Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

Ngày tình yêu, đọc Tình yêu cổ điển của nhà văn Dư Hoa

Ngày tình yêu, đọc Tình yêu cổ điển 
của nhà văn Dư Hoa

TÌNH YÊU CỔ ĐIỂN
Liễu Sinh lên kinh đô thi cử, đi trên con đường lớn màu vàng. Anh mặc chiếc áo vải màu xanh, phía dưới có nhiều nếp gấp, đầu đội chiếc mũ nhỏ phai màu, lưng thắt dải lụa xanh, trông chẳng khác một cái cây màu xanh thẫm. Bấy giờ đang là mùa xuân ngước mắt xa trông, chỗ thì đào liễu đua sắc, nơi thì dâu đay bạt ngàn, những mái nhà tranh dậu tre rải rác khắp chốn đan xen vào nhau. Mặt trời chói lọi treo lơ lửng giữa bầu trời cao lồng lộng, muôn vàn tia nắng vàng rực rỡ, ào ào cùng trút xuống, như tơ óng trên khung cửi.
Liễu Sinh đi trên đường được nửa ngày, suốt thời gian đó chỉ gặp hai viên quan lại nghênh ngang đi qua, mấy người có dáng dấp con nhà võ vung roi thúc ngựa vun vút lao qua. Bụi đất vó ngựa tung lên che lấp cảnh đẹp trước mặt, tạo nên quang cảnh hỗn loạn rối mù trước mắt Liễu Sinh. Từ đó trở đi, không bao giờ còn gặp ai qua lại trên đường nữa.
Mấy hôm trước, lần đầu tiên Liễu Sinh xa nhà bước trên con đường cái màu vàng này, trong lòng anh liền trỗi dậy biết bao nỗi thê lương. Sau khi ra khỏi mái nhà tranh, tiếng thình thịch trên khung cửi của mẹ cứ bám đuổi theo anh, trên lưng anh cứ từng cơn từng cơn đau đớn như thiêu đốt, rồi ánh mắt của bố lúc sắp sửa tắt thở cứ trừng trừng nhìn anh như hiện ra trước mắt. Để làm rạng rỡ tổ tông, anh phải ra đi trên con đường cái màu vàng này. Cảnh sắc mùa xuân muôn tía ngàn hồng khoe sắc bày ra trước mặt như một cuộn tranh vẽ trải dài, song Liễu Sinh nhìn không thấy. Trước mặt anh hình như chỉ có lá rụng cuối thu rơi lả tả, con đường cái màu vàng dưới chân cũng tỏ ra hư vô bé nhỏ.
Liễu Sinh không phải công tử con nhà giàu, khi còn sống bố anh chỉ là một nhà nho nghèo thi trượt. Tuy có hoa tay, vẽ được mấy cây hoa cảnh đẹp, nhưng vai không thể gánh, tay không thể xách, nuôi sao nổi cả nhà? Một nhà ba miệng ăn hoàn toàn trông mong vào chiếc khung cửi của mẹ làm việc quần quật suốt ngày đêm, nhờ thế Liễu Sinh mới coi như sống đến bây giờ. Nhưng sau khi lưng mẹ còng xuống đã không bao giờ còn đứng thẳng lên được. Ngay từ lúc còn bé, được bố dạy bảo, Liễu Sinh đã thông thạo văn thơ. Lâu dần anh đã kế thừa bẩm tính của bố, thích đọc sách cấm, cũng có hoa tay, vẽ được mấy bức tranh phong cảnh, song gượng gạo, sáo mòn. Do đó, khi Liễu Sinh bước lên đường tới kinh đô dự thi, thì cảnh khốn quẫn nhiều lần thi trượt của bố lúc đang sống, cứ bám chặt lấy anh.
Khi liễu sinh bước ra khỏi mái tranh nghèo, chỉ có mỗi cái túi màu xám xịt khoác trên vai, bên trong không hề có một xu, chỉ có bộ quần áo để thay giặt và giấy mực bút viết. Dọc đường anh gối đất nằm sương, bạ đâu ăn đó, chỉ biết dựa vào bán những tranh chữ, kiếm vài ba đồng nuôi thân. Anh từng gặp hai thiếu niên cũng lên kinh đô thi cử, đều là con nhà giàu quần lụa áo gấm xênh xang, đều có một con ngựa cao to lộc ngộc hung hăng, còn có cả thằng hầu thông minh nhanh nhẩu. Chỉ nhìn quần áo của thằng hầu cắp tráp, anh cũng thấy mình vô cùng tủi hổ. Anh không có thằng hầu cắp tráp, chỉ có cái bóng của mình trên đường cái màu vàng lủi thủi bám theo. Cái túi trên vai khe khẽ đung đưa theo nhịp bước, anh đã nghe thấy tiếng cô đơn nghiên bút chạm vào nhau. Đi được nửa ngày đường, Liễu Sinh vô tình gặp một ngã ba. Lúc này anh vừa đói vừa khát, may mà cạnh đó có con sông. Hai bên bờ sông cỏ thơm xanh xanh, liễu rủ thướt tha. Liễu Sinh đi ra bờ sông, nước sông cũng màu vàng rực bởi ánh nắng chiếu vào, chỉ có màu xanh biếc ở những chỗ liễu rủ che khuất. Anh ngồi xổm, thò hai tay xuống nước, bỗng thấy sảng khoái vô cùng. Thế là vốc nước lên tay, cẩn thận rửa bụi trên mặt, sau đó mới uống ừng ực mấy ngụm ngon lành. Uống xong ngồi lên thảm cỏ. Cỏ thơm lay động, xiên vào ống quần, có cảm giác thân thiết ngưa ngứa buồn buồn. Một con cá màu trắng lượn đi lượn lại một mình trong nước. Cơ thể nó vặn vọ hết sức uyển chuyển mau lẹ. Nhìn con cá lượn, không biết bởi cá cô đơn, hay vì cá xinh đẹp, mà Liễu Sinh chợt thấy buồn buồn.
Lâu lắm Liễu Sinh mới đứng lên, trở lại con đường cái màu vàng, đi ra khỏi bóng râm của liễu, Liễu Sinh hơi choáng đầu hoa mắt. Lúc này anh nhìn thấy phía xa xa có một ngôi nhà và bóng cây thấp thoáng, còn có cả bức tường thành lờ mờ. Liễu Sinh rảo bước đến đó.
Đi đến gần, anh nghe thấy tiếng người ồn ào, ở chỗ cổng thành có vô số người vai gánh tay xách. Bước vào thành chợt nhìn thấy, cứ năm bước một nhà gác, mười bước một khuê phòng. Nhà cửa san sát, người đi tấp nập. Liễu Sinh bước vào phố chợ, đàn ông đàn bà đi lại nhộn nhịp, hai bên đường phố nhan nhãn quán rượu quán trà. Mấy quán ăn treo thịt dê mỡ màng lủng lẳng, trên quầy từng dãy bát đĩa xếp ngay ngắn, trong đĩa đựng nào là móng giò, nào là vịt ướp rượu, nào là cá tươi. Còn trên quầy ở quán trà thì bày rất nhiều đĩa đựng toàn là bánh nướng, bánh quít, bánh chưng, sắn lát.
Liễu Sinh cứ lần lượt đi qua, chẳng mấy chốc đã đến trước một ngôi chùa. Chùa này gần đây mới tu sửa, xanh vàng rực rỡ. Đứng trên bậc đá dưới cổng, Liễu Sinh ngó vào bên trong. Một cây bách xanh trăm tuổi đứng hiên ngang, nền lát gạch không một hạt bụi, cột và xà nhà bóng loáng, chỉ không thấy sư sãi. Ngôi chùa cao rộng bề thế trống không. Liễu Sinh nghĩ bụng đêm nay sẽ ngủ ở đây. Nghĩ thế, anh đặt túi khoác ở vai xuống, dở ra lấy giấy bút mực ngồi trên thềm đá, viết mấy câu từ Tống hay hay như kiểu: "Bờ dương liễu gió nổi trăng tàn", lại vẽ mấy bức tranh cây cảnh thân bò, bày bán cho người qua lại. Bỗng chốc trước chùa người chen như nêm, dường như ai ai cũng có tiền, ai ai cũng thích phong nhã. Mới có nửa buổi, Liễu Sinh đã kiếm được vài xâu tiền. Thấy người tan dần, liền thu tiền cất đi cẩn thận, rồi lại nhặt túi thong thả quay về.
Những người phục vụ trong quán rượu quán trà hai bên đường tươi cười hớn hở, cũng không chê cười Liễu Sinh áo vải quần thâm, sốt sắng mời chào. Liễu Sinh liền rẽ vào một quán trà gần đó ngồi, gọi một bát nước trà, uống xong thấy bụng cồn cào khó chịu, đang đắn đo suy nghĩ, thì vừa may có một người nhà quê bưng bán nhiều bánh trái. Liễu Sinh liền mua mấy cái, lại gọi một bát nước trà, thư thả vừa ăn vừa uống.
Có hai người cưỡi ngựa đi qua cạnh quán trà, một người mặc áo chùng đũi màu xanh ngọc có thêu nhiều bướm nhiều dơi, một người mặc áo chùng đũi xanh ngọc hai lá có thêu vô số chim bay. Sau khi hai người đi qua, lại có ba phụ nữ đi đến. Một người khoác áo choàng Thủy điền, một người mặc quần áo Bát đoàn thêu màu ngọc, một người mặc áo thêu vàng hai màu đũi thiên thanh. Ngọc trai trên đầu óng a óng ánh, vòng đeo trên váy kêu leng keng. Trước mỗi bà đều có một con hầu, tay cầm quạt thơm lụa đen, che ánh nắng cho họ.
Liễu Sinh ăn hết bánh đa, đứng lên bước khỏi quán trà, đi dạo trong phố chợ. Xa nhà đã mấy hôm, anh không nói chuyện tử tế với ai. Bây giờ cơn đói trong bụng đã hết, song nỗi cô đơn lại trỗi dậy trong lòng. Nhìn dòng người nhộn nhịp trên phố, song chẳng ai thân quen. Tiếng khung cửi của mẹ lại đuổi theo sau lưng.
Trong lúc dạo bước, bất giác đi đến một nơi to rộng, chăm chú nhìn lại mới biết mình đang đứng trước cổng chính của một gia đình lớn. Tòa nhà sâu hun hút trước mặt cao to bề thế, hai con sư tử đá ở trước cửa nhe nanh giơ vuốt. Cánh cổng lớn màu đỏ tươi đóng im ỉm, hết sức uy nghiêm. Nhìn vào bên trong, cây cối um tùm, hiên bay trùng điệp, chim đậu chim bay. Liễu Sinh cứ ngẩn người ngắm nghía mãi rồi mới đi. Anh dạo bước trên lối đi dài ven theo bờ tường vôi. Lối đi này cũng lát gạch xanh loại tốt, không bám một hạt bụi. Cành cây ở trong tường vươn cả ra ngoài. Đi một đoạn ngắn, nhìn thấy cổng bên. Cổng bên tuy kém hơn cổng chính, song cũng toát lên sự uy nghiêm và cánh cổng màu đỏ tươi cũng đóng im ỉm. Liễu Sinh loáng thoáng nghe thấy tiếng vui đùa ở bên trong. Anh dừng lại chốc lát rồi đi tiếp. Đi hết chỗ tường vôi, anh trông thấy một cổng nhỏ ở góc tường. Cổng nhỏ không đóng, một người có dáng dấp người trong nhà hấp tấp đi ra. Liễu Sinh đi đến trước cổng ngó vào, có một vườn hoa nhỏ nhắn xinh xinh. Anh thầm nghĩ đây là vườn hoa sau nhà mà trước kia chỉ nghe nói chứ chưa bao giờ nhìn thấy. Lưỡng lự một lát, Liễu Sinh liền đi vào. Ở trong sơn, thủy, cây, hoa thứ gì cũng có. Những núi đá, tường đá tuy người đắp, song giống y hệt. Ao ở giữa bị lá sen che kín không nhìn thấy nước, một cây cầu đá cong chín khúc áp sát trên lá sen, một các đình nho nhỏ đứng ở cạnh ao, có hai cây phong cực lớn ở hai bên, lá phong rủ xuống nóc đình. Trong đình có thể chứa ba bốn người, trước tường chắn xây bằng đá đặt hai cái đôn bằng sứ, sau bức tường chắn có hàng mấy chục cây trúc xanh, đằng sau trúc xanh có lan can màu đỏ đứt nối từng đoạn, đằng sau lan can là hàng loạt cây hoa. Hoa đào, hoa mận, hoa lê đang nở rộ, hoa hải đường, hoa cúc, hoa lan đang là nụ. Đào mận tươi xanh tranh nhau đua sắc, hoa lê ở giữa lặng lẽ ngắm nhìn.
Liễu Sinh vô tình bước đến trước lầu thêu. Lối đi dưới chân đột nhiên kịch đường. Liễu Sinh ngẩng lên nhìn, cửa sổ chấn song lầu thêu mở ra bốn phía, gió từ bên kia lầu thổi hắt sang, Liễu Sinh ngửi thấy mùi thơm sực nức. Lúc này màn đêm từ từ buông xuống, tiếng ngâm nga thư thả bay qua cửa sổ lầu thêu vọng tới. Âm thanh như tiếng đàn xa xa cứ tí tách như từng viên từng viên ngọc trai rơi xuống đĩa, cứ róc ra róc rách như dòng suối êm trôi tít tắp. Cùng với gió vù vù thổi đến, màn đêm từ từ trải rộng. Liễu Sinh chỉ thấy bâng khuâng, say đắm trong âm thanh, cũng không để tâm phân biệt tiếng ngân nga. Màn đêm mỗi lúc một dày, bóng tối trùm kín không gian nhưng Liễu Sinh phớt lờ tất cả, anh cứ ngẩng mặt nhìn như dán mắt vào cửa sổ lầu thêu. Trong tầm nhìn xa xa hình như đã hiện ra một dòng sông như dải ngọc, hai cảnh đẹp xuất hiện ở hai bên cặp mắt, một cảnh là cô gái duyên dáng đi bên dòng sông, một cảnh là liễu rủ thướt tha đung đưa trong gió đêm. Hai cảnh hòa quyện với nhau, khiến Liễu Sinh hoa mắt bối rối.
Tiếng hát mê hồn bắt đầu đến gần Liễu Sinh. Chỉ trong giây lát, một người đàn bà như hoa như ngọc hiện ra trong khung cửa sổ. Cô gái hồn nhiên tự tin, cái miệng chúm chím nụ hoa anh đào, tươi cười hớn hở, tiếng hát ngân nga bay ra từ đó. Cặp mắt long lanh, trìu mến nhìn ra vườn hoa dốc bầu tâm sự. Sau đó, trông thấy Liễu Sinh, bất giác giật mình kêu lên một tiếng "a"! Cô gái mặt bỗng đỏ ửng, quay ngoắt người chạy đi. Cái nhìn âu yếm của cô gái vừa vặn chạm vào Liễu Sinh. Duyên nợ ba sinh chưa ai hay biết, song hôm nay Liễu Sinh được nhìn thấy cô gái giấu mình trong lầu thêu kín đáo, có lẽ nào anh không chìm đắm như rơi trong cõi mộng. Tiếng "a" ngạc nhiên vừa rồi, chẳng khác gì dây đàn bị đứt, lời hát ngân nga bỗng tắt ngấm. 
Tiếp theo là im ắng. Hầu như mọi thứ chung quanh đều tan biến. Lâu lắm, Liễu Sinh mới hoàn hồn. Nhớ lại khung cảnh vừa rồi, đúng là có phần hư vô, như có như không, song hết sức chân thật. Anh lại nhìn lên cửa sổ, cửa sổ trống không, nhưng gió vẫn thổi xuống, mùi thơm vẫn sực nức. Liễu Sinh cảm thấy có hơi ấm, hơi ấm có lẽ đến từ thân hình cô gái vừa rồi, khiến anh có cảm giác cô gái vẫn ở trong lầu thêu. Vậy là hình như anh đã nhìn thấy tận mắt gió thổi vào người cô, thổi tan mùi thơm sực nức và hơi ấm trên người cô, thổi xuống dưới gác. Liễu Sinh giơ tay phải, khẽ khẽ vuốt ve hơi ấm trong gió. Lúc này, một cô gái có dáng dấp con hầu hiện ra trước cửa sổ. Cô nói với Liễu Sinh:
- Mau mau rời khỏi đây!
Tuy trợn mắt chau mày, song thần sắc cô không có vẻ gì là dữ tợn. Liễu Sinh cảm thấy cô chỉ giả vờ tức giận. Đương nhiên anh không bỏ đi, vẫn nhìn thẳng lên cửa sổ. Cô hầu có vẻ lúng túng khó xử, ánh mắt như thế của một người đàn ông quả thật khiến cô bối rối khó chịu. Cô liền rời khỏi cửa sổ. Cửa sổ lại trống không, lúc này trời càng tối, lầu thêu bắt đầu mờ ảo. Liễu Sinh loáng thoáng nghe thấy trên gác có tiếng nói chuyện, hình như có một bà đi vào, tiếng bà nói lanh lảnh, sau đó là tiếng gay gắt của cô hầu, cuối cùng mới là cô chủ. Tiếng cô chủ nhỏ nhẹ như nước nhỏ giọt, song Liễu Sinh vẫn nghe thấy. Bỗng dưng anh mỉm cười, nụ cười gợn lên như sóng nước, bản thân anh không hề nhận biết. Cô hầu lại một lần nữa ra cửa sổ, thúc giục:
- Sao không đi đi hả?
Lúc này màn đêm đã làm mờ nhòa khuôn mặt cô hầu, chỉ còn thấy hai con mắt đen lay láy sáng loáng đang nổi cơn tam bành. Hình như Liễu Sinh không nghe thấy, anh cứ đứng trơ trơ như khúc gỗ. Làm sao có thể bỏ đi được?
Lầu thêu cứ tối dần, lúc này từ cửa sổ đang mở hắt ra tia sáng của ngọn bạch lạp. Ánh sáng tuy hắt ra ngoài cửa sổ, song không rọi xuống đất, chỉ chiếu ngang qua trên đầu Liễu Sinh một gang tay. Nhưng ánh sáng nến lại chiếu bóng cô chủ trong lầu lên cột xà vừa vặn để Liễu Sinh nhìn thấy. Dáng cô chủ cúi đầu im lặng, tuy không được rõ nét, song vô cùng sinh động.
Có vài giọt nước mưa rơi vào mặt Liễu Sinh đang ngẩng lên. Nước mưa rơi đột nhiên, Liễu Sinh hoàn toàn không nhận ra. Một lát sau nước mưa cứ xối xả hắt vào người, anh mới bắt đầu nhận ra, song vẫn không đi.
Cô hầu lại xuất hiện ở cửa sổ. Cô nhìn Liễu Sinh một lát, không nói gì, đóng cánh cửa sổ vào. Bóng cô chủ mất hẳn. Ánh sáng nến cũng bị thu lại, bởi cánh cửa che khuất.
Nước mưa rơi xiên, song không hắt hẳn vào người Liễu Sinh, chỉ rơi trên chiếc mũ nhỏ đội trên đầu và làm ướt nửa mái tóc của anh. Nước mưa hắt lên người Liễu Sinh rơi xuống theo đường cong. Lúc sau, anh dần dần nghe thấy tiếng tí tách trên người mình. Nhưng anh vẫn ngẩng mặt nhìn ánh sáng nến trên lầu, không có thì lại để ý đến tiếng mưa. Trên giấy dán cửa sổ, ánh nến cứ run rẩy nhảy nhót, tuy không trông thấy bóng cô chủ, song dường như cô chủ càng sống động.
Không biết thế nào cánh cửa sổ lại mở ra. Lúc này ở ngoài trời mưa càng nặng hạt. Cô hầu hiện ra trước, sau đó cả cô chủ và đầy tớ ra cửa sổ nhìn Liễu Sinh. Liễu Sinh còn đang mừng quýnh thì hai người trên gác bỏ đi, song không đóng cửa vào. Liễu Sinh nhìn thấy bóng hai người lồng vào nhau trên xà cột trong nhà, rồi tách ra ngay. Chỉ một thoáng, hai người lại đến trước cửa sổ, sau đó một sợi dây thừng từ từ thả xuống, đung đưa trong mưa gió. Liễu Sinh không chú ý gì cả, cứ si mê ngây ngất nhìn cô chủ. Vậy là cô hầu không chịu nín lặng, cất tiếng giục:
- Sao không trèo lên đi!
Liễu Sinh vẫn chưa hiểu ra, thấy vậy cô chủ cũng mở miệng thỏ thẻ:
- Mời công tử lên tránh mưa gió.
Tiếng cô chủ tuy hết sức nhỏ nhẹ, song đã làm tiếng mưa gió ào ào bỗng chốc bị át đi. Liễu Sinh bắt đầu chợt hiểu, nhấc chân đến chỗ dây thừng, nào ngờ chân tay tê cứng, cứ đứng tại chỗ, không sao động đậy được. May mà sau đó ít phút chúng đã trở lại bình thường nên anh có thể bám chặt dây từ từ leo lên. Lên đến cửa sổ, thấy cô chủ đã lui vào, nhờ cô hầu giúp sức, anh đã lật người nhảy vào trong nhà.
Trong lúc cô hầu thu dây đóng cửa sổ, Liễu Sinh ngắm nghía kỹ cô chủ. Cô chủ đang đứng uy nghi cách anh năm thước, thân thể ngọc ngà, váy áo quý phái, môi son mím chặt. Liễu Sinh ngửi thấy mùi thơm phấn son. Cô chủ ngượng ngùng quay người về phía anh. Lúc này, cô hầu đi đến đứng ở cạnh cô chủ. Liễu Sinh vội vàng chào cô chủ:
- Tiểu sinh họ Liễu tên Sinh.
Cô chủ cũng đáp lại:
- Tiểu nữ tên Huệ.
Liễu Sinh lại chào cô hầu, cô hầu cũng thưa lại.
Chào hỏi xong, Liễu Sinh thấy cả cô chủ lẫn cô hầu cùng che miệng cười. Anh không biết vóc dáng mình nhếch nhác cũng cười theo. Cô hầu nói:
- Anh nghỉ ở đây chốc lát, sau khi tạnh mưa, mau mau đi khỏi đây.
Liễu Sinh không đáp lời, hai mắt nhìn cô chủ. Cô chủ cũng nói:
- Mời công tử mau mau đi thay áo đi nghỉ, kẻo bị cảm lạnh.
Nói xong, hai người đi ra ngoài. Ống tay áo thon nhỏ của cô chủ vung vẩy, cổ tay ngọc ngà buông thõng đi ra. Dáng cô bước đi khiến Liễu Sinh chợt nhớ đến vẻ đẹp của con cá lượn trong nước đã nhìn lúc ban ngày. Cô hầu vén rèm cửa đi ra trước. Cô chủ đi đến trước cửa hơi lưỡng lự một lát, khi vén rèm cửa đi ra vô tình quay nhìn lại một cái. Cô chủ nhìn lại có thể nói hết sức ý vị, Liễu Sinh không khỏi mê mẩn thần hồn.
Khá lâu, Liễu Sinh mới biết cô chủ đã đi khỏi, bỗng nhiên trong lòng trống trải không biết thế nào mới phải. Nhìn bốn chung quanh, lầu thêu này đúng như một thư phòng, từng chồng sách xếp ngay ngắn trên giá, một chiếc đàn có nệm ngọc đặt trên cái bàn thấp. Sau đó, Liễu Sinh mới nhìn thấy khung thêu chạm bằng gỗ gụ, khung thêu bị một tấm màn hoa mai che lấp già một nửa. Tự dưng Liễu Sinh thấy lòng xốn xang, toàn thân rạo rực. Anh đi đến trước màn hoa mai, ngửi thấy mùi thơm gỗ bách, cái chăn màu xanh cánh trả y như người đang nằm ngửa, vân hoa lấp loáng, lúc sáng lúc tối trong ánh nến. Cô chủ đã đi, nhưng hơi thở vẫn còn. Trong mùi thơm của bách, Liễu Sinh còn ngửi thấy một thứ hơi thoang thoảng, lúc ẩn lúc hiện, như thật như giả.
Liễu Sinh đứng trước giường một lát rồi buông màn hoa mai, trong tay anh vải màn trơn mịn như làn da cô chủ. Cái màn hoa nhẹ nhàng rơi xuống tận đất rồi cong lên. Liễu Sinh lui lại, ngồi lên chiếc đôn sứ, dưới ngọn nến trước bàn, ngắm chiếc giường đã buông màn hoa mai, cái chăn màu xanh cánh trả ở bên trong chỉ lờ mờ, trông như cô chủ đang nằm ngủ. Lúc này, Liễu Sinh đã nghiễm nhiên trở thành anh chồng của cô chủ. Cô chủ đang ngủ ngon lành, còn anh thì chong đèn đọc sách.
Liễu Sinh nhìn thấy trên bàn một quyển từ đang mở, liền đọc tiếp từ trang cô chủ vừa đọc. Từng chữ cứ nhảy nhót như tiếng mưa tí tách ngoài cửa sổ. Liễu Sinh ngây ngất trong cảnh tượng hư ảo, lắng nghe tiếng mưa nhỏ giọt ngoài hiên, từ từ nhắm mắt lại trong cảnh đẹp tốt lành lúc đó.
Trong mông lung mờ ảo, Liễu Sinh nghe có tiếng ai gọi, giọng nhỏ nhẹ bay bay, từ xa đến gần. Anh mở choàng mắt, đã thấy cô chủ đứng bên cạnh. Lúc này mái tóc đen óng mượt của cô chủ hơi rối, son phấn trên mặt đã phai đi nhiều, tuy vậy dáng dấp càng sống động mê hồn hơn lúc nãy. Lúc đầu Liễu Sinh cứ ngỡ cảnh trong mơ, khi nghe thấy tiếng cô chủ nói, anh mới biết là cảnh thật. Cô chủ bảo:
- Mưa đã tạnh, công tử có thể lên đường.
Quả nhiên không còn tiếng mưa ở ngoài cửa sổ, chỉ có tiếng gió thổi lá cây xào xạc. Trông thấy dáng hoảng hốt của Liễu Sinh, cô chủ lại bảo:
- Đó là tiếng lá cây.
Cô chủ đứng ở chỗ tối, ánh nến bị Liễu Sinh che. Trông cô chủ hấp dẫn vô cùng. Liễu Sinh đăm đắm nhìn một lát, bỗng thở dài, đứng dậy, nói:  
- Chia tay hôm nay, chẳng biết bao giờ gặp lại.
Nói xong bước đến cửa sổ. Nhưng cô chủ cứ đứng im. Liễu Sinh quay người lại, thấy mắt cô chủ rơm rớm lệ, dáng vẻ hết sức buồn. Liễu Sinh vô tình bước đến, nắm chặt cổ tay ngọc ngà cô chủ đang buông thõng để lên ngực. Cô chủ cúi đầu im lặng, để mặc Liễu Sinh âu yếm vuốt ve. Mãi sau, cô chủ mới hỏi:
- Công tử từ đâu đến? Sẽ đi về đâu?
Liễu Sinh kể hết sự tình, lại nắm chặt tay kia của cô chủ. Lúc này cô chủ mới ngẩng lên ngắm nghía Liễu Sinh. Hai người cầm tay nhìn nhau, thổ lộ tấm lòng sâu kín.
Lúc này ngọn nến vụt tắt, Liễu Sinh tiện tay ôm cô chủ ngọc ngà mềm nhũn, thơm ngát, ấm hôi hổi vào lòng. Cô chủ khẽ thốt lên một tiếng "a", rồi cứ im lặng, song lại run rẩy trong lòng Liễu Sinh. Bấy giờ Liễu Sinh cũng đang mê mẩn hồn vía. Phảng phất như vạn vật đều biến mất, chỉ có hai người hòa quyện vào nhau. Liễu Sinh mặc sức vuốt ve cô chủ, nghe rõ tiếng thở hồi hộp ngắt quãng, cũng chẳng biết tiếng nào của mình, tiếng nào của cô chủ. Một người đàn bà khao khát đàn ông, một người đàn ông khao khát đàn bà, lúc này đang ôm ghì xoắn xuýt làm một, làm sao có thể phân biệt nổi ta mình.
Bên ngoài vọng vào tiếng trống sang canh mới làm cho cô chủ chợt tỉnh. Cô gỡ tay ôm của Liễu Sinh, im lặng một lát, rồi giục:
- Đã sang canh tư, xin công tử mau mau rời khỏi đây.
Liễu Sinh ngồi im trong bóng tối, lâu lắm mới trả lời một tiếng sau đó sờ tìm cái túi của mình, rồi lại đứng rất lâu.
Cô chủ lại giục:
- Công tử đi đi!
Tiếng cô chủ vô cùng buồn bã, Liễu Sinh nghe thấy cả tiếng khóc sụt sịt, bỗng dưng anh cũng rơi lệ. Anh lại sờ tìm cô chủ, hai người ôm chặt lấy nhau hồi lâu. Sau đó Liễu Sinh đi đến cửa sổ. Lúc đến trước cửa sổ, anh nghe thấy tiếng cô chủ nhắc:
- Công tử dừng lại đã.
Liễu Sinh quay người lại, thấy cái bóng lờ mờ của cô chủ di động trong buồng, sau đó lại nghe tiếng kéo cắt sần sật. Lát sau, cô chủ đi đến chỗ anh, đặt vào tay anh một gói đồ, Liễu Sinh cảm thấy vật trong tay nằng nặng, cũng không dở ra xem vật gì, cứ thế bỏ vào túi vải. Sau đó anh leo ra ngoài cửa sổ, bám dây thừng tụt xuống.
Khi xuống đến đất, anh ngẩng lên nhìn, thì chỉ còn thấy cái bóng của cô chủ đứng trước cửa sổ. Cô chủ nói:
- Công tử nhớ kỹ, dù đỗ dù không, cũng nhanh nhanh mà về.
Nói xong, cô chủ đóng cửa sổ, Liễu Sinh ngẩng mặt nhìn một lát rồi đi. Cửa sau vẫn mở, Liễu Sinh ra khỏi nhà. Vài giọt mưa còn rớt lại hắt lên mặt anh, lạnh ngăn ngắt. Sau đó nghe thấy tiếng ngựa hí, trong màn đêm tĩnh mịch, tiếng ngựa hí rõ mồn một. Liễu Sinh đi trên đường phố vắng ngắt, không thấy bóng dáng của một ai, chỉ thấy xa xa có người gác đêm đánh trống canh xách đèn lồng đi lại. Chẳng bao lâu Liễu Sinh đã bước lên đường cái lớn màu vàng. Lâu lắm, mới tờ mờ sáng. Liễu Sinh không dừng bước, nhìn cây cối và nhà tranh gần xa bắt đầu rõ dần, yên tâm bước trên đường cái. Khi mặt trời mọc, anh đã đi xa lầu thêu của cô chủ. Bây giờ anh mới giở túi ra, lấy gói quà cô chủ tặng. Mở gói, anh nhìn thấy một dúm tóc đen nhánh và hai thỏi bạc mịn màng, chúng được gói trong một chiếc khăn mùi soa thêu đôi chim uyên ương. Trong tim anh bỗng trỗi lên tình cảm dạt dào khoan khoái. Vậy là anh gói lại cho vào túi xách, tiếng cô chủ dặn dò lúc chia tay cứ văng vẳng bên tai:
- Đi nhanh nhanh mà về.
Liễu Sinh rảo bước đi lên phía trước.
Mấy tháng sau, Liễu Sinh thi trượt trở về, anh ngần ngừ bước trên con đường cái màu vàng. Tuy lúc nào cũng muốn gặp lại cô chủ, song không thể tránh khỏi nỗi nhục thi trượt. Anh cứ đi lại dừng, lúc nhanh lúc chậm. Khi lên kinh đô không khí mùa xuân nhộn nhịp tưng bừng, bây giờ trở về sắc thu se lạnh. Ngước mắt nhìn xa, trời xanh nhàn nhạt, mây nhởn nhơ bay, mênh mông bát ngát, thành phố dần dần hiện ra trước mặt, Liễu Sinh càng thêm bối rối, ngổn ngang trăm mối tơ vò. Bên đường có một dòng sông, anh liền bước ra mép nước, bóng anh trong nước không phải áo gấm quần thêu, mà là áo vải quần thâm lụt cụt. Nghĩ bụng lúc lên kinh đô ăn mặc thế này, khi trở về vẫn giữ nguyên như thế. Thời vụ có thể thay đổi, song anh không thể áo gấm về làng, còn mặt mũi nào gặp lại cô chủ.
Liễu Sinh vừa đi vừa đắn đo suy nghĩ, vô tình đã đến cổng thành. Tiếng ồn ào huyên náo ùa ra cổng thành, cảnh tượng phồn vinh trong thành hiện ra rõ mồn một. Liễu Sinh đi đến phố chợ đông đúc, bỗng đứng sững lại. Tuy đi xa vài tháng, song bộ mặt phố chợ vẫn y nguyên, hoàn toàn không chịu ảnh hưởng thay đổi của mùa vụ. Đứng ở giữa phố, Liễu Sinh nhớ lại một lần nữa khung cảnh gặp cô chủ ở lầu thêu mấy tháng trước, dường như là chuyện chơi bời ít ai biết đến trong hư ảo. Nhưng lời tiễn biệt của cô chủ thì hoàn toàn có thật. Giọng cô chủ thủ thỉ bên tai:
- Cho dù đậu dù trượt, vẫn mong công tử đi nhanh nhanh mà về.
Lúc này lòng anh chộn rộn, không đắn đo lưỡng lự nữa, anh rảo bước đi lên. Cảnh tượng cô chủ đứng trước cửa sổ ngóng trông ra xa, cứ hiện lên sống động trong từng bước đi gấp gáp. Bởi vì ánh mắt chờ đợi quá lâu mà trở nên hờn giận, trong tưởng tượng của Liễu Sinh đang chứa chan nước mắt. Cảnh tượng gặp lại là ủ ê, chán chường, im lặng, và cũng có thể là tươi cười hớn hở. Chắc chắn một lần nữa anh lại được bám thừng leo lên lầu thêu ấy.
Nhưng Liễu Sinh đi đến trước tòa nhà to rộng sâu hun hút sang trọng, thì một cảnh tượng đổ nát tan hoang bày ra trước mắt. Lầu thêu của cô chủ không còn, làm sao cô chủ còn có thể đứng ở trước cửa sổ? Đứng trước cảnh hoang vắng, Liễu Sinh bỗng choáng váng. Tất cả những gì ở trước mặt diễn ra quá bất ngờ, không thể nào lường trước. Nhớ lại cảnh vinh hoa phú quý nhìn tận mắt ở đây lần đầu vài tháng trước, nay chỉ còn là một đống đổ nát, gỗ mục đá vỡ, cỏ mọc xanh um, cảnh tượng hoang tàn, con sư tử đá hung dữ ngày nào cũng không biết biến đi đâu, Liễu Sinh cứ ngỡ mình đang ngủ mê.
Liễu Sinh đứng tần ngần hồi lâu ở cổng chính ngày nào, rồi mới đi men theo đống đổ nát. Đi được một đoạn anh dừng lại, thầm nghĩ đây là chỗ cửa bên, chỗ cửa bên đương nhiên cũng hoang vắng. Anh lại tiếp tục đi, đến chỗ vườn hoa đằng sau ngày trước, một nửa bức tường đổ đứng một mình trơ trọi, một nửa cánh cổng xiêu vẹo, cái cổng sau vẫn còn loáng thoáng nhận ra được. Liễu Sinh bước lên đống đổ nát gập ghềnh đi vào trong, nhìn thật kỹ chỗ nào là cầu đá chín khúc, đâu là ao sen hoa che kín mặt nước, đâu là đình hóng mát có lan can đỏ, đâu là bãi trúc xanh, đâu là đào mận đua sắc. Mọi vật ngày trước đã tan biến, chỉ còn hai cây phong to, nhưng thân cây cũng bị băm chém lỗ chỗ. Lá phong ngày nào còn vàng ruộm, bước sang mùa thu, lại bị nhiễm sương muối, bây giờ đã đỏ ối như máu chói mắt vô cùng. Mấy chiếc lá rụng rơi lả tả, lúc đang sum sê chỉ riêng cây phong này cũng tạo nên cảnh mê hồn.
Cuối cùng, Liễu Sinh đã đến trước lầu thêu ngày nào, chỉ thấy mấy đống ngói vỡ, vài cây gỗ mục, có những cỏ tạp và hoa dại ở giữa. Cây đào cây hạnh tươi tốt ngày nào bây giờ ở đâu? Chỉ có mấy bông hoa dại màu trắng mọc cẩu thả trong khe ngói vụn. Liễu Sinh ngẩng lên nhìn, không gian trống rỗng, nhưng khung cảnh leo thừng lên lầu thêu ngày trước lại thấp thoáng hiện ra giữa khoảng trời trống trải. Rõ ràng là ôn lại, song cũng rõ mồn một, phảng phất như đang trong cuộc. Song Liễu Sinh ôn lại chẳng kéo dài được đến cùng, mà đến câu anh nói: "Chia tay hôm nay chẳng biết bao giờ gặp lại", bỗng dưng chấm dứt. Lầu thêu biến mất trong nháy mắt, trở lại khoảng không gian trống vắng. Liễu Sinh hiểu ra, nghiền ngẫm câu nói đó, không ngờ lời mình nói đã linh nghiệm. Lúc này trời sắp tối, Liễu Sinh còn đứng thêm một lát, mới quay người đi. Anh quay lại lối cũ, đi ra cửa sau như mấy tháng trước. Sau đó đi sang một bên đống đổ nát, ôn lại lần cuối cùng cảnh phồn vinh một thời.
Khi Liễu Sinh đến phố chợ đã là lúc lên đèn. Đèn lồng treo kín các quán rượu quán trà hai bên đường phố, sáng như ban ngày. Dòng người vẫn nhộn nhịp đi lại trên phố, không ai xách đèn lồng. Liễu Sinh hỏi thăm những người bán rượu, bán trà, bán mì phở, hủ tiếu xem cô chủ đi đâu, nhưng không ai biết. Trong lúc tần ngần ngơ ngác, thì một thằng nhỏ đi ở chỉ vào một người bảo Liễu Sinh:
- Chắc người đó biết.
Liễu Sinh nhìn theo, thấy một người ngồi bệt ở ngoài quầy rượu, đầu bù tóc rối, quần áo nhem nhuốc. Thằng nhỏ bảo Liễu Sinh, ông ấy là quản gia của tòa nhà cao sang đó. Liễu Sinh vội vàng bước đến. Người quản gia hai mắt vẫn mở, song đờ đẫn, thấy Liễu Sinh đi qua, liền giơ bàn tay dính đầy cáu bẩn ra xin. Liễu Sinh móc trong túi vải mấy xu đặt vào lòng bàn tay ông. Quản gia nhận tiền hớn hở đứng lên đập đồng xu lên quầy, mua một bát rượu, uống một hơi cạn. Sau đó lại ẻo lả ngồi chênh chếch tựa vào quầy. Liễu Sinh hỏi thăm ông cô chủ đi đâu. Nghe xong ông nhắm hai mắt:
- Ôi, vinh hoa phú quý ngày nào!
Ông cứ lặp đi lặp lại câu nói đó. Liễu Sinh hỏi thêm lần nữa, người quản gia mở mắt, lại xòe hai tay cáu bẩn. Liễu Sinh lại cho mấy xu, ông vẫn mua rượu uống như cũ, trả lời Liễu Sinh vẫn là câu: "Ôi, vinh hoa phú quý ngày nào". Liễu Sinh thở dài. Anh biết có hỏi cũng không được gì, liền quay người đi. Anh đi vài chục bước trên phố, sau đó vô tình rẽ vào một ngõ vắng, trong ngõ có chỗ treo đèn lồng bán nước trà. Bây giờ anh mới thấy mình vừa đói vừa khát, liền bước vào ngồi trên một chiếc ghế dài, gọi bát nước trà, uống từ từ từng hớp. Trong nồi bên cạnh đang đun nước sôi. Trên bàn trà đang cắm mấy bông hoa tươi. Liễu Sinh nhận ra ba loại hoa cúc, hoa hải đường và hoa lan. Tự dưng anh nhớ tới cảnh bước vào vườn hoa sau nhà mấy tháng trước. Lúc ấy ba thứ hoa đào, hạnh, lê đua nở, còn hoa cúc, hải đường và lan đang ngậm nụ. Ai ngờ bây giờ chúng nở rộ ở đây.
Ba năm sau, Liễu Sinh lại lên kinh đô dự thi. Anh vẫn đi trên con đường cái màu vàng. Tuy vẫn là mùa xuân nắng ấm, nhưng cảnh vật chung quanh khác hẳn lần trước, đã không thấy đào mận khoe sắc, cũng không thấy dâu đay bạt ngàn. Ngước mắt trông lên, cây cối khô héo, đất vàng thẳng cánh cò bay, dậu tre xiêu vẹo, nhà tranh rùng rùng chực đổ trong gió chẳng khác gì phong cảnh hoang lạnh tháng chạp rét buốt. Dọc đường đi, Liễu Sinh gặp toàn những người ăn xin quần áo rách rưới.
Trong năm mất mùa đói kém, Liễu Sinh vẫn lên kinh ứng thí. Khi anh rời khỏi nhà tranh, tiếng nặng nề trên khung cửi của mẹ không còn đuổi theo sau nữa. Mẹ anh đã yên ngủ dưới chín suối. Những ngày sau khi mẹ chết, anh đã sống nhờ hai thỏi bạc trắng cô chủ tặng ba năm trước. Nếu lần này lại thi trượt, anh không bao giờ còn cơ hội làm rạng rỡ tổ tiên dòng họ. Khi bước lên con đường cái màu vàng, anh bỗng quay đầu nhìn lại, cỏ tranh trên mái nhà tốc bay lả tả trong gió. Vậy là số phận mái nhà tranh khi anh đi thi về, đã được dự báo từ giờ phút này, nó sẽ mất tăm mất tích như tiếng kêu thình thịch nặng nề trên khung cửi của mẹ.
Mấy ngày đi trên đường, Liễu Sinh đã không gặp những quan lớn kẻ sang cưỡi ngựa, cũng chẳng thấy công tử nhà giàu lên kinh thi cử. Con đường màu vàng dưới chân gập gà gập ghềnh, lỗ chỗ ổ gà, mệt mỏi vươn dài trong năm đói. Anh từng nhìn thấy một người ngồi trên đất, gặm gốc cây vừa đào lên, mồm dính đầy bùn. Từ trên chiếc áo không còn che kín thân thể của người này, Liễu Sinh đã loáng thoáng nhận ra là thứ lụa thêu cực tốt. Kẻ giàu sang ai cũng rơi vào cảnh này, người nghèo khổ cũng không thể hình dung nổi, Liễu Sinh xúc động vô cùng.
Cây cối suốt dọc đường đều bị răng người cắn đầy vết, có những cây còn găm mấy cái răng, chắc là gặm mạnh quá để lại răng trên cây. Còn xác và xương người ngổn ngang hai bên đường, cứ đi độ một dặm lại nhìn thấy hai ba xác chết không còn nguyên vẹn. Những xác chết đều trần truồng, có cả già trẻ trai gái, quần áo rách rưới trên người đều bị lột mất.
Dọc đường đi, đâu đâu cũng là màu vàng, chỉ có một lần nhìn thấy một vạt cỏ non màu xanh nho nhỏ, nhưng có đến chục người đang chổng mông vội vã gặm cỏ sần sật sần sật, trông xa rất giống một bầy dê, đàn bò. Liễu Sinh không dám nhìn tiếp, vội vàng quay đầu đi. Nhưng sau khi quay đầu, lại nhìn thấy một cảnh khác, một người sắp chết đang nuốt một dúm bùn, bùn chưa nuốt trôi, người đã lăn kềnh ra chết. Liễu Sinh đi qua cạnh người chết, cảm giác hai chân nhẹ tênh tênh, thật không biết mình đang đi trên đường cái giữa trần gian hay lối mòn cõi âm phủ?
Hôm nay, Liễu Sinh đi đến chỗ ngã ba, dừng chân ngắm nghía, dần dần đã nhận ra nơi này. Nhìn lại một lượt, nơi đây đã thay đổi hoàn toàn. Cỏ thơm mượt mà và liễu rủ ba năm về trước, bây giờ không hề còn dấu vết. Cỏ đã bị nhổ cả gốc, cảnh tượng chục người chổng mông gặm cỏ nhìn thấy hôm qua, cũng đã từng xảy ra ở đây. Còn cây liễu thị trọc lốc, tuy sống mà như chết. Con sông vẫn còn đấy. Liễu Sinh bước ra bờ sông, thấy dòng nước cũng khô cạn dần, chỗ nào nước còn đọng lại thì đục ngầu ngầu. Liễu Sinh đứng ở bờ sông, mọi cảnh vật nhìn thấy ở đây ba năm trước dần dần hiện ra. Nơi đây từng có con cá màu trắng bơi đi bơi lại trong nước, thân cá uốn lượn đẹp vô cùng. Vậy là cảnh tượng nhìn thấy cô chủ từ lầu thêu đi ra nhà ngoài cũng hiện ra rõ mồn một. Tuy đã cách xa ba năm, nhưng quang cảnh ngày nào phảng phất như đang ở trước mặt nhưng lại biến mất trong nháy mắt, trước mặt chỉ là một dòng sông sắp khô cạn. Trong vũng nước đục ngầu, làm sao trông thấy dáng nét uốn lượn của con cá màu trắng? Mà cô chủ lúc này ở đâu? Còn sống hay đã chết? Liễu Sinh ngẩng mặt nhìn, mù mịt tận chân mây.
Khi Liễu Sinh lại bước chân trên con đường cái màu vàng, đã có thể nhìn thấy thành phố, càng đi càng gần, chuyện cũ cứ hiện dần trong trí nhớ. Bóng dáng cô chủ cứ lởn vởn như gần như xa, dường như bám theo từng bước. Còn tòa nhà cao to chiều sâu hun hút và cảnh đổ nát hoang tàn thì cứ đan xen xuất hiện, có lúc lại chồng lên nhau.
Chỉ mới đến bên thành, Liễu Sinh đã ngửi thấy không khí lụn bại trong thành, cổng thành vắng tanh vắng ngắt, hoàn toàn không thấy cảnh những người nhà quê quảy thúng, xách làn đi ra đi vào, cũng không thấy bóng dáng công tử nhà giàu nhởn nhơ rong chơi. Trong thành cũng không có tiếng người ồn ào, chỉ có những người gầy guộc mặt xanh da vàng đi lẻ tẻ một mình. Cho dù có nghe thấy một số tiếng nói, cũng thều thào hết hơi. Tuy vẫn năm bước một nhà gác, mười bước một khuê phòng, song tường nhà gác và khuê phòng đã bong sơn tróc bột vàng lỗ chỗ từ bao giở bao giờ, để lộ từng mảng nham nhở ở bên trong. Liễu Sinh đi trên phố chợ không còn thấy những quý cậu quý cô đi du lịch, mà chỉ có những nhà nho nghèo áo vải, nét mặt ủ ê như mất vía, quán rượu quán trà ngày xưa  san sát kín phố đầy đường, nay chỉ còn lèo tèo vài chỗ, phần lớn đều đã đóng cửa, người đi nhà trống. Bụi đất bám đầy khung cửa và chấn song cửa sổ. Mấy cửa hàng may mắn còn lại cũng không có thịt cừu thịt dê mỡ màng mà treo, cũng chẳng có bánh quất bánh chưng mà bán. Thằng hầu và người bán rượu nom ai cũng có khuôn mặt đờ đẫn, ngây ngô, không tươi tỉnh lên nổi. Trên quầy rượu vẫn là những đĩa bát để như xưa, nhưng không bày thành hàng, mà úp vào nhau. Trong bát đĩa trống không chẳng có thứ gì. Càng không thấy người nhà quê bê bánh đa bánh đúc đến bán.
Liễu Sinh vừa đi vừa nhớ lại cảnh sầm uất ngày trước, cứ tưởng đang trong cõi mộng. Sự đời như khói, chớp mắt một cái đã không còn. Bất giác bước đến trước ngôi chùa. Nhìn lại ngôi chùa vàng son rực rỡ ngày nào, bây giờ dáng dấp xiêu vẹo như kẻ mất hồn, bậc đá trước cửa chỗ còn chỗ mất, ngập ngụa như lối lên núi. Cây bách trăm năm trong chùa thì cành bẻ thân băm, cột nhà xà nhà tróc lở lốm đốm trông thấy rỗ mọt bên trong, nền chùa lát gạch cỏ mọc um tùm. Liễu Sinh đứng một lát, bỏ túi vải, lấy ra mấy tờ tranh chữ đã viết sẵn dán lên tường chùa. Tuy có vài người qua lại, song ai cũng ủ rũ mặt mày, còn hơi đâu đến học đòi phong nhã? Liễu Sinh đứng chờ lâu lâu, nhìn phong cảnh vắng tanh vắng ngắt, thầm nghĩ sẽ không có ai đến mua, bèn thu cuộn tranh chữ cho vào túi vải. Dọc đường đi lần này, không bán được tờ tranh chữ nào, thường phải chịu đói nhịn khát. Số bạc cô chủ tặng ngày nào chẳng còn bao nhiêu, Liễu Sinh đâu dám tiêu bừa. Liễu Sinh rời ngôi chùa, lại đi trên phố chợ, lại nhớ cảnh phồn hoa ngày trước, lại thấy cám cảnh vô hạn. Nỗi cám cảnh này bắt nguồn từ lầu thêu của cô chủ và tòa nhà to rộng có chiều sâu hun hút lồng lộng kia. Nhìn cảnh sa sút như vậy của thành phố, lại nghĩ đến cảnh đổ nát của lầu thêu, Liễu Sinh không chỉ một mực thương nhớ cô chủ, mà bắt đầu than thở cho sự biến đổi to lớn chỉ trong phút chốc của sự đời.
Cứ miên man suy nghĩ như vậy, Liễu Sinh đã đến trước một bãi đổ nát hoang tàn. Ba năm qua, chỗ này bây giờ chỉ là một bãi hoang vu, ngay đến một giếng vỡ tường đổ cũng không còn. Không sao nhận ra nổi lầu thêu của cô chủ, cả một bãi hoang chỉ còn lưa thưa vài khóm cỏ tạp, khó tìm được một cây gỗ mục, một viên ngói vỡ. Nếu không có hai cây phong dáng như bộ xương phơi ra đó, có lẽ Liễu Sinh khó lòng nhận ra nơi này. Phảng phất như nơi này đã bỏ hoang cả trăm năm nay, chưa từng bao giờ có tòa nhà bề thế sang trọng, chưa từng có cây xanh mượt mà và hoa tươi cỏ lạ, chưa từng có lầu thêu và vườn hoa sau nhà, cũng như chưa từng có cô chủ tên Huệ. Mã Liễu Sinh cũng như chưa từng đặt chân đến nơi này, cho dù ba năm trước đã từng đi qua.
Liễu Sinh đứng hồi lâu mới quay người đi. Khi rời khỏi nơi đây cảm thấy người hơi nhẹ nhõm, nỗi nhớ nhung da diết cô chủ cũng bất giác vơi đi khá nhiều. Khi đi đã rất xa, nỗi nhớ ấy dường như đã tan biến, dường như anh chưa bao giờ sống trong cảnh tượng mê hồn ấy.
Liễu Sinh không trở lại phố chợ mà rẽ vào một ngõ vắng. Đi giữa ngõ, hai bên nhà căng đầy mạng nhện, vắng tanh vắng ngắt không một bóng người. Lúc này Liễu Sinh không muốn đi vào phố chợ cùng nhiều người khác mà anh chỉ muốn đi một mình, cho nên ngõ vắng này rất hợp ý anh.
Đi hết ngõ vắng, Liễu Sinh đến một bãi trống, chỉ có mấy chục nấm mồ, chỉ lùm lùm cao hơn mặt đất tí chút, có lẽ bao năm nay không ai ngó tới. Lại trông thấy gần đó một túp lều tranh, trong lều có hai người mang dáng dấp thợ lò mổ, ở ngoài lều cũng có vài người. Liễu Sinh còn chưa biết chỗ này là chợ bán thịt người, liền ghé vào. Bởi mất mùa không có thóc gạo hoa màu, vỏ cây rễ cỏ hết dần, liền lấy thịt người làm đồ ăn, cho nên đã mọc ra một vài chợ mua bán thịt người.
Hai người trong lều đang mài lưỡi rìu trên hòn đá mài, vài người đứng ngoài xách làn quảy thúng hình như đợi đã lâu, làn và thúng trống không, Liễu Sinh bước đến cạnh, nhìn thấy gần đó có ba người đang đi đến, một người đàn ông ăn mặc rách rưới đi trước, theo sau là một phụ nữ và đứa con ăn vận rách rưới. Gã đàn ông đi vào lều, trong hai người ở lều có một người dáng dấp chủ quán liền đứng lên. Gã đàn ông cũng im lặng, chỉ giơ ngón tay chỉ chỉ chỏ chỏ vào người đàn bà và em bé ở ngoài lều. Chủ quán liếc mắt nhìn, rồi giơ ba ngón tay với gã đàn ông. Gã đàn ông cũng không mặc cả, cầm ba xâu tiền ra khỏi lều đi thẳng. Liễu Sinh nghe thấy đứa con gái gọi một tiếng "bố", song gã kia không quay đầu, cứ lao đi vun vút, chỉ trong nháy mắt đã mất hút.
Lại trông thấy chủ quán và thợ giúp việc cùng đi ra khỏi lều, xé toạc hết quần áo vốn rách bươm của người phụ nữ, thân chị ta trần truồng, bụng chị ta hơi sưng, còn những chỗ khác thì gầy như que củi. Bị rứt hết quần áo, chị ta cũng mặc kệ, chỉ xiêu người đi một cái, sau đó quay đầu nhìn đứa con gái đứng bên cạnh. Hai người kia lại dứt bỏ quần áo của em bé, em bé giãy giụa một cái, song ngẩng mặt nhìn mẹ rồi đứng im. Trông em trạc mười tuổi, tuy gầy guộc, nhưng còn béo hơn mẹ.
Mấy người ở lều lúc này liền xúm lại ngã giá với chủ quán. Nghe họ nói hình như đều vừa mắt cô bé. Bọn họ chê thịt người mẹ bạc nhạc. Chủ quán tỏ ra hơi khó chịu, liền hỏi:
- Nhà ăn hay bán cho người khác?
Có hai người đáp để nhà ăn, số còn lại đều nói để bán cho người khác. Chủ quán lại nói:
- Nếu bán cho người khác, thì miếng thịt to một chút vẫn hơn - chủ quán vừa nói vừa chỉ vào người đàn bà. Lại giao thiệp một lúc mới coi như quyết định.
Lúc này người phụ nữ cất tiếng:
- Con tôi trước - tiếng chị ta lạc hẳn đi nghe không rõ.
Chủ quán trả lời một tiếng, liền túm cánh tay em bé lôi vào trong lều. Người phụ nữ lại bảo:
- Xin rủ lòng thương, đâm một nhát cho nó chết đã.
Chủ quán đáp:
- Không được, như thế thịt không tươi.
Em bé bị lôi xềnh xệch vào trong lều, sau đó gã phụ việc nắm chặt người em, đặt cánh tay em lên cái cọc. Hai mắt em liếc ra ngoài nhìn mẹ cho nên không trông thấy chủ quán đã giơ cao chiếc rìu sắc. Người mẹ không nhìn con. Liễu Sinh thấy chủ quán bổ mạnh lưỡi rìu sắc xuống, nghe "phập" một tiếng, xương bị chặt đứt, một dòng máu bắn tung tóe ra chung quanh, bắn cả vào mặt chủ quán nhoe nhoét.
Trong tiếng "phập", em bé rùng mình oằn người đi, sau đó em mới quay lại xem chuyện gì đã xảy ra, Khi nhìn thấy cánh tay mình nằm trên cọc gỗ, em bé bỗng há hốc mồm đờ đẫn. Một lúc sau mới gào lên mấy tiếng, ngã gục người ra đất. Ngã ra đất rồi mới khóc thét lên nức nở, tiếng khóc hết sức chói tai.
Lúc này chủ quán cầm một mảnh vải rách lau mặt, gã giúp việc đưa cánh tay cho người xách làn ở ngoài lều. Người đó bỏ cánh tay vào trong làn, trả tiền rồi đi. Giữa lúc này, người mẹ lao vào trong lều, cầm một con dao sắc nhọn để trên đất, đâm mạnh vào ngực con gái, cô bé kêu hự một tiếng ngột ngạt rồi tắt thở, khi chủ quán phát hiện ra, thì đã muộn. Chủ quán tống cho người đàn bà một quả đấm ngã dúi vào góc lều, lại nhặt cô bé ở đất lên, cùng với gã giúp việc mổ xẻ cô bé ra từng miếng trông đến là tối tăm mặt mũi và đưa cho từng người ở ngoài lều.
Liễu Sinh nhìn vào mà hồn xiêu phách lạc, mãi sau mới hoàn hồn. Lúc này cô bé đã bị phanh thây xong, chủ quán vào góc lều lôi xềnh xệch người đàn bà ra. Liễu Sinh không dám tiếp tục nhìn, vội vàng quay người đi, nấp vào ngõ vắng. Nhưng tiếng rìu bổ xuống nặng nề của chủ quán, cùng với tiếng gào dài như xé của người đàn bà cứ đuổi theo, khiến anh run bắn, cho đến lúc anh rảo bước đi ra khỏi ngõ vắng, những tiếng ấy mới coi như mất hẳn. Nhưng anh không sao gạt được cảnh tượng vừa xảy ra, nó cứ chập chờn ở trước mặt một cách thê thảm lạnh lùng. Dù Liễu Sinh đi đến đâu, thảm cảnh ấy cứ bám dai dẳng. Thấy trời sắp tối, anh không dám ngủ đêm ở ngoài trời trong thành, liền hấp ta hấp tấp đi ra ngoài thành. Khi đặt chân trên con đường cái màu vàng, anh mới coi như đã hơi hơi bình tĩnh. Chẳng mấy chốc vầng trăng lạnh lẽo đã treo lơ lửng trên trời, Liễu Sinh cảm thấy hơi se se lạnh.
Quá trưa hôm sau, Liễu Sinh đi đến một thôn nhỏ, không quá mười gia đình, đều là mái tranh vách đất nghèo đói. Nhà tranh tuy có ống khói vươn thẳng, nhưng đứng chơ vơ, không hề có sợi khói bếp lan tỏa. Bởi ánh mặt trời chiếu xuống, trên đường cái phủ một lớp bụi, nên Liễu Sinh đi bước nào, bụi đất lại tung lên như khói bước ấy. Trên đường có mấy dấu chân người đi qua để lại, song không có dấu vó ngựa, cũng không có vết chân chó, lợn, cừu và gia súc khác. Có một lối tắt ở cạnh đường cái, dưới chỗ rẽ là một con suối cạn, mọc lưa thưa vài cây cỏ vàng. Một chiếc cầu gỗ tấm nho nhỏ vắt qua suối. Liễu Sinh không đi qua cầu, nên cũng không đi theo con đường mòn kia, anh rẽ vào ngôi nhà tranh ở bên đường.
Nhà tranh này là một quán rượu. Trên tủ bày mấy cái đĩa, trong đĩa toàn là miếng thịt lớn, luộc rất trắng. Trong quán có ba người. Chủ quán người gầy nhỏ, hai gã giúp việc lại to khỏe. Tuy đều mặc áo vải, song sạch sẽ gọn gàng, không có mụn vá. Giữa năm mất mùa đói kém, quán rượu này lại sống được như cây mọc ở khe đá, có thể coi là một kỳ tích. Lại trông ba người trong quán, tuy không coi là đỏ da thắm thịt, song không đến nỗi mặt bủng da vàng. Dọc đường đến đây, Liễu Sinh rất ít gặp người nào còn ra dáng vẻ người.
Lúc hoàng hôn hôm qua, Liễu Sinh ra khỏi thành, nhờ có ánh trăng, đi miết đến canh ba mới nghỉ chân trong một cái đình xiêu vẹo. Anh cuộn cái túi vải thành một búi, nằm ngủ ở góc đình. Tờ mờ sáng hôm sau lại dậy đi tiếp, bây giờ đang đứng ở ngoài quán rượu này, chỉ thấy người chao đảo, hai mắt quay chong chóng. Hơn một ngày nay không ăn một miếng cơm, không uống một ngụm nước, lại đi ròng rã không dừng, đương nhiên khó mà đi tiếp. Chủ quán lúc này bước ra tươi cười hỏi:
- Quan khách cần gì ạ?
Liễu Sinh bước vào trong quán, ngồi xuống trước bàn, chỉ gọi một bán nước trà và mấy cái bánh tráng. Chủ quán vâng dạ, lát sau bưng ra. Liễu Sinh uống một hơi hết bát nước, sau đó mới từ từ ăn bánh tráng.
Giữa lúc này, một người có dáng nhà buôn đang đi tới, ông ta mặc áo gấm quần thêu, trông oách lắm, theo sau có hai người nhà đều gánh đồ. Nhà buôn vừa ngồi xuống ghế, chủ quán đã bưng ra rượu ngon tốt nhất, rót đầy một chén đẩy đến trước mặt ông ta. Nhà buôn uống một hơi cạn chén, sau đó móc ra khỏi ống tay áo một nắm bạc lẻ để lên bàn, nói:
- Đem thịt ra đây.
Hai gã giúp việc vội vàng bưng ra hai đĩa thịt trăng trắng. Nhà buôn chỉ liếc mắt nhìn, rồi đẩy cho người nhà, lại bảo:
- Ta cần thịt tươi.
Chủ quán vội đáp:
- Thưa vâng, có đấy ạ!
Nói xong cùng hai gã giúp việc đi sang một nhà tranh khác. Liễu Sinh tuy đã ăn xong bánh tráng, song vẫn ngồi yên tại chỗ. Lúc này người đã khỏe, tỉnh táo ra nhiều, nên định tâm ngắm nghía ba người ngồi gần đó. Hai người nhà tuy cũng ngồi, nhưng món thịt tươi ông chủ gọi chưa bưng ra, nên cũng không dám động đến món ăn ở trước mặt. Nhà buôn cứ uống tì tì hết chén nọ đến chén kia, vừa được chốc lát, đã sốt ruột, gọi:
- Sao lâu thế?
Ở nhà bên, chủ quán nghe gọi đã lên tiếng:
- Có đây! Có đây!
Liễu Sinh vừa đứng lên, khoác túi vải đang định đi, chợt nghe thấy tiếng kêu xé gan xé ruột ở nhà bên vọng sang. Tiếng kêu đau đớn kéo dài cứ như kiếm sắc chọc thẳng vào ngực Liễu Sinh. Tiếng kêu đột ngột, khiến anh giật nẩy người. Tiếng kêu kéo rất dài, hình như tập trung giọng của cả một đời người cùng phát ra ở mồm, từ trong ngôi nhà tranh hét vọng sang. Liễu Sinh dường như nhìn thấy cả tốc độ mạnh mẽ và nhanh chóng của tiếng hét ấy xuyên qua tường.
Sau đó tiếng hét bỗng im bặt, trong giây lát gấp gáp này, Liễu Sinh đã nghe thấy tiếng rìu phập vào xương chan chát. Do đó, mọi thứ nhìn thấy ở chợ bán thịt người trong thành tối hôm qua, lúc này lại hiện ra rõ mồn một.
Tiếng kêu lại nổi lên, lúc này tiếng kêu cứ ngắt quãng giống như bị chặt từng đoạn. Liễu Sinh cảm thấy tiếng kêu ngắn như những ngón tay, cứ từng đốt từng đốt bị chặt gọn, văng vun vút bên người anh. Trong tiếng kêu bị ngắt quãng này, Liễu Sinh nghe rõ tiếng rìu chặt xuống. Tiếng rìu và tiếng kêu đan xen lấp vào chỗ trống của nhau, cứ dồn dập hết đợt này đến đợt khác.
Liễu Sinh chợt rùng mình nổi gai ốc. Nhưng nhìn ba người ngồi bên cạnh vẫn thản nhiên như không nghe thấy gì, vẫn uống rượu như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhà buôn thỉnh thoảng liếc nhìn sang cánh cửa bên kia, vẫn tỏ vẻ hết sức sốt ruột.
Tiếng kêu ở tường bên bắt đầu nhỏ đi, Liễu Sinh đã nhận ra tiếng rên của một người đàn bà. Tiếng rên đã không dữ dội như vừa nãy, nghe ra dường như đã lắng xuống, không giống tiếng rên, mà y như tiếng đàn nạm ngọc đang văng vẳng, lại y như tiếng ngân nga bay tới. Thanh âm ấy giống như nước nhỏ giọt. Ba năm trước, Liễu Sinh đứng lặng dưới cửa sổ lầu thêu lắng nghe cô chủ ngâm nga thơ từ, bây giờ cảnh tượng ấy đã hiện trở lại một cách nhạt nhòa. Liễu Sinh chìm đắm trong cảnh tĩnh lặng. Nhưng chỉ trong nháy mắt cảnh ấy đã biến mất, tiếng kêu ở bên kia tường đúng là tiếng rên. Liễu Sinh không hiểu sao bất chợt cảm thấy đấy là tiếng của cô chủ, anh bỗng run run.
Liễu Sinh không biết mình đang bước đến chỗ cánh cửa đó. Lúc đến cửa vừa vặn gặp chủ quán và hai gã giúp việc đang đi ra. một gã xách cái rìu bám đầy máu, một gã khác lại cầm một chân người, chân người còn đang nhỏ máu. Liễu Sinh nghe rõ tiếng giọt máu nhỏ xuống đất trơ lì. Anh nhìn xuống đất, thấy những vết máu lỗ chỗ, mùi tanh xộc vào mũi, chứng tỏ ở đây số người bị giết làm thức ăn đã nhiều lắm.
Liễu Sinh đi vào trong nhà, thấy một người đàn bà nằm ngửa ra đất, mái tóc rối bung. Chân còn lại hơi co, một chân khác đã mất, chỗ gãy thịt máu bê bết. Liễu Sinh đến cạnh người đàn bà, ngồi xổm, cẩn thận gạt những sợi tóc che mặt. Người đàn bà có cặp mắt lá răm đang trợn tròn trắng dã, song không hề có chút ánh sáng. Liễu Sinh nhìn kỹ đã nhận ra chính là cô chủ Huệ. Tự dưng anh choáng váng quay cuồng. Nào ngờ ba năm xa cách lại gặp nhau ở đây, mà cô chủ lại bị bán để giết làm thức ăn. Liễu Sinh khóc nức nở, nước mắt tuôn ra như suối. Cô chủ vẫn chưa tắt thở, vẫn đang rên, nhìn rõ sự đau đớn khó chịu nổi trên khuôn mặt méo mó. Chỉ vì tiếng kêu sắp sửa tắt hẳn, nên tiếng cô chủ cuối cùng biến thành tiếng rên rỉ khe khẽ kéo dài như nước chảy lì rì. Tuy cô chủ mở to cặp mắt lá răm, nhưng không nhận ra Liễu Sinh. Hiện ra trong cặp mắt cô chủ chỉ là một người đàn ông xa lạ. Bằng giọng nói yếu ớt còn sót lại, cô đã van xin anh đâm cho cô một nhát dao cho chết hẳn. Mặc cho Liễu Sinh gọi rối rít, cô chủ vẫn không thể nhận ra anh. Giữa lúc không biết làm gì hơn và tim gan như bị dao cắt, Liễu Sinh chợt nhớ đến dúm tóc cô chủ tặng lúc chia tay, liền móc túi vải lấy ra, đưa đến trước mắt cô chủ. Cô chủ chớp mắt một cái, tiếng rên bỗng im bặt. Liễu Sinh đã nhìn thấy mắt cô chủ có giọt lệ rưng rưng, song không trông thấy tay cô đang sờ tìm anh.
Cô chủ cất tiếng nói cuối cùng cầu xin Liễu Sinh chuộc lại cái chân bị chặt, để cô được chết đi một cách nguyên vẹn. Cô lại cầu xin anh cho một nhát dao kết liễu cuộc đời cô. Nói xong cô chủ vô cùng thản nhiên nhìn Liễu Sinh, phảng phất như cô đã vừa lòng thỏa mãn. Giữa lúc sắp tắt thở được gặp lại Liễu Sinh, cô cũng không có đòi hỏi gì khác. Liễu Sinh đứng lên, đi ra cửa, sang bếp quán rượu. Lúc này một người đang xẻo thịt trên chân cụt của cô chủ. Chân cô đã bị cắt xẻo nát vụn. Liễu Sinh đẩy người đó ra, móc hết số bạc ở trong túi vứt lên sàn bếp. Đây là số bạc cô chủ tặng ở lầu thêu ba năm về trước còn lại. Khi Liễu Sinh cầm cái chân gẫy, đồng thời cũng nhìn thấy con dao sắc để trên bàn. Cảnh tượng người mẹ đâm một nhát dao giết chết con gái ở chợ bán thịt người trong thành hôm qua lại hiện ra. Liễu Sinh do dự một lát, đã cầm luôn con dao sắc.
Liễu Sinh lại đến bên cô chủ, cô chủ không rên nữa, cô lặng lẽ nhìn Liễu Sinh. Đây chính là ánh mắt cô chủ đứng trước cửa sổ trong tưởng tượng của Liễu Sinh. Thấy Liễu Sinh bưng chân về, cô chủ đã há mồm, song không thành tiếng, tiếng cô chủ đã tự chết trước.
Liễu Sinh đặt chân vào chỗ gãy của cô chủ, thấy cô chủ hơi mỉm cười. Cô chủ hết nhìn con dao sắc trong tay anh, lại nhìn anh. Liễu Sinh tự nhiên hiểu cô chủ đang chờ đợi cái gì. Cô chủ tuy không rên, song bởi cơn đau đớn khó chịu đã làm cho khuôn mặt cô mỗi lúc một méo mó, Liễu Sinh không thể tiếp tục nhìn tận mắt thảm cảnh này, anh bỗng nhắm mắt lại. Một lúc sau anh mới giơ tay sờ soạng lên ngực cô chủ, sờ vào chỗ trái tim thoi thóp, hình như anh cảm thấy ngón tay đang khẽ động. Lát sau anh nhấc tay ra, tay kia giơ con dao sắc đâm mạnh một nhát, thân thể dưới co dúm lên. Liễu Sinh sững sờ, cảm thấy thân thể cô chủ từ từ thuỗn ra. Khi cơ thể cô chủ thõng hẳn xuống, Liễu Sinh bắt đầu run lẩy bẩy. Lâu lắm, Liễu Sinh mới mở to hai mắt. Cặp mắt cô chủ đã nhắm lại, khuôn mặt cũng hết méo mó, thần sắc cô vô cùng thanh thản ung dung.
Liễu Sinh ngồi xổm cạnh cô chủ, thần sắc hoảng hốt, bao nhiêu chuyện đã qua lần lượt kéo đến mù mịt như khói rồi lại tan đi ngay, lúc thì cảnh đẹp của vườn hoa sau nhà rối mắt, khi thì lầu thêu cột xanh ráng mây, cuối cùng là khoảng không mù mịt trống rỗng.
Sau đó Liễu Sinh bế cô chủ lên, cái chân gãy rũ trên cánh tay đung đưa. Anh hoàn toàn không cảm thấy gì. Bước khỏi nhà mổ, đi đến quán rượu, cũng không nhìn nhà buôn nọ đang hăm hở ăn thịt chân cô chủ như thế nào. Anh đi ra khỏi quán rượu, bước chân lên con đường cái màu vàng. Ngước mắt trông xa, bốn phía đều là màu vàng bao phủ. Giữa mùa xuân nắng đẹp, lại không nhìn thấy một chút màu xanh thì lấy đâu ra cảnh tươi rói của lầu son gác tía?
Liễu Sinh thong thả bước đi, cúi đầu nhìn cô chủ. Cô chủ đúng là có dáng dấp của con người bình thản toại nguyện. Còn Liễu Sinh thì như kẻ mất hồn, không bao giờ còn ôm theo mơ ước. Đi được một đoạn không xa, Liễu Sinh đến cạnh một con sông. Hai bên bờ sông hoang vắng, mấy cây liễu khô héo trông như bộ xương. Lòng sông vẫn còn một ít nước, tuy đục song vẫn đang chảy. Nghe tiếng nước chảy róc rách, Liễu Sinh đặt cô chủ xuống cạnh dòng nước. Anh cũng ngồi xuống, lặng ngắm cô chủ. Trên thân cô chủ có nhiều vết máu và vết bùn. Liễu Sinh liền cởi chiếc áo rách trên người cô, nghe thấy tiếng áo rách soàn soạt. Lát sau thân cô chủ lộ ra trắng nõn. Liễu Sinh lấy nước sông gột rửa sạch vết máu, vết bùn trên người cô. Rửa đến chỗ chân gãy, chân gãy lỗ chỗ mụn và lỗ thủng, trông thảm vô cùng, Liễu Sinh bỗng nhắm mắt lại, cảnh tượng nhìn thấy ở chợ bán thịt người trong thành hôm qua lại hiện ra, anh dịch chân gãy đi.
Lại mở mắt ra, chỗ chân gãy lại lọt vào tròng mắt, vết rìu chặt nhoe nhoét vẫn còn ở đó, giống như đoạn gốc cây chặt nham nhở, da thịt ở chỗ gãy chân cứ lủng lẳng bám cuốn vào nhau chạm đất, rữa ra. Lấy ngón tay sờ vào, chỗ thịt da nham nhở mềm nhũn, song xương gãy thì nhọn hoắt đâm vào ngón tay nhoi nhói ghê rợn. Liễu Sinh chăm chắm nhìn hồi lâu, cảnh nhà đổ tường xiêu lại lần lượt hiện ra.
Lâu lâu, vết máu ở ngực lại tứa ra. Liễu Sinh rửa kỹ vết máu, chỗ vết dao sắc thọc qua, thịt da bị lật lên phơi ra chung quanh, ở trong vẫn còn đỏ hon hỏn, chẳng khác gì một bông hoa đào đang nở. Nghĩ đến vết thương mình đâm, Liễu Sinh tự dưng run bắn. Nỗi mong nhớ chồng chất suốt ba năm, rút cuộc hóa thành một nhát đâm, Liễu Sinh không dám tin một sự thật như thế. Sau khi lau sạch thân thể cô chủ, Liễu Sinh lại ngắm nghía kỹ một lần nữa. Cô chủ nằm ngửa trên đất, da cô sạch như băng, trơn như ngọc. Cô chủ tuy đã chết mà như đang sống. Còn Liễu Sinh ngồi bên cạnh lại mù mịt vô tri vô giác, tuy đang sống mà như đã chết.
Sau đó Liễu Sinh giở túi vải lấy quần áo thay giặt của mình mặc cho cô chủ. Mặc trên người chiếc áo to rộng thùng thình, trông cô chủ bé cỏn con. Liễu Sinh khóc lóc, nước mắt như mưa. Liễu Sinh đào một cái hố ở bên cạnh, lại bẻ nhiều cành cây khô thả xuống đáy hố và hai bên, sau đó đặt cô chủ vào, rồi phủ kín cành cây lên người cô chủ. Cô chủ được lấp kín, song vẫn thấp thoáng nhìn thấy. Liễu Sinh lấp đất, đắp thành một nấm mộ, rồi tưới một ít nước dưới sông lên mộ. Sau đó anh ngồi xếp bằng ngay ngắn trước mộ, trong đầu trống rỗng. Mãi một lúc vầng trăng lạnh lẽo mọc lên, Liễu Sinh mới bừng tỉnh. Nhìn sáng trăng chiếu lên mộ, hắt lại những tia sáng lốm đốm như đom đóm, Liễu Sinh nghe tiếng nước sông chảy róc rách, thầm nghĩ có lẽ cô chủ cũng nghe thấy, nếu cô chủ cũng nghe thấy sẽ không lẻ loi khó chịu.
Nghĩ thế, Liễu Sinh đứng dậy, bước trên con đường cái tràn ngập ánh trăng, đi trong màn đêm vắng lặng. Khi đã xa dần cô chủ, Liễu Sinh cảm thấy bâng khuâng trống trải trong lòng. Anh chỉ nghe thấy tiếng quản bút va vào cái nghiên mài mực kêu lạch cạch cô đơn.
Vài năm sau, Liễu Sinh bước trên con đường cái màu vàng lần thứ ba. Tuy anh vẫn khoác cái túi vải, song không phải lên kinh đô dự thi. Từ khi chôn cô chủ mấy năm trước, mặc dù Liễu Sinh vẫn lên kinh đô, song công danh trong lòng anh đã phai nhạt dần và tan biến. Cho nên khi lại không thấy tên mình trên bảng, anh cũng hoàn toàn không tỏ ra hổ thẹn, hết sức bình tĩnh quay về.
Mấy năm trước, Liễu Sinh thi trượt trở về, khi lại đến bên sông nơi chôn cất cô chủ, đã không thể nhận ra mộ cô chủ. Bờ sông tự dưng xuất hiện hơn mười ngôi mộ, đều hoang lạnh như nhau. Liễu Sinh đứng mãi ở bờ sông, mới bắt đầu cảm thấy trên đời những người đau lòng đứt ruột đâu chỉ một mình anh. Nghĩ như vậy cũng ít nhiều bớt được nỗi đau trong lòng. Liễu Sinh đã cúi xuống nhổ cỏ đắp đất mới cho từng ngôi mộ bỏ hoang. Lại ngắm nhìn lâu lắm, anh vẫn không xác định rõ đâu là chỗ cô chủ đang yên nghỉ, liền thở dài não ruột bỏ đi.
Khi Liễu Sinh đi ăn xin, dọc đường về đến nhà, thì ngôi nhà tranh đã mất biến từ bao giờ rồi. Trước mặt anh chỉ còn một bãi trống. Khung cửi của mẹ cũng không còn. Trước khi ra đi anh đã dự đoán được cảnh này, cho nên anh không hề hoang mang sợ hãi. Anh chỉ nghĩ làm thế nào để sống tiếp. Trong thời gian rất dài từ đó trở đi, Liễu Sinh đã phải đi ăn xin. Khi cảnh đời đã có chuyển đổi, anh mới nhận coi nghĩa địa cho một gia đình giàu có. Sống trong nhà tranh, Liễu Sinh chỉ làm những việc nhẹ nhàng như nhổ cỏ đắp đất cho các ngôi mộ, thời gian còn lại anh ngâm thơ, vẽ tranh. Tuy nghèo túng, song cũng thảnh thơi. Thi thoảng cũng ôn lại một vài chuyện cũ. Giọng nói điệu cười của cô chủ đã trở về sống động. Lần nào như thế, Liễu Sinh cũng hoảng hốt thần hồn, cuối cùng kết thúc bằng tiếng thở dài. Cuộc sống như thế, nhoáng một cái đã vài năm trôi qua.
Tiết thanh minh năm nay đã đến, nhà chủ tổ chức một đoàn người ngựa có đến hơn mười nam nữ gồm nhà chủ, con hầu ăn diện sặc sỡ nô nức kéo ra nghĩa địa tảo mộ đốt hương. Đồ cúng tươi rói bày ra tại chỗ. Bỗng chốc trước mộ hương khói nghi ngút, tiếng khóc nỉ non. Là người sống trong cuộc, Liễu Sinh bỗng chốc cũng nước mắt rưng rưng. Không phải Liễu Sinh khóc vì người trong mộ, mà là do xúc cảnh sinh tình. Thầm nghĩ tuy tiết thanh minh, nhưng không thể đi tảo mộ cho bố mẹ để tỏ lòng hiếu thảo. Tiếp theo lại nghĩ đến ngôi mộ đơn côi của cô chủ, càng thấy cay đắng xót xa. Nghĩ bụng, bố mẹ còn được bên nhau yên nghỉ dưới suối vàng, còn cô chủ thì lầm lũi một thân một phận lẻ loi, há chẳng càng thê thảm hay sao?
Sáng sớm hôm sau, Liễu Sinh lẳng lặng bỏ đi. Anh đi tảo mộ cho bố mẹ trước, sau đó bước lên con đường cái màu vàng, đi đến bờ sông nơi cô chủ yên nghỉ. Liễu Sinh đã đi bộ vài ngày, dọc đường toàn là cảnh xuân tươi đẹp. Lầu son gác tía lại tưng bừng nhộn nhịp nhà nọ tiếp nối nhà kia. Ngước lên nhìn chỗ này đào liễu khoe sắc, chỗ kia dâu đay bạt ngàn. Những mái nhà tranh dậu tre thấp thoáng giữa cây xanh trúc biếc, còn có cả dòng nước nhỏ chảy dài dưới khe suối. Cảnh tượng hoang tàn ngày xưa đã biến mất, Liễu Sinh đi giữa cảnh này phảng phất như trở lại thời gian tốt đẹp lần đầu tiên đi trên con đường cái màu vàng. Cảnh hoang tàn thuở xưa đã lùi xa, cảnh phồn vinh ngày nào đã trở lại, hiện rõ mồn một trước tầm nhìn của Liễu Sinh. Nhưng cảnh hoang tàn và phồn vinh cứ thay nhau xuất hiện trong trái tim Liễu Sinh, khiến anh cảm thấy con đường cái màu vàng dưới chân lúc hư ảo, lúc không thực. Ngước mắt trông xa, tuy cảnh đẹp tươi rói, tưng bừng hớn hở, nhưng cảnh hoang tàn ngày nào vẫn chưa mất hẳn, cứ rập rình ở bên đường và trên cánh đồng như một bóng đen dưới nắng mặt trời. Liễu Sinh thầm nghĩ, cảnh phồn vinh này liệu có thể kéo dài được bao lâu?
Dọc đường đi Liễu Sinh gặp mấy cậu ấm nhà giàu lên kinh đô dự thi, mới chợt nhớ đến lại gặp mùa thi cử hàng năm. Nhẩm tính mình lần đầu lên kinh đô thi tuyển đã là việc trôi qua thấp thoáng hơn mười năm trước. Lại nghĩ đến vô số chuyện quanh co khúc khuỷu trong những năm qua, bất giác thốt lên sự đời đột biến quả là vô tình vô nghĩa. Mấy cậu ấm nhà giàu kia đứa nào cũng tỏ ra hết sức ngông nghênh đắc ý. Liễu Sinh bỗng dưng thở dài, nghĩ bụng chuyện đời biến hóa vô cùng như thế, công danh coi là cái gì? Cây khô hai bên đường đã từng băm chém chi chít bây giờ cành lá lại sum sê. Mấy người nhà quê nằm giả vờ ngủ dưới bóng râm. Cảnh nhàn rỗi này chứng tỏ lẽ đời hưng thịnh. Trên bãi cỏ non xanh, gió thổi dập dờn, những con bò con dê nằm, hoặc đi lại một cách biếng nhác. Liễu Sinh cứ đi như thế, bất giác đến chỗ ngã ba, dòng sông bên cạnh lại một lần nữa hiện ra trước mắt.
Đây chính là con sông đã từng để lại dấu vết trong lần đầu tiên lên kinh đô. Cỏ xanh ở bờ sông trải qua tai họa diệt chủng, bây giờ lại mọc xanh rờn. Còn cây liễu rủ dài thướt tha đã từng giống bộ xương người, thì bây giờ đang đung đưa trong gió. Liễu Sinh đi vào trong, cỏ xanh mượt mà dài dài đâm vào ống quần, như cuốn níu bước chân. Đến bờ sông nhìn dòng nước trong xanh tận đáy, có mấy chiếc lá xanh trôi trên mặt nước. Một con cá màu trắng đang bơi đi bơi lại gần chỗ Liễu Sinh tư thế uốn lượn của con cá đẹp đẽ vô cùng. Phong cảnh ở đây chẳng khác nào hơn mười năm trước khiến Liễu Sinh sung sướng cảm động. Nhìn vẻ đẹp tung tăng uốn lượn của con cá, làm sao lại không nhớ đến vẻ đẹp uyển chuyển của cô chủ đi lại trong lầu thêu? Nhớ tới cảnh hoang vu lạnh lẽo ở đây mấy năm trước, Liễu Sinh càng xúc động muôn phần. Cây cối cỏ xanh, dòng sông con cá, đều có sự thịnh vượng sau nạn cướp giật, song chỉ có cô chủ vẫn nằm trong ngôi mộ lẻ loi, không bao giờ sống lại, không bao giờ được hưởng lại đời sống giàu sang phú quý ngày nào.
Liễu Sinh đứng rất lâu bên bờ sông, sau đó mới buồn rầu ra đi. Ra đến đường cái đã thấp thoáng nhìn thấy thành phố, liền rảo bước đi lên. Đến trước cổng thành, Liễu Sinh đã nghe thấy người ngựa đi lại tấp nập nhộn nhịp, xem ra thành phố đã trở lại cảnh phồn hoa sầm uất trước kia. Liễu Sinh đi vào trong thành, dạo bước trên phố chợ, vẫn là năm bước một nhà gác, mười bước một khuê phòng, được trang trí lại rực rỡ, trông bề thế lộng lẫy vô cùng, hoàn toàn không còn cảnh tượng nhem nhuốc tường lở, sơn tróc, mạng nhện chăng kín. Hai bên đường phố quán rượu quán trà mọc lên san sát. Rèm xanh quán rượu treo cao, lò than quán trà đỏ lửa, còn có cả hàng quán bán mì bán phở, bán bánh trôi, đoán chữ xem bói. Những xâu thịt bò thịt dê mỡ màng lại treo trên quầy rượu, trên tủ trà cũng bày mấy loại bánh điểm tâm. Lại nhìn người đi lại trên phố, phần đông da dẻ hồng hào, tươi cười hớn hở. Mấy bà lớn vàng đeo rủng rỉnh, đều có cô hầu xinh xắn bám sát, dạo chơi trên phố chợ. Một số cậu ấm nhà giàu cưỡi ngựa ngộc nghệch cũng chen trong đám đông. Dọc đường đi, người bán rượu, trẻ con chào hàng ở hai bên đường, sốt sắng mời chào rối rít. Cảnh tượng này hoàn toàn là cảnh trí của hơn mười năm trước. Liễu Sinh lơ mơ cảm thấy hình như trở về quang cảnh ngày xưa, chưa từng trải qua hơn mười năm gian truân khổ ải vừa rồi.
Trong chốc lát, Liễu Sinh đã đến trước ngôi chùa. Lại nhìn thấy ngôi chùa vàng son lộng lẫy. Cửa chùa đang mở, Liễu Sinh nhìn cây bách xanh trăm năm ở bên trong uy nghi rợp bóng, nền lát gạch sạch bóng không một hạt bụi, cột xà nhẵn thín bóng nhoáng, cũng y hệt hơn mười năm trước, không còn nhận ra cảnh đổ nát xiêu vẹo của những năm mất mùa đói kém lan tràn. Cảnh cỏ tạp um tùm, mạng nhện chăng đầy chỉ còn là hình ảnh láng máng đâu đó trong trí nhớ Liễu Sinh. Liễu Sinh giở túi vải, lấy giấy mực, diễn lại trò cũ, vẽ mấy tranh chữ, vài bức tranh hoa, sau đó dán lên tường, bán cho người qua lại. Chỉ một lúc nhiều người xúm lại. Tuy xem nhiều mua ít, nhưng chẳng bao lâu đã bán hết số tranh đó thu được vài xâu tiền. Liễu Sinh vui vẻ thỏa mãn, cho vào túi vải, thong thả bước đi.
Vô tình bước đến tòa nhà cao rộng sâu hun hút về sau trở thành đống gạch vụn, bước lại gần, Liễu Sinh chợt giật mình ngạc nhiên. Không còn thấy một đống đổ nát vách đổ tường xiêu, bãi trống cũng không còn. Một tòa nhà cao rộng hết sức bề thế bày ra trước mắt. Liễu Sinh cứ ngẩn tò te ra mà nhìn, nghi nghi cảnh này chẳng qua chỉ là hư ảo. Nhưng ngắm nghía kỹ, ngôi nhà cao rộng đang sờ sờ trước mặt, hơn nữa càng thực tế hơn, chiếc cổng lớn sơn đỏ đóng kín, bên trong hiên bay lồng vào nhau trùng điệp, chim đậu chim bay, cây xanh tuy chưa rợp trời, song cũng to khỏe. Lại thấy hai con sư tử đá trước cửa đều có dáng hung dữ. Liễu Sinh bước tới sờ tay vào một con sư tử đá, cảm thấy lạnh giá mà chắc bền. Bây giờ anh mới xác nhận cảnh vật trước mặt là thực. Anh đi dọc theo lối dài ngoài tường vây, đi được một đoạn, thì nhìn thấy một cổng bên, cánh cổng đóng kín, song nghe rõ tiếng người vui đùa ở bên trong. Liễu Sinh đứng nhìn một lúc, lại đi.
Một lát nữa, anh đến ngoài cửa sau, cửa đang mở, vẫn mở như hơn mười năm trước, chỉ không có người nhà đi ra. Từ cửa sau, Liễu Sinh đi vào vườn hoa sau nhà, chỉ thấy toàn lâu đài thủy tạ, đình nghỉ mát, nhà trên mặt nước, núi giả tường chắn đá, cái nào cũng xinh xắn đẹp đẽ. Hai ao ở giữa đều bị lá sen che một nửa. Chỗ nối hai ao có một chiếc cầu cong cong. Trên cầu là một đình nghỉ mát, cạnh ao cũng có một cái đình hóng mát, hai bên là hai cây phong rất to. Bố trí vườn hoa sau nhà hơi khác hơn mười năm trước. Nhưng cây phong chính là cây phong đã nhìn thấy hơn mười năm trước. Qua mấy lần tai nạn, dáng vóc cây phong vẫn như xưa. Lại nhìn đình nghỉ mát, trong đình có bốn đôn sứ, có một tấm đá xây ở đằng sau, phía sau tấm đá chắn có hàng trăm cây trúc biếc, sau vườn trúc biếc là lan can màu đỏ tươi, sau lan can là vô số cây hoa, hoa đào, hoa mận, hoa lê đang nở rộ, còn hoa hải đường, hoa lan, hoa cúc thì đang có nụ.
Liễu Sinh dừng chân, ngẩng đầu nhìn, lại vẫn là lầu thêu, lại ngó chung quanh hai bên trái phải, vẫn y hệt lầu thêu anh trông thấy lần đầu lên kinh đô thi tuyển. Lầu thêu có cửa sổ mở ra bốn phía, gió từ đằng kia thổi sang đi qua nhà gác thổi vào mặt Liễu Sinh. Liễu Sinh ngửi thấy mùi thơm sực nức, bỗng thấy bâng khuâng như bay lên, chìm đắm trong cảnh đẹp lúc gặp cô chủ ở lầu thêu. Hoàn toàn không cảm thấy đây là chuyện đã qua, phảng phất như đang trong hiện tại. Liễu Sinh cảm thấy tiếng ngân nga của cô chủ đang vọng tới. Nghĩ như vậy quả nhiên nghe thấy âm thanh kỳ diệu bay khỏi cửa sổ, lan ra bốn phía, sau đó rơi xuống lay phay như mưa bụi. Âm thanh ấy nhỏ giọt tí tách như viên ngọc trai rơi xuống đĩa, như dòng sông róc rách mỏng manh chảy dài. Nghe thật kỹ mới nhận ra không phải tiếng ngân nga, mà là tiếng đàn nạm ngọc. Nhưng tiếng đàn nạm ngọc này lại giống y hệt tiếng ngân nga của cô chủ. Liễu Sinh lắng nghe thật kỹ, đã hòa nhập vào một cách vô tri vô giác. Nỗi cay đắng truân chuyên hơn mười năm trước đã hóa thành khói bụi bay mất, Liễu Sinh lại một lần nữa đứng lặng dưới lầu thêu, có cảm giác như lần đầu trải qua cảnh đẹp nên thơ này. Tuy anh đã loáng thoáng đoán ra trình tự sẽ xuất hiện tiếp đó, nhưng điều ấy không đánh thức anh dậy, anh đã hòa quyện hai chặng đường ngày xưa và bây giờ làm một.
Khi Liễu Sinh ước đoán cô hầu sẽ xuất hiện ở cửa sổ, thì quả nhiên một cô gái có dáng dấp người hầu xuất hiện ở cửa sổ. Cô ta trợn mắt chau mày, nói:
- Mau mau đi khỏi đây!
Liễu Sinh bỗng dưng tủm tỉm cười. Cảnh tượng trước mắt y như đã dự kiến. Cô hầu nói xong cũng quay vào. Liễu Sinh biết lát nữa cô ta lại trợn mắt chau mày xuất hiện trước cửa sổ.
Tiếng đàn nạm ngọc chưa dứt, nên tiếng ngân nga của cô chủ vẫn tiếp tục, âm thanh ấy lúc du dương khi chậm rãi. Phải chăng cô chủ đang bị nỗi tương tư dằn vặt?
Cô hầu lại đến trước cửa sổ:
- Sao không đi đi hả?
Liễu Sinh vẫn tủm tỉm cười. Nụ cười của Liễu Sinh khiến cô hầu không dám đứng lâu ở cửa sổ. Sau khi cô hầu vào, tiếng đàn nạm ngọc bỗng tắt ngấm. Sau đó Liễu Sinh nghe thấy tiếng đi lại trên lầu thêu. Tiếng nặng hơn có lẽ là của cô hầu, còn tiếng nhẹ hơn chắc là của cô chủ đang đi lại.
Liễu Sinh cảm thấy sắc trời đã bắt đầu tối dần, có lẽ chỉ trong chốc lát màn đêm sẽ buông xuống, mưa cũng sẽ đến. Mưa một khi đã rào rào lộp độp, thì cửa sổ trên lầu sẽ đóng vào. Ánh sáng nến xuyên qua giấy cửa sổ hắt xuống lờ mờ. Trong cơn mưa gió, cửa sổ kia lại mở, cả cô chủ lẫn cô hầu xuất hiện ở cửa sổ. Sau đó một sợi dây thừng vằn mình thả xuống, thế là Liễu Sinh leo lên, gặp cô chủ trong lầu thêu. Khi cô chủ đi ra nhà ngoài trông xinh đẹp như một con cá màu trắng, không bao lâu, cô chủ lại đến cạnh anh, hai người cầm tay nhìn nhau muốn ngàn lời lại hóa thành im lặng. Sau đó Liễu Sinh lại bám dây leo xuống, đi khỏi lầu thêu, bước trên đường cái. Vài tháng sau, Liễu Sinh thi trượt trở về, lại đến chỗ này, song đã là một đống đổ nát hoang tàn.
Đống đổ nát hoang tàn đột nhiên xuất hiện, khiến Liễu Sinh kinh hoàng. Giữa lúc ấy một xô nước lạnh từ trên lầu thêu hất túi bụi lên người Liễu Sinh, anh chợt bừng tỉnh. Nhìn bốn chung quanh, ánh sáng rực rỡ mới biết cảnh tượng vừa rồi chỉ là giấc mơ ban ngày. Còn xô nước lạnh thì hoàn toàn có thật. Toàn thân Liễu Sinh nước chảy ròng ròng, lại nhìn lên cửa sổ lầu thêu, không thấy có bóng người, song nghe được tiếng cười khe khẽ và tiếng nói thì thầm ở bên trong. Lát sau cô hầu đến chỗ cửa sổ, quát nạt:
- Không xéo đi, sẽ gọi người đến cho mà xem.
Cảnh đẹp lúc nãy đã biến thành làn khói trắng bay đi, tự dưng Liễu Sinh thấy buồn, lầu thêu như cũ, song cô chủ đã thay, anh thở dài một tiếng quay người đi. Đi ra ngoài tòa nhà, quay đầu nhìn lại, mới biết nơi đây không phải tòa nhà to rộng sâu hun hút ngày xưa. Trong lúc đi đường, Liễu Sinh lấy nhúm tóc cô chủ tặng lúc chia tay đang để trong túi vải ra ngắm nghía kỹ, nhiều kỷ niệm tốt đẹp của cô chủ khi còn sống cứ lần lượt hiện ra trước mặt. Liễu Sinh bất giác nước mắt ròng ròng.
Sau khi Liễu Sinh ra khỏi thành, lại đi một vài ngày. Hôm nay đến bờ sông an táng cô chủ. Nhìn cảnh vật bên sông xanh tươi mơn mởn, có những hoa nhỏ năm màu lắc lư ở giữa. Trên mặt sông soi bóng những hàng liễu rủ xanh biếc đang gợn sóng. Thấm thoắt đã mấy năm trôi qua, cảnh hoang vắng ngày nào cũng tan biến trong phút chốc. Liễu Sinh đứng lặng ở bờ sông, một khuôn mặt già nua hiện lên trong nước. Cảnh tượng phồn vinh một khi sa sút, còn có thể phục hồi trở lại, nhưng tuổi xuân đã đi là đi mãi không bao giờ trở lại. Cảnh đẹp và thời gian quý báu đã từng rực rỡ ngày nào cũng đi mãi không bao giờ trở lại. Bây giờ hồi tưởng lại như bông hoa đàn vừa nở đã tàn. Liễu Sinh nhìn bốn chung quanh, thấy hơn chục ngôi mộ, đều mới được đắp đất gần đây, tro than giấy tiền vẫn còn trước mộ, còn để lại vết tích thắp hương tảo mộ tiết thanh minh. Nhưng ngôi nào mới là mộ cô chủ? Liễu Sinh thong thả bước, quan sát kỹ càng, song không thể nhận ra. Nhưng đi thêm vài bước trông thấy một ngôi mộ hoang. Ngôi mộ ấy chỉ sè sè một nắm đất, sắp sửa bị san phẳng, còn coi như chưa bị cỏ tạp hoa dại phủ kín. Trước mộ không có tro giấy tiền. Vừa nhìn thấy nấm mộ ấy, Liễu Sinh đã chột dạ, một tình cảm khó nói chợt trỗi dậy trong lồng ngực. Ngôi mộ hoang không ai tảo mộ thắp hương này chắc là nơi yên nghỉ của cô chủ.
Một khi nhận ra ngôi mộ của cô chủ, thì giọng nói nụ cười của cô chủ cũng thoát khỏi ký ức xa xăm, trở về bên cạnh Liễu Sinh, từ từ lên khỏi mặt nước vô cùng rõ nét. Khi Liễu Sinh nhìn kỹ, lại thấy một con cá màu trắng, con cá lặn xuống chỗ sâu, rồi mất hút.
Liễu Sinh ngồi xuống nhổ từng cây cỏ tạp và hoa dại trên mộ cô chủ. Sau đó lấy tay bới đất ở cạnh đường đắp lên mộ. Liễu Sinh cứ hì hục làm cho tới lúc màn đêm buông xuống mới dừng tay. Nhìn lại nấm mộ đã cao hẳn lên, Liễu Sinh lại lấy nước sông vẩy từng giọt, từng giọt lên mộ, mỗi giọt nước nhỏ xuống lại hắt lên những hạt bụi li ti. Thấy trời đã tối, Liễu Sinh tỏ ra lưỡng lự không biết nên ngủ đêm lại đây, hay là lên đường. Đắn đo hồi lâu, anh quyết định ngủ ở đây một đêm, chờ sáng sớm hôm sau sẽ đi, nghĩ đến cuộc đời này chỉ được gặp cô chủ có hai lần vội vội vàng vàng, bây giờ lại hấp ta hấp tấp ra đi, Liễu Sinh có phần không đành lòng. Cho nên ở lại đây nghỉ với cô chủ một đêm cũng là để trọn tình vẹn nghĩa với nhau.
Đêm vô cùng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng gió thổi lá cây nhè nhẹ, giống như tiếng mưa mau hạt, lại nghe thấy nước chảy, thoang thoảng như tiếng đàn nạm ngọc, lại như tiếng ngân nga. Hai thứ âm thanh cứ thế đan xen khiến Liễu Sinh sống lại những giờ phút đẹp đẽ cùng cô chủ ở lầu thêu năm nào. Liễu Sinh ngồi cạnh mộ cô chủ, lơ mơ nghe thấy có tiếng động khẽ trong mộ, tiếng ấy dường như là tiếng cô chủ đi lại trong lầu thêu. Suốt đêm Liễu Sinh không chợp mắt, cứ mơ mơ màng màng, chìm đắm trong những cuộc mơ tưởng gặp lại cô chủ. Cho đến khi tang tảng sáng. Liễu Sinh mới hoàn hồn. Tuy chỉ là một đêm mơ tưởng hư vô, song Liễu Sinh hết sức lưu luyến. Mơ tưởng không có thật này nếu đi theo anh suốt cuộc đời cũng là chuyện hay, vô cùng tốt đẹp.
Lát sau, trời sáng hẳn. Liễu Sinh cảm thấy nên ra đi. Anh nhìn bốn chung quanh, cỏ lên mơn mởn, liễu rủ thướt tha, lại nhìn mộ cô chủ thấy ánh nắng mặt trời chiếu vào óng a óng ánh. Cô chủ ở dưới đó chắc cũng dễ chịu, chỉ có phần hiu quạnh. Nghĩ rồi, Liễu Sinh bước lên con đường cái màu vàng.
Đi trên đường, Liễu Sinh hoàn toàn không nhìn thấy cảnh tưng bừng oanh hót yến lượn đua vui trên đồng ruộng, chỉ thấy con đường kéo dài xa tít tắp. Đi được một đoạn, bỗng tự hỏi: Bây giờ đi về đâu?
Nếu trở lại nghề cũ, trông coi nghĩa địa, thì đúng là Liễu Sinh không muốn, vì toàn là những ngôi mộ của người khác, còn mộ của bố mẹ và cô chủ thì ghẻ lạnh. Mà tìm việc khác, cũng không có ý nghĩa. Nghĩ vậy, Liễu Sinh bỗng dưng đứng lại. Đắn đo một lúc lâu, cuối cùng anh đi đến quyết định quay trở về bên cạnh cô chủ. Anh nghĩ, bố mẹ được yên nghỉ bên nhau, chỉ có cô chủ trơ trọi một thân một mình, chẳng thà trông coi mộ cô chủ những năm tháng còn lại của cuộc đời vẫn hay hơn nhiều so với việc coi mồ của người khác.
Liễu Sinh trở lại bên mộ cô chủ. Quyết định như thế, Liễu Sinh hết sức yên tâm. Thế là anh bẻ cành cây dựng một gian nhà nhỏ bên đường. Nhìn xa xa có vài gia đình, Liễu Sinh tới đó mua một cái nồi, định đun một ít nước trà bán cho người đi đường, cũng là để kiếm sống. Khi mọi việc sắp xếp đâu vào đấy thì màn đêm bắt đầu buông xuống, Liễu Sinh cũng mệt bã người, anh uống mấy ngụm nước sông và ăn mấy cái bánh tráng, sau đó ngồi trong lùm cây bên sông nhìn dòng nước chảy.
Vầng trăng lạnh từ từ mọc lên treo lơ lửng trên trời. Ánh trăng soi trên dòng sông lấp loáng. Ngay đến cỏ xanh và liễu rủ bên bờ cũng óng ánh, khiến Liễu Sinh hết sức ngạc nhiên. Dưới ánh trăng cũng có cảnh lạ lùng như vậy sao!
Lúc này Liễu Sinh chợt ngửi thấy mùi thơm khang khác, có lẽ gió đã đem theo mùi thơm khác lạ này đến, mà đến từ đằng sau lưng anh. Liễu Sinh quay lại nhìn, thì vô cùng ngạc nhiên. Trong gian nhà nhỏ bên đường có ánh nến đang cháy lập lòe. Liễu Sinh bất chợt đứng dậy đi về phía gian nhà nhỏ. Đi đến trước cửa nhìn thấy bên trong có một người đàn bà đang ngồi trên chiếu đọc sách dưới đèn. Bên cạnh người đàn bà là cái túi vải của Liễu Sinh, đã bị mở ra, có lẽ quyển sách được lấy từ trong túi vải. Người đàn bà ngẩng lên, trông thấy Liễu Sinh đứng ở trước cửa, vội vã đứng lên chào:
- Công tử đã về đấy ư!
Liễu Sinh nhìn kỹ, bỗng sững sờ. Người đàn bà trong nhà không phải là ai khác, mà chính là cô chủ Huệ. Cô chủ đứng đó, dáng người mảnh dẻ, chiếc váy áo thêu màu trắng muốt quét đất, màu trắng của bộ váy áo lại không phải thứ màu trắng thông thường, hình như giống màu của ánh trăng.
Thấy Liễu Sinh sững sờ, cô chủ mỉm cười, nụ cười như làn sóng gợn lăn tăn. Cô chủ giục:
- Sao công tử không bước vào nhà đi?
Bấy giờ Liễu Sinh mới bước vào, nhưng vẫn ngẩn người ngạc nhiên. Cô chủ liền nói:
- Tiểu nữ đến bất ngờ quá, xin công tử đừng trách.
Liễu Sinh lại nhìn cô chủ. Cô chủ búi tóc dựng ngược, nét mặt tươi như hoa đào, mắt đen lay láy, cái miệng nho nhỏ anh đào chúm chím, khiến Liễu Sinh mê mẩn tâm thần, song vẫn đầy lòng nghi ngờ, liền hỏi:
- Đây là người hay là ma?
Vừa nghe hỏi thế, cặp mắt cô chủ đã rưng rưng. Cô đáp:
- Cứ tưởng công tử đã vứt bỏ em từ đời nảo đời nào, không ngờ công tử vẫn luôn luôn quý mến giữ gìn. - Nói xong cô chủ nước mắt như mưa.
Vô cùng xúc động, nao nao trong lòng, Liễu Sinh vội vàng bước tới, nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của cô chủ. Bàn tay ấy vô cùng giá lạnh. Hai người cầm tay nhau nước mắt mờ nhòa.
Cô chủ vung ống tay áo dài một cái, ngọn nến vụt tắt. Đang đà, cô chủ ngả luôn vào lòng Liễu Sinh. Anh cảm thấy toàn thân cô chủ lạnh giá, cứ run bần bật. Anh nghe rõ tiếng khóc nức nở của cô chủ. Giọng cô ngắt quãng, cô kể lể những chuyện đã qua, sau khi Liễu Sinh ra đi, ngày nào cô cũng đứng trước cửa sổ ngóng trông. Liễu Sinh lúc này như đắm say, như ngây ngất, trở về với quá khứ tốt đẹp hơn mười năm trước, tiếp theo cả hai cùng ngã ra đất.
Sau đó Liễu Sinh ngủ say li bì, khi anh tỉnh dậy, trời đã sáng hẳn. Lại nhìn bên cạnh, không thấy cô chủ đâu, nhưng trên ổ rơm, cô chủ đã để lại một chỗ nằm lõm xuống, chỗ lõm ấy đang tỏa ra mùi thơm khác lạ. Liễu Sinh nhặt mấy sợi tóc còn vương lên, sợi tóc mềm mại hơi xoăn xoăn, sau đó lại lấy dúm tóc cô chủ tặng ngày xưa ra, để chung vào nhau hầu như y hệt, chỉ có điều mấy sợi tóc cô chủ để vương trên chiếu loáng thoáng có màu xanh óng ả.
Liễu Sinh đi ra ngoài nhà, nhìn dòng sông nhuốm đỏ dưới nắng ban mai, cây cối và cỏ non hai bên bờ sông cũng lốm đốm đỏ. Liễu Sinh đi đến bên mộ cô chủ, đất mới trên mộ hơi ẩm ướt, sương đêm còn đọng chưa tan hết. Nhìn kỹ ngôi mộ, không hề có chút gì khác lạ. Liễu Sinh cảm thấy rất lạ, nhớ lại cảnh tượng đêm qua, hoàn toàn là chuyện có thật, không hề có chút nào giả tạo. Huống hồ vừa rồi thức giấc cũng đã nhìn thấy dấu cô chủ để lại trong đêm. Liễu Sinh ngồi xuống cạnh mộ, thò tay nắm một vốc đất, cảm thấy ấm áp vô cùng. Cô chủ đang nằm yên dưới này ư? Anh có phần ngờ vực. Phải chăng cô chủ đã bỏ mộ mà đi, trở lại sống trên đời. Nghĩ thế, Liễu Sinh ngờ rằng trước mắt chỉ là một ngôi mộ rỗng không. Anh ngồi bên nấm mộ lâu lắm, càng nhớ lại cảnh đêm qua, càng cảm thấy trước mặt là một ngôi mộ trống rỗng. Cuối cùng không sao nhịn nổi, anh muốn bới tung lên xem rút cuộc là thế nào. Vậy là hai tay anh cào đất. Từng lớp, từng lớp đất được cào bới lên. Gần tới cô chủ, Liễu Sinh thấy cành cây phủ kín, người cô chủ đã mục nát từ bao dở bao giờ, nằm trong vụn như bùn đất. Cả cái áo vải mặc trên người cô chủ cũng hóa thành đất bùn. Liễu Sinh khe khẽ gạt chúng đi, cô chủ lộ ra trần như nhộng. Hai mắt cô chủ nhắm lại, khuôn mặt mới xinh đẹp hấp dẫn làm sao. Cô chủ đã mọc lớp thịt da mới, cho nên toàn thân có màu cánh sen nhàn nhạt. Cho dù một chân đã bị gãy, cũng đã lành lại nguyên vẹn, còn vết dao đâm ở ngực, thì không thấy đâu. Tuy cô chủ nằm trong mộ, nhưng mái tóc hết sức gọn gàng, y như vừa mới được chải tử tế. Mái tóc ấy loáng thoáng ánh lên chút màu xanh, Liễu Sinh ngửi thấy mùi thơm khác lạ sực nức.
Cảnh tượng trước mặt khiến trong lòng Liễu Sinh vang lên rộn ràng tiếng suối trong đang chảy. Anh biết chẳng bao lâu nữa cô chủ sẽ sống lại trên đời, do đó khi anh ngắm nghía kỹ cô chủ lần nữa, phảng phất như cô đang ngủ ngon, phảng phất như chưa từng có chuyện cô bị bán cho cửa hàng giết thịt người làm thức ăn. Chẳng qua cô chủ đang ngủ yên, chốc nữa sẽ thức giấc. Liễu Sinh ngắm nghía lâu lắm, rồi mới phủ đất lên. Sau đó Liễu Sinh vẫn cứ ngồi cạnh mộ, dường như e sợ cô chủ rời mộ đi xa, anh không dám rời một bước. Anh lại nhớ tới cảnh tượng tốt đẹp lần đầu tiên gặp cô chủ ở lầu thêu, lại tưởng tượng ra nhiều viễn cảnh tốt đẹp sau khi gặp lại cô chủ. Liễu Sinh chìm đắm trong hư vô mỏng manh không nghe tiếng nước chảy róc rách bên cạnh, không nhìn người qua lại trên đường. Mọi thứ trên đời tiêu tan hết, chỉ có cô chủ đang nhẹ nhàng lướt tới.
Liễu Sinh cứ ngồi đờ đẫn, hoàn toàn không có cảm giác thời gian đang trôi đi, ngay đến màn đêm lại buông xuống, anh cũng không hề biết. Trăng lạnh đã lên cao, ánh trăng lặng lẽ rót xuống. Bốn bề vắng lặng lấp loáng. Gió đêm vù vù thổi đến, vừa ướt vừa lạnh. Liễu Sinh vẫn không nhận ra trời đã tối, cứ mải mê cầm tay cô chủ nhìn nhau trong cảnh hư vô tưởng tượng.
Bỗng dưng Liễu Sinh ngửi thấy mùi thơm khác lạ sực nức, mùi thơm khác lạ đã khiến anh bừng tỉnh. Nhìn bốn chung quanh mới biết trời đã tối đen. Lại nhìn gian nhà nhỏ cạnh đường, trong nhà đang lập lòe nến. Trong đêm trăng, ánh sáng nến mờ nhòa leo lét. Liễu Sinh vừa mừng vừa ngạc nhiên, vội vàng đứng lên chạy về nhà. Nhưng bước vào trong nhà lại không thấy cô chủ khêu đèn đọc sách. Đang nghi nghi hoặc hoặc, Liễu Sinh nghe thấy có tiếng ở đằng sau, quay người lại, đã nhìn thấy cô chủ đang đứng ở trước cửa. Cô chủ vẫn dáng dấp như tối hôm qua, người mặc sáng trăng, toàn thân lấp lóa liên tục, chỉ có thần sắc cô chủ không giống đêm qua, tỏ ra vô cùng buồn thương. Thấy Liễu Sinh quay lại, cô chủ liền nói:
- Tiểu nữ vốn sắp sửa sống trở lại, chỉ tại bị công tử phát hiện, nên việc không thành.
Nói xong, cô chủ nước mắt ròng ròng ra đi.
CẢM NHẬN CỦA BẠN ĐỌC VỀ TÁC PHẨM SỐNG
Ngay sau khi tác phẩm Sống được Nhà xuất bản Văn học phát hành tháng 11-2002, bạn đọc đã đón nhận tác phẩm rất nhiệt thành. Sách được bán hết trong thời gian rất ngắn. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, xuất hiện nhiều bài báo viết về Sống. Nhân lần tái bản 2005, chúng tôi xin giới thiệu một số cảm nhận của bạn đọc về Sống của Dư Hoa.
LỆ RƠI TRÊN "SỐNG"
Phan Thanh Lệ Hằng
Báo Tuổi trẻ Chủ nhật, 30.3.2003
Sống là một quyển sách mỏng (196 trang) của NXB Văn học, tác giả Dư Hoa, dịch giả Vũ Công Hoan. Quyển truyện vừa, văn học hiện đại Trung Quốc này lôi cuốn đến độ đã đọc không dừng được. Qua hai lần kể chuyện của tác giả và nhân vật chính của Sống, bằng một giọng văn chân phương, hình thành câu chuyện về cuộc đời một con người, từ thuở ấu thơ đến ngày xế bóng, băng qua muôn ngàn đau khổ, ngày vui chỉ thoáng chốc trôi qua.
Cuộc đời ấy mang đầy dấu ấn của dòng xoáy lịch sử, đầy biến động của một Trung Hoa cận đại. Lịch sử một đất nước biến đổi nhanh chóng và dữ dội, đương nhiên sẽ lôi cuốn theo số phận của mọi cuộc đời, mọi sinh linh bé bỏng. Dư Hoa đã cắt lát gửi cho người đọc một mảng duy nhất của lão già Phú Quý trong muôn triệu kiếp đời. Chỉ bấy nhiêu thôi mà tôi không cầm được nước mắt bao lần; khi xếp quyển sách mỏng manh lại rồi, lòng thương cảm vẫn khôn nguôi. Nơi bìa ruộng mênh mông kia, chân trời hoàng hôn với ráng chiều đỏ quạch, có nụ cười tê tái của ông già Phú Quý, đang đánh bạn với con trâu già: "… lưng ông già đen thủi đen thui như lưng trâu. Hai cái mạng sống già nua lật từng luống đất của thửa ruộng khô cứng lên, kêu sần sật…". Nụ cười ấy đã nén biết bao tang thương, để cuối đời còn thương được một con trâu già. Phải từng căng cuộc đời ra với sống, chết với khổ đau thì mới để ý được chứng tật của con trâu già, mà kết bạn. Tình bạn của hai kiếp người - trâu này ý vị lắm, thương nhau lắm mà cũng phải đối sách với nhau nhiều trò, trên một mảnh ruộng đầy vị mặn của mồ hôi và máu.
Cấu trúc của truyện là: 40 năm trước, khi Dư Hoa gặp lão già Phú Quý, lão kể cho tác giả nghe câu chuyện của chính mình. Câu chuyện của một công tử đã sớm tha hóa trong nhung lụa. Hành trình tha hóa của công tử Phú Quý thật kinh khủng trong một đất nước Trung Hoa thập niên 20 thế kỷ trước. Khi trác táng ở thanh lâu, ra dạo phố, công tử Phú Quý phải đi bằng ngựa người, cưỡi trên lưng các cô gái lầu xanh, diễu phố phường và trêu người bố vợ mới thỏa dạ vui thích… Người thanh niên tha hóa đáng sợ như thế đã trở về với nhân cách một lão nông tử tế, biết thương người, thương vợ, thương con, thương rể tật nguyền, thương cháu ngoại, thương làng xóm, sau khi đã được khổ đau nhào nặn.
Không một trường học nào có thể hoán cải được con người như Phú Quý, ngoài trường khổ đau. Thật thế, lão già Phú Quý sống dù lắm đắng cay còn sót lại trong cuộc đời, bên con trâu già trong chuỗi ngày xế bóng, nhưng nhân cách làm người thật sáng trong. Qua Sống, ta cảm nhận được nhiều thông điệp về lẽ sống của cuộc đời. Nhiều tầng ý nghĩa chứa trong một quyển sách mỏng: hành trình thiên nan, vạn nan của sự hình thành cái cao đẹp; trả lời cho nỗi băn khoăn đi tìm căn nguyên, cội nguồn của sự sống. Những tầng sâu ý nghĩa của tác phẩm được trình bày qua sự bộc lộ tính cách, văn hóa Trung Hoa dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhà văn đã cúi xuống nỗi đau khổ và viết lên thành con chữ nỗi thống khổ ấy để gửi đến bạn đọc. Thế mà đọc xong, lòng ta lại cảm thấy yêu thương cuộc sống quanh ta hơn, yêu thương con người hơn. Lắng đọng lại lòng ta một mối buồn thương cao đẹp lắm.
Đọc Sống ta nhớ ngay sức chịu đựng của người tù khổ sai Papillon, nhớ đến bức tranh vân cẩu của Hồng Lâu Mộng; và qua màn sương mỏng buổi chiều tà, hình ảnh nụ cười mếu máo của lão già với bàn tay xua xua, trên đôi chân loạng choạng trên mặt ruộng nẻ khô, cứ ám ảnh như buộc ta yêu thương cõi đời này hơn nữa.
"SỐNG" - VÌ BẢN THÂN SỰ SỐNG MÀ SỐNG…
Ngô Ngọc Ngũ Long
Báo Sài Gòn Giải phóng số ra ngày: 23-3-2003
Tác phẩm "Sống" của nhà văn Dư Hoa (Trung Quốc) đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới: Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và bây giờ là Việt Nam. Truyện cũng đã từng được đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựng thành phim, và diễn viên Cát Ưu với vai chính Phú Quý đã nhận giải Diễn viên xuất sắc tại Liên hoan phim Cannes 1994…
Câu chuyện được kể khá bình thản về cuộc đời của một con người. Đọc suốt từ đầu truyện đến khi kết thúc, có cảm giác như người kể không muốn chen một chút cảm xúc mình vào trong đó, nhưng khi buông cuốn sách xuống, người đọc cứ bị đè nặng một cảm giác rưng rưng kéo dài. Một cuộc đời, một chất sống mãnh liệt đến không thể hình dung nổi vì sao sức chịu đựng của con người lại ghê gớm đến như thế. Câu chuyện mở đầu khá thú vị với hai hình ảnh già nua của một con người và con trâu, và từ ấy là chuỗi ký ức xâu kết lại suốt hơn bốn mươi năm, từ lúc ông còn là một cậu công tử lêu lổng Từ Phú Quý, đã đốt cả gia sản tổ tiên vào chiếu bạc. Cha tức uất mà chết, nhà cửa ruộng vườn bị tịch biên, từ địa chủ trở thành tá điền, phải thuê năm công ruộng của chính nhà mình từ kẻ được bạc. Rồi bị bắt đi làm bia đỡ đạn cho quân Tưởng Giới Thạch mấy năm, trở về nhà thì mẹ mất, con gái Phượng Hà bị câm. Cả nhà làm việc cật lực mà vẫn nghèo đến nỗi phải đợ con gái mới đủ cho con trai Hữu Khánh đi học. Con trai được mười tuổi đang đi học thì chết vì bị hiến hết máu cho vợ chủ tịch huyện. Hữu Khánh chết oan ức, nhưng vị chủ tịch huyện lại chính là người bạn sinh tử của Phú Quý khi ở quân đội Tưởng. Vài năm sau, Gia Trân bệnh nhũn xương, nằm liệt và qua đời. Còn lại Phượng Hà, 35 tuổi mới tìm được một anh chồng tàn tật. Phượng Hà có thai, sinh con rồi bị băng huyết chết. Nhị Hỷ, chồng Nguyệt Hà nuôi con vài năm lại bị tai nạn mất. Phú Quý mang cháu ngoại mới hai tuổi đầu về nuôi, đặt tên là Khổ Căn, thằng bé mới lên sáu đã phải làm việc ngoài đồng với ông ngoại đến phát ốm, rồi bị bội thực, chết vì nồi đậu luộc của ông ngoại dành phần. Một tay Phú Quý chôn bảy người thân, vậy mà ông vẫn sống và làm bạn với con trâu già. Cả trâu và người đều mang tên Phú Quý, và hàng ngày ông nói chuyện với con trâu bằng tên tất cả người thân của mình: "Nhị Hỷ, Hữu Khánh không được chây lười. Gia Trân, Phượng Hà cày tốt lắm. Khổ Căn cũng được…", với một bí mật mà ông rất tâm đắc: "Tôi sợ nó biết chỉ có mình nó kéo cày, nên đã gọi nhiều cái tên để đánh lừa nó. Nghe thấy còn có những con trâu khác cũng đang kéo cày, nó sẽ vui hơn, kéo khỏe hơn"…
Không có một tia hy vọng nào hé lên để nhân vật bám lấy mà sống. Nhưng dường như không có ai cảm thấy điều đó là cần thiết. Đời sống tự nó là thế, và người ta vui vẻ đón nhận tất cả những biến cố, dù đau đớn nhất. Không có lấy một lời than, cả nhân vật và tác giả, cuộc sống cứ trôi đi bình thản và đậm đặc trong sức chịu đựng ghê gớm của con người. Đó chính là chân lý lớn nhất của cuộc sống. Không ai có thể hủy diệt được nó, và con người, nhân vật trung điểm trong cách nhìn của nhà văn đã vượt lên, bao trùm tất cả vạn vật với một sức sống mãnh liệt và dũng cảm. Và từ đó, ta có thể thấu hiểu hết tất cả những nỗi đau tưởng chừng không chịu đựng nổi của những bà mẹ nhận tang chồng, con mười mấy lần trong cuộc đời, vẫn sống một mình sau chiến tranh để hiểu hết ý nghĩa của sự sống trong mỗi con người. Dư Hoa đã viết: " Sứ mạng của nhà văn không phải là trút xả, không phải là tố cáo hay vạch trần… Khi họ miêu tả những nhân vật suy bì, tị nạnh, chúng ta sẽ cảm thấy bản thân nhà văn cũng đang suy bì, tị nạnh. Những nhà văn như vậy là đang viết tác phẩm thực tại, chứ không phải tác phẩm hiện thực…". Đó là tất cả những lý giải về cuộc sống trong từng trang viết của Dư Hoa. Chính cuộc đời đã quất lên lưng Phú Quý những vết roi, để lột xác anh ta dần từ một con người hư hỏng, đánh vợ không nương tay dù vợ đang mang thai để trở thành một người chồng cõng vợ trên lưng mỗi chiều đi dạo khắp làng khi vợ bị liệt toàn thân. Trương Nghệ Mưu đã chuyển thể "Sống" của Dư Hoa và giữ nguyên tên cho bộ phim, nhưng ông đã không muốn thể hiện đến cùng những bi kịch dữ dội của nguyên tác. Phim đã nhẹ nhàng hơn trong con mắt của người xem khi Hữu Khánh chết vì tai nạn, khi Khổ Căn vẫn vô tư trong vòng tay của ông, bà ngoại và cha với câu chuyện đầy mơ ước về quả trứng nở gà, gà hóa ngỗng, ngỗng thành dê, dê thành bò… Nghĩa là với Trương Nghệ Mưu, chất sống phải vươn lên từng ngày trong niềm hy vọng, dù con người đã bị đọa đày đến cùng cực, đến không còn là người như chuyện ông giáo sư bị giong đi trên đường, bị bỏ đói ba ngày đến nỗi bội thực, chết vì đã ăn một lúc bảy cái bánh bao! Chất sống của Trương không dừng ở sức chịu đựng của con người, mà còn là một niềm hy vọng trước bao nghiệt ngã đau đớn nhất. "Sống" của Trương mang đầy sức chống trả và sức tố cáo cái "Cách mạng văn hóa" một thời đã nghiến nát bao cuộc sống con người… Cả hai cách thể hiện tuy không cùng trên một con đường, nhưng nó cùng ẩn chứa một suy tưởng: "Con người ta vì bản thân sự sống mà sống, chứ không phải vì bất cứ vật nào ngoài sự sống"…
N.N.N.L
CUỘC ĐỜI CÓ THỂ KHÓC?
Nguyễn Ngọc Thuần
Báo Tuổi trẻ, Thứ hai, 10-3-2003
Nếu không muốn tin thì sự sống vẫn cứ là cuộc trải nghiệm vĩ đại, và con người gần như bị buộc vào tư thế không thể chối từ, dù kèm theo đó là những tổn thương mọi mặt. Cái được gọi là nghị lực của con người thực chất chỉ là một tên gọi khác của hy vọng, hy vọng cho chính cuộc đời mình, hy vọng mọi thứ biến đổi, hy vọng vào ngày mai những gì u tối còn lại hôm nay không còn chỗ đứng.
Đó là tất cả những gì đáng nói về cuốn truyện Sống của Dư Hoa, một trong những tác phẩm đáng lưu ý của văn học Trung Quốc dù rất mỏng; và quan trọng hơn cả là cuốn sách có thể làm ta xúc động phát khóc.
Chúng ta khóc bởi vì không tin con người có thể vượt qua, có thể cố lạnh lùng với những bi kịch của chính mình để được sống, và cuối cùng sau những biến động, chúng ta lại khóc một lần nữa cho ký ức đó.
Chuyện xoay quanh gia đình họ Từ, với truyền thống phất lên nhờ nuôi gà, gà biến thành ngỗng, thành dê, thành nhà… Đến đời cha con nhân vật Phú Quý thì ngược lại, dê biến thành gà, đến gà cũng không còn chỉ vì cờ bạc. Phú Quý phải làm lại tất cả và từ đây sự vĩ đại của cuộc sống cũng bắt đầu nhen nhúm. Trải qua chiến tranh, bị bắt đi lính, để lại vợ và hai đứa con, và sống sót trở về khi mẹ mất; cuộc sống đối diện với Phú Quý lúc này là cần phải biến đổi nó tốt đẹp lên, tốt đẹp được hiểu dưới góc độ là sự tồn tại. Con người phải sống mới có thể nhìn thấy những hy vọng của mình. Cái chết không phải là một sự lựa chọn khôn ngoan.
Nhưng đời sống có những éo le của nó xuất phát từ con người, từ quyền lực nhá nhem lúc bấy giờ. Để cứu mạng vợ của chủ tịch huyện, là bạn chiến đấu của Phú Quý, những đứa trẻ đã mừng rỡ tự nguyện đi hiến máu như một chiến công, để rồi con trai Phú Quý bị rút máu cho đến chết - một đứa trẻ đáng yêu luôn luôn lột giày ra cầm ở tay mỗi khi chạy vì sợ bị hỏng. Người cha lặng lẽ chôn con như chôn một khối đen u uất. Tiếp sau đó là cái chết chậm rãi của vợ. Ngay cả đứa con gái câm may mắn lấy được người chồng tật nguyền nhưng tốt bụng cũng lại chết khi sinh con. Người con rể lại tiếp tục chết thật tàn khốc trong một tai nạn khi tìm kế mưu sinh. Niềm hy vọng cuối cùng của ông già Phú Quý được dồn vào đứa cháu ngoại, ngờ đâu đứa cháu qua những ngày đói khát đã chết vì một bữa no.
Không oán hận, không than vãn điều gì, niềm hy vọng của con người được tiếp nối gần như vô hạn; khi niềm hy vọng này mất đi người ta lại tìm kiếm cho mình một hy vọng khác, chờ đợi một kết cục khác. Khi không còn hy vọng gì vào những con người thân thuộc quanh mình, Phú Quý tiếp tục hy vọng vào con vật mình nuôi như một chút nhân ái còn lại đến cuối đời. Sự sống ở đây được hiểu như một khúc khải hoàn mãnh liệt về sức chịu đựng của con người.
Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nhật Bản…, đoạt giải thưởng văn học "Gelin Thana Kapo" của Ý, đoạt giải "Mười cuốn sách hay" của hai tờ báo Thời báo Trung Quốc (Đài Loan) và tạp chí Bác Ích (Hong Kong). Đạo diễn Trương Nghệ Mưu cũng đã dựng Sống thành bộ phim cùng tên gây xúc động cho tất cả những ai được "chứng kiến" sức sống kỳ lạ của con người…
N.N.T
LÒNG CỨ ĐAU ĐỚN MÃI
Tâm Thơ
Báo Phụ nữ Chủ nhật, Số 12, ngày 30-3-2003
Những năm 80 trở lại đây, văn học Trung Quốc khởi sắc trở lại sau nhiều năm bị "đại cách mạng văn hóa" nhấn chìm. Những nhà văn trẻ thuộc trào lưu sáng tác mới thực sự tài năng, có nhiều tác phẩm xứng với tầm vóc của một đất nước có bề dày văn hóa nhất, nhì thế giới, trong đó Dư Hoa (sinh năm 1960) là một trường hợp khá điển hình, tiêu biểu. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó cuốn Sống từng được giải văn học Gelin Thana Kapo của Ý.
Sống là câu chuyện một đời của người nông dân có tên Phú Quý, một người nông dân bình thường như bao người ở một vùng thôn quê "ăm ắp tiếng ve sầu và ánh nắng". Sinh ra trong một gia đình giàu có (địa chủ), ngày trẻ Phú Quý ăn chơi trác táng, rượu chè, cờ bạc, trai gái, phá tán của cải của gia đình. Cha của Phú Quý thì làm mất hơn một trăm mẫu ruộng của ông nội, Phú Quý tính chơi bạc để "làm rạng rỡ tổ tông", nào ngờ không gỡ được mà còn làm tiêu tan nốt một trăm mẫu ruộng còn lại và đẩy cả nhà ra khỏi căn nhà của tổ tông, khiến cha phải chết tức tưởi, chỉ còn kịp thực hiện lời trối của mình được là người cuối cùng chết trong ngôi nhà của dòng họ Từ. Sau cái chết của cha, Phú Quý tỉnh ngộ và trở thành người sống lương thiện, bình dị như hết thảy những cuộc đời nghèo khổ khác.
Bao nhiêu bão táp của cuộc đời dường như đều thổi thốc vào đời anh, có những khi tưởng như sức chịu đựng của con người là không thể. "Quả tim của một người ngừng đập khiến cho quả tim của một kẻ khác vỡ tan" - Trái tim của Phú Quý cũng vỡ tan không phải một lần mà những bảy lần, lần nào cũng bất thường, đau đớn, oan khiên như thể là nghiệp chướng hay là sự đọa đày khổ ải của kiếp người. Phú Quý trải qua và chịu đựng hết thảy, ai xem cũng phải đau xót, bởi những tai ương ấy, những hoạn nạn khổ đau ấy cũng có thể xảy ra với bất kỳ ai. Vấn đề là khi ở trong những hoàn cảnh ấy, khả năng chịu đựng của con người sẽ như thế nào. Tác giả cho biết, trong quá trình sáng tác, ông đã nhận ra con người ta vì bản thân sự sống mà sống, chứ không phải sống vì bất cứ sự vật nào ngoài sự sống. Toàn bộ tác phẩm đã minh chứng cho điều ấy. Con người cao thượng (bất cứ ai cũng có thể có phẩm chất này) sẽ không oán than cuộc sống, dù cuộc sống đối với anh có gian nan khổ sở đến đâu.
Sống - một câu chuyện thật đặc biệt, hy hữu nhưng rất hiện thực và sống động từng được đạo diễn tài ba Trương Nghệ Mưu dựng thành phim gây xôn xao dư luận một thời, nay độc giả Việt Nam được NXB Văn học giới thiệu nguyên tác văn học chắc chắn vẫn sẽ làm người xem xúc động và sự cảm thụ sẽ được đầy đủ hơn.
Với tài năng kể chuyện độc đáo, hấp dẫn nhưng hết sức giản dị, "có một không hai" của Dư Hoa, đọc Sống tôi đã phải bật khóc và trong lòng cứ đau đớn mãi; tôi tin bạn cũng sẽ không tránh khỏi. Nhưng khóc không phải để yếu mềm mà để bản lĩnh hơn, thấy yêu và quý trọng cuộc sống hơn.
14/2/2006
Triệu Xuân
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Trần Nhân Tông: Hoàng đế, Thiền sư và thi sĩ Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308): người anh hùng đã lãnh đạo toàn dân hai lần kháng ...