Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2021

Khoảng trống sau lưng

 Khoảng trống sau lưng - Võ Hồng 

Tuyết nói:
– Ngày mai anh cứ đi làm như thường. Ðừng xin nghỉ. Em không muốn anh đi tiễn em đâu. Em ghét nước mắt lắm bởi vì tính em mau nước mắt. Người ta vẫn thường ghét những cái người ta có. Những người béo rất ghét mỡ, ghét cái bàn cân ở hiệu thuốc tây. Những người gầy không muốn nhìn hình vẽ bộ xương và tỏ nhiều thiện cảm với những cuốn phim có Hardy. Không hẳn là em thích xách va li đi một mình bơ vơ như một ả giang hồ. Người đàn bà đứng đắn bao giờ cũng có người đàn ông đi cạnh khi trên tay họ có hành lý…
Tuyết chợt ngồi bật ngửa chiếc ghế ra đằng sau, cầm lấy điếu thuốc lá của tôi gác ở mép dĩa, đặt lên môi. Nàng kéo một hơi thuốc dài rồi vẫn để điếu thuốc gắn lên môi, nàng nheo mắt tránh khói vừa gật gật đầu, mỉm cười:
– Cố nhiên là cuộc hành trình trong trường hợp này thì rất dài, là cả cuộc đời, là con đường calvaire của Ðức Chúa Jésus. Em cũng đi lao đao như vậy, càng lao đao hơn nữa là bởi em đi mà không có mục đích. Cuộc đời là gì? Là những số nhà, những tên đường thay đổi liên tiếp, những chiếc ô tô hàng sơn màu xanh màu vàng, những chiếc DC3, DC6 có gắn ra đa. Anh, anh là một đàn ông tồi, nhút nhát, ích kỷ, nhút nhát bởi vì ích kỷ. Anh rót cho em thêm nửa ly nữa… Calvert uống lâu thấy ngọt. Cái gì rồi cũng quen đi hết. Chất đắng của cà phê. Chất đắng của thuốc lá. Chất đắng của tình yêu. À anh biết không…
Nàng ngừng nói, nốc một ngụm Calvert. Mặt nàng nhăn lại. Rượu chảy tràn ra hai bên mép, nàng quay mặt chùi lên vai áo.
– Anh biết không?… Thói quen thật là dễ sợ. Anh có thể tưởng tượng người ta mổ bụng moi gan người đồng loại – người sống hẳn hoi, – rồi móc lấy mật mà nuốt với rượu được không? Người nào đã nuốt chán rồi thì moi mật phơi khô để dành tặng bà con hoặc để bán. Năm trăm đồng một cái mật. Nuốt được mật thì người khỏe mạnh, trừ ho hen, con mắt sáng lên. Thật là tàn bạo. Tàn bạo… Sao anh không nói? Em chưa say đâu. Em sẽ thức trọn đêm nay. Ðể cho chai rượu làm bạn với em nhé? Ngày mai nó sẽ cạn hết cạn hết những giọt êm đềm, ấm áp, say sưa của một giai đoạn. Bước lên xe “ca” tức là em qua giai đoạn khác.
Tôi vẫn im lặng nhìn Tuyết không trả lời. Chắc chắn là giọng nói của tôi sẽ làm sai lạc âm thanh của bản độc tấu chán chường của nàng. Ít khi tôi được nghe một giọng đàn bà trầm trầm như vậy. Phải có chất rượu làm rè đi, chất chán chường làm nhòa đi và trong cái âm thanh nứt rạn đó, tôi cảm nghe rung lên sự khắc khoải, sự hấp hối. Chưa có khi nào tôi tưởng tượng được rằng Tuyết có thể ngồi cố nốc từng ly rượu như vậy trước mặt tôi như một tên lính ngoại quốc ngồi nhớ quê hương, nhớ những vườn ô liu, những lối đi có trồng cây táo, những rừng cây dẻ cây sồi cất tiếng ca khi gió len thổi giữa cành. Nàng sẽ sống như thế nào, ngày mai, với tâm trạng chán chường hôm nay? Thật là trong khoảnh khắc Tuyết đã thay đổi tất cả.
Lần tôi giã từ nàng trước đây hai năm, tóc nàng còn uốn từng lọn dài. Bây giờ mái tóc đó cắt ngắn, tỉa lòi xòi kiểu Jean Seberg. Ngày đó nàng mặc áo dài thướt tha, choàng khăn, mang găng trắng và giữ khoảng cách với tôi khi tôi đưa tiễn nàng ra phi cảng. Nàng ngồi trước mặt tôi ở phòng đợi và khi móc gói thuốc lá, tôi phải xã giao xin phép nàng được hút và mong rằng khói thuốc không làm phiền nàng. Bây giờ thì tôi không phải xin phép tắc gì nữa hết. Tôi rút ra một điếu thuốc đặt lên môi nàng trước, bật lửa rồi mới châm điếu thuốc của tôi sau. Nàng không kịp từ chối, không buồn từ chối. Có khi nàng dụi tắt điếu thuốc mới bắt đầu rồi liền đó lấy điếu thuốc hút dở của tôi đặt lên môi. Cái khoảng cách ngày xưa không còn nữa. Thỉnh thoảng nàng ôm chầm lấy tôi, lùa những ngón tay lên mái tóc tôi hoặc ngả đầu lên vai tôi.
Mỗi lần như vậy, tiếng nàng khắc khoải đứt quãng:
– Em sợ lắm! Em sợ lắm! Em không muốn trái đất xoay nữa, không muốn ngày mai sẽ đến để thay thế ngày hôm nay. Em ghét lắm, ghét cái đồng hồ trên cổ tay anh, trên cổ tay em. Em là tên nô lệ bị cột chân vào xiềng, nô lệ của thời gian, của cuộc đời buồn nản. Thà là một ngày dài bất tận hay một đêm dài vô cùng. Như vậy ít nhất em cũng được an ủi là ngoại cảnh cũng chết đứng một chỗ như em. Ðằng này trái đất cần mẫn quá, chí thú quá, trịnh trọng dọn cho con người một buổi sáng mát mẻ, một buổi chín giờ màu hồng, một buổi trưa trầm mặc, một buổi chiều gợi u hoài và một đêm tối êm ả. Chiếc Longines này là chiếc thứ tư mà em mang. Em đã đập, trước nó, ba chiếc trong cơn điên, thứ điên phản loạn bất lực. Em đã đập chiếc Wesminster treo tường chỉ vì cách mười lăm phút là phải nghe nó thong thả, vô tình đàn cái bản đàn bất biến của nó. Nó trêu tức em. Em ghét! Em ghét! Em ghét hết!
Tôi lại phải giữ im lặng trong những lúc đó. Tôi sợ tiếng nói của tôi sẽ trở thành cái bản đàn dễ ghét của chiếc Westminster. Ai cũng làm cho Tuyết nghi hoặc, để cho Tuyết nghi hoặc.
Mới hai năm thôi! Trong khoảng thời gian ngắn đó, Tuyết đã lấy chồng. Tiếp tới, anh Ðạo – anh cả của Tuyết – bị chết trận ở chiến trường Ðồng Tháp. Rồi đến anh Lương – anh kế của Tuyết – bị mất tích ở chiến trường Cao nguyên.
– Ngày mai, chuyến xe “ca” bắt đầu chạy mấy giờ, anh?
– Bốn giờ rưỡi.
– Còn chuyến thứ nhì?
– Hình như tám giờ.
– Vậy để em đi chuyến thứ nhì. Ði chuyến đầu thì thế nào anh cũng phải lịch kịch đi đưa.
– Ði chuyến đầu mát hơn.
– Mát? Em không có thấy sự liên hệ nào giữa khí hậu và tâm hồn của em hết. Em ở Ðà Lạt mà có bao giờ thấy mát đâu! Lúc nào đầu óc em cũng nóng bừng lên. Em ở dưới đồng bằng mà có bao giờ thấy nóng đâu! Lúc nào cũng tâm hồn âm u lạnh lẽo.
Tôi vuốt má Tuyết chầm chậm, vừa lựa những lời để nói cùng nàng:
– Em phải can đảm mà hòa mình vào cuộc sống. Hãy tìm hưởng lấy phần tươi vui ý nhị nhất của cuộc đời và bỏ qua những nỗi bất như ý.
Tuyết nhún vai:
– Ðó không phải là một triết lý cao siêu. Ðó là thứ khôn tầm thường. Anh nên nhớ là em mới ba mươi tuổi.
– Em còn hơn tuổi đó nhiều. Anh nói về tâm hồn chứ không nói về thể xác.
– Ừ. Em vừa trẻ vừa già. Mâu thuẫn trong một người. Thế hệ của em đều như thế hết.
Tuyết lảo đảo đứng dậy, tôi phải đỡ vai nàng.
– Em cần gì?
– Một cái khăn dấp nước lạnh để em lau mặt.
Tôi dìu nàng ngồi xuống ghế và đi vào phòng rửa mặt lấy khăn. Tôi lau lên mặt, lên cổ. Tuyết để yên cho tôi chìu chuộng nàng, ngẩng mặt lên đợi và dụi mặt vào khăn như một đứa trẻ con. Qua lớp khăn mỏng, xúc giác của tôi cảm thấy êm đềm khi chạm vào sóng mũi, gò má, vành môi. Dường như xúc giác cũng biết phân biệt được cái đẹp.
Giọng Tuyết vữa ra, thứ giọng vừa mỏi mệt vừa làm nũng:
– Anh chìu em một lần chót, hôm nay. Ðâu có dễ mà chìu chuộng nhau mãi được! Anh tồi lắm, ích kỷ, vô trách nhiệm! Nhưng em lại không thể ghét anh được.
Tôi tự nói một mình: Mọi tội lỗi em trách, anh đều có đủ. Tội còn nặng hơn là em tưởng nữa, nhưng mà sao thay vì phạt, em lại ban ơn? Yêu anh là ban ơn cho anh. Bởi anh không có gì hết, ngoài tình yêu.
Tuyết đột nhiên hiện đến với tôi một tháng trước. Căn gác nhỏ thuê lại của chủ nhà dưới làm nàng tưởng đã đi lầm nhà.
– Vô lý! Chẳng lẽ anh lại ở một nơi kém tiện nghi như thế này sao? Nếu không thấy anh hiện ra đón em thì nhất định là em không dám leo lên một cái thang gác khả nghi như vậy.
– Tại anh không bao giờ giàu nổi để thuê một căn nhà có vườn rộng, có cuội trắng rải trên lối đi, có một giàn nho nơi đó người ta ngồi uống rượu để đợi trăng lên.
– Nếu kể ra những cái anh không có thì biết bao giờ cho hết! Những cái lồng chim bạch yến hót… những lẵng hoa lan, những chậu hoa huệ… một cái xe hơi…
– Một con berger… một con mèo xiêm và…
– Em biết rồi. Và một người đàn bà. Một người đàn bà thì dễ có hơn những món kia.
– Chưa chắc. Vả lại anh không dám có một ý nghĩ phạm thượng như vậy.
– Với anh thì chả có gì chắc chắn hết. Thôi xuống mang va li lên hộ em.
Tôi không hỏi lý do vì đâu Tuyết đến với tôi. Cũng không hỏi nàng từ đâu đến.
Nàng phải giải thích khi tôi vừa đặt va li xuống sàn gác:
– Em sẽ ở với anh ba tuần. Có phiền không?
Tôi lắc đầu.
– Có người đàn bà nào hiện ở với anh không?
Tôi chỉ lên cái tủ áo.
– Thế thì tốt. Nhưng có người đàn bà lâu lâu đến với anh không?
Tôi mỉm cười:
– Có.
– Anh có biết cách trả lời khi họ hỏi về em?
– Không khó. Có những người em sẽ gặp đều đủ thông minh nên chúng ta không cần phải nói dối. Họ biết tôn trọng tự do của người khác và không để mũi vào khu vực nào không thuộc phạm vi của họ.
Tuyết bĩu môi:
– Bây giờ em mới hiểu vì sao bấy lâu nay anh không hề viết thư cho em.
– Lý do không phải như em nghĩ đâu. Thôi, em đi vào thay áo.
Tuyết bước vào nhà tắm. Chợt nàng bước ra, áo pyjamas mới thay chưa kịp gài khuy.
– Có nhiều đàn bà lâu lâu đến với anh không?
– Câu trả lời lấn vào phạm vi khu vực của anh.
– Biết rồi!
Và nàng đóng sầm cửa phòng tắm lại.
Bữa tối đó chúng tôi đi ăn ở Chiêu Anh. Tuyết ăn hết phần của nàng và gọi bồi mang thêm thức ăn. Nàng uống một ly Cap Corse.
– Lâu lắm em mới ăn một bữa ngon như hôm nay.
– Hân hạnh cho người đầu bếp – tôi chậm rãi nói.
– Không phải chỉ nhờ món ăn mà nhờ có anh. Em thấy có một sự thoải mái khi ngồi trước mặt anh. Y như khi em ngồi cạnh một dòng sông, khi em nhìn một bụi chuối tỏa bóng mát. Nơi anh, em nhận thấy một sự bảo vệ kín đáo và êm đềm.
– Cám ơn em.
Tuyết nhìn ra ban công nơi đó có những ánh đèn nhỏ màu xanh màu đỏ nhấp nháy giữa những chùm lá cây.
– Bình yêu em và chìu chuộng em, nhưng em không có được sự thoải mái mà em mong ước. Hạnh phúc ở đời, theo em nghĩ, như là cảm giác của người đi giày. Một đôi giày làm mình dễ chịu khi mang nó vào chân rồi mà mình không nghĩ rằng mình đang mang giày.
Tôi mỉm cười:
– Khá nguy hiểm cho những người chồng! Ði với chồng ở giữa phố mà tưởng như mình còn là con gái, như người đàn ông đó không có liên hệ gì với mình hết…, anh chắc điều đó không có người chồng nào hoan nghênh…
Tuyết cười:
– Không đến nỗi như vậy. Tỷ dụ chỉ là một cách nói.
Công việc đầu tiên của Tuyết là chạy đi tìm thuê cho tôi một căn gác có cầu thang bước lên bằng xi măng, có cửa sổ nhìn ra một khu vườn yên tĩnh. Khu vườn này của nhà bên cạnh nên mỗi lần nhìn sang những chùm lá xanh đong đưa uyển chuyển, mỗi lần đón nhận những luồng gió nhẹ thơm mùi hoa huệ hoa hồng, tôi cảm thấy rằng mình đang ăn cắp.
Tôi bày tỏ ý kiến ấy cho Tuyết và nàng cười:
– Tội ăn cắp ấy là tội của em. Anh chỉ có tội oa trữ, anh chỉ là đồng lõa. Anh có sợ phạm tội ăn cắp không? Em thì chả sợ. Xã hội đã ăn cắp của em nhiều quá rồi. Cả ngay trong việc em lấy chồng, em cũng bị mất cắp nặng.
– …?
– Hạnh phúc, niềm tin, sự an ổn trong hồn… em đâu có còn được chút chi? Ông Tản Ðà bảo rằng sống ở đời như ngồi một canh bạc. Em là con bạc khù khờ, mới ngồi xuống chiếu đã bị tụi nó chơi thấu cáy. À, anh có hay chơi xì tố không?
– Không.
– Xì lác?
– Thỉnh thoảng.
– Chơi xì tố thì mới có cảm xúc mạnh, mới có chút ít nghẹt thở. Y như đi coi phim suspense vậy. Nhưng mà anh thì chắc chỉ coi những thứ Valse dans l’ombre hay Mayerling.
Tôi nhịn không cãi lời Tuyết. Cãi lại nàng làm chi khi chính nàng đã chạy đến tìm an ủi nơi tôi! Tôi phải làm cái bia hứng chịu những mũi tên hằn học, bất mãn. Vả lại, tôi tự xét mình không phải là không tồi. Ích kỷ cũng không thiếu. Tuyết đến với tôi không phải để tìm lý luận và lẽ phải. Nàng chỉ cần được vỗ về để quên.
Tuyết đau khổ là một điều vô lý. Tôi tưởng chỉ có đàn ông mới phải đau khổ vì nàng. Ðôi mắt nàng với hàng mi đen thăm thẳm chính là thứ đại dương mênh mông, nơi đó đàn ông biến thành những tên thủy thủ. Tha hồ mà phiêu lưu và chết trong đó.
Tuyết thay cho tôi một loạt khăn trải giường, khăn bàn và rèm cửa. Tủ sách cũng được nàng xếp đặt lại có thứ tự. Bao nhiêu những vật trước đây tôi bỏ bề bộn, nàng khéo dọn dẹp thế nào mà mỗi vật đều chỉ chiếm một chỗ rất nhỏ. Một lần tôi đi làm về bất chợt gặp nàng đang dùng một sợi ni lông khâu chiếc quai săng đan cho tôi. Chiếc xăng đan đứt đôi tôi ném mãi ở góc tủ.
Tôi cảm động ôm vai nàng nói:
– Bây giờ anh mới hiểu em, mới biết em, mới thưởng thức được em.
– Nhưng đã chậm!
Nàng quay nhìn ra hiên, im lặng không nói tiếp.
Buổi trưa đó, chúng tôi ít nói trong bữa ăn. Tôi có cảm tưởng người nào cũng cố giữ những giọt nước mắt của mình. Tình yêu không phải chỉ là những cái hôn. Nó còn là sự im lặng. Tôi tôn trọng khoảng cách giữa tôi và Tuyết, nó làm tình yêu của chúng tôi trở thành xót xa và cao quý. Người đàn bà không còn là một đối tượng ham muốn. Ðó là cái “tôi” đau khổ và bất lực được tách ra đặt ở trước mặt mình.
Tôi nói:
– Bao giờ cũng vậy: hoặc là đã chậm rồi, hoặc là còn quá sớm.
– Áp dụng vào trường hợp em thì là: còn quá sớm để mà tuyệt vọng nhưng lại đã chậm rồi để mà hy vọng.
– Bình là một người chồng tốt, anh nghĩ như vậy.
– Về những phương diện nào đó. Về tài chánh chẳng hạn. Em có một cái Taunus để đi dạo phố, có vòng ngọc và kim cương để làm ganh tị những người đàn bà. Về trí thức chẳng hạn. Bình học giỏi, đỗ cao, được nhiều người nể v. v… Nhưng bao nhiêu ưu điểm Bình có chưa đủ để làm em sung sướng.
– Em đòi hỏi Bình phải…?
– Không thể đòi hỏi được. Mỗi người đều có những ưu điểm và nhược điểm của mình nhìn qua mắt của người khác. Mỗi người nhìn một cách khác nhau, không phải ai ai cũng đồng ý với nhau trong việc ghi nhận ưu điểm và nhược điểm. Nhưng mà thôi, em không muốn nhắc đến Bình khi em ở cạnh anh. Chúng ta không nên đầu độc những ngày vui ngắn ngủi.
– Em có hối hận khi lừa dối Bình mà đến đây?
– Một chút ít thôi. Bình lừa em trước, Bình đi Hồng Kông một tháng và có lén đem theo người tình nhân của hắn. Vợ của bạn hắn đó. Tụi thượng lưu thời nay học đòi lối chim vợ của nhau.
– Em không ghen?
– Vô ích. Vừa mang tiếng là quê mùa, tốt hơn hết là tiễn Bình lên phi cơ xong, em mang va li đến anh. Ít nhất chúng ta cũng còn cao thượng hơn bọn nó. Vì ở đây chỉ có một người bị lừa dối.
Tôi bĩu môi:
– Cao thượng!
– Chứ sao? Lừa một tên bịp, em không thấy máy mắt một chút nào hết.
Tuyết trầm ngâm một giây:
– Thực ra thì em không có ý lừa Bình. Bao nhiêu thằng bạn thân của Bình chúng tán tỉnh em trắng trợn công khai nhưng em đâu có sa ngã. Em chỉ muốn nhân dịp đến thăm anh coi anh sống hiện nay ra sao.
Tuyết nói điều đó không giả dối. Tôi sống như thế nào, ba tuần qua nàng đã biết. Ðêm nay là đêm chót cùng nàng chung chia mái nhà với tôi.
Ðêm vắng vẻ như tăng thêm chiều sâu.
– Ðáng lẽ thừa lúc Bình lừa em mà đi xa như vậy, em có thể nhân dịp trở về quê hương sống những ngày êm đềm bên cạnh cây cỏ và người thân yêu như những ngày còn nhỏ. Quê hương ám ảnh em không ngớt. Em ghét tiếng xe cộ ồn ào, tiếng máy thu thanh rộn ràng, tiếng cười nói nham nhở với cái đô thị dẫu quen thuộc mà vẫn rất xa lạ với em. Em yêu những con đường làng có bóng cây sung cây keo xanh mướt, em yêu sườn núi sau nhà mọc lẫn lộn những bụi quít bụi găng…
Tuyết thở dài trầm ngâm nhìn xuống chân.
– Nhưng quê hương đó không còn là của em nữa. Một phần tư thế kỷ rồi, chiến tranh và biến cố chính trị đã lần hồi đốn ngã những cột trụ mà em nương tựa. Thầy em đã chết trong ngục. Me em đã chết vì bệnh mà thiếu thuốc. Hai anh trai của em đã chết trên chiến trường. Ngôi nhà và khu vườn bị bom tàn phá. Và bây giờ em còn bị cách trở với quê hương bởi không biết bao nhiêu là phòng tuyến.
– Anh cũng không sung sướng gì hơn em.
– Vả lại, dù có về được e rằng em cũng không về. Nhìn lại những kỷ niệm chỉ làm mình buồn thêm. Coi như là em mất tất cả rồi. Sau lưng em chỉ còn là khoảng trống. Ðưa hộ em tách nước…
Nàng uống một hơi cạn và trả tách cho tôi cất.
– Em tìm đến anh bởi vì anh là hình ảnh của cái quê hương hiền hòa và đau khổ đó. Anh là tượng trưng, anh là một phần của cái quê hương dày đặc kỷ niệm đó. Anh có thể khinh em đi, nhưng mà đừng phũ phàng với em.
– Anh không hề phũ phàng…
– Là em nói phòng xa thế. Người có nhiều lý trí bao giờ cũng nuốt gọn những tủi buồn mà chỉ để lộ ra vẻ đắc thắng. Em cũng thế. Em đắc thắng trước mặt mọi người. Chỉ buồn tủi với riêng anh.
Nàng im lặng và tiếng phi cơ thám thính rền từ góc này sang góc kia của khung trời, mất hút đi rồi lại trở lại rang rang trở lại. Hỏa châu sáng rực ở phía phi trường. Tôi nghĩ đến những trở ngại ở dọc đường.
– Hay là em đợi đến ngày kia có chuyến máy bay.
Tuyết lắc đầu:
– Em thích đi xe “ca” cho đường dài hơn. Có gì hấp dẫn em ở đầu kia con đường đâu mà anh biểu em hấp tấp về nhà? Chán ngắt là những khuôn mặt mình sẽ gặp: chị bếp, con sen, bác tài xế… Khung cảnh cũng chán ngắt nữa: ngôi nhà đồ sộ và vắng lạnh, càng vắng lạnh bởi vì đồ sộ, những chậu cây, những bức tranh trên tường, những giường tủ lọ hoa. Em không muốn nhìn thấy chúng nữa. Nhưng mà em phải về.
– Ðường bộ không được an toàn lắm.
– Nhưng mà vui. Em thích ngồi xúm xít trong một chuyến xe với nhiều người. Tha hồ gật gù trên con đường thiên lý. Những cảnh lam lũ nghèo khó trên con đường làm em được an ủi hơn. Quê hương ta nghèo nàn, đồng bào ta cơ cực, nơi nào cũng thế, không đi trên đường thì không thấy được. Phi cơ bay cao quá nên nhìn xuống đất thấy cái gì cũng đẹp, cái gì cũng pittoresque, cũng nên thơ hết.
Khi chúng tôi chia tay đi nghỉ thì kim đồng hồ đã chỉ ba giờ. Tôi chuẩn bị để trằn trọc suốt đêm, bởi vì ngày mai sẽ bắt gặp tôi đối diện với nỗi cô đơn của tôi, nhưng không ngờ khi vùi đầu vào gối tôi chui ngay luôn vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau dậy trễ phải lật đật rửa mặt, cạo râu, thay áo và ăn sáng để đi làm, tôi chỉ kịp hôn Tuyết rồi lật đật nói:
– Thôi lát nữa em ra xe. Ði đường khỏe mạnh. Khóa cửa rồi gửi chìa khóa xuống nhà dưới.
Tuyết ôm chặt tôi không nói gì hết. Khi xe tôi ra đến đầu phố, tôi tự trách: Ðáng lẽ mình có thể hôn Tuyết dài hơn, hôn thêm hai phút nữa. Ðến sở trễ hai phút thì có gì nhiều.
Trưa hôm đó ở sở ra, tôi không muốn về nhà vội mà cứ muốn đi lang thang ở dọc đường. Tôi cho xe chạy chậm trước rạp chiếu bóng để tò mò nhìn xuống các bức hình quảng cáo. Tôi ghé lại hiệu sách lơ đãng giở xem những tập báo ngoại quốc, xem hình những đàn bà đẹp có tô màu lộng lẫy. Tôi không muốn về căn nhà trống trơn, thiếu bóng dáng của Tuyết, nhưng buổi trưa không phải là giờ la cà nên tôi đành phải cho xe chạy về nhà.
Chiếc chìa khóa tra vào ổ khóa. Cửa mở. Mùi nước hoa quen thuộc của nàng. Tôi bước nhẹ vào phòng như sợ làm kinh động một cái gì thiêng liêng. Hơi thở của Tuyết vẫn còn phảng phất đâu đây. Chiếc pouf kia nàng ưa ngồi. Bức ảnh bán thân của nàng đặt trên bàn viết. Những lọ phấn và nước hoa xếp thành dãy. Tôi đi lại tủ áo để thay. Một chiếc áo dài của nàng còn treo đó.
Chiếc này, hôm nàng mặc đi phố với tôi, tôi khen:
– Em mặc áo này trông đẹp bội phần.
– Anh có nói nịnh em không?
– Không.
– Thế thì ta giống sở thích nhau. Em cũng thích cái áo này nhất trong tủ áo của em.
Tôi không nghĩ rằng Tuyết đã vội vàng đến quên xếp đem theo chiếc áo đó. Hay là nàng muốn tôi giữ mãi nó để đừng quên nàng? Cũng như dãy lọ phấn và lọ nước hoa kia.
Tối đó, khi tôi lật tập agenda, tôi thấy một mảnh giấy có chữ viết nguệch ngoạc gài trên tờ lịch. Nét chữ của Tuyết.
“Em khóc mười phút trước khi ra xe. Nhớ viết thư cho em. Gửi về địa chỉ của chị Phúc. Ðừng thức khuya. Bớt hút thuốc lá. Em không tuyệt vọng đâu, anh yên tâm…”
Có chữ nét mực nhòe và giấy nhăn lại. Dấu vết của những giọt nước mắt.
Lương mai – Võ Hồng (Võ Hồng, 1921-2013)
– Một cái siège[1] Italy. Tôi thích một cái siège Italy.
– À… siège Italy hổng có. Lâu lâu mới có. Thứ đó ít nhập cảng lắm. Ở Sài Gòn này thầy kiếm đâu cho ra!
– Đắt bao nhiêu cũng được mà! Tôi chỉ cần lấy một cái thôi.
– Tui biết mà! Tại tui hổng có. Tui với thầy là chỗ quen biết mà! Nói thiệt, chỉ còn mấy cái siège Ăng Lê. Quen lắm tôi mới dám giới thiệu.
– Ở đâu?
– Để ở nhà sau. Phải cất tuốt ở nhà sau. Để dành cho bà con quen lớn.
Ông Sử Cẩm Hưng tươi cười nhìn tôi, hai tròng kính trắng làm cho khuôn mặt thêm tròn.
Ông bước đi trước và tôi nối gót bước theo. Phải khéo tránh những đống sắt, những cuộn dây cao su, dây ni lông xếp thành bành cao, những hòn núi lon sơn, những thùng dầu, thùng bột màu. Thật là bề bộn lẩm cẩm.
Bước ra một khoảng sân hẹp. Những chậu hoa hồng: Brigitte Bardot, René Coty, Rendez-vous… Những giò phong lan: Bạch Ngọc, Tố Tâm…
– Đây, vô trong kho này, mặc ý thầy lựa. Ê! Bobby, nằm tránh ra.
Con chó mập như một con bê con, màu lông xám thẫm trên lưng. Nó lừ đừ đứng dậy đi ra sân. Tôi còn mải mê nhìn những chậu hoa hồng. Đóa hoa hai màu này chắc là giống mới ghép, chắc phải mang tên một nhân vật thời danh: De Gaulle, Christine Keller, Kennedy…
Con Bobby chầm chậm đi ngang qua chỗ tôi đứng. Chợt nó quay đầu lại ngoạm vào đùi tôi.
– Ái cha!
Tôi khựng người, ôm chầm lấy chân la lên. Ông Sử Cẩm Hưng cũng la lên:
– Bobby!
Con Bobby lừ đừ đi vào nhà trong, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Tôi bị chó cắn rồi. Đầu óc tôi choáng váng.
Ở nhà trong có nhiều người chạy túa ra. Tôi vén quần lên. Máu ri rỉ chảy ở hai vết cắn cách nhau đến sáu phân. Tiếng ông Cẩm Hưng la oang oang:
– Sao bay không chịu xích chó? Tao dặn hoài. Ở nhà lo chuyện gì đâu đâu. Có sao không thầy? Đứa nào chạy vô lấy bông băng ra đây. Lấy thuốc tăng-câyđót. Lấy thuốc đỏ.
Tôi gác chân lên một trụ gạch cúi xuống nặn máu ở vết cắn. Thôi, không buồn để ý đến ai nữa. Mọi lời nói đều vô nghĩa. Tai nạn đến cho mình thì mình phải chấp nhận lấy, phải chịu lấy hậuquả. Ai cũng là bàng quan hết. Phải lo đi tiêm ngừa chó dại. Chao ôi, mười lăm, hăm mốt mũi kim sẽ đâm liên tiếp dưới da bụng hay dưới da lưng, nhức nhối làm cho người ta bỏ ăn, làm cho người ta bệnh hoạn hàng tháng. Thật buồn quá đỗi. Đáng lẽ mình không ghé lại hiệu ông Sử Cẩm Hưng để mua siège sáng nay! Nếu đi qua mà không gặp ông đứng trước cửa hiệu tười cười chào mình thì mình đâu có ghé? Chó cắn thật là phiền. Mười con cắn chỉ họa hoằn có một con dại, nhưng mình đâu có dám tin chắc con chó cắn mình thuộc thành phần chín con kia. Nhưng dù không tin chắc là nó dại mà vẫn phải mang lưng mang bụng đi lãnh sự đau đớn nhức nhối.
Anh Công vừa bị chó cắn, mới tiêm năm mũi mà trông anh hom hem như một cụ già. Trong mười phút ngồi nói chuyện mà anh hết nhăn nhó đến nhăn nhó. Nhức bên này. Nhức bên kia. Cái lưng trẹo hẳn ngồi không được. Mời thầy mằn về nắn xương. Nhức đầu. Lạt miệng. Sốt. Phải ăn cháo và uống sữa. Chị Công chạy te tái để lo săn sóc anh.
Đến lượt mình. Giận hết sức. Nhưng có thể từ chối không đi chích ngừa được không? Những trường hợp mắc bệnh dại cổ điển nhất đủ để làm mình kinh hãi. Một cậu học sinh đi học về bị một con chó rượt chạy theo cắn. Cậu nhỏ ba chân bốn cẳng chạy, chạy thót vô nhà. Con chó vù tới táp một cái. Hụt. Cậu nhỏ đóng sập cổng lại. Cậu kể chuyện với mẹ. Mẹ con mừng rỡ. Cái quần bị chó táp trúng, tét đi, mẹ lôi ra vá. Vá xong, mẹ tìm cái kéo để cắt sợi chỉ. Cái kéo bỏ lạc đâu đó, mẹ cúi xuống cắn sợi chỉ. Chừng vài tháng sau, đột nhiên một hôm mẹ lên cơn dại và không có thuốc nào chữa được. Người ta giảng rằng tinh độc bệnh dại trong nước bọt của chó dính nơi miếng quần bị cắn rách. Khi mẹ cắn vào sợi chỉ, tinh độc vào máu theo một vết lở nào đó trong miệng mẹ.
Chị Lan trước làm ở nhà thương Grall kể lại trường hợp một bà mẹ dẫn cô con gái chừng mười tám tuổi, đẹp đẽ, quí phái đến nhà thương. Cô con gái bị chó cắn và đã lên cơn dại. Bà mẹ khóc lóc lạy lục bác sĩ xin cứu mạng con nhưng bác sĩ nói khoa học không có cách nào chữa được hết. Ông chỉ còn có cách giúp đỡ bà mẹ là cho cô vào phòng lạnh cho nhiệt độ thật thấp để cho cô con sẽ chết trong sự yên tĩnh khỏi những hồi vật vã đau đớn làm cho bà mẹ khổ tâm.
Anh Quế kể chuyện ở nhà thương tỉnh Bình Tuy, một hôm người ta đưa đến một trường hợp mắc bệnh dại. Đó là một thanh niên hai mươi tuổi. Anh ta làm thợ hồ. Trong giờ tỉnh táo nạn nhân kể lại: “Cháu nuôi một con chó con. Nó đùa giỡn với cháu. Nó cạp đùa tay cháu, trầy da chảy máu một chút rồi khô đi. Sau đó mươi hôm, con chó bỏ ăn rồi chết. Chẳng ai để ý đến cái chết tầm thường của nó. Nhưng chừng ba tuần lễ sau, một buổi trưa cháu đi làm về, ra nhà sau để rửa tay rửa mặt thì sao chợt thấy sợ nước. Sao cứ thấy nước là ngộp. Cháu bỏ ăn vô giường nằm. Đầu nhức. Cháu sợ ánh sáng, bắt người nhà đóng cửa lại.”
Sau chừng một giờ tỉnh táo như vậy, lời anh Quế, thì nạn nhân đập bàn giậm chân rầm rầm rồi la những tiếng “Trời ơi” thật to. Nạn nhân quằn quại lê lết trên giường. Nhưng nhà thương không có thuốc gì để chữa. Tôi thấy xót thương tìm hỏi ai có cách gì để cứu hắn không. Người ta mách một ông thầy thuốc Bắc. Tôi tìm tới và ông thầy bảo đảm chữa khỏi được. Tôi tiếp tay người nhà nạn nhân chở hắn đến nhà ông thầy. Phải trùm một cái mền bịt bùng lên đầu hắn vì hắn sợ ánh sáng rồi cho hắn ngồi lên xe ba gác. Chở đến nhà ông thầy, hắn xuống xe đi vào với cái mền chụp hùm hụp trên đầu. Người nhà ông thầy sợ quá, chạy túa ra sân, la như cắt cổ. Ông thầy cũng chạy ra sân luôn. Cả xóm nghe ồn ào chạy tới bao vây đứng coi. Tôi phải điều đình và ông thầy đặt điều kiện là phải chở hắn về nhà hắn và ông thầy sẽ đến đó chữa. Lúc bấy giờ hắn tỉnh, hắn khóc trong mền, giọng khóc nỉ non “Con không có điên mà! Con chó điên nó cắn con, chớ con không có điên mà! Con không cắn ai đâu. Lạy ông thầy cứu mạng cho con.” Tôi lại cho hắn lên xe ba gác bảo chở hắn về nhà và gọi một cái xe ba gác khác bảo chở ông thầy đi theo luôn. Nhưng liền trưa hôm đó thì xe ba gác chở ông thầy về. Ông nói hắn vừa chết được nửa giờ…
Những câu chuyện như thế lướt nhanh trong óc tôi. Tôi vừa nghĩ lan man đến những trường hợp lên cơn dại điển hình đó vừa nặn máu vết cắn. Chợt có một bàn tay nhỏ, trắng, gạt nhẹ bàn tay tôi ra và nặn máu hộ tôi. Tôi nhìn lại: một thiếu nữ Trung Hoa chừng hai mươi tuổi đã đứng cạnh tôi hồi nào tôi không haỵ Kề đó có một lọ thuốc đỏ, một hộp bông, ga, một cuộn vải keo. Tôi nhìn khuôn mặt. Khuôn mặt cúi xuống, tôi thấy đôi hàng mày dài, cái mũi và hàng mi cong. Những ngón tay trắng hồng nặn nhè nhẹ vết lên vết thương của tôi. Máu nhỉ ra, nàng nhẹ nhàng lau. Da mềm nơi ngón tay gây một cảm giác êm êm. Còn một vết cắn nữa, tôi chụm bốn ngón tay nặn thật mạnh. Máu đỏ vọt ra. Nàng lấy bông lau vết máu rồi gạt bàn tay tôi, nặn qua vết cắn đó.
Tiếng ông Sử Cẩm Hưng:
– Con chó này hiền lành lắm mà! Lâu lâu nó… ngứa răng… nhưng mà nó cắn không độc. Bữa trước nó cắn chú tài phú nhưng cũng không sao.
– Dạ, nhưng tôi cũng phải đi chích ngừa.
– Chích làm gì thầy? Đau đớn trong mình. Không sao đâu. Bên Thú y họ có khám con chó rồi mà. Nó vẫn mạnh như thường.
– Họ làm gì mà khám được?
– Ậy, thầy không tin tui. Họ khám cẩn thận lắm. Họ thử máu.
Vì những ngón tay màu trắng hồng kia, tôi cố gắng giữ bình tĩnh để giảng cho ông Sử Cẩm Hưng rằng họ đã nói dối.
– Người nào nói với ông rằng đã thử máu rồi là người ấy bịp ông đó. Vi trùng chó dại là một loại siêu vi trùng, nhỏ lắm, kính hiển vi thường không nhìn thấy được. Phải có kính hiển vi điện tử mới nhìn thấy nó. Mà kính hiển vi điện tử thì làm gì bên Ty Thú y có? Vả lại, con siêu vi trùng đó không có ở trong máu mà ở trong hệ thần kinh. Không ở trong máu thì thử máu làm gì? Họ nói bịp ông đó!
Tôi nói một hơi thì cơn giận nổi lên. Ông Sử Cẩm Hưng coi tôi như một ông xã nhà quê nên đem việc thử máu ra để trấn an tôi.
Máu nóng hừng hực ở mũi, ở tròng con mắt, tôi không giữ được nữa:
– Thú y chỉ giữ con chó lại để xem xét trạng thái bên ngoài của nó mà thôi. Chẳng hạn nó bỏ ăn, chẳng hạn nó bị bại. Khám xét nó chỉ có bên viện Pasteur. Phải chặt đầu nó, chặt đầu nó, ông rõ chưa, phải chặt đầu nó, phải…
Những ngón tay bấu mạnh vết thương của tôi. Tôi ngừng nói nhìn xuống. Đôi mắt đen ngước nhìn lên tôi dịu dàng.
Tôi hạ giọng:
– Nhưng xin ông an tâm. Tôi sẽ đi chích ngừa. Chả sao đâu.
– Thầy đừng sợ mà! Con chó này không dại đâu. Chó dại thì ngó biết liền.
– Khó biết lắm, ông Sử ạ. Nhiều khi người và chó, – người bị cắn và con chó cắn, – cùng dại một lượt. Loại bệnh này phiền phức lắm.
– Con berger của tui cứ tiêm thuốc luôn.
Vừa lúc ấy có tiếng gọi to ở từ ngoài cửa hiệu vọng vào.
– Chú ơi. Chú. Chú ra cho tôi hỏi cái này một chút. Gấp lắm.
– À, à…, – Ông Sử Cẩm Hưng vỗ vai tôi, –… Thầy. Để tui chạy ra trước một chút. Thầy đứng chơi.
Đứng chơi! Tôi đang rối ruột lên đây. Thấy công chuyện đã êm xuôi, những người trong nhà tản đi dần. Người thiếu nữ vươn tay lấy lọ thuốc đỏ. Tôi giúp nàng mở nút lọ. Nàng thấm thuốc vào bông đặt lên vết cắn. Tôi giúp nàng, đè một ngón tay lên giữ cho khỏi rơi. Nàng lấy kéo cắt băng vải keo. Tôi giúp nàng xoa xoa cho đầu băng vải keo dính chặt vào da. Tôi cám ơn nàng và nàng không mỉm cười.
Nàng nhìn thẳng tôi rồi nói khẽ:
– Ông nên đi xuống viện Pasteur mà chích thuốc ngừa đi.
Tôi ngạc nhiên vì lời đề nghị:
– Ba cô mới nói…
Nàng không lưu ý đến câu nói của tôi, vẻ mặt xa vắng như đang nghĩ gì đâu đâu. Giọng nàng nhẹ nhàng:
– Con chó chưa được… Ông nên đi xuống Pasteur chích thuốc ngừa đi.
– Thật không êm đềm chút nào hết. Ai cũng sợ hãi những mũi tiêm nhức nhối đó.
– Ông chịu khó. Con chó chưa được… Ông hiểu chứ?
– Vâng. Tôi hiểu.
– Ông đừng trách ba tôi.
– Không có. Tôi nghĩ rằng cụ muốn cho tôi an tâm nên cụ mới nói lạc quan thế. Cụ không quan niệm bệnh chó dại nguy hiểm ngang tầm mà chúng ta quan niệm.
– Ông đừng nên sợ đau. Tính mệnh quan trọng hơn một sự êm đềm nhất thời.
– Cám ơn cô. Tôi xin nghe lời cô.
Nàng thu dọn bông, băng, kéo, lọ thuốc… khẽ cúi đầu chào tôi rồi đi thẳng lên lầu. Bộ pyjama bằng vải hoa. Mái tóc mới cắt.
Bằng cách nào để lắng dịu những nỗi bực tức? Trên đường về nhà, tôi thấy chán nản lạ, mặc dù giữa những lúc buồn bã, những hồi xót xa, tôi gợi nhớ đến khuôn mặt xinh tươi đó, mười ngón tay trắng hồng đó, giọng nói êm đềm đó.
Bốn giờ chiều thì tôi đến viện Pasteur. Cô thư ký giải thích thể thức:
– Không thể đột nhiên vào bệnh viện để xin tiêm ngừa. Phải có giấy giới thiệu của Ty Mục súc.
Ty Mục súc! Mình bây giờ thuộc quyền điều động của Ty Mục súc. Tôi buồn cười nghĩ rằng với một vết chó cắn, mình bây giờ được đồng hóa với heo bị dịch và với gà toi.
– Giấy giới thiệu, sẽ có trong một giờ đồng hồ. Bây giờ thì xin cô làm ơn cho tôi một mũi tiêm. Tôi xin nợ cô mũi tiêm đó.
Cô thư ký suy nghĩ rồi gật đầu đưa tôi qua phòng thuốc.
– Chị Triết, tiêm cho ông một mũi chó dại.
Cô y tá có khuôn mặt dịu dàng. Đôi mắt bồ câu mở to. Cô rút thuốc vào ống tiêm. Tôi nói:
– Cô tiêm giùm vào lưng tôi. Tiêm ở dưới bụng đau lắm.
– Vâng. Tôi tiêm ở lưng cho ông.
Tôi ngồi xuống ghế, cuốn áo sơ mi lên. Cô y tá thoa rượu cồn và liền sau đó mũi kim châm nhẹ vào da. Chưa kịp đau thì đã nghe miếng bông xoa qua và ngón tay ra hiệu kéo áo xuống. Nhanh và nhẹ nhàng như vậy sao? Người ta vẫn sợ tiêm ngừa chó dại lắm mà? Nhức nhối, bỏ ăn, sốt, bệnh. Sao với tôi lại nhẹ nhàng êm ái như thế?
Tôi cám ơn cô y tá.
– Ông chịu khó đi chích hàng ngày. Độ này có dịch chó đấy. Đã tới bốn, năm trường hợp chó dại được xác nhận.
– Vâng.
– Vừa rồi có một em nhỏ ba tuổi bị chó đè cắn nát mặt. Đáng lẽ phải tiêm mỗi ngày hai mũi nhưng sức em đó yếu quá tôi không dám tiêm. Thật nguy hiểm.
– Tôi hy vọng rằng con chó cắn tôi…
– Tôi cũng mong vậy. Nhưng ông sẽ không tiêm dưới năm mũi tối thiểu rồi đợi chờ trong mười lăm ngày.
Buổi tối vết tiêm bắt đầu đau. Gây sốt. Tôi nằm nghiêng bên lưng lành mạnh và nhờ chị Ở cho một chai nước nóng. Giấc ngủ nhọc nhằn. Thức giấc nghe lưng nhức, mỏi nhừ vì chỉ nằm nghiêng một bên. Sáng ngày, miệng hơi lạt.
Tôi tiêm mũi thứ hai. Phản ứng nhẹ hơn mũi đầu tiên, ít sốt hơn nhưng cái lưng không còn chỗ để mà trở nữa. Bên trái và bên phải đều nhức, nhức cũ đậm đà hơn nhức mới, trải rộng trên bề mặt và ăn lún thâm vào bề sâu. A, đến bây giờ tôi mới biết mùi tiêm thuốc chó dại. May mà tôi chưa kịp ba hoa với ai rằng sao thiên hạ hay đồng thanh bi thảm hóa với một sự kiện hết đỗi tầm thường như thế.
Khi tôi nhận mũi tiêm thứ ba thì rõ ràng là bắp thịt ở lưng tôi cứ tự nhiên phản ứng bằng cách co rúm lại và những ngón tay của cô y tá dạo từng luồng mát trên da lưng tôi. Tôi biết là mình sốt, cơ thể mình đang chống cự mãnh liệt với bệnh.
Ngày tiêm mũi thứ tư nhằm vào ngày Chủ nhật.
Hôm thứ Bảy, cô y tá nói:
– Ngày chủ nhật nhân viên nghỉ, chỉ có phòng trực làm việc đến chín giờ. Ông gắng đến trước chín giờ.
Sáng Chủ nhật mưa thật to, mưa như cầm chỉnh mà đổ. Lóp ngóp lội mưa để tới nhận lãnh một phát tiêm đau trong khi mọi người bình yên nằm trong giường đắp chăn tận cổ thưởng thức một buổi sáng Chủ nhật nhàn nhã, lúc đó tôi giận ông Sử Cẩm Hưng đến độ máu có thể sôi lên trong huyết quản. Nhưng liền khuôn mặt của cô con gái ông hiện ra, ngón tay dịu dàng vuốt lên vết thương của tôi, đôi con mắt nhìn êm đềm và giọng nói thanh tao ngập ngừng.
Bước vào hành lang viện Pasteur, tôi ngạc nhiên nhìn lũ bệnh nhân chó dại nam phụ lão ấu đủ hạng lôi thôi lếch thếch lớp đội nón lớp ôm áo mưa ngồi đứng lộn xộn. Những bạn đồng số phận của tôi đó. Mấy hôm trước tôi được đặc ân tiếp riêng một mình vào giấc bốn giờ chiều, – mọi người khác thì 9 giờ sáng, – nên không có dịp hòa mình vào một đại chúng lôi thôi như vậy. Họ nói chuyện to tiếng, hỏi thăm bệnh tình và hỏi thăm chuyện nhà, ồn ào tự nhiên như đang đi ngoài phố. Em bé bị chó berger vây cắn nát mặt đây! Ngoài những lớp bông băng trắng chằng chịt, khuôn mặt còn sót lại chỉ là những vết nhăn nhó đau đớn.
– Cụ tiêm được mấy mũi rồi? – tôi hỏi một cụ già ngồi cạnh.
– Mười sáu.
– Sao tiêm chi nhiều vậy?
– Không bắt được con chó để thử. Con chó bị chủ nhà đánh chết cho phi tang nên mình phải đi chích cho đủ hăm mốt mũi.
– Kìa chị. Bị chó nhà ai cắn đó?
– Chó nhà mình. Nó nổi điên, cắn bốn người hàng xóm, cắn con nhỏ ở, cắn luôn mình. Bồi thường thiệt hại mỗi người bốn ngàn đồng. Mỗi ngày mình xuống chích vừa lãnh năm phần thuốc kia đem về thuê y tá chích cho năm người kia.
– Còn con chó?
– Chận bắt không được. Không ai dám bắt. Phải nhờ mấy người Mỹ ở bên cạnh bắn chết giùm. Đem cái đầu xuống nhờ Viện thử. Chưa có kết quả.
Bắt chuyện vẩn vơ thấy vui, người nào cũng sẵn sàng nói chuyện với mình. Khi có chung niềm đau khổ, người ta dễ trở nên bạn bè, muốn giúp đỡ nhau, muốn hy sinh cho nhau. Viễn tượng của một cái chết bất-ngờ-và-có-thể đã tự nhiên hạn chế lòng tham, mọi người đều cúi xuống nhìn thân phận hữu hạn của mình. Giá lúc này mà đề nghị thành lập một hội Ái hữu, một hội Tương tế thì người nào cũng sẵn sàng chịu nhận làm ân nghĩa hội viên kiêm luôn hoạt động hội viên. Nhưng một tháng sau, khi đã chắc chắn tai qua nạn khỏi rồi thì người ta tham lam trở lại, rút gọn mình trong cái vỏ ích kỷ dày cộm.
Tôi nhận phát tiêm thứ tư, lội mưa mà về nhưng không thấy bực mình vì mưa. Mà cảm thấy sung sướng được sống để được gội mưa như thế.
Ngày thứ năm sau khi tiêm xong, cô Triết mời tôi qua phòng giấy. Tôi khai tên tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, ngày bị chó cắn, vị trí vết cắn, độ dài và chiều sâu vết cắn…
– Ông cho biết chó hoang hay chó có chủ?
– Có chủ.
– Tên người chủ chó và địa chỉ.
– Sử Tuyết Quân, 240 đại lộ Trần Hưng Đạo.
– Người Trung Hoa?
– Vâng. Người Trung Hoa.
Cô y tá vừa thoăn thoắt viết vừa nói:
– Ông chịu khó đến thăm con chó luôn. Đáng lẽ ông phải bắt con chó đem gửi tại ty Mục súc để nhân viên nơi đó theo dõi, nhưng đằng này ông bảo là chỗ quen không muốn làm họ phiền lòng.
Vâng. Tha hồ cho ông Sử Cẩm Hưng phiền lòng, tôi không cần. Nhưng tôi không nỡ làm buồn cô Sử Tuyết Quân.
– … Nhưng ông phải căn dặn là họ đừng giết con chó.
– Vâng.
– Thôi, thủ tục như vậy là đủ. Kính chúc ông bình an.
– Xin cám ơn cô.
Một người đẹp đẽ và dịu dàng như Sử Tuyết Quân thì tôi khó lòng mà giữ cho khỏi tò mò tìm biết tên nàng. Cái tên dính liền với con người và mối thâm tình của mình đối với một người sẽ lợt lạt hết sức nếu mình không gọi lên được tên người ấy. Chiều hôm qua tôi đến thăm con chó để biết tình hình sức khỏe phòng hôm nay nhận phát tiêm chót hay cần tiêm thêm nữa. Buổi chiều chủ nhật, trời hửng nắng và ông Sử Cẩm Hưng lại tíu tít về siège, về lavabo, về gương năm ly, về sắt tám, về sắt sáu, về bình lọc nước.
– A, thầy mạnh giỏi luôn chớ? Hả? Thầy đi chích thuốc à?… Dạ, dạ. Cái lavabo đó hai ngàn tám. Dạ, có luôn miếng gương soi. Không mắc đâu, gương thiệt mà… Hì hì. Gương làm ở Chợ Lớn chớ không phải bên Tây, cái đó tui nói thiệt… À! thầy nói thầy đi chích thuốc hả? Bậy quá… tui đã biểu thầy đừng đi. Không sao đâu mà… Con chó hả? Thầy nói sao?… Nó mạnh như thần… Thầy muốn coi mặt nó… Dạ dạ, nếu thầy muốn. Thoòng ơi! Đưa thầy vô nhà trong.
A Thoòng đi xuống Nam Kiều hải vận công ty để nhận hàng. Công việc hướng dẫn tôi vô nhà trong thuộc phần Sử Tuyết Quân. Tôi chào nàng và xin lỗi đã quấy rầy nàng.
– Không có sao. Ông đi chích thuốc mấy hôm nay?
– Vâng, có. Tôi đi đều.
– Vết cắn của ông đã lành?
– Có lẽ.
Tôi kéo ống quần lên. Vẫn cái băng do nàng băng mấy hôm trước, tôi không thay và cũng không để ý đến nó. Nàng nhếch môi hơi mỉm cười, hai ngón tay ấn nhẹ lên lần bông băng.
– Ông còn thấy đau không?
Tôi trả lời mạnh dạn như mình là anh hùng vừa lập một chiến công.
– Không.
– Vậy thì có hy vọng lành rồi.
Nàng thoăn thoắt mở băng vừa nói:
– Ít ai như ông. Có một vết thương nơi chân mà cũng không biết đã lành chưa. Trả lời “có lẽ”, làm như vết thương của ai!
Tôi cười theo:
– Tôi lo phần nội dung hơn hình thức. Nghĩa là tôi sợ nhiễm độc bên trong hơn là vết thương lở bên ngoài.
– Cũng có lý. Vết cắn đã đóng vảy. Thôi, có thể tháo băng ra luôn.
Tháo băng? Tôi không muốn. Tôi muốn giữ một dấu tích gì của nàng. Tôi sẽ cảm thấy êm ái và an ủi.
– Có lẽ vết lành còn non. Có lẽ nên băng thêm vài hôm nữa.
– Nếu ông muốn. Nhưng để tôi thay băng mới cho.
Lại thuốc đỏ, lại bông, lại băng, lại ngón tay manh mảnh trắng muốt.
Tôi nói:
– Xin lỗi, quý danh là Sử Tuyết Quân?
Nàng ngước nhìn tôi, mở to mắt:
– Sao ông biết?
Tôi chỉ lên quyển vở đặt trên bàn.
– Tôi đọc trên bìa quyển vở kia.
– Ông đọc được chữ Trung Hoa?
– Tôi chỉ đọc được ba chữ đó mà thôi.
Nàng nhếch môi cười, có lẽ ngầm ý khen tôi trả lời thông minh.
– Cô học ở trường Trung học Hoa kiều?
– Vâng ạ.
– Học xong Cao trung mà muốn lên Đại học thì cô phải…
–… Về Đài Loan.
Tôi vụt đưa hai bàn tay giữ chặt mười ngón tay của nàng đang lần lăn cuộn băng trên làn da chân tôi. Tôi có cảm tưởng nàng sắp bước lên phi cơ đi về Đài Loan và tôi phải vội vàng nắm tay nàng giữ lại.
– Sao vậy? Ông thấy đau hả?
– Không. À, vâng… còn đau.
Cứ theo trình tự đó, Sử Tuyết Quân và tôi cứ mỗi ngày mỗi quen nhau thêm. Chẳng lẽ mỗi ngày mỗi đi xem tình hình sức khỏe của con Bobby, tôi hạn định sự cần mẫn tới mức ba ngày rồi sau đó không chịu nổi, tôi hạ xuống còn hai ngày. Con Bobby cứ hiền lành, cứ tha hồ nằm trầm tư mong đợi bữa ăn hoặc lừ đừ nhìn những con ruồi ranh mãnh cứ bò qua bò lại hoài trên mũi nó như cố ý trêu chọc nó. Nó không hề tỏ triệu chứng bỏ ăn, buồn bã, hay bại liệt một chân. Thật may cho tôi bởi lẽ có khi ba bốn kỳ liên tiếp tôi chẳng hề biết đến nó, chẳng hề hỏi xem nó nằm ở đâu, chẳng lưu ý chạy nhìn qua khuôn mặt nó một chút. Tôi chỉ biết có Sử Tuyết Quân.
Còn ông Sử Cẩm Hưng thì cứ loay hoay giữa bầy siège và lavabo, sắt tám và sắt sáu, sơn Bạch Tuyết và sơn Hột xoàn, đèn nê-ông sáu tấc và một thước hai. Ông vừa chào tôi vừa trách tôi đi chích thuốc chi cho đau đớn mình mẩy, vừa nói giá hàng cho khách và bảo đảm hàng ngoại quốc chính hiệu, rồi quay lại bảo đảm rằng con Bobby “có chích ngừa dại hẳn hoi mà!” Cuối cùng ông gọi A Thoòng đưa tôi vào nhà trong và A Thoòng cứ bận liên miên ở Nam Kiều Hải vận công ty.
Cuối cùng, khi thời hạn hăm mốt ngày chấm dứt, tôi buồn vì không cách nào lui tới để khám bệnh cho con Bobby được. Thú thật, là tôi có nói láo và ăn gian ông Sử Cẩm Hưng được hai chuyến. Một chuyến tôi giả vờ bỏ quên cuốn sách để liền hôm sau chạy tới tìm và chuyến chót, thay vì tôi cám ơn ông ngay trong ngày thứ hăm mốt tôi lại lấy cớ là hôm nay ông bận khách nên ngày thứ hăm tư tôi mới đến cám ơn ông.
Cố nhiên là tôi có nhã nhặn xin phép ông được vào nhà sau cám ơn cô Tuyết Quân đã có lòng tốt băng bó hộ cho tôi cái chân trước đây.
Câu chuyện đến đây tôi chưa muốn chấm dứt bởi vì quả tình là tôi chưa gặp một người thiếu nữ nào vừa đẹp vừa thùy mị như Sử Tuyết Quân. Nhưng tôi biết làm cách nào để được gặp nàng luôn? Chẳng lẽ đem cái chân đến dứ vào miệng con Bobby và năn nỉ nó cắn giùm? Tôi chỉ còn có cách là siêng năng mua bóng đèn, – cứ chừng nửa tháng là nói dối bóng đèn bị cháy, – đinh một phân và cuốc, xẻng, lưỡi bào, lưỡi cưa, lưỡi câu, ống ni lông, dây thép… Khi lại quầy trả tiền, tôi hay làm bộ chợt nhớ đến con Bobby và xin phép chạy xuống theo dõi sức khỏe của nó. Sử tiên sinh lại vồn vã minh xác rằng nó đã được tiêm ngừa “mới gần đây thôi, gần đây thôi mà…”
Cứ theo cái đà “theo dõi sức khỏe của con Bobby” đó, một năm sau thì hôn lễ giữa Sử Tuyết Quân và tôi cử hành. Một đại yến hai mươi thồi được tổ chức tại Đồng Khánh đại tửu gia. Hai dây pháo cao ngút từ lầu bốn chấm xuống đất nổ bưng tai, nổ tóe hào quang.
Sử Tuyết Quân không về Đài Loan để học lên Đại học nữa. Khi nàng tốt nghiệp Cao trung thì nàng đã có mang cho tôi đứa con đầu lòng, sau này tôi đặt tên là A Dành. Con Bobby cố nhiên từ đó chuyên môn vẫy đuôi mừng khi tôi lại gần. Trong bữa ăn, Sử Tuyết Quân thường lén gắp cho nó từng bún thịt bò bít tết hoặc giò lụa. Tôi bắt gặp, trừng mắt thì nàng mỉm cười đỏ mặt. Nàng nhớ ơn ông mai đó.
Tôi nhớ bài thơ của Vu Hựu với hai câu chót:
“Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn cố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương mai”
Quách Tấn dịch:
Lững lờ mấy vận trôi dòng bích
Thờ thẫn mười năm quặn mối tình
Loan phụng nay mừng duyên hợp lứa
Mới hay lá thắm chị mai lành
Tôi muốn sửa lại là: “Phương tri Bốp tử (nghĩa là con chó tên Bốp) thị lương mai”, nhưng chữ Bốp thì chắc Khang Hi tự điển không có, còn chữ “mai” viết thế nào, tôi định mở Vương Vân Ngũ tự điển ra tra mà rồi cũng lười chả bao giờ tra được. Vả lại, bây giờ tôi thường phải thay thằng A Thoòng đi xuống Nam Kiều Hải vận công ty hoặc thay chú tài phú cắt gương năm ly và chặt dây thép.
Còn siège Italy? Một hôm Sử Tuyết Quân mở cửa kho trên lầu chỉ cho tôi coi: trái với lời cam đoan chân thành của nhạc phụ tôi, số siège Italy chính hiệu Ý quốc nhập cảng đang nằm đó có thể đủ để trang bị một đại khách sạn có hai mươi phòng tắm.
– – – – – – – – –
[1] Bàn cầu vệ sinh.
Cuôi ba dùm – Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng, 1926- )
Những ngày sắp dời lên mạn Đông Đường, được biết đồng bào Thượng miền ấy có tục Cuôi Ba-Dùm là tôi bắt đầu ăn ngủ không yên. Thực ra, trong thời gian sống giữa chốn núi rừng hoang vu, lạnh lẽo thỉnh thoảng tôi cũng mơ tưởng đến những hình bóng nhẹ nhàng của các cô gái ở chốn quê hương. Nhưng sau những lần vọng tưởng như thế, kiểm điểm trở lại tôi thấy mình chẳng yêu một cô nào rõ rệt, bởi vì rõ rệt là chẳng cô nào yêu tôi rõ ràng. Tôi biết nguyên nhân sâu xa sự thiệt thòi này là tại những khi đến gần phụ nữ, tôi thường làm bộ ta đây là bậc đàn anh, lên mặt dạy bảo những điều phải trái. Khi người ta là… cấp trên, chuyên môn nói chuyện đạo đức thì thực khó lòng hạ xuống cầu xin cấp dưới một chút ân huệ ái tình. Rốt cuộc, cấp dưới trở thành một thứ cấp trên rất cao, đến nỗi tôi không tin chắc có ngày mình sẽ đạt tới.
Nhưng không phải chỉ mình tôi gây ra cho tôi sự tình cô độc mà còn tại các cô nữa. Hình như hầu hết các cô miền xuôi đều không phát biểu chân thành, giản dị ý nghĩ của mình. Vì vậy, những người không sành về khoa tâm lý như tôi, khó lòng chiều ý các cô cho được lâu dài. Lại thêm, mỗi một cô gái vừa lớn là y như ở hàng xóm và mỗi góc đường đều túc trực sẵn một chàng trai trẻ để mà cười tình và trao những lá thư duyên. Cho nên tôi không chắc rằng con người tôi yêu có thực trong trắng tâm hồn, hay là trong khi yêu tôi nàng vẫn lẫn lộn với kẻ xóm giềng nào đó.
Tôi cứ cho rằng đến nông nỗi này có lẽ mình chỉ yêu được những cô gái Thượng mà thôi, vì tôi nghe nói phụ nữ miền Thượng bao giờ cũng rất giản dị và chân thành. Do những lẽ đó, ngày lên miền núi tôi vẫn ao ước gặp gỡ một cô gái Thượng thật đẹp để mà có dịp báo thù gián tiếp các cô miền xuôi, nhưng hình như tôi lên chốn núi rừng không nhằm mục đích đi tìm đàn bà, cho nên tháng ngày trôi qua tôi chỉ gặp toàn một thứ đàn ông. Thỉnh thoảng có gặp một ít thú dữ.
Đến khi được biết sẽ lên nghỉ ngơi nhiều ngày tại mạn Đông Đường và các cô gái miền này thường cuôi-ba-dùm – nghĩa là ngủ thân ái với người khách lạ – thì tôi bắt đầu nhận thấy núi rừng không phải chỉ là vắt sên hút máu, đèo dốc cheo leo, thác nước ồ ạt tuôn đi không kể tháng ngày.
Lên đường lần này tôi đã tỏ ra hết sức hăng hái, y như một người đeo đuổi trước mắt lý tưởng cao siêu. Nhưng đến cái dốc thứ chín, thì tôi cảm thấy rõ rệt, qua cặp đầu gối, rằng mỗi một món tình yêu chưa đủ khuyến khích con người. Tới lúc bước vào cái buôn đầu tiên, gặp hai cô gái đã già ngồi bên suối nước, phô cặp vú sệ gần chấm cái váy cụt ngủn nhạt màu, giương mắt đục lờ nheo nheo nhìn tôi rồi nở nụ cười ngây ngô giới thiệu cả hai hàm răng đã cà mòn nhẵn thì tôi ngơ ngác, và loay hoay mãi vẫn không nhớ thằng ngốc nào đã từng mơ ước kết duyên với cô gái Thượng.
Chúng tôi hạ trại dưới chân một ngọn núi lớn, cạnh con sông nhỏ nước chảy lờ đờ, luôn luôn chờn vờn những bầy muỗi rừng. Ở lưng chừng núi là một cái buôn khá lớn, điểm những những nét vàng lỗ chỗ giữa nền xanh sẫm. Mỗi sáng, mỗi chiều, khói lam vươn ra từ các đỉnh nóc, quyện trên sườn cao, rồi tan chìm trong sương mờ, y như những nỗi mơ mộng của tâm hồn tôi xóa nhòa trong một ý sầu ngan ngát dâng lên từ khắp núi rừng.
Một chiều, tôi đang lặn lội tìm nguồn một dòng suối nhỏ, chợt nghe tiếng hát vang lên ở giữa rừng sâu. Tôi không biết được câu hát nói gì, nhưng giọng mềm dẻo, thỉnh thoảng ngợ ngừng ngắt quãng, thu hút lấy tôi như chất nhựa cây chập vào một chiếc lá khô. Dần dần tôi quên nguồn suối đi tìm và bước lạc vào một vùng khác lạ có nhiều mô đá cheo leo rải rác dưới chân dốc núi.
Khi gặp tiếng hát thì tôi sửng sốt đứng lại. Một cô gái Thượng đang ngồi rửa rau bên một vũng suối. Không biết có người đến gần, cô vẫn say sưa ngồi hát, đầu cúi thấp xuống soi mình dưới nước, lắc lư nhẹ nhàng, hòa nhịp với bàn tay đang chao qua chao lại từng mớ rau rừng. Tôi ngồi bên này dòng suối, gần như đối diện với cô, yên lặng rất lâu như thế để quan sát một hiện tượng chưa từng băét gặp ở trong đời tôi từ trước đến giờ. Cô nàng bé nhỏ, da ngăm ngăm đen, vóc người tròn trịa, gọn gàng trong một tấm dồ và chiếc cà tiu xanh đậm, có một vẻ đẹp hết sức… núi rừng. Lời hát hình như ứng khẩu tuôn ra do nỗi dào dạt từ trong đáy lòng, theo một khuôn khổ âm điệu có sẵn tự bao nhiêu đời, nên nghe miên man tưởng không bao giờ dứt được.
Tôi đã từng nghe nhiều cô người kinh ca hát. Nhưng hoặc con người không hòa hợp với bài hát, hoặc là bài hát không hòa hợp với khung cảnh, và hoặc người hát không giữ được vẻ tự nhiên khiến trong khi nghe, ta có cảm tưởng chứng kiến một sự trình diễn rời rạc về con người ấy còn những bài hát chỉ là cái cớ phụ thuộc. Ở đây, cây rừng, nước suối, gió ngàn và người con gái, và cả tiếng hát đều là một sự hòa điệu thâm trầm. Tôi có cảm giác đứng trước lời ca từ thuở tinh khôi, một sự thổ lộ của núi của rừng như phát tiết ra từ trong hốc đá, khe sâu, từ trong lòng đất mênh mông thăm thẳm…
Tôi ngồi lặng yên, cặp mắt mờ dần bóng hình cô gái để cho thính giác đưa về một cõi hoang vu chập chờn sắc màu man rợ, giữa một không khí u uất lá già ủ mục ngàn năm. Rồi những tiếng chim lạ lùng cất lên, dòng thác ồn áo tuôn xuống, tiếng cồng, tiếng mõ, tiếng chiêng từ đâu bừng dậy, le lói ánh hồng bếp lửa rừng khuya…
Đột nhiên tiếng hát ngừng lại, cả cái sinh hoạt bao la của chốn núi rừng như chìm hẳn xuống hố sâu. Cô gái chợt trông thấy tôi, ngừng tay khuấy nước, cặp mắt bỗng sáng long lanh. Cô hỏi vọng sang:
– Làm gì thế?
Tôi cười trả lời:
– Ngồi nghe núi rừng ca hát.
Cô hơi ngẩng lên, ngây nhìn giây lát, có vẻ không hiểu tôi muốn nói gì. Rồi cô mỉm cười, cúi xuống quờ tay chao mớ rau rừng, dường như đã quên cả người đang ngồi trước mặt. Xong việc, cô đứng lên, tay xách giỏ rau thoăn thoắt leo lên dốc đá, về buôn. Tôi im lặng đi theo sau một quãng khá dài, rồi dừng bước lại, bâng khuâng tự hỏi đi đâu?
o O o
Từ đấy bóng hình người con gái Thượng luôn luôn ám ảnh lấy hồn tôi. Những giấc mơ đã chết tiệt ngày nào bây giờ dần dần sống lại. Tôi tin tưởng rằng một dịp nào đó tôi sẽ gặp người con gái trên buôn, và tôi sẽ ngủ thân ái một đêm với nàng.
Tôi vốn không quen phân tích tâm tư để hiểu vì sao tôi lại khát khao mãnh liệt như thế. Chắc rằng ngoài lòng ham muốn cuồng nhiệt và sự tò mò của tuổi thanh niên, tôi còn bị người lớn tuổi đầu độc bằng cái quan niệm phổ biến cho rằng trình độ từng trải về một nơi nào phải được chứng minh bằng sự tiếp xúc với người đàn bà bản thổ. Đối với số hạng người này, hình như linh hồn của một dân tộc bao giờ cũng bị kẹp trong đôi vế đàn bà. Nếu chưa thật sự mở được quyển sách hai trang ấy ra, thì dù quan sát bao nhiêu thắng cảnh, ngâm đọc bao nhiêu tác phẩm địa phương, cũng vẫn chưa am hiểu gì về địa phương ấy. Do đó, tôi cứ ngại rằng ngày sau, khi về đồng nội nói chuyện đường rừng, lỡ ai sốt sắng hỏi tôi đàn bà miền Thượng thế nào thì chắc tôi sẽ xấu hổ mà ấp úng rằng không biết.
Cái ý định ấy càng ngày càng nung nấu ở trong tôi đến một cường độ không sao tả được. Tôi không bao giờ tự hỏi ý định như thế, nếu thực hiện được, sẽ gây tác hại thế nào. Sức mạnh tinh thần của đồng bào Thượng là lòng tin tưởng phong tục. Đồng bào miền Thượng bám vào phong tục như những dây leo bám lấy thân cành, như loài hổ dữ nương vào hang đá. Tôi há chẳng biết kẻ nào xúc phạm tập tục miền rừng là phải chuốc lấy oán hờn trọn kiếp đó sao? Tôi chẳng đã học từng phong tục một như học hỏi từng ngón võ hộ thân trong rừng phong tục um tùm chằng chịt của đồng bào Thượng đó sao? Cái gì đối với đồng bào miền Thượng cũng có thể thành cấm kỵ thiêng liêng: một nhánh lá tươi cắm ở đầu buôn trong mùa gặt hái còn có giá trị ngăn cản hơn ngàn lớp cửa gài bằng khóa sắt; một cái xoa nhẹ thân yêu trên đầu đứa bé có thể coi như xúc phạm bàn thờ và làm bật lên bao nhiêu tia mắt thù hằn; một thân cây lụi dùng làm gậy chống trên đường, một chút quế thơm phòng vệ những khi bệnh hoạn, lỡ mang vào tận trong nhà thì chẳng khác gì đã dẫn theo loài ma quỷ, khuấy lên bao nhiêu nét mặt căm hờn…
Tôi đã nghĩ nhiều về điều ấy qua khá nhiều đêm thức ngủ chập chờn. Nhưng lòng nhiệt nồng của tuổi thanh niên khiến tôi hoài nghi phong tục có thể cưỡng lại ý thức tò mò lồng trong sức mạnh dục tình. Từ đấy tôi cố học tập tiếng nói đường rừng. Không biết những người đeo đuổi lý tưởng cao siêu khi học tiếng người thì phải chăm chỉ ra sao, chứ tôi vì chút mục đích xin ngủ một đêm mà đã hết lòng ra công đèn sách. Bạn hữu không biết thâm ý của tôi, đều khen tôi có ý thức “nghiên cứu văn hóa miền Thượng.” Còn tôi, tuy đã tự hiểu rõ ràng, tôi vẫn cho rằng mình đang chuẩn bị “tham khảo giá trị nhân bản ở trong phong tục của các chủng tộc đồng bào…”
Nhiều lần, nhân dịp anh em lên tiếp xúc trên buôn, tôi muốn đi theo để mong gặp lại cô gái hôm nào, nhưng vẫn không sao đi được, vì bận nhiều công việc khác. Thế rồi, y như mọi lòng ham muốn và mọi đợi chờ trên cõi đời này đều cũng có dịp toại nguyện, một hôm, vào độ cuối năm, chúng tôi được lệnh lên buôn tổ chức đêm vui.
o O o
Buôn trông gần gũi nhưng khi đến nơi thì trời tối mịt, mặc dù tôi đã khuyến khích mọi người lên sớm để cho “đồng bào” khỏi phải nhọc lòng chờ đợi. Một số anh em liên lạc đã lên từ trưa bố trí công việc. Toàn buôn nhóm họp đông đủ chung quanh một đống lửa to bốc cháy ngùn ngụt giữa vạt đất lễ, chiếu sáng một vùng rộng lớn, soi rõ khuôn mặt từng người.
Trong khi anh em xếp đặt các màn ca kịch thì tôi len lỏi đi tìm con người bên suối hôm xưa. Khuôn mặt tròn trịa thơ ngây của nàng nổi bật giữa các cô gái nên tôi không phải mất công lùng kiếm. Tôi lại gần nàng, nhìn nàng một phút, cố tình cho nàng có đủ thì giờ để nhận ra tôi.
Thấy nàng cứ mải ngây nhìn, tôi hỏi:
– Có nhớ tôi không?
Nàng bỗng mỉm cười, gật đầu. Nhưng cặp mắt nàng vẫn cứ giương nhìn, tỏ vẻ không hiểu. Tôi bèn hỏi tiếp:
– Xin hỏi… tên là gì à?
Nàng cười:
– Y-Sao…
– Y-Sao! Tên hay quá há!
Tôi đứng yên, loay hoay lục lọi trong óc tìm những tiếng gì thích hợp để ghép thành câu nói chuyện cùng nàng. Nhưng một hồi chiêng vang lên. Đêm vui bắt đầu. Suốt mấy giờ liền tôi vẫn không quên thỉnh thoảng đưa mắt tìm nàng và thấy nàng vẫn ngồi y một chỗ, vẫn cười hồn nhiên, long lanh cặp mắt ngời trong ánh lửa. Tôi cố đóng trọn vai trò của mình, lòng không được vui vì nôn nao sợ những gì toan tính từ lâu đêm nay không thực hiện được.
Đến khi mãn cuộc, ngọn lửa đã tàn chỉ còn trơ lại một đống than hồng to lớn. Thay vội quần áo, tôi chạy đi tìm Y-Sao. Nàng cùng một số chị em xúm xít bên lửa, tíu ta tíu tít đun nước, nướng bắp. Ánh than hừng hực tỏa sáng lên người các cô gái Thượng mướt đẫm mồ hôi, trông có vẻ gì cổ quái lạ lùng. Y-Sao nhanh nhẹn bỏ bắp trên lớp than hồng trải rộng và nàng dùng tay thoăn thoắt lật trở nhịp nhàng từng trái, gan lì thành thạo một cách khác thường.
Tôi lại gần nàng, kêu lên:
– Y-Sao! Dùng cây gắp chứ. Nóng tay lắm kìa!
Nàng ngẩng lên cười rồi lại cúi xuống rất nhanh, tiếp tục công việc và đáp:
– Không có nóng đâu.
Muốn chứng thực thêm lời nói của mình, lần này nàng dừng tay lại rất lâu trên từng trái bắp, trước khi lật trở cho nó chín đều. Rồi nàng chồm sang bên cạnh, đưa hai tay nhỏ nhắn của mình nhắc lấy nồi nước đang sôi sùng sục trên một bếp lửa ngùn ngụt, đặt xuống một bên, rồi lại đặt lên như cũ, giữa những lưỡi lửa dữ dằn như nuốt tay nàng. Tôi kinh ngạc đứng yên tưởng mình chứng kiến những trò biến hóa của bà phù thủy. Cuối cùng tôi lại buồn rầu nghĩ rằng da thịt chai lì như vậy phỏng nàng còn biết xúc cảm là gì!
Lát sau, tôi tự trách mình đã quá lo xa và lại vui vẻ ngồi xuống bên nàng:
– Y-Sao!
– Gì à?
– Xem kịch thế nào?
– Hay lắm.
– Thế ai hay hơn hết đấy?
– Ai cũng hay cả.
– À…
Tôi lại ngồi im, không biết mình phải nhập đề thế nào. Sau cùng tôi hỏi một cách lúng túng:
– Y-Sao này…
– Gì á?
– Nướng bắp để làm gì thế?
– Để ăn…
– Cho tôi ăn nhé?
– Ừ, cho các anh ăn.
– Nhưng cho tôi thật nhiều nhé?
– Ừ, đói thì ăn nhiều. Có đói lắm không?
– Đói lắm, nhưng này…
– Gì à?
– Tôi mến Y-Sao lắm lắm.
Nàng cười vui vẻ:
– Y-Sao cũng mến các anh lắm lắm.
Con đàng gần đến, nếu dừng bước lại thì hóa xa xôi, tôi bèn đánh bạo nói tiếp:
– Đêm nay tôi ngủ nhà Y-Sao nhé?
Y-Sao gật đầu.
– Cuôi-ba-dùm nhé?
Y-Sao lại gật, mỉm cười tự nhiên, cúi xuống nướng bắp.
Thế là nàng chịu, cuôi ba-dùm moi măn[1] với tôi rồi! Không ngờ câu chuyện dễ dàng như vậy. Nhiều khi ta chạy hàng chục vòng tròn vô ích chung quanh chỗ ngồi dọn sẵn từ lâu.
Suốt buổi tiệc bắp vui vẻ thân mật, tôi làm bộ điệu rất là uể oải, đợi khi giải tán ra về tôi bèn báo cáo trong người khó ở xin được ngủ lại trên buôn. Anh em ai cũng ân cần khuyên tôi ngủ lại để mà giữ gìn sức khỏe. Có người cho rằng tôi vốn nhiệt tâm đối với văn hóa miền Thượng, ngủ lại một đêm cũng là dịp tốt để mà nâng cao trình độ ít nhiều.
o O o
Nằm bên bếp lửa chờ đợi Y-Sao, tôi đã cẩn thận bôi vào trên mũi nhiều dầu cù-là, nghĩ rằng mỗi dân tộc đều có mùi riêng mà chỉ tiếp xúc vội vàng về mặt vật chất không đủ tạo nên hòa hợp dễ dàng. Một lát, Y-Sao từ một gian nhà bên cạnh bước ra, miệng nở nụ cười tươi vui khác thường. Nàng đã thay chiếc cà-tiu mới tinh còn hôi nồng mùi lá nhuộm, và mặc một tấm áo chẽn may rất đơn giản bằng thứ vải thô điểm những sọc chỉ xanh đỏ còn tươi nguyên màu, chừng đó là áo dùng trong dịp lễ. Nàng trải xuống sàn ghép bằng những ống lồ-ô đập dẹp một tấm chiếu dày dệt bằng các thứ dây sợi lấy trong các vỏ cây rừng và bảo tôi nằm. Xong, nàng nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên kê vào một chiếc gối mây thắt rất công phu. Tôi nằm yên, ngoan ngoãn, mặc nàng sắp xếp, y như đứa bé nghe theo lời chị. Nhưng khi nàng lấy một tấm dồ rộng còn mới phủ lên mình tôi, thì tôi kêu lên:
– Y-Sao ngủ với tôi chứ?
Nàng cười, gật đầu.
– Thế tôi không thích đắp đâu.
– Khuya lạnh lắm mà! Đắp đi! Đắp đi!
Nàng nói dịu dàng, có vẻ như lời nài nỉ.
Tôi đáp:
– Ngủ với Y-Sao, tôi không thấy lạnh.
Rồi tôi gỡ tấm dồ ra.
Nàng lại ôn tồn:
– Đắp đi.
Rồi nàng kéo dồ đắp lại cho tôi.
– Y-Sao chưa đi ngủ à?
– Ngủ chứ, ngủ chứ. Có đói cái bụng không đấy?
– Không đói. Không đói. Chỉ ưng ngủ với Y-Sao thôi mà!
– Có khát nước không?
– Không khát. Không khát. Chỉ ưng ngủ với Y-Sao đó thôi.
– Hút thuốc lá chứ?
– Hút thuốc không thích bằng nằm ngủ với Y-Sao.
Những ngày sống giữa núi rừng tôi đã tìm thấy trong cái thú tút xà reo[2] một nguồn an ủi lớn lao. Đó là lãng quên, vừa là tưởng nhớ, đó là ít nhiều hơi ấm trong cảnh lạnh lùng, ít nhiều khuấy động giữa chốn vắng vẻ… nhưng bây giờ đây khói thuốc làm sao quyến rũ được tôi?
Y-Sao loay hoay sửa soạn bếp lửa. Nàng tém gọn lại rồi rút một mớ củi khô thêm vào cho lửa sáng hồng rực rỡ hơn lên. Hình ảnh bếp lửa chính là hình ảnh của mối nhiệt tình nung nấu trong tôi.
Bây giờ, có lẽ đêm đã về khuya. Qua khung cửa hẹp tôi thấy bên ngoài tối đen dày đặc mênh mông, thỉnh thoảng lập lòe điểm sáng của bầy đôm-đốm. Tôi tưởng nghe trong yên lặng âm thầm núi rừng xao xuyến chỗi dậy gom góp muôn ngàn sinh lực biến đổi sự sống để cho ngày mai dưới ánh mặt trời muôn cành thêm lá tươi, non, muôn vật thêm màu lông mới.
Gia đình Y-Sao có lẽ ngủ yên từ lâu. Ban nãy, khi nàng chưa đến, tôi thấy hai người hiện ra ở phía cuối nhà, một bà cụ già, một người trai trẻ ý hẳn là mẹ và anh của nàng – cả hai nhìn tôi gật chào, cười rất thân mật rồi biến mất sau tấm liếp.
Tôi muốn bảo với Y-Sao hát cho tôi nghe, như tôi đã từng được nghe nàng hát hôm nào, để cho đêm vui thực sự hoàn toàn. Nhưng biết rõ mình không đủ bình tĩnh chờ đợi bất cứ một sự kéo dài nào nữa, tôi hối thúc nàng:
– Khuya rồi, Y-Sao!
Y-Sao gật đầu:
– Ừ, khuya rồi. Ngủ đi.
Và nàng nhanh nhẹn nằm xuống bên tôi.
Bây giờ tôi chỉ còn nghe quả tim của tôi liên hồi đập trong lồng ngực và hơi thở tôi gấp rút, nặng nề. Đầu óc vần vũ những mớ cảm giác rối loạn, tôi không biết rõ mình đang nghĩ ngợi những gì. Tôi thoáng nhớ lại những quyển tiểu thuyết mô tả tâm trạng của người đàn ông khi nằm cạnh người đàn bà và tôi nhận thấy không có quyển nào nói đúng tâm trạng của tôi lúc này.
Từ khi Y-Sao nằm xuống bên cạnh thì tôi bàng hoàng nằm yên giây lâu, không chút cử động. Sau cùng, định thần trở lại, tôi mới thấy rõ cái vẻ kỳ dị của việc tôi làm. Nhưng tôi nhớ lại tất cả công trình nghiên cứu, tổ chức, vận động của tôi lâu nay không phải để được nằm yên bên cạnh một cô gái Thượng. Nếu chỉ có thế thì tôi nên lựa bất cứ một khúc gỗ nào thật tốt ngoài rừng đem về ôm ngủ có lẽ yên ổn hơn nhiều!
Tôi bèn bỏ tay qua người Y-Sao, kéo nhẹ cho nàng xích lại thêm gần:
– Y-Sao…
– Gì à?
– Tôi thương Y-Sao nhiều lắm.
– Y-Sao cũng thương các anh nhiều lắm.
– Sao lại các anh? Nhiều thế?
Y-Sao vẫn đáp nhẹ nhàng:
– Ừ, nhiều lắm.
– Y-Sao chẳng hiểu gì cả! Tôi bảo Y-Sao… chỉ thương lấy một mình tôi.
Y-Sao giương mắt ngạc nhiên:
– Sao thế?
Tôi làm thinh, không biết trả lời cách nào cho Y-Sao hiểu tình yêu là sự ích kỷ riêng của hai người. Nhưng tôi chợt nghĩ giữa tôi và nàng chưa hề có gì để chứng tỏ là tình yêu thì làm sao nói cho nàng hiểu được những điều đơn giản mà phức tạp ấy? Vả lại tôi không thông thạo tiếng nói của nàng, trình bày những điều khuất khúc tâm tình là việc khó khăn. Mới biết học nhiều ở trường mà thiếu một môn tiếng Thượng cũng có hại thực. Sau cùng, bắt chước ông bà từ đời thái cổ, tôi dùng bàn tay thông ngôn tình ý của mình.
Bắt đầu tôi thử vuốt ve đôi má Y-Sao. Y-Sao mỉm cười hết sức dịu dàng. Tôi hạ lần tay đặt trên ngực nàng. Tôi nghe tim nàng đập mạnh, người nàng tỏa ra hơi nóng khác thường. Khi bàn tay tôi không còn giữ đúng lễ độ con người bình tĩnh thì bị Y-Sao nắm chặt, và nàng kêu trong hơi thở:
– Đừng thế!
Rồi nàng kéo tay tôi xuống, đặt nó cẩn thận ở trên mình tôi và còn giữ chặt như thế rất lâu, ý muốn tập luyện cho nó chịu quen tinh thần kỷ luật.
Sau cùng nàng bảo:
– Ngủ đi.
Thở dài, tôi đáp:
– Không ngủ được đâu.
– Sao thế?
– Nằm bên Y-Sao, tôi ngủ không được.
Nàng nhìn tôi, sửng sốt:
– Thế à?
– Thực đấy.
Nàng chỗi ngay dậy, có vẻ hơi buồn:
– Y-Sao đi ngủ chỗ khác.
Tôi kéo nàng lại:
– Y-Sao đi ngủ chỗ khác thì tôi càng không ngủ được.
– Chẳng hiểu.
– Gì mà chẳng hiểu? Y-Sao hãy nằm xuống đi.
Y-Sao ngoan ngoãn nằm xuống. Tôi vuốt má nàng.
– Thương Y-Sao lắm.
– Y-Sao thương các anh lắm.
– Cứ thế! Không thương tôi à?
– Thương chứ. Thương nhiều lắm đấy.
– Y-Sao làm vợ tôi đêm nay nhé?
– Chẳng hiểu.
Tôi nghĩ: “Trời ơi! Gì mà chẳng hiểu, chẳng hiểu! Ngốc đến thế này thì thôi!” Và bèn đổi giọng nài nỉ:
– Tôi mở cái cà-tiu nhé?
– Đừng!
– Không cho thì tôi chết đấy.
– Chẳng có chết đâu.
– Ghét Y-Sao lắm.
Y-Sao không nói. Mặt nàng đọng lại trong dáng trầm ngâm khó hiểu. Thấy dùng văn hóa chẳng ăn thua gì, tôi quyết định dùng quân sự. Tôi vỗ về nàng, rồi thừa dịp nắm cà-tiu của nàng và giằng mạnh xuống.
Lập tức, người đàn bà co lại như bị một sức điện truyền và nàng xô mạnh người tôi, kêu lên hốt hoảng:
– Không được!
Tôi chồm người tới, cố gắng kéo nàng lại gần, nhưng nàng đã ngồi ngay dậy, xếp hai đùi lại và co hai tay trong một tư thế phòng vệ. Trong ánh lửa đêm, tôi thấy mắt nàng long lên sòng sọc, miệng nàng mím chặt, cương quyết lạ lùng.
Những ý nồng nhiệt trong tôi phút chốc đã tiêu tan hết. Nhưng lòng tự ái vội vàng thế vào chỗ trống, khuyến khích đừng nên bỏ cuộc. Tôi liền sán lại ôm choàng lấy nàng, siết chặt trong đôi cánh tay hung hãn cố làm ra vẻ tha thiết yêu đương. Để trợ lực sự chiếm đoạt, tôi bèn phát triển ý thức tò mò bằng cách khuyên mình cố gắng đến cùng để đo xem sức phản ứng của cô gái Thượng có thể chịu đựng đến mức độ nào mới phải đầu hàng. Hình như một thứ mặc cảm tự tôn của kẻ sống ở miền xuôi tự hào văn minh hơn dân rừng rú đã củng cố thêm cho tôi ôm chặt lấy nàng. Y-Sao chuyển hết sức mình cố đẩy tôi ra một cách tuyệt vọng, nhưng không kêu cứu lời nào, hình như nàng phải nhận lấy trách nhiệm đối với chính nàng cho đến phút cuối.
Tôi hổn hển bảo:
– Y-Sao nghe lời tôi đi.
Nàng đáp phều phào:
– Không đâu, không đâu, không đâu…
Nhưng nàng lả người, mềm hẳn cả sức kháng cự. Tôi nới vòng tay, đặt nàng nằm xuống, vừa toan cúi xuống mình nàng thì nhanh như con sóc rừng, Y-Sao đã lộn người lại, nhào tới phía trước. Tôi thấy nàng đứng thẳng dậy, rút vội trên sàn chiếc dáo, quỳ xuống chĩa mũi nhọn hoắt về phía ngực tôi, trợn trừng cặp mắt, nói như tiếng rít:
– Đừng bắt Y-Sao làm xấu cái buôn… Y-Sao không quen, không biết anh đâu!
Bây giờ nàng không phải là Y-Sao dịu dàng bên suối hôm nào, cũng không phải là Y-Sao hiền lành ban tối vừa qua. Đây là Y-Sao uy nghi của cảnh núi rừng hùng vĩ, Y-Sao dõng dạc của những phong tục ngàn đời giữ vững lấy sự tồn tại con người giữa lòng thiên nhiên hiểm độc. Sự chống đối của nàng không phải là sự phản ứng của một người đối với một người, mà chính là sự bênh vực của nhiều con người tập trung trong cá nhân nàng. Thấp thoáng sau nàng Y-Sao yên lặng, hung dữ như một vị thần Bảo vệ, có cả cuộc sống âm thầm dai dẳng của nhiều dân buôn, và cả màu xanh tươi thắm của rừng núi trùng điệp.
Nàng cứ ngồi yên như thế hồi lâu, sắc diện dần dần dịu lại. Tôi ngồi thẳng dậy, cố nói bình tĩnh với nàng:
– Y-Sao có giận tôi không?
– Không có giận đâu.
– Y-Sao giận đấy.
– Không giận đâu mà!
– Không phá Y-Sao nữa đâu. Ngủ với tôi, nhé?
Rồi muốn cho nàng yên tâm, tôi quờ tay lấy que củi bẻ đôi đưa lại cho nàng:
– Tôi đã thề rồi.
Y-Sao lại nở nụ cười hiền dịu, nhẹ nhàng dựng chiếc dáo nhọn nơi liếp rồi nàng ngoan ngoãn nằm xuống cạnh tôi, kéo lấy tấm dồ phủ lên người tôi. Một lát, tôi ngủ thiếp đi.
Không biết ngủ được bao lâu thì tôi nghe lạnh giật mình tỉnh giấc. Tôi thấy Y-Sao đang cúi lom khom thổi trên đống lửa sắp tàn. Ngọn lửa từ từ sáng lại, gieo tỏa hơi ấm khắp nhà. Nàng thêm củi vào rồi nhẹ nhàng, rón rén như sợ kinh động giấc ngủ của tôi đi lấy tấm liếp che cửa để ngăn hơi lạnh rừng khuya ồ ạt ủa vào. Xong, nàng lại rón rén, nhẹ nhàng đi lại bên tôi. Tôi vờ ngủ yên. Y-Sao sửa lại tấm dồ cho tôi, vuốt trên tóc tôi, vỗ nhẹ lưng tôi y như người mẹ, người chị săn sóc giấc ngủ cho con em mình. Cử chỉ âu yếm của nàng thực là vụng về nhưng rất tự nhiên làm cho lòng tôi rưng rưng cảm động. Rồi nàng kéo trải một mí của tấm dồ ra sàn, nằm đè người lên, vòng một tay qua ôm lấy mình tôi. Tôi nằm trong một lớp vải bọc kín, một đầu có người của nàng chèn giữ, một đầu có bàn tay nàng bó lấy. Tin ở lời thề, Y-Sao vẫn luôn luôn phòng vệ cho danh dự nàng!
Tôi nằm yên, tâm hồn trở lại bình tĩnh. Nhìn cô gái Thượng xinh xắn đang nằm bên tôi, nhỏ bé hơn tôi rất nhiều nhưng cố ấp ủ lấy tôi bằng một tấm lòng bộ lạc rộng lớn, tự nhiên tôi thấy xấu hổ. Sự hối hận này của tôi chẳng tốt đẹp gì, đây chỉ là sự phản ứng để hòng vớt vát thể giá sau khi thất bại, một cách che đậy những sự tầm thường trơ trẽn của mình. Nhưng tôi thấy mình trong giây phút này vẫn còn hiểu được phần nào Y-Sao là cả một sự an ủi. Bây giờ Y-Sao là hiện thân sự chiến thắng của phong tục đối với bản năng, hiện thân sức mạnh giáo hóa tập thể đối với sức mạnh hoành hành của con người ích kỷ. Trong khi tôi ép Y-Sao phải chìu theo sự thỏa mãn nhất thời và cố vẽ vời gọi là thương yêu thì Y-Sao vẫn cương quyết bảo vệ lấy danh dự nàng. Và nàng “chẳng hiểu” không phải là nàng ngu ngốc! Bởi vì bấy nhiêu tôi xem chẳng có nghĩa gì, chỉ là một sự tò mò khoác ở trên mình bộ lông da thú – nhưng đối với nàng lại là tất cả, là danh dự, là cuộc đời, là nếp sống tinh thần, là tập quán cổ truyền.
Một lát, Y-Sao chừng đã ngủ say, nhưng nàng vẫn còn ôm giữ lấy tôi, cánh tay vừa nói lên ý che chở, vừa nói lên sự đề phòng. Đợi cho hơi thở của nàng trở lại điều hòa, tôi khẽ trở mình gỡ nhẹ tay nàng, cẩn thận lật ngược mảnh dồ mà tôi đang đắp phủ lên mình nàng. Y-Sao nằm gọn ở trong tấm vải. Tôi bỏ tay qua, ôm trở lại nàng, như ôm núi rừng bao la cô đọng trong một thân xác nhỏ bé, và thấy rõ rệt từ trong đáy lòng nỗi niềm vui sướng của người yêu mến núi rừng, yêu mến vì có niềm tin…
Khi tôi thức giấc thì trên người tôi lại phủ tấm dồ và ở bên mình không thấy Y-Sao. Bên ngoài trời đã sáng rõ. Có lẽ nàng đi xuống suối lấy nước. Tôi vội ngồi dậy, gỡ liếp che cửa. Ánh sáng ùa vào tưng bừng. Núi rừng ngồn ngộn khoe khoang sắc lá tươi non, chim chóc phô màu lông mới trong buổi bình minh dạt dào sức sống của một khung cảnh thiên nhiên vĩ đại.
o O o
Một thời gian sau, chúng tôi được lệnh lên đường. Anh em rủ nhau lên buôn từ giã đồng bào. Chúng tôi tìm đến Y-Sao, gặp nàng đang giã gạo ở cuối nhà. Thấy chúng tôi, nàng buông chày, chạy ra mừng rỡ kêu lên:
– Đến rồi!
Tôi gọi:
– Y-Sao ơi!
– Gì à?
– Tối nay tôi ngủ lại nhé?
– Ừ, ngủ lại buôn đi.
– Y-Sao cuôi ba dùm với tôi một đêm nữa nhé?
– Ừ, một đêm nữa đấy.
– Cuôi ba dùm ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa nhé?
– Ừ, ba đêm, năm đêm, nhiều đêm nữa đấy.
Nàng gật đầu lia lịa trả lời, vừa nhoẻn miệng cười rất vui.
– Y-Sao ơi!
– Gì à…
– Cám ơn Y-Sao, chúng tôi nói đùa đấy mà! Hôm nay chúng tôi lên chào đồng bào, lên chào Y-Sao, sắp sửa đi rồi…
Nàng như kêu lên:
– Đi à?
Rồi nàng đứng yên như thế rất lâu.
– Y-Sao ở lại cho mạnh giỏi nhé!
Y-Sao ngập ngừng:
– Bao giờ các anh về lại cái buôn?
– Không biết bao giờ, không biết bao giờ, Y-Sao à… Nhưng chúng tôi không quên đồng bào, không quên Y-Sao, không quên cái rừng cái núi của chúng ta đâu.
– Y-Sao nhớ hết các anh, nhớ lắm lắm mà!
Khi rời khỏi buôn, chúng tôi gặp nàng đứng đợi ở lưng chừng dốc. Tôi nắm tay nàng:
– Đi nhé, Y-Sao!
Nàng gật đầu, nhoẻn cười, nhưng trên đôi mi long lanh những giọt nước mắt. Nụ cười và giọt lệ, đó là tấm lòng đưa tiễn của Y-Sao.
(Chất Ngọc – NXB Cảo thơm 1964)
– – – – – – – – –
[1] Cuôi ba dùm moi măn: ngủ thân ái một đêm.
[2] Tút xà reo: hút thuốc. (BT)
Sông Gành Hào – Sơn Nam (Phạm Minh Tài, 1926-2008)
Hồi đó, ông kiểm lâm “Rốp” được dân chúng thương mến lắm.
Ông Rốp có vài đức tánh mà các tay thực dân khác không có. Từ hồi đáo nhậm tại vùng rừng sông Gành Hào đến giờ, chung qui là hai năm nhưng ông Rốp chỉ đi “rỏn” có bốn lần. Mỗi chuyến đi, mục đích của ông không phải là rình bắt các ghe xuồng chở củi lậu thuế. Vào rừng, ông ngắm nghía từng lá cây, lắng nghe từng tiếng chim kêu, đập muỗi rồi xem giò, xem cánh từng con. Ông lại còn hái các loại ráng, dây bòng bong, dây choại, tầm gởi… đem về đồn phơi khô để nghiên cứu. Cây súng đem theo xuồng cũng chỉ để bắn khỉ, bắn lọ nồi; bắn mà chơi chớ không cần trúng đích.
Dân chúng trong vùng sông Gành Hào bàn tán qua lại để tìm hiểu ông Tây khác thường này:
– Ông “Rốp” hiền hậu quá! Bà con có biết tại sao không? Ổng thỏ thẻ với thầy hương quản rằng nhà ổng ở bên Tây nghèo quá mức. Nhờ lập công đánh A Lơ Măn[1] hồi Âu châu đại chiến nên ổng được phong chức kiểm lâm qua xứ Nam kỳ này. Mẹ của ổng trồng nho ở cù lao “Cọt”[2] cù lao “Kiệt” gì đó. Phen nọ, bà mẹ đốt đống lá khô, rủi cháy qua mấy vườn nho lân cận. Thiên hạ đòi bắt thường, kiện tới tòa. Bên này, ông Rốp vô cùng sầu thảm vì không có tiền dư gởi vể để cứu nguy, báo hiếu.
Người khác nói thêm:
– Phải! Phải! Cha nội nghèo thiệt, hèn chi muốn ở xứ này luôn, đòi ăn mắm sống, tập nói chuyện “An Nam” rành như tụi mình. Bà con giữ kín giùm chuyện này: phen đó thầy hương quản làm thịt chó rồi nói gạt là thịt nai, mời ổng tới nhậu. Ổng khen nức nở: thịt nai Cà Mau ăn sao mềm quá!
Một ông lão tỏ vẻ không bằng lòng:
– Ông Rốp là người mộ đạo. Gạt như vậy, tội chết! Nghe anh “bồi” nói lại, trên lầu đồn kiểm lâm, ổng có treo tượng Phật. Kế bên là tủ sách văn chương đạo đức, toàn chữ Tây và chữ nho… Ðêm nào ổng cũng thức đọc sách bằng đèn cầy, tới khuya.
Rốt cuộc họ kết luận: Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh trách nhiệm cầm chừng, tuy đang hành sự nhưng cũng như đã về hưu trí, ẩn sĩ qui điền. Họ càng yên tâm mà tiếp tục phát triển việc phá rừng, đốn củi lậu thuế.
Hôm đó, cha con của Tư Ðức chở xuồng củi ngang đồn kiểm lâm. Trời tối như mực, sắp chuyển mưa to, ngửa bàn tay cũng không thấy. Trên đồn yên lặng. Ánh đèn vàng vọt chiếu ra ngoài cửa sổ hé mở.
Bên bờ sông, một giọng lơ lớ, sửng sốt:
– Ghé lại! “Chéc” ghe hay là con “xáu”?
Tư Ðức điếng hồn, nhận ra được giọng của ông kiểm lâm Rốp. Trời đất hỡi! Quá nửa đêm giờ Tí rồi mà ổng còn làm gì dưới bến này? Chú Tư Ðức nín tiếng, toan bơi lẹ cho qua khỏi ải.
Ngặt ông Rốp trên bờ nói lần nữa:
– Con “xáu” hay là “chéc” ghe? Ông lớn bắn đà!
Ðốn củi lậu thuế nào phải tội nặng đáng xử tử, lỡ bề gì, chết cũng lảng quá! Cực chẳng đã, chú Tư đành lên tiếng:
– Chiếc ghe, quan lớn ơi… Tôi đi rước mụ cho vợ đẻ. Xin quan lớn cho tôi đi.
Ông Rốp càng trầm tĩnh:
– “Chéc” ghe thì ghé lại! Thầy đội đâu rồi! Ðem đèn xuống coi thử…
Bước lên bờ, chứ Tư Ðức năn nỉ ỉ ôi, xin tha tội một phen, thề nếu tái phạm thì ở tù rục xương cũng cam đành. Ông Rốp lắc đầu, ra lịnh quăng củi lên bờ, kéo xuồng vào tận “phú de” sát vách đồn. Ðêm đó, báo hại hai cha con chú Tư Ðức phải ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn bã nhớ đến ngày mai đen tối thiếu gạo nấu. Và đứa con trai đang đau bịnh rét rừng.
Sáng hôm sau, ông Rốp bảo chú Tư Ðức cứ về nhà, chờ ngày trát đòi đến đóng tiền phạt vì đây mới là lần phạm tội đầu tiên thôi.
Chú Từ bèn làm núng:
– Chết thì tôi chịu chớ tôi thề không đi về. Cha con tôi không có nhà cửa gì ráo.
– Vậy chớ mọi khi chú ăn cơm tại đâu, ngủ tại đâu?
– Dạ thưa ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi.
Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói:
– Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập.
Chú Tư Ðức cố nén cơn giận:
– Bởi vì tôi không có đất, quan lớn thương dùm. Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở không yên. Ban đêm hai cha con tôi phải thức quá khuya, quan lớn cũng thấy. Chịu đựng mưa gió muỗi mòng, đâu phải là làm biếng sợ cực!
Có lẽ nhờ câu nói khảng khái ấy mà cha con Tư Ðức được ông Rốp cho ở đậu tại nhà dưới của đồn kiểm lâm, cơm ăn không tính tiền, bù lại hai cha con phải làm cỏ, quét nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ con trai của chú Tư! Mấy viên “ky ninh” của ông Rốp không chặn được cữ rét hằng ngày hoành hành nó. Nó khóc đòi trốn về rừng. Buổi trưa không ngủ, nó lấy than bếp vẽ lên vách tường nào là hình xe hơi, hình con chim, hình cọp, hình sấu… báo hại chú Tư phải lau chùi sạch sẽ, e ông Rốp thấy mà bị rầy to.
Ðứa con trai khóc sụt sùi:
– Mình phải về, ba à!
Chú Tư chép miệng:
– Ở đây có cơm ăn qua ngày. Con đừng lo. Ổng đuổi mình, mình cũng không thèm về.
Thằng bé không hiểu cha nó đang suy nghĩ mưu kế gì.
Lâu ngày rồi quen, hằng đêm chú Tư Ðức được phép lên phòng riêng của ông Rốp để châm nước pha trà. Ngạc nhiên làm sao, trong phòng nọ toàn là sách vở, tranh ảnh! Trên vách treo nào là sừng nai, da cọp, cây tằm gởi, hình Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề. Ngay trước mặt ông Rốp là tấm bản đồ lớn, ghi nhiều mũi tên xẹt qua lại. Bên dưới bản đồ có tấm hình hai người mặc áo rộng màu vàng: họ quì gối đâu mặt lại, chắp tay xá lẫn nhau.
Ðoán sự tò mò của chứ Tư Ðức, ông Rốp hỏi:
– Biết hình gì đây không? Quí lắm đó!
Chú Tư Ðức đáp:
– Dạ, chưa biết, vì hồi nào tới giờ tôi không được vô trường mà ăn học.
– Chú theo tín ngưỡng nào?
Chú Tư suy nghĩ hồi lâu:
– Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng nghĩa là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quí mến ông già bà cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Ðất có Thổ Công, sông có Hà Bá.
– Nhiều thứ quá vậy? Tôi hỏi cái đạo kia. Chú theo đạo gì?
– Dạ, theo cha mẹ tôi nói lại thì người “An Nam” mộ đạo Phật. Tôi cũng như cha mẹ tôi.
Ông Rốp cười đắc chí:
– Nghĩa là chú Tư theo đạo Phật. Tốt lắm! Theo đạo Phật mà sao không biết hình này? Ðó là ông vua Hy Lạp tên Mi Lanh Ða hỏi kinh với pháp sư Ấn Ðộ tên Na Ga Sơ Na. Vua Hy Lạp phục tài của thầy tu Ấn Ðộ, thầy tu Ấn Ðộ phục tài của vua Hy Lạp. Hai người chắp tay xá lẫn nhau. Họ đối đáp hay lắm, ghi lại thành một bộ kinh đây này…
Ông Rốp bèn rút trong tủ hai ba cuốn sách hơi dày mà nói tiếp:
– Chữ Phạn gọi nó là “Mi lanh đa băng ha.” Chữ nho dịch lại… là Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Na Tiên là dịch âm lại tên thầy tư Ấn độ Na Ga Sơ Na.
Mấy tiếng “băng ha, sơ na” khiến chú Tư Ðức rối trí quá! Chú cố gắng nhớ lại trong chuyện Tàu những đoạn nói về Ấn Ðộ, tức là nước Thiên Trúc.
– Sao trong Tây Du không nghe nói vậy ông?
– Trước Tây Du của thầy Huyền Trang cỡ tám chín trăm năm lận! Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau.
– Tại sao vậy, quan lớn?
– Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hòng dạy lại tôi!
Chú Tư Ðức buồn bực vô cùng khi thấy ông kiểm lâm Rốp khinh rẻ người Việt Nam ra mặt. Phận vậy, đành chịu vậy, biết sao bây giờ! Cãi lại thì rất nguy hiểm, ngoài tội ăn cắp cây rừng của nhà nước, chú có thể mang thêm tội làm “quốc sự!”
o O o
Hằng đêm, ông Rốp thức đến canh ba để đọc sách.
Dưới này, chú Tư gác tay lên trán suy nghĩ liên miên. Ông Rốp có mòi mến chú hơn trước, bằng cớ là ổng bố thí cho cái mùng và chiếc áo bành tô cũ! Lúc đứa con trai ngủ say, chú Tư thường ra sân, nhìn trở lại ngọn đèn cầy mà ông Rốp đốt lên để đọc sách trên lầu.
Chú lẩm bẩm, phì cười một mình:
– Tại ổng thức đêm đọc sách Phật cho nên mình mới bị bắt giam như vầy. Ðêm đó, có lẽ ổng suy nghĩ một chuyện xưa tích cũ “ga sơ na, ma lanh đa” gì đó. Suy nghĩ không ra, ổng mới đi dạo như mình đang đi bây giờ. Rồi ma đưa lối, quỉ dẫn đường, ổng nhè gặp xuồng củi lậu của mình. Cái việc cầu đạo của ổng có hại cho bá tánh vì dục vọng của ổng còn quá nhiều.
Gió thổi hiu hiu. Dừa nước bên bờ sông uốn éo, vang lên rào rạt. Ðằng xa, một vật gì từ từ nổi lên, đi ngược giòng nước đang chảy xiết.
Chú Tư Ðức nghĩ:
– Thằng cha nào ngu quá! Xe trước gãy bánh, xe sau phải tránh. Ðêm trước, cũng vào giờ này mình đi ngang qua đây bị rình bắt. Bộ họ chưa hay biết sao vậy kìa?
Nhưng dường như vật nó không phải là chiếc xuồng; khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới, day ngang qua, chậm chạp. Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô lý! Nếu vậy thì nó theo nước xuôi, mất dạng rồi. Ðằng này, nó từ từ trôi ngược. Chú Tư Ðức cố nhướng mắt chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau. Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ, hai tia sáng xanh ngời rọi tới như hai cái đèn “bin.” Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường nghe mấy người đóng đáy nói lại. Hồi đó, chú Tư không tin. Bây giờ chú đã thấy tận mắt con sấu thần đó.
Thiên hạ nói sấu ấy đi có cặp. Tu luyện hàng trăm năm rồi, nước mặn đóng trên da nó một lớp dày, sáng chiếu lên như nước biển, đêm có trăng. Người thì cãi lại, bảo rằng đó là ánh sáng của các cô hồn bị sấu ăn thịt.
Chú Tư Ðức phập phồng trong dạ, vừa mừng vừa sợ. Có lẽ ông Rốp đã nghe nói đến cập sấu thần này nên hóa bị ám ảnh, hôm nọ ông hỏi chú: “Chéc” ghe hay là con “xáu!” Chú vào đồn kiểm lâm, lập tức đốt đèn lên. Chú lục mấy cái hũ để tìm nếp. Không có nếp, chú hốt tạm vài nắm lúa, bắc chảo lên bếp nhúm lửa mà rang.
Lúa nổ ra trắng phếu, nhảy tưng bừng trong chảo, văng tứ phía.
Chú Tư Ðức bước ra sân, khấn vái lâm râm rồi thảy mấy hột nổ ấy khắp tám hướng đen ngòm:
– Ngay cô hồn các đẳng, sống thì khôn, thác thì thiêng. Những ai xa cây, xa cội, xa nhành, đầu bãi cuối gành, hùm tha sấu bắt… Tôi tên là Ðức, họ Trường, tuổi Dần…
o O o
Thầy hương quản tất tả chạy vào đồn mà hỏi rối rít:
– Ông kiểm đâu rồi? Có ở nhà không?
Chú Tư nói:
– Dạ có, ổng đọc sách trên lầu.
Tức thời, thầy hương quản đến chào ông Rốp rồi trình bày:
– Sấu cỡ này lộng quá rồi! Hôm kia nó đập đuôi nhận chiếc xuồng trên đó có hai mẹ con. Mẹ mất xác, đứa con gái bị táp cụt chưn.
Ông Rốp hoảng hốt:
– Dữ quá vậy! Con “xáu” là thú dữ. Bên Phi Châu, bên Ấn Ðộ cũng có nó. Người Ai Cập hồi xưa sợ con “xáu” ăn thịt nên tôn thờ nó.
Thầy hương quản nóng ruột quá:
– Nhưng mà bên nước mình, tại sông Gành Hào này, nó giết người.
Ông Rốp cảm thấy áy náy:
– Nó giết người dưới sông. Thầy hương quản nên ra lịnh khuyên dân chúng tạm ngưng việc lưu thông dưới sông. Như vậy tiện hơn.
Thầy hương quản nói:
– Dạ không được. Không lui tới dưới sông, dân chúng phải chết đói hết. Lại còn ghe xuồng từ xứ khác tới, làm sao họ biết mà đề phòng? Người ở trên bờ cũng bị sấu táp nữa kìa.
– Sấu chạy lên bờ à?
– Hôm qua, sấu nổi lên lần nữa. Cô gái nọ ngồi rửa chén dưới bến, bị sấu táp, rinh luôn cái cầu thang. Hồi lâu, sấu nhả ra, cô nọ tỉnh trí lội vào bờ.
– Làm sao bây giờ, thầy hương quản?
– Khó lắm, ông kiểm ơi! Dân chúng trông cậy sự bảo hộ của nhà nước Tây trong lúc này. Mình phải giúp họ.
Ông Rốp nhìn mấy cuốn sách bìa da mạ chữ vàng trong tủ rồi lắc đầu, thở dài:
– Trong sách không có nói tới. Mình cứ bắn nó thử. Cây súng của thầy đâu rồi? Bì đạn còn không? Tôi cho thầy mượn cây súng trận của tôi.
Thầy hương quản tỏ vẻ thất vọng. Thầy dư hiểu rằng súng đạn khó mà bắng lủng da con thú nọ. Không khéo, nó bị thương rồi trở nên hung tợn hơn trước. Hơn nữa, làm sao mà bắn nó? Phải đứng dưới ghe.
Nghĩ tới đó, thầy sợ quá, muốn nhường vai tuồng anh hùng nọ cho ông Rốp:
– Tôi bắn dở lắm, ông kiểm lâm à. Ông từng đánh giặc A Lơ Măn, cầm súng giỏi hơn tôi, ông phải trổ tài mới được. Hồi nào tới giờ tôi chỉ quen cây “cà líp xây”[3], nó yếu lắm.
– Chiều nay, tôi sẽ tính.
Ông Rốp tạm trả lời như vậy để tống khô thầy hương quản một cách khéo léo. Ông rất sợ sấu, đó là nhược điểm của trời phú cho. Ðó cũng là nguyên nhơn khiến cho ông ít dám đi “rỏn” bắt củi lậu thuế; do đó dân làng tưởng lầm rằng ông là kẻ nhơn từ.
Ðứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư Ðức, hy vọng rằng “nuôi quân ba tháng, dụng quân một ngày.”
Chú Tư Ðức nói với ông:
– Việc đó không khó cho lắm. Từ mấy bữa rày, tôi có ý mong chờ để ra tay. Cô hồn đã hiện về báo tin cho tôi biết. Dè đâu, sấu này dữ tợn quá vậy!
– Chú hay trước à? Chú có phép? Tôi không tin.
Tư Ðức bèn dẫn ông Rốp ra sân, chỉ mấy hột nổ rải ra khắp hướng, đêm hôm trước.
Ông Rốp gật đầu hỏi tiếp:
– Bây giờ mình làm thế nào?
Tư Ðức hỏi ngược lại:
– Tôi là kẻ quê mùa. Ông cần dạy tôi trước chớ!
– Tôi kiếm chiếc ghe thật lớn. Chú Tư chèo sau lái; tôi đứng trước mũi, rình bắn nó. Ðược không?
Chú Tư Ðức mỉm cười:
– Sấu lâu lâu mới nổi lên một lần. Biết nó nổi ngay khúc sông nào, đúng giờ phút nào mà rình? Chừng hay được thì nó lặn mất. Nếu nó không lặn mất thì…
Chú Tư cố tình không nói dứt.
Ông Rốp nhướng mắt:
– Thì sao?
– Thì nó quật đuôi, ghe phải chìm. Sấu này dài ít nhứt năm thước. Ðứa con nít có thể ngồi chàng hảng cưỡi trên đuôi của nó được. Lớn lắm! Nó nhai luôn cây súng của ông. Sấu đội đèn mà!
Ông Rốp hoảng hồn.
Chú Tư Ðức nói tiếp:
– Ðể đó cha con tôi trị nó. Miễn là hương chức làng giúp chừng vài trăm cây tre làm bè. Mồi thì dùng heo, chó. Dân “An Nam” xưa nay bắt sấu không cần súng đạn, họ bắt sấu từ hồi Tây chưa qua lận kìa! Phải là thứ sấu nhỏ, tôi lặn xuống sông, bắt lên trong nhấp nháy cho ông coi chơi.
– Cách nào?
– Tôi móc con vịt vô lưỡi câu rồi tôi đứng dưới nước, cầm đầu sợi dây. Chừng sấu lại ăn mồi vịt, tôi lặn xuống đáy sông, đi vô bờ, ghịt đầu dây vào gốc cây mà kéo con sấu nọ lên. Cặp sấu dưới sông kỳ này lớn lắm. Ông cho phép tôi về rừng đem vài món đồ nghề lại. Ông nhắc thầy hương quản cho tôi xin chừng bảy trăm cây tre và bốn người dân phụ sức.
Tre đốn về, Chú Tư Ðức nhờ bà con kết một cái bè thật to, trên dựng hai cái thang, cao chừng ba thước.
Năm sáu lưỡi câu sắt đã buộc vào chung quanh; trên sàn bè, chú Tư xây cái chuồng nhỏ trong có để hai con heo, một con chó. Nóc chuồng có rơm, lá dừa che lại kỹ.
Hai hôm sau, chú nói:
– Mời quan lớn, thầy hương quản và anh em quen biết xuống bè làm lễ. Tới giờ rồi.
Ông Rốp hỏi:
– Lễ gì?
– Dạ, lễ cúng cô hồn.
Heo nọ thọc huyết ra để tế cô hồn. Chú Tư rảy hột nổ khắp sàn và trên mặt sông. Nhang đèn tỏa nghi ngút. Chú bèn đánh lên ba hồi mõ. Xác con heo nọ bị móc vào lưỡi câu, thả xuống.
– Bây giờ thì mời quan lớn lên bờ. Nếu quan lớn muốn đi theo cũng được.
Ông Rốp nói:
– Thôi… tôi ở trên bờ ghi chép. Bậy quá! Ở đây mình không có máy chụp hình, tôi muốn chụp làm kỷ niệm để gởi về bên Tây. Cái bè này sao giống chiếc tàu binh ở Âu Châu quá. Hai cái thang bắc cao lên coi như cây cột dây thép gió.
Ông Rốp, thầy hương quản lần lượt vỗ vai, “bủa xua” hai cha con chú Tư. Chú hút thuốc rồi hỏi đứa con trai:
– Thúng cơm khô con có đem theo không?
Nó đáp:
– Dạ có.
– Nhiều hay ít vậy con?
– Nhiều lắm. Ðủ ăn ba bốn người. Con có mua chịu cho cha một lít rượu.
Ðứa bé trao chuyền qua Tư Ðức bốn cái ống tre đựng đầy ngọn mun (lao sắc). Phần nó thì cầm cái mỏ bằng tre.
o O o
Ngày qua, ngày lại.
Chiếc bè trôi lên trôi xuống theo nước lớn nước ròng. Hai cha con Tư Ðức ngồi cú rũ bên chuồng nọ. Thỉnh thoảng, chú nhắc chừng thằng bé, bảo nó chọc cho con heo, con chó kêu lên.
Trên này, ông Rốp mãi theo dõi, nhưng lần lần thất vọng. Qua ba ngày sau, miếng mồi (con heo) đã sình nổi lên, diều quạ, kên kên bu lại kêu ỏm tỏi, chú bèn thọc huyết con heo còn lại mà thay vào.
Con chó sủa ngày một thỏn mỏn, vì mệt, vì đói.
Ðã đến ngày thứ tư. Mặt trời chưa mọc, ông Rốp bỗng giựt mình thức dậy vì tiếng mõ nổi lên inh ỏi.
Ông lập tức xuống lầu, chạy lại mé sông nhưng nào thấy gì đâu! Sương mù chưa tan, chỉ nghe dưới sông tiếng ồ ồ như bầy trâu đang lôi. Ông thủ cây súng trận nạp đạn vào nòng, chờ bóp cò.
Thầy hương quản đã đến:
– Ông kiểm ơi! Nó mắc câu rồi! Ông có nghe tiếng mõ không?
Rồi thầy quát to:
– Hương ấp đâu? Hương tuần đâu? mấy người chạy khắp xóm mà truyền rao mỗi nhà phải đánh mõ, đánh trống lên… Không thì đập xuống ván ngựa, đánh vô mâm thau, nồi đồng gì cũng được. Mình phải tiếp sức với hai cha con Tư Ðức!
Nắng lên cao.
Tiếng mõ dưới sông càng thúc giục. Rõ ràng cha con Tư Ðức đang đứng chót vót trên hai cái thang, lú khỏi mặt nước. Chiếc bè đâu không thấy. Hai cái thang nọ chạy tới hàng trăm thước, đứng sựng lại rồi vụt chạy lui, nhanh hơn tàu đò.
Tư Ðức cầm ngọn lao, hờm sẵn. Ðứa con đứng kế bên gõ vào mõ lia lịa. Hai cái thang lắc qua lắc lại như cột buồm ghe bị bão, vậy mà họ không té. Chập sau, cách chiếc bè chừng năm mươi thước, con sấu mắc câu bỗng nổi lên thoi thóp, dài như chiếc ghe độc mộc.
Chiếc bè từ từ nổi lên.
Dân chúng hai bên bờ la lớn:
– Nó kìa! Trời ơi! Làm sao giết nó mau!
– Mình phải tiếp sức với Tư Ðức.
– Trời thần ơi! Thằng nhỏ con của Tư Ðức gan dạ quá! Thiệt cha nào con nấy!
Ông kiểm lâm Rốp liền nói với thầy hương quản:
– Để tôi bắn con sấu!
Thầy hương quản vô cùng e ngại:
– Không nên! Quan lớn đừng làm vậy! Sấu hoảng hồn chạy mạnh quá đứt dây đỏi thì sao?
Một người phía sau nói với tới:
– Sợ bắn không trúng con sấu mà nhè bắn trúng sợi dây! Báo hại công trình của người ta chịu cực mấy ngày rày.
Thầy hương quản day lại:
– Ðứa nào đó? Ðừng nói bậy. Ông kiểm lâm ổng buồn.
Hằng chục người, một tiếng thét to:
– Giết chết nó đi!
Mặc dầu bị nước văng lên, mình mẩy ướt loi ngoi lóp ngóp, chú Tư đức vẫn tỉnh táo phóng xuống lưng con sấu một ngọn lao.
Sấu nó hụp xuống, ghì chiếc bè khuất dưới nước.
Hai cha con Tư Ðức đứng cheo leo trên thang mà chờ, ngọn lao khác hờm sẵn nơi tay.
Ông Rốp há miệng, nói với thầy hương quản:
– Hay quá! cái bè này giống chiếc tàu lặn đó. Khuất hết chỉ còn hai cái thang.
Chưa dứt lời, sấu nó nổi lên, uốn éo đập đuôi đùng đùng. Ngọn lao ghim trên lưng nó khi nãy đã văng đâu mất!
Tư Ðức hươi tay lên phóng xuống ngọn lao khác. Rồi không đợi nó lặn xuống, nhanh như chớp, chú phóng thêm ngọn nữa, cũng ngay lưng.
Sấu ta lại chìm.
Nhưng từ phía xa, một con sấu lạ hiện ra, lội nhanh tới sát hai cái thang của cha con Tư Ðức. Ai nấy rú lên:
– Sấu đực chạy lại tiếp sấu cái. Coi chừng nó nghe chú Tư!
Thầy hương quản la lớn:
– Ðánh trống, đánh mâm thau cho nó sợ. Bà con mình cứ đứng coi hoài, quên hết phận sự. Tệ quá!
Một mình mà đối phó với hai con sấu! Tình thế của chú Tư Ðức càng nguy nan! Lợi hại nhứt là con sấu mạo hiểm vừa xuất hiện đến cứu bạn. Nó còn sung sức, dám đánh bạo lại sát bè. Miệng nó đỏ hói, hàm răng dài như lưỡi cưa. Bình tĩnh, chú chờ nó lại gần.
Hai cây lao phóng xuống.
Sấu ta quay mình lại, đập đuôi thật mạnh vao hai cái thang. Hai cha con Tư Ðức đề phòng kịp thời nên không té nhào.
Con sấu lạ nọ lại nổi lên đằng xa, quậy nước rồi lặn mất.
Trong khi ấy, bè tre từ từ nổi lên. sợi đỏi dài rung rinh. Nơi đầu dây đằng kia, con sấu bị mắc câu đã quá mệt mỏi, nằm lé đé.
Mấy cây lao còn lại trong ống tre đã lần lượt phóng xuống, sấu ta không còn đủ sức để hất mấy mũi sắt đó nữa. Hắn lắc lư cái đầu rồi khuất dạng như chiếc tàu chìm.
Phen này, chiếc bè không bị ghì xuống như trước.
Chú Tư vô cùng mừng rỡ, đoán chừng sấu nọ chịu chết. Ðứa con trai của chú ngưng tiếng mõ. Chú lấy khăn chùi mấy giọt nước trên mặt rồi quơ khăn lên, làm dấu hiệu:
– Bà con đâm xuồng ra mau để kéo bè này vô bờ! Tôi mệt quá rồi!
Hằng chục chiếc xuồng và ghe biển đâm ra. Ai nấy buộc đỏi vào bè rồi cố sức kéo. Họ vừa mừng vừa cảm động. Trên bè, không có một món gì ráo; chuồng heo, thúng cơm khô, chai rượu đều văng mất. Nhiều nuột mây bị đứt, chiếc bè dường như sắp rã ra từng cây tre nếu cuộc chiến đấu kéo thêm vài giờ nữa.
Vừa bước lên bờ, chứ Tư Ðức liền gặp ông kiểm lâm Rốp. Ông ôm chú và thằng bé nọ vào lòng rồi nói tíu tít:
– Giỏi quá! Chú Tư giỏi quá! Thằng nhỏ gan quá! Nó bị bịnh rét mà còn mạnh quá! Tôi mời hai cha con vô đồn.
Chú Tư Ðức nhìn lại xác con sấu mà mỉm cười:
– Ðể tôi ở lại coi nó.
Ông Rốp nói:
– Thầy hương quản ơi! Trước khi mổ bụng con sấu, thầy phải cho tôi hay nghe! Tôi dẫn chú Tư vô đồn uống rượu ấm, thay quần áo để chú Tư ngừa bịnh.
Vào đồn, ông Rốp bắt buộc chú Tư phải nằm xuống nghỉ mệt, thay quần áo ka ki mới, đắp mền.
– Rượu “cổ nhác” bên Tây nè! Uống đi chú Tư. Rượu này của mẹ tôi bên cù lao “Cọt” gởi riêng qua cho tôi.
Chú Tư hớp một miếng:
– Ðược rồi, quan lớn.
Ông kiểm lâm nói:
– Uống hết đi! Tôi rót nữa cho.
Miệng nói, tay của ông thoa bóp lia lịa dùm chú Tư:
– Hết sức giỏi! Người “An Nam” hết sức giỏi! Chú Tư câu được bao nhiêu sấu rồi? Học nghề với ai vậy?
Chú Tư nói:
– Dạ, nghiệp của ông bà truyền lại. Bây giờ con cháu noi theo.
Ông Rốp gật đầu:
– Phải! Bữa nào chú nói kỹ lại cách thức câu sấu để tôi viết thành cuốn sách, gởi về bên Tây cho mẹ tôi được biết. Rồi chú rán câu con sấu còn lại. Chừng đó tôi đi theo, đứng trên cái thang đánh mõ thử một lần.
Chú Tư suy nghĩ:
– Không được đâu!
– Con sấu kia lợi hại lắm. Phải trừ cho hết. Tôi đọc trong sách thấy rằng loại sấu lớn thường ở nơi yên tịnh, luôn luôn đi hai con đực và cái.
– Ông lớn nói đúng. Nhưng mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất.
– Tội gì vậy, chú Tư?
– Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó.
Ông Rốp mãi suy nghĩ, vuốt râu:
– Dân “An Nam” giỏi quá, hiền từ quá! Chú Tư họ gì, mấy tuổi? Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức “bếp”, ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.
Chú Tư Ðức cười:
– Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng[4].” Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ…
– Chi vậy?
– Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng… không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh. Tôi muốn làm nghề khác.
– Nghề gì?
– Nghề đốn củi. Chừng hết củi thì đào kinh, làm ruộng. Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền: họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện.
Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.
Ông chắp tay lại mà nói:
– Tôi khen chú nhiều lắm.
Chú Tư Ðức bèn chắp tay xá ông Rốp mà trả lễ:
– Ông xá tôi, tôi ngại quá! Giống như hình ông vưa Hy Lạp với thầy tu Ấn Ðộ trên vách, dưới tấm “bông đồ.” Hôm nọ, hồi tôi mới bị bắt, ông nói cái tích “xơ lanh đa” gì đó…
Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa: hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt và máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.
Ông Rốp buột miệng:
– Chú Tư Ðức là thầy tu Na Ga Sơ Na.
Chú Tư nói:
– Trời ơi! Không dám, tội chết! Tôi là người làm ăn. Tôi không xứng đáng lên Niết Bàn. Quan lớn có thương thì cho tôi xin lại chiếc xuồng bị tịch thâu bỏ “phú de” hổm rày. Nó là nồi cơm của tôi. Ðể trên khô, nó mau hư lắm.
Chú Tư Ðức muốn nói thêm nữa. Chú muốn ví phận mình như một cô hồn bị sấu ăn thịt, hổm rày sống vất vưởng trong đồn này như sống trên lưng con sấu đội đèn nọ. Không khéo, thiếu khí phách ngang tàng, chú có thể bị ông Rốp quyến rũ làm “bếp” kiểm lâm.
Chú không dám nói ra điều ấy e mất lòng ông Rốp. Chú lắng tai, chờ lịnh xá tội, trả lại chiếc xuồng. Nhưng ông Rốp dường như không chú ý. Có lẽ ổng đang suy nghĩ chuyện khác. Ổng chắp tay sau lưng, đi tới đi lui cứ nhìn bức tranh và tấm bản đồ, đôi mắt mơ mơ màng màng như sám hối trong giây phút những sự hiểu lầm chồng chất trong tâm ông từ mấy chục năm qua.
Bỗng từ dưới lầu, thầy hương quản gọi vọng lên:
– Quan lớn ơi! Chú Tư ơi! Xuống đây mà xem. Bà con đang mổ bụng con sấu, lớn lắm! Thằng con của chú Tư cưỡi trên cái đuôi sấu mà hai chân nó như hỗng mặt đất lận kia!
(Trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, 1962)
– – – – – – – – –
[1] A Lơ Măn: tiếng Pháp là Allemagne, nước Đức. (BT)
[2] Kọt: Đảo Corse. (BT)
[3] cà líp xây: tiếng Pháp là calibre seize (calibre 16), tên một loại súng trường kiểu cũ. Số 16 chỉ số viên đạn được đúc từ mỗi pound (453g) chì, tức mỗi viên đạn nặng khoảng 28g. (BT)
[4] Thấy việc nghĩa không làm thì không phải là dũng, thấy người bị nguy không cứu thì không phải là hùng. (BT)
[3] cà líp xây: tiếng Pháp là calibre seize (calibre 16), tên một loại súng trường kiểu cũ. Số 16 chỉ số viên đạn được đúc từ mỗi pound (453g) chì, tức mỗi viên đạn nặng khoảng 28g. (BT)
[4] Thấy việc nghĩa không làm thì không phải là dũng, thấy người bị nguy không cứu thì không phải là hùng. (BT)
Hòn Cổ Tron – Sơn Nam (Phạm Minh Tài, 1926-2008)
Ông Từ Thông ra hòn Cổ Tron cất chòi mà nương náu không biết từ bao nhiêu niên kỷ rồi. Tóc của ông lốm đốm bạc, khi thì thả dài xuống khỏi lưng quần, khi thì bới thành búi to sau ót, gài lại bằng một cọng gai kim quít. Một bộ quần áo nghĩ cũng hơi dư mặc đối với ông! Nhiều khi năm ba tháng liên tiếp ông phơi lưng trần với nắng, bên mấy gốc săn đá cổ thụ, lá cành xơ xác vì những cơn gió triền miên của biển khơi. Khi trời nực thì có những khe suối trong veo đón mời. Ông cứ ung dung mà uống, mà tắm một cách tự nhiên, vô tình khuấy rối giấc mơ của đàn bướm trắng đang xao động bay lên chập chờn như muốn rời mấy nhánh mai hoằng lơ thơ cúi nghiêng mình chấm mí nước…
Hôm nào vui cho bằng hôm mười bốn, hôm rằm! Ông Tư Thông ra sau rẫy, đào lên củ khoai môn to lớn, đem luộc chín. Ngồi trên vồ cẩm thạch. ông chậm rãi ăn buổi chiều, thỉnh thoảng rứt từ miếng khoai thảy xuống nước. Loài cá nhỏ bu lại nhởn nhơ, mỗi con khoe một vẻ riêng. Tận dưới đáy biển, loại sò, loại ốc, loại nhúm đang há miệng, le lưỡi bò chậm chạp trên nền đá tím nổi gân vàng, trên nền đá vàng nổi gân trắng. Hoàng hôn tràn tới chính là lúc cảnh vật dưới nước ngời lên, bóng mây phản chiếu lấp lánh như gấm. Ðêm về, trăng mọc. Nơi thủy cung rộn rịp nào kém chốn trần gian! Từng đợt rong chìm lửng lờ mơn trớn, khoác thêm lớp xiêm lụa mỏng cho bầy cá hướng. Và muôn vì sao trên dải Ngân hà sa xuống đậu lấm tấm khắp nhánh san hô trắng bạc.
Ở hòn Cổ Tron giữa vời vịnh Xiêm La này, ông Tư Thông cơ hồ quên cả loài người và loài người cũng hầu như quên rằnh mình có một đồng loại ở ngoài mỏm đá chơi vơi kia. Ðiều ấy, chúng ta không nên trách ai cả, chẳng qua là… hải giác thiên nhai[1]. Không lẽ ông phải vượt bốn mươi cây số đường biển để tới công sở Lại Sơn, bên Hòn Rái mà trình diện? Chính quan chủ quận Châu thành Rạch Giá còn ngán đi kinh lý đến làng Lại Sơn! Từ dinh quận của ông đến công sở làng ít nhứt cũng là năm chục cây số đường hải đạo mênh mông sóng cồn. Mấy chiếc “ca nốt” oai hùng trong sông rạch chỉ là cái vỏ trứng vịt giữa biển. Nhà nước thuộc địa nào chú ý đến việc cung cấp tàu đồng, tàu sắt để quan chủ quận đi cai trị dân! Không lẽ ông quận lại cưỡi ghe bầu hằng trăm cây số! Vả lại ghe bầu nào phải như chim trời mà bay thẳng một đường ngay. Ghe chạy theo đường gãy. Ngoài biển khơi, đường gãy là đường gần nhất giữa hai điểm cách nhau; cái khoảng gần trăm cây số trên kia kéo dài gấp ba, gấp bốn.
Năm ấy, tháng ấy, ngày ấy… ông Tư Thông bỗng nghe chút gì băn khoăn, rạo rực trong lòng ông và ở ngoài đời. Từng đàn chim sắt đen ngòm như bầy quạ bay lượn quanh hòn Cổ Tron, rú lên, rít lên, lắm lúc như toan đáp xuống, đột nhiên đảo ngược, đi thẳng một mạch khuất trong mây khói.
– Bữa nay họ làm cái gì vậy cà?
Ông Tư Thông hối hả trèo lên chót đá mà ngóng. Hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc không có gì lạ. Duy có hướng Ðông: kìa, sừng sững dưới ánh nắng mai năm ba hòn đảo nhô lên, những hòn đảo mới lạ. Ông trố mắt liên tưởng đến phép dời non lấp biển rất nhiệm mầu của tay Thợ Trời khéo léo. Không thể lầm lẫn được! Hồi nào đến giờ, ông rất sành sỏi về vị trí mấy hòn đảo nhỏ án ngữ chung quanh đây. Từ hòn đảo mới nổi ấy, một đốm trắng ngời, một chiếc “ca nốt” rồi hai chiếc, ba chiếc đang rẽ sóng chạy phăng lại nơi ông đang ở. “Tự năm bảy năm nay, mình chưa mất lòng một con sâu, một con kiến, không lẽ bây giờ có kẻ báo oán mình? Oán nào đã gây ra mà báo?” Nghĩ vậy, ông trở xuống chân hòn sát mé biển, chờ đợi.
Chập sau, mấy chiếc “ca nốt” xáp gần bờ; họ đưa tay ngoắc ông.
Người Việt Nam nọ lên tiếng:
– Ông già! Lại đây quan lớn hỏi.
Ông Tư Thông nhìn năm sáu người mặc võ phục trắng đứng gần thầy thông ngôn.
Mốy người mặc võ phục nói ríu rít. Ông đoán đó là “tiếng Tây.”
– Ông già! Ðây là Bu Lô Ða Ma?
Ông đáp:
– Dạ không biết. Nó là hòn Cổ Tron. Chung quanh đây là mười hòn nhỏ khác. Không có nơi nào kêu là hòn Ða Ma…
– Vậy thì nó là hòn Nam Du. Trong bản đồ ghi rõ đường hoàng. Ông nói kỳ quá!
Ông Tư Thông lắc đầu:
– Dạ, lời thật khai ngay. Tôi không biết. Xung quanh đây là hòn Mẫu, hòn Dài, hòn Cổ Sơn, hòn Móng Tay.
Chập sau, thầy thông ngôn mới đồng ý:
– Ðúng vậy, Bu Lô Ða Ma hoặc hòn Nam Du là tên theo sách chữ nho, theo nhà binh. Hòn Cổ Tron là tên tục của nó. Nè ông lão! Quan lớn ra lịnh như vầy…
– Bẩm thầy, quan lớn là người của nước nào?, tôi chưa rành.
– Ông giỡn sao chớ? Hay là ông ngủ mê? Cỡ này, nhà nước thuộc địa Tây đánh với nước Xiêm.
– Bẩm thầy, đánh ở đâu? Tôi chưa được am tường.
– Ðánh tại nước Cao Miên. Ðánh luôn tại Bu Lô Ða Ma tức là cái hòn Cổ Tron này.
Ông Tư Thông cau mày:
– Mô Phật. Cầu xin Phật Trời…
Thầy thông ngôn đắc ý:
– Không sao đâu! Hễ làm con dân thì phải gánh vác nghĩa vụ. Quan lớn muốn biết hổm rày có tàu bè lạ nào chạy tới đây do thám không?
– Dạ, không thấy.
– Hòn này bao nhiêu dân đinh?
– Bẩm thầy, có một mình tôi thôi. Còn mấy hòn gần đây, tôi không rành. Chắc là năm bảy người, toàn dân “An Nam” mình.
– Ðược, thôi bây giờ quan lớn muốn ông kiếm dùm trái cây, nước ngọt. Rồi quan lớn cho chút ít tiền… Thời buổi này ông nên xài phí. Việc sống chết bất thường lắm!
Có lẽ sợ ông Tư Thông trốn luôn trên chót hòn nên thầy thông ngôn đi theo sát bên ông, sẵn sàng giúp ông quảy mớ chuối, mớ mít.
Trước lạ sau quen, ông Tư Thông dọ hỏi sơ qua về tình hình trong bờ:
– Trận giặc này không biết dân “An Nam” mình hao nhiều không thầy?
– Hỏi làm chi vậy? Ở đây yên thân già của ông rồi. Nghe nói dân miệt Hốc Môn, miệt Long Hưng… nhộn dữ lắm. Tây không muốn nói chuyện đó.
Một mối buồn len vào tâm não ông Tư Thông. Ông nghe gió thổi bốn bề, lạnh lùng. Lương tri như rực sáng nhắc nhở ông món nợ gì đó đối với đồng bào, giang sơn. Không giúp nước được thì ít ra ông cũng cần biết những gì xảy ra đau buồn trong nước. Cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Cá có hang. Ðôi mắt già của ông Tư Thông ngẩn ngơ nhìn muôn lớp sóng cồn. Chân trời u ám, mấy đám mây tang bay thấp là đà… Ông hổ thẹn, tủi bấy phận mình không bằng con đỗ quyên đêm hè kêu khắc khoải.
Thầy thông ngôn nói khiến ông giựt mình:
– Quan lớn đi về. Ông muốn xin điều gì, vật gì không? Ổng tử tế lắm.
Ông Tư Thông chắp hai tay ra vẻ cung kính:
– Tôi muốn vô trong đất liền, miệt Rạch Giá hay Cà Mau gì cũng được để thăm bà con. Nhờ quan lớn cho giấy phép chớ thời buổi chiến chinh này… Tôi không có giấy thuế thân, hồi nào tới giờ.
Vị quan hải quân gật đầu. Thầy thông ngôn viết lia lịa rồi vị quan ký tên. Ông Tư Thông cầm miếng giấy thông hành hộ mạng nọ, vô cùng mừng rỡ:
– Chúc quan lớn đi bình yên. Mà… Quan lớn chạy “ca nô” về đâu?
Thầy thông ngôn nói:
– Về tàu lớn. Mấy chiếc tàu binh… của tôi sơn có vằn có vện. Ông không thấy sao? Họ sơn tàu lại cho giống cái hòn giữa biển. Hồi sáng tụi tôi bỏ ống dòm thấy rõ ràng ông đứng trên chót hòn này. Nhờ vậy mà ông khỏi bị bắn. Ban sơ, quan lớn tưởng đâu hòn này là chiếc tàu binh của kẻ nghịch. Ông hiểu chớ?
o O o
Chưa vô tới bờ chợ Rạch Giá là ông Tư Thông cảm thấy cuộc đời đảo ngược, từ địa vị hoàn toàn tự do đến chỗ mất tự do. Ông trung thành với đất nước nhưng cớ sao đất nước đối xử với ông quá bạc bẽo, ghẻ lạnh? Từ hòn Cổ Tron, ông quá giang tàu buôn Hải Nam đi một mạch tới hòn Tre, nhờ chiếc ghe câu kiều đưa vào chợ. Dè đâu tàu của sở “đoan” xét hỏi. Miếng giấy thông hành nọ bị hồ nghi là giả mạo vì không có đóng mộc, vì đương sự không có giấy “lão” chứng tỏ rằng tên họ của mình đúng như trong giấy phép. Tàu “đoan” chở ông về giao cho ông cò Tây. Giam giữ ông được hai ngày, ông cò phú nội vụ qua dinh quận. Ông quận vốn là người mộ đạo Phật nên cho phép ông Tư Thông được tự do đi dạo chợ.
Ông Tư Thông bày tỏ lý do:
– Dầu muốn trở về hòn Cổ Tron, không dễ gì kiếm được ghe xuồng mà quá giang. Gió thổi Nồm rồi. Phải chờ mùa Bấc…
Dạo chợ mấy buổi, ông Tư Thông phát chán. Cầm mấy cắc bạc (của ông chủ quận cho) ông không biết nên mua sắm, ăn uống những gì. Rốt cuộc, ông mua tiền xu khoai môn mà ngồi ăn ngon lành nơi góc chợ. Còn dư, ông vào tiệm hàng xén mua nhang đèn cầy để về cúng bà Chúa Hòn mặc dầu ngoài hòn không có chùa miễu gì cả. Ông cũng thích chí sực nhớ lại mua vài cây kim, nửa cân đường cát trắng.
Nhiều lần quan chủ quận viết thư qua bót ông cò hỏi thăm nhưng không được sự giải quyết nào dứt khoát. Chẳng lẽ giam giữ ông Tư Thông mãi mãi? Nhìn vào bản đồ vịnh Xiêm La, ông quận nảy sanh ý kiến:
– Hòn Cổ Tron tuy thuộc quận Châu Thành nhưng nằm gần phía làng Ðông Hưng, quận An Biên. Ngày năm tây tháng tới, ta đón thầy xã trưởng Ðông Hưng mà gởi ông đạo này.
Rừng của làng Ðông Hưng âm u quá, khó mà nhìn ra xa quá vài công đất để tìm lại chân trời; chạng vạng là un khói lên, không như hồi ở ngoài hòn Cổ Tron, hồi ông ngủ trần không cần mùng mền. Thầy xã trưởng giao trách nhiệm gìn giữ ông cho thầy hương quản. Thầy hương quản lại đổ gánh nặng ấy cho người em vợ là hương tuần Hay.
Người giam giữ và người bị giam giữ lần hồi cảm thông nhau. Chú hương tuần lo đặt rượu đế. Ông Tư Thông đi cắm câu, kiếm “mồi” về nhậu.
– Ở đây vui quá phải không?
Ông Tư Thông gật gù:
– Không được vui lắm. Coi bộ bà con mình nghèo hơn ở ngoài hòn Cổ Tron của tôi. Áo quần không có. Mình mẩy bị ghẻ khuyết ăn lở lói thâm niên. Nhà cửa xiêu vẹo, nay ở mai dời… Chắc là tại giặc Xiêm.
Hương tuần Hay trả lời:
– Giặc đâu không thấy. Người ta đánh mà mình chịu cực mới đau thương cho chớ!
– Buồn quá, chú hương tuần à!
– Hơi đâu mà buồn. Xứ này chịu cảnh này không biết tự hồi nào, từ hồi chưa có giặc Xiêm lận. Riết rồi quen, yên tịnh.
Ông Tư Thông thích chí:
– Thì ở ngoài hòn Cổ Tron của tôi, tứ bề sóng gió nhưng mà cũng yên tịnh. Cớ sao? Vì chung quanh có hàng chục hòn khác án ngữ. Tôi là người chạy giặc, vô trong đất liền này thăm bà con… Nhưng mà cũng yên tịnh. Nhờ bà con thương tình.
o O o
Ngày tháng trôi qua đều đều. Hôm ấy không nhớ rõ hôm nào, thầy hương quản đọc báo Lục Tỉnh Tân Văn biết được tin trận giặc Xiêm đã chấm dứt. Tây và Xiêm dường như thủ huề. Thầy tự ý ra lịnh trả tự do cho ông Tư Thông.
Ông Tư Thông ngạc nhiên:
– Tôi bị giam hồi nào?
– Ông chủ quận biểu tôi giữ ông lại để làm tù binh, chờ mãn giặc mới thả ông về Cổ Tron.
– Về thì về, không sao đâu – ông lẩm bẩm.
Thầy hương quản hỏi:
– Hồi bị giam, ông có đồ đạc gì bị tịch thâu không? Tôi kêu nài giùm.
– Vài ốp nhang, đèn cầy, kim may quần áo, đường cát trắng… Nhưng mà thôi. Ở ngoải, dầu không có mấy thứ đó… nhưng cũng như có.
Gặp dịp thuận tiện, thầy hương quản tìm ghe cho ông quá giang ra hòn Sơn Rái.
Ông ra đi, hơi buồn.
Dư luận trong xóm nổi lên bàn tán. Người cho rằng ông muốn truyền bá một thứ tôn giáo mới, thí dụ như “Ðạo Tịnh”, bằng cớ là ông ưa nói hai tiếng yên tịnh. Kẻ khác hồ nghi rằng ông ở Côn Nôn thả bè vượt ngục trốn về.
– Nè, cha nội sành sỏi lắm! Cây đèn “măng sông” của Chệt Kỵ hư “béc” đốt không cháy, vậy mà cha nội sửa lại được trong nhấp nháy…
Lại còn nhiều giả thuyết khác ác độc hơn, cho rằng ông thường lân la mấy nhà có đàn bà góa, gái tơ, vân vân…
Nhưng thời gian là vị trạng sư hùng biện nhứt thanh minh cho ông Tư Thông. Dư luận bất chánh bị đánh tan, lãng quên. Kỷ niệm lần lần trở nên trong sáng, tươi đẹp. Chiều chiều, khi ra bờ biển để câu cua, đẩy xịp, người ta nhớ ông Tư Thông như nhớ một cái vỏ ốc xà cừ ngũ sắc tấp vào bãi bùn. Như nhớ vài trang sách Phong Thần tình cờ lượm được trong ngăn tủ bỏ quên, những trang sách rách nát hơi khó hiểu vì thiếu hồi thứ nhứt và không có hồi sau phân giải.
(Trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, 1962)
Chú thích:
[1] Có nghĩa: góc biển chân trời. (BT)

Diệp Minh Tâm
Theo https://tamdiepblog.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Ông già, sóc nâu và sấu sót  Nhiều lần ông toan cúi xuống nhặt một quả sấu, chùi vội vào vạt áo, đưa lên miệng. Nhưng ông đành kìm lại. ...