Nguyễn Trãi (1380-1442) Tâm sự Nguyễn Trãi
khi
đất nước bị giặc Minh
chiếm đóng, (trước khi gập Lê Lợi)
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, nguyên quán làng Nhị Khê,
tỉnh Hà Đông. Cha là Nguyễn Ứng Long, sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh. Mẹ là
Trần thị Thái, công chúa nhà Trần, con quan tư đồ, hoàng thân Trần Nguyên Đán.
Nguyễn Phi Khanh học rất giỏi, trước làm gia sư dậy con gái quan tư đồ, sau đỗ
bảng nhãn, nhưng bị triều đình nhà Trần kết tội là thầy lấy học trò, không cho
làm quan, phải về quê dạy học.
Nguyễn Trãi sinh ra
tại Thăng Long, sống với mẹ nơi dinh ông ngoại. Vào năm 1385, khi vua nhà Trần
quá tin Hồ Quý Ly, để họ Hồ chuyên quyền, Trần Nguyên Đán can ngăn không được,
xin cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, huyện Chí Linh, Hải Dương. Mẹ con Nguyễn Trãi
về theo. Sau khi mẹ mất 1390, rồi ông ngoại mất, 1395, Nguyễn Trãi về Nhị Khê
học với cha.Năm 1400, Hồ Quý Ly lật đổ nhà
Trần, lập nhà Hồ. Nguyễn Phi Khanh ra làm quan. Nguyễn Trãi 21 tuổi, thi đỗ
thái học sinh (tiến sĩ, khóa thi đầu của nhà Hồ), giữ chức Ngự sử đài Chánh chưởng.
Năm 1407 giặc Minh mượn cớ giúp nhà Trần, mang quân sang đánh chiếm Việt Nam.
Quân nhà Hồ chống cự không nổi, bị tiêu diệt. Giặc Minh liền chia nước ta thành
quận huyện của Tầu với những tên gọi mới. Trong thời gian này, nước Đại Việt bị
vùi dập, dân chúng bị chèn ép rất hà khắc. Tai hại nhất là chúng thu góp sách vở
văn chương Việt mang hết về Kim Lăng, thay thế bằng những tài liệu của nhà
Minh. Văn học chữ Nôm bị đốt sạch, xoá đi hết văn hoá riêng của dân Việt. Chúng
bắt Hồ Quý Ly và một số quan chức mang về Tầu, trong số đó có Nguyễn Phi Khanh.
Nguyễn Trãi định theo hầu cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con ở lại tìm đường
cứu nước vì "Trãi con ơi, tận trung là tận hiếu... Về ngay đi rồi chí toại
công thành" (thơ Hoàng Cầm). Giặc Minh bắt được Nguyễn Trãi, Vương Thông dụ
hàng không được, định mang ra chém. Nhưng Hoàng Phúc xin chỉ giam lỏng ở Đông
Quan (Thăng Long, do Tầu đổi tên). Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu vài
bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Trãi trong lúc nước nhà bị giặc Minh chiếm đóng và
ông chưa gập được Lê Lợi. Thời kỳ này chia làm hai phần: Nguyễn Trãi bị quản
thúc ở Đông Quan, và Nguyễn Trãi trốn thoát khỏi Đông Quan đi tìm minh chúa:I) Nguyễn Trãi ở Đông Quan
Những ngày buồn khổ, có ba bài
thơ tiêu biểu:
1) Ký cữu
Dị Trai Trần Công
寄 舅 易 齋 陳 公
兵 餘 親 戚 半 離 零
萬 死 殘 軀 偶 一 生
往 事 空 成 槐 國 夢
別 憐 誰 寫 渭 陽 情
不 來 自 擬 同 王 式
避 亂 終 當 學 管 寧
欲 問 相 思 愁 別 處
孤 齋 風 雨 夜 三 更
Phiên âm:
Binh dư thân thích bán ly linh,
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh
Vãng sự không thành Hòe quốc mộng
Biệt liên thùy tả Vị Dương tình
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ
Cô trai phong vũ dạ tam canh.
Thơ dịch:
Thư gửi cậu Dị Trai
Trần Công
Gia đình thời loạn
nửa chia phôi
Tưởng chết may sao sống sót đời
Việc cũ Nam Kha ôi giấc mộng
Nhớ thương cậu cháu chẳng nên lời
Theo người tỵ nạn, không hàng phục
Chẳng thể về thăm, gửi chữ thôi
Cậu hỏi nỗi buồn ly biệt xứ?
Phòng trai, mưa gió, suốt đêm côi
Bình chú:
Thi nhân gửi thư cho cậu Trần Công Dị
Trai, em họ của mẹ, còn ở quê hương.
Ông chia sẻ cùng cậu nỗi đau cả đại gia
đình điêu linh tan tác.
Ta thấy những sự kiện lịch sử hiện lên
trong những câu thơ:
Câu 2: Tưởng chết vạn lần, sống sót thật
do may mắn.
Câu 3: Cuộc đời trước (khi nước nhà còn
độc lập) thật đúng như giấc mộng Nam Kha. (Nay tỉnh dậy rồi, ta mất nước rồi).
Câu 4: Xa nhau thương nhớ, ai tả được
cái tình cậu cháu.
Theo Kinh Thi, Vị Dương là chỗ Tấn
Khương Công tiễn người cậu là Tấn Trùng Nhĩ. Cho nên Vị Dương biểu hiệu tình
cậu cháu.
Câu 5: Nguyễn Trãi bị bắt, bị giam lỏng
tại Đông Quan nhưng không chịu hợp tác với quân Minh. Theo tích Quản Ninh: Kẻ
sĩ thời Tam Quốc, tránh loạn 37 năm ở Liêu Đông, được Văn Đế rồi Minh Đế cho
mời ra làm quan đều từ chối.
Câu 6: Nguyễn Trãi không về thăm cậu
được nên viết thư thay, giống như Vương Thức.
Vương Thức dạy Xương Ấp vương, sau bị
phế vì vô độ. Khi người hỏi: "Sao không can gián" Vương Thức trả lời:
"Đã nói qua sách vở rồi".
Tất cả những đau đớn đó không có gì sâu
xa chua xót bằng nỗi đau "biệt xứ" thật ra là "mất nước"
(Nguyễn Trãi đang ở ngay Đông Quan, chính là Thăng Long, mà nói rằng mình bị
"biệt xứ") đang dầy vò tâm hồn Nguyễn Trãi như câu thơ cuối:
Nằm một mình trong phòng trai vắng vẻ,
trong khi mưa gió vần vũ suốt đêm dài.
2) Thanh Minh
Tiết Thanh Minh thời xưa vào tháng 3 âm
lịch, mọi gia đình đều đi thăm mộ tổ tiên, anh em họ hàng hàn huyên sum họp...
Đó là tập quán sâu nặng của Á đông, nên nhiều tác giả lớn như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du đều có thơ tâm sự vào tiết Thanh Minh. Nỗi buồn cô đơn, xa nhà trong
tiết Thanh Minh có khi còn nặng hơn là trong ngày Tết Nguyên Đán nữa.
清 明
一 從 淪 洛 他 鄉 去,
屈 指 清 明 幾 度 過。
千 里 墳 塋 違 拜 掃,
十 年 親 舊 盡 消 磨。
乍 晴 天 氣 模 稜 雨,
過 半 春 光 廝 句 花。
聊 把 一 杯 還 自 彊,
莫 教 日 日 苦 思 家。
Phiên âm:
Nhất tùng luân lạc
tha hương khứ
Khuất chỉ Thanh Minh kỷ độ qua
Thiên lý phần doanh vi bái tảo
Thập niên thân cựu tận tiêu ma
Sạ tình thiên khí mộ lăng vũ
Quá bán xuân quang tê cú hoa
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia
Thơ dịch:
Thanh Minh
Từ buổi lìa quê lưu
lạc xa
Bấm tay đếm những Thanh Minh qua
Tổ tiên ngàn dậm mồ không viếng
Thân thích mười năm chết hết nhà
Trời nắng chợt mưa xoay gió chuyển
Xuân qua quá nửa, nhạt phai hoa,
Sầu ơi, cố uống trôi ly rượu
Để bớt ngày ngày khổ nhớ nhà.
Bình chú:
Vào tiết Thanh Minh, thi nhân rất buồn
khổ vì xa quê, không được tảo mộ tổ tiên dòng họ. Một mình trơ trọi, gia đình
tan nát, bao người thân đã chết hay bị đi đày xa xôi cách trở.
Câu thứ 2 có hình ảnh "bấm tay"
đếm số năm qua đi "một hai ba...", diễn tả khoảng thời
gian quá dài ông đang phải sống giam lỏng trong lòng giặc. Đó là một hình ảnh
thật, rất quen thuộc của thời xưa cũ với những năm tháng tên là tý, sửu, dần,
mão... con người không có con số trước mắt, nên thường đếm trên đầu ngón tay.
Nó gợi lại biết bao vang bóng thời xưa... Ngày nay còn rất ít người đếm như
thế.
Đó cũng là một nét đặc biệt riêng của
thơ Nguyễn Trãi. Trong thơ ông thường viết ra những cử chỉ, hành động, cảm xúc
của mình như: ủ tay, ngâm khẽ, ngồi giường thiền thấy lạnh, cúi đầu nhìn đất,
tựa ghế nhìn trời, chống gậy, dắt tay, ngồi ôm chăn không ngủ, gối đầu trên
đá...tia sáng xuân chạm mắt..., cho nên người đọc có cảm giác gần gụi, hiểu ông
hơn những tác giả sáu trăm năm cũ khác.
Câu 8, với 5 chữ "nhật nhật khổ tư
gia" = "Ngày ngày khổ nhớ nhà", hai chữ "ngày ngày",
có dụng ý nối kết ý nội tại với từng năm đếm trên ngón tay ở câu 2: Khi quá đau
khổ, ta nhìn năm tháng qua đi vùn vụt: vừa 1 năm, kìa đã 2 năm, đã 10 năm rồi... nhưng cùng lúc, ta sống với đau khổ trong lòng từng ngày, từng ngày dài lê
thê...
Cho nên thi nhân phải cố gượng (tự
cưỡng) uống trôi chén rượu, để quên nỗi buồn nhớ thương nhà (theo bài thơ viết
ra), nhưng chưa hẳn thế.
3) Thính Vũ *
聽 雨
寂 寞 幽 齋 裏 終 宵 聽 雨 聲
蕭 騷 驚 客 枕
點 滴 數 殘 更
隔 竹 敲 窗 密
和 鐘 入 夢 清
吟 餘 渾 不 寐
斷 續 到 天 明
Phiên âm:
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm tích sổ tàn canh
Cách trúc sao song mật
Hòa chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh
Thơ dịch:
Nghe Mưa
Phòng trai tịch mịch tối
Suốt đêm nghe mưa rơi
Khẽ lay động gối khách
Tí tách điểm canh dài
Cách trúc gõ cửa mật
Cùng chuông ngân mộng ai
Ngâm thơ rồi chẳng ngủ
Chập chờn tới sáng mai
Bình chú:
Từ xa tới gần,
từ ngoài vào trong tâm tư tác giả đang nghe mưa.
Bài thơ đã tiến
tới sự kín đáo tinh vi sâu thẳm của ý thức, vô thức... của một vị trí thức cao
tuyệt của Đại Việt cổ đại. Ta hãy lắng nghe... hãy lắng nghe:
Thoạt đầu tiếng
mưa nhẹ nhàng thanh tao khẽ lay động gối thi nhân, như nhủ như gọi.
Từng giọt nước
thánh thót đều đều điểm canh, canh tàn, canh mới... đi sâu dần vào đêm.
Tới câu 5, bất
ngờ tiếng mưa đi sâu nữa, sâu nữa... tới chữ "mật" kỳ đặc, gõ vào nơi
những niềm u uẩn hãy còn giữ kín chưa hề ngỏ. Câu thơ của Nguyễn Trãi thật đẹp:
Cách trúc
sao song mật ( 密 = mật = giữ kín, đông đúc, dày đặc)
Cách trúc
gõ cửa mật
Cửa sổ,
"song mật" của Nguyễn Trãi, không phải cửa thường, nơi đó chính là
cõi lòng thi nhân, là tâm hồn thi nhân.
Nhưng tại sao
muốn gõ vào được chiếc cửa đóng nghiêm mật đó, chạm được tới những niềm u uẩn
giữ kín trong đáy lòng người viết đó, giọt mưa phải "qua trúc"? Bởi
vì mưa chỉ là vật chất, làm sao động được tới, gõ được đến "cửa mật"
là tinh thần! Cho nên mưa phải nhờ "trúc" ở giữa làm giao môi. Trúc ở
đây không mang tính cách trang trí cho câu thơ, mà xây dựng cho sự hoàn mỹ của
ý tưởng.
Câu 6 tiếp theo:
Hòa chung nhập mộng thanh - Cùng chuông ngân mộng ai
Cũng vậy muốn
vào được, xâm nhập được giấc mộng thi nhân, tới tận miền vô thức, giọt mưa phải
hòa vào tiếng chuông, cùng chuông mang âm thanh nhập vào vô thức mộng.
Thế là từ những
tiếng mưa rơi phơn phớt bên ngoài gối, làm quen với người, thi nhân đã để hạt
mưa rì rầm đi sâu dần vào tâm tình sâu kín của mình, ông mở tung cõi lòng cho
mưa ngao du tới cả giấc mộng ngoài ý thức trong bốn câu thơ tả tiếng mưa.
Hình như nói ra
được niềm u uẩn khó nói xong, người thơ cảm thấy nhẹ lòng, trở dậy ngâm thơ
không ngủ.
Thế là từ nghe
mưa, Nguyễn Trãi chuyển sang ngâm thơ trong tiếng mưa, hòa mình vào tiếng mưa,
không còn phân biệt chủ thể hay khách thể, là người nghe mưa hay giọt mưa rơi
nữa.
Cho nên câu cuối
thi nhân không xác định chủ ngữ: Hai chữ đứt nối (đoạn tục) vừa cho người chập
chờn thức ngủ, vừa cho hạt mưa rơi rơi tạnh tạnh... suốt đêm.
Thời gian ở
Đông Quan này là thời kỳ rất đau buồn của Nguyễn Trãi, khi nước mất nhà tan, cha,
em đang sống đày ải trên đất giặc, riêng ông bị giam lỏng giữa quân thù.
Nhìn quê
hương đang bị đô hộ dưới "gót giầy của những kẻ xâm lăng", nhưng nhà
thơ không được nói ra nỗi đau của mình. Giữa quân thù, ông phải chôn dấu tâm
sự, dấu cái đau mất nước đi, vì phải nhớ: "Không bao giờ được chết",
phải giữ thân còn, để phục thù.
Trong bài
Thanh Minh, có thể nào Nguyễn Trãi cố uống trôi chén rượu Thanh Minh chỉ để
quên nỗi nhớ nhà? Trong lúc hận nước đang sâu nặng hơn bao giờ, đang bàng bạc
trong từng lời thơ, đau nhức trong từng sự việc không được đi tảo mộ tổ tiên,
và cả gia đình thân thiết đều chết sạch? Không, chắc chắn thi nhân đang dấu kín
tâm sự thật của mình dưới "nỗi nhớ nhà"
Trong bài thơ
Thính Vũ, thi nhân đã cất dấu tất cả trong "song mật" kín đáo vô
song. Bài thơ này có thể nói, tinh tế, sâu thẳm và buồn da diết nhất của ông.
Thế rồi
Nguyễn Trãi tìm được cách trốn khỏi Đông Quan, chúng ta không có tài liệu nào
về việc này, nhưng mừng thay, ông đã thoát cũi sổ lồng:
II) Thoát khỏi Đông QuanTrong phòng tối, quạnh quẽ,
Nguyễn Trãi nằm nghe tiếng mưa đêm. Đây là một bài thơ "Nghe mưa", nên
sau hai câu mở đề, mỗi câu thơ đều tả tiếng mưa rơi
1) Ký cữu Dị Trai Trần Công
寄 舅 易 齋 陳 公
兵 餘 親 戚 半 離 零
萬 死 殘 軀 偶 一 生
往 事 空 成 槐 國 夢
別 憐 誰 寫 渭 陽 情
不 來 自 擬 同 王 式
避 亂 終 當 學 管 寧
欲 問 相 思 愁 別 處
孤 齋 風 雨 夜 三 更
Phiên âm:
Binh dư thân thích bán ly linh,
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh
Vãng sự không thành Hòe quốc mộng
Biệt liên thùy tả Vị Dương tình
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ
Cô trai phong vũ dạ tam canh.
Thơ dịch:
Thư gửi cậu Dị Trai
Trần Công
Gia đình thời loạn
nửa chia phôi
Tưởng chết may sao sống sót đời
Việc cũ Nam Kha ôi giấc mộng
Nhớ thương cậu cháu chẳng nên lời
Theo người tỵ nạn, không hàng phục
Chẳng thể về thăm, gửi chữ thôi
Cậu hỏi nỗi buồn ly biệt xứ?
Phòng trai, mưa gió, suốt đêm côi
清 明
一 從 淪 洛 他 鄉 去,
屈 指 清 明 幾 度 過。
千 里 墳 塋 違 拜 掃,
十 年 親 舊 盡 消 磨。
乍 晴 天 氣 模 稜 雨,
過 半 春 光 廝 句 花。
聊 把 一 杯 還 自 彊,
莫 教 日 日 苦 思 家。
Phiên âm:
Nhất tùng luân lạc
tha hương khứ
Khuất chỉ Thanh Minh kỷ độ qua
Thiên lý phần doanh vi bái tảo
Thập niên thân cựu tận tiêu ma
Sạ tình thiên khí mộ lăng vũ
Quá bán xuân quang tê cú hoa
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia
Thơ dịch:
Thanh Minh
Từ buổi lìa quê lưu
lạc xa
Bấm tay đếm những Thanh Minh qua
Tổ tiên ngàn dậm mồ không viếng
Thân thích mười năm chết hết nhà
Trời nắng chợt mưa xoay gió chuyển
Xuân qua quá nửa, nhạt phai hoa,
Sầu ơi, cố uống trôi ly rượu
Để bớt ngày ngày khổ nhớ nhà.
聽 雨
寂 寞 幽 齋 裏 終 宵 聽 雨 聲
蕭 騷 驚 客 枕
點 滴 數 殘 更
隔 竹 敲 窗 密
和 鐘 入 夢 清
吟 餘 渾 不 寐
斷 續 到 天 明
Phiên âm:
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm tích sổ tàn canh
Cách trúc sao song mật
Hòa chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh
Thơ dịch:
Nghe Mưa
Phòng trai tịch mịch tối
Suốt đêm nghe mưa rơi
Khẽ lay động gối khách
Tí tách điểm canh dài
Cách trúc gõ cửa mật
Cùng chuông ngân mộng ai
Ngâm thơ rồi chẳng ngủ
Chập chờn tới sáng mai
亂 後 到 崑 山 感 作 一 別 家 山 恰 十 年 歸 來 松
菊 半 翛 然 |
Phiên âm: Nhất biệt gia sơn
kháp thập niên, |
Thơ dịch: Trở về Côn Sơn sau
loạn cảm tác Mười năm xa nước non
nhà |
神 符 海 口 故 國 歸 心 落 雁 邊, |
Phiên âm: Cố quốc quy tâm lạc
nhạn biên |
Thơ dịch: Cửa biển Thần Phù Lòng quê theo cánh
nhạn chân trời |
龍 袋 岩 去年虎穴我曾窺 ....龍袋今觀石窟奇 |
Phiên âm: Khứ niên hổ huyệt
ngã tằng khuy, |
Thơ dịch: Núi Long Đại Năm xưa hổ huyệt
trộm tìm coi |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét