một điều là anh không thể yêu Thục và ngược lại anh không thể làm trái ngược với ý muốn của mẹ anh. Anh thường ngơ ngẩn mỗi khi nhắc lại cuộc đính hôn bất đắc dĩ này. Duẩn chỉ còn một cách là kéo dài thời kỳ đính hôn để có thể tự do sống với mấy người bạn trai mà anh thương hơn bất cứ ai, ngoài mẹ anh, ở trên đời, kể cả những người con gái mà anh đón nhận bằng một đam mê cuồng nhiệt nhưng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi vài ba tháng để rồi lại nguội lạnh. Mặc dù Duẩn ý thức mình sống không thể không đam mê một hình bóng, nhưng đồng thời không thể sống mãi với một đam mê. Duẩn nghĩ mình là một nguời tình nhân không chung thủy song không thể không yêu đương.
Cái gì đã thúc đẩy Duẩn muốn đổi mới mãi? Có lẽ vì mỗi ngày anh mỗi phải tiếp xúc với bầy học trò con gái lúc nào cũng náo nức trong lứa tuổi dậy thì, những người con gái mang đầy sức sống, những người con gái chứa đựng trong họ sự tươi mát mà cuộc sống nhàm chán và tù túng đang tước đi dần ở người con trai hai nhăm là anh, là những người bạn đồng nghiệp còn trẻ của anh. Chỉ ở họ, ở những người con gái mới lớn, nhiều mơ mộng ấy còn mang cái nguyên vẹn, không âu lo về thời cuộc về trận chiến đang cướp đi dần của anh những người bạn, những người bạn hôm nay còn cười nói trong một kỳ nghỉ phép, ngày mai ngày mốt đã nghe tin chết hay bị cụt tay cụt chân trong một trận đánh nào đó trong trăm ngàn những trận đánh đang diễn ra mỗi ngày.
Tuy nhiên Duẩn cũng tự hào là anh chưa để khổ cho một người con gái nào. Bởi tình yêu của anh dành cho họ đến mau rồi cũng rụng mau, trước khi nó đưa đến những liên hệ sâu xa. Ðiều mà anh quan tâm, mà anh tha thiết, vẫn là những người bạn trai, cái đám bạn trai còn sót lại, đi học, đi dạy, tụ họp, đấu hót, giễu cợt – nhất là giễu cợt – và càng giễu cợt mỗi khi cuộc sống dồn họ vào ngõ bí, khép họ vào những mặc cảm nặng nề, không lối thoát, hoặc có, thì cũng là một ngỏ thoát để rồi lại rơi vào một bế tắc khác.
Thỉnh thoảng, một đôi người trong bọn anh, như Cương, may mắn, có một lối thoát không phải là lên đường nhập ngũ, mà là du học. Và trong những lá thư họ gửi về, Duẩn đọc thấy một chán nãn khác mọc rễ, một thứ mặc cảm khác nẩy sinh. Trong bọn có người, như Quảng, đi xây dựng lại một mớ giá trị đã bị vuột mất, đã bị giễu cợt hóa, bằng cách đi xa, nhận việc huấn luyện những lớp người từ các nông thôn về theo học các lớp đào tạo một căn bản chính trị, tại Vũng Tàu. Quảng đã thành công một phần nào trong việc đi tìm lại những giá trị cần thiết đó. Nhưng phải nhận là Quảng trước đó, vẫn còn ít nhiều quan niệm đứng đắn trong đầu, nhờ giáo dục của ông bố.
Duẩn bỗng nhớ đến cái nhìn tha thiết của Quảng lúc anh quyết định lên xe với Thư về đây và nhờ Quảng sáng mai đến trường xin phép hộ. Duẩn, mày về tao ngủ đi sáng mai mọi sự sẽ bình thường lại, hoặc mày sẽ đi dạy, hoặc mày sẽ nghỉ và ở chơi với tao. Duẩn nói như gắt, sáng mai nếu tao chưa về kịp mày cứ đến trường bảo là tao ốm, tao chán lắm nếu mai phải nhìn mặt tụi học trò, vì thực sự tao cũng đang chán tao nữa đây này. Khi nói điều đó, Duẩn nghĩ là đêm nay sẽ được nằm trong vòng tay Thư, có thể chỉ nằm trong vòng tay Thư hoặc anh sẽ ôm Thư vào vòng tay vuốt tóc nàng, an ủi nàng để nghe như chính mình an ủi mình. Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. Duẩn có cảm tưởng từ mấy năm nay quen biết với Thư, lần đầu tiên anh biết nàng.
Lúc ấy Thư im lặng trong xe nhìn Duẩn và Quảng dằng co nhau trên hè đường sau khi cả bọn ra khỏi tiệm cà-phê. Cuối cùng Duẩn lên xe, đóng cửa lại, bảo Phấn anh cứ lái đi. Phấn cho xe chạy đi. Tiếng Quảng gọi với theo Duẩn và mất hút ở phía sau. Có lẽ chính Quảng cũng đang cần sự có mặt của Duẩn. Qua tấm kính chiếu hậu, Duẩn thấy Quảng lầm lũi băng qua đường. Tự nhiên Duẩn thấy thương Quảng xót xa.
Phấn xô cánh cửa mở rộng. Duẩn bước theo Phấn vào phòng. Căn phòng bừa bãi những sổ sách và thư từ. Ðằng cuối phòng có một khung cửa che rideau thông vào một căn buồng phía trong, Duẩn thả người xuống một chiếc ghế xa-lông kiểu cũ không có nệm đặt ngay chỗ ra vào, thở ra, đôi mắt nhắm lại.
Phấn bật đèn ở trong buồng trong rồi quay ra nói với Duẩn:
– Trong này có giường màn, anh với cô Thư có thể nằm nghỉ.
Duẩn ôm lấy đầu bắt đầu nặng chình chịch. Mỗi lần uống rượu vào, Duẩn thường bị nặng đầu khi cơn say bắt đầu nhạt. Biết vậy nhưng Duẩn vẫn không thể không uống.
– Anh nhức đầu à? Có thuốc đấy. Hồi nãy uống có nhiều không? Nhảm quá. Lẽ ra phải có soda. Tôi quên khuấy mất chỉ vác có chai whisky lên… Ðể tôi lấy thuốc anh uống.
Duẩn xua tay, nói và cảm thấy xa lạ với giọng mình:
– Không sao đâu. Anh cứ để bọn này tự nhiên. Làm phiền anh quá đi.
– Có gì mà phiền. Bây giờ tôi để hai người ở đây. Cần gì cứ tự tiện. Có nước lạnh ở phía sau…
Thư bước vào phòng ngồi xuống trên chỗ tì tay của chiếc ghế Duẩn đang ngồi bóp trán:
– Anh không ở lại với tụi này? Anh đi đâu bây giờ? – Giọng nàng bình thản, hơi mệt mỏi.
– Không, tôi phải trở về Thủ Ðức.
– Bây giờ có lẽ đã tới giờ giới nghiêm anh về tận Thủ Ðức, làm sao kịp?
– Kịp mà. Mới có mười một giờ rưỡi. Cô đi ra phía sau với tôi, tôi chỉ cho một vài nơi cần thiết…
Thư rời chỗ Duẩn, đặt chiếc ví tay lên mặt bàn, bước ra sau với Phấn. Phía sau là một cái xưởng lớn hơn chiếm cả hai căn, nhưng trống hơn. Những khung cửi đặt ngổn ngang. Thư ngước nhìn mái nhà cao, xung quanh gần như không có gì che đậy từ mép tường cao hai thước lên đến mái. Phấn trỏ tay về phía một khung cửa nhỏ nằm tận cuối xưởng:
– Nếu cô cần đi ngoài, lại đó…
Thư nói cám ơn anh.
Thấy nàng nhìn cái máy điện đặt ở giữa xưởng, Phấn giải thích:
– Ở đây chúng tôi dùng điện để chạy máy.
Thư bắt gặp cái cảm giác lạc lõng giữa khung cảnh của một xưởng dệt vào lúc ngưng hoạt động. Nàng thấy mệt mỏi. Thoạt tiên là một bữa tiệc, rồi Duẩn say rượu và yêu cầu nàng ở lại với anh. Thư nhận lời với ý nghĩ là Duẩn đơn độc và cần sự có mặt và săn sóc của nàng. Thư đã từng có những lần say rượu nhưng lần say rượu làm Thư nhớ hơn cả là hôm đi ăn với Cương và Duẩn sau khi tan học ở Văn khoa. Lâu rồi. Hôm ấy Cương đã thức cả đêm với Duẩn, để săn sóc cho nàng. Trong cơn nửa say nửa tỉnh Cương đã hỏi nàng nhiều lần lý do khiến nàng khóc sướt mướt trong khi say. Làm sao có thể nói được? Một nỗi cô đơn thình lình úp chụp xuống và tôi bị mất hút trong đó, và cái thế giới vô thức trong phút chốc được cởi tung như một đoàn quân ô hợp kéo vây kín mọi ngả tâm hồn. Từ đó mở đầu cho một rạn nứt trong tình yêu giữa Cương và tôi. Tôi tưởng sự có mặt của mình có thể làm gì được cho Thư nhưng bây giờ tôi thấy rõ là mình chẳng làm được gì cả tôi bất lực hơn tôi tưởng. Thư cố níu kéo, anh nhầm rồi em không thể nói chẳng phải vì cố tình muốn giữ cho mình sự riêng tư, lỗi không ở anh, đừng nói như vậy. Nhưng dù muốn dù không, họ đã xa nhau.
Một hôm, Cương đến cho Thư biết anh sắp đi Pháp. Họ trải qua với nhau một ngày trong dịp Cương có việc phải đi Kiến Hòa và đến rủ Thư đi cùng cho biết. Thư vẫn thích những chuyến đi xa gọi là “giang hồ vặt” như vậy. Thư nhớ lúc hai người ngồi ở bờ một cái hồ ở Kiến Hòa và tưởng tượng như đó là hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội – cái kỷ niệm cuối cùng họ có với nhau trước khi Cương lên đường sang Pháp. Chúng mình đã ngu xuẩn đâm đầu đi tìm cái tuyệt đối. Nhưng lạ là tôi chẳng hề hối tiếc. Mỗi một vấp ngã của tuổi trẻ là một kinh nghiệm, một kỷ niệm đáng yêu, nó giúp cho cuộc sống thêm sâu thêm phong phú. Có lẽ một đôi khi tôi thèm cái tuổi trẻ bình thản của nhiều người con gái bình thản và an phận. Nhưng tôi cũng còn kiêu hãnh về cuộc sống nhiều gai góc của tôi hơn. Phải chăng vì điều đó làm tôi thấy tôi là “một-người-nào-đó” chẳng thuộc về cái số đông?
Thư quay lại:
– Xưởng này của anh?
– Vâng.
– Ở tuổi anh mà gây dựng được một cơ nghiệp như thế này, thật là giỏi. Bọn chúng tôi bị chữ nghĩa, sách vở làm mụ đi và mất hẳn vẻ hoạt bát linh động cần thiết…
Phấn nói:
– Nhưng cô và các bạn cô có tuổi trẻ, có học thức…
Phấn có vẻ thành thực mến phục bọn Thư. Thư bật cười lên một tiếng ngắn, nói và biết là chẳng bao giờ Phấn nghĩ và thông cảm với điều nàng nói:
– Tuổi trẻ và học thức như bọn tôi mà làm gì, hả anh? Ra đời, có lẽ còn thua những người tháo vát như anh.
Thư bắt gặp một nỗi chua chát. Hình như chính mình cũng còn thích làm ra vẻ chua chát như vậy nữa? Thật khôi hài. Mình có đang sống thực tại hay thật ra đây chỉ là một lớp kịch? và Thư cũng ý thức là tra hỏi xem mình có thực không, chỉ làm cho mình trở nên không thực, mơ hồ hơn.
Thư hỏi mượn Phấn khăn mặt. Gã đàn ông sốt sắng một cách không ẩn ý, chạy đi lấy khăn mặt và không quên mang ra cho Thư một bánh xà-phòng thơm.
Thư nói:
– Cám ơn anh. Thật phiền anh quá!
Rồi nàng nói luôn, không đợi Phấn lên tiếng:
– Có lẽ Duẩn vẫn còn say. Duẩn là bạn thân với tôi từ dạo ở Văn khoa. Tôi không muốn để Duẩn nằm một mình đêm nay…
Thư ngừng lại, bỗng thấy sự lố bịch của mình. Việc gì phải phân trần với Phấn? Ðêm nay mình sẽ trải qua một đêm ở đây với Duẩn, ngày mai rời đây, không cần tìm hiểu nơi này, và gã đàn ông này rồi sẽ chẳng bao giờ mình gặp lại, hắn không có gì để mình lưu luyến bận tâm, thì việc gì phải phân trần làm chi vô ích? Thư múc nước, xấp tay cho ướt rồi xát xà-bông và rửa tay. Nàng tưởng tượng khi vục nước lên rửa mặt, mùi thơm của xà-bông còn vương lại trên hai bàn tay sạch sẽ sẽ tỏa ra ôm lấy khuôn mặt mệt mỏi của mình, và làm dịu đi những suy nghĩ day dứt đang xâm chiếm tâm tư nàng. Thư rửa sạch nước xà-bông ở tay, múc một gáo nước khác và thực hiện ý nghĩ trên. Nước lạnh thấm vào da mặt, thấm vào đầu óc, thấm vào tâm hồn! Nàng nghe người nhẹ nhõm. Nàng muốn cứ tiếp tục vục nước lên mặt như vậy hoài hoài. Thư nhớ có một dạo nàng thích tắm buổi sáng, và ra phố với những hạt nước lấm tấm trên da thịt. Từ cái ý thích đó, ở nàng nảy sinh ra cái thú đầm mình dưới mưa cho nước mưa ngấm vào tận tâm tư. Nhưng từ hai tháng nay, Thư mất thói quen tắm sáng. Nàng đâm sợ nước.
Tiếng giày của Phấn đi lên đi xuống thu xếp một vài vật dụng. Có tiếng hắn bảo Duẩn đi rửa mặt cho mát. Tiếng Duẩn đáp lại vâng anh mặc tôi, phiền anh quá bây giờ anh lại về Thủ Ðức à. Tiếng Phấn đáp thường tôi về trên ấy ngủ đêm, nhưng nhiều khi bận công việc tôi cũng ngủ lại dưới này, anh thấy bớt chưa. Dạ cũng khá ạ. Tiếng Phấn, chắc hồi nãy ở tiệm cà-phê anh ói ra hết. Duẩn nói vâng cũng nhờ ói ra hết với ly nước chanh nên mới khá thế này, không hiểu sao lần này tôi uống rượu tồi thế, bậy thật. Phấn nói may mà lúc nãy không gặp gió; anh có nóng cứ bật cái quạt này nó tự động, mà cứ chạy một giờ thì nó ngừng lại, tôi gắn thêm cái đồ tự động này để đề phòng đêm mình có ngủ quên đi cũng không sợ, à tôi dặn anh và cả cô Thư đừng đụng gì đến những lọ thuốc này của tôi. Duẩn hỏi sao thế anh. Phấn nói dặn là dặn phòng hờ vậy vì có thể nguy hiểm. Duẩn cười, được mà anh yên trí…
Thư đổ gáo nước xuống hai bàn chân trong khi dùng khăn mặt lau khô nước trên da mặt, và cọ hai chân vào với nhau gượng nhẹ, cố không gây tiếng động.
Phấn trở xuống nhà:
– Tôi phải xem xét lại một vài thứ máy móc xem buổi chiều họ đã tắt đi chưa…
Tiếng giày của Phấn đi về phía cuối xưởng. Thư chống tay lên miệng lu nước, một nửa người nghiêng về phía trước, nàng soi bóng mình trong nước. Mái tóc xõa về phía trước. Mặt nàng là một khoảng tối tăm. Trong cái khoảng tối tăm ấy, những ý nghĩ ngổn ngang. Mình đến đây trong đêm nay, làm gì nơi nầy. Nơi đây là sự xa lạ. Duẩn cũng trở thành một kẻ xa lạ. Thư nhớ lại ngày nào còn có cả Cương. Bây giờ hình ảnh đó không còn đủ sức gợi cho nàng dù một chút thương nhớ. Lâu quá rồi. Sau Cương đã có những khuôn mặt khác đến thay thế. Họ đến rồi đi như những cái bóng. Thư chấp nhận dễ dãi và cũng dễ dãi buông lỏng vòng tay khi thấy đã đến lúc không thể lưu giữ. Buồn chán ngập tràn, tình yêu chẳng phải là một phép mầu. Nhưng mình vẫn cố sục sạo tìm kiếm ở mỗi một người đàn ông – tìm gì? một mảnh bản ngã chưa chịu tìm lấy đường về? Cũng phải có một thay đổi nào đó. Thư đã lựa chọn, dù biết rằng mình sẽ phải trả một giá rất mắc về sự hiện diện của đứa con trong tương lai. Vả lại, có gì đâu mà phải băn khoăn kia chứ? Thư mơ hồ cảm thấy như chính mình cũng muốn nhận một thử thách. Thư nhớ dạo còn ở bậc trung học, mỗi lần phải lựa một trong những đề tài giáo sư ra, Thư thường chọn những đề tài khó và phức tạp. Ðôi khi phải bỏ dở và lựa một đề tài khác dễ hơn. Nhưng Thư biết lần này không thể bỏ cuộc. Thư đã đánh cuộc và nàng sẽ phải đi đến cùng.
Phấn trở ra, móc túi đưa cho Thư mớ chìa khóa:
– Tôi đưa cho cô chìa khóa cổng sắt. Sáng mai khi rời đây cô mở cổng rồi để chìa khóa lên nóc cái hộp đựng công-tơ điện ở bên tay mặt – tôi sẽ chỉ cho cô thấy cái hộp đó – rồi cứ thế dập cửa vào. Nếu mấy người thợ của tôi lại, cô cứ để cho họ vào nhưng nhớ là để chìa khóa nơi tôi dặn cô…
Thư gật đầu nói vâng vâng. Hai người cùng lên nhà. Thư có ý nghĩ giá hồi nãy cứ đóng kịch với Phấn và biết đâu… Nàng mỉm cười với ý nghĩ đó. Hắn có của nhưng không phải là type người của mình và nhất là hắn có nhiều cái tinh ranh nhỏ nhặt và buồn cười. Vả lại, dẫu chưa có ý niệm gì về giọt máu trong người, Thư cũng cảm thấy không muốn đứa nhỏ sẽ có một ngộ nhận về người cha của nó. Mình đã, đang và sẽ còn nhìn thẳng vào cuộc sống với đôi mắt mở lớn, không lý gì đứa con làm bằng xương bằng thịt bằng máu của mình lại có thể mang trong nó một sự ngộ nhận lớn lao như vậy về cái thân thế của nó. Hãy phán đoán tôi, hãy xa lánh, nếu cần. Nhưng xin cho tôi được sống chân thực. Thư cúi mặt nhìn xuống hai chân, nghe xót xa dâng lên.
Phấn đi rồi, Thư dập và khóa cổng xong bước chầm chậm trở vào nhà. Duẩn đã bỏ ra sau rửa mặt. Tiếng nước rơi lã tã trên nền xi-măng vỡ. Thư nghe cả tiếng súc miệng sục sục của Duẩn. Nàng kéo chiếc rideau che cửa thông vào buồng trong sang một bên và bước vào. Bên trong đồ đạc cũng gồm những sổ sách và chai lọ lộn xộn bừa bãi. Một chiếc tủ gương kê tại cuối phòng. Các bàn kê gần bên. Không có ghế. Nơi duy nhất có thể ngã lưng là một chiếc divan. Một đống chăn màn xếp tại góc divan. Không có chiếu. Thư ngó chiếc divan, nàng vừa thất vọng vì đó không phải là một nơi nằm mà nàng mong muốn, vừa ngượng ngập. Thư vẫn thường có những ngượng ngập như vậy mỗi khi nhìn vào nơi nằm nghỉ của một người đàn ông. Thư chưa làm quen được với hình ảnh về nơi sinh hoạt thân thiết đó của người đàn ông, dù người đó là một người bạn thân hoặc có thể là một người tình. Thư cũng biết là nỗi ngượng ngập của mình có vẻ vô lý. Thư không xa lạ gì với người đàn ông cả. Nhưng nàng cũng không cố gắng bỏ sự ngượng ngập đó. Ðối với nàng đó là sự nguyên vẹn duy nhất nàng còn giữ được.
Thư bước lại đứng trước gương. Nàng nhìn vào đôi mắt mình rồi thả cái nhìn xuống thân thể đang nẩy nở hơn lúc bình thường. Thư đưa tay vuốt bụng. Nàng rời chỗ đứng lại divan ngồi khi nghe tiếng chân Duẩn bước vào phòng. Duẩn vừa đi vừa lau mặt lau cổ bằng khăn mùi-xoa riêng. Anh dừng lại nhìn quanh căn buồng rồi đến ngồi xuống bên Thư. Một bầu không khí im lặng bao phủ lên hai người. Duẩn úp hai bàn tay lên đầu gối.
Một lát Thư lên tiếng:
– Duẩn thấy đỡ chưa?
– Còn mệt. Ðầu nhức như búa bổ.
Anh ngó chung quanh, như chợt ngạc nhiên về sự có mặt của mình giữa một nơi hoàn toàn xa lạ này. Duẩn bật cười một tiếng ngắn, tiếng cười nhuốm vẻ chua chát thoát ra từ một bất lực. Những cố gắng để thoát ra khỏi cuộc sống chật chội tù túng chỉ làm cho con người ngột ngạt hơn và muốn phát điên. Chấp nhận không phải là một ổn định cho tất cả. Ðó chỉ là một giải pháp tạm thời để rồi đến một lúc nào đó… Duẩn nắm lấy bàn tay Thư áp lên má. Những giọt nước lạnh còn lấm tấm nơi chân tóc anh.
Tiếng Thư hỏi nhỏ:
– Cười gì vậy?
Duẩn lắc đầu từ chối trả lời. Anh khép đôi mắt lại trong giây lát, nghe sự êm ả thoát ra từ lòng bàn tay người con gái.
– Duẩn biết tôi đang nghĩ gì không?
Duẩn đáp không, vẻ chờ đợi.
Thư nói, mắt ngó thẳng về phía trước, giọng mơ hồ:
– Tôi nghĩ giá mình đang sống ở miền biển lúc này đây tôi sẽ chạy ra bãi biển, sẽ bỏ dép chạy chân không trên nền cát ướt lạnh và đôi khi đứng lại lắng nghe tiếng sóng từ xa dội lại như những lời thì thầm đầy bí mật.
– Còn tôi, tôi tưởng như ngày mai mà phải thức dậy, phải vác bộ mặt mô phạm vào lớp, phải nhìn bọn học trò chắc tôi chịu không nổi. Nhiều buổi sáng thức dậy, chỉ còn mười lăm phút để rửa mặt đánh răng mặc quần áo và uống vào một ly cà-phê pha vội, tôi thấy ngao ngán kinh khủng. Nhưng vẫn không đủ can đảm thay đổi lại cuộc sống. Cuộc sống mà tôi hiện đang sống tuy cũng đòi hỏi sự cố gắng, nhưng là những cố gắng thụ động. Có lẽ tôi hèn nhát. Có lẽ…
Duẩn chặc lưỡi, ngưng nói. Nét mặt anh đăm chiêu, buồn bã. Anh ngửa bàn tay lên đùi và nhìn vào đó bất động.
– Ðộ nhỏ tôi có một giấc mơ, cho đến bây giờ mỗi lần nghĩ đến tôi vẫn còn tưởng như mới đêm qua mình nằm mơ vậy thôi. Tôi mơ thấy tôi trôi giạt vào một hòn đảo nhỏ xíu ở giữa biển sóng lớn nước mênh mông. Ở giữa đảo là một cái cây trụi lá, lớn như một cây cổ thụ và rễ chiếm hết đảo. Tôi như không thấy mình đâu nữa. Và tôi mơ hồ lo sợ một lúc nào đó cái cây bị sóng biển đánh bật rễ và mình sẽ không còn nơi nào để bấu víu…
Duẩn im lặng nghe Thư kể. Anh cảm thấy một nỗi xúc động mãnh liệt đang xâm chiếm người con gái.
– Rồi ra sao?
– Chả ra sao cả. Những giấc mơ vẫn vậy. Duẩn tưởng tôi nghĩ đó là một cái điềm gì à? Không đâu. Tôi vẫn nghĩ và tin là cuộc sống của tôi do tôi tự tạo một phần lớn. Tôi kể lại giấc mơ đó vì thấy là đã lâu rồi mà cái hình ảnh đó vẫn có thể làm tôi thấy sởn gai ốc mỗi khi nghĩ đến.
Duẩn châm điếu thuốc, hút một hơi, rồi sực nhớ ra cơn nhức đầu của mình, anh dụi điếu thuốc, đứng dậy đi vòng quanh phòng nhìn vào đống chai lọ nhiều màu sắp lộn xộn trên các kệ đóng sát vào tường. Thư trải một tấm mền lên divan và ngã lưng nằm xuống, tâm hồn lãng đãng. Một tay nàng để sau đầu làm gối, tay kia đặt trên bụng. Mong con sẽ là con trai, làm con trai để chịu đựng, chịu đựng cuộc đời, và nhất là để thương mẹ.
Ðôi khi tôi cũng tự hỏi mình có đang bi thảm hóa cuộc sống? hay thực sự tự nó cuộc sống đã có cái vẻ bi thảm? Tôi băn khoăn và thường chọn thái độ dửng dưng. Chả ích gì. Tất cả chả ích gì. Tôi nhắm mắt lại và tôi tự nhủ với tôi tạm thời hãy quên đi hết cả. Tôi cảm thấy Duẩn đang đến và ngồi xuống bên tôi, cúi nhìn tôi. Tự nhiên tôi muốn khóc lạ. Tôi lấy tay bưng mặt và cười lên một tiếng ngắn, nghe khô và buồn, như tiếng một viên sỏi bị vất xuống lòng giếng cạn nước, mất hút trong bóng tối của đáy sâu.
Vào cái lúc người con gái chờ đợi nhất để sẵn sàng buông thả vào trong cơn sốt rạo rực của cơ thể, Duẩn bỗng ngừng lại, im lặng, đăm chiêu. Hơi thở anh bớt dồn dập hơn trong một cố gắng tự kìm hãm. Duẩn mím môi, thở một cách khó khăn như người bị nghẹt mũi. Khoảng cách còn lại thật dễ dàng để vượt qua. Duẩn ngừng lại, ngơ ngẩn, chợt nghe buồn bã. Anh khẽ buông tiếng thở dài, gục đầu xuống vai người con gái, mắt nhắm lại.
Rất lâu, trong bóng tối, anh nghe tiếng người con gái cất lên, rụt rè:
– Sao thế?
Có một cái gì như hờn tủi và cũng thật ráo hoảnh trong giọng nói. “Tôi cũng không hiểu sao tôi lại ngừng lại. Tôi tự thấy mình không có quyền tiến xa hơn.” Duẩn đáp và cũng nghe giọng mình thật ráo hoảnh:
– Tại… không muốn…
Duẩn bỏ lửng câu nói, một sự im lặng rơi xuống giữa hai người. Duẩn mơ hồ thấy mình khổ sở, day dứt: Trong phút giây tôi muốn được gọi Thư là “em” và xưng “anh” với em, Thư ạ. Em im lặng, có thể em đang hờn giận. Nhưng anh không muốn anh sẽ ân hận bởi anh bắt đầu cảm thấy yêu em. Ðiều đó có vẻ khôi hài. Nhưng điều đó làm anh xúc động. Cũng như anh vẫn khôi hài trong cuộc sinh hoạt của anh đồng thời cảm thấy một xúc động sâu xa. Hình như trong khi mình giễu cợt là mình ý thức rõ hơn cả về cái thân phận của mình giữa cuộc sống ồ ạt xô bồ này, giữa cuộc sống mà cá nhân chẳng nghĩa lý gì và người ta bị cưỡng bức phải làm những việc mà mình không muốn. Và anh, anh muốn không làm cái việc mà anh rất đang tha thiết. Ðể mọi sự còn nguyên vẹn.
Vả lại, cái giọt máu mà em đang mang trong người với anh đã là một cái gì, một con người mà anh tự thấy mình không được quyền xúc phạm. Cho anh được quý trọng. Ðó là điều duy nhất anh muốn giữ lại, một cách tự nhiên, không cố gắng, như một thứ báu vật.
Thư trở mình, vuột khỏi tay anh, xoay lưng lại phía Duẩn. Duẩn cảm thấy có một sự vùng vằng. Lẽ ra anh phải kéo em lại, ôm chặt lấy em, vuốt ve và nếu cần giải thích. Nhưng anh sợ chính anh rồi sẽ không giữ nổi bởi thằng người phá phách trong anh đang trổi dậy, đòi hỏi. Duẩn nằm yên lặng nhìn khoảng da thịt trắng hiện ra mờ mờ dưới mắt thành một vệt chảy dài bất động. Một nỗi nghẹn ngào chận ngang cổ. Tự nhiên anh thấy thèm vô cùng được gục vào chỗ trũng nơi chiếc gáy trắng mờ mờ kia, và nếu có thể, để khóc lặng lẽ…
o O o
Thư mở mắt. Phải một lúc nàng mới định thần và nhớ ra mình đang nằm ở đâu. Bên cạnh gã con trai đã thiếp ngủ, lưng trần lớn quay lại phía nàng trong một dáng nằm rút cong như con tôm, hơi thở đều đều của một người say ngủ. Thư nghe cổ họng mình khô ran. Thư cảm thấy muốn ra sau vô cùng. Nhưng nàng nằm nán lại, ngần ngại khi nghĩ đến lối đi chật chội, lỗ mỗ và tối mò của xưởng dệt. Trong yên lặng có tiếng vó ngựa gõ lóc cóc và tiếng xe thổ mộ lăn uể oải qua trước nhà. Có lẽ vào khoảng bốn năm giờ sáng gì đó. Thư cảm thấy rã rời và nghe cô đơn kỳ lạ. Hình ảnh những đêm thao thức bên người đàn ông thiếp ngủ một cách thoả mãn đến trong trí nhớ. Tại sao không bao giờ mình thấy thoả mãn cả? Luôn luôn là một khoảng trống sau đó với những dày vò không nguyên do không đối tượng. Và với một biến đổi một mình mình biết một mình mình hay. Tôi bỗng cảm thấy tất cả cái cô đơn mênh mông của một Grégoire khi hóa thân thành con bọ để rồi chết khô trong sự cô đơn và bị ruồng bỏ. Tôi đã khủng khiếp khi đọc đến đoạn Grégoire tuyệt vọng nhìn xuống sự thay đổi của thân thể mình. Có lẽ tôi tuyệt vọng và bàng hoàng, nhưng tôi còn cảm thấy một-cách-không-thể-tự-kiềm-chế-được một sự rung động kỳ lạ…
Tôi đang hóa thân để trở thành một người mẹ, một người đàn bà thực sự. Có lẽ tôi đang tìm về tôi, cái TÔI thực sự…? Thư khóc lúc nào không hay.
o O o
Thư mở mắt lại vào lúc có những tiếng động đổ xuống, thoạt tiên từ từ, đều đều, rồi nhanh dần, và nàng bỗng cảm thấy bị vây tỏa trong một thứ âm thanh dồn dập của một cơn mưa rào. Trời mưa…! Thư nhẩm với mình. Căn phòng vẫn tối om. Thư nghe một cảm giác lành lạnh. Nàng kéo tấm mền lên ngang ngực, lần hồi nhớ lại những việc đã xảy ra. Thư thấy hai má mình khô. Nàng nhớ ra vào lúc gần sáng hình như nàng đã khóc. Cũng có lẽ mình khóc trong giấc mơ. Trời mưa…! Trời mưa làm Thư thấy nhẹ nhõm hay chính vì những giọt nước mắt trong đêm…? Thư chỉ thấy một sự thanh thản. Bên cạnh Duẩn vẫn thiếp ngủ. Vẫn dáng nằm cũ. Và một hơi thở đều đặn, mệt nhọc.
Thư cảm thấy tức bụng. Nàng lần mò trở dậy, vén màn bước ra, lấy chiếc áo sơ-mi của Duẩn vất trên bàn mặc vào rồi lặng lẽ vén rideau đi ra. Trời đã sáng rõ. Thư sững sờ nhìn qua lớp cửa sắt. Bên ngoài trời khô ráo. Thư chợt nhận rõ ra tiếng rào rào mà nàng nghe lúc còn nằm trong màn thực ra là tiếng của những chiếc khung cửi bắt đầu hoạt động ở xung quanh hàng xóm. Thư bước nhanh ra phía sau. Những khung gỗ nằm bất động. Lát nữa đây bọn thợ sẽ đến và bắt đầu làm việc một cách ồn ào… Thư bỗng cảm thấy bị tràn lấn bởi những tiếng động đều đều dồn dập xung quanh. Nàng súc miệng rửa mặt, rồi trở lên nhà. Duẩn vẫn còn ngủ. Thư mặc áo quần, chải đầu xong vén màn lay bạn dậy. Duẩn ú ớ một lúc rồi tỉnh hẳn. Sự mệt mỏi còn nặng trĩu trên đôi mắt đỏ ngầu. Anh ngáp dài, nhận ra Thư.
– Sáng rồi à? A… Trời mưa?!…
Thư bật cười:
– Không phải đâu! Tiếng máy dệt đấy. Lúc nãy tôi cũng có cảm giác như Duẩn…
Duẩn nhỏm dậy, hai tay vòng lấy đầu gối, vẻ ngơ ngẩn, giọng anh đặc sệt:
– Thế à?
Thư nói:
– Duẩn dậy sửa soạn đi. Bọn thợ sắp đến bây giờ. Mình nên rời đây trước khi họ đến.
Duẩn uể oải đứng dậy, bước ra sau. Khi Thư đang loay hoay thu dẹp chăn màn thì có tiếng gọi và đập vào cửa sắt. Tiếng Duẩn trả lời tôi ra đây. Thư đứng trong phòng ngó ra, Duẩn mình trần loay hoay. Một tốp bốn, năm người đàn ông kéo vào, tiếng nói chuyện giọng ngái ngủ, đứt quãng…
Lúc Duẩn trở vào, Thư đang dở xem một tập hình trên bàn. Anh nhìn mái tóc nghiêng của Thư và cảm thấy một bông hoa nhỏ vừa hé nụ trong anh. Anh đứng lại bên khung cửa, bỡ ngỡ ngây ngất. Anh tự hỏi tại sao từ mấy năm nay, bây giờ anh mới cảm thấy thế, từ dạo quen Thư đến giờ. Người con gái có cảm giác bị nhìn. Nhưng nàng vẫn giữ nguyên thế đứng cũ, không nhìn thấy gì trong những tấm hình trên tay – như thể nàng biết là quay lại sẽ làm cho bông hoa e thẹn không nở nữa.
(Trong tập truyện Mưa không ướt đất, 1967)
Khi biết thương màu lá – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
Suốt buổi chiều tôi đi qua dưới những tàn lá vệ đường. Từ lúc mặt trời ban trưa đổ lênh láng trên da thịt rám nắng ướt mồ hôi, cho đến khi hoàng hôn lần xuống, màu xám xanh của trời phơn phớt cùng những ngọn gió mát thổi hây hây từ con sông quen thuộc. Tôi đi hái những trái bàng xanh, đè nghiến nó trên mặt đường, dùng đá nhọn hay chiếc guốc mộc đập vỡ nát lớp vỏ ngoài xơ xác, đôi chút hột bàng không còn nguyên vẹn, từng mảnh nhỏ béo bùi trong miệng. Hồi đó, tôi chưa biết thương màu lá. Tôi chẳng hề quan tâm đến lá cây, lá non, lá vừa xanh hay lá chết vừa lìa cành. Tôi chỉ chú ý đến những trái chín.
Và có lẽ không nơi nào bằng được vườn nhà tôi, quanh năm cây đầy trái. Mùa nào cũng có một thứ trái cây vừa ửng chín, thay phiên nhau cống hiến quả ngọt cho tôi không bao giờ thiếu vắng. Hết nhãn lồng đến mãng cầu, trứng cá, trứng gà, cam, quýt, thanh trà, mít, khế ngọt, ổi, “chay”… và một vài thứ khác nữa, tưởng có thể bày một cửa hàng trái cây ngay trước cổng. Nhưng nhà tôi không phải là một nhà buôn bán. Nhà sống êm đềm tĩnh mịch, dành những căn phòng cổ kính với bàn thờ ông bà nghi ngút khói hương cho người lớn. Còn khu vườn hoàn toàn dành riêng cho trẻ thơ.
Và trẻ thơ thì không thích đổi chác. Trẻ thơ xẻ từng múi bưởi ngọt đem chia sớt cho bạn bè. Đêm đêm khi đói bụng trẻ thơ đến trước cổng nhà bạn, huýt sáo ra hiệu rồi xúi bạn xin mẹ vài đồng để hai đứa dắt tay nhau ra chợ ăn chè đông sương. Trẻ thơ, thường là một kẻ hào hoa, đôi khi phải làm hành khất… “đại hiệp”, nhưng chẳng bao giờ là một nhà doanh thương mại bản.
(Đến nay, khi đã lớn, tôi vẫn còn là một kẻ hành khất hào hoa và cũng là một khách hào hoa… khất thực).
… Vườn nhà đến mùa trăng, tôi bỏ quên vườn. Vì một ngày lễ Trung thu tưng bừng đang được tổ chức ở trường học.
Trường nằm bên bờ sông, năm ấy thay vì phát quà bánh Trung thu chán phèo như thường lệ, thầy giáo dạy môn sử ký đề nghị dựng lại một chiến tích lịch sử oai hùng trên sông: Hưng Đạo Vương đại thắng Ô Mã Nhi. Cả trường bận rộn tập dượt liên tiếp mấy ngày. Áo mũ xênh xang, gươm giáo sơn phết hoa hòe, pháo khói màu cũng xoay được đủ cả. Ông hiệu trưởng chạy đi thuê mấy chiếc đò, thầy giáo lật lại cuốn Việt Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim để tìm thêm vài chi tiết.
Thế rồi chiều mùa thu hôm ấy, nước sông Hương gợn sóng, là Bạch Đằng Giang dậy sóng.
Đáng buồn thay, tôi bị xếp vào phe quân Tàu, lại phải thủ vai Ô Mã Nhi mới chết chứ! Tụi được làm quân Việt bây giờ đang hớn hở múa tay múa chân hăng hái xuống thuyền ở bờ sông bên kia. Cái thằng bạn cùng lớp được vinh dự và may mắn làm Hưng Đạo Vương lăng xăng sửa râu sửa nón, tay cầm kiếm gỗ hứng chí vung vẩy.
Quân tàu phù như bọn tôi thì ngồi trên đò mặt mày rầu rĩ, những bộ mặt bôi phấn vẽ râu khi méo xẹo bất mãn trông như những thằng hề. Chưa ra quân mà biết chắc đã thua trận rồi, làm sao cãi lại lịch sử được!
Bên kia bờ, đại quân Việt đã từ từ chèo đò tách bến, “khí thế” coi dũng mãnh gớm. Quân Tàu chưa chi mà đã thấy bủn rủn tay chân. Tôi phải vén cái mặt nạ Ô Mã Nhi lên một chút, hớp một miếng “bia lây” để lên tinh thần, rồi thúc hối “quân lính” chèo thuyền xung phong. Đúng như chương trình, bọn tôi được tấn công tưng bừng một lúc, Hưng Đạo Vương ra lệnh lui binh để dụ địch. Quân địch chèo đò tại một quãng, rồi thi nhau ầm ĩ la hét thách thức quân Tàu đuổi theo.
Tôi đang ngần ngừ. Tiếng thầy giáo cố vấn đang chạy dọc theo trên bờ sông gân cổ trong máy phóng thanh:
– Đuổi theo đi… Còn chờ gì nữa?
“Phó tướng” của tôi, một thằng chuyên môn đứng nhất về Việt sử, lên giọng “quân sư” ngăn cản:
– Đừng dại. Coi chừng trúng kế, tụi nó dụ mình đến khúc sông có đóng cọc sắt để phục kích đó.
“Ô Mã Nhi” bực mình, càu nhàu:
– Ai mà không biết. Nhưng thầy đã dặn mình là phải đuổi theo để tụi nó bao vây bắt sống. Làm sai chương trình là chủ nhật bị cấm túc liền.
Thế là quân Tàu cũng phải chèo đò đuổi theo, dầu biết trước là sẽ đi vào “cửa tử”. Khi những chiếc đò của hai phe chạm sườn vào nhau, một tiếng pháo hiệu nổ vang cùng lúc với tiếng reo hò “Sát Đát! Sát Đát!” inh ỏi. Quân Việt tới tấp nhảy qua thuyền bọn tôi, vung gươm sát phạt. Đã được lệnh trước, tụi tôi chưa xáp trận mà đã phải buông gươm giả vờ lăn ra chết.
“Hưng Đạo Vương” hùng hổ nhảy tới trước mặt tôi, định đánh bay thanh kiếm gỗ, nhưng hắn đánh trật vào cườm tay tôi một cú đau điếng. Tôi cáu sườn vung mã tấu quất vào ống quyển hắn một cái “cộp”, thằng nhóc ngã lăn ra. Kêu oai oái mà chẳng thấy thằng lính hầu nào thèm đỡ dậy. Quân Tàu thấy chủ tướng đột ngột phản công một cách lý thú vỗ tay khoái trá reo hò rồi lượm gươm giáo lăn vào chiến đấu. Thế là sai hẳn với chương trình, quân Tàu giờ đây lại sắp thắng thế.
Quan khách (trong đó, trời ơi… có ông hiệu trưởng!) đang đứng trên bờ chắc ngạc nhiên lắm. Tôi lại nghe tiếng thầy giáo khàn giọng la hét:
– Ô Mã Nhi! Mi làm gì kỳ vậy? Bọn mi mau vất gươm đầu hàng… nhảy xuống sông làm bộ chết mau lên!
Thằng phó tướng của tôi lại lên giọng… Tam Quốc Chí:
– Mi đừng thèm nghe. Tướng đã ra quân có khi không thèm tuân mệnh vua!
Trời ơi, tôi phải làm sao đây? Một bên là thầy giáo cứ bắt đầu hàng khi mình đang sung sức như cọp dữ, một bên là tên quân sư quạt mo với bầy lính cứ muốn choảng nhau một trận tận tình rồi ra sao thì ra…
“Hưng Đạo Vương” bây giờ mới lồm cồm bò dậy được một tay nắn bóp ống chân, xuống giọng năn nỉ với tôi:
– Thôi mi chịu thua đi. Không cả hai đứa đều bị phạt hết.
Tôi đành phải nghe theo lời nó. Không tuân mệnh vua thì chưa biết sao chứ cãi lệnh thầy thì ốm đòn là cái chắc… Và kết quả trận đánh đúng theo như lịch sử, quân Tàu lớp bị bắt sống, lớp chết trôi đầy sông, chỉ có tên phó tướng của tôi là cứng đầu hơn cả, hắn bực tức đòi nhảy xuống sông “tuẫn tiết” (nhưng tôi biết hắn sẽ bơi một mạch lẻn trước lên bờ sông, chỗ đang có hàng bán xi-rô và đá chanh muối).
… Tôi về đến nhà khi trời đã tối. Mâm cỗ Trung thu đã được bày ra trước sân, bánh nướng, bánh dẻo, trà Tàu… Bà ngoại tôi cùng mấy ông cậu, bà dì ngồi trầm ngâm trong vườn, mọi người đều nhìn lên trời thưởng trăng.
Trăng đêm nay sương đầy vằng vặc, loang loáng trên sân làm trời có vẻ như một sớm mai còn nằm trong sương chứ không phải là đêm.
Tôi không thích nhâm nhi trà Tàu. Tôi lủi thủi đi quanh quẩn trong sân để thích thú nhìn thấy bóng mình chập chờn đi theo dưới đất.
Tôi nhìn trăng và cũng thấy trăng đi theo tôi. Tôi đi tới đi lui khắp cả, vừa đi vừa nhìn lên trời, đi đâu tôi cũng thấy trăng chậm rãi theo mình. (Ước gì suốt đời tôi được sống gần bên trăng xanh bình yên đó nhỉ).
Một ngọn gió từ đâu trong đêm thổi hơi mạnh làm cây lá chập chờn lung lay. Dì N. khẽ kêu lên với tôi:
– Trời ơi, cháu nhìn lá rơi kìa. Coi tội nghiệp và đẹp không?
Không, tôi không thấy đẹp gì cả. Hồi đó, tôi chưa biết nhìn lá, chưa biết thương màu lá, chưa biết buồn cho đời lá.
o O o
Khi biết thương màu lá, là biết mình đã lớn.
Tôi đã lớn. Nhưng không phải từ tốn nhẹ nhàng lớn lên trong khu vườn địa đàng, mà lớn lên trong gió cát bụi mù giữa dòng đời lang bạt. Tôi đã qua tuổi hai mươi, không phải qua trên hai tay chăm sóc của mẹ hiền, mà qua suốt hành lang trắc trở của cuộc đời hai mặt dối lừa.
Tôi đã lớn… và tôi đã trở về. Không còn tuổi nhỏ để leo hái những trái bàng cho hàm răng nhai ngon, mà giờ đây, suốt buổi chiều tôi thẫn thờ lặng ngắm tàn lá thay màu. Trên cùng một khóm cây, trên cùng một chiếc lá, mà những màu sắc đã dần đổi thay khác biệt. Đến mùa lá rụng, mùa thu, chỉ còn một chút màu xanh non dại trên cành, lấm tấm lẻ loi trong màu nâu, màu vàng, màu đỏ sẫm và màu chết úa… những màu sắc sống động kỳ diệu của loài cây chan hòa tan loãng trong nhau, mắt mình nhìn chăm thật lâu, mình sẽ thấy nhòa đi sau màn lệ mỏng cả một màu lá xôn xao rung động, từ đó, có lẽ mình mới biết thích những bức tranh phong cảnh tuyệt tác của Monet, vì trong những tảng màu nhạt nhòa đầy ánh sáng chan chứa với nhau đó, đã biến hình vĩ đại, đã gợi hứng lớn lao cho tâm hồn mơ ước cùng thắm hòa với thiên nhiên nguồn đẹp vô ngần của trái đất. Từ đó, có lẽ mình mới bồi hồi day dứt hơn vì một câu thơ ngắn mơ màng: Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san…
Từ đó… Từ lúc biết thương màu lá, là cho dù vào một đêm thu, trăng có rực sáng trong lành vẫn không còn tìm được chú Cuội ngồi gốc cây đa, chị Hằng cũng không thấy đâu trên trời. Mà ngay ở dưới trần gian này… ôi thôi, biết bao nàng Hằng Nga cứ lần lượt thay nhau cười cợt đời mình, không chịu múa khúc Nghê thường mà chỉ giẫm nhẹ gót chân vào lòng mình nhói đau rồi tung bay mất hút.
Từ lúc biết thương màu lá, là không còn rước đèn kéo quân đi trong sân hồn nhiên hát bài “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi…”, mà chỉ vang vang thăm thẳm trong tim nhạc khúc âu sầu của Đoàn Chuẩn. “Thu đi cho lá vàng bay… lá rơi cho đám cưới về. Ngày mai người em nhỏ bé… ngồi trong thuyền hoa… tình duyên đành lỡ…” và cho dù lá không rơi, đám cưới cũng về. Những hôn lễ chẳng đợi mùa thu hay mùa xuân, những đám cưới choàng áo cô dâu cho những người em nhỏ bé của mình hết em này đến em khác mà mình suốt đời làm chú rể với mấy ngọn đèn đêm vất vưởng.
(Ch. của tình đầu ở thị trấn Buồn Muôn Thuở; L. của giảng đường và thư viện mà có lần chúng ta vào đó không phải để tìm sách đọc, chúng ta lật từng trang sách của hồn nhau; V. của những xoa dịu sẻ chia trong một thời lo âu bất trắc… Và trên hết, sau hết, tôi biết trước rằng một ngày kia, N. sẽ bẻ gãy ngọn cỏ chong chong của em để quên tất cả mà an lòng qua cầu, rồi có lẽ tôi sẽ một lần về đó, một mình đi qua cây cầu nhỏ của em, khẽ hát bài ca của một nhân vật trong đời Tam Quốc: “Cưỡi lừa qua cầu nhỏ… thương tiếc khóm mai gầy…” Cả N. nữa, cô bé đôi khi kéo dài “giờ ra chơi” cho đến chiều tối, cũng có ngày em sẽ quên lược gương bỏ rớt đâu đó vào một thuở nào, vào một ngày nào, vào một túi áo nào, để nhẫn vàng thay cho nhẫn cũ bạc màu thô sơ).
Thôi… một lời ca đã kéo tôi đi quá xa rồi. Bây giờ tôi xin trở về trong khu vườn, vườn tôi hay vườn nhà ai cũng được.
Nửa đêm trăng, có nhiều bạn hữu. Mọi người đều đã lớn, rượu và đồ nhậu thay cho bánh trà. Quỳnh hoa lan hương thoang thoảng, rượu Bách Nhật say ngọt uống mềm môi. Người xưa Thu ẩm Hoàng Hoa tửu, ngày nay, tôi được uống một chai la ve trong bầu không khí thân ái này là cũng thỏa mãn lắm rồi.
Tôi và người thiếu nữ đi xa dần tiếng nói chuyện cười đùa của người khác. Tôi và nàng đứng trước một hòn non bộ, lặng lẽ ngắm cảnh núi non sông nước thu nhỏ lại như một chiếc hộp, mà vẫn gợi lên cả một bầu trời bao la. Những hòn đá chồng chất bên nhau, lâu ngày mọc đầy rêu xanh, có những hốc nhỏ, có những lùm cây trông không khác gì một hoang đảo thực sự, có vài mô hình giả làm con đò neo bến, có cả lão già ngồi câu cá. Một chút đất đá, một chút cây cỏ, một chút nước hòa hợp khéo léo trong một không gian nhỏ, chờ thời gian dần qua, đến đêm nay trong màu trắng bàng bạc biến thành cả một vũ trụ có linh hồn, một thế giới xa lánh tất cả phiền muộn để dành riêng cho ai đó.
Nhưng không dành riêng cho tôi và người thiếu nữ. Vì khi tôi chỉ tay vào một tịch cốc nằm sâu trong núi, và hỏi:
– Em có thích ở đây với anh không?
Thiếu nữ hất mái tóc bối rối che lên má, nhưng đã mỉm cười lắc đầu. Thế là từ đó, tôi biết tâm hồn tôi và người thiếu nữ, dần dà sẽ chia xa. Mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản và trọn vẹn từ một cái gật đầu. Nhưng vì một cái lắc đầu, tôi sẽ trở thành một con ngựa chứng lưu lạc, mãi mãi rông chạy hoang đàng.
Tôi biết. Dầu nàng thường thích những vòng khói, và tôi đã thổi cả triệu vòng khói thuốc đeo vào tay nàng, nhưng những vòng khói trắng mờ ấy sớm bay loãng, tan tành rồi hoàn toàn mất biệt khỏi đời nàng. Từ đêm ấy, cả nàng và trăng đều lắc đầu với tôi. Từ đó, tôi sống quay cuồng dưới mặt trời đỏ lửa. Tôi đã đủ trí khôn để biết rằng không phải mình đi đâu trăng cũng đi theo, trăng ở lại muôn đời vì tiếng nói lạnh nhạt của nàng và mình thì cứ ra đi, ra đi đi mãi mãi. (Ôi, thế thì có trí khôn làm chi!).
Mọi người thấy đó. Đừng biết thương màu lá, hãy ham hố nhai lấy trái ngon, nuốt cho hết vị ngọt dại khờ. Chứ đừng rộng rãi tình cảm, thương cho ngọn lá yếu đuối hay tan tác trong vòm trời hoang mang trăm lối.
Nhưng tôi đã trót là một người nhiệt tình rộng lớn.
Đừng đến sân ga – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp mắt vì cứ đứng hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.
Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến lần hồi. Toàn châm chú nhìn người bẻ ghi cúi xuống đường rầy chuyển con đường sắt lắp vào đường đi truớc mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu xe ngừng, khói không còn bay mạnh nguợc chiều, bốc lên tan lõang chậm rãi.
Đến Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái nhà ga đầy rêu ủ dột, Toàn cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì những người bán hàng ùa ra mời khách hàng mua những chai mắm sò, thứ đồ đặc biệt của địa phương. Nút chai làm bằng lá khô đã bịt kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên trong những vỏ chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm đến bữa cơm đậm đà và làm Toàn chảy nuớc miếng.
Toàn xuống xe với chiếc xắc tay nhỏ. Một con bé quần áo rách ruới đụng phải anh, chắn lối bực thềm. Nó oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen thuộc nãy giờ anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau.
– Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ thuợng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới có, vô trong Nam tìm mua không có đâu thầy.
Toàn mỉm cuời:
– Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang vô làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga này, thứ này rồi tha hồ ăn ở đây thiếu gì.
Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xắc tay của Toàn. Nó bỏ vội anh, leo lên toa tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong tiếng cuời nói ồn ào của hành khách.
Một vài người vô ý chạm phải vai Toàn làm anh suýt ngã khi buớc vào ga. Anh cố tình không quan tâm gì đến điều khiếm khyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại ám ảnh anh như thường lệ. Anh thấy mình rõ ràng buớc đi khập khễnh, chân thấp chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều truớc mắt anh làm anh rịn mồ hôi trán. Ahh cúi xuống nhìn chân mình hai ống quần rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm ở quân y viện ốm hẳn người đi. Không biết có ai nhìn xuyên đuợc qua lớp vải quần của anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua sút chênh lệch so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên thủng vào phía trên đầu gối chừng một gang tay.
Toàn liếc nhìn mọi người nhưng chẳng ai buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống ga Lăng Cô cũng ít và chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi xình xịch chạy. Viên xếp ga đưa tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm việc chật hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả chiếc máy điện thoại màu đen to tuớng trên bàn. Toàn mong đừng có ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái chân tật nguyền này, và anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải dáo dác tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.
Băng qua con đường cát lún đầy bụi rậm và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm nhà nhỏ nằm xùm xít với nhau ở đàng kia, dọc theo bờ biển. Xóm toàn là những mái nhà lá xác xơ của dân cư làm nghề chài luới. Chỉ có một căn nhà gạch thấp nằm ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã trường hay Quận truởng. Và còn thêm một căn nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng hơn, có nhiều phòng và khỏang sân mát mẻ duới tàn cây trứng cá. Chưa đến nhưng toàn mường tuợng nhìn thấy tấm bảng thiếc treo sơ sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ trường tiểu học Lăng Cô. Chính nó, chính mái trường tiêu điều này là nơi gợi nhớ mênh mang cho một ngày trở về. Và anh đang buớc chân thấp chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng, nhưng người như đang ngợp mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm xa miền biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì cũng không phải là điều đáng kinh ngạc.
Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa phòng, rụt rè:
– Thưa cô Hiệu truởng, có khách hỏi cô.
Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:
– Phụ huynh của em nào hả?
Cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng trả lời:
– Thưa cô không biết… ông này… lạ hoắc ạ.
– Đuợc rồi.
Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ khác, và truớc khi cánh cửa mở toang ra hết để Toàn có thể gặp lại chị Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích trong lòng, thế là trong ba năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ một cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã lên chức cô Hiệu truởng trường tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.
Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc nhiên rồi la lên:
– Trời ơi! Toàn đó hả?
Anh chỉ biết nhe răng cuời sung suớng, gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị Lục chạy ra khỏi phòng, nét mặt rạng rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chầm lấy Toàn nếu không có đám học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng cầm lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác, cũng đen như cột nhà cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào tường như một tín đồ sám hối. Chị Lục vỗ đầu cậu bé:
– Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng còng bỏ vào áo bạn cùng lớp là cô phạt nặng nghe không?
Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn chị Lục và cũng đủ thông minh để biết rằng mình đuợc tha vì cô Hiệu truởng có khách, nó liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.
Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là văn phòng truớc kia của lão Hiệu truởng cũ. Ít có gì khác lạ, một tấm bản đồ Việt Nam treo trên tường và quả địa cầu xoay đặt trên bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của học trò biếu chị.
Toàn ngồi xuống ghế, lặng lẽ nhìn chị Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời cảm động run rẩy gì đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một lúc sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:
– Cái chân…
– Sao?
– Bị trúng đạn… Tôi què rồi. Giải ngũ.
Chị Lục nắm chặt lấy tay Toàn:
– Trời ơi… trời ơi…
Và toàn thấy bàn tay anh lạnh uớt nuớc mắt.
– Thôi… Toàn không chết là may rồi. Toàn đuợc về là may rồi. Ở mãi đây nghe.
Anh mỉm cuời:
– Tôi biết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.
– Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như lúc truớc, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ… và mọi chuyện như cũ, có gì thay đổi đâu.
– Cái chân…
– Toàn!
– Trường Lăng Cô sẽ có một ông giáo què làm trò hài huớc cho học sinh. Chị muốn tôi làm huấn luyện viên thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn cho học trò xem… với một cái chân cà thọt.
Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng dậy, vẫn nghiêm trang và thân mật tự nhiên như lúc truớc, chị dìu vai Toàn đi vào phòng trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của chị Lục sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một người đàn bà độc thân. Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây thép gai, bếp lửa gần với chân giường ngủ. Toàn còn nhớ trường này có hai phòng học bỏ trống, đuợc chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi truớc cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu truởng nên lên ở đây một mình. Chị Lục nói:
– Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây rồi tôi đi chặt cho Toàn một trái dừa. Còn thích uống nuớc dừa không?
Toàn mỉm cuời, cảm giác yên lành ngập tràn người anh. Anh nhắm mắt lại, và ngủ mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho khỏe… mọi thứ rồi sẽ như cũ.
Anh thiếp đuợc một chút rồi đầu óc tỉnh lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao. Như cũ… truớc kia chị Lục và anh là đồng nghiệp thân nhất với nhau, dầu chị lớn hơn anh vài tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò của anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận bóng đá giao hữu giữa hai lớp, lớp của anh thường bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian đôi chút khi đuợc làm trọng tài. Anh bật cuời. Có lần bóng trúng ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh bảo là trúng tay và phạt “pê-nan-ti.” Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu, chị Lục từ ngoài sân chạy vào gây gỗ cãi cọ với anh, nhưng anh đã nóng mặt nhất định vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua phá luới” sáng chói nhất của lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bóng bay lệch sang một bên rơi tuốt xuống biển.
Rồi còn gì nữa… Anh bị gọi đi lính. Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn thường cùng thấy giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị Lục… những mùa hè êm đềm rạng rỡ ánh nắng.
Và anh đã trở về, như thế này đây, không phải hoàn toàn vì mái trường cũ và chị Lục, nhưng không còn một nơi nào để trở về nữa.
… Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh mịch. Anh mơ màng ngủ lại. Trong giấc mơ mệt nhọc của buổi trưa anh thấy mình vừa chạy vừa thở hào hển trên bãi biển, đuổi theo chị Lục. Chị ở truớc mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài nào bắt kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối rối trong lòng cát. Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn anh chế giễu, bọn học trò chung quanh vỗ tay cuời cợt ầm ĩ… Rồi anh ngã xuống úp mặt uớt mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình anh chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô cùng… Anh sợ hãi hét lên…
– Toàn!
Anh giật mình tỉnh dậy, Chị Lục đang ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên vầng trán tuơm đầy mồ hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một ly nuớc dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực một hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút. Anh nhìn ra khung cửa sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả, anh ngẩng đầu dậy:
– Chiều rồi. Sao chị không dạy học?
– Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày tháng nữa à?
Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi. Anh lục lạo một xấp bài tập của học sinh, đọc bâng quơ.
– Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp không? Ở Lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ vớ vẩn đó đọc cho đỡ buồn.
Anh lắc đầu. Anh tìm thấy duới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ Nuớc Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn đề chữ: Sách đọc thêm cho học sinh… thư viện trường tiểu học Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ. Anh nói với chị Lục:
– Thôi, đọc cái này vui lắm.
Chị Lục cũng bật cuời. Chị nói:
– Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học trò mới đem lại cho mấy con cá ngừ tuơi lắm…
Chị mở cánh cửa:
– Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh tráng.
Khi chị Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc đuợc gì hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào chỗ cũ. Căn phòng đã tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng sông. Anh đã quen với thứ đèn này một thời nên anh khêu sáng ánh đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải làm căn phòng nóng bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở toang, không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.
Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là bãi cát của bờ biển, vài gốc dương rũ là xuống mái nhà và đem lại một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ đã chiều, mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở đâu cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran duới chân người.
Chị Lục trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều đuợc dọn ra trong cơn gió biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài sợi, nhưng không đi những giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh soạn cho hai người. Nhất là đối với Toàn, mấy năm nay ăn toàn là cơm sấy khô hoặc chỉ đuợc nấu chin vội vàng trong những chiếc thùng đen dơ bẩn.
– Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.
Chị Lục nhúng bánh tráng sơ sài vào nuớc cho bánh hơi mềm một chút. Chi mở nồi cá ngừ kho, mùi thơm bôc lên, những khoanh cá chín ngã sang màu nâu tỏa đầy khói. Chị Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tuơi chẻ nhỏ đuợc tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm lấy, nhúng vào nuớc chấm đuợc làm bằng nuớc cá hòa với những trái ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển tuơi, mát mẻ dòn tan của rau xanh, mặn mà của nuớc cá và vị ớt cay cay… Gió biển lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc lên một chút trong người vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.
Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng chị lại mỉm cuời và khẽ nuốt nuớc bọt thèm thuồng nhìn anh. Phần chị, chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm rãi bình thường và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nuớc cho bánh tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh dòn. Anh mãi miết ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa. Chị Lục mở nắp chai bằng một cái khoen đinh trên cánh cửa. Chị nói:
– Ở đây chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.
Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn nồng, cay xé trên luỡi như mùi ớt. Anh đưa chiếc ly cạn một nữa cho chị Lục.
– Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.
Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh:
– Uống lỡ say rồi sao? Tôi đâu biết uống ruợu.
– Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.
Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn bâng quơ ra ngoài biển:
– Ờ… mai chủ nhật, thích thật. Mọi khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ hết mình không có chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.
– Có ‘chương trình’ gì vui không?
– Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì được! Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực tươi về luộc ăn với nước tương. Không biết mùa này có ‘nuốc’ không… ‘nuốc’ ăn mát lắm, chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa ăn.
Anh nhìn chị Lục, mỉm cuời khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp bia, rồi nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học trò vẫn thường ngoan ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống ruợu tai hại như thế nào.
Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên trong những mái nhà lá, mọi người đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát ngoài bãi biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì chắc cũng chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu muốn lại gần trường học, một tuần phải đến đây sáu ngày là cũng đủ ngán quá rồi.
Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy long lánh bia vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi long mày hơi nhíu lại. Và chị trả lại chiếc ly cho anh, với một nụ cuời thắm thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tuởng tuợng quá nhiều nụ cuời của chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn đuợc lờ mồ khuôn mặt chị, chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song cửa bếp.
Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:
– Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ…
Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và êm đềm như một dải lụa mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân biệt ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát lương và ngày hết tiền cách đó không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên đường chuyển quân và nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân, trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô, trường học và chị Lục. Một ngày chủ nhật…
Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ trên mặt nuớc. Biển Lăng Cô không phải là một thắng cảnh danh tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây, sóng rì rào lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những thuyền buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng người, một vài đứa trẻ con lội nuớc đuổi bắt nhau đàng xa cuối xóm chài luới. Anh ngồi xuống một đụn cát âm ấm.
Tiếng chị Lục đằng sau:
– Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không?
– Đâu biết đuợc, bề ngoài thì muôn đời vẫn như thế.
Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển cả từng mội phút giây. Nhưng làm sao anh biết đuợc. Anh chỉ nhìn thấy bộ mặt bên ngoài lúc nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.
Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm, nằm trong lòng trũng sâu sát với ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Trường Sơn. Anh theo dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò lên đỉnh núi. Con đường đèo Hải Vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ chan hòa mâ trắng sa thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ải cheo leo cao ngất thấu đến mấy từng mây?
Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu yếu ớt nhỏ nhoi như trong tuởng tuợng. Từ phía nhà ga Lăng Cô, những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như luớt nhẹ chứ không phải là nghiến bánh trên đường rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen, đục thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng đến toa cuối cùng, anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt nguợc chiều, bay lõang rồi tan đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyên tàu đó. Anh lẩn bẩm:
– Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô… rồi tiếp tục đi, qua biết bao nhiêu bãi biển, ven rừng, đồng bằng, qua những quê làng là thành phố. Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng Sơn, Diêu Trì, Nha Trang, Sài Gòn… rồi lại lên đừờng…
– Toàn định đi đâu nữa?
Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần. Khi chị ngồi xuống bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai, làn da tuơi sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rãnh rang và tốt trời.
Toàn đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đường đèo xa, nhưng bây giờ không còn bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu hỏi của chị, anh mới trả lời:
– Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở Lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.
Giọng chị ân cần:
– Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn không thích dừng lại ở một nơi nào sao?
Anh im lặng nhìn về phía nhà ga.
Chị Lục nói tiếp:
– Tuần nào đến chủ nhật là bỏ trường phóng về Huế luôn mấy ngày. Ông Hiệu truởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy thế cho Toàn biết bao nhiêu lần…
Chị Lục cuời:
– Trong trường, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ phải thay đổi đi chứ!
Anh cũng mỉm cuời, mơ màng nhớ đến phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang thoảng thổi vào, anh gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục hơn một nữa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm duới mái trường này quá! Và kỷ niệm đẹp chính là điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không bao giờ xây dựng lại đuợc những gì tương tự như thuở truớc.
Có tiếng cuời đùa của bầy trẻ con đuổi bắt nhau từ xóm chài luới làm Toàn và chị Lục đều giật mình. Chị Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai người nãy giờ đã ngồi sát bên nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này, nếu đến tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu truởng nghiêm trang đáng kính của chúng.
Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn. Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với ai, nhưng có lẽ cả hai đều có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt tò mò của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ mặt ông giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông lạ mặt, từ một nơi xa nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ trong nhà của chị Lục, và sáng sớm, hai người đã sánh vai dạo chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưng hôm nay là chủ nhật, bọn trẻ con đuợc nghỉ học đều ùa ra bãi biển nghịch cát, té nuớc hay sửa soạn leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá. Không còn một chỗ hoàn toàn vắng vẻ cho hai người.
Chị Lục và Toàn đành phải về trường. Bây giờ chỉ có sân trường và những lớp học là nơi tĩnh mịch nhất, trái với sáu ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành lang vắng, Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn còn treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ: Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa, bồi hồi nguớc nhìn chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa một chiếc mở cửa. Thiếu ánh sáng, trong phòng mờ tối. Những bức tranh cắt từ báo dán trên tường đã thay đổi, lúc truớc Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy thú lạ mắt của rừng già Phi Châu: cá sấu, ngựa vằn, sư tử… Trên góc của tấm bảng đen, còn mấy nét phấn trắng ghi sĩ số học trò trong lớp, hiện diện và vắng mặt.
Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi phấn trắng trên tay. Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cuời để giả vờ làm một cô học trò chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thấy và một ‘trò’, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ áo rồi nghiêm trang nói lớn:
– Trò Nguyễn Thị Huyền Lục!
Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ:
– Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à?
Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu lớn hơn:
– Nguyễn Thị Huyền Lục!
Chị Lục bậm môi, lên tiếng:
– Có mặt.
– Lên bảng mau, coi trò có thuộc bài Việt Sử không.
– Thưa thầy, đêm qua… em phải khâu luới dùm cho ba em nên em quên học bài.
– Zê-rô! thôi bây giờ lên bảng làm toán.
Chị Lục mỉm cuời, rón rén cầm viên phấn đứng truớc bảng đen chờ đợi. Toàn cố nặn óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ bây giờ anh là một tên học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến chuyện làm thấy nữa.
Anh chậm chạp nói:
– Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy nguợc chiều với nhau. Tốc độ của tàu hỏa là… viết đi chứ…
Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng: Toàn đừng ờ trên chuyến tàu đó, nghe không…
– … Năm muơi cây số một giờ. Tàu khởi hành vào lúc tám giờ sáng…
Những nét phấn của chị Lục tiếp tục, làm như ngoan ngoãn chép đúng lời nói của ‘thầy’, nhưng dĩ nhiên chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học đó làm gì, chị đang làm bài toán gây go riêng biệt của đời chị. Trên bảng đen, thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó, Toàn đừng đến sân ga nữa…
Toàn thẩn thờ nhìn những chữ viết của chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc đề toán một cách máy móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:
– … Hỏi hai xe gặp nhau trên đường lúc mấy giờ?
Chị Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run viết… Tôi và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là gặp nhau suốt đời, bên nhau vĩnh viễn, Toàn…
Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm chặt vào nhau, môi mấp mấy và đôi mắt gần như sắp ứa nuớc mắt. Chị có vẻ như một cô học trò nhỏ chịu bí truớc bài toán khó, khổ sở truớc đôi mắt nghiêm khắc của ông thầy.
Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng Toàn đã nắm tay chị lại. Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy nhau như mê man. Nuớc mắt chị Lục uớt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi hương dịu ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm đông mưa bão. Anh và chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi uớt đầm đìa rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ hôn mang vào biển xanh và gió lộng khơi nguồn mầm sống.
Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con người tật nguyền như Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi đuợc không cần chiếc nạng gỗ, nhưng thỉnh thoảng, hình bong cái chân hằn vết sẹo thóp nhỏ cứ lởn vởn truớc mặt anh.
Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong phòng của chị Lục tắt sớm, chỉ còn bóng tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ tung trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm thân của Toàn cuống quýt trên người. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô nghĩa, lả người trao phó trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da thịt của chị sau làn vải áo, từng chút một, từng hàng nút đuợc tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát ruợi hơi ươn uớt mồ hôi duới bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mảnh áo quần của hai người vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy thân thể đang rung động của chị Lục duới thân người anh… và lúc đó… ngay giây phút cuối, ngay truớc cánh cửa hoan lạc sắp mở ra, anh chợt chết lặng người, thân thể chợt trơ lì nhạt nhẽo…
Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh cắn môi cố quên nó đi, cố vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé chờ của chị Lục, nhưng không thể nào đuợc nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn người anh như một gáo nuớc lạnh buốt, dập tắt da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi người, nhắm mắt lại, lắng nghe từng hơi thở, và cuối cùng, không dằn đuợc sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng đầu ra đằng sau để nhìn cái chân của mình. Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong, có vẻ lủng lẳng như không liên hệ gì với thân thể, vết sẹo láng bó với đường khâu sù sì nổi lên trên da thịt. Anh không rời mắt đuợc khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt nhìn trừng trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ ngạc nhiên, nhưng anh có cảm tuởng nhận thấy những dấu hiệu ghê tởm trong ánh mắt chị.
Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai bàn tay, bật khóc. Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng tay qua cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:
– Sao thế, Toàn?
Anh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm lấy người anh nhè nhẹ, má chị tựa sát trên lưng anh và thỉnh thoảng chị hôn vào đường rãnh chạy dài của sống lưng anh làm anh hơi rùng mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì những cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau xót thêm. Anh úp mặt trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả thân thể dường như dần dần co rút tê liệt, không còn tuân theo ý muốn của anh nữa.
o O o
Vết thương cũ đã lành, nhưng một liều độc duợc giờ đây đột ngột tác hại khắp cơ thể và đầu óc, chói lòa truớc mắt anh…
Cái chân què quặt còn làm liên tuởng tới những việc điên cuồng mà anh đã làm khi ở giữa hỏa ngục của chiến trường. Tất cả như một màn luới đen dày đặt trói buộc tâm hồn làm người anh rũ ruợi và đầy những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh run rẩy… Hình như nuớc mắt của chị Lục đang thấm uớt trên vai anh, chị rụt rè vuốt ve nhưng người anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chường khổ sở thêm, chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị đi để đứng vụt dậy. Anh ôm đống quần áo vội vàng vào người, mở cửa ra phòng truớc.
Biển đêm không ào ạt như buổi chiều. bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe như những hạt ngọc, tiếng sóng đều đều âm u. Anh tỉnh người, dễ chịu đôi chút trong làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng bao giờ đi vào một mái nhà, một căn phòng nào đuợc nữa.
Mặt trận, chiến tranh, súng đạn, máu, mồ hôi… Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận… Những cái đó chưa thực sự chấm dứt đối với anh. Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt hẳn mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc súng, chúng vẫn còn âm ỉ lúc nhúc trong người anh như một thứ vi trùng độc địa.
– Toàn!
Chị Lục kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy ra khỏi phòng theo anh vì tóc chị đang rũ ruợi sổ tung, vành mắt đỏ hoe và ánh sáng, hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi sớm đã bắt đầu đến trường. Chị phải trở lại với công việc, với bộ mặt nghiêm khắc lạnh lùng của một cô Hiệu truởng.
Toàn lầm lũi đi từng buớc nặng nhọc trên bãi cát lầy, chiếc xắc tay nhẹ để trên vai nhưng người anh vẫn cảm thấy nặng như chì, anh huớng về phía sân ga Lăng Cô. Một lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một toa tàu, và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi trường nhỏ, hình ảnh chị Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan tành.
Nhà ga thưa thớt người, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. Anh ngồi một mình nhìn trên băng ghế lạnh, nhớ lại đêm vừa qua. Đêm dài tăm tối cho anh, một kẻ thương binh không phục hồi đuợc cuộc sống bình thường, tâm hồn và cơ thể chết khô vô vị truớc trái cây ái tình xanh tốt. Anh là một người đàn ông bất toàn, vô dụng, anh không đem lại gì đuợc cho chị Lục, món quà yêu thương đã thất lạc, chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thương tích và quá khứ.
Có tiếng còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đoàn tàu từ xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại truớc nhà ga. Vài hành khách buớc xuống. Đợi một lát sau, Toàn khập khễnh leo lên toa tàu. Một người nào đó chen lấn chạm vào sau lưng Toàn làm anh bực mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay đột nhiên bị giữ chặt, anh ngạc nhiên… chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào, mặt chị uớt đầy mồ hôi hay nuớc mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt Toàn. Anh đứng lại duới bục cửa của toa tàu, lặng thinh cuối đầu truớc chị Lục.
Giọng nói của chị vang lên nho nhỏ, bao dung lẫn cầu khẩn:
– Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi… không thể không có Toàn đuợc…
Anh quay mặt đi, run rẩy:
– Tôi chỉ là một người tàn tật… Tôi không thể…
Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những ánh mắt tò mò của đám hành khách đang nhìn hai người. Từ trường học vội vàng đến sân ga, chị cũng không kịp phục sức tuơm tất như thường lệ cho xứng với một cô Hiệu truởng. Bên ngoài bộ áo quần ngắn mặt trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn cũ.
Toàn nhắc lại lời nói của anh, giọng anh ấp úng như một cậu bé con.
Chị Lục lắc đầu ôn tồn và âu yếm:
– Tôi cũng thế… Tôi cũng sẽ trở nên một người tật nguyền thiếu thốn nếu mất Toàn.
Toàn thấy người đuợc đôi chút ấm áp, hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa, bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đường sắt, giọng chị thủ thì bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:
– Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau…
Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng vào đôi mắt chị Lục, anh sung suớng bồi hồi khi đuợc tận huởng màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thương.
Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau, cả hai cần trao gởi hết lòng và chia sẻ quả ngọt suýt rụng rơi mất hút vì một lần giã từ nông nỗi. Có vị danh y nào, liều thuốc tiên nào cứu chữa đuợc vết trọng thương sâu đậm ngay chính trong tâm hồn? Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa dịu vết thương cho nhau. Và làm sao anh có thể chạy trốn chính mình suốt đời đuợc? Trong anh, một con người dằn vặt sẽ truy nã một con người đầu hàng yếu đuối đến ký cùng.
Khi địa ngục đã xây huyệt trong lòng người, còn có cách nào khác hơn là phải dấn mình dập vùi trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ hẹp dầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở huớng về trần gian tuơi đẹp?
Còi tàu đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ từ lăn trên đường rầy, để lại một chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như những dòng phấn trắng của chị Lục đã viết trên bảng đen, không có Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.
Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị Lục, những buớc chân của anh chậm rãi nhưng cương quyết nguợc chiều với sân ga mãi mãi.
– Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sáng thứ Hai đó. Rồi mấy anh đồng nghiệp sẽ xì xầm, Toàn phải… đền cho tôi cái gì đi…
– Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai, sẽ đuợc nghe rất nhiều bản tình ca.
Chị Lục mỉm cuời. Giờ đây với một người thương luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi khác, sẽ lành mạnh, sẽ dứt khóat hẳn với những ám ảnh bệnh họan trong người. Từ hôm nay cho đến ngày mai hồng sáng sủa đó, một cuộc chiến mới đã mở ra đối với Toàn. Không súng đạn, không ảo tuởng, không một mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự do tiến buớc trên mặt trận cuối cùng này.
Giao Thừa sao quên – Hoàng Ngọc Tuấn (1947-2005)
– Ông đừng nhắc đến ngày Tết nữa. Cứ xem lịch là biết chứ gì, đêm mai là đêm Giao Thừa… Nhưng tôi không muốn nghe những chuyện đó…
Nàng nói một cách lạnh lùng, môi nàng bình thản nhấp một chút rượu. Chàng để ý ly này là ly Martini thứ năm mà nàng uống. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, nàng vẫn ngồi bất động trên chiếc ghế bành đặt sát góc tường. Trong phòng chỉ có ánh sáng mù mờ vì được thắp bằng đèn cầy, mỗi bàn một cây nhỏ. Ban nhạc chơi không ngừng nghỉ, đều đặn những điệu chậm chạp nhẹ nhàng, chập chờn từng cặp ôm nhau khiêu vũ trong bóng tối.
Những ngày cuối năm, người ta tổ chức tiệc tùng ăn nhậu liên miên, ở đâu cũng tưng bừng náo nhiệt. Bởi thế đêm dạ vũ tại ngôi nhà sang trọng này, thật hiếm có và khác hẳn những chỗ ồn ào khác. Một bầu không khí lịch sự và êm ấm, khách khứa đều trông có vẻ tươm tất đứng đắn. Tấm thiệp mời ký tên bởi một ông nhà giàu nổi tiếng và sành điệu.
Một người bạn đưa chàng đến đây. Rồi y biến mất trong đám người để tìm một người đàn bà y đã hẹn trước. Chàng tìm một chỗ ngồi khuất lấp kín đáo nhất, chỉ gọi người bồi đem rượu một lần, rồi chàng không lui tới xê dịch gì nữa, không chào hỏi gì một hai người quen mà vì say mê nhảy họ cũng không để ý đến chàng.
Khi mắt chàng đã quen với bóng tối, đã nhìn thấy rõ ràng một vài khuôn mặt, chàng nhìn thấy nàng. Một người đàn bà chưa hề quen biết. Nàng cũng ngồi một mình như chàng, cũng uống rượu, nhưng không hút thuốc lá. Chàng không thấy rõ chiếc áo dài của nàng màu gì nhưng có lẽ là một màu vàng sẫm. Tóc nàng bới cao, trông có vẻ là một người đàn bà đã có chồng, nhưng có lẽ là không phải, bàn tay nàng một khi cầm chiếc ly đưa lên môi không thấy mang nhẫn cưới. Thỉnh thoảng một cô gái đến nói cười với nàng một chút rồi bỏ đi, chắc là cô bạn của nàng. Một vài người đàn ông đã đến mời nàng khiêu vũ, nhưng chàng thấy nàng nhẹ lắc đầu từ chối.
Khi chàng gọi người bồi rót thêm rượu cho nàng, nàng nhìn chàng nói: “Cám ơn.” Chàng trả lời bằng một câu nói thông thường, rồi chàng gợi chuyện bâng quơ một vài câu thông thường, nàng trả lời vắn tắt theo điệu xã giao thông thường. Và hết, chỉ có thế. Khi chàng muốn nói chuyện nhiều hơn một chút, như nhắc đến ngày Tết sắp tới, nàng có vẻ khó chịu và buồn bực.
Nàng ra dấu không bằng lòng với đề tài loại đó. Chàng im lặng không biết nên nói thêm một lời nào, chàng hút một điếu thuốc và chợt nhớ cái câu nói thật chán ngắt:
– Xin lỗi… khói thuốc có làm cô khó chịu không?
Nàng lắc đầu.
– Chắc cô cũng biết hút thuốc?
Nàng vẫn lắc đầu, nhưng nhẹ đưa tay tỏ ý muốn nắm lấy bao thuốc lá. Nàng cầm một điếu. Chàng nghiêng mình gần lại định quẹt lửa cho nàng nhưng nàng đã châm thuốc bằng đốm lửa nhỏ của ngọn nến.
Nàng chợt nói:
– Lúc nãy ông vừa nói gì?
– Cô đã nói là không muốn nghe.
– Ông cứ nói lại đi.
Giọng chàng đều đều:
– Tết, mọi người đều về với gia đình. Cả nhà thao thức suốt đêm trong đêm Giao Thừa. Rồi sáng sớm mồng một, những ngày nghỉ ngơi thong thả, uống rượu và đánh bài suốt mấy ngày đêm…
Nàng hơi mỉm cười:
– Ông thích những thứ đó lắm sao?
– Ai cũng thích cả.
– Tôi tưởng khi mình còn nhỏ mới thấy thích.
– Lớn rồi cũng thích chứ. Nhưng sợ không có được nữa.
Nàng dịu tắt điếu thuốc, hỏi nhanh:
– Thế bây giờ ông còn có được những điều đó không?
– Điếu thuốc của cô chưa hết sao đã…
– Ông còn có được cái Tết như hồi xưa không?
– Không.
Chàng lặng lẽ uống một hớp rượu, hơi hối hận vì đã mở đầu cho những chuyện về ngày Tết. Thật ra, chàng cũng không thích đề tài loại này. Nhưng bây giờ, nàng có vẻ không chịu ngừng lại:
– Tôi cũng thế.
Chàng hỏi:
– Bao lâu rồi?
– Bao lâu… cái gì ạ?
– Cô hiểu mà… Nghĩa là đã bao nhiêu năm rồi cô không được…
– Tôi hiểu. Có lẽ gần mười năm.
– Lâu quá nhỉ!
Nàng lắc đầu, chàng không hiểu ý nghĩa của cử chỉ đó.
Người bạn chàng bỗng trở lại, đem theo giới thiệu một cô gái cho chàng, nhưng chàng nói chàng không muốn khiêu vũ, chàng cám ơn và nói hãy để chàng ngồi yên một mình.
Khi người bạn đi khỏi, nàng nói:
– Ông định ngồi đây có lâu không?
– Chắc là lâu. Khi nào người ta về hết.
– Ông có ý định tìm một người bạn nào để trò chuyện hay nhảy với ai không?
– Không. Cô vừa biết rồi.
Nàng lặng yên có vẻ suy nghĩ đắn đo một điều gì. Rồi nàng bỗng hỏi thật bất ngờ:
– Ông thích nghe tôi kể chuyện không?…
Chàng mỉm cười:
– Thích chứ! Hồi nhỏ tôi vẫn thường nghe mẹ tôi kể chuyện cổ tích đến mê mẩn. Trước khi đến đây, tôi cũng vừa đọc một cuốn truyện…
– Như thế nào?
– Đại khái có một người đàn ông khi biết được người tình của hắn, một người đàn bà có chồng, hết lòng yêu hắn thì nàng đã chết. Trước đó, hắn tưởng người đàn bà ấy yêu người khác, hắn xa nàng vì quá ghen tương, ghen với cả chồng nàng. Chìa khóa của câu chuyện là một tập nhật ký của nàng mà hắn đọc được khi đã muộn…
Nàng có vẻ lưu ý:
– Rồi sao nữa?
– Còn gì nữa! Đến đó là hết chuyện. Như thế là “Kết Thúc Một Chuyện Tình”, truyện của Graham Greene.
Nàng thở dài:
– Thế là ly kỳ hơn chuyện của tôi sắp kể rồi.
– Tôi không thích những gì “ly kỳ, éo le” đâu.
– Thế thì được. Nhưng gần Tết rồi, ông có ngại nghe chuyện buồn không?
Chàng lắc đầu. Nàng quay sang nói một cách tự nhiên:
– Ông cứ ngồi gần lại tôi… Tôi bắt đầu dây, ông có thể ngủ gục nửa chừng nhưng đừng ngắt lời hoặc hỏi gì cả.
Chàng nghe theo lời nàng, nhưng khi sắp nhìn thấy mặt nàng rõ hơn, nàng bỗng thổi tắt ngọn nến cắm trên bàn. Nàng trở thành một bóng đen. Chàng không còn nhìn thấy gì hết.
Chỉ có giọng nói của nàng, và tiếng kèn đồng của người nhạc công dã dượi lan đi khắp căn phòng.
– Cũng kỳ cục thật. Tại sao tôi lại kể cho ông nghe… Tôi đâu quen biết gì ông…
o O o
Năm đó, tôi được mười tám tuổi, học lớp đệ nhị tại một trường nữ tư thục ở tỉnh X… Thuở làm học trò thật là vui. Mỗi khi tan trường, tôi và vài ba đứa bạn gái thân nhất còn dạo một vòng ven bờ sông. Thế là bao nhiêu gã thư sinh lò dò theo sau một đoàn, xầm xì bàn tán, mà tôi chắc đó chỉ toàn là những lời trầm trồ ca tụng. Thỉnh thoảng một anh chàng nào đó bạo miệng nhất thốt lên vài lời bâng quơ. Tụi tôi chỉ khúc khích cười hay bĩu môi chế diễu, cặp sách nặng trên tay nhưng người vẫn thấy nhẹ nhàng lâng lâng nhờ ngọn gió mát thổi từ bến sông. Những tà áo trắng của bọn tôi quấn quýt vào nhau. Hồi đó, tôi chỉ thích mặc áo dài trắng.
Trong nhà, tôi là đứa con gái út. Anh đầu của tôi chừng hai mươi bốn tuổi, theo học năm cuối ở Đại học Sư phạm. Kế đến là chị tôi, lớn hơn tôi ba tuổi, chị học Văn Khoa nhưng ghi danh cho vui chứ ít khi đến trường, chị phải lo mết mọi công việc nội trợ trong nhà vì mẹ tôi mất sớm. Ba anh em chúng tôi thân nhau như bạn bè, anh tôi chẳng hề mở miệng la mắng tôi một tiếng, còn chị tôi thì săn sóc cho tôi từng ly từng tí. Bao nhiêu kiểu quần áo nào đẹp nhất in mẫu trong báo Pháp, chị đều sưu tầm để may cho tôi. Từ ngày mẹ tôi mất, ba tôi trở nên trầm ngâm, ít nói. Miệng ông không bao giờ rời ống vố đầy khói thuốc lá, cái thú thứ hai còn lại là đánh bài. Ba tôi đã xin về hưu nhưng gia đình tôi sống khá sung túc nhờ huê lợi của một căn nhà lớn cho thuê ở phố, nhà tôi dọn về một nơi yên tĩnh hơn.
Trong căn nhà nhỏ ấm cúng, gia đình tôi sống quây quần với nhau thật hạnh phúc. Mỗi đêm, ba tôi đánh bài với mấy người quen thân, gồm vài ông công chức trong Tòa Tỉnh. Trong những người này, tôi chỉ biết có anh Lê, vì anh là giáo sư ở trường tôi, mặc dầu anh dạy ở lớp trên.
Anh Lê thân với mấy anh em chúng tôi nhất. Anh đã lớn, khoảng gần bốn mươi nhưng có lẽ nhờ làm nghề dạy học, anh vẫn còn hiểu biết khá nhiều về lớp người trẻ, anh nói chuyện rất vui, thường chọc chúng tôi cười luôn và thỉnh thoảng anh còn chỉ vẽ thêm bài vở cho hai chị em tôi.
Ba tôi rất khó tính nên tôi ít bạn, cũng ít khi được đi chơi đâu ra khỏi nhà mà không có chị đi kèm. Bạn gái, tôi chỉ có một hai đứa lâu lắm mới lại chơi một lần, còn bạn trai thì hoàn toàn không. Thỉnh thoảng vài anh chàng gửi thư cho tôi theo địa chỉ nhà con bạn, tôi đọc thấy hơi thích thú nhưng dĩ nhiên không bao giờ trả lời, tôi cất tất cả vào một chiếc hộp bánh nhỏ. Chị tôi cũng biết chuyện này, chị nói đùa cứ cất dành để lúc nào làm luận lấy ra mà “tham khảo”, nhưng đến khi nào đi lấy chồng thì nên đốt hết. “Đàn ông hay ghen vặt lắm”, chị nói thế với cái điệu từng trải làm tôi nhạc nhiên, tôi thấy chị đã có ông “bồ” nào đâu.
Đó… tôi sống bình thản với khung cảnh gia đình như thế. Mỗi đêm, khoảng chừng mười hai giờ là sòng bài “thân mật” của ba tôi bế mạc… Khách khứa kéo nhau ra về, chỉ còn lại anh Lê. Tôi chạy lại anh reo lên:
– Anh Lê ăn nhiều không?, “lì xì” cho em đi.
Anh Lê gượng cười lắc đầu. Trông anh thật tội nghiệp, đầu bù tóc rối, mắt đỏ sâu vì thiếu ngủ, anh chơi bài thường đêm nào cũng thua, may lắm mới huề. Anh chậm chạp đến ngồi thu mình trong chiếc ghế bành lớn, co hai chân lên đầu gối, miệng ngậm ơ hờ một điếu thuốc lá. Lúc này, trông anh thật khác với vẻ nghiêm nghị chững chạc khi ở trường học. Nhưng nhìn anh dưới dáng vẻ thứ hai này, tôi cảm thấy mến anh hơn.
Anh Lê mỉm cười với tôi, chậm rãi nói:
– Khui cho anh một chai bia đi Út.
Anh vẫn gọi tên tôi như các anh chị thường gọi. Tôi hăng hái mở tủ lạnh, làm cho anh một ly bia, rồi bắc ghế ngồi cạnh anh. Đợi anh nhấp một chút bia xong, anh sẽ nói chuyện với chị em tôi thật hào hùng cho đến khuya. Tôi đã học thuộc bài và chưa thấy buồn ngủ, tôi rất thích có người trò chuyện cho vui. Ba tôi thì thường lặng lẽ đi ngủ khi hết đánh bài, anh trai tôi suốt ngày cứ cắm đầu vào sách, chị em tôi thì ngày nào mà không thủ thỉ tâm sự, rồi cũng hết chuyện.
May mà có anh Lê, là người thông cảm với tôi nhất, anh lại khéo nói chuyện, khéo gợi chuyện nên lâu ngày anh là người tôi thân nhất trong nhà. Không những chuyện học hành thôi, mà có những “tâm sự” gì về tình cảm tôi cũng kể cho anh Lê nghe. Anh mỉm cười, còn đùa tôi thêm mấy câu hay khuyên răn vài điều. Anh rất sành tâm lý bọn trẻ nên đôi khi anh giải thích, phân tách những tâm trạng còn mơ hồ băn khoăn của tôi thật hay và tế nhị.
Mấy lúc sau này, vì thường đánh bài đến khuya và nhà anh Lê ở xa, nên anh ngủ lại nhà tôi. Ba tôi cũng rất quý anh Lê. Ông nói anh ấy là người tài cao, học rộng, đạo đức nhưng vì liêm khiết và hơi cao ngạo nên khó thích hợp giữa thời đại bon chen tranh giành này. Ba tôi cũng hài lòng khi thấy mấy anh chị em tôi thường thân mật với anh Lê. Ba nói anh Lê có thể chỉ vẽ cho chúng tôi nhiều điều bổ ích. Anh “truyền lại” những kinh nghiệm trong đời dạy học của anh cho anh tôi, anh giảng giải những đoạn khó hiểu trong “cours” văn chương và triết của chị tôi, và sau hết, anh kèm cho tôi môn Toán. Tôi học ban B, năm nay lại phải thi Tú Tài I nên tôi rất chuyên chú đến môn chính này.
Cứ thế, tôi cảm thấy đầy đủ sung sướng trong gia đình. Gia đình tôi bây giờ có lẽ phải kể thêm anh Lê mới đúng, anh gần như là người trong nhà, một ông anh thứ hai của tôi ngoài anh ruột tôi.
Nhưng rồi một ngày kia, đời tôi thay đổi. Chàng đến…
Anh trai tôi xưa nay ít thấy chơi thân với người bạn nào. Bỗng dưng một hôm anh dẫn về nhà một người bạn trai, nói là học cùng lớp với anh. Ở nhà lúc đó thật vắng, ba tôi nằm trong phòng riêng, chị tôi bận bịu bên chiếc máy may, đo cắt áo. Trên phòng khách chỉ còn lại một mình tôi. Tôi phải “đại diện” chào người bạn của anh tôi, pha trà rót nước mời hắn uống theo đúng phép lịch sự.
Không hiểu sao, anh tôi lại nói:
– Út, mày ngồi đó tiếp chuyện với anh Trần một chút. Tao đi tắm cái đã, nóng quá.
Và anh tôi bỏ đi vào nhà sau. Tôi hơi lúng túng một chút, nhất là chưa gì mà gã con trai xa lạ này lại nhìn tôi mỉm cười có vẻ như là thân mật lắm. Nhưng tôi cũng phải ngồi xuống ghế, gần hắn, không biết phải “tiếp chuyện” như thế nào. Gã tên Trần và tôi ngồi một lâu mà không ai lên tiếng, tính tôi vốn ít nói và dè dặt trước người lạ. Tôi nhìn lơ đi tận đâu đâu rồi bỗng nhiên tôi có cái cảm giác hơi nhột nhạt tôi quay lại và bắt gặp đôi mắt của Trần nhìn chăm chăm vào tôi. Bị bắt “quả tang” đang nhìn trộm, đáng lẽ hắn phải nói câu gì để chữa thẹn, nhưng không, hắn vẫn im lặng nhìn tôi. Tôi thấy nóng mặt, ngượng ngùng lẫn hơi khó chịu. Tôi gượng thản nhiên nói:
– Mời anh uống nước kẻo nguội…
Lần này Trần mới tỏ vẻ lúng túng, vì nhìn lại trên bàn tôi mới biết hắn đã uống sạch tách trà to tướng từ lúc nào rồi, chưa đợi ai mời cả. Tôi cầm bình trà định rót thêm cho Trần, tôi muốn làm bất cứ một cử động gì để không khí khỏi ngột ngạt. Tôi ngạc nhiên, bình trà nhẹ bỗng.
Bây giờ Trần mới lên tiếng sau một cái đằng hắng:
– Thôi… tôi uống hết rồi…
Thì ra nãy giờ trong lúc tôi không để ý, Trần tự động rót nước trà ra tách và uống hết tách này đến tách khác, đến sạch cả bình. Không biết ông tướng này mới đi đâu về mà khát nước thế! Tôi nhìn Trần và thấy bộ mặt hắn có vẻ khôi hài, tôi không nhịn được cười. Hắn và tôi cùng bật cười lên một lúc.
Bây giờ, không khí có vẻ dễ thở hơn, tôi hỏi:
– Chắc anh thích uống trà lắm…
Trần mỉm cười lắc đầu:
– Không… nhưng tại tôi… không biết phải làm gì cả.
Tôi cười thầm. Thì ra Trần cũng bối rối không kém gì tôi, hắn không dám gợi chuyện, cũng không biết phải làm gì nên cứ ngồi uống trà liên miên. Thế mà, lúc mới nhìn đôi mắt hắn chăm bẳm nhìn vào tôi, tôi tưởng anh chàng này “ghê” lắm.
Tính trẻ con của tôi trở lại, tôi cảm thấy tự nhiên hơn và bắt đầu nói chuyện với Trần một cách thoải mái như với anh tôi. Thỉnh thoảng, Trần nói đùa mấy câu làm tôi phá lên cười, tôi cũng nghịch ngợm không kém. Chẳng mấy chóc, tôi và Trần đã trò chuyện với nhau rất vui vẻ và thú vị.
Khi anh tôi trở lại phòng khách, tôi cũng không biết vì mải mê nghe Trần kể chuyện hắn và anh tôi cũng “theo” một cô hoa khôi trong trường.
– Chà, hôm nay chắc trời mưa lớn. Cóc mở miệng rồi.
Giọng anh tôi vang lên làm tôi giật mình. Trần cũng ngưng bặt câu chuyện có vẻ tiếc rẻ. Tôi xấu hổ chạy lại nắm lấy tay anh tôi, véo mấy cái hết sức mạnh.
– Anh nói ai là cóc, hử?
Anh tôi cười chống chế, chỉ vào Trần:
– Tao đâu có nói mày, thật là có tật giật mình. Cóc là Trần đó, trong lớp cả năm nay tụi tao đánh cá xem hắn là người Bắc, người Trung hay người Nam mà chưa có kết quả…
Tôi hơi ngạc nhiên nhìn Trần. Nãy giờ hắn nói với tôi thao thao bất tận. Anh chàng này mà ít nói sao, và tôi đỏ mặt khi chợt nghĩ thầm chắc chỉ có tôi là “hợp chuyện” với hắn. Trần mỉm cười lần nữa, mắt không rời tôi. Tôi vùng bỏ chạy vào nhà trong, sút mất một chiếc guốc trong tiếng cười ha hả của anh tôi.
Hôm sau, Trần đến nhà tôi hỏi anh tôi có ở nhà không. Chị tôi nói không và hắn lúng túng bỏ về. Hôm sau nữa, Trần lại đến, lần này cùng với anh tôi. Hôm sau nữa… và hôm sau nữa. Thế là suốt trong một tháng, Trần gần như đến nhà tôi ngày một. Nhờ anh tôi, bây giờ hắn đã quen biết hết với tất cả những người trong nhà. Lúc này gặp anh Lê, hắn cũng lễ phép chào: “Thưa thầy.” Rồi một hôm, hắn mang cả sách vở đến cùng học chung với anh tôi.
Trần trạc tuổi anh tôi, nghĩa là hơn tôi khoảng bốn năm tuổi nhưng tính hắn còn rất trẻ con như tôi, đôi khi tôi nói đùa hắn trông như một cậu công tử bột mười bảy tuổi, và phải gọi tôi bằng chị. Nói thế chứ bây giờ khi nói chuyện, Trần đã tự xưng là “anh” và gọi tôi bằng “em” nghe rất tĩnh, kể ra thì cách xưng hô ấy cũng không có gì quá đáng.
Tính tình gần giống nhau: ham trò chuyện không biết mệt, thích nói đùa, thích phá nghịch, thích cãi bướng… Trần và tôi dần dần hợp nhau hơn ai hết.
Anh tôi lại có dịp nói đùa:
– Bây giờ không những là trời mưa thôi mà còn có bão tố nữa. Cóc và cóc cùng nhau mở miệng…
Bão tố, có thể gọi là bão tố… nhưng tôi muốn gọi bằng một chữ dịu dàng hơn. Tôi muốn gọi đó là những hạt mưa phùn đầu mùa xuân, lăn nhẹ nhàng trên tóc mà vẫn lắng sâu vào người thấm thía.
Yêu. Cái tiếng thật sáo và kỳ cục, nói ra thấy ngượng miệng và nghe có vẻ chướng tai nữa. Nhưng tôi biết dùng chữ gì bây giờ. Tôi thương vô cùng ba tôi, anh tôi, chị tôi nhưng tôi thấy rõ tình cảm đó khác hẳn lúc tôi đối với Trần. Ngày ấy, tôi mới mười tám tuổi, tôi không bao giờ dám dùng đến chữ “yêu”, không dám nói, cũng không dám nghe lời đó. Nhưng bây giờ tôi đã già dặn lắm rồi. Nhớ lại ngày xưa, tôi không còn e thẹn gì mà không nói thẳng một cách vắn tắt: Tôi yêu Trần.
Tôi yêu. Nhưng làm sao nhớ được bắt đầu từ lúc nào và cũng đâu lo xa chi đến một ngày tan vỡ. Không phải là “tiếng sét.” Là một cánh cửa mở nhẹ nhàng mời gọi tôi bước vào, chân rón rén dẫm run rẩy như hồn bàng hoàng rung động.
Tôi biết kể những gì về Trần. Tôi yêu chàng ở điểm nào, tôi có gì cho chàng yêu… Tôi cũng không biết rõ. Có lẽ nẩy mầm từ một điều giống nhau đầu tiên: tâm hồn cả hai đều trẻ dại và nhiều mơ mộng. Chúng tôi cùng yêu cái đẹp, yêu những niềm vui đơn giản, yêu những thú tiêu khiển thật tầm thường như bao nhiêu người khác… Yêu âm nhạc bềnh bồng dịu dàng, sách hay, phim ảnh mới có những cặp tình nhân trẻ… Cũng như tôi, Trần thích màu sắc, tiếng cười đùa, bánh kẹo ngon, những tràng chuỗi hạt lóng lánh rực rỡ… Chàng nhớ từng màu áo của tôi, nhớ rõ tôi có bao nhiêu áo mặc trong nhà, và màu nào chàng thích nhất. Chàng yêu màu vàng cúc nở và vì tôi chàng yêu thêm màu lụa trắng. Chàng thích tôi để tóc dài, và mỗi lần tóc tôi cắt ngắn bớt, chàng cùng tôi chờ đợi mỗi ngày từng sợi dài thêm đôi chút. Tôi thích thấy chàng mặc áo màu xanh nhạt, tôi nói chàng đừng hớt tóc ngắn kiểu “gáo dừa”, cứ để tóc dài đến gáy nhưng cũng đừng rậm rạp quá như người rừng. Mỗi lần chàng sắp đi hớt tóc đều phải ý kiến tôi:
– Tóc anh dài quá, anh đi hớt nghe!
– Khoan đã. Như thế là vừa rồi, đợi thêm một tuần nữa.
Tuần sau, chàng cố ý mang mái tóc rối bù xù, hớt hải đến tìm tôi:
– Đầu anh ngứa quá rồi. Em cho tiền anh đi hớt tóc mau lên.
Tôi phì cười:
– Ai bảo anh không gội đầu. Xem tóc em đây, dài hơn anh gấp đôi…
Chàng giả vờ cãi:
– Tại em là con gái. Tóc em càng dài càng đẹp, óng ánh như suối.
– Anh xạo!
Tôi bĩu môi thích thú, và tôi cũng nghịch không kém:
– Tóc anh cũng đẹp lắm. Để em chải lại cho đàng hoàng.
Mặt chàng tươi lên. Nhưng:
– Út ơi, pha cho tao một ly cà phê.
Giọng anh trai tôi vang lên cắt đứt giây phút thích thú. Kể ra cũng nhờ anh tôi, Trần mới có dịp thân với tôi hơn. Anh tôi rủ Trần đến học chung mỗi tối ở phòng sau, tôi cũng ngồi học bài gần đó. Anh tôi dễ tính và cưng chiều tôi, anh cũng mến Trần nữa, bởi thế lúc nào cũng cắm đầu vào cuốn sách học, giả vờ như quên Trần và tôi. Chúng tôi tha hồ nói chuyện với nhau, miễn là nói nhỏ đừng để lọt lên phòng khách là nơi ba tôi đang đánh bài. Chỉ đôi khi, có lẽ thấy câu chuyện của chúng tôi sắp đến chỗ “thân mật” quá, anh tôi mới lên tiếng “phá đám” bằng cách sai tôi làm một cái gì đó hay hỏi Trần một câu vớ vẩn.
Nhà tôi và nhà Trần cách nhau có mấy con đường mà chúng tôi gởi thư cho nhau một tuần đến hai ba cái. Gởi bằng bưu điện nữa mới thật buồn cười. Vì tỉnh này chỉ có một nhà bưu điện nên có lần chúng tôi đụng đầu nhau trước thùng thư. Hôm đó tôi đi với con bạn nên Trần không dám trò chuyện gì nhiều. Chúng tôi giả vờ như hai người không quen trước thùng thư, nhưng thay vì bỏ vào thùng, tôi và Trần nhanh nhẹn đổi thư cho nhau. Về sau chàng nói bưu điện Việt Nam nên hãnh diện vì chưa bao giờ có một vụ chuyển thư với thời gian nhanh chóng như thế, phá hết mọi kỷ lục trên thế giới.
Tôi đã nói Trần vốn thích nói đùa. Chàng nói đùa nhiều khi quá lố làm người khác dễ giận, riêng tôi thì không. Có lần nhà tôi làm đám giỗ thật trọng thể với đầy đủ khách khứa lớn tuổi, Trần đến ăn uống no say, rồi nói nhỏ với tôi bằng cái giọng đầy mùi rượu:
– Nhà tổ chức tiệc tùng gì mà lớn quá, chắc là đám hỏi của em?
Tôi “suỵt” chàng một tiếng bảo nín ngay, rồi tôi vờ nghiêm nghị gật đầu:
– Ừ, đám hỏi của em đó. Có sao không?
Chàng nheo mắt hỏi:
– Của em và ai?
Tôi im lặng. Trần bốc đồng hứng chí nói tiếp:
– Chắc là của em với anh.
Tôi đỏ mặt, nguýt chàng một cái dài rồi vội bỏ đi chỗ khác vì sợ nghe thêm những lời ẩu tả của chàng. Sinh nhật tôi, Trần đem đến một bó hoa hồng đỏ tươi. Chàng tặng tôi đủ thứ nhẫn vòng, chuỗi hạt, và một chiếc trâm cài tóc. Chàng còn nói:
– Từ nay, anh tình nguyện lấy ngày sinh nhật của em làm sinh nhật của anh luôn. Ăn mừng một lần cho tiện.
Tôi cười, nhìn chàng âu yếm, rồi nói:
– Cũng được. Thế hôm nay là ngày sinh nhật của anh hả?
Tôi không biết đã mắc mưu Trần. Chàng chỉ đợi tôi nói thế là lên tiếng ngay:
– Sinh nhật của anh, em phải tặng cho anh cái gì đi.
Tôi cũng khôn không kém:
– Bây giờ em mới biết. Làm sao đi mua đồ kịp nữa?
– Thì cho cái gì có sẵn trong nhà. Cho anh chiếc “ruban” cột tóc em cũng được.
Tôi lắc đầu. Mặt chàng nặng xuống có vẻ giận. Lát sau, khi Trần về, tôi đưa tặng chàng món đồ mà tôi quý nhất. Đó là cuốn sách dày tự tay tôi khâu đóng với giấy xanh, từ hai năm nay tôi chép trong đó những bài thơ tôi thích nhất. Tôi đã cố ý gấp nếp đánh dấu ở một trang, bài thơ của Huy Cận mà giờ đây tôi chỉ còn nhớ đôi câu:
Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng
Trí vô tư như da thở hương tình…
Tôi vẫn muốn Trần và tôi sống mãi những ngày đầm ấm vô tư, tươi sáng rực rỡ như ánh nắng, say đắm mà giữ gìn kín đáo, nồng nào bên nhau mà lặng lẽ cho nhau.
Và hạnh phúc thay, ngày ấy tình yêu của Trần và tôi đã êm đềm trong sạch như tôi mơ ước. Chúng tôi trao nhau những cái nhìn nồng cháy đắm đuối, chúng tôi nói những lời chan chứa ẩn tình, chúng tôi cười bên nhau ròn rã như đôi uyên ương… Nhưng chúng tôi chưa hề dám có với nhau một nụ hôn, điều khởi đầu của những cặp tình nhân như tôi thường nghe nói. Đôi khi chúng tôi câm lặng nhìn nhau mắt không rời mắt, tôi như đã hôn đôi mắt chàng trong trí óc, chàng như đã uống lấy đôi môi tôi trong tâm hồn chàng.
Chúng tôi chưa có một lời ràng buộc rõ ràng nào với nhau, nhưng tôi biết cả hai đều tự nhủ kết ước đời mình với nhau mãi mãi. Chỉ một lần, Trần bạo gan buồn buồn hỏi:
– Sau này dầu em có làm gì hay em “ở” với ai, em sẽ thấy là không có ai thương em bằng anh cả.
Tôi muốn khóc. Chàng yêu tôi nhưng sao không tin tưởng vào lòng tôi vĩnh viễn. Tôi giận dỗi nói:
– “Ở” với ai là sao?
– Là đi lấy chồng.
– Em không muốn lấy chồng gì cả.
Trần chợt nắm lấy bàn tay tôi. Tôi nhẹ nhàng khéo léo rút ra khỏi bàn tay của chàng. Giọng chàng ngần ngại bên tai tôi:
– Vài năm nữa em có muốn “ở” với anh không?
Tôi hờn mát:
– Để nuôi vợ con anh à?
– Anh cũng không lấy vợ. Anh “lo” gả chồng cho em trước rồi mới lấy vợ sau. Đám cưới của em trước rồi mới đến đám cưới anh.
Trần ngừng lại một lát như để lấy thêm can đảm, rồi run run nói:
– Nếu hai đám cưới cùng tổ chức vào một lần thì tiện hơn. Nếu rút gọn lại được thành một đám cưới, chỉ một… của anh với em…
Chúng tôi im lặng giây lâu. Tôi biết lời chàng thành thật, tính chàng hay bông đùa nhưng vì đã quen thuộc, lúc nào chàng nói đùa là tôi biết. Và lần này, sự thành thật đã làm chàng nói một cách khó khăn, ấp úng như đứa trẻ. Trần nhắc lại:
– Em bằng lòng không?
Tôi cúi đầu. Tôi mong được chàng hiểu cho tôi cả những điều không thể phát thành lời nói. Tôi ngập ngừng tháo chiếc nhẫn vàng xưa của mẹ mà tôi thường đeo ở ngón áp út, tôi nắm chặt giấu kín trong lòng bàn tay và hướng về phía chàng.
Cả hai bàn tay tôi đều nắm lại, còn e dè đặt trên bàn. Có tiếng chân của anh tôi trên nhà đi xuống. Trần trở lại với thói quen tinh nghịch, chàng vui vẻ nói lớn như trẻ con đố:
– Xầm xì may rủi… Bửa củi nấu ăn… A… tay này.
Và chàng gỡ những ngón tay của tôi ra, lanh lẹ cầm lấy chiếc nhẫn cất ngay vào túi. Ngày hôm sau, tôi thấy Trần lúc nào gặp người khác đều bỏ một tay vào túi quần, chàng sợ người ta biết. Chiếc nhẫn của tôi hơi nhỏ nên chàng đeo ở ngón út bàn tay phải.
Cứ thế, tháng ngày qua đều đặn nhưng không còn tẻ nhạt nữa. Mỗi ngày của tôi đều mang một màu sắc mới sống động. Rồi mùa xuân gần tới…
o O o
Đến với nhau vì cùng trẻ tuổi, nhưng chúng tôi dần dần khổ sở với nhau vì tôi và Trần đều quá trẻ người non dạ. Chúng tôi có nhiều tự ái, bướng bỉnh, mau nóng giận và hay nghi ngờ không ai thua kém ai. Nhất là Trần, chàng bồng bột phóng lớn tình yêu của chàng biến thành một cái gì thật vĩ đại và toàn bích. Chàng nói đến những điều tuyệt đối, lý tưởng, tuyệt vời gần như ảo mộng. Chàng đòi hỏi quá nhiều, chàng muốn nhận được tất cả vì nghĩ rằng chàng đã cho tất cả. Rồi không khi nào chàng cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện hài lòng về tôi. Chàng tìm những lý do để tự vò xé chàng. Một cử chỉ vô tình thờ ơ của tôi cũng trở thành nặng nề như một vết thương làm đau lòng chàng. Chàng trở nên khó tính, nóng nảy, ngờ vực gần như si dại. Chàng ghen thật vô lý. Chàng ghen với tất cả những người đàn ông nào không phải là ba tôi hay là anh ruột của tôi. Chàng ghen với cả anh Lê. Sau này khi gặp anh, chàng chỉ lạnh lùng gật đầu chào rồi đi thẳng, không nói một tiếng. Và thế là, trong tình yêu, nụ cười vui đã dần dần bị thay thế bằng những nét nhăn sâu buồn bực trên trán và đôi mắt đỏ.
Và để “trả thù” tôi, Trần úp mở nói cho tôi biết đời sống tình cảm bừa bãi của chàng. Chàng nửa đùa nửa thật kể cho tôi nghe những chuyện chàng đi tán tỉnh cô này cô nọ. Chàng giả vờ thành thật nói chuyện một cách tự nhiên, và dễ ghét, rằng chàng đang có một hai cô bồ nào đó.
Tôi cảm thấy giận và khó chịu, nhưng ngoài mặt vẫn bình thản như thường. Tính tôi vốn dấu diếm tình cảm rất giỏi. Tôi còn cười cười ra vẻ thích thú, hỏi thêm về những “người yêu” của chàng, tôi cũng không ngớt lời ca tụng những người đẹp ấy. Không ngờ vì thế mà Trần giận thêm, chàng nói rằng tôi có trái tim bằng sắt, rằng tôi coi thường chàng quá và chàng bực tức dọa rằng chàng sẽ chứng minh cho tôi thấy “sắt” không bao giờ được yêu thương cả.
Trần lớn hơn tôi vài tuổi, dĩ nhiên tôi cũng biết chàng có thể có người yêu nào đó trước khi gặp tôi. Tôi không phải là tình đầu tiên của Trần, nhưng tôi tin tưởng rằng hiện nay chàng chỉ yêu có mình tôi. Chỉ có tôi là người duy nhất của chàng, và chàng sẽ không bao giờ yêu ai khác ngoài tôi nữa. Không biết vì lý do gì mà tôi tự tin một cách vững chắc như thế. Không phải vì lý do sắc đẹp. Trong trường, trong lớp, tôi biết mình không phải là người đẹp nhất. Ở nhà, tôi cũng nhìn nhận chị tôi có dáng dấp yêu kiều, quyến rũ hơn tôi. Huống gì tỉnh này còn biết bao người đẹp khác nữa. Trần là đàn ông, chàng có thể quen biết một vài cô. Nhưng… tôi vẫn tin chàng chỉ có mình tôi, chỉ nhìn thấy tôi, chỉ nhớ chỉ nghĩ về tôi, ngay cả khi chàng giận dữ nói chàng “sắp sửa” quên tôi rồi. Có lẽ nhờ tình yêu nồng nàn bộc lộ không hề che dấu của chàng mà tôi tin như thế. Một gã sở khanh có thể tán tỉnh nhiều người bằng những lời nói lặp đi lặp lại giống hệt nhau. Nhưng không ai có thể nhìn đến hai người với chỉ một ánh mắt. Trần lặng lẽ cho tôi hết tất cả màu mắt chan chứa yêu thương, say đắm, hân hoan, hờn dỗi của chàng… Chàng không thể lặp lại ánh sáng sống động xôn xao ấy cho một người nào khác.
Chỉ tiếc là chúng tôi yêu nhau, nhưng vẫn đi trên hai lối khác. Tôi che dấu bớt tình yêu của mình còn chàng thì say sưa bộc lộ quá nhiều tình yêu của chàng, để rồi chàng tính toán một cách trẻ con mà bảo rằng chàng “thua lỗ.”
Như đã nói, tính tôi cũng bướng bỉnh không kém gì Trần… Khi nghe nói đến những người yêu nào đó − tưởng tượng hay có thật − của Trần, lập tức tôi nói chuyện về những người bạn trai của tôi cho Trần nghe. Thỉnh thoảng nhắc đến tên của người nào đó, tôi mỉm cười một cách bí mật. Thế là Trần nghi ngờ hỏi:
– Tại sao em cười?
– Bộ anh cấm em cười à? Thích cười là cười.
– Nhưng tại sao khi nói đến tên “thằng” X… em lại cười có vẻ thích thú lắm? Còn anh…
Và Trần nói lớn một tràng dài:
– Trần, Trần, Trần, Trần… Đó, sao em không cười đi?
Chàng đã vô lý như thế làm sao tôi nói gì được? Tôi im lặng và lạnh lùng không nói gì nữa. Trần lại tìm thêm một cớ khác:
– Chắc em có nhiều bạn trai gởi thư cho em lắm?
Tôi đáp:
– Không nhiều. Vừa thôi.
– Vừa là sao? Ngoài thư anh ra, em còn nhận thư hay viết thư cho ai nữa không?
– Có chứ!
Trần như nổi điên:
– Em trả thư anh hết lại cho anh.
Tôi cắn môi, lắc đầu:
– Em không trả. Ai bảo anh không chịu suy nghĩ kỹ trước khi gởi cho em! Gởi rồi là không được quyền đòi lại.
– Chữ của anh viết tại sao anh lại không có quyền? Trả lại cho anh.
Trần nói với giọng như người đòi nợ làm tôi tức, tôi trả lời:
– Em làm mất hết rồi.
Trần sững sờ giây lát, rồi chàng bỗng nói một cách dịu dàng:
– Thôi, cũng không sao. Để mai anh đem trả lại cho em tất cả thư từ gì em gởi. Anh không muốn nhận, không muốn giữ cái gì của em nữa.
Những lời nhẹ nhàng đó làm tôi nhói đau nhè nhè, mắt tôi cay nóng và hình như tôi đã khóc. Tôi quay đầu đi, nói nhỏ:
– Khỏi cần trả. Anh đốt hết đi.
Trần có vẻ ngần ngại rồi lấy ra trong túi một lá thư. Chỉ nhìn sơ qua ngoài bì tôi biết ngay là lá thư tôi vừa gởi cho chàng tuần trước, tôi còn nhớ trong đó tôi viết cho chàng những chuyện thật vớ vẩn: “Hôm qua em đi học về, trời mưa lớn và đường trơn quá, em suýt trợt té xuống ao đó… Anh biết không?”, và “… Mấy ngày nay trời mưa hoài thích quá. Tự dưng em muốn anh đến thăm em ngay bây giờ, nếu đến chậm quá lỡ… em chết đi thì sao. Anh biết không… chà, anh mà biết gì… anh vẫn nói anh ghét trời mưa lạnh lắm, thật trái với em… Anh nhớ không. Và ở xứ này, dầu anh ghét hay thích, trời vẫn cứ mưa mãi…”
Trong khi tôi đang mơ màng nghe lại những lời cũ của chính mình, Trần bỗng đột ngột đưa cho tôi lá thư, chàng lạnh lùng nói:
– Em đốt trước một cái cho vui.
Tôi khóc. Tôi không còn muốn nhường nhịn gì Trần nữa. Tôi đi đến bên cánh cửa sổ, quẹt diêm đốt lá thư và nhìn tro tàn bay tan tác theo gió dần xa mất biệt.
Và thế là, tôi, có lẽ cả Trần nữa, chúng tôi đã đốt cháy nhiều thứ lắm.
Chúng tôi tránh mặt nhau trong nhiều ngày. Xa cách thật giá lạnh như mùa đông, và làm mùa đông của chúng tôi kéo dài bất tận.
Nhưng bên ngoài, tiết trời vẫn tuần tự. Dù muốn dù không, mùa xuân vẫn tới.
Đêm Giao Thừa, hai chị em tôi sửa soạn ủi mấy chiếc áo dài mới. Những chiếc áo len lấy từ trong rương thơm mùi long não. Tuy không còn mẹ, nhưng nhà tôi vẫn có đầy đủ những thứ cho ngày Tết. Bánh chưng, bánh tét, mứt me, mứt sen, mứt dừa, trà rượu… Chị tôi đang dọn sẵn sàng. Một cành mai nở hoa vàng do anh Lê đem lại biếu cho ba tôi, rực rỡ trong chiếc bình cổ được chùi rửa bóng loáng. Mấy ngày gần đây, không hiểu sao anh Lê có vẻ buồn, anh ít nói hơn với chị em tôi. Và nhất là với tôi, thỉnh thoảng tôi bắt gặp đôi mắt của anh lén nhìn một thoáng nhanh rồi quay đi. Anh Lê vẫn đánh bài hằng đêm ở nhà tôi, anh vẫn thua luôn như thường lệ, nhưng dạo này anh uống rượu nhiều hơn trước. Cứ mỗi khi sòng bài tan, anh ngồi lầm lì uống rượu li bì đến khuya mới uể oải đi ngủ.
Gần mười một giờ tối. Đêm nay, ba tôi nghỉ đánh bài sớm, ông rút vào phòng đóng kín cửa. Anh tôi ở trong phòng riêng, dọn dẹp sách vở và cũng chịu khó chải lại bộ Veston bảnh bao của anh để ngày mai “diện” vào. Chị tôi ở trong phòng tắm, chị đang gội đầu “tất niên” bằng nước bồ kết và nói có để dành cho tôi một ít.
Trên phòng khách chỉ còn lại anh Lê và tôi. Tôi đang đọc một tấm thiệp chúc Tết “làm hòa” của Trần, chàng nói chàng sẽ đến xông đất nhà tôi vào sáng mồng một hay có thể là trong đêm Giao Thừa, trước khi mọi nhà đều đóng kín cửa.
Anh Lê ngồi hút thuốc liên miên, chai rượu Mai Quế Lộ trước mặt anh đã vơi một nửa. Tôi tiến lại gần bên anh, gợi chuyện cho anh vui nhưng anh chỉ thở dài, lặng câm không nói.
Đôi mắt anh đỏ sâu lờ đờ nhìn không chớp vào mắt tôi. Tôi hơi sợ và bối rối. Hôm nay anh có vẻ gì thật khác lạ. Bỗng anh Lê cầm lấy tay tôi. Tôi để yên, thỉnh thoảng anh Lê vẫn xem chỉ tay cho tôi. Anh vẫn thường vuốt tóc tôi, véo má tôi hay cầm tay tôi đùa nghịch như anh trai vẫn thường đùa với tôi.
Nhưng lần này, anh Lê nắm tay tôi thật lâu và không có vẻ gì đùa giỡn cả. Anh còn siết chặt mấy ngón tay tôi thật đau. Tôi mỉm cười, nhẹ gỡ tay anh ra nhưng anh vẫn không buông. Cánh tay kia của anh bỗng quàng lên vai tôi kéo lại gần, tôi cảm thấy mái tóc của tôi bị những ngón tay của anh lùa vào quấn quýt. Anh bỗng run run nói, tôi chỉ nghe mập mờ vì trống ngực tôi đang đập thình thịch lo sợ, nhưng tôi vẫn nghe và hiểu rõ những lời nói của anh. Anh nói anh yêu tôi. Tôi bàng hoàng như nằm trong mơ. Không phải là một cơn ác mộng, cũng không phải là một giấc mộng đẹp. Tôi sững sờ. Anh Lê lớn hơn tôi gần hai mươi tuổi, và anh cư xử một cách tự nhiên trong nhà tôi khiến không ai có thể gán ghép anh với chị tôi nữa chứ đừng nói với tôi.
Tôi bất động, không biết phải làm gì hay nói gì cả. Trong lúc đó, anh Lê ôm chặt lấy tôi, anh hôn vào má tôi…
Bỗng có tiếng cửa mở và tiếng chân chạy vào. Tôi bừng tỉnh, vội giằng anh Lê ra… nhưng không kịp nữa. Trần đã nhìn thấy. Khuôn mặt Trần tái xanh, kinh ngạc, đau đớn lẫn hung dữ. Chàng ném mạnh bó hoa huệ trắng đang cầm trên tay, bỏ chạy ra khỏi nhà.
Tôi kêu lên:
– Trần! Trần! Trần! Không phải… không…
Nhưng Trần không trả lời. Tôi chạy vội nhìn ra ngoài cửa sổ. Trần đang chạy như người điên băng qua đường và biến mất trong bóng tối.
Tôi bật khóc, đứng suy nghĩ một lát rồi vội vàng xuống mở cửa nhà. Tôi không kịp mặc thêm áo choàng hay áo mưa gì cả, tôi đi gần như chạy đến nhà Trần. Tôi biết chỗ Trần ở, cách nhà tôi không xa, chàng ở chung với một người dì góa chồng và chàng có phòng riêng.
Trời đêm cuối năm mưa lất phất nhưng rét căm căm. Tôi lầm lũi đi, lạnh run rẩy, tóc tai ướt mèm, bóng tối hoang mang dễ sợ và có vài tiếng chó sủa nghe thật ghê rợn.
Tôi nhìn thấy phòng Trần còn ánh đèn. Tôi không e dè như mọi khi, mở cửa bước vào. Một quang cảnh hỗn độn bày ra trước mắt. Trần xáo tung, đạp đổ sách vở áo quần vứt bừa bộn trên nền nhà. Chàng đang tìm một cái gì đó.
Tôi nắm lấy cánh tay chàng, khóc lóc:
– Trần… anh nghe em nói đã.
Chàng hất mạnh tay tôi ra, mắt chàng long lên sòng sọc điên cuồng khiến tôi lùi lại. Chàng hét lên:
– Còn nghe gì nữa? Anh đã nghe người ta đồn đại lâu rồi mà không tin, giờ mới thấy tận mắt…
Tôi ôm lấy mặt, lắc đầu. Trần lục tìm được một xấp thư của tôi viết cho chàng. Chàng xé tan từng lá rồi ném những mảnh giấy bay tung vào mặt tôi. Chàng gằn giọng nói:
– Anh ghê tởm em!
Tôi chỉ biết khóc. Mọi khi tôi vẫn không giải thích được cho chàng hiểu một điều gì, huống chi là lúc này, chàng gần như quẫn trí.
Trần bỗng chợt nhớ chiếc nhẫn của tôi đeo ở ngón tay út chàng, chàng nóng nảy tháo ra nhưng không gỡ được. Chàng nắm tay, đấm liên hồi trên mặt bàn, bàn tay chàng rướm máu sưng vù nhưng chiếc nhẫn chỉ trầy trụa chứ không gãy ra. Chàng như điên dại, đấm tay vào mặt kính ở cửa sổ. Tôi hoảng sợ la lên, bàn tay Trần bị mảnh kính cắt tươm đầy máu trong tiếng vỡ của thủy tinh loảng xoảng, chiếc nhẫn vẫn không rời ra. Chàng đấm mạnh vào mặt kính vỡ một lần nữa. Tôi rú lên, định ngăn chàng nhưng không kịp… nắm tay của Trần đã đập mạnh vào một cạnh sắt nhọn của mảnh kính chỉa ra… chàng la lên một tiếng đau đớn… Ngón tay út của chàng ngập đầy máu đỏ, có lẽ là bị đứt lìa, chàng ôm lấy bàn tay quỵ ngã xuống đất…
o O o
Vài năm sau, anh tôi có dịp đi Saigon. Anh về kể cho tôi nghe tình cờ có gặp được Trần trong đó. Anh buồn bã nói Trần bây giờ đã khác hẳn hồi trước, chàng sống hết sức bê tha và trác táng, chàng dính dấp với những người đàn bà tồi tệ, và đêm nào chàng cũng say khướt qua những quán rượu. Anh tôi gặp Trần ở một quán nước đường Tự Do, chàng rất vui mừng khi gặp lại anh tôi nhưng tuyệt nhiên chàng không nhắc nhở đến ngày xưa nữa.
Tôi chẳng đổ lỗi cho ai, tôi cũng không có lỗi gì trong chuyện tan vỡ này. Năm sau, chị tôi đi lấy chồng. Đến năm hai mươi tuổi, tới lượt tôi, lấy một người mới quen sau này do nhà chọn lựa. Hai năm sau, tôi ly dị. Và từ đó đến nay, tôi sống một mình, đi làm việc và sống tự lập. Tôi cũng không trở về với gia đình nữa, ngay cả trong lúc Tết đến.
Tôi thường nghe nói đến những cuộc hôn nhân tốt đẹp không cần có tình yêu. Riêng tôi thì không thể. Đối với tôi, tình yêu khởi đầu cho tất cả mọi sự, nuôi dưỡng được tất cả mọi sự. Đàn bà không phailúc nào cũng trẻ đẹp mãi mãi, thời gian sẽ làm chóng tàn tạ. Chỉ nhờ có tình yêu, chút nhan sắc mong manh của người đàn bà mới được nhìn thấy, được gọi tên, được trở thành cái đẹp vĩnh cữu.
Nhưng tôi chỉ yêu Trần. Mất chàng, là tôi mất hết tình cảm lớn lao đó.
Tình yêu, niềm tuyệt vời và bí ẩn ấy tôi không biết và cũng không muốn biết đến hai lần. Thật kỳ lạ… Tình yêu… là cái gì nhỉ? Kính trọng hay thương hại cũng không phải là tình yêu. Có lẽ chẳng bao giờ hiểu rõ hay định nghĩa được, chỉ có thể ví dụ. Tình yêu, như tôi đã yêu Trần. Và tôi tin rằng ở một nơi xa nào đó, đến nay, Trần cũng sẽ nói như thế. Tình yêu đối với chàng, có nghĩa là… như chàng đã yêu tôi.
Nàng uống cạn ly, nói tiếp:
– Đã gần mười năm qua kể từ đêm Giao Thừa năm ấy. Ông thấy đó, như thế làm sao tôi còn có thể sung sướng hân hoan gì trong mấy ngày Tết? Hàng năm, cứ đến Giao Thừa là tôi sợ hãi, uống rượu đến say mèm để không nhớ gì đến kỷ niệm. Nhưng làm sao quên Giao Thừa đó được. May mà đêm nay gặp ông, tự dưng tôi kể ra hết mọi chuyện, tôi hy vọng là đêm mai tôi sẽ nhẹ lòng bớt mà ngủ yên. Còn Trần… tôi không hề gặp lại một lần. Và nếu chỉ gặp thoáng chốc vội vàng, chắc chúng tôi cũng không nhìn ra nhau. Chúng tôi đều đã thay đổi nhiều. Năm tháng, nhất là sự đau đớn, làm người ta chóng già cỗi…
Chàng thở dài, im lặng một lát rồi nói:
– Cô có thấy người bạn hồi nãy mới đi với tôi không? Hắn hiện là chủ bút của một tờ báo. Tôi sẽ giới thiệu cô với hắn, cô nên viết lại chuyện của cô thành một cuốn truyện…
Nàng cười nhạt, lắc đầu:
– Không… chuyện của tôi đã động chạm đến nhiều người nếu người ta đọc được. Có người sẽ bất bình, trách móc…
Chàng nói:
– Người bạn của tôi bắt đầu viết văn cũng vì tình yêu. Truyện đầu tiên của hắn in ra, người yêu cũ của hắn, hiện đã có chồng, viết thư đến trách móc. Tôi còn nhớ câu hắn trả lời cho cô ấy: Đừng trách móc những chữ được viết ra bởi sự đau đớn… Có thể trách những điều đùa giỡn, cười cợt nhưng phải tha thứ cho những người đau đớn. Họ có thể làm tất cả mọi chuyện để cứu sống chính họ. Một nhà thơ… Goethe, ông ta viết xong cuốn Những nỗi đau của chàng Werther mới dứt bỏ được ám ảnh tự tử. Tôi nhớ mãi lời nói của bạn tôi: Đừng trách móc những chữ được viết ra bởi sự đau đớn… Cô đâu có vui gì khi kể lại chuyện đó…
Nàng vẫn lắc đầu:
– Thôi, bỏ chuyện ấy đi.
Và nàng chợt rùng mình:
– Tôi cảm thấy ớn lạnh. Có lẽ vì tôi đã uống nhiều rượu quá.
– Để tôi nắm tay cô cho ấm.
Chàng vội nắm lấy bàn tay nàng. Nàng nghiêm trang nói:
– Đừng… Ông đừng làm thế.
Chàng vẫn giữ chặt tay nàng trong tay mình. Giọng chàng bỗng run rẩy thốt lên, nghe đều đều âm u:
– Cô cứ nắm lấy tay tôi một lát thôi, rồi sẽ thấy tại sao tôi làm thế. Đó… cô cứ nắm như thế… đan tay vào những ngón tay tôi… và đếm… nào một… hai… ba… bốn… tôi chỉ… thiếu một ngón tay út.
Nàng bật la lên, mắt trừng trừng nhìn vào mặt chàng, tay nàng lạnh ướt mồ hôi trong tay chàng. Nàng bắt gặp một cái gì gần như là một nụ cười quen thuộc lẫn xa xăm, âu yếm và đau thương trên khuôn mặt chàng.
Lúc đó, người bạn của chàng lảo đảo trở lại, y lè nhè nói với chàng:
– Khuya rồi. Thôi bọn mình về đi, Trần.
Loài hoa biến sắc – Dương Thu Hương (1947- )
Tôi khoá cửa, cẩn thận móc thêm mấy chiếc móc sắt và thả những tấm rèm xuống. Xong xuôi, tôi mở sắc lấy ra thỏi son Nữ hoàng Ê-li-da-bét. Ống son mạ vàng in hình đầu một người đàn bà đẹp mê hồn.
Tôi đặt thỏi son lên môi, hôi hộp và náo nức. Trong tấm gương, một khuôn mặt xa lạ nhìn tôi: Đôi mắt, đường cong lông mày, món tóc lưa thưa sau cơn sốt phủ xuồng trán, làn da tái xanh với những chấm tàn nhang mờ mờ hai bên má… Những thứ đó chẳng ăn nhập gì với cặp môi tô son nhem nhuốc. Đôi mắt trong gương nhìn tôi với vẻ lạ lùng.Và một đôi mắt khác, một đôi mắt vô hình nhìn tôi với cái nhìn nóng bỏng. Tôi đặt thỏi son xuống. Cơn gió đi qua thổi lật những trang sách trên bàn. Đó là cuốn “làm đẹp,” một cuốn sách dày ngót sáu trăm trang mà tôi mới tìm mua được ngày chủ nhật trước. Những dòng chữ in nghiêng nổi lên: Trang điểm xong, bạn hãy ngồi trước quạt dăm phút cho khô kem rồi hãy sang phòng chọn áo. Mùa hè nên chọn hàng mỏng. Thứ bóng hay mờ tuỳ theo người gầy hay béo. Màu thanh thiên, hoàng yến, lòng tôm lợt hay màu hoa cà là những màu thường được ưa chuộng… Những người đàn bà ở đây mới sung sướng làm sao!… Một sự thèm muốn xâm chiếm lòng tôi, từ từ và đau rát như một dòng chì lỏng tưới vào.
Sau những năm tháng ở rừng, cuộc sống ở nơi đây làm tôi choáng váng. Phố phường, nhà cửa, lầu gác, hàng hóa, ánh đèn chất ngất, tiếng ồn ào vô tận như dòng suổi chảy trên bờ phố, nhịp điệu của tiếng đàn ghi ta trong những tiệm cà phê thắp đèn hồng… Nhưng điều lôi cuốn hơn cả vẫn là những người đàn bà ở đây. Họ mở ra trước mắt tôi một thế giới của cuộc sống phồn hoa, một thế giới chúng tôi chưa từng thấy, chưa từng nghĩ đến, một thế giới choáng lộn màu sắc và ngào ngạt hương thơm của các mỹ phẩm. Mỗi người đàn bà ở đây có hàng tá áo dài áo len đủ màu và đủ kiểu. Những hộp nữ trang đồ sộ, các loại phấn son, các thứ chì kẻ mắt… Chỉ những đồ dùng vặt vãnh của họ cũng đủ làm cho tôi mê mẩn.
Tuổi thanh xuân đi qua trên những cánh rừng ngút ngàn của giải Trường Sơn. Những năm ấy, làn da đã trôi mất màu hồng tươi thắm vì sốt rét. Mái tóc ong ả đã trút dần trên những con suối độc ngâm đầy lá lim. Bàn tay quen với choòng cuốc dân chài cứng. Và chúng tôi trở về thành phố với chiếc ba lô sau lưng, tấm khăn dù quấn quanh cổ và với vẻ vụng về ngơ ngác của những người quen ở miệt núi non.
Đoàn quân chiến thắng đổ về các thành phố. Chúng ta đã sống những ngày đầy tự hào, những ngày vui sướng đến gây ngất. Nhưng rồi sau đó chỉ những người con trai vô tư là giữ được trọn vẹn niềm hân hoan đó. Tôi thì có khác, bên hạnh phúc của người chiến thắng, tôi còn những nỗi xao xuyến khác, một thứ tâm sự rất đàn bà. Tôi thường nhìn những người con gái đi qua mặt mình, những người con gái được trang điểm lộng lẫy, áo quần sang trọng, dáng điệu đài các. Họ đi đến đâu, không gian sực nức mùi nước hoa quyến rũ.
Rồi tôi cũng lại tự ngắm mình trong gương, trong các tấm kính cửa, và tôi thấy ở đó một cô gái đen đủi, ăn vận xoàng xĩnh. Có một cảm giác gần như ghen tị, và bên dưới sự ghen tị đó là một nỗi tủi buồn mờ nhạt, không rõ nét nhưng dai dẳng xâm chiễm tâm hồn. Mỗi khi có người đàn bà nào đó đi qua không thèm ngoái lại, ném sang một cái nhìn chế diễu hoặc khinh mạn, lòng tôi cộm lên và nỗi uất ức làm nóng ran đầu óc…
Tôi nhìn vào tấm gương. Một khuôn mặt khác vẫn còn trong đó, với đôi môi đỏ chót.
Gian phòng thênh thang vắng lặng. Trên bàn, chiếc máy ghi âm đang phát ra một đoạn nhạc không lời, một giai điệu nhợt nhạt buồn bã nhưng tiếng đệm của bộ gõ lại quá chát chúa và rậm rịch. Đoạn nhạc kéo dài, rồi nó chợt tắt đi và tiếng đọc thơ vang lên, một giọng nam trầm ấm áp:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm…
Bài thơ tha thiết, như một cơn gió đột ngột ùa đến, nó tràn đầy trong tôi, xóa sạch những nỗi buồn bực, day dứt.
Tôi nhắm mắt lại. Không còn nhìn thấy khuôn mặt ngơ ngác có cặp môi tô son, không còn nhìn thấy bóng dáng những người đàn bà thành phố, không còn cái đầu mê hồn của nữ hoàng Ê-li-da-bét mạ vàng. Không còn những ao ước những khát khao mới lạ…
Những cánh rừng rung lá trên đầu tôi. Những cánh rừng xanh rì, dây leo nở đầy hoa, những tán cây xum xuê như chiếc dù thần bí. Trảng cỏ non bốc lên làn khói màu lam… Rồi đường 20, con đường lầy như cháo đổ, những con ngầm nước réo. Đèo Phu-la-nhích trong sương. Làn khói vòng vèo trên mái nứa binh trạm. Tôi cùng đồng đội đứng làm cọc tiêu trong mưa. Trận bom bên kia đèo. Trong cái hang Cóc Chúa sặc sụa khói, chúng tôi ngồi gác chân bên đống than hồng, vắt mái tóc ướt sũng nước mưa và gào lên những câu hát tinh nghịch:
Hết xuân rồi, anh có lấy em không?…
Những ngày gian truân và vui sướng.
Tôi chìm sâu trong những hồi ức chiến tranh, lòng mát mẻ êm dịu và thấm đẫm những giọt sương mai, những giọt sương của một cánh rừng tiền duyên, chúng nối nhau rơi xuống từ những chiếc lá hình thoi, màu xanh sáng. Trên chót những vòm lá, một chùm hoa tím đung đưa. Những giọt sương rơi lộp độp, tiếng vang động như tiếng nứt của những quả thông khô…
Ai gõ cửa rất lâu và dồn dập. Tôi sực tỉnh. Việc đầu tiên là lấy khăn ướt lau cho sạch son trên môi rồi chạy ra mở khoá. Chiếc chìa khoá vừa xoay một vòng thì hai cánh cửa đã bật tung ra, và Khánh đứng trước mặt tôi với nụ cười hết cỡ:
– Nhóc con, ngủ hay sao mà lâu thế?
Tôi chưa kịp trả lời thì anh đã mắng té tát luôn:
– Coi chừng đó, về thành phố là đâm lười ra, chưa tối đã lên giường ngủ.
Tôi cười chống đỡ và vội vàng đứng tựa lưng vào chiếc bàn trang điểm để che đi hộp son còn nằm lăn lóc.
Nhưng Khánh không để ý đến điều đó, anh giục tôi:
– Chải đầu rồi đi ăn với anh.
– Em ăn cơm chiều rồi.
– Đi chơi, ăn bánh trái là chủ yếu chứ ai bắt ăn cơm! Con gái ở rừng về có khác, ngốc thật!
Tôi ngại ngùng:
– Thôi, để khi khác.
Khánh nhìn quanh phòng, anh cười trìu mến:
– Này, đây có phải cái đền đâu mà em làm ông từ coi bàn thờ Phật!
Khánh cùng cơ quan với tôi nhưng ở khác bộ phận. Tôi được vào làm phóng viên báo là do anh. Hồi trước tôi ở C bảy. Trong một đợt đi công tác dọc đường 20, Khánh đã đến đơn vị tôi. Anh đọc báo liếp chi đoàn rồi cứ nằng nặc đòi tôi cho xem nhật ký. Anh đi được nửa tháng thì có lệnh gọi tôi lên ban chỉ huy. Ở đó người ta làm thủ tục chuyển tôi sang tòa báo và chỉ nói một câu cụt lủn:
– Đồng chí sang bên đó hợp với khả năng hơn.
Đeo ba lô đến cơ quan mới, tôi vẫn cứ tấm tức không hiểu vì cớ sao người ta lại cho tôi ra đi một cách vội vàng đến thế. Tụi bạn gái khóc sướt mướt, chúng dúi vào ba lô tôi từ chiếc mùi xoa, cây kim móc đến mấy sợi chỉ thêu và chiếc hộp đựng xà phòng gò bằng ống pháo sáng.
Đến nơi mới thấy Khánh đứng cười ha hả, tay cầm phong lương khô đem làm quà cho nữ phóng viên mới. Khánh đã có vợ con và hơn tôi bảy tuổi. Anh đối với tôi và những bạn đồng nghiệp khác có cái săn sóc của người gia trưởng. Trong con mắt anh, tôi là một con bé tỉnh lẻ, lớn xác và ngốc nghếch, vì thế anh hay để ý chăm chút hơn.
Tôi chải tóc và lấy chiếc túi nhựa bỏ vài thứ lặt vặt vào. Khánh đã khởi động chiếc Honda ngoài sân. Tiếng máy nổ lục bục, tắt nghịn rồi lại ròn rã.
– Nào, ngồi lên, ôm cho chắc kẻo ngã vỡ đầu đấy!
Khánh ra lệnh, anh chờ tôi ngồi yên rồi mới dận ga. Chiếc xe lao đi. Đường phố buổi tối rất đông. Tuy bớt đi vẻ ồn áo nóng bức ban ngày nhưng lại thêm cái chói chang, lấp lóe hoa, mùi rác rưởi, vỏ cây lá bánh ngoài cửa chợ và mùi xào nấu trong các tiệm ăn bốc lên.
Khánh đưa tôi đến một tiệm ăn Hoa kiều. Một thanh niên chờ sẵn ở đó, chạy ra nắm lấy tay Khánh tươi cười:
– Sao lâu vậy?, làm mình chờ hoài.
Anh ta quay sang tôi:
– Chào chị.
Tôi gật đầu chào lại.
Khánh giới thiệu:
– Đây là cô Sửu, em út trong cơ quan tôi. Còn đây là anh Hoàn, vừa là anh con bác vừa là bạn của anh.
Tôi cười.
Hoàn nhã nhặn chìa tay ra dáng điệu lịch thiệp và duyên dáng. Anh bận áo ni lông cát trắng và chiếc quần vải mềm màu xám nhẹ. Hoàn có nụ cười tươi, môi mỏng và hồng, nó làm người ta quên đi nước da nhợt rất khó ngó với khuôn mặt quá dài, nhất là chiếc cằm giống hệt một chiếc bánh mì chưa nướng.
Hoàn là anh em con chú bác ruột với Khánh, nhưng hai người ngoài mối quan hệ ruột thịt còn gắn bó với nhau bằng tình bạn hữu. Cả hai cùng ở phố Trần Xuân Soạn Hà Nội. Năm 54, họ còn là những chú bé tám tuổi sáng sáng xin mẹ hai trăm rưỡi ra ngõ I Hàm Long ăn phở Tàu, đến trường chia nhau từng quả táo dầm muối ớt. Sau đó, gia đình Hoàn di cư. Hai người đứng trong xó tối buồng tắm khóc thút thít. Khánh đã dốc vào túi anh tất cả số tiền lấy trộm được của mẹ với một gói ô mai. Ngày ấy cách đấy đã hai mươi năm rồi… Cả hai người đã lớn và khác xưa.
Nhưng Hoàn vẫn nhớ Khánh rất thích ăn phở Tàu và tối nay anh đã đặt cơm tại đây, một tiệm ăn Hoa kiều nổi tiếng. Trên chiếc bàn gỗ mun cổ lỗ trải khăn trắng, món ăn, đồ nhắm, bia rượu va nước ngọt bày la liệt. Chúng tôi ngồi vào bàn. Nhưng bữa ăn vẫn chưa bắt đầu vì còn phải chờ một vị khách nữa, theo như Hoàn giới thiệu thì đó là bồ của anh. Tôi dựa lưng vào tường, lơ đãng nhìn những cánh quạt đang xoay tít trên trần nhà. Những người bồi mặc áo trắng đi lại, mấy tấm gương đục ố nước thủy tinh bầu dục phản chiều bóng người và xe cộ ngoài đường phố. Các bàn ăn chật ních, có những người hình như đã ngồi đó từ sáng đến giờ và còn có thể ngồi đó cho đến nửa đêm. Một cặp trai gái cắm chiếc nĩa lên lưng một con gà quay và cứ ngồi chuyện rì rầm mãi. Ở đây người ta sẵn thì giờ thật. Thì giờ ở những tiệm ăn, tiệm giải khát, những phòng uốn tóc và những mỹ viện, những chiếc ghế xích đu và những đi văng. Không hiểu vì sao tôi lại theo đuổi những ý nghĩ tản mạn và thấy buồn. Cái âm hưởng của những câu thơ quen thuộc vẫn còn ngân nga trong tôi. Nó ngân lên những âm thanh trong suốt, âm thanh của những nguồn suối trên non cao.
Hoàn bỗng đứng dậy và phác một cử chỉ như vẫy gọi. Ngoài cửa, một cô gái đang lách giữa đám khách ăn chật ních tìm lối đi vào. Hoàn ra hiệu cho cô ta lần thứ hai. Cô gái nhận ra anh và cười. Phải chăng cô chính là người chúng tôi chờ đợi?… Cô gái chừng mười chín, hai mươi tuổi. Nhưng mặc dù cô còn rất trẻ, tôi không thấy cô có dáng dấp của một cô gái, mà lại có vẻ từng trải của một người đàn bà sớm biết lo toan. Người cô gầy, dáng mảnh dẻ, cô bận chiếc áo dài hở cổ màu Ca-ra-men in hoa chuỗi, quần bằng thứ sa tanh mỏng, nổi lấm tấm những hạt dâu bóng. Cô xách chiếc xắc giả da cá sấu, khoá mạ vàng hình tròn, kiểu rất lạ. Hoàn đứng dậy giới thiệu. Chúng tôi chào nhau rồi cô gái kéo ghế ngồi xuống, ngay cạnh tôi. Vạt áo dài cô rơi xuống chạm vào chân tôi mát lạnh, êm ái đến nỗi ta hình dung ra ngay sự mịn màng của chất lụa. Cái cảm giác ấy lại gợi cho tôi sự thèm muốn đã bị dập tắt. Từ áo quần cô gái tỏa ra mùi nước hoa mát mẻ, mùi nước hoa kêu gọi người ta đến gần.
Hoàn đứng dậy nói vài lời trước bữa ăn. Tôi nhân dịp đó mà ngắm nghía cô gái. Cô không đẹp nhưng cũng dễ coi. Nét mặt đều đặn, cặp môi tròn và chiếc mũi thanh. Còn đôi mắt đờ đẫn và cặp lông mày tỉa nhỏ trông có phần tẻ nhạt. Cô dùng phấn son khá hợp màu da, mắt kẻ chì nâu và chải lông mi bằng thứ gôm tốt. Việc trang điểm đã tôn nhan sắc của cô lên khá nhiều, nếu không cô cũng chỉ có một khuôn mặt như bất cứ khuôn mặt một cô gái nào mà ta có thể gặp ngoài đường. Bàn tay cô nhỏ, mềm mại, đeo nhẫn bạch kim có gắn những mảnh đá li ti. Mỗi khi giơ tay kéo áo hoặc vén mớ tóc lòa xòa trước trán, những mảnh đá phản chiếu ánh đèn sáng óng ánh khiến cô giống một nàng công chúa trong màn cải lương.
Bằng tính tò mò đặc biệt của đàn bà với đàn bà, tôi nhận ra là sau mấy phút dè dặt ban đầu cô ăn uống rất ngon lành, thận chí còn hơn thế nữa. Rượu uống cạn từng chén đầy, mặt không hề biến sắc. Tôi đã gặp những bà nạ dòng có thể uống hết hàng lít rượu, nhưng chưa hề gặp người con gái nào ung dung uống hết cốc rượu này đến cốc khác tựa hồ ta uống nước lạnh trong mùa hè. Kinh ngạc, tôi ngồi im thầm lén theo dõi. Bên kia bàn, Khánh và Hoàn đang sôi nổi chuyện trò. Câu chuyện đã chuyển qua vấn đề màu sắc trang phục.
Tôi thấy Hoàn đặt tay lên bàn ngắm nghía, hai bàn tay anh ta trắng như tờ giấy, và nhướng cao đôi mày lên:
– Không hiểu vì sao mà mấy anh chị ngoài Bắc vô ưng màu blơ marin và màu boóc đô thế! Đi đâu cứ gặp người mua len, mua áo hai màu đó là biết liền.
Cô gái góp chuyện:
– Hai màu đó quê quá hà!
Rồi lại cúi xuống đĩa thịt bằm bọc tôm chiên.
Khánh cười, anh ngẩng cao mái đầu chớm bạc:
– Vì chúng tôi ở rừng lâu quá mà! Ở rừng lâu quá hóa mê rừng. Màu blơ marin gợi nhớ núi non.
Hàm răng Khánh ngời lên dưới ánh điện đều đặn và trẻ trung.
Biết mình lỡ lời, Hoàn khéo léo lái câu chuyện sang hướng khác:
– Anh có biết ngày xưa ai hay mặc màu đó không?
– Vân tóc đuôi mèo.
Cả hai cùng cười và cùng lắng lại. Đôi mắt Hoàn trở nên xa xăm.
– Vân đẹp thật. – Anh nói – Hồi đó chúng mình còn nhỏ xíu mà tôi vẫn nhớ như ngày hôm qua. Vân có đôi mắt nhung, miệng cười rất tươi có một chiếc răng khểnh. Vân hay mặc áo len màu blơ marin cài hoa trắng và tóc thắt một chiếc nơ đỏ rất to… Anh có nhớ chúng mình đã chắn đường cướp của cô ấy quả nhót không?… Ngày trước ngõ Hàm Long ấy mà.
– Tôi vẫn nhớ. – Khánh trả lời thong thả. – Ngày ấy đúng là tôi yêu Vân. Mê thì đúng hơn. Buổi học nào vắng cô ấy là mình không ngồi yên được. Đúng là tình yêu thời còn trẻ nó không bao giờ thành công và cũng không bao giờ chấm dứt.
– Anh vẫn còn yêu Vân chứ?
Khánh hỏi và cười, đuôi mắt anh nheo lại riễu cợt.
Hoàn cũng cười, anh gỡ kính xuống lau và trầm ngâm:
– Không. Cũng không phải là không mà cũng không hẳn là có. Anh biết đấy, chúng ta đã trưởng thành. Tôi có nhiều người đàn bà, nhiều cô gái, tôi kiếm họ chẳng khó khăn gì. Nhưng chưa ai làm tôi phải hồi hộp như Vân ngày ấy.
Anh ta mơ màng một giây rồi hỏi Khánh, giọng thấp xuống:
– Vân còn không anh?
– Còn, chị ấy bây giờ là phó tiến sĩ hóa học, vẫn ở ngõ Huyện thôi.
– Cô ấy có chồng chưa?
Hoàn hỏi tiếp, hấp tấp nâng cặp kính, chăm chú vào miệng Khánh!
– Chị ấy hai cháu rồi.
– Thế à…
Hoàn bật ra một tiếng thở dài, anh co cẳng chân dười gầm bàn lại, nhún vai:
– Ai cũng yên bề gia thất rồi, chỉ còn mình là chưa nên tấm nên đẫn gì cả.
– Sao cơ?
Khánh giả bộ hỏi lại, anh cười rất to và lúc sau, anh liếc nhìn cô gái một cách trêu cợt, vui vẻ nói:
– Thì anh cũng sắp nên tấm nên đẫn rồi, có gì mà phải than thở!
Tôi cũng cười hưởng ứng và nhìn cả hai người. Nhưng trước thái độ của chúng tôi, Hoàn không nói gì cả. Đang bần thần nghĩ ngợi, anh ta bỗng “hả?…” một tiếng. Rồi lại im lặng suy nghĩ điều gì đó, nét mặt dửng dưng, hoàn toàn không chú ý gì đến chuyện của chúng tôi. Tôi và Khánh sững sờ. Chúng tôi nhìn nhau, và nhìn cô gái. Ở địa vị của cô, có lẽ tôi đã phải thăng thiên hay độn thổ vì ngượng ngùng. Nhưng trái lại với mọi sự lo ngại, cô vẫn điềm nhiên lấy nĩa chọc vào một miếng bánh bơ. Bây giờ thì chính thái độ của cô lại làm chúng tôi kinh ngạc.
Tôi nhìn Khánh dò hỏi. Nhưng anh lắc đầu. Anh cũng không hiểu biết gì hơn tôi. Sự im lặng kéo dài một lúc lâu, Hoàn mới sực nhớ ra bữa tiệc đã xong, đến phần ăn đồ ngọt và uống trà. Ngồi xuống, Hoàn đưa tay lên túi lấy thuốc theo thói quen. Thuốc đã hết. Anh rút từ giấy bạc một ngàn và bảo cô gái:
– Mỹ Dung mua hộ anh bao thuốc, chịu khó nghe cưng!
Cô gái đứng dậy đi ra. Chờ cho cô đi khuất, Khánh mới trách Hoàn:
– Tại sao anh lại có thái độ như vậy?
– Tôi làm sao cơ chứ?
Hoàn hỏi lại, cặp lông mày nhướng lên theo thói quen. Khánh nhắc lại câu nói đùa ban nãy và thái độ hờ hững của Hoàn, nhất là khi cô gái ngồi ngay đó.
– À, xin lỗi, xin lỗi…
Hoàn cười ngất và gật đầu lia lịa:
– Tôi hiểu rồi, hiểu rồi, nhưng các bạn phải để tôi nói cho hết đã. Mỹ Dung là bồ của tôi, nhưng tôi không có ý định cưới cô làm vợ. Trước tôi, cô ấy cặp bồ với người khác. Tôi cũng vậy. Mỗi tháng tôi chỉ cho Mỹ Dung hai mươi ngàn, cô ấy chỉ đòi hỏi ở tôi có vậy thôi. Ngoài ra không cần gì hơn nữa. Tôi không muốn Dung ràng buộc gì với đời tôi. Cả hai chúng tôi đều tự do…
Ngừng lại một chút, Hoàn nói tiếp:
– Mỹ Dung làm bồ cho tôi là trúng số. Dẫu sao tôi cũng biết điều và rộng rãi. Còn nếu đi dạy học thì cùng lắm cỡ giáo viên tiểu học như cô ấy một tháng chỉ được tám chín ngàn là hết sức. Ông bà già cô ấy nghèo, không buôn bán chi hết. Tôi bao Mỹ Dung mới được gần một năm nay, so với những người trước cặp bồ với Dung, tôi bận bịu nhiều công việc, nên mỗi tháng cô ấy chỉ mất với tôi trên dưới một tuần thôi. Các bạn cứ hỏi mà xem, cô ấy nói cặp bồ với tôi là dễ chịu nhất…
Hoàn ngừng lại. Và để minh họa cho cái quan hệ sòng phẳng giữa hai người, anh ta rút ra một xấp giấy bạc đã đếm sẵn, được chằng lại bằng một sợi giây cao su. Chiếc ví của cô gái vẫn để trên bàn, Hoàn kéo lại, mở khoá để xếp tiền vào trong. Nhưng đúng lúc anh xách ngược chiếc ví đã mở nắp thì cô gái bước vào, cùng lúc đó mấy đồng xu lăn ra cùng với một vật gì đó. Cô gái kêu một tiếng rồi đứng sững. Mặt cô như tái đi dưới lần phấn mỏng. Tôi cúi xuống nhặt mấy đồng xu. Cô gái hấp tấp xô mấy chiếc ghế sang một bên để lượm gói đồ đã nằm giữa lối đi sáng trưng ánh điện. Trong lúc luống cuống, cô đã làm tuột lần giấy bọc ngoài, một vật rơi ra. Đó là một mẩu bánh mì nhỏ vẫn bán trong những quầy bánh ven đường. Cô gái cuộn tờ giấy bọc một cách vội vã giấu diếm. Tôi biết cô đang run vì mặt đá chiếc nhẫn bạch kim cứ lóng lánh rất bất thường. Mái tóc cô rũ xuống bên vai, hở ra một khoảng gáy rất sâu, màu xanh tái. Tôi kéo cô ngồi xuống. Khánh im lặng. Hoàn cũng lặng thinh, nhưng anh ta có vẻ ý tứ hơn khi xếp tiền vào trong ví cho Mỹ Dung.
Xung quanh người qua lại, ăn uống vẫn nhộn nhịp, không ai hay biết tấn kịch vừa xảy ra. Chỉ riêng chúng tôi là chứng kiến nỗi ê chề của cô gái. Cô ngồi bên tôi, thỉnh thoảng lại giơ tay vén tóc. Nhưng cử chỉ của cô không còn vẻ duyên dáng, đàng hoàng nữa, nó có gì tội nghiệp. Tôi xóc một miếng bánh bơ đưa cho cô.
Cô khẽ cúi đầu:
– Cảm ơn chị.
Từ lúc đó về sau, tôi không nhìn ai nữa. Tôi không nỡ nhìn thẳng vào mặt cô gái. Tôi cũng không muốn nhìn Hoàn, điều đó lúc này thật khó chịu. Tôi cứ ngứa cổ nhìn lên bức tường quét vôi vàng qua những làn khói thuốc dày đặc, tôi thấy bóng những chiếc cánh quạt in lên những vệt đen dài, gẫy khúc. Một cảm giác nóng ran lan trên mặt tôi. Tôi nhận ra mình đang ngượng ngùng. Không phải riêng biệt nỗi ngượng ngùng của cô gái bị mất thể diện, mà là nỗi ngượng chung, thay vì cho cả hai người đó, hai kẻ gọi là bồ của nhau.
Bên kia bàn, Khánh và Hoàn vẫn đang chuyện trò. Hình như họ nói đến những kiểu áo dài cách tân ở miền Nam, về thời trang của thế giới. Hai người đàn ông trao đổi những nhận xét về một thiếu phụ đẹp lộng lẫy đi qua. Rồi họ tiếp tục uống trà và hẹn gặp nhau vào một ngày trong tuần tới.
Khi chia tay, cô gái vội vàng chào tôi rồi đứng nép vào một bên cửa chờ Hoàn, đôi mi tô chì cụp xuống.
Hoàn ôm lấy Khánh cao giọng:
– Tuần sau nhé!
Họ nói với nhau một tràng tiếng Pháp. Rồi Hoàn nhã nhặn chìa tay cho tôi, miệng nở nụ cười tươi tắn. Nhưng với tôi, lúc đó, nụ cười của anh đã nhạt nhẽo và cái cằm dài thượt ra trông thật vô duyên. Tôi lặng lẽ đáp lễ và quay đi.
Khánh đưa tôi về nhà. Chiếc xe Honda lách giữa dòng người hai chiều đông nghịt. Thành phố càng về đêm càng đông hơn, tiếng động làm nhức óc và mệt mỏi. Tôi bảo Khánh rẽ sang đường bờ sông cho mát mẻ. Anh đồng tình ngay. Chúng tôi đi dọc sông Hàn và trở về đường Lê Thánh Tôn vào lúc chín giờ tối. Khánh đưa tôi vào cửa rồi về ngay, anh còn có bài phải sửa cho số báo sắp tới.
Còn mình tôi ngồi với cái bóng của mình. Căn phòng vắng. Không làm sao mà ngủ được. Chiếc quạt vẫn xoay, gió vẫn thổi những trang sách bay loạt soạt và hộp son vẫn nằm lăn lóc trên bàn. Chiếc đầu nữ hoàng Ê-li-da-bét trông như một hạt ngô bóng loáng. Tôi nhìn ra ngoài: thành phố chất ngất ánh đèn, có một cái gì tự tan vỡ ra nơi đó. Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng đầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù. Và trong tôi, một tình yêu, một niềm tự kiêu hãnh lớn lên, vững vàng, cứng cáp, với một sức mạnh khôn cùng. Ngoài sân, những cây trứng cá đang lắc lư chùm lá. Những bóng lá chợt sáng chợt tối giao nhau in lên ô cửa kính giống như những bộ mặt đổi hình.
Hiện tại, quá khứ. Quá khứ, hiện tại… Cuộc sống ùa đến tôi trong cùng một lúc. Xa kia là một con đường thăm thẳm, một con đường đầy bóng xanh che phủ. Có người con gái nào đang đi đến với tôi và hát. Người con gái ấy là tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét