Khi phong trào Thơ Mới (1) do các nhà thơ trẻ khởi xướng,
trong khung cảnh phôi thai hồi những năm ba mươi đầu thế kỷ 20 - đã vấp phải
sức kháng cự mãnh liệt của phái Thơ Cũ - gồm những cây bút cựu trào có uy tín
trên văn đàn Việt Nam... Nhưng, sự ra đời của Thơ Mới phù hợp quy luật tất yếu lịch
sử phát triển của xã hội Việt Nam đương đại. Thơ Mới đã nhanh chóng được thế
hệ trẻ và người đương thời đón nhận nồng nhiệt. Ngoài ’’Nguyên soái Tao Đàn’’
- Thế Lữ và những ‘’Công thần, Nguyên Lão’’ của ‘‘Thi Đàn - Thơ Mới‘‘, Nữ sĩ Anh Thơ (2) - Cô gái trẻ, tuổi 18 - nặng lòng với thi ca Việt Nam thời đó -
bất chấp sự ngăn cấm của gia đình, hưởng ứng nhiệt thành. Vương Kiều Nữ của
thì đàn Việt nam say mê thơ đến độ giấu giếm, trốn Cha làm thơ - điều mà các
Kiều nữ danh gia vọng tộc thời xưa bị gia đình ngăn cấm.
Cũng vì sự say mê làm thơ, Vương Kiều Ân bỏ học... khi mẹ mất,
nàng Vương mới 14 tuổi. Một năm sau nhân một lần đi tảo mộ mẹ... ngay ở nghĩa
trang, trên cánh đồng huyện Tiền Hải - (nơi cha đang làm quan) - nàng thơ của
thi đàn Việt nam đã bộc lộ thiên phú bằng bài thơ nhớ mẹ. Người đọc nhận ra
tài năng của người con gái mà 5 năm sau, ’’cô’’ Vương Kiều Ân cùng bút danh
Anh Thơ trở thành ’’Người thư kí thời đại đã lưu giữ được hồn quê Việt Nam’’
trong thơ của mình. Người đọc đương thời sớm nhận ra một tài năng đang ẩn
mình nơi thôn dã qua những đoạn thơ nồng nàn tình yêu thương đồng quê:... Buổi chiều thu gió yên mây tạnh Em vẩn vơ ngắm cảnh đồng không Chân Trời phớt nhuộm mầu hồng Lúa xanh lá biếc như lồng bóng mây Bức tranh chiều khen thay tạo hóa Lúa xanh xanh sáng tỏ đôi mầu Mảng vui cảnh đẹp quên sầu Chim hôm thoắt đã trên đầu kêu sương Đìu hiu nhẹ gió vương sương tóc Cảnh thắm tươi mờ xóa phôi pha Ngậm ngùi em trở lại nhà Thơ lên điệu thảm, đàn ra giọng sầu Đây là những vần thơ của cô gái 15 tuổi, mất mẹ, đi viếng mộ
mẹ ở tha ma, nằm trên cánh đồng Huyện Tiền Hải, tỉnh Thái bình vào một buổi
chiều thu năm 1934. 5 năm sau, người con gái đó đã lừng lững trên thi đàn Việt
nam bằng tập thơ Bức Tranh Quê khiến thi đàn Việt Nam ngỡ ngàng, xửng
sốt… Nhà phê bình cự phách Hoài thanh đã viết trong Thi
Nhân Việt Nam về Anh Thơ như sau: ’’Anh Thơ từ lâu chỉ chuyên lối tả cảnh
mà lại tả những cảnh rất tầm thường; Một phiên chợ, một đứa bé quét sân, một
mụ đàn bà ngồi bắt chấy… có kẻ sẽ cho Anh Thơ là người vô tình. Nhưng có thiếu
nữ nào 20 tuổi lại vô tình?... Hẳn người đã tập luyện nhiều lắm mới có thể đi
đến cái thản nhiên, cái dửng dưng mà độc giả Bức Tranh Quê ắt phải lấy làm la…’’. Khi Thơ mới chiếm lĩnh vũ đài, Anh Thơ hăng hái, cổ vũ nhiệt
thành. Bà không viết luận chiến hay phát biểu ồn ào, mà bằng ngay những
sáng tác tuyệt vời của mình bỏ phiếu cho Thơ Mới. Tập thơ Bức Tranh Quê ra đời
được tổ chức văn bút có uy tín thời đó - Tự Lực Văn Đoàn - tặng giải khuyến
khích. Bức Tranh Quê chỉ có 48 bài, mỗi bài - phần lớn 3 khổ - viết
theo thể thơ thất ngôn và thơ tự do - tám chữ. (Vì nằm ngoài nguyên tắc của
những thể thơ truyền thống nên thơ 8 chữ được thời đó cho là thơ Mới). Cả tập
thơ là một bản trường ca về thôn quê Việt Nam trong 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu,
Ðông. Mở đầu là bài Chiều Xuân - được Hoài Thanh tuyển vào Thi
Nhân Việt Nam năm 1941. Bằng 4 câu miêu tả, hiên ra khung cảnh buổi chiều
mùa Xuân trên một bến đò ở thôn quê vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, miền Bắc
Việt Nam - năm xưa: Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng. Ðò biếng lười nằm mặc nước sông trôi Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời. Ở miền Bắc, mùa xuân ẩm ướt, thường có mưa bụi dân gian gọi
là Mưa xuân. Khí trời ấm lại sau hơn 3 tháng mùa Ðông hanh khô, rét ngọt. Mưa
nhe khiến cây cỏ, hoa lá, đồng lúa tươi xanh mơn mởn. Bến đò này nằm trên bờ con sông không quá lớn nối từ 2 sông
Cái (sông mẹ) vào. Mưa xuân kéo dài triền miên nhiều ngày khiến đường lầy lội,
người đi lại thưa vắng. Con đò được neo giữ, như kẻ ’’biếng lười’’ nằm mặc nước
sông trôi khiến thân đung đưa, vật vã mà chẳng thèm cưỡng lại. Mưa xuân, Trên
đường không có người đi lại. Mấy quán hàng mái tranh, trên bến đò - đứng im
lìm đón khách. Trên bờ sông có con đê nhỏ. Dưới chân đê lưa thưa vài mái tranh nghèo nép bên dưới rặng
xoan. Trên cành xoan, đây đó buộc những chiếc tổ sáo do các cậu bé lây phên rổ
(rổ bị hỏng, rách) - quân lại, dụ sáo vào đẻ, bắt sáo non về nuôi, dậy sáo
nói. Hoa xoan nở... những chùm hoa Xoan tím thơm hắc... ’’rụng tơi bời’’ xung
quanh gốc, vương vải khắn nơi khiến cả một vùng hương thơm ngào ngạt. Từ bến đò, hướng nhìn lên trên mặt đê, về phía xa xa: Ngoài bờ đê cỏ non tràn cỏ biếc Ðàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa. Trên bề mặt đê, hai bên lối đi, ''cỏ non tràn cỏ biếc''. Cỏ non mới nở. Cỏ biếc đã nở được nhiều ngày. Trong vạt cỏ,
côn trùng các loại cùng nhau sinh sống. Những con Sáo có đôi mắt tinh tường,
có thói quen nhận biết từ cuộc sống của mình nên tìm đến bãi cỏ kiếm mồi về
nuôi đàn con đang há mỏ đứng trong miệng những cái tổ - đặt trên
các cây xoan gần đó - thò cổ, réo gọi bố mẹ. Nhìn lũ sáo mổ chỗ này, chỗ kia…
tưởng chúng mổ ''vu vơ'' nhưng thực ra chúng mổ rất trúng con mồi, mắt thường
của con người không nhìn thấy. Thỉnh thoảng cơn gió đông ào tới, những con bướm đang bay
bi gió thổi, không chịu được sức đẩy, chúng phải gượng chống... Khi làn gió
tan, cánh bướm lại trở về vị trí cũ. Trông cứ như cánh bướm đang nắm trên mặt
nước bị sóng xô khiên hình ảnh trở nên ''rập rờn''. Lát sau làn gió cũ tan,
gió mới tới, những con bướm đã di chuyển tới vị trí khác và cảnh cũ lặp lại. Sau vụ cấy, những con trâu kéo cầy kéo bừa mất sức, gầy đi.
Giờ đã cấy xong, thư rỗi, người chủ có thời gian rảnh chăm bẵm cho trâu lấy lại
sức chuẩn bị cho vụ tới. Chúng được dắt ra bờ đê cho ăn cỏ tươi. Ðối với
trâu, bò, cỏ non tươi của mùa xuân chính là bữa tiệc. Trời cư mưa, trâu cừ
lăng lẽ liếm vạt cỏ trên đường. Chiếc lưỡi và hai hàm của nó lia
liếm, cắt, nhai cỏ, phát ra tiếng sột soạt. Ðứng từ xa nhìn hạt mưa loang
loáng rơi bao trùm cậu bé ngồi trên lưng Trâu, trùm kín trong chiến nón và áo
tơi lá xòa che cả lưng trâu (3) - cứ tưởng trâu đang ''ăn mưa''. Ðưa mắt nhìn xuống chân đê: Ðồng lúa xanh tươi. Gio đông
thổi lúc nhẹ lúc mạnh. Ðây đó, thỉnh thoảng thấy bóng người mặc áo
tơi nón lá, cặm cụi làm việc trên cánh đồng: Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng Lũ cò con, chốc chốc vụt bay ra Làm giật mình một cô nàng yếm thắm Cúi cuốc cào, cỏ ruộng sắp ra hoa. Lúa non. Lá cây được mưa xuân tưới đẵm như kích thích sinh
trưởng. Mới tháng đầu của mùa xuân, lúa đang chớm Thì con gái.
Gió nhẹ, đồng lúa như tấm thảm lụa Xanh, được gió đông thổi khiến thảm lúa
xanh rờn như làn sóng lúa. Ðể giúp lúa có đà lớn ra hoa kết hạt đúng thời vụ, nông dân
phải làm cỏ ở dưới gốc. Nếu để cỏ phát triển sẽ hút hết chất mầu của đất làm
lúa chậm lớn, ảnh hưởng tới sự phát triển của cây. Công việc này đòi hỏi sự
nương nhẹ, khéo tay, bền bỉ - vì cây lúa rất mảnh dẻ nếu đụng mạnh vào gốc, đứt
rễ, cây bị thương tích chột đi, ảnh hưởng tới làm đòng - tạo ra hạt lúa mẩy
sau này. Công việc làm cỏ dưới gốc lúa đang phát triển - đòi hỏi đức tính
kiên trì, tỉ mẩn, cần bàn tay khéo léo, nhe nhàng… cho nên việc cào cỏ chỉ
giành cho các mẹ, các chị. Cũng trong khung cảnh, thời gian lúa đang con
gái, lũ chim cò, chim cút thường lẩn dưới gốc lúa tìm mồi. Khi
''cô nàng yếm thắm'' đưa chiếc cào cỏ tới gần..., lũ chim sợ, vụt bay lên.
Cánh chim quạt gio đập phải lá lúa kêu đánh ''soạt'': Người và chim đều giật
mình!. Với 3 khổ thơ, 12 dòng, 96 chữ, Nữ sĩ Anh Thơ đã miêu tả -
vẽ Bức Tranh Quê Việt Nam như bức tranh Thủy mạc diệu kỳ. Người đọc Việt Nam ở
bất cứ đâu, của bất cứ thời đại nào - cũng đầy cảm xúc vê Mùa Xuân Quê Hương!.
Chú thích: (1) Thơ cũ thường quy tụ ở các thể: 7chữ, 8 câu (Thất
ngôn, Bát cú - Đường Luật). Sáu Tám (Lục bát). 5 chữ (Ngũ ngôn), 7 chữ (Thất
ngôn) hoặc hai câu 7 chữ, tiếp theo 1 câu sáu, 1 câu tám (Song thất
lục bát). Thơ cổ còn dùng một thể khác chỉ có 6 chữ (thơ Vua
Lê Thánh Tông) - Hiện nay các nhà thơ ít dùng thể loại này. (2) Bà tên thật là Vương Kiều Ân, bút danh Anh Thơ. Bà vừa
mất năm 2006 thọ 86 tuổi. (3) Loại áo tơi này làm bằng lá gồi lợp nhà. Hình lăng trụ.
Choàng vào y hệt chiếc váy đầm của phụ nữ. Loại áo tơi này chống
nóng, nắng, mưa, rét - rất hữu hiệu, tuy cống kềnh
và nặng. 29/6/2007 Lê Xuân Quang Theo https://www.vanchuongviet.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét