Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2021

Người đàn bà trong phố cổ

 Người đàn bà trong phố cổ
Phan Thái Yên

Người đàn bà trong phố cổ - Phan Thái Yên
Chuyến bay từ Bắc Kinh đến trễ hơn lịch trình. Phi cảng Đà Nẵng nóng bức chật chội càng ngột ngạt hơn vì đám hành khách của vài chuyến bay bị dồn lại đang nôn nóng chờ nhận hành lý. Khách từ Sài Gòn ra đa số là Việt Kiều về thăm gia đình. Đám người tha hương, ăn mặc sang trọng có khi kệch cỡm, hăm hở ồn ào đẩy từng xe hành lý chất cao như núi về phía cửa kiểm soát. Người thanh niên với túi hành lý trên vai đứng kiên nhẫn ở góc phòng đợi, mắt lơ đãng nhìn quanh. Hàng cây kiểng mới trồng bên ngoài phi cảng lá to xanh bóng như những chiếc quạt xếp vào nhau đều đặn. Màu lá xanh làm dịu đi phần nào ánh nắng gay gắt của buổi trưa mùa hè Đông Nam Á. Đám thân nhân bên ngoài đứng ngồi hỗn độn nhìn ngóng chờ đợi. Dưới hàng hiên, bóng họ tối sẫm vì nền nắng trưa chói chang.
Đôi mắt người thanh niên quay về dừng lại trên hai đứa bé khoảng bảy tám tuổi, đứng cách chàng không xa, đang tò mò nhìn nhau. Chàng mỉm cười nhìn cô bé nguýt dài quay lưng trong lúc cậu bé đứng nhịp chân, hai tay thọc sâu trong túi quần jean kênh kiệu. Cô bé kiêu sa trong chiếc áo dài màu vàng thổ rất thời trang, cổ đeo kiềng, đầu đội chiếc nón cối Đông Dương kiểu cách cùng màu với áo. Cậu bé thì ngổ ngáo trong chiếc nón Texas rộng vành, chân đi boot cao cổ bằng da cá sấu.
ADVERTISEMENT
REPORT THIS AD
Chàng thanh niên bước đến gần vẫy tay chào hai đứa bé. Câu hỏi thăm bằng tiếng Việt chỉ được trả lời bằng hai đôi mắt mở chăm trong im lặng.
Cô bé liến thoắng trả lời khi người thanh niên hỏi chuyện bằng tiếng Pháp trong lúc đôi boot Texas chỉ im lìm xê dịch tới lui trên nền xi măng. Cậu bé chờ đợi được hỏi bằng ngôn ngữ quen thuộc mà cậu đã học nói từ lúc mới sinh để đắc chí nhìn con bé khó ưa, đôi mắt nâu ấm ức sau vành nón cối. Người thanh niên quên bẵng đám đông ồn ào chung quanh, phấn động với vai trò mới của mình, vui vẻ nhìn hai đứa bé bắt đầu cuộc đối thoại qua sự phiên dịch của mình. Những câu nói chê bai lẫn nhau về cái nón đang đội trên đầu khiến chàng không cầm được tiếng cười.
Hai đứa bé thân mật vẫy tay chào người bạn lớn rồi chạy về phía cha mẹ đang đứng chờ. Người thanh niên đến nhận xách hành lý duy nhất của mình rồi theo đoàn người đi về phía cửa kiểm soát. Chàng ngỡ ngàng bước dần qua hàng rào người đang ồn ào chồm kiếm thân nhân hoặc đón mời khách doanh thương của hãng xưởng trong khu vực. Những tấm bảng cầm tay đủ cỡ viết bằng tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Việt la liệt tên người chen lẫn tên công ty nhảy múa rối mắt.
Đứng tách rời khỏi đám đông là một cô gái dáng dấp mảnh mai, tay ngần ngại cầm tấm bìa giấy với hàng chữ in tên người thanh niên và trường đại học anh đang theo học ở Hoa Kỳ. Chàng mỉm cười đọc tên mình bằng chữ Hoa được cẩn thận chú thích bên dưới hàng tên viết theo lối Mỹ. Ánh mắt cô gái vẫn chăm chú hướng về phía đám đông tìm kiếm, không để ý đến người thanh niên đang chậm bước về phía nàng. Đôi mắt nâu to không cân đối với khuôn mặt xương gầy thanh tú. Sự không cân đối vướng vất nỗi mong manh quyến luyến nào đó khó cầm lòng cho một ngoái nhìn.
Cô gái bối rối bắt tay người thanh niên rồi trả lời chàng bằng tiếng Anh rất lưu loát:
– Xin lỗi ông. Tôi đã không nhìn thấy ông đến. Tôi đang lo ông không thể về được chuyến bay này.
– Vâng, có lúc tôi đã nghĩ vậy. Tôi phải chờ ở phi trường Bắc Kinh hơn hai tiếng đồng hồ. Cô là…
– Tên tôi là Sông Hương, Đỗ Thị Sông Hương. Nhân viên trường Đại học Đà Nẵng.
Người thanh niên buột miệng hỏi:
– Sông Hương chứ không phải Hương Giang sao?
Cô gái ngạc nhiên, mở lớn đôi mắt sâu lắng như hồ:
– Ông biết…?
Người thanh niên gật đầu, trả lời bằng tiếng Việt:
– Me tôi là người Huế. Có lẽ cô cũng là người Huế?
Cô gái lắc đầu:
– Mẹ tôi có thời học ở Huế. Gia đình tôi ở Hội An, cách đây khoảng ba mươi cây số.
Cô gái đỏ mặt xấu hổ:
– Vậy mà nãy giờ tôi bắt anh phải nghe hoài mớ Anh ngữ què quặt của mình.
– Cô đừng quá khiêm nhường. Hai tháng vừa qua ở Bắc Kinh tôi chưa hề gặp người Hoa bản xứ nào nói tiếng Anh giỏi như cô. Xin cô cũng rộng lượng cho mớ tiếng Việt nghèo nàn của tôi.
Cô gái hướng dẫn người thanh niên ra xe, miệng vẫn phân trần chuyện không nhận ra chàng sớm hơn.
Người thanh niên bỡn cợt:
– Sông Hương nói thật đi mà! Tôi đến từ Bắc Kinh. Chắc cô mãi tìm một người Mỹ gốc Hoa ăn mặc lịch sự sang trọng nên không thấy anh chàng Việt kiều ba lô này chứ gì?
Cô gái chẳng vừa:
– Thấy người rồi thì phải nói là tài tử Hồng Kông mới đúng.
– Cô quá lời! Tôi chỉ mong cuối năm này bảo vệ được luận án, bắt đầu sự nghiệp để khỏi báo cha mẹ là mừng lắm rồi!
Dọc theo con đường từ phi trường vào thành phố thẳng tắp hàng cây mới trồng. Trên đường tấp nập người đi, xe đạp xe gắn máy xao xác ngược xuôi. Hình ảnh khá quen thuộc sau mấy tháng sống ở Bắc Kinh, sao lòng người thanh niên vẫn ngập tràn nỗi bồi hồi xao xuyến. Đi vào lòng quê hương chưa một lần gặp mặt mà chàng ngỡ như đang từ một mộng mị nào đó trở về. Có lẽ giọt nước mắt nhớ nhà của Mẹ, có lẽ hình ảnh quê hương lãng mạn trau chuốt trang trải trong nhiều truyện viết của Bố đã là vốn liếng tinh thần giúp chàng có được cảm giác quay về. Phố biển. Chuyến phà qua sông. Con dốc hẹn hò. Cha mẹ đã lớn lên, đã yêu nhau trong thành phố này. Họ đã bỏ đi và vẫn quay quắt nhớ về sau hơn nửa đời người xa xứ.
– Đường về trường có qua con dốc nào không, Sông Hương?
– Có mà không. Chính phủ đã san bằng dốc Cầu Vồng để làm đường Xuyên Á từ năm ngoái.
Sông Hương quay nhìn người thanh niên, nụ cười nở trên đôi mắt thuyền nâu.
– Em chợt có cảm tưởng như anh đã từng sống ở thành phố này.
– Tôi cũng muốn được nghĩ vậy. Bố Mẹ tôi lớn lên ở đây.
Xe chạy qua khu phố đông đúc rồi rẽ theo con đường ôm dọc bờ sông. Hàng cây ven bờ nở bông đỏ rực.
– Bông phượng đó anh. Hồi nhỏ ở Hội An, mùa hè em thích theo ghe qua Cẩm Nam thơ thẩn dọc theo bờ sông hái phượng với bạn. Cuống hoa chua chua nhai rất vui miệng.
Nhìn những cành phượng đầy hoa thắm nghiêng mình la đà soi bóng trên mặt sông, người thanh niên nôn nao nghĩ đến xấp hình cũ Mẹ vẫn ấp ủ giữ gìn. Cô học trò tóc ngang vai, áo dài trắng, đi thơ thẩn với bạn bè đâu đó bên khoảng sông này. Những gốc phượng già theo năm tháng vẫn đơm bông cho thắm từng mùa hạ đỏ. Dòng nước chở chuyên xác hoa tàn úa vẫn lặng lờ trôi như một ước nguyền. Thôi hãy cùng nhau ôm ấp giấc mơ đời, dắt díu nhau qua từng nỗi truân chuyên ở cuối trời xa quay quắt thời gian!
Xe dừng lại trước một khách sạn. Lúc người thanh niên nhận phòng thu xếp hành lý xong trở ra, cô gái đang đứng chờ trước sân khách sạn. Cô quay mặt giấu vẻ ngượng ngùng khi chợt nhận ra mình vừa trong một khoảnh khắc đã lén nhìn người thanh niên dáng dấp lịch sự trong trang phục làm việc. Cô chỉ tay về phía cuối đường.
– Trường cách đây không xa, chỉ vài phút đi bộ.
Người thanh niên khoác chiếc xách đựng máy vi tính lên vai.
– Ở Bắc Kinh họ cho tôi nối máy lên mạng rất dễ dàng, không biết ở đây thì thế nào?
– Trường ở đây đã họp tới họp lui mấy lần vì chuyện này. Sau đó trường của anh đã can thiệp nên anh tha hồ mà lên mạng.
Cô gái nhìn đồng hồ.
– Sông Hương mới gọi về trường. Ông Khoa Trưởng đang chờ anh. Chiều thứ Sáu nên ai cũng nóng lòng về sớm.
Hai người bước dọc theo bờ sông. Gió sông thổi lên làm đôi tà áo màu thiên thanh cuống quít theo nắng chiều. Dãy nhà mới xây cho hãng xưởng ngoại quốc thuê mướn nằm cao ngạo trên nền đất cũ. Mấy khẩu thần công từ hơn hai thế kỷ xưa nằm quên lãng bên khóm cây lấm tấm hoa vàng. Cả một ấu thời của cha mẹ được đúc kết từ nhiều buổi tối thủ thỉ bên Me hoặc học lịch sử với Bố đang hiện rõ ra trước mắt người thanh niên. Màu vàng vương đế của vùng trời Đông Á đã bị sạm đen vì khói tàu chạy bằng than đá đến từ trời Âu. Văn hóa nghìn xưa phong kín trong nhân lễ nghĩa trí tín, trong tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ, đã bị hà hiếp bởi những giá trị mới còn phôi thai mờ ảo trong hơi nước của cuộc cách mạng kỹ nghệ phương Tây. Kẻ sĩ mà không bảo vệ được nhà, không làm tròn điều trị quốc, nên biết bao người đã tuẫn tiết để trọn thân quân tử.
– Tòa nhà nầy trước đây có phải là Trung tâm Văn hóa Pháp không cô?
Sông Hương lắc đầu tỏ vẻ không biết.
– Bố tôi hay nhắc về chuyện sau lớp học ở Trung tâm Văn hóa Pháp vẫn thường với bạn ra chơi đánh đu quanh mấy khẩu thần công để chờ lớp Anh văn ở Hội Việt Mỹ phía bên kia đường. Bố nói khoảng hai thế kỷ trước Nguyễn Tri Phương lập đồn ngăn tàu Pháp mà thất bại nên sau đó đã tuẫn tiết theo thành.
– Anh ở xa mà biết nhiều quá! Em lớn lên ở trong nước mà không rành mấy về lịch sử nước nhà.
– Có lẽ ở đây chỉ chú trọng dạy cho học sinh về những phần lịch sử có lợi cho chủ thuyết của họ. Lịch sử, sau khi bị bóp méo, chỉ là phương tiện để biện minh cho cuộc đấu tranh giai cấp bạo động và vô luân. Lịch sử như thế không còn là sự thật mà chỉ là lối lý luận hồ đồ.
Cô gái ngoái nhìn về phía sau, nói lảng sang chuyện khác:
– Em sẽ học tiếp với anh về chuyện ông Nguyễn Tri Phương trong dịp khác. Bây giờ nói cho em biết về lịch trình làm việc của anh trong tuần tới đi.
– Tôi đang ở giai đoạn cuối của luận án khảo cứu về vấn đề người Hoa ở Đông Nam Á. Tôi rất mừng được xa giảng đường thư viện vài tháng. Được đi lại thăm viếng học hỏi qua sự gặp gỡ giao dịch giữa con người với nhau là điều rất phấn khởi.
– Anh ở lại Việt Nam lâu không?
– Chỉ được một tháng thôi cô, hai tuần sau đó ở Tân Gia Ba. Ba vùng khảo cứu chính ở Việt Nam là Hội An, Chợ Lớn Sài Gòn và vùng Bạc Liêu, Hà Tiên.
Sông Hương nhìn người thanh niên nói như reo:
– Vậy là tiện lắm rồi! Ngày mai cuối tuần em về thăm nhà. Má em dạy ở trường trung học. Má biết nhiều người Trung Hoa ở phố cổ Hội An lắm.
– Bố tôi thường nhắc về Hội An. Ngày trước ông là sĩ quan hải quân đồn trú phía cửa biển.
– Em có lần nghe bạn bè nói, rủ nhau đi ra tận doi biển tìm xem mà không thấy dấu tích gì về căn cứ đó nữa.
– Bố nói, về Việt Nam nếu không có thời gian đi thăm hết các nơi thì nên tìm cách thăm cho được Hội An. Bố vẫn gọi Hội An là Thị trấn Miền Đông.
– Miền Đông…?
– Tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ ý Bố muốn nghĩ đến Hội An như một nước Việt Nam thu nhỏ, ở phía Đông Châu Á.
Trường Đại học Đà Nẵng tọa lạc trên khu đất lớn không xa bờ sông. Con đường trước trường im bóng cây vắng vẻ. Vài người phu xích lô uể oải đạp xe không khách về phía phố chợ, bóng họ rã rời ngã dài trên đường. Bên trong trường, những dãy nhà cổ kính xây theo lối kiến trúc Châu Âu nằm im lìm ngái ngủ dưới bóng mát mấy hàng cây xum xuê lá. Trên cổng trường dưới lớp vôi dày lờ mờ tấm bảng đá khắc mấy chữ Lycée Pascal.
Chỉ một vài giờ ngắn ngủi mà chàng đã cảm thấy gần gũi với thành phố này. Vết tích kỷ niệm của Bố Mẹ gia đình qua từng câu chuyện kể tưởng đã ngủ quên trong trí nhớ như tiếng còi lãng đãng sa mù. Chàng náo nức sờ mó, nhìn ngắm, hít thở từng dấu vết điển tích trên mỗi bước chân tìm về. Bà Nội từng là giáo viên dạy cho đám học trò nhỏ của ngôi trường Tây. Ngã tư cuối góc trường từng là bãi chiến trường giữa học trò trường Ta trường Tây ngày Bố còn ở trung học. Trò chơi chiến tranh vô hại của mấy cậu học trò mới lớn chỉ làm quấy rầy buổi tối tưởng đã yên lặng của bác cảnh sát vô tình đạp xe qua.
Sông Hương dựng xe gắn máy trước văn phòng làm việc của người thanh niên. Chiếc mạng che bụi cùng màu thiên thanh với áo làm đôi mắt đẹp và huyền bí hơn bội phần.
– Thầy Khoa Trưởng rất tốt bụng, hy vọng anh đạt được hết những điều yêu cầu.
– Vâng, ông ta hứa sẽ giúp tôi hết lòng trong việc khảo cứu. Ông là giáo sư Hoa văn và Khoa học Chính trị nên tôi rất mừng.
Cô gái nhìn ra khu công viên nhỏ trước văn phòng, cười chúm chím:
– Văn phòng của anh ở chỗ rất trung tâm. May đang giữa mùa hè chứ không thì anh không thể nào tập trung tư tưởng để làm việc được…
– Sao vậy?
– Công viên đàng kia là nơi lui tới của sinh viên nữ giữa giờ học. Bận ngắm người đẹp thì giờ đâu nữa mà làm việc!
– Trễ rồi! Từ lúc ở phi trường, đôi mắt Sông Hương đã chiếm hết một nửa hồn tôi rồi!
– Còn nửa kia…?
– Nửa kia cũng dại khờ theo nên chỉ còn một cách là…
– …
– cô phải hướng dẫn tôi đi thăm phố đêm Đà Nẵng và chọn quán ăn tối nay.
Sông Hương giấu vẻ thẹn thùng, chào theo kiểu nhà binh.
– Xin vâng lệnh ông chủ!
Người thanh niên khóa cửa văn phòng, bước theo cô gái ra đường.
Sông Hương đeo chiếc mạng lên mặt, nổ máy xe, đôi mắt đẹp long lanh:
– Anh có đủ can đảm ngồi xe gắn máy không, Sông Hương đưa anh về?
– Cám ơn cô. Tôi muốn được đi bộ dọc theo bờ sông…
Người thanh niên chưa chịu buông tha:
– …để nghĩ về đôi mắt của Sông Hương và tìm cách khỏi bị té chìm trong hồ thu lạnh lẽo.
o O o
Quãng đường Đà Nẵng đi Hội An chỉ hơn ba mươi cây số mà chiếc xe đò cũ kỹ chạy chuyến đầu ngày phải mất hơn một tiếng đồng hồ mới tới. Cô gái trấn tĩnh nỗi thẹn thùng bước khép nép bên người thanh niên cao lớn đi vào phố nhà thân quen của mình. Buổi sáng mùa hè cuối tuần vẫn còn quá sớm cho khu phố cổ đang ngái ngủ. Bên dưới hàng hiên dãy nhà mái lợp ngói âm dương, lác đác quán hàng ăn bắt đầu dọn mở. Mùi thức ăn thơm lừng bay trong gió sớm. Trên đường rải rác vài khách du lịch Tây Phương đang rảo bước về phía cuối phố.
– Những người khách này muốn ra Cửa Đại tắm biển sớm đó anh.
– Cửa Đại cách đây bao xa hở Sông Hương?
– Khoảng năm cây số thôi anh. Mùa hè em và Má thỉnh thoảng đạp xe ra biển thật sớm, không tắm, chỉ ngồi bâng quơ một lúc rồi về.
Nhà Sông Hương ở cuối khu phố không xa trường trung học. Ngôi nhà vườn cổ kính nép mình kín đáo sau bức tường gạch bao quanh. Cổng nhà có mái che lợp ngói kiểu cách, giàn bông giấy đỏ rực phủ hờ trên cánh cửa đóng im lìm. Trong sân xum xuê hàng cây ăn trái trồng đã lâu năm. Ngoại trừ lối mòn từ cổng vào tới hiên nhà khoe màu gạch đỏ, lớp gạch quanh sân cũ kỹ màu xanh xám rêu phong. Mùi hương trầm từ trong nhà tỏa ra thơm ngát lẫn trong tiếng tụng kinh nho nhỏ trầm đều. Từ đầu thềm, chú chó đen bỏ chỗ nằm bên cạnh chiếc ghế xích đu màu xanh biển, sủa ăng ẳng quẫy đuôi cuống quít mừng chủ.
Cô gái ngồi xuống ôm chú chó con vào lòng, vuốt ve lớp lông đen bóng trên lưng.
– Mực bắt tay chào ông chủ của chị đi! Má đi ăn đám giỗ trong Điện Bàn tháng trước xin con Mực về. Em xin đem đi Đà Nẵng mà Ngoại không cho.
Con Mực ngẩng đầu nhìn người thanh niên, chân trước quơ ngập ngừng. Chàng đưa tay cầm chân con Mực, tay kia xoa lên chiếc đầu nhỏ nhắn.
– Cái thân mi đó, ăn chưa no lo chưa tới. Đem con Mực theo bỏ quên bữa đói bữa no, giỏi lắm thì được vài tuần rồi cũng trả về cho Ngoại.
Bà lão vóc người nhỏ nhắn, tóc bạc màu muối, áo dài lam rộng khổ, từ trong nhà bước ra hiền từ nhìn cháu.
– Con về chuyến xe đầu hay sao mà sớm quá vậy? Đi sớm rứa cho mát cũng được.
– Dạ. Đây là ông chủ của con ở trường về Hội An có việc cần.
Người thanh niên cúi đầu kính cẩn chào bà Ngoại của cô gái.
– Sông Hương nói quá lời. Cháu chỉ làm khảo cứu ở trường một thời gian ngắn, cần nhờ cô Hương giúp đỡ về việc đi lại giấy tờ.
– Mời cậu vào nhà chơi. Con Hương rót nước mời anh rồi đem áo quần dơ xuống nhà dưới chút nữa Ngoại giặt cho.
Sông Hương mắc cỡ nhìn người thanh niên, rùn vai làm mặt xấu.
– Trợn mắt trợn mũi gì!? Ngoại biết tụi bây quá mà!
Cô gái theo bà Ngoại đi khuất vào nhà sau. Người thanh niên đứng tần ngần nhìn quanh gian phòng khách nghi ngút khói hương. Giữa nhà là bộ ghế trường kỷ và tủ chè làm bằng gỗ cây sơn chi màu nâu đậm lên nước bóng ngời. Trướng liễn hơn trăm năm cũ phóng thảo bằng nét bút điêu luyện từ một triều vua Nguyễn được treo dọc theo những thân cột tròn mun bóng thời gian. Công đức của tiền nhân mà tên tuổi còn ghi tạc trên mấy tấm bài vị đỏ lung linh ánh nến đã được tán dương bằng những câu thơ đối chỉnh tuyệt. Địa linh nhân kiệt. Vùng đất của Ngũ Phụng Tề Phi.
Chàng ngước nhìn tấm hoành phi sơn son thếp vàng treo bề thế trên trần thượng giữa gian nhà. Người tiên trưởng của dòng họ là một trong những con phụng hơn trăm năm trước đã sải cánh trên vùng đất oai linh có núi có sông xứ Quảng. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm. Rượu hồng đào chưa nhấm đã say.
Cô gái ló đầu khỏi tấm rèm trúc, mời người thanh niên xuống nhà sau uống trà. Chàng tò mò dừng chân trước bàn thờ nhỏ ở hông nhà. Bên cạnh tấm hình đen trắng của một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi, nét mặt khắc khổ, là hình một cậu bé chừng mười tuổi đang cười rạng rỡ. Bấc giác người thanh niên đốt một nén hương cắm vào bát đã đầy ngập chân nhang.
– Mời anh uống trà. Má em đang bận nấu thức ăn sáng dưới bếp.
Chàng đưa tay đón tách trà nóng thơm ngát hương sen, mắt ngước nhìn tấm hình chân dung cô gái rọi lớn treo ở góc nhà.
– Nhà Sông Hương gần trường quá, chắc các anh chàng Hội An không thích lắm đâu!
– Sao vậy anh?
– Thì sắp hàng đi theo người đẹp vừa được mấy bước thì nàng đã khuất bóng, cửa đóng then cài, tức lắm chứ!
Cô gái mắc cỡ cúi đầu bước nhanh xuống bếp:
– Anh này thật… xạo quá trời!
Khoảng sân nối nhà sau với bếp lót gạch cao, trên có mái che. Cạnh nhà bếp là giếng nước, xi măng tráng quanh. Bà Ngoại cô gái đang giặt áo quần bên bờ giếng. Dưới bóng mấy tàng lá chuối cong dài xanh mướt, dáng bà ngồi nhỏ thó ân cần.
Người thanh niên cất tiếng chào người thiếu phụ đứng tuổi đang bận với nồi thức ăn trên bếp. Bà tươi cười, đôi mắt to dưới đôi mày cong thanh thoát, chào người thanh niên rồi quay qua trách nhẹ con gái:
– Sao con không mời anh ngồi ở nhà trên, xuống bếp làm chi cho khói?
– Dạ không sao đâu cô. Cháu muốn đứng ngoài này cho mát.
Nhìn chàng luống cuống xách gàu nước chỉ còn lại một nửa lúc kéo lên khỏi giếng, Sông Hương được dịp cười chế diễu:
– Má ra coi ông Việt kiều múc nước giếng nè Má!
Bà Ngoại ngồi móm mém cười chờ người thanh niên giúp múc nước giếng đổ vào thau giặt. Đôi mắt bà trong sáng so với tuổi đời chồng chất trên mái tóc bạc trắng thời gian. Đứng nhìn ba người đàn bà, ba thế hệ, tươi cười bên nhau, lòng người thanh niên dâng lên nỗi xúc động diệu kỳ. Ba đôi mắt đẹp, bao nỗi truân chuyên trải dài giữa mấy chặng tuổi đời cách biệt? Đôi mắt người đàn bà Việt Nam. Mắt Mẹ tha hương rưng rưng nỗi nhớ nhà. Đôi mắt thuyền xưa lung linh bến nước buổi chiều qua sông cuống quít lụa là. Ánh mắt ngọc lan trong vườn khuya thơm bóng trăng vàng.
Chàng nghĩ đến ánh mắt chất chứa sắc màu kỷ niệm trong truyện viết của Bố. Đôi mắt luôn có ánh nhìn cong như cánh lá. Những đôi mắt sâu lắng âm thầm, sống can đảm với phận đời mình. Chàng muốn được lắng nghe, được tìm biết nỗi vui hay niềm cay đắng tiềm tàng đâu đó sau ánh mắt bình thản mà đẹp tuyệt vời.
Trong bữa ăn sáng, bà Mẹ hỏi nhiều về cha mẹ, về chuyện học của người thanh niên. Bà chăm chú nghe chàng kể chuyện Bố Mẹ những năm tháng đầu vất vả ở xứ người.
– Tên ba mẹ cháu nghe quen nhưng chắc chỉ là trùng tên. Hai người có lẽ không học ở Huế?
– Bố Mẹ cháu gốc người Huế nhưng thời trung học ở Đà Nẵng. Mẹ cháu sau đó về lại Đà Nẵng đi dạy. Bố cháu học ở Sài Gòn, năm sau cùng trước khi đi lính có ra Huế học. Ông tốt nghiệp trường Hải quân Mỹ rồi về nước sông hồ hết mấy năm. Đơn vị cuối của Bố ở cửa biển gần đây.
Bà Ngoại vuốt tóc cô cháu gái, trầm ngâm:
– Mới đó mà đã ba mươi năm. Hồi đó mỗi lần vô Duy Xuyên chở lụa, đi đò trên sông Thu Bồn gặp tàu tuần chạy ngược chiều là Ngoại sợ muốn chết! Tàu bè gì mà phóng như bay, sóng gió nổi lên làm chiếc đò máy cứ hụp lên hụp xuống muốn chìm!
Người mẹ im lặng loay hoay dọn dẹp thức ăn thừa trên bàn:
– Sông Hương, con bưng mâm chén bát ra giếng rửa cho xong rồi đi chợ với má.
Bà nhìn người thanh niên dò hỏi:
– Anh muốn đi thăm phố sáng nay hay ghé chùa Tàu trước?
Cô gái nhanh nhảu:
– Để chiều nay con dẫn ảnh đi thăm phố. Đi với Má ai cũng biết, chào trả mệt lắm!
– Ở đây có năm bang hội người Hoa, hội Phúc Kiến lớn nhất. Hy vọng có đủ tài liệu để anh thu thập.
– Dạ, cháu xin theo cô đi gặp hội người Hoa trước. Giấy bút, máy chụp hình, máy ghi âm, mọi thứ đã sẵn sàng.
– Nếu anh cần gặp các nhóm người Hoa khác, tôi sẽ giới thiệu giúp. Mời anh cứ tự nhiên ở lại nhà, khi nào xong việc thì ra lại Đà Nẵng, chứ đi về hàng ngày tốn thời giờ và bất tiện lắm.
Chàng lưỡng lự hồi lâu rồi gật đầu cám ơn.
Người thanh niên sánh bước cùng Sông Hương và bà Mẹ qua khoảng sân lấm tấm nắng mai. Đầu thềm, con Mực nằm lơ đãng trong tiếng mõ trầm đều của bà Ngoại từ trong nhà vẳng ra. Lời kinh nghe như một điệu buồn xa vắng. Hai người đàn bà đứng lại dưới cổng nhà theo lời yêu cầu của người thanh niên. Qua ống kính màu, hình ảnh của một cơ ngơi Đông Phương cổ xưa và con người trắc trở trong cảnh sinh ly quay bước đẹp mà buồn diệu vợi. Dù sao, mái cổng chào khép hờ và sắc thắm của những chùm hoa có dáng hình của trái tim cho dù rạn vỡ đã như một ước hẹn trở về.
Người đàn bà vấn tóc cao quý phái trong chiếc áo dài lụa màu mỡ gà. Sông Hương hồn nhiên đi bên mẹ, đẹp rạng rỡ như nắng mai. Nhiều người trẻ tuổi đi ngược chiều trên đường kính cẩn cúi đầu chào cô giáo của họ.
Sông Hương quay nhìn người thanh niên cười chúm chím:
– Học trò của Má hết đó. Anh thấy Má em chào trả mệt chưa?
– Học trò tôi có người đã ngoài bốn mươi. Tỏ lòng kính nể người trên kẻ trước là điều nên làm. Văn hóa mình hay ở chỗ đó.
Đường phố trở nên tấp nập hơn. Khách du lịch tò mò thăm viếng đi lại trên đường. Cây thiên tuế lâu đời, có lẽ đã hơn trăm năm, dày kín những bè lá mọc tua tủa như bàn tay xòe khổng lồ. Tàng cây chiếm khoảng trời rộng che mát ngôi nhà cổ bề thế được dùng làm quán ăn và tiệm bán hàng lưu niệm cho du khách. Trong nhà, khách ăn người mua kẻ bán chật ních. Người thanh niên hấp tấp theo hai mẹ con đi băng qua bên kia đường.
Người đàn bà phân bua:
– Tôi có thói quen đi tránh ngôi nhà đó từ gần hai mươi năm nay. Bà Ngoại con Hương thì từ luôn cả con đường, không hề đặt chân đến. Ngôi nhà trước đây là từ đường chính của dòng họ Ngoại.
Cô gái ngoái nhìn đài hoa thiên tuế hiếm hoi trắng nõn trên tàng lá xanh.
– Bây giờ có lẽ anh đã hiểu vì sao gian phòng khách ở nhà la liệt bàn thờ không có chỗ đi rồi chứ gì?
Người anh độc nhất của bà Ngoại, đứa con trai một của dòng họ, theo kháng chiến tập kết ra Bắc. Từ thời con gái, Ngoại đã ngược xuôi trên mấy dòng Ô Lâu Thu Bồn buôn lụa. Cô gái Duy Xuyên phải lòng ông sĩ quan Bảo An Đoàn trẻ tuổi. Đất Quãng sông núi bao l,a Điện Bàn, Chợ Được, Hà Lam, Thăng Bình, Quế Sơn… và biết bao vùng tiêu thổ kháng chiến phải đi qua. Đoàn quân đến rồi đi, bướm đậu rồi bay. Người đàn bà một mình nuôi con và lo toan việc nhang khói ngôi từ đường cho ấm lòng tiên tổ. Mẹ tần tảo để con ăn học nên người. Mẹ nở mày nở mặt ngày mẹ gả con gái lấy chồng. Đám cưới xôn xao, cô dâu chú rể, nhà trai nhà gái xúng xính lọng tàn. Mẹ vui nhìn con có tình yêu và có cả lễ nghi ngày xưa mẹ thiếu.
Sau năm bảy lăm, Mẹ tuy lo lắng cho con cháu nhưng trong bụng cũng mừng. Người anh độc nhất của mình đã sống sót sau cuộc chiến tranh tàn khốc trở về. Từ nay ngôi từ đường sẽ có người trưởng nam lo việc hương khói. Niềm vui sum họp không được bao lâu, gia đình đã có chuyện khó xử. Bà chị dâu tham lam muốn giành cả ngôi nhà tộc làm của riêng. Cô nông dân đảng viên nghèo đói lạc hậu của thời cải cách ruộng đất, hai mươi năm trước đã dẫn đầu hò hét những đêm đấu tố địa chủ dưới ánh đuốc loang máu vùng Nghệ Tĩnh, thì giờ đây sá gì cái lư nhang bài vị, tấm liễn ngoằn ngoèo hàng chữ Nho vô ích của mấy tên phong kiến đã chết tiệt thời nào! Người anh nghe lời vợ và mấy đứa con thô lỗ thiếu văn hóa, dọn bàn thờ từ đường xuống nhà sau, nơi mà một góc nhà đã biến thành chỗ nuôi heo, để lấy nhà trước cho thuê.
Mẹ quá tức giận, đã từ chối nghĩa ruột thịt với người anh duy nhất, thỉnh nơi thờ tự gia tiên về ở với con gái và người rể có hiếu đạo. Gần hai mươi năm nay, Mẹ lại làm thêm bổn phận trưởng nam như Mẹ đã làm tròn mấy mươi năm trước đó, từ ngày còn con gái.
Bà Mẹ cô gái cười nhẹ, nói như tự trách:
– Không hiểu sao tôi lại kể chuyện nhà không vui cho anh nghe như vậy.
Sông Hương dí dỏm:
– Tại Mẹ băng qua đường gấp quá nên phải kể câu chuyện dài đến hai mươi năm để giải thích.
– Chuyện gì cũng có nguồn cơn của nó con à! Ngần ngại một chuyến đi, lỡ một chuyến đò qua sông, một phút dại khờ… cái nguồn tưởng nhỏ nhoi mà có khi cơn tiếc nuối ân hận theo đuổi mình đến suốt đời.
Chùa Tàu tấp nập khách du lịch. Cổng tam quan có mái che cong vút với hình tượng long phụng chạm trổ công phu. Ba người len lỏi qua sân vườn chùa công phu hai hàng sứ kiểng già rồi đi theo ông già người Hoa vào nhà sau.
Lúc ông Bang Trưởng cùng người thanh niên đứng dậy tiễn Bà Giáo ra cửa, Sông Hương quay lại cười hỏi chàng:
– Anh có cần Sông Hương ra dẫn anh về ăn trưa không?
Người thanh niên lắc đầu:
– Cám ơn cô. Tôi định làm việc đến chiều, buổi trưa hoặc khi nào đói thì quanh quẩn trong phố ăn vội chút gì đó cho đỡ tốn thời giờ.
Dáng hai mẹ con lẩn khuất trong đám đông khách du lịch đi về phía chợ. Người thanh niên quay vào ngồi đối diện với ông Bang Trưởng người Hoa trên chiếc trường kỷ chạm trổ công phu. Chồng sách cổ đặt trịnh trọng trên án thư. Ông già người Hoa mừng rỡ ra mặt vì hiếm khi được nói chuyện văn hóa lịch sử của dân tộc mình bằng tiếng mẹ đẻ. Hai người khách chủ vong niên, kẻ nói người nghe, chuyện trò tâm đắc. Người thanh niên từ chối lời mời, ngồi lại một mình trong thư phòng, làm việc qua trưa. Chàng chăm chú ghi chép làm việc quên cả thời gian đang trôi nhanh.
Mặt trời đã xế bóng lúc người thanh niên rời ngôi chùa đi thơ thẩn thăm phố rồi thả bước về phía bến sông. Cồn cát màu mỡ giữa sông xanh tươi từng đám ruộng bắp khoe mình trong nắng chiều. Bao thế hệ con người đã cần mẫn cơ cực hàng năm, hàng ngàn năm trên vùng đất nhỏ nhoi. Từng năm mưa trên nguồn đã thành cơn lũ giận dữ trôi xuôi về vùng đất cách biển không xa. Cơn lũ đi về biển rộng để lại đổ nát cho người và lớp phù sa mới nuôi lớn mầm hy vọng sống còn. Vùng đất nhỏ, nơi giao lưu giữa nước nguồn và nước biển Đông đã chứng kiến sức sống của con người và mối hận mất nước của cả dân tộc Hời. Những ngôi tháp Chàm đổ nát ở Trà Kiệu Mỹ Sơn chỉ còn là di tích của nền văn hóa Sa Huỳnh một thời vang bóng. Con người của nền văn hóa Đông Sơn, trong lưu vực sông Hồng, với sức sống mãnh liệt đã giành được độc lập từ phương Bắc và gầy dựng cho mình một xã tắc riêng. Giấc mộng mở mang bờ cõi không dừng ở đất Thuận Hóa cho dù thân quế Huyền Trân phải chịu cảnh Mán Mường.
Xứ Đàng Trong, tên gọi vùng đất mới sao nghe quá xa xôi! Âm thanh lửng lơ buồn như tiếng chim cuốc kêu thương cho thân gái dặm trường và nỗi sầu cố quốc. Đàng Trong, Đàng Ngoài. Phải chăng vì chuyện phân tranh giữa hai ông Chúa, vì Phố Hiến Đàng Ngoài tấp nập tàu thuyền thương khách phương xa nên ông Chúa Đàng Trong đã mở rộng cửa biển cho phép người ngoài vào dựng phố mới Hội An?
Dù sao thì đất mới đã chiều đãi người xa trọng hậu. Đám người Tàu người Nhật bị bạc đãi ở bản quốc hay phải tha phương cầu thực đã chọn Hội An làm quê hương mới. Khoảng sông rộng Thu Bồn, không xa biển lớn đón mời thương khách từ trời Tây đến, đã biến Hội An thành thương cảng lớn nhất của Xứ Đàng Trong vào thế kỷ thứ mười sáu. Món quà văn hóa lưu truyền giữa những nhóm người khác nhau qua hàng thế kỷ đã xây dựng Phố Hội An với những nét kiến trúc Đông Tây đặc thù mà hài hòa. Khu phố cổ êm đềm mà tinh tế như con người đang sống quây quần trong đó.
Nhìn những chiếc thuyền đánh cá từ biển về, người thanh niên nghĩ đến cuộc sống hải hồ của Bố thời trai trẻ. Phải chăng bóng đoàn tàu hùng dũng trên dòng sông êm ả đã khiến lòng cô gái ven bờ cuộn sóng? Phải chăng dáng con tàu từ biển về đã làm rộn ràng hồn người trong thành phố? Chàng nghĩ đến ánh mắt xa vời của Bố khi ông quẩn quanh trong khu vườn nhỏ sau nhà và cảm thấy thương vô cùng người cha trầm lặng của mình.
– Anh đứng ngắm mây nước ở đây mà nãy giờ Sông Hương đạp xe đi kiếm muốn chết!
Cô gái dựng chiếc xe đạp, má hồng lên vì nắng.
– Chút xíu nữa là em gọi về trường báo cáo anh bị mất tích rồi đó!
– Không mất tích nhưng rất đói bụng!
– Buổi trưa anh không ăn gì sao?
Người thanh niên chỉ tập giấy dày cộm trên tay lắc đầu:
– Tôi làm việc qua trưa. Mừng quá! Tài liệu nhiều nhưng sách được giữ cẩn thận nên rất dễ đọc. Ngày mai tôi sẽ trở lại khoảng vài giờ nữa là xong.
Cô gái lúng túng ôm hờ lưng người thanh niên lúc chàng lấy thăng bằng đạp xe.
– Anh đói bụng, về nhà tha hồ ăn. Má nấu cao lầu, bún quảng. Ngoại làm hến xúc bánh tráng. Ngon lắm!
– Còn Sông Hương thì nấu gì?
– Sông Hương phụ anh ăn cho hết mấy món Ngoại với Má nấu, sau đó dẫn anh đi ăn chè bắp bên Cồn.
– Vậy là cô muốn giấu tài nấu ăn của mình rồi!
– Anh chỉ đúng một nửa thôi. Em giấu tài nấu, còn tài ăn có muốn giấu cũng không được. Dù sao thì tuần tới về Đà Nẵng thế nào em cũng trổ tài nấu mì gói cho anh biết!
Tiếng Sông Hương cười hồn nhiên khiến người thanh niên cảm thấy vui lây. Nỗi vui dịu dàng đằm thắm như làn khói ấm vươn lên từ một thân tình nào đó chưa tên mà đã xao xuyến hồn người.
– Sông Hương chỉ cho anh con đường xa nhất để về nhà đi!
Cô gái cười trêu chọc.
– Em có nhiều câu hỏi để hỏi về câu hỏi của anh trước khi trả lời. Đường nào? Nhà nào? Từ đó sẽ có thêm câu hỏi chẳng hạn như thế nào là xa? Rồi vì nói đến xa nên chúng ta đụng chạm đến gần. Khi nào thì gần, lúc nào thì xa? Xa theo nghĩa xa mấy cây số hay là chia xa, xa xôi, xa nhau, xa vời vợi? Còn gần là gần thế nào? Gần gũi, gần trong gang tấc, gần kề, gần sát hay là gần thiệt gần, gần đến nỗi hòa nhập nhau, hai trở thành một, một mà hai…? Đó là chưa nói đến xa thì nhớ, nhớ vì thương, thương ai, nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai? Mà nếu không nhớ tức là đã quên, quên ai, ai quên, quên nhớ, nhớ quên? Quên thì mất, mất còn, còn mất, mất ai, ai mất…?
Cô gái thao thao bất tuyệt. Người thanh niên bối rối không hiểu kịp những âm từ gần nhau tuôn như nước. Chàng cười lớn ngăn lời cô gái.
– Thôi, tôi xin chịu thua! Cô biết vốn liếng tiếng Việt của tôi nghèo đến mức nào rồi. Cô muốn giấu không chịu chỉ đường thì thôi đành vậy!
Cô gái chưa chịu buông tha:
– Đường là đạo. Đạo thì phải thiền, phải ngộ. Sông Hương không thể chỉ cho anh được. Em có thể chỉ giúp cho anh chùa để tu nhưng ngại chỉ trăng anh lại chỉ thấy bàn tay chỉ trăng nên thôi; anh phải tự kiếm chùa lấy. Tội nghiệp một điều là anh phải biết đường lên chùa nên đường và đạo vẫn là một vấn nạn lớn cho anh!
– Thôi, thôi! Xin Sông Hương tha cho anh đi!
– Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Sáng nay Má ngạc nhiên khi thấy em lục sách lịch sử cũ đọc chăm chú. Má quở chắc chiều nay trời sẽ mưa. Ngồi đọc truyện ông Nguyễn Tri Phương, em chợt nghĩ là phải tìm cách trả miếng anh về cái tội làm em xấu hổ vì dốt lịch sử nước nhà.
– Cô mà dốt thì ai thông minh?
Sông Hương bước xuống xe đạp, mở cổng nhà, quay nhìn người thanh niên. Trong bóng chiều đôi mắt ngước nhìn chan chứa khoảng trời xanh thẳm.
– Về câu hỏi của anh lúc nãy: Sáng mai Sông Hương dẫn anh ra biển. Con đường từ biển về lúc nào cũng xa.
– Chia xa hay xa vời vợi?
Cô gái duyên dáng háy người thanh niên, đuôi mắt dài như lá.
o O o
Người thanh niên chăm chú đọc lại bài viết trên máy vi tính. Mãn nguyện với công trình làm việc suốt buổi tối của mình, chàng đứng dậy làm vài động tác thể dục cho giãn gân cốt. Trời đang vào khuya. Bên ngoài cửa sổ, một thứ ánh sáng huyền hoặc vàng như lụa trải mịn màng lên khu vườn đêm. Chàng mở cửa bước ra ngoài. Bầu trời không mây cao thẳm. Chàng chưa hề thấy vầng trăng nào sáng như trăng đêm nay. Ánh trăng vàng lóng lánh ướt trên từng bóng lá đang say ngủ im lìm. Chàng bước chậm trong vườn khuya lắng nghe tiếng đêm quanh mình. Từ phía trước nhà, tiếng nhạc thật nhẹ nương theo cơn gió thoảng dặt dìu vọng lại. Giọng hát liêu trai lãng đãng mơ hồ quyện lướt trong hương đêm đằm thắm mùi hoa bưởi.
Dưới bóng trăng chênh chếch đầu thềm, người Mẹ ngồi lặng lẽ nghe nhạc từ chiếc máy cassette nhỏ. Bà ngồi nhìn trăng. Chiếc ghế xích đu khẽ lay động làm long lanh ánh trăng trong đôi mắt mở lớn. Chàng chợt hiểu tại sao Bố đã viết được những dòng văn sinh động khi diễn tả đôi mắt đẹp người xưa trong vườn khuya của một mùa trăng cổ điển.
– Có lẽ cô vẫn thường thức khuya?
– Người già ít ngủ, nhất là vào những đêm trăng sáng.
Người đàn bà nhích người chừa chỗ trên chiếc ghế xích đu rộng.
– Cháu ngồi xuống đây đi. Thềm nhà con Mực quậy phá suốt ngày dơ lắm.
– Bài hát cô đang nghe hay quá! Hầu như người lớn cùng thời Bố Mẹ cháu ai cũng thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn.
– Chúng tôi lớn lên trong chiến tranh. Tình ca Trịnh Công Sơn hát lên được tình tự chia xa đổ vỡ của quê hương và những thất thoát ngóng trông của tình yêu bằng tất cả sự trau chuốt có thể có được của ngôn từ nên dễ lắng sâu vào hồn người.
– Và sau đó đã trở thành máu thịt của mình…
Người đàn bà gật đầu mỉm cười:
– Cháu ngộ rồi đó. Tôi cũng định nói vậy.
– Cháu chưa hiểu lắm đâu, chỉ nhớ lời Bố mà nói ra.
– Tôi cũng nghĩ như ba cháu. Khi hình ảnh âm vọng trong nhạc là kỷ niệm của chính mình thì sự cảm thông sẽ đến rất sâu đậm.
Giọng người đàn bà trở nên xa vắng nghe như lời tự trầm. Đã ba mươi năm mà hình ảnh hai người đạp xe qua cầu, hàng cây long não buổi chiều qua phố, vạt áo bay luống cuống, mắt ai nhìn trên chuyến đò ngang, vẫn lảng vảng trên từng dòng nhạc mỗi khi nghe. Mỗi bài hát như khung cửa sổ khép hờ trong căn nhà kỷ niệm chắt chiu cất giữ từng nỗi nhớ. Nghe lại bài hát cũ như nghe bước chân mình trở về mái nhà xưa, mở rộng cửa, thu xếp hong phơi lại mớ tàn y còn vướng vất hơi hám yêu thương ngày cũ.
– Có lẽ vì vậy mà tôi vẫn nghe hoài những bài hát cũ.
– Cháu nghe cô nhắc hai người. Người kia là…
– Người bạn trai đầu đời. Người tập cho tôi uống cà phê nghe nhạc rồi bỏ Huế mà đi. Tôi ở lại, cắt tóc ngắn, đạp xe qua cầu đi học một mình. Qua phố một mình. Những sáng tinh sương mùa đông Huế, tôi mặc hoài chiếc áo len cao cổ màu tím than người ấy khen đẹp. Ngày nhận thư từ phương xa, tôi mừng quýnh đọc dòng chữ quen thương. Vậy mà tôi đã ngại ngần một chuyến đi. Mẹ tôi ngồi không nói. Ánh mắt xa xôi trải dài theo phần đời hai mươi năm của Mẹ, một mình lặn lội nuôi con mà vẫn ôm ủ trong lòng nỗi vọng tưởng mong manh về người đàn ông đành đoạn đã làm chùng bước chân mình.
– Có phải vì… người trong tấm ảnh…
Người đàn bà lắc đầu.
– Chúng tôi gặp nhau sau này. Cha của chị em Sông Hương ngày trước dạy cùng trường.
Mẹ mừng ngày con lấy chồng sống đời lứa đôi đằm thắm. Tình nghĩa vợ chồng cao quý đã giúp gia đình sống còn những năm đầu sau giải phóng. Sông Hương ra đời vào năm đói kém nhất của thời kỳ đó. Hai năm sau thì Sông Hương có em. Sinh kế khó khăn mà gia đình ai cũng mừng, nhất là cha của Sông Hương. Ông đã có người nối dõi tông đường. Nhìn con lớn lên trong xã hội đong chia vụn vặt ráo cạn tính người, vợ chồng chỉ biết nhìn nhau buồn khổ mà không biết làm sao hơn.
Vì tương lai con, đứa con để nối dõi tông đường, cha mẹ đã lén lau khô nước mắt tươi cười vẫy tay lúc cha con đứng trên chiếc tàu đò từ từ rời bến chợ để đi Cù Lao Ré. Con tàu vượt biên ra đi từ hòn đảo nhỏ đó đã không tìm đến được bến bờ tự do. Số phận của mấy chục con người đã quá mong manh như con tàu nhỏ nhoi dập vùi trong cuồng nộ đại dương. Tội nghiệp Sông Hương, tuổi thơ của con là những ngày buồn. Những sáng những chiều, hai mẹ con ra bờ biển Đông ngồi lặng lẽ chờ đợi một mầu nhiệm nào đó không bao giờ đến. Con đường từ biển về lúc nào cũng quá xa xôi. Tóc Ngoại bạc hơn trong chiếc áo dài lam khổ hạnh. Lời kinh Ngoại buồn hơn trong làn hương khói lắt lay tấm hình con hình cháu.
Thời gian âm thầm trôi. Hai người mẹ và cô gái nhỏ sống lặng lẽ trong ngôi từ đường không có trưởng nam để nối dõi tông đường. Cửa Đại ngày càng đông người ra đi được nay trở về thảnh thơi tắm gội. Biển sớm với con sóng ân cần an ủi bước chân nhỏ cô đơn đã không còn nơi để chia sớt chỗ ngồi cho một nỗi sầu.
Có lần nhìn đám người xa về nô đùa trên bãi, Sông Hương nói với Mẹ: “Nếu Ba và em đi được, có lẽ bây giờ cũng đang tắm biển với họ.” Câu nói chất chứa chút nghi nan len lấn nỗi buồn rất lạ. Con đường từ biển về hình như xa hơn buổi chiều hôm đó. Có còn không giấc mơ dài đợi người về, người lính Bảo An đã bỏ Ngoại đi từ lâu lắm, từ thuở đầu đời con gái âu sầu trên bến lụa Duy Xuyên? Những người đàn ông đã đi xa khỏi đời mình, sao lòng Mẹ mãi dằn vặt về sự ngại ngần thiếu nữ của một chuyến đi rất cũ hay những bổn phận chưa tròn! Họ đã bỏ đi và để Mẹ lại một mình. Trách móc chi số phận! Hãy làm lành với nỗi buồn của mình để được sống vui với những kỷ niệm đằm thắm.
Sông Hương lớn khôn, chăm ngoan, hồn nhiên với bè bạn. Bãi biển Cửa Đại tràn ngập tiếng Sông Hương cười đùa với sóng. Trăng sáng đầu thềm, Mẹ ngồi lắng nghe từng bài hát cũ, lòng thật bình yên. Cây trứng cá trước nhà, già nua, rũ lá ngủ im lìm dưới vầng trăng mới về.
Đêm trăng xưa, vợ chồng ngồi đong đưa trên chiếc ghế xích đu, chị em Sông Hương leo trèo cười đùa trên cây trứng cá không bao giờ kịp ra trái chín. Dòng nhạc đưa người đàn bà có khi về trên một dòng sông, chân bước qua bóng Cổ Thành mát rượi, có khi là đôi bước chân vui buổi chiều qua phố lòng rộn ràng say.
Và như thế, ba người đàn bà sống những ngày bình yên trong thành phố cổ, trong ngôi từ đường mà những đứa con trai đã bỏ đi xa.
Người thanh niên ngồi im sững, lặng nhìn đôi mắt ngấn lệ.
Bà Mẹ đứng dậy, vuốt tóc người thanh niên rồi mỉm cười hôn nhẹ lên trán chàng:
– Có người biết về tôi nhiều hơn Sông Hương rồi đó! Thôi cháu sửa soạn đi ngủ để sáng mai Sông Hương đưa ra biển.
Người thanh niên ngồi lại thật lâu dưới mái hiên nhà. Trong đêm, chàng ngồi ôm lòng mình lắng nghe từng câu hát lãng đãng sương khói trần gian… Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về…
o O o
Người thanh niên đứng tựa thành cầu bâng khuâng nhìn xuống dòng sông. Thời gian trôi nhanh đến không ngờ. Suốt buổi tối đi lang thang dọc theo bờ sông, chàng buồn bã nghĩ đến ngày mai phải rời xa thành phố này. Chiều hôm trước, lúc Sông Hương chào để về Hội An nghỉ cuối tuần với Mẹ và Ngoại, chàng định theo về nhưng vì công việc bề bộn nên ngại ngần, bây giờ lại vơ vẩn ngóng trông. Chàng quay bước về khách sạn.
Lúc đi ngang qua văn phòng, người làm việc ở quầy đêm gọi anh lại:
– Cô gái vẫn đến đây hàng ngày…
– Vâng, Sông Hương làm việc ở trường Đại Học…
Người gác đêm khách sạn ý nhị:
– Cô tìm đến nói có việc cần muốn chờ ông. Người quen nên tôi đã mời lên phòng ông chờ.
Người thanh niên nói vội lời cám ơn rồi hấp tấp đi về phòng. Sông Hương thẹn thùa mở cửa đón chàng. Đôi mắt nàng long lanh đẹp lạ thường dưới mái tóc còn ướt hương tắm gội:
– Lần đầu tiên em chạy xe gắn máy đường xa ban đêm, sợ quá!
– Tôi đang buồn lo không biết làm gì cho hết đêm. Lang thang dọc theo bờ sông suốt buổi tối, trách mình sao không cùng về với Sông Hương để thăm cô và Ngoại trước khi đi.
– Ăn tối xong, ngồi với Má trước hiên nhà, em chợt ôm Má khóc như mưa. Má khóc với em mà mắt Má vui. Má nói, trời chưa tối lắm đâu con. Rồi Má đùa, tôi biết thế nào rồi cũng tới ngày Sông Hương bỏ Má mà đi.
Người thanh niên xúc động đứng lặng nhìn giọt lệ rưng vui trong mắt Sông Hương.
– Ngoại gởi anh chai dầu khuynh diệp. Thư này của Má.
– Còn Sông Hương cho tôi cái gì?
– Em đem cả Sông Hương về cho anh đây.
– Tôi chỉ dám xin đôi mắt thôi. Nhờ em gìn giữ giùm Sông Hương cho tới khi tôi trở về.
Người thanh niên mở phong thư dán kín người Mẹ gởi. Trong thư vỏn vẹn tấm ảnh nhỏ rất cũ. Tấm ảnh quen thuộc chàng đã thấy nhiều lần trong quyển album gia đình. Tấm ảnh Bố thuở còn là sinh viên trước khi vào lính. Chàng nghĩ đến Mẹ mình, đến người đàn bà ở lại trong thành phố cổ, những người đã bỏ đi xa hay quay về. Mỗi người đều long đong chật vật trên từng nỗi hội ngộ chia xa để cuối cùng bằng lòng với hạnh phúc cầm giữ được. Rồi quen đi. Ngay cả những cơn sầu. Có lẽ người Mẹ đang quay quắt vì tấm ảnh kỷ niệm ba mươi năm ôm giữ đã không còn. Có lẽ bà đã không nói rõ hơn về người bạn đầu đời với chàng vì biết nói ra sẽ không cầm giữ lại được giọt lệ quen.
Người thanh niên cảm thấy mắt mình cay.
– Mẹ viết thơ từ giã buồn lắm sao anh?
– Ồ không, Mẹ chỉ căn dặn không được làm Sông Hương khóc đêm nay.
Người thanh niên mở xách hành lý, bỏ tấm ảnh nhỏ vào cuối quyển truyện Bố viết.
– Của Má. Để Má đọc cho đỡ buồn.
Cô gái nhìn tựa đề quyển sách và tên người viết, tò mò hỏi.
Người thanh niên lắc đầu cười:
– Sông Hương nhắn với Má, tôi nhờ Má trả lời giùm câu hỏi của em.
– Em chợt nhớ ra là anh chưa hề hỏi tên Má em.
Người thanh niên ân cần cầm tay cô gái.
– Anh biết tên Má từ lâu lắm rồi. Tên Má là Người Đàn Bà Trong Phố Cổ.
Tiếng hát của nàng – Đoàn Thạch Biền (1948- )
Một nữ phóng viên đồng nghiệp nói với tôi: Ông chỉ chuyên viết về áo trắng thôi sao! Xã hội này còn nhiều người mặc áo màu khác. Ông hãy đi thực tế một quán bia ôm và viết về thân phận của các cô gái ấy.
Tôi đã đi thực tế và viết được truyện này. Có lẽ truyện còn ôm… đồm quá, nhưng biết làm sao được. Dưới ánh sáng mặt trời rạng rỡ, người ta còn chưa nhìn thấy hết góc cạnh của một sự việc, huống chi dưới ánh đèn mờ.
Truyện này đã được đăng trên báo Sóng Nhạc. Tôi nghĩ không phải vì nó có “nhạc” mà có lẽ vì nó có một chút “sóng.”
o O o
Khi chúng tôi bước vào quán Linh Thảo chỉ còn có hai bàn trống. Một bàn trải khăn trắng có đặt một bình hoa cúc vàng, còn bàn kia có một nụ hồng nhung cắm trong một chiếc ly cao. Tôi chọn bàn có bông hồng, chẳng phải vì trông nó sang trọng hơn mà vì nhìn bông hồng tôi thường dễ dàng tưởng tượng ra đủ thứ các món ăn ngon: heo sữa quay, cá chép sốt cà, thỏ nấu rượu chát. Và như thế sẽ đỡ tốn… tiền “mồi.”
Một người phục vụ nam mặc áo trắng quần đen bước vào hỏi:
– Các anh uống bia gì?
Tuấn nhìn người phục vụ nói:
– Cho nửa… nửa thùng Heineken là bao nhiêu lon?
– Dạ mười hai lon.
Tuấn trợn mắt nói:
– Bộ không biết làm tính chai sao mày? Nửa của nửa thùng là sáu lon.
Người phục vụ cười nói:
– Dạ, em hiểu. Các anh có cần gọi cô nào quen?
– Mới vào lần đầu chưa quen ai. Mày tìm cho tao em nào ốm ốm xinh xinh.
Nhân ngồi cách Tuấn một ghế nói:
– Gọi cho tôi một em ít trang điểm và không xài dầu thơm.
Người phục vụ quay qua hỏi tôi:
– Còn anh hai?
Tôi lắc đầu. Tuấn vỗ tay xuống bàn:
– Thôi cha nội, cha nội “ăn chay” ai dám “ăn mặn.”
– Thì từ từ.
Thú thật tôi thích ngồi uống bia với một bông hồng câm nín còn hơn phải ngồi nói chuyện với một cô gái mà mình không hợp gu, dù chỉ là ngồi để giải trí trong chốc lát.
Một lúc sau người phục vụ đem vào sáu lon bia và hai cô tiếp viên cầm ba cái ly có quai đặt lên bàn. Tuấn và Nhân mỗi người một cô tiếp viên ngồi kế bên. Người phục vụ hỏi:
– Các anh ăn gì không?
Tuấn nói:
– Cho con khô mực.
Tôi nói:
– Một đĩa táo xanh và nhiều muối ớt.
Người phục vụ kéo tấm bình phong che bàn chúng tôi, chỉ chừa một lối đi nhỏ rồi bước ra ngoài. Một cô gái tóc ngắn xách xô đá bước vào, gắp đá bỏ vào ly. Cô mặc áo pull trắng sát nách, chiếc váy dài có in hình những bông hoa màu đen trên nền vải nâu. Đôi mắt to đen của cô có vẻ buồn não ruột dù miệng cô luôn mỉm cười. Bỏ đá xong, cô gái xách xô đá đi ra ngoài.
Tôi hỏi cô gái ngồi bên Tuấn:
– Ai vậy?
Tuấn cười:
– Rồi, trúng “hệ” của chàng rồi!
Cô gái nói:
– Chị Kim đó. Chị ấy chỉ phục vụ chứ không được ngồi bàn tiếp khách.
Tôi tự khui lon bia rót đầy ly rồi bưng lên uống hết nửa ly. Tôi nhìn bông hồng trên bàn và cố tưởng tượng ra đôi mắt buồn não ruột của cô gái. Chắc cô là thân nhân của chủ quán nên không được tiếp khách.
Một người đàn ông ló đầu qua khe bình phong hỏi:
– Các anh có cần ca nhạc?
Tôi nhận ra Khoa, một người quen ở quán cũ. Tôi vẫy tay gọi:
– Vào đây.
Khoa đẩy bình phong bước vào, bắt tay tôi:
– Chào anh Tiến. Lâu quá mới gặp lại anh.
Tôi kéo ghế cho Khoa ngồi rồi rót đầy ly bia mời:
– Uống năm mươi đi. Bỏ quán Bảo Sơn bao lâu rồi?
– Dạ, em về làm quản lý ở đây đã hơn ba tháng. Xin phép anh.
Khoa uống cạn nửa ly bia rồi nói:
– Để em gọi cho anh một cô mới vô làm, ngon lành lắm.
– Thôi khỏi. Ông ra gọi cho tôi cô Kim.
Khoa trợn mắt:
– Cô Kim? Không được đâu!
Tôi nhíu mày:
– Ông là quản lý mà điều động cô ta vào đây không được thì quản lý cái quái gì?
– Không phải vậy. Em chỉ sợ anh buồn.
– Tự tôi yêu cầu, tại sao tôi còn phải buồn?
Khoa ôm vai tôi nói nhỏ:
– Để em trình bày cho anh Tiến thông cảm. Kim trước kia là ca sĩ số một ở quán này. Rất nhiều khách đã say mê tiếng hát của cô ấy. Bia và thuốc lá đã làm cho cô ấy khan tiếng. Rồi một đêm đi làm về khuya. Kim bị trúng mưa và bị bệnh. Khi lành bệnh thì Kim cũng bị tắt tiếng luôn. Bà chủ thông cảm hoàn cảnh cô ấy phải một mình nuôi cha mẹ già, nên đã nhận cô ấy vào làm phục vụ như nam chứ không cho ngồi tiếp khách, sợ khách chê quán có tiếp viên câm.
Tôi vỗ vai Khoa:
– Ông ra mời Kim vào đây. Mọi chuyện để tôi lo.
Khoa đứng dậy. Tuấn nói:
– Ông gọi người đờn để mấy em ca cho vui.
Khoa đẩy bình phong bước ra. Một lát sau Kim cầm đĩa khô mực và đĩa táo xanh bước vào. Đặt hai đĩa trên bàn, Kim định bước ra ngoài thì tôi níu tay nàng:
– Em ngồi xuống đây.
Kim mỉm cười lắc đầu. Tôi kéo Kim ngồi xuống ghế và choàng tay qua vai nàng.
Tuấn vỗ tay cười ha hả:
– Hết “ăn chay” rồi hả?
Tôi rút tay trên vai Kim xuống rồi nắm lấy tay nàng nói nhỏ:
– Em như một nụ hồng cầu mong chẳng lạnh lùng. Em biết bài hát đó chứ?
Kim mím môi nhìn đóa hồng trên bàn, lắc đầu. Tôi nói:
– Tôi không yêu cầu em hát. Tôi chỉ hỏi em có “hiểu” bài hát đó?
Kim gật đầu.
– Tốt. Nào mời em uống.
Tôi đưa ly bia cho Kim, nàng cầm lên uống nhấp một ngụm. Một người đàn ông có râu cầm đàn ghi ta bước vào. Anh cúi chào chúng tôi rồi kéo ghế ngồi một góc sát tấm bình phong.
Cô gái ngồi bên Tuấn nói:
– Em xin hát tặng các anh bài Chuyện ba người.
Anh nhạc công dạo đàn. Tuấn gõ tay xuống bàn theo nhịp điệu Rumba. Cô gái hát: Một người đi với một người, một người đi với nụ cười hắt hiu…
Kim nhìn chăm chăm vào cây đàn. Đôi môi nàng khẽ mấp máy. Nàng cố tìm lại giọng hát đã mất. Rồi nàng gục đầu xuống bàn, hai tay bịt chặt đôi tai…
Bài hát dứt. Mọi người vỗ tay. Đôi mắt Kim ngấn lệ.
Tôi vuốt mái tóc ngắn của nàng và nói nhỏ:
– Đừng buồn, rồi giọng hát sẽ trở về với em.
Kim buồn bã lắc đầu, cầm ly bia lên uống cạn.
Tôi lấy một trái táo xanh, chấm thật nhiều muối ớt rồi đưa cho nàng.
– Em hãy tập chịu đựng ăn đủ thứ chua chát cay mặn, để vươn lên trong cuộc đời. Khi nào từ bỏ được nơi chốn này, giọng hát sẽ tự động về với em.
Kim gật đầu, nhìn tôi mỉm cười. Nàng cắn mạnh vào trái táo đầy muối ớt. Tôi mượn người nhạc công cây đàn. Dù giọng hát không hay, tôi cũng muốn hát tặng nàng. Không phải để nàng thưởng thức giọng ca của tôi, mà để nàng hiểu lời ca: Dù mai đây ai đưa em đi đến cuối cuộc đời…
Gần 12 giờ đêm, tôi đưa Kim về nhà nàng. Trời vừa mới ngừng cơn mưa nên thành phố mát lạnh. Kim ngồi sau thỉnh thoảng đưa tay chỉ đường mỗi khi xe chạy đến một ngã tư. Đến một con đường nhiều cây sao cao vút, nàng vỗ vai tôi ra dấu cho xe ngừng lại. Nàng xuống xe, chỉ vào một con hẻm sâu hun hút rồi ra dấu cho tôi đừng đi theo vào nhà nàng.
Đường phố im lặng, tôi nghe rõ tiếng lá rụng chạy đuổi nhau trên mặt đường. Tôi ôm lấy vai nàng, nàng im lặng. Tôi vuốt mái tóc nàng, nàng im lặng. Và khi tôi cúi xuống hôn nàng, lạ lùng thay đôi môi nàng mấp máy rồi khẽ hát Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi. Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời…
Tôi đã nghe rõ ràng tiếng hát thanh thoát của nàng. Chắc các bạn cho rằng lúc đó tôi “xỉn” nên mới nghĩ vậy. Làm sao một người đã bị tắt tiếng có thể hát được?
Như vậy bạn chỉ tin tình yêu nói được bằng miệng lưỡi. Không, tình yêu cũng có thể nói được bằng trái tim. Và nàng đã hát bằng trái tim.
Tôi không tin cơn bệnh nàng mắc trong đêm mưa đã làm nàng tắt tiếng. Chính khói thuốc và rượu bia trong căn phòng tù túng, dù có được gắn máy lạnh, đã làm tắt tiếng hát của nàng. Tôi tin tình yêu sẽ giúp nàng thoát khỏi nơi chốn tù túng đó, và tiếng hát sẽ trở lại với nàng. Khi hai con tim hòa cùng một nhịp, chúng sẽ giúp nhau hát lên một bài ca mà chỉ riêng chúng hiểu.
Nhưng ai sẽ giúp nàng có lại tiếng hát?
Thật đáng tiếc tôi không thể giúp nàng chuyện đó. Tôi không muốn nàng sẽ bị tắt tiếng luôn khi khám phá ra đứa con gái đầu lòng của tôi vừa tròn một tuổi. Nó đang cần tiếng hát của tôi dù tôi hát không hay.
Đâu phải cái gì cũng mong manh –  Đoàn Thạch Biền
Mỗi chiều tan sở ra, tôi đều đi bộ đến chợ huyện xây cất ở gần bờ biển, ghé mua thực phẩm cho bữa ăn tối, trước khi trở về nhà. Bữa ăn trưa, vì thì giờ eo hẹp, tôi thường ăn vội vã một dĩa cơm ở quán gần sở, rồi trở vào căn phòng ngồi ngả lưng ở ghế dựa ngủ một giấc ngắn, trước khi làm việc lại vào lúc một giờ. Bữa ăn tối, tôi thích tự tay mình làm lấy hơn là đi ăn cơm ngoài. Người dân ở đây thường nấu các món ăn bằng cá biển bỏ thật nhiều ớt. Những món ăn như thế chẳng hợp với bệnh gan của tôi.
Buổi chiều nay khi đến chợ, tôi ngạc nhiên thấy một đống bắp cải bày bán ở ngoài sân cát. Thực phẩm này vốn là thứ tôi bị bó buộc phải ưa thích vì nó cần thiết cho lá gan trục trặc. Mỗi khi đến chợ, tôi phải đến hàng rau tìm nó trước nhất rồi mới đến hàng thịt và chẳng bao giờ tôi bước chân đến hàng cá biển. Ở chợ này, bắp cải bán rất đắt, đắt vì phải chuyên chở từ Ðà Lạt xuống, thường thường một ký bắp cải giá từ ba đến bốn trăm đồng. Vậy mà chiều này, khi đi ngang qua đống bắp cải xanh tươi, tôi đã nghe cô bé rao “Trăm đồng một bắp cải đây.” Tôi không hiểu cô bé nói thật hay mình nghe lầm.
Những người bán rau ở chợ này, tôi đều quen mặt (nếu không quen mặt thì sức mấy mà họ dám bán thiếu cho tôi mỗi khi tôi kẹt tiền), nhưng cô bé đây trông lạ hoắc. Ở xứ nắng chói chang này mà em vẫn mặc áo len, thế mới kỳ. Tôi đứng sững nhìn em một lát và cô bé cất tiếng mời:
– Dịp may hiếm có. Ông mua bắp cải đi, giá rẻ rề.
Tôi nói:
– Chắc bắp cải này hư nên em mới bán giá rẻ rề chứ gì?
Cô bé cúi xuống lấy một bắp cải đưa cho tôi.
– Ông xem này. Còn tươi nguyên, mới đem ở Ðà Lạt xuống mà.
Tôi cầm lấy bắp cải, lật lớp lá xanh bao bên ngoài, bên trong những lá cải trắng nõn cuốn chặt chẳng có dấu vết hư thối nào, nó thật tươi đúng như cô bé nói.
Bắp cải nặng gần hai ký.
Tôi hỏi cô bé:
– Bao nhiêu đây?
– Em bán giá đồng hạng, một trăm một cây.
Ðể chứng tỏ mình cũng là người rành chuyện buôn bán, tôi nói:
– Thôi tám chục đi.
Cô bé lắc đầu.
– Một trăm là rẻ rồi, ngày thường ông phải mua ba trăm là ít.
– Thôi chín chục đi. Tôi sẽ mua một cây rưỡi.
– Em không bán một cây rưỡi. Cứ một trăm một cây, giá nhất định.
– Thôi chín lăm đi. Em bán không?
– Trời đất ơi! Ông kỳ kèo trả giá còn hơn đàn bà! Bộ ông sợ mua hớ về vợ ông la hả?
– Không. Tôi sợ mua hớ em sẽ cười tôi ngu.
Cô bé bật cười:
– Ông cứ mua một trăm một cây đi. Em không cười ông ngu đâu.
– Vậy chứ em vừa cười cái gì vậy?
– Em cười ông thật thà. Em khuyên ông nên mua hai ba cây để dành. Ngày mai sẽ không còn bắp cải rẻ như hôm nay.
Tôi “thật thà” hỏi:
– Tại sao vậy?
Cô bé chớp mắt nói:
– Ba em chở một xe bắp cải, định đem vào Sài Gòn bán; nửa đường xe hư, ba em phải chở vào đây bán giá rẻ. Nhưng ba em đã đi thuê xe khác, vì vậy em nói ngày mai giá bắp cải sẽ đắt.
Nghe cô bé giải thích xong, tôi nói:
– Vậy em bán cho tôi năm bắp cải.
Cô bé đi vòng quanh đống bắp cải, bới tìm những cây khá lớn, rồi em lấy dây cột chúng lại đưa cho tôi.
– Em đã lựa cho ông những bắp cải chắc nhất.
Vì đã tự giới hạn, mỗi ngày chỉ được chi tiêu ba trăm tiền chợ; nên mua bắp cải xong, tôi khỏi mất công đi đến hàng thịt hay bất cứ hàng nào khác.
Bữa ăn tối đó, tôi đã ăn bắp cải trừ cơm. Rất may, bắp cải không làm tôi đau bụng phải thức giấc vào lúc nửa đêm.
Buổi chiều hôm sau đi chợ, tôi thấy cô bé vẫn còn đứng bán bắp cải. Em vẫn mặc chiếc áo len xanh dài tay, dù cho trời nắng gắt. Mặc áo len có lẽ là thói quen của dân Ðà Lạt, nên họ ít khi chịu rời bỏ. Khi tôi đến gần, nghe em rao: “Ðại hạ giá. Hai trăm đồng ba bắp cải đây.” Tôi lại tự hỏi, cô bé nói thật hay mình nghe lầm?
Thấy tôi, em nói:
– Mời ông mua bắp cải.
– Mua gì nữa? Hôm qua tôi đã mua năm bắp cải rồi.
– Ông nên mua thêm. Hôm nay giá rẻ hơn hôm qua.
Nghe cô bé liến láu, tôi nổi sùng nạt:
– Sao hôm qua em nói giá hôm nay sẽ đắt hơn?
– Em đâu có ngờ, ba em chưa thuê được xe chở bắp cải vào Sài Gòn. Hôm nay em bị bắt buộc phải bán giá rẻ, vì xứ nóng bắp cải mau hư.
Tôi thở dài:
– Vậy là tôi đã bị hớ rồi, em có cười tôi ngu?
– Không. Vì em cũng đã bị hớ.
– Em hớ cái gì?
– Cảm tình dành cho ông.
– Dành cho tôi?
– Phải. Em tưởng ông thông cảm sẽ không kỳ kèo về chuyện mua bắp cải với giá đắt. Nào ngờ…
Cô bé bỏ lửng câu nói, thở dài, rồi ngoảnh mặt rầu rầu nhìn đi nơi khác. Tiếng thở dài của người lớn thật đáng ghét như lốp xe xì hơi. Nhưng tiếng thở dài của mấy cô nhỏ như ngọn gió mùa Thu nghe thật thê lương và trái tim tôi, một chiếc lá vàng úa, tránh sao khỏi rung động.
Tôi vội nói:
– Này nhỏ, tôi thông cảm với em rồi. Hôm nay tôi mua thêm ba bắp cải nữa.
Cô bé quay nhìn tôi cười:
– Ðể em lựa cho ông ba bắp cải chắc nhất.
– Hôm qua em đã lựa cho tôi năm bắp cải chắc nhất rồi, còn đâu bắp cải chắc nhất nữa.
– Em vẫn còn những bắp cải chắc nhất dành cho ông chiều nay.
Biết mình bị cô bé lừa, nhưng tôi chỉ cười trừ. Nếu một bà già nói với tôi như vậy, chắc tôi sẽ giảng “moran” cho bà nghe điếc con ráy, nhưng với một cô bé tôi đành nín thinh. Chẳng bao giờ tôi thích cãi tay đôi với một cô bé. Giành giật “thắng lợi” với một người nhỏ tuổi hơn mình, nào có thích thú gì.
Khi cô bé đưa cho tôi ba bắp cải đã được cột dây cho cẩn thận, tôi hỏi:
– Này nhỏ, bây giờ gia đình em ở đâu?
– Gia đình em ăn ngủ luôn trên xe, đậu ở khoảng sân trống trước rạp hát.
– Tôi cũng ở gần đó. Tối nay em rảnh không?
– Ông định mời em đi xem cải lương?
– Em thích cải lương?
– Thích lắm. Em xin ba hoài nhưng ba không cho đi xem.
– Vậy tối nay tôi sẽ đến xin phép cho em đi xem.
Cô bé reo lên.
– Ông hứa chắc nghe?
Tôi cười.
– Chắc như bắp cải của em.
Sau khi rửa bát đũa xong, đúng bảy giờ, tôi đi bộ đến rạp cải lương. Mùa hè ở đây ban ngày trời rất khó chịu, chẳng ai muốn ra ngoài đường, vì nắng chiếu rát da mặt, lại thêm những ngọn gió thổi cát ào vào mắt nhắm không kịp. Nhưng đêm đến, gió từ biển thổi vào mang theo hơi nước, khiến người ta thấy dễ chịu hơn khi rời khỏi nhà. Trên vỉa hè đông người qua lại, họ đi mua sắm vật dụng hay đi xem hát. Ða số dân ở đây rất mê cải lương, nhưng chẳng mấy khi được xem tận mắt, họ chỉ được nghe các vở tuồng truyền thanh hay trên những chuyến xe đò mở nhạc cải lương oang oang câu khách. Vì vậy mỗi khi có đoàn cải lương về huyện hát, con phố nhộn nhịp hẳn lên.
Tôi đi thẳng ra sân cát rộng trước rạp hát. Có khoảng chục chiếc xe hàng đậu nơi đây. Không biết gia đình cô bé ở xe nào, tôi đi vòng quanh tìm kiếm.
Chợt có tiếng kêu:
– Chào ông.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên. Cô bé đang ngồi với hai em nhỏ trên một mui xe và em đưa tay vẫy. Tôi đưa tay vẫy lại. Cô bé bám vào một chiếc thang nhỏ leo xuống. Vẫn mặc chiếc áo len màu xanh dài tay. Cô bé đứng trước mặt tôi đưa tay vuốt lại mái tóc.
– Em đợi ông từ sáu giờ.
Tôi giải thích:
– Tôi phải nấu cơm và rửa chén bát xong mới đi được.
– Vợ ông đau à?
– Tôi chưa hân hạnh gặp bà ấy ở đời này.
– Trời đất! Vậy ông mua bắp cải làm gì mà nhiều quá vậy? Bộ ông có nuôi heo hả?
– Nếu có nuôi heo, tôi sẽ sạt nghiệp. Tôi nuôi tôi còn ốm nhách thế này, nuôi heo bán ai mua?
Cô bé cười, chỉ dưới chân tôi.
– Tại ông lo chăm sóc cái bóng của ông nhiều quá. Ông thấy không, nó mập hơn ông.
Tôi cười nói:
– Ba em đâu? để tôi xin phép ông cho em đi xem cải lương. Họ sắp trình diễn rồi.
Cô bé gọi lớn vào khoang xe:
– Bố ơi, có ông khách mua bắp cải.
Từ trong khoang xe tối om, một người đàn ông mặc áo vét sờn cũ bước ra. Ðứng ở thành xe, ông hỏi tôi:
– Ông muốn mua sỉ bắp cải?
Cô bé xua tay.
– Con bán cho ông ấy nhiều ở chợ rồi, ông ấy đến để…
Cô bé quay sang tôi:
– Ðể làm gì ông nói đi!
Người đàn ông từ thành xe nhảy xuống bắt tay tôi.
– Cậu làm việc ở huyện?
– Dạ phải.
Bây giờ tôi mới nhận ra người đàn ông này buổi sáng tôi đã gặp ở văn phòng hành chánh huyện. Ông đến xin phép thuê xe chở bắp cải vào Sài Gòn. Tôi đã giúp ông có giấy phép sớm. Tôi không ngờ ông là ba cô bé.
Tôi nói:
– Bác thuê được xe chở bắp cải chưa?
– Cám ơn cậu. Ðược rồi, bốn giờ sáng xe chở bắp cải sẽ chạy. Còn chúng tôi ở lại sửa xe xong vào sau.
Cô bé reo lên:
– Vậy ông hên nhé! Ngày mai bắp cải sẽ đắt.
Người đàn ông nói:
– Cậu muốn mua bắp cải nữa, tôi vẫn để cho cậu giá đặc biệt.
Trước lòng tốt của người đàn ông, tôi phát hoảng, vì đã hai tối rồi tôi phải ăn bắp cải trừ cơm. Tôi vội từ chối:
– Cám ơn bác. Tôi còn sáu bắp cải ở nhà. Dư ăn một tuần.
Thấy cô bé nháy mắt ra hiệu, tôi biết em đã nôn nóng muốn đi xem cải lương. Tôi vội kết thúc câu chuyện bằng một câu quen miệng: “Sau cơn mưa trời lại sáng, chúc bác may mắn.” Rồi tôi ngỏ ý muốn mời ông và cô bé đi xem cải lương “giải buồn.”
Ông nói:
– Cám ơn cậu. Lúc này tôi chẳng còn hứng thú xem cải lương, nhưng con nhỏ này mê lắm, vậy nhờ cậu dẫn nó đi xem.
Tôi bắt tay chào ông và dẫn cô bé đi. Khi chúng tôi đi khuất chiếc xe vận tải, cô bé nói:
– Em không ngờ ông cũng thuộc tên tuồng cải lương dữ!
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Tôi có thuộc tên tuồng cải lương nào đâu?
– Hồi nãy ông nói với em “Sau cơn mưa trời lại sáng”, đó không là tên một tuồng cải lương sao?
Tôi không hiểu cô bé nói thật hay đùa, nên đành nín thinh.
Sắp đến giờ trình diễn, khán giả đã vào rạp, chỉ còn bọn con nít bu đông bên ngoài chực vào ké. Tôi đến phòng vé hỏi mua hai vé hạng ba. Họ nói hạng nhất, nhì, ba đều đã hết, chỉ còn thượng hạng, tám trăm một vé. Cũng may tôi mới lãnh lương hồi chiều; nếu không, tôi phải nói dối với cô bé là đã bị bọn móc túi lấy bóp và dẫn em về.
Trong rạp đông nghẹt khán giả, thở không nổi. Nhờ mua vé thượng hạng, chúng tôi đã được ngồi ngay dưới một hàng quạt trần. Có vậy tôi mới đủ sức chịu đựng ngồi ở đây suốt ba tiếng đồng hồ.
Hồi chuông thứ tư vang lên. Ðèn trong rạp tắt hết và loa phóng thanh kêu oang oang. “Kính thưa quí vị khán giả. Hôm nay đoàn Hoa Mai chúng tôi xin trình diễn ra mắt quí vị vở tuồng Duyên tình mong manh. Một vở tuồng tình cảm xã hội đặc sắc nhất và mới lạ nhất của soạn giả Ðức Thịnh. Với sự có mặt của các danh tài…” Và tôi ngáp, mặc dù theo thông lệ, ở nhà mỗi tối đúng 10 giờ, tôi mới đi ngủ.
Chắc tôi đã ngủ thẳng một giấc trong rạp, nếu không có những tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Trên sân khấu, anh kép chính và chị đào thương đang ôm nhau ca những lời mùi mẫn, diễn tả mối tình trong trắng và mong manh như giấy pelure của họ. Tôi ngạc nhiên thấy những người ngồi chung quanh và cô bé đã khóc dễ dàng. Em đưa ống tay áo lên thấm những giọt nước mắt lăn trên má. Tự dưng tôi đâm “thù” những người đang ca hát trên kia, vì họ đã giúp cho người khác khóc. Tự người ta khóc chưa đủ buồn sao mà còn phải giúp người ta!
Cho đến khi tấm màn khép lại, nhạc ò e tạm biệt lên và đèn trong rạp bật sáng, tôi cũng không hiểu họ đã diễn cái gì trên sân khấu. Tôi giữ cô bé ngồi lại trên ghế, chờ khán giả ra bớt để đỡ chen lấn.
Cô bé hỏi tôi:
– Ông xem hay không?
Tôi lắc đầu nói:
– Họ diễn thua tôi nhiều.
– Còn khuya. Ông mà biết diễn tuồng?
– Ðừng vội chê, nhỏ. Tôi mời em tối mai đến xem tôi trình diễn vở tuồng “Bữa ăn tối tại nhà trọ.”
Ðạo diễn xong bữa ăn tối, tôi đi đón cô bé đến xem. Trong căn phòng chật hẹp, dưới ánh đèn néon sáu tấc, chúng tôi ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn nhỏ. Trên bàn, bày bắp cải bảy món, do tôi nấu theo quyển sách: Tự học làm bếp. Gồm có: bắp cải luộc, bắp cải trộn giấm, bắp cải xào mì chay, bắp cải bằm chiên trứng, bắp cải nấu canh thịt mỡ, bắp cải hầm xương heo, bắp cải muối dưa và món tráng miệng đặc biệt là bắp cải sống.
Cô bé quan sát kỹ lưỡng món ăn rồi em hỏi:
– Sao toàn bắp cải vậy?
Tôi phân bua:
– Thì em có bán cho tôi món gì khác ngoài bắp cải đâu?
– Ăn xong, có đau bụng không?
– Ðau bụng hay không chắc em biết rõ hơn tôi, vì bắp cải này của em mà!
Bữa ăn tiến triển một cách chậm chạp, nhưng thành quả rất tốt đẹp; vì sau cùng, chúng tôi đã thanh toán hết các món ăn. Tôi thu dọn bát dĩa vào chậu rồi đi pha trà. Cô bé nói:
– Ðể em rửa bát chén giúp ông.
Tôi xua tay.
– Em làm giúp, tôi sẽ mất thói quen và tối mai tôi không còn can đảm rửa chén nữa.
– Sao ông không lập gia đình? Một người vợ sẽ giúp ông nhiều chuyện.
– Tôi đã biết giặt quần áo, biết đi chợ trả giá, biết nấu ăn, biết rửa chén, vậy khỏi phải lấy vợ.
– Ông vẫn cần phải lấy vợ như thường.
– Tại sao?
– Ai săn sóc khi ông đau ốm?
– Nhà thương thí.
– Ai cằn nhằn ông khi ông về khuya hay say sưa?
– Trời đất quỉ thần ba má anh chị ơi! Bộ cần phải có một người cằn nhằn mình, mình mới sống được sao?
– Ðúng vậy. Ông thấy đó, ai cũng ghét tiếng động nhưng thiếu tiếng động người ta sẽ buồn chán và hoảng sợ ngay.
Nghe cô bé nói cũng có lý, tôi không biết bắt bẻ thế nào nên chọc tức em:
– Vậy chắc em cũng rành chuyện cằn nhằn lắm hả?
Cô bé trả lời tỉnh bơ:
– Dĩ nhiên. Ðàn bà con gái ai không rành chuyện đó!
– Vậy em làm ơn cằn nhằn tôi một hồi đi.
Cô bé trợn mắt nhìn tôi.
– Bộ ông điên rồi hả?
– Tôi nói thật mà! Em cằn nhằn cho tôi thâu băng, rồi khi nào cảm thấy cần tiếng cằn nhằn, tôi sẽ mở băng ra nghe. Như thế tôi khỏi cần phải lấy vợ nữa.
Cô bé bật cười rũ rượi.
– Ông đúng là vua lười.
– Tôi mà lười? Nếu lười tôi đã không tự tay nấu những bữa ăn tối.
– Những người đàn ông sợ lập gia đình đều là những người lười biếng. Ông hãy tưởng tượng, nếu tất cả đàn ông đều sợ lập gia đình thì thế giới này sẽ ra sao?
– Ồ! thật tuyệt diệu. Thế giới này sẽ trở thành thiên đàng ngay.
Cô bé kéo ghế đứng dậy.
– Thôi chào ông, em về.
Tôi chưng hửng nói:
– Gấp vậy? Còn sớm mà!
– Em không muốn ở trong thiên đàng của ông nữa. Ngột ngạt quá!
Mặc dù tôi năn nỉ, cô bé vẫn đòi về.
Khi đưa em đến gần chỗ gia đình em đậu xe, tôi nói:
– Em xem có hay không?
– Xem gì đâu?
– Vở tuồng “Bữa ăn tối ở nhà trọ” do tôi diễn.
Cô bé cười.
– Dở ẹc! Ông nấu nướng nuốt không vô.
Tuy vở tuồng của tôi “dở ẹc”, nhưng tôi vẫn cảm thấy sung sướng. Tôi không làm cho cô bé tốn nước mắt mà trái lại đã giúp em có được nụ cười.
Một buổi tối từ nhà người bạn trở về, tôi thấy cô bé đã ngồi đợi tôi ở trước thềm nhà trọ. Em ngồi bó gối gục đầu, tóc buông xõa, dáng điệu ủ dột.
Tôi hỏi:
– Em ngồi đợi lâu chưa?
– Hơn nửa tiếng rồi.
– Mời em vào nhà.
– Em ngồi đây được rồi.
Tôi nghĩ vào phòng giờ này cũng nóng bức nên ngồi xuống thềm nhà với em. Căn phòng khi đi tôi đã đóng kín các cửa nên ánh sáng đèn điện bên trong không hắt ra ngoài. Trước mặt chúng tôi khoảng sân rộng lát gạch, sáng rực ánh trăng đêm mười sáu. Hai cây dừa trồng trong sân vươn cao với những tàu lá ánh bạc và im sững. Ðêm không gió, không khí ngột ngạt khó thở.
Chợt cô bé ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt tôi, em nói nhanh:
– Em đến từ biệt ông. Ngày mai em đi, xe của ba em sửa đã xong.
Tôi biết chuyện này rồi sẽ xảy ra. Ðã biết trước nhưng tôi cũng không ngăn được tiếng thở dài.
– Ông đừng buồn.
– Ừ.
– Ông còn nhớ vở tuồng chúng ta cùng xem?
– Nhớ.
– Tên tuồng là gì?
– “Bữa ăn tối ở nhà trọ.”
– Không phải vở tuồng dở ẹc đó đâu. Em muốn nói vở tuồng chúng ta cùng xem ở rạp.
– “Duyên tình mong manh.”
– Ðúng rồi. Không phải ở trên sân khấu mà ở ngay đời này, mọi thứ cũng đều mong manh.
– Ðâu phải cái gì cũng mong manh. Có những thứ rất chắc chắn.
– Thứ gì đâu?
– Những bắp cải của em rất chắc chắn.
– Chúng chỉ chắc chắn đối với ông.
– Ðối với em cũng có một thứ rất chắc chắn.
– Thứ gì?
Ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt cô bé, tôi nói chậm rãi:
– Tình cảm của tôi dành cho em.
Ðáng lẽ tôi phải đồng ý với cô bé là mọi thứ ở đời này đều mong manh. Ngày mai em đi, chẳng bao giờ chúng tôi có dịp gặp lại, tôi không nên để em còn những ràng buộc với nơi chốn này. Không ràng buộc, em sẽ sống dễ chịu hơn ở một nơi chốn khác. Vậy mà vì ích kỷ, tôi đã nói lên tiếng nói của lòng mình và làm cho cô bé khóc. Hơn những thứ khác, những giọt nước mắt rất mong manh, tôi biết vậy.
Nhưng chắc suốt đời tôi sẽ ân hận vì chỉ một phút yếu lòng, tôi đã giúp cho cô bé biết ở đời có một thứ không mong manh.
Bảy ngày ngà ngọc – Hoàng Lan Chi (Đinh Quỳnh Giao)
Saigon bắt đầu có những ngày mang hơi hướng mùa đông. Với một chút lạnh giá vào sáng mai hay khi hoàng hôn buông rủ. Những cô gái Saigon với áo len hồng, khăn voan trắng làm phố phường như mềm mại hơn, tha thướt hơn… Tháng chạp của Saigon không giống tháng chạp của bất cứ nơi nào…
Nàng đứng đợi ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Một bó hoa thạch thảo tím trên tay. Đó là dấu hiệu của nhau.
 Em
Anh biết là em yêu hoa hồng nhất. Nên nếu đón em sẽ là những bông hồng BB mà em hằng yêu thích. Nhưng anh xin được nhìn thấy em – đón anh – với thạch thảo tím. Những bông hoa bé nhỏ và màu tím thủy chung. Là những gì em dành cho anh và ngược lại. Phải thế không?
Ừ, thì có gì đâu! Chút chiều nhau cho tháng chạp ngát huơng mùi thạch thảo!
Nàng nhìn lên màn hình TV. Chuyến bay… từ San Francisco sẽ đến sân bay Tân Sân Nhất vào 11 giờ khuya. Giờ Tý. Cũng là tuổi của nàng.
Tháng chạp ngày n+1
– A lô, anh dậy chưa?
– Anh đâu có ngủ mà dậy!
– Sao thế?
– Không biết. Tự nhiên không buồn ngủ. Anh ra lan can và ngắm Saigon về đêm. Lạ quá em à!
– Lạ gì cơ?
– Saigon như không ngủ. Đường phố xe cộ tấp nập cho đến khuya. Nghe những hàng quà rong rao, anh như sống lại thuở xưa. Mà bầu trời thì đỏ hồng. Không có đêm đen!
– Ừ, bây giờ dêm đen ít thấy. Nhưng nếu anh ở lâu, anh sẽ chán vì tiếng xe cộ ồn ào, tiếng rao hàng… Anh sẽ thèm những giây phút tĩnh lặng.
– Có thể. Nhưng hiện nay thì anh đang thú vị với những cái đó.
– Em đến đón anh đi ăn phở nhé!
– OK.
Nửa giờ sau.
Chàng mở cửa. Nàng khác hôm qua. Dường như khi đón chàng, vào khuya, nàng có vẻ huyền bí như đêm đen Ai Cập. Bởi đôi mắt sâu. Phụ nữ VN ít ai có mắt sâu. Nàng thì như thế. Cũng như đa số phụ nữ VN mắt đen nhưng nàng thì nâu. Ở nàng cái gì cũng có vẻ khang khác với đám đông.
 Em muốn là em, không trộn lẫn
Giữa muôn hồng nghìn tía ở chung quanh
Ừ thì nàng là đóa quỳnh và không trộn lẫn với bất cứ đóa hoa nào dưới ánh nắng mặt trời…
Còn bây giờ? Nàng có vẻ mềm mại hơn với chiếc khăn voan tím choàng quanh cổ, với áo khoác trắng và chiếc jupe dài mầu xanh lá…
– Anh đoán là ngày xưa em…
Nàng cười lớn:
– Thôi cho I can you! Anh đoán là ngày xưa em đẹp lắm? Anh định nói thế chứ gì?
Chàng phật ý:
– Thì sao nào?
– Chẳng sao cả! nhưng em muốn nghe những gì khác cơ! Chẳng hạn, có lẽ ngày xưa em buồn lắm?!
– Ai lại nói thế bao giờ!
– Thì có thế mới lạ!
– Thôi không cãi nữa. Mình đi ăn phở 2000 nhé!
– Phở gì có 2000?
Nàng cười:
– Anh tôi ơi, phở 2000 là một tiệm phở của một Việt kiều Mỹ. Mở năm 2000. Nhưng giá thì đắt. Đến 14 hay 16.000 đồng cơ. Tuy vậy thịt khá mềm và ngon. Nước thì tàm tạm. Nhưng tiêu chuẩn vệ sinh thì chàng Việt kiều tự hào. Hồi đó khi khai trương vào năm 2000, anh ta đã tuyên bố “Mong rằng có ngày tổng thống Mỹ ghé VN, anh ta sẽ giới thiệu phở 2000.” Báo chí và không ít người đã cười anh ta… điên. Vì làm sao tổng thống Mỹ thăm VN được? Thế nhưng…
– Thế nhưng năm 2001, Bill Clinton đã sang VN và…
– Đúng thế. Cả bầu đoàn thê tử chàng Bill đã ăn phở 2000 này.
– Em làm anh có chút tò mò!
– Em thích vậy. Tò mò sẽ làm phong phú cuộc sống hơn, anh đồng ý không?
– Anh lúc nào cũng đồng ý với em!
– Xạo ke!
Chàng phá ra cười. Chàng đã cố tình trêu để nghe nàng nói những từ mà đã lâu lắm chàng thèm biết mấy. Ơi, cô gái Bắc kỳ dễ thương của tôi ơi, chúng tôi những chàng trai đất Việt dù xa quê bao năm vẫn nhớ mãi tóc thề, guốc mộc, áo lụa Hà Đông và răng khểnh ai đó chúm chím “gì cơ!”
Phở 2000 nằm ngay trung tâm Saigon, trên đường Lê Lợi rất gần chợ. Chàng kêu phở chín nạm. Nàng cũng vậy. Muốn có hương vị phở thì nên ăn nạm chứ tái thì chẳng có mùi phở.
– Em ăn ít thế? Nhỏ nhẻ như con mèo!
– Thế mà không xuống ký đấy. Than ôi, thời… năm chục ký nay còn đâu!!
– Em quả là có óc khôi hài! Thế em muốn xuống mấy ký?
Nàng duyên dáng đưa ba ngón tay:
– Ba! Chỉ xin ba mà sao khó thế! Em mà 52 ký thì chuẩn hơn!
– A ha! Chuẩn hơn! Em tôi ơi, em dùng từ VC hơi bị nhiều đấy!!
Nàng phì cười.
– Bây giờ đi một vòng quanh Saigon nhé!
– Anh muốn đi bằng gì?
– Xích lô! Được không?
– Hai chiếc nhé?
– Không, một thôi. Em chỉ hơi thừa cân và anh thì hơi thiếu cân. Anh muốn mình ngồi chung. Để anh ngồi trước nhé!
Nàng mủm mỉm. Ừ thì chiều nhau một tí. Có gì đâu! Có nghĩa gì đâu một chút chiều! Tình như sương khói quá hoang liêu! Bên nhau một thoáng đời hư ảo. Biền biệt một mai, nhớ nỗi chiều!
Chàng lên trước. Nàng vén jupe lên sau. Nàng biết âm mưu của chàng chứ!
 Em
Có những đêm trời buốt giá. Tiếng mèo kêu làm anh thức giấc. Anh bỗng thèm có em bên cạnh. Có thể là gác đầu lên tay anh. Có thể là ngồi trong lòng anh. Vì em vẫn nói là em thèm được che chở! Anh muốn bù đắp cho em. Em xứng đáng được hưởng những hạnh phúc nhỏ nhoi ấy. Anh thề là anh sẽ rất vô tư và trong sáng vô cùng khi em ở trong lòng anh như vậy!
Chàng đã giữ lời thề. Nàng ngồi nép một bên nhưng vẫn rất gần chàng. Chàng nghe phảng phất mùi phấn em bé.
– Này em!
– Gì cơ?
– Đa số phụ nữ thích nước hoa. Họ coi đó là một công cụ để dụ dàn ông. Vì sao em thích phấn trẻ con?
Nàng nghiêng đầu cười.
– Anh đã nghe mùi phấn trẻ con mà không biết vì sao ư?
– Thì em không dụ dàn ông bao giờ! Chỉ đàn ông dụ em thôi! Vả lại, em đã nói rồi, ngày xưa có người đã nói em là típ femme enfant! Nên em thích mùi phấn rôm trẻ con. Em muốn là em bé!
Chàng vòng tay qua vai nàng:
– Thế cho anh “thơm” em bé một cái được không?
– Bậy nào!
Đường phố Saigon thật náo nhiệt. Xe cộ như mắc cửi. Chàng hoa cả mắt. Sao mọi người chạy xe hay thế nhỉ? Chẳng có luật lệ gì cả! cứ len lỏi, luồn lách mà đi!
– Anh biết không, mấy năm trước họ định xây mới chợ Saigon, nhưng may quá báo chí và dân chúng lên tiếng đả kích. Chợ Saigon đã từng được coi như một biểu tượng của Saigon. Xây chợ khác đi sẽ làm đau lòng những người ở lại và cả những người đã ra đi! Khi về lại, biết tìm đâu hình bóng cũ? Nhờ thế Saigon đã tồn tại như anh thấy, không khác gì so với thuở anh đi, đúng không?
– Ừ!
– Thế nhưng chợ hoa Nguyễn Huệ đã không còn anh ạ!
– Sao?
– Họ đã dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ. Dân chúng Saigon cũng phản đối vì chợ hoa Nguyễn Huệ là một nét văn hóa độc đáo của Saigon, nhưng cuối cùng dân chúng thua. Chợ hoa đưa về bờ sông. Năm đầu tiên ế thê thảm. Bây giờ chợ hoa được đưa vào công viên ở Hai Bà Trưng, nơi nghĩa địa cũ, anh nhớ không?
– Nhớ! Nhưng như vậy thì chán quá! Anh thích chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ. Ngày xưa, bọn anh hay đi dạo vào dịp Tết để ngắm hoa không biết nói và cả hoa biết nói. Ngắm đã đời xong là rủ nhau vào Nhà thờ Đức Bà. Vui lắm. Thế Nhà thờ Đức bà có bị đổi mới không?
– Không. Vẫn như cũ. Nhưng chung quanh, nhiều cao ốc đã mọc lên và Nhà Thờ đã bị nuốt chửng! Họ không biết một cảnh quan hài hòa là như thế nào! Họ chỉ biết cho phép xây dựng vì một công trình xây dựng là làm giàu cho một số người! Người Saigon cũ rất buồn nhưng biết làm sao!
Không khí bỗng chùng xuống. Chàng nắm tay nàng bóp nhẹ. Em ơi, sao trời xanh luôn quen thói má hồng đánh ghen!
Chàng đánh tan không khí buồn:
– Chợ Saigon hình dáng như cũ nhưng cao ốc chung quanh nhiều quá!
– Ừ thì đã nói, cứ mỗi một công trình được xây dựng là nhiều kẻ vơ thêm tiền, nên họ đâu cần đến cảnh quan của đất nước. Ôi, thà làm đầy tớ người khôn còn hơn làm chủ đứa ngu…
Chàng bẹo má nàng:
– Thế mà em tôi, một tư tưởng lớn đang làm đầy tớ kẻ ngu!
– Anh…! Chọc em goài!
Goài! Cô bắc kỳ lai mất rồi. Nhưng chàng thấy vui vui. Như áo lụa Hà Đông năm xưa chỉ thổi hồn thơ dưới nắng Saigon!
Xích lô vòng qua Nhà thờ Đức Bà. Vẫn như thế. Con đường Thống Nhất vẫn thênh thang so với những con đường khác trong thành phố. Thênh thang. Chàng mỉm cười. Ừ thì ngày xưa là thênh thang. Bây giờ hơn hai mươi năm sống ở xứ người với những con đường mênh mông, chàng bỗng thấy Thống Nhất nhỏ bé vô cùng. Bên hông Nhà thờ, một đám đông đang bu quanh các cô gái trẻ nhảy nhót.
Chàng:
– Gì vậy em?
– À, một nhóm nhạc trẻ thu hình ngoại cảnh.
– Các cô bé VN bây giờ ăn mặc mát mẻ nhỉ!
– Thì thời trang yếm đang thịnh hành. Yếm và hở rốn!
– Quả là thay đổi! Anh nhớ năm 75, mọi người đua nhau ăn mặc chân quê!
Nàng cười lớn:
– Thì nói làm gì! Anh biết không sau 75, em bỏ hết áo dài. Mặc quần đen áo thường. Khi em mặc áo bà ba, các chị ở phòng học vụ trố mắt nhìn!
– Vì sao? Anh thấy em mặc áo tứ thân cũng đẹp lắm mà!
– Nhưng xưa nay mọi người quen nhìn em diện mode! Nên bây giờ bỗng thấy em thùy mị nết na với quần đen áo bà ba, ai cũng thấy ngộ!
Chàng dụ khị:
– Hôm nào em mặc áo bà ba, quấn khăn rằn đứng dưới bóng dừa chụp một tấm đi!
– Ha ha, để xem em có giống cô gái xung phong đi tải đạn không chứ gì? No! Em sẽ mặc áo bà ba nhưng không có khăn rằn nhé!
– Thế có gì?
– Nón lá! Em sẽ đứng bên bờ sông có tàu lá chuối và nón lá nghiêng nghiêng!
– Chỉ tưởng tượng thôi anh đã muốn làm thơ rồi! Nhưng cái mặt em mặc áo bà ba anh nghi chẳng giống ai?
– Lại chọc em goài!
– Thật mà! vì em mắt nâu. Mắt Á Đông đen mà!
– Chê mắt nâu há?
– Mắt nâu không chung tình!
– Có thể lắm. Với em, tình có đâu mà chung! À mà có!
Nàng quay sang nhìn chàng. Đôi mắt nâu nghịch ngợm. Chàng muốn cắn một cái! Khi nhìn nàng trên màn hình computer, lúc nào chàng cũng có ý nghĩ muốn cắn một cái!
– Tình nào? Anh nhé?
– No. Đừng tưởng bở! Anh hư lắm!
– Anh hư lâu rồi. Hư kể từ khi biết em! Nhưng thôi nói anh nghe đi, tình nào?
Nàng mủm mỉm:
 Em chỉ có một tình yêu thứ nhất
Em trao cô cùng với những bông hoa
Cô không lấy và tình em bay mất
Tình em cho, không có lại bao giờ?
(Nhái thơ NB)
– Em cứ lãng mạn mãi thế!
– Lãng mạn là một hình thức trang điểm cho tâm hồn!
– Đồng ý. Nhưng giả dụ em cho anh một tình yêu thứ cuối, anh vồ ngay không từ chối bao giờ! thì… lãng mạn hơn là tình yêu thứ nhất em dành cho cô giáo!
– Anh cù nhây lắm.
– Anh cù nhây từ khi biết em!
– Nghỉ chơi anh ra!
– Haha!
Chàng cười sảng khoái. Nhớ một thuở xa xưa, những cô bé Trưng Vương cũng chu mỏ “nghỉ chơi anh ra!”
– Thực ra, anh biết không, hôm kia là sinh nhật ngày ta của em. Cô nhớ. Cô đã gửi cho em những bông hồng BB và vài vần thơ… Cô bảo năm ngoái về Saigon, khi nghe em phone, cô đã nói “Ngày xưa em làm tôi khổ quá!” Rồi cô viết “Được yêu mà khổ! Ừ, thì được yêu đâu chưa chắc là hạnh phúc!”
– Không, giả dụ bây giờ em yêu anh thì anh không khổ!
– Anh lại “cù là” nữa rồi! Thì phụ nữ giàu tình thương. Khi họ thấy ai đó yêu họ mà họ không đáp được thì họ khổ! Cô khổ vì học trò yêu cô. Nhưng bây giờ thì…
– Thì sao?
– Cô sung sướng được gặp lại em. Cô và em đều đã qua bao nỗi gập ghềnh, đã Tri thiên mệnh, đã Lục thập nhi nhĩ thuận. Nhưng trên hết, thầy trò chung một niềm riêng: cổ vũ cho sự gìn giữ văn hóa dân tộc và thích làm việc thiện.
Chàng thở dài:
– Em cứ như con sò muốn ôm cả sóng đại duơng vào lòng. Em hãy đơn giản tí đi cho anh nhờ!
Nàng phật ý:
– Bộ em rắc rối lắm sao?
– Còn hơn thế. Cứ như tắc kè! Này em, anh chỉ thích tiếng em cười. Khi em cười, thấy em rất hồn nhiên và trẻ thơ. Anh khoái cái đó. Anh không thích cái lãng mạn tình yêu thứ nhất của em, anh cũng chẳng thích cái ôm đồm gìn vàng giữ ngọc của em. Vì sao em biết không? Vì nó làm em già lắm, vì nó làm em khắc khoải, vì nó làm em đau khổ. Mà anh, anh chỉ muốn em được hạnh phúc!
– Cám ơn!
À, nàng giận. Được thôi. Thì chàng và nàng cũng đã từng cãi lộn xuyên đại dương bao lần! Bây giờ ngắm nàng giận ngay trước mắt, chàng thấy vui vui.
Em
Trời sinh phụ nữ để được nuông chiều và sống hạnh phúc. Nhất là những phụ nữ hiền lương như em. Anh vẫn nghĩ, giá như ngày đó anh biết em, anh sẽ tìm cho em một ông chồng đúng như em mơ ước! Một con người khoa học nhưng tâm hồn văn chương. Một người rất thực tế nhưng cũng rất lãng mạn. Nhưng để được thế, em cũng đừng ôm đá cho nặng bụng. Xã hội, thế sự, em hãy gác ngoài tai. Lịch sử sẽ được viết như giòng chảy định sẵn. Lịch sử không vì em mà xấu hay đẹp hơn!
– A, xổ số kiến thiết quốc gia giúp đồng bào ta vẻ vang quá trời!
Chàng reo lên khi xích lô đi ngang công ty xổ số cũng trên đường Thống Nhất. Nàng phì cười. Đặt tên người và sửa lời hát thì nàng thuộc loại… nữ hoàng!
– Này em, ngày xưa em có vào đây bao giờ không?
– Có chứ. Năm tú tài thì phải, em vô cho biết thế nào là quay lồng cầu. Hôm đó em được xem nàng Thanh Tuyền. Nàng mới từ Đà Lạt hạ san nên eo ơi mập quá xá quà xa! Em thích Hoàng Oanh chứ không thích Thanh Tuyền.
Chàng bĩu môi:
– Thì ai chả biết em ủng hộ gà nhà?
– Nói bậy nhe! Gà nhà mà dở thì cũng không ủng hộ nhe! Hoàng Oanh hát khá hay mà ngâm thơ hay. Lại đứng đắn nữa!
Chàng năn nỉ:
– Cho anh xin đi! Em sắp sửa ca con gái Gia Long ngoan nhất nước phải không?
Nàng giận dỗi:
– Thì đúng là như thế! Coi bộ anh kê tủ đứng em hơi nhiều đó!
– Tại vì anh muốn biết khả năng cãi của em ở mức nào!
Nàng im lặng. Ai đó nói nàng rất thông minh nhưng cũng rất dại khờ. Nhưng nàng chẳng dại gì đối đầu với dân Chu Văn An! Họ thông minh, lém lỉnh, bẻm mép. “Ngoan nhất nước” làm sao địch nổi! Họa may có mấy cô gái Bắc kỳ Trưng Vương! Bắc kỳ lai như nàng thì chịu thua trước cho xong chuyện!
– Này em, Sở Thú cũng không thay đổi!
– Ừ, thì bề ngoài vẫn như cũ! Họ không thay đổi cổng làm gì! Nhưng cấu trúc bên trong thì có! Tùm lum chuồng trại và khu vui chơi…
Xích lô đang bon bon và chàng nhìn trực diện Sở Thú. Tên hoa mỹ là Thảo Cầm Viên nhưng dân Saigon có mấy ai gọi như vậy bao giờ!
– Anh muốn quẹo trái hay phải?
Chàng cười lớn:
– Này cô bé Gia Long khờ khạo! cô tưởng qua mặt tôi được sao! Tôi đã từng trồng cây si trước cổng trường Trưng Vương mười chín năm nhé! Xin mời nàng ra lịnh quẹo phải dùm tôi!!
Nàng cười khi biết không bịp được chàng:
– Ăn nói ngoa ngoét. Mười chín năm! Chắc mười chín tháng!
Xích lô quẹo phải. Con đường Nguyễn Bình Khiêm vẫn như xưa. Hẹp và nhiều bóng cây cao. Tiếng vượn hú văng vẳng. Chàng im lặng. Thả hồn về dĩ vãng. Nơi đây ngày xưa, có một cô bé tóc thề… Con gái Bắc hay để tóc thề. Chàng thích tóc thề…
– Anh nghĩ gì thế?
– Hồi học Gia Long, em có để tóc thề không?
– Nếu bỏ xõa là thề, nhưng cột lên thì là đuôi gà!
– Thế em thề hay gà?
– Gà!
– Có lẽ vì thế em không gặp được anh!
– Nói như bố con chó xồm!
Chàng phá ra cười:
– Này em! ngày xưa mẹ anh cũng hay mắng tụi anh vậy lắm. Bố con chó xồm! Em mà dùng từ ấy thì em sẽ là bà già Bắc kỳ khăn đen mỏ quạ đấy nhé!
– Thì có sao!
– Thì chán chết chứ sao? Xem em kìa, tóc thì tém, da thì trắng, mặt vênh vênh lên mà làm bà già mỏ quạ chẳng hay tí nào!
Nàng im lặng. Ta không chấp với nhà ngươi! Xe đi ngang trường Trưng Vương. Chàng nhảy xuống chụp hình.
– Bây giờ anh muốn đi đâu?
– Còn đâu nữa? Trường xưa lớp cũ em ơi!
– Vậy thì xích lô sẽ đạp lâu lắm.
– Kệ! Anh sẽ được ngồi bên em suốt sáng nay!
Xe đi thẳng và vòng cua theo bờ sông. Con đường êm ả và có chút gì đó thanh bình. Ngang bùng binh, chàng thoáng ngậm ngùi. Ngày đó, dân Saigon đã đùa “Đức Thánh Trần chỉ tay ra hướng sông là ý bảo hãy vượt biên đi!”
Rồi cũng đến trường xưa của chàng. Nơi đây ngày xưa đã sản sinh ra bao nhân tài cho đất nước. Ngày nay đã bị xếp vào thứ yếu. Nhưng có sao đâu! Danh tiếng con trai Chu Văn An vẫn còn đó! Có một cô Gia Long luôn viết bài về con trai Chu Văn An kia mà!
Tháng chạp ngày n+2
– A lô, tối qua anh ngủ được rồi chứ?
– Anh ngủ từ 9 giờ. Nhưng nửa đêm thức giấc. Anh đi bộ ra Ngã Sáu và làm tô cháo trắng hột vịt muối. Ngày xưa đi chơi khuya về, bọn anh hay ghé ăn quà như vậy lắm… Bây giờ ăn cháo đêm khuya, anh nhớ ngày xưa quá. Mới đó mà đã mấy chục năm…
– Rồi anh về lại khách sạn ngủ tiếp hả?
– Ừ.
– Anh chuẩn bị nhé! Nửa giờ sau em có mặt đó.
– Tuân lệnh cô em!
Nửa giờ sau. Khách sạn gọi phone báo. Chàng xuống. Nàng ngồi trên xe Dream mầu nho chín ở lề đường. Quần jean xanh, áo thun đỏ, kính đen, mũ cao bồi. Trông nàng thật trẻ trung, khoẻ khoắn trong trang phục ấy. Chàng trèo lên ngồi phía sau.
– Hôm nay anh được đi xe ôm nhé!
– Ok. Mà tài xế lại là một cô…
– Bà chứ không phải cô!
– Bà với ai chứ với anh là cô! Mà có cho anh ôm eo không?
– Không, anh vịn vô thanh sắt ấy!
– Eo ơi, thò ra sau vịn! khó lắm! cho anh ôm em tí mà! Anh té xuống đường chết bỏ em lại một mình sao?
– Trước anh, em một mình. Sau anh, em cũng một mình. Đừng lộn xộn!
Chàng thở dài. Ngồi sau lưng nàng mà không được ôm eo nàng thì… tức quá đi.
Nàng chạy rất chậm. Chỉ 20km/giờ. Chàng ngoan ngoãn thò tay ra sau vịn vào thanh sắt. Buổi sáng trời Saigon hơi lạnh nhưng với chàng thì mát.
– Này em!
– Gì cơ?
– Ngày xưa em có hay ngồi cho anh nào đó chở không?
– Thì cũng có. Thỉnh thoảng.
– Em có ôm không?
– Không bao vờ!
– Ngoan nhỉ!
– Thì đã nói ngoan nhất nước mà lỵ!
Chiếc xe thắng gấp vì một cặp trai gái quẹo cua gắt ngay đầu xe nàng. Chàng chúi vào nàng và vội vàng ôm ngay eo nàng:
– Giời ơi!
Nàng ngoái lại phía sau cười:
– Ơi! Giời bảo anh bỏ tay ra!
– Ối anh sợ lắm! Nếu anh không nhanh tay ôm em thì anh lọt xuống đường rồi!
Nàng ngẫm nghĩ. Ừ, chàng đâu có quen ngồi xe ôm! Lại lóng ngóng. Thôi cho chàng ôm một tí!
– Sao con gái Saigon bây giờ kỳ ghê em!
– Kỳ sao?
– Mặc áo dài mà ngồi chàng hảng hai bên! Kỳ vậy?
– Ừ, chướng vậy đó! Em cũng ghét hình ảnh đó lắm! Khi mặc áo dài hay đầm, em ngồi một bên. Chỉ khi mặc tây, em mới ngồi hai bên. Bọn nữ sinh bây giờ kỳ cục lắm! Đi học mà nện giầy cao gót lộp cộp thật chướng. Em mà là giáo viên chủ nhiệm chúng, em phạt con bé nào dám đi giày cao!
– Em khó như bà già trầu!
– Hiển nhiên rồi!
– Thế con gái em đi học ra sao?
– Nó phải mang sandal như mẹ nó ngày xưa!
– Em có vẻ phát xít gớm!
– Hiển nhiên. Con gái em cũng chỉ ba bộ như mẹ ngày xưa, cũng không nữ trang gì cả, cũng tóc thề. Em chúa ghét còn đi học mà nhuộm tóc chứ, đeo nữ trang tùm lum chứ, đi giày cao chứ… Tưởng tượng lớp học đang im lặng, thầy kêu và nữ sinh lên bảng nên gót giày lộp cộp! Coi sao được! Chưa kể đi giày có vẻ như ăn chơi, không có vẻ học trò gì cả! Mà khốn thay bây giờ nữ sinh đi giày cao nhiều lắm anh ơi!!
– Hoan hô em, một tiêu biểu cho nền văn hóa cổ truyền Việt Nam!
Nàng quay lại cấu một cái rõ đau vào tay chàng. Chàng chỉ xuýt xoa.
Phở gà Hiền Vương vẫn như xưa. Chàng thích thú nhấm lá chanh xắt nhỏ. Lá chanh VN vẫn có mùi vị khác lá chanh Mỹ.
Nàng quẹo qua Hai Bà Trưng.
– Chợ Tân Định cũng vậy em nhỉ!
– Nhờ rút kinh nghiệm các chợ đi trước đấy! Các chợ kia xây xong thì… ế rề. Nên khi nhà nước kêu tiểu thuơng đóng góp thì họ cương quyết không chịu. Họ chỉ cho làm nền gạch hoa thôi.
– Anh thích chuối Tân Định lắm. Loại chuồi già chính trứng cuốc ấy! Còn ngon như xưa không em?
– Vẫn.
– Ô, nhà thờ Tân Định vẫn xinh em nhỉ!
Nàng mỉm cười. Tâm lý người đi xa về, cứ thấy cái gì còn như cũ là reo như trẻ nhỏ!
Chàng ôm eo nàng nhưng cũng có ý, chỉ ôm hờ không dám chặt. Cho mười điểm! nàng thầm nghĩ thế. Ngày xưa nhìn tướng nàng, nhiều người đã lầm tưởng nàng thuộc típ ăn chơi, bay bướm… Nhưng không, trái lại. Do đó nàng không biết nhẩy, không biết đánh bài… Nàng tập hút thuốc, uống rượu cũng chỉ muốn cho dàn ông biết tay (!) chứ bản thân nàng chỉ ghiền cà phê sữa đá! Nàng không thích khiêu vũ vì không thích dàn ông đụng vô người mình. Nàng chỉ thích nói chuyện văn thơ! Thuở sinh viên, một người bạn trai đã gọi nàng là lãng mạn con nhà giáo. Nàng cười khẽ khi nhớ lại chuyện xưa…
– Em cười gì thế?
– Lãng mạn con nhà giáo! Ngày xưa bạn trai nói em thế. Anh hiểu không?
– Anh cũng có cảm tưởng vậy. Em lãng mạn nhưng bên ngoài thì khe khắt như bà già trầu thứ thiệt! Kể ra anh nào đặt cho em là lãng mạn con nhà giáo nghe cũng hay đấy!
– …
– Em này, sao lại có công viên nào lạ thế?
– Đất thánh tây cũ. Họ sửa thành công viên lâu rồi.
– Eo ơi, thế thì nhiều ma lắm! Ban đếm mấy cô cậu vào đây tình tự, tha hồ cho ma… bóp cổ!
– Anh này!
– Ừ nhỉ, anh quên là em sợ ma!
Xe quẹo vào đường Phan Thanh Giản, bon bon ra ngã tư Hàng Xanh.
– Đường gì bé quá! Xe cộ phát khiếp! Em định đi đâu?
– Đến Bình Qưới. Anh sẽ thích.
Bình Qưới nằm gần cuối đường. Chàng thích thật. Một con thuyền hoa. Một xe ngựa. Ôi xe thổ mộ! Nhớ ngày xưa còn bé, chàng vẫn cùng bạn bè nhảy xe thổ mộ đi học. Tiếng vó ngựa lốp cốp trên đường nghe thật vui tai.
Saigon ơi, thuở ấy mới thanh bình làm sao! Những con đường êm ả với lá me bay. Những người dân Nam bộ hiền hòa chất phác. Những bà mẹ Bắc hay Huế vẫn đi chợ với áo dài tha thướt… Những bà mẹ quê sáng ngời hạnh phúc với lúa trĩu cánh đồng. Nhưng rồi chiến tranh. Đã tàn phá…
Chàng và nàng chọn một góc nhỏ. Phía trước là thảm cỏ xanh. Xa hơn chút là khu tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Cây đa bóng rũ. Một bức tượng bán thân. Một bình hoa. Giản dị đến vô cùng. Một hàng mẹt tre với những hòn sỏi nhỏ.
Ngày sau sỏi đá cũng còn có nhau
– Em thích nhạc Trịnh không?
– Có bài thích, bài không.
– Bài nào không?
– Bài nào được xếp là phản chiến.
Chàng năn nỉ:
– Anh đã nói rồi. Trời sinh ra đàn bà dễ thương để được hạnh phúc, không phải để lo chính sự!
– Em không hề lo chính sự! Nhưng em yêu quê hương! Và vì thế em không thích khi những người lính đang chiến đấu thì lại có người…
Chàng im lặng. Gió từ bờ sông thổi lên mát rượi. Tiếng sáo nhạc vi vu. Xa xa, vài cặp cô dâu chú rể đang chụp hình.
– Em nghĩ gì khi thấy đám cưới?
– Kỳ lạ! cứ mỗi khi nhìn thấy một đám cưới, em lại có một ý nghĩ hết sức bậy bạ!
–???
– Em nghĩ là: rồi lại có hai kẻ điên! Cô dâu chú rể mà đọc được tư tưởng em, chắc họ… uýnh em quá!
– Em như con chim, bị tên một lần và khi nhìn cành cây cong đã ngỡ là cung. Cuối năm chắc là mùa cưới?
– Vâng. Đến cuối năm, nhiều người mệt mỏi vì đóng tiền cưới phí, vì phải đi ăn mà thực đơn đám cưới thì na ná… Em may mắn không bị vì hầu như họ hàng, gia đình không còn ai ở đây. Vài bạn em còn ở đây thì con đang đi học như con em.
– Thế thì Tết đến, em buồn lắm nhỉ!
– Vâng. Tết là ngày đoàn tụ. Với em không có gì cả. Canh Cô Mậu Quả. Chấp nhận thôi!
Chàng rón rén cầm tay nàng. Bàn tay đã gân guốc với những tháng năm đói nghèo, đã nhăn nheo với thời gian. Nàng đã không may mắn và chịu bao điều cơ cực trong cả một khoảng thời gian dài…
Em
Xưa Thúy Kiều so bề tài sắc lại là phần hơn nhưng Ngu si hưởng thái bình nên Thúy Vân đã hưởng tất cả và Kiều thì truân chuyên. Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao… Kiều đã nhảy sông Từ Đường nhưng con đường đoạn trường chưa đi hết nên đã được cứu để đi cho trọn…
Có một lần em viết rằng, với em bây giờ là Tri thiên mệnh nên em không còn oán trời giận đất hờn người… Nhìn sự cam chịu của em, anh xót xa biết bao…
Anh, lúc nào anh cũng nghĩ rằng em hiền lương vô cùng kể, và em xứng đáng được hưởng những gì mà lẽ ra em phải có.
Tháng chạp ngày n+3
– Alô, tối qua vui không anh?
– Vui. Gặp lại đám bạn cũ Chu Văn An thích lắm em à! Tụi anh nhìn nhau cười quá xá vì đứa nào cũng bảo nhau “sao trông mày già thế?”
– Các anh đã làm những gì?
– Đi ăn buffet ở Bình Qưới!
– Anh lại đến Bình Qưới?
– Ừ thì anh đâu biết gì! Về đây, chỉ nhắm mắt theo em và bạn bè… Bình Qưới ban đêm thích hơn nữa em ạ. Họ thả hoa đăng trên giòng sông. Anh thích những hình ảnh cô bán hàng với áo bà ba, chõng tre có nước vối, chè xanh, bắp nướng. Đố em biết anh gặm bao nhiêu bắp nướng?
– Sức anh chỉ một thôi!
– Lầm to nhá. Anh gậm ba trái đấy. Anh cũng thích cháo lươn và bánh xèo
– Thế anh có ăn nai đồng quê không?
– Ban đầu không dám. Lũ bạn nài nỉ. Anh ăn thử. Thấy cũng ngon ngon. Này em!
– Gì cơ?
– Em đáng đánh đòn!
– Vì sao?
– Tại sao ban sáng em không dắt anh đi cầu khỉ, không đu dây với anh?
– …
– Buổi tối anh và lũ bạn như trẻ con. kéo cả đám đi qua cầu tre. Không lắc lẻo gì cả. Rồi tụi anh cũng đánh đu. Ôi, được làm trẻ nhỏ thú vị ghê. Mà em ơi!
– Ơi!
– Hoa súng đẹp quá em ạ! Ban dêm những bông súng trong ao và cả trong chậu nở đẹp quá! Anh ước ao phải chi có em, nhất định anh sẽ phải chụp em với hoa súng!
– Em cũng thích hoa súng!
Dọc đường đất quanh co. Hai bên đầm ngòi dài. Cuối thu…
Ai bảo sen là hoa quân tử. Còn ta, ta bảo súng là hoa tiên tử…
(TTM)
Em
Anh cũng yêu hoa súng như em. Ai thích hoa sen chứ anh thích hoa súng hơn. Mầu hoa trắng pha chút vàng chanh và có gì đó giông giống hoa quỳnh. Nhà văn đã ví hoa súng là hoa tiên tử. Anh cũng muốn ví như vậy. Và em, hoa súng của anh, em là một đóa hoa tiên tử.
– Chuơng trình hôm nay là gì hở em?
– Về miền Trung!
– Ok, về miền Trung miền thùy dương với ngàn đồi thông, thuyền ngược xuôi suốt một giòng sông dài…
– Hôm qua anh có đi hát karaoke không mà sao còn dài hơi đến hôm nay?
– Có chứ! Sau khi ăn buffet ở Bình Qưới, bọn anh về Saigon leo lên tầng lầu 33 ở gần Sở Thú đó. Eo ơi, họ bán kem đắt kinh khủng! Đến 5 US một ly!
– Mua chỗ ngồi mà! Chỉ có đó là cao nhất Saigon!
– Ngắm Saigon từ trên cao cũng rất thú vị em ạ. Sau đó kéo nhau đi hát karaoke.
– Anh hát bài gì?
– Em PY!
– Cái gì? Em PY là cái gì?
– Hì hì! em tôi thông minh nhưng hơi chậm hiểu. Em tôi là PY!
– PY là ai?
– Là em!
– Là em?
– Thì là em!
– Dóc. Nghỉ chơi anh ra. Lại trêu em rồi!
– Không hề nhé! PY là Phượng Yêu! Em hiểu chưa nào?
Em
Tên em mang đến hai loài hoa mà anh đều yêu quý. Một loài hoa gắn với tuổi học trò của tất cả những ai được cặp sách đến trường. Và một loài hoa chỉ nở vào đêm.
Cành phượng vĩ là tuổi em mười sáu? Một nhà thơ đã viết như thế. Đóa hoa quỳnh là duyên số em mang? Hoa phượng vĩ chỉ mùa hè khoe sắc. Quỳnh hoa ơi, đến sáng đã tàn rồi…
 Em, Phượng Quỳnh, tôi vừa tìm được
Một buổi chiều trên net lang thang
Văn em như gió thổi bạt ngàn
Làm mê hoặc hồn tôi không lối thoát
– Thế ra anh hát bài Phượng yêu?
– Ừ.
– Anh hát giống gì?
– Ống bơ rỉ!
– Có lẽ!
Chàng và nàng đến Ban Mê vào quá trưa. Thành phố khá yên tĩnh và đẹp. Ngày xưa gọi là Ban Mê Thuột nhưng bây giờ thì đổi lại là Buôn Ma Thuột. Nhưng lời bài hát vẫn là ly cà phê Ban Mê chứ phải Buôn Ma!
– Chắc em thích Ban Mê Thuột?
– Vì sao?
– Vì em thích cà phê!
– Lý luận nghe cù là quá!
– Em có những ngôn ngữ không giống ai! Cù là!
Nàng mỉm cười. Đó là những cái rất riêng của nàng. Đó là những cái làm nên Phượng Quỳnh. Và ai đã tiếp xúc, dù chỉ một lần cũng khó quên…
Ban Mê lạnh hơn Saigon. Chàng và nàng vào quán cà phê Thương Thương nằm trong khuôn viên dinh Bảo Đại cũ. Bầu trời cao trong xanh. Ly cà phê hơi đậm. Nàng khẽ nhăn mặt.
Chàng mỉm cười:
– Anh vẫn còn nhớ cô bé Hòa Bình chỉ thích cà phê ngọt? Hòa Bình thì phải dịu ngọt chứ không đắng cay! Phải không em?
Chàng kêu quán đem đến ly sữa đặc và nước sôi. Tự tay chế thêm, rất chậm rãi, chút sữa vào tách của nàng. Rồi chút nước sôi. Nếm thử. Chàng làm với tất cả sự tỷ mỉ, say sưa như một họa sĩ đang chăm chút tác phẩm của mình.
 Xin anh đừng làm em xao xuyến
Đã lâu rồi em khép chặt lối vào
Hoàng hôn cuộc đời đang buông rủ
Hãy để sóng bình yên cho đến hết đoạn đời
Chàng đưa tách cà phê:
– Anh nghĩ là em sẽ hài lòng. Nhìn mặt và pha cà phe đúng gu thì có lẽ chỉ có người ấy! Còn anh, anh chỉ biết pha theo cảm nhận của anh về em…
Nàng cầm tách cà phê. Một ngụm. Chàng nheo mắt nhìn nàng. Đôi mắt nâu còn phảng phất một thời xưa cũ. Cái răng khểnh rất hiếm khi nhìn thấy. Chỉ hơi khểnh. Và như thế, chỉ những ai làm nàng cười, cười nhiều, mới nhìn được cái răng khểnh ấy. Nàng ngước mắt nhìn chàng. Chàng hỏi –cũng bằng ánh mắt.
Chúa ơi! Đã bao lâu rồi mới có người nói chuyện với tôi bằng mắt? Nhớ thuở sinh viên, trong giảng đường nho nhỏ, em ngồi cuối lớp nheo mắt trêu ai. Ai đã luống cuống khi nhìn thấy em đang chống cằm khiêu khích? Ai đã mím môi và dọa em bằng ánh mắt tình nhân? Em thích thú với trò chơi thơ trẻ. Thầy luống cuống, bài bỗng dưng tùng phèo tất cả. Đám sinh viên ngơ ngẩn không hiểu vì sao. Chỉ mình em và Ai, cũng là Thầy biết vì sao Thầy bối rối… Ôi những ánh mắt ngày xưa!
Nàng chớp nhẹ mắt. Chàng reo:
– Thế là anh có thể mở tiệm bán cà phê được rồi nhé! Chỉ nhìn mặt và pha cà phê đúng gu! Hay thật!
Ừ. Thế là đủ. Chàng đã pha đúng ý nàng.
Buổi tối chàng và nàng đến quán thịt rừng. Quả là ngon, nhất là nai. Nhím nhiều xuơng, ít thịt, không ngon.
– Đi uống cà phê với em thì thú vị. Còn nhậu thịt rừng thì không!
– Tại sao?
– Em đâu biết uống bia! Ai đời uống Seven Up với chút bia! Chẳng thể cụng ly hay chén tạc chén thù với em!
– Thôi nhé, đừng tham lam. Đàn ông chúa tham lam! Bản thân mình không hoàn hảo mà đòi bạn phải vừa bợm nhậu vừa lãng mạn cà phê.
Buổi tối, trung tâm thành phố khá tấp nập. Chàng và nàng đi loanh quanh. Ban Mê chứ không phải Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em ướt. Nên má em ướt. Nên em mềm như mây chiều trôi. Phố núi cao, phố núi trời gần. Phố xá không xa, nên phố tình thân. Đi dăm phút đã về chốn cũ. Một buổi chiều nao lòng bỗng bâng khuâng… nhưng cũng đi dăm phút lại về chốn cũ…
Em
Anh không phải là một quá khứ của em. Phải chi anh được như thế. Thì bây giờ… bao năm tháng lại về bến cũ… có lẽ sẽ thơ mộng hơn chăng? Hay như em đã một lần viết, thời gian đã xóa mờ và cuốn trôi tất cả. Có những quá khứ, khi gặp lại chỉ thêm thất vọng? Một quá khứ nào đó bàng bạc trong văn em đã làm em vô cùng chán ngán… với những lá mail nhạt nhẽo vô vị. Thì anh lại có đôi chút thú vị khi chúng ta đã không từng gặp nhau bao năm trước!
Tháng chạp ngày n+4
– Alô, anh dậy đi!
– Sao lúc nào em cũng là người đánh thức anh?
– Ý anh nói gì?
– Em như cô vợ ngoan đánh thức mỗi sáng “anh ơi dậy đi làm!”
– Nhảm nhí!
– Nhảm nhí từ khi biết em!
– Không cù cưa với anh. Phải đi sớm đấy.
Xe đi buôn Jun. Trên đường đi, nàng đòi xuống vườn cà phê.
– Để làm gì?
– Em chụp hình. Chưa bao giờ em thấy cây cà phê cả!
– Em đúng là quê quá!
– Phải nói là em tỉnh quá mới đúng! Vì tỉnh quá nên không biết cây cối vùng quê ra sao!
Cây cà phê chỉ thấp ngang tầm người. Hoa cà phê trắng muốt. Những nụ hoa trắng và trái đen.
– Em có biết sự tích cà phê không?
– Không.
Chàng vênh mặt:
– Nghe anh kể này… Nghe nói ngày xửa ngày xưa, ở buôn làng nọ có một người chăn ngựa. Anh ta ngạc nhiên khi thấy một con hay tách bầy và khi trở về bỗng linh hoạt hơn hẳn. Anh ta theo dõi và khám phá ra ngựa nhấm một loài cây… Anh ta đem trái về cho một nhà trí thức. Ông ta mầy mò. Đun trái. Thấy ra nước đen. Uống thấy đắng nhưng cho tí đường thì rất ngon. Nhưng điều kỳ diệu là mỗi khi uống chất nước đó thì thấy người sảng khoái hẳn… Từ đó cà phê được biết đến…
– Cũng thú vị đấy!
Chàng phật ý:
– Em đúng là con gái Bắc kỳ của Nguyễn Tất Nhiên! Chuyện anh kể hay thế mà…
Nàng mỉm cười. Ừ, những cô gái Bắc kỳ răng khểnh tóc đuôi gà đã là nguồn cảm hứng cho những vần thơ tuyệt tác…
Buổi trưa. Đến buôn Jun. Nơi đây có hồ Lăk rộng mênh mông như Hồ Tây Hà Nội. Trời tháng chạp, sóng và gió lồng lộng nên chiếc thuyền độc mộc chỉ dám đi ven bờ và cả hai đều được trang bị áo phao.
– Này em?
– Gì cơ?
– Nếu bây giờ thuyền lật em sẽ làm gì?
– Thì em sẽ bơi vào bờ!
– Thế em không cứu anh à? Em thì biết bơi, anh thì không!
– Không!
– Một phụ nữ độc ác!
– Em ác kể từ khi biết anh!
Nàng nhại giọng chàng. Cả hai phá ra cười vui vẻ làm chiếc thuyền chòng chành. Nàng vẫn thản nhiên. Năm 78, tìm đường vượt biên nàng đã đi học bơi. Nhưng mới được vài tuần thì con đau nên bỏ dở. Cho mãi đến 84, nàng mới học thuần thục. Bỏ bao năm nhưng xuống nước nàng vẫn bơi được. Nàng thích bơi nhưng không có bạn đi cùng. Lúc nào nàng cũng phải một mình.
Chàng và nàng vào buôn. Tại địa điểm cho thuê voi cưỡi, có xây bệ cao. Từ bệ này, du khách sẽ trèo lên chiếc ghế tre cột trên lưng voi.
Nàng nghịch ngợm:
– Anh cứ ngồi trong ghế nhé!
– Em đi đâu?
– Em ra ngồi sau lưng nài!
– Ôi trời ơi! Em tôi!
Nàng phá ra cười. Rồi thản nhiên trèo ra ngồi sau lưng nài. Ghồ ghề quá. Nhưng nàng thích. Chú voi đi chậm rãi trên con đường làng. Mỗi khi có xe máy, voi biết đi tránh xuống đường.
Nàng hỏi:
– Này chú, tự nó biết tránh hay chú làm dấu hiệu cho nó?
– Làm dấu hiệu!
Chú voi chắc đói hay sao mà trên đường đi đã ghé vào cây và quật ngã vài cành nhỏ… Nàng thú vị nghe tiếng cành cây răng rắc khi vòi voi cuốn gãy…
Một vòng trên đường làng rồi voi đi xuống đất bùn ven hồ Lăk. Những bước chân voi nặng nề in dấu thật rõ.
– Em ơi, nói họ cho voi vào đi!
– Sao vậy?
– Anh sợ lắm! Lỡ nó đổ, mình té xúông hồ!
– Có chết đâu mà anh lo! Voi đi có vững họ mới cho xuống sình chứ! Em nghe nói mùa cạn, nó còn băng ngang hồ nữa kìa!
– Không lo, nhưng nhìn nước ven hồ bẩn quá. Anh sợ em té xuống sẽ xấu lắm. Mà anh không muốn nhìn thấy hình ảnh em xấu xí lấm bùn bê bết!
– Xạo ke!
Nhưng nàng cũng yêu cầu chú nài cho voi đi vào đường trong khô ráo. Kể ra cảm giác chòng chành trên lưng voi khi đi trên đất bùn ven hồ làm nàng cũng hơi ngan ngán…
Tháng chạp ngày n+5
Trời tháng chạp Kontum lồng lộng gió. Lạnh như Đà Lạt ngày xưa mà chàng còn giữ trong tâm tưởng. Trên sân thượng của khách sạn, dưới giàn hoa lan, hoa đậu biếc, chàng đã yêu cầu khách sạn cho một ngọn nến lung linh nằm kín gió trong ống tre. Chàng thích được nói chuyện dưới ánh nến huyền ảo. Mọi việc và mọi sự dường như đẹp hơn dưới ánh nến…
Hôm nay là giao thừa tây. Một ché rượu cần cho đúng hương vị Tây nguyên, một ổ bánh nhỏ và chỉ độc một ngọn nến xanh lá. Vậy thôi. Chàng và nàng đã đón giao thừa như thế.
– Em lạnh không?
Chàng trìu mến hỏi.
– Nếu em nói có, anh sẽ làm gì?
– Thì anh sẽ “rủ rê” em qua ngồi cạnh anh thay vì đối diện như bây giờ!
Thế đấy. Những anh chàng Chu Văn An lúc nào cũng lém lỉnh. Dù ở tuổi nào! hay vì tâm hồn chàng trẻ mãi với thời gian! có thể lắm! Thật đáng tiếc cho những kẻ đã chai sạn theo năm tháng, chỉ còn biết chạy theo đồng tiền, công danh phù du và đã lãng quên một thời lãng mạn dễ thương của tuổi trẻ.
– Rồi sao nữa?
Chàng mỉm cười:
Vai ấm xin cho đầu em tựa
Một chút tình thôi, biết có không?
(Hoàng Lan Chi)
– Em đã viết như thế, đúng không nào?
Nàng hơi ửng hồng. Chỉ là những vần thơ trong phút giây xúc cảm… Anh nhớ để làm gì?
– Anh thích em dựa đầu vào vai anh. Và nếu như em còn lạnh, xin cho anh được ôm em trong tay anh. Anh đã thề là sẽ rất trong sáng khi em ở trong vòng tay anh như thế, em nhớ không?
Nàng bật cười. Thề cá trê chui ống! Ở tuổi này nàng mới dám làm thế. Chứ thuở sinh viên thì đừng hòng. Ngày ấy, nàng luôn nhớ lời mẹ dặn: Những khung cảnh trữ tình, mờ ảo là khơi nguồn cho tội lỗi… Cho dù ban đầu hai người hoàn toàn trong sáng nhưng trước sự quyến rũ của ngoại cảnh, sa ngã là điều không tránh khỏi… Và nàng, cô bé Gia Long ngoan nhất nước, luôn tránh xa những hoàn cảnh đó. Chưa ai dám đụng vào người nàng. Ngày ấy, nàng như đóa hoa quỳnh khiến ai cũng chỉ muốn nâng niu, trân trọng và không chút sàm sỡ…
– Vi sao anh để độc một ngọn nến trên ổ bánh?
– Tại sao chúng ta lại phải phân thành hai? khi mà chúng ta đang là một! Anh nghĩ có lẽ không bao giờ chúng ta có dịp như thế này nữa! Mai mốt em đi xa. Con đường ấy rồi nhiều chông gai. Em sẽ bị cuốn hút. Và mỏi mòn… Khó có dịp chúng ta lại bên nhau nơi quê nhà như thế này.
– Thế mầu xanh lá?
– Em mạng Hỏa. Mộc sinh Hỏa. Những mầu phù hợp với em là hồng và xanh lá… Anh muốn ngọn nến xanh lá này sẽ là ngọn đuốc soi sáng cho con đường còn lại cho em. Anh biết em sẽ phải đuơng đầu với nhiều khó khăn khi ra đi muộn màng. Thì anh biết làm sao hơn ngoài sự cầu nguyện cho em vững vàng!
Nàng lặng thinh.
Anh chăm chút từng cái nhỏ nhặt! Anh đã nhớ cả đến mạng Hỏa của em để tế nhị chọn nến mầu xanh lá. Nếu khen anh dễ thương thì đúng là dễ thương. Nhưng có phải người ta chỉ dễ thương khi không thuộc về nhau vĩnh viễn?
Một cơn gió mạnh. Nàng rùng mình nhẹ. Chàng đứng dậy, vòng qua bên nàng, giọng như gió thoảng:
– Qua với anh đi em!
Nàng như chìm trong cơn mê. Hoa Lan trên giàn đẹp quá. Ánh nến lung linh quá… Chàng âu yếm quá! Nàng để chàng dìu qua…
Rất trân trọng, chàng ôm đầu nàng đặt trên vai mình:
– Em ơi hãy tựa, anh hầu quạt đây!
– Giờ này hầu quạt thì chết em rồi!
Cả hai phá ra cười vui vẻ.
– Mấy giờ rồi anh?
– Còn chín phút rưỡi nữa!
– Anh lúc nào cũng dóc tổ. Đếm ở đâu đến chín phút rưỡi?
– Dóc chứ chưa tổ!
Rồi giao thừa cũng điểm. Lặng lẽ. Chàng và nàng cùng chúm môi thổi nến.
Tôi hạnh phúc vô cùng. Trên Tây nguyên lộng gió. Giao thừa. Rượu cần ngọt lịm. Và nàng, người đàn bà tắc kè! Khi đọc văn nàng một chiều lang thang trên net, tôi như cảm nhận được rằng đây chính là người đàn bà cuối cùng trong đời ta. Trước nàng, tôi cũng đã say đắm bao người và cũng lãng quên chừng ấy… Nhưng với nàng, tôi như tìm lại được tuổi trẻ của tôi, hình ảnh ngày xưa thân ái. Từ nàng, tôi như thấy bóng mẹ, bóng em, bóng chị và cả bóng người yêu đầu tiên, người vợ xưa của tôi. Nàng khắt khe như mẹ già của tôi ngày xưa. Nàng ngoan hiền như cô em út hay dỗi hờn của tôi thuở tôi là sinh viên và cô em mới chập chững đệ thất. Nàng chua ngoa như bà chị cả hơn tôi mười tuổi mỗi khi la mắng cậu em đoảng vị. Nàng ngây thơ như người yêu Trưng Vương mười sáu tuổi của tôi ngày tôi mười tám. Và nàng đảm đang như người vợ vắn số của tôi… Nhưng trên tất cả là nàng lãng mạn như tôi. Hai cái lãng mạn gặp nhau thì sẽ thành gì nhỉ? Lãng mạn con nhà ma thay vì lãng mạn con nhà giáo của nàng?
– Nếu cho một điều ước, anh…
– Tất nhiên anh ước anh là người yêu của em!
– Nhảm nhí!
– Tại sao nhảm? Tại sao em cứ khăng khăng bắt anh dậm chân tại chỗ? không cho anh thừa thắng xông lên?
– Ê, thắng ở chỗ nào mà anh đòi xông lên?
– Không phải sao? Anh đoan chắc, chưa bao giờ em đi chơi với một người đàn ông nào như hiện tại em đang đi với anh!
– Lêu lêu! Chẳng qua em tội nghiệp anh về VN cu ky không có thân nhân!
– Vớ vẩn. Chỉ là một cái cớ!
Nàng giận dỗi:
– Nếu vậy ngày mai em về Saigon ngay. Kệ anh ở đây.
– Ối cho anh xin. Bỏ anh bơ vơ ở đây là cái tội lớn nhất trong đời của em đấy!
– Em nhiều tội rồi, thêm một cũng không sao!
A, cô nàng Bắc kỳ bắt đầu giở thói đỏng đảnh.
Chàng xoa đầu nàng:
– Không có đâu. Mỗi sợi tóc là một tội. Tóc em thưa thế này, em ít tội lắm!
– Hết chê mắt nâu đến chê tóc thưa!
– Đâu có! Nếu em cái gì cũng đẹp cả thì chán chết! Nếu anh nhớ không lầm, Albert Camus nói “Hạnh phúc chỉ có giá trị khi có sự hiện diện của đau khổ!”
– Ăn nhậu gì đến điều chúng ta đang nói?
Chàng ký đầu nàng:
– Ăn nhậu! Xấu lắm! Đàn bà con gái không nên nói như thế! Thì anh suy diễn thêm. Ví dụ cái đẹp chỉ có giá trị khi có sự hiện diện của cái xấu!
Nàng phì cười. Thật thú vị khi nói chuyện với những anh chàng Chu Văn An dí dỏm và cù là!
– Này em, rượu cần thế nào?
– Giống rượu nếp của người bắc!
– Em thích không?
– Hơi hơi!
– Em thì chỉ cà phê sữa đá!
– Ngoan thế còn chê! Không thích gì, chỉ có cà phê. Kiếm được một bà vợ như em hơi hiếm đấy!
– Ối, anh biết mà! Cho anh nộp đơn đi!
– Không. Cho dù một ngày nào đó em thay đổi ý kiến, định lấy chồng thì em cũng không bao giờ nhận đơn của anh!
Chàng thở dài:
– Vì sao?
Nàng nói mà như thủ thỉ:
– Em thích anh chỉ là bạn của em thôi. Lấy nhau rồi, nhiều chuyện lắm anh ơi! Mà em, em thích mỗi đêm được nghe tiếng anh gọi cho em “Em ơi, hôm nay có ai làm em buồn không? Nếu có thì bán cái buồn đó cho anh nhé! Và cho anh hôn lên trán em một cái nè. Chúc em ngủ ngon nè.” Như vậy lãng mạn, chả thích hơn ư?
– Ối, anh OK tất cả những cái lãng mạn khác của em. Riêng cái vừa rồi thì anh phản đối. Anh cũng chỉ là đàn ông tầm thường thôi em ơi. Anh thương em và anh chẳng muốn em lấy thằng nào hết!
– Lại nhảm nhí nữa rồi!
– Thưa cô!
Nàng rời vai chàng:
– Gì đó, em?
– Có người tìm cô!
– Tôi? Tôi đâu có quen ai trên này!
– Dạ xin cô xuống dưới một chút. Nếu lầm thì thôi!
Chàng xen vào:
– Phải đấy, em xuống đi! Còn trong giao thừa mà em!
Nàng theo chân cô bé tiếp tân.
Hòn non bộ thật xinh, giòng suối nhỏ lững lờ. Một chiếc thuyền giấy nhỏ trên giòng nước.
– Em xin lỗi cô. Không ai tìm cô cả. Nhưng chiếc thuyền giấy này là của cô!
Nàng mỉm cười thay lời cám ơn. Cô bé tiếp tân đi vào. Nàng quỳ gối, nâng nhẹ chiếc thuyền giấy. Chỉ là một chiếc thuyền giấy của thuở học trò… Ngày xưa trời mưa, nàng từng xếp thuyền giấy thả với người bạn…
Thuyền có mui. Nàng nghiêng người nâng cao thuyền trên bàn tay và nhìn vào trong. Một bông hồng BB nằm nghiêng. Tuyệt đẹp. Và một cánh thiệp. Nàng nhẹ tay mở thiệp.
Gửi em, Vương Ngọc Yến
Anh xin làm Đoàn Dự kể từ hôm nay
Nàng mỉm cười.
– Sao em?
Chàng đứng sau lưng. Nàng ngước nhìn lên. Vòm trời cao xanh đen. Hôm nay giao thừa tây nhưng mười sáu ta. Nửa đêm ánh trăng vàng rực rỡ. Ai yêu hoa quân tử – còn ta – ta xin yêu nàng hoa tiên tử. Ai yêu trăng rằm – còn ta – xin vầng trăng mười sáu…
Chàng quỳ gối đối diện nàng. Một nụ hôn rất nhẹ trên trán.
Em
Đã bao lần chúng ta cãi nhau xuyên đại dương về nụ hôn. Anh – người đàn ông tầm thường như muôn vàn đàn ông khác – chỉ thích hôn môi. Còn em, em chỉ muốn được hôn trán. Em bảo anh trần tục. Anh bảo em ngớ ngẩn.
Nhưng đêm nay! Trời Kontum. Tây nguyên phả hơi thở núi rừng. Đêm giao thừa. Anh tình nguyện xin làm Đoàn Dự. Và một nụ hôn trán. Như em hằng thích.
Tháng chạp ngày n+6
– A lô, em dậy chưa? Đàn bà con gái ngủ muộn là xấu lắm!
– Em dậy lâu rồi. Nhưng vì anh bảo em cứ như vợ anh “anh ơi” mỗi sáng nên em không thèm gọi nữa!
– Ối, bây giờ anh khám phá ra em có tính thù dai!
– Ở lâu thêm đi! sẽ khám phá thêm vô số tính xấu khác!
– Thế thì anh không ở lâu! Anh qua em nhé?
Chàng gõ cửa phòng nàng. Chiếc quần lửng ngang đầu gối và áo thun ngắn. Trông nàng giống trẻ con.
– Hôm nay chúng ta ra biên giới nên em phải bận cho gọn.
Nàng giải thích.
– Thì anh có nói gì đâu? Trúc xinh trúc mọc bờ mương, em xinh em mặc áo Mường cũng xinh kia mà!
Nàng bĩu môi. Bẻm mép là cá tính của con trai Bắc kỳ.
Quốc lộ 14 ra Ngã ba biên giới không xóc lắm. Xe đi qua những vùng cà phê, hoa trắng xóa…
Sân bay Phượng Hoàng. Chàng và nàng xuống xe đi bộ. Trải dài trên sân bay là những lát khoai mì phơi khô.
– Em nghĩ gì thế?
– Buồn!
– Vì sao?
– Tất cả những gì gợi nhớ đến chiến tranh đều làm em buồn.
– Thế ngày xưa em có người yêu là lính hay sao?
– Không. Em chẳng yêu ai cả. Nhưng người yêu em thì có gần khắp các binh chủng. Tất nhiên em thích hải và không quân.
– Anh biết. Vì em lãng mạn mà!
– Đúng. Hải quân với hoa biển trắng xóa. Không quân với những đám mây như vồng cải quê nhà.
– Anh nhớ em kể cái anh chàng không quân nào đó đã viết cho em về những đám mây xếp lớp như vồng cải… Vồng cải xanh dỗ ong bướm về sân. Anh nằm đấy buổi trưa và bóng nắng (Thơ NĐT)
– Nhớ dai nhỉ!
– Cái gì của em, anh cũng nhớ dai cả!
– Anh!
– Gì cơ?
Nàng phì cười. Con trai mà “Gì cơ” nghe ngồ ngộ!
– Anh hát cho em nghe bài Anh ở lại Charlie đi! Hồi nẫy chúng ta đi ngang đồi Charlie đó!
– Anh không thuộc.
– Chán anh!
– Đừng chán. Vì anh thuộc cái khác hay hơn!
– Ví dụ?
– Áo nàng vàng, anh về xin hoa cúc. Áo nàng xanh, anh vẽ lá trên rừng! (nhái thơ NS)
– Áo nàng đen?
– Áo nàng đen, anh xin vầng trăng lụa. Rải tơ vàng cho óng ả áo ai!
– Xạo ke! Áo đen thui lấy đâu ra óng ả?
– Thì anh mới xin ánh trăng mười sáu cho áo đen óng ả!
– Anh bẻm mép lắm!
Ngã ba biên giới. Vùng đồi cao và bầu trời trong vắt. Bên kia là đất Campuchia. Nàng và chàng đứng cạnh nhau trên đồi cao, mỗi người đeo đuổi một suy nghĩ
Em
Anh biết dù anh có xin làm Đoàn Dự thì ngã ba biên giới vẫn là nơi dành sẵn cho đôi ta. Vì sao? Không biết? Anh cảm nhận thế. Ở tuổi này bỗng nhiên lười suy nghĩ, cứ để mọi chuyện đẩy đưa và theo cảm nhận. Mà cũng có thể vì anh mơ hồ rằng ừ, hãy để em là bạn, biết đâu sẽ tuyệt vời hơn?
Nàng nhìn quanh. Bao giờ những vuông lúa dợn sóng, những cánh cò bay lả, những cánh diều vi vu… đều làm nàng yêu thích,
Quê huơng ơi! Tiếng sáo diều ai thổi
Buổi chiều vàng ngọn trúc khẽ đong đưa
Thanh bình quá! Mẹ già cười móm mém
Lá trầu xanh mẹ nhổ thắm góc hè
 Áo nâu non như mầu gạch ngói
Sứt đường tà, mẹ chăm chỉ ngồi khâu
Hiền hòa quá! Giòng sông đang uốn khúc
Vòng lũy tre ôm gọn cuối đường quê
 Thuyền lan nhỏ lững lờ xuôi dòng chảy
Em trên bờ mắt liễu khép lối về
Quê huơng đó một đời tôi ao ước
Tiếng sáo diều và đồng lúa xanh non
 Trẻ ê a và cuộc sống vuông tròn
Cho tất cả tất cả những người
Tôi gọi là… cùng một mẹ sinh ra…
(Hoàng Lan Chi)
Lúc nào nàng cũng trĩu nặng tình quê hương. Nhớ những ngày sôi động cuối tháng 4 lịch sử, nàng và cậu em cùng tuổi, nên ngoài tình chị em còn có tình bạn hữu, đã nắm tay nhau mắt ngời sáng:
– Dù có ăn rau muống cũng không đi đâu. Quê hương là tất cả!
Rồi sao? Cậu em đi học tập và đã thoát năm 85. Nàng còn ở trên đỉnh núi – lối ví von của một người bạn. Giờ đây, nàng cũng đang đứng trên núi đồi, nhìn ra xa, vùng biên giới sáng nay trời xanh lắm… Nước tôi là một giải giang sơn gấm vóc từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau…
Tôi đi từ Ải Nam Quan
Ơi người ơi…
Trường ca Con đường Cái Quan đã một thời làm nàng xúc động. Tuổi mười bốn, con gái thích nhạc tình, còn nàng thích nhạc tình tự quê hương. Tuổi mười lăm, con gái viết thơ tình, còn nàng viết thơ quê hương…
Đất Mẹ
 Vượt trùng duơng con đã trở về đây
Tìm đất mẹ mà con hằng yêu dấu
Ôi quê huơng xứ dân nghèo có thấu
Nơi phuơng trời em gái vẫn chờ mong
 Vẫn còn đây mầu áo tím Gia Long
Mầu nhung nhớ trong nỗi buồn trẻ dại
Đất mẹ ơi con về không ái ngại
Lối đường xua lại in bước chân con
 Con sẽ đi trên khắp nẻo đường mòn
Nghe hơi mẹ vang lên từng nhịp thở
Nghe đất lành cuộn phù sa mầu mỡ
Nghe tin yêu dâng rộn rịp lòng dân
Mẹ yêu ơi con thuơng mẹ vô ngần
 …
(Hoàng Lan Chi 1963)
– Ở đây không có cái cầu nào em nhỉ!
– Ý anh?
– Anh sẽ hát cho em nghe Chiếc cầu biên giới.
– Thì tưởng tượng!
– Tưởng tượng cầu? không bao vờ. Giá tưởng tượng anh là người yêu của em thì anh dễ tưởng tượng hơn!
– Lại nhảm nhí!
Tháng chạp ngày n+7
 Này em tháng chạp qua rồi đó
Áo lụa xong chưa để đón xuân
Guốc mộc nếu mòn, anh mua nhé…
– Em không đi guốc mộc nữa đâu!
– Ôi trời, sao em lại làm cụt nguồn thơ của anh?
Nàng cười ròn rã như pha lê. Những ngày bên nhau, chàng thích trêu nàng và ngược lại. Chỉ là những tiếng cười, chưa một giọt nước mắt nào kể cả khi nàng đón chàng ở sân bay.
Nàng nhanh nhẹn đóng thùng đồ cho chàng. Chàng mỉm cười thích thú ngó nàng. Bàn tay thoăn thoắt buộc dây rất đúng và chắc.
– Em đa đoan vì em biết nhiều đấy!
– Gì cơ?
– Nhìn em đóng thùng đồ, anh ngỡ dân chuyên nghiệp!
– Dạ bẩm ông, năm… em phải trông dùm tiệm sơn mài cho cậu em trong một năm. Do đó em phải biết cách làm sơn mài, cách gói đồ…
Nàng thắt ruban mầu xanh lá vào quai va ly.
– Chi vậy em?
– Cho anh dễ nhận ra. Va ly đa số giống nhau. Anh khỏi mất công nhìn. Em chán đôi mắt cận của anh lắm. Làm cái nơ cho anh nhìn ra nhanh hơn
– Mắt cận là biểu lộ của thông thái! Nông dân ít cận lắm!
Nàng bĩu môi.
– Thế em có cận không?
– Không bao vờ. Em mê đọc sách. Hè, em mải mê dọc, không chú ý trời tối. Bố dập đầu cái bốp “đôi mắt là hai viên ngọc trời cho! Phải giữ kỹ. Xem con gái đeo kính, có đẹp không?” Em thấy có lý. Và em giữ. Báo cho biết hiện nay em nhìn xa còn tỏ hơn nhiều bạn cùng tuổi nhé! Nhưng em không giữ nổi cho con gái. Chúng bây giờ học nhiều quá. Cũng may nó đã đi nước ngoài. Chứ cứ ở VN, với chính sách giáo dục không giống ai thì…
– Mai mốt về Mỹ, anh đập bỏ kính!
– Đừng. Em thấy con trai đeo kính cũng được lắm. Chỉ con gái thôi! Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn mà! Để cửa sổ bị kính che thì cũng hơi buồn! Em thích nói chuyện bằng mắt lắm!
– Còn anh thích bằng tay!
– Lại nhảm nhí!
Chàng thở dài:
– Mai mốt về Mỹ, anh sẽ buồn lắm vì chẳng còn được nghe mắng “nhảm nhí” nữa! Mà sao qua phone, em đâu có bắt nạt anh như bây giờ!
– Tiên trách kỷ nhé! Qua phone thì “em ơi, cười đi cho anh nghe nào. Anh chỉ thích nghe tiếng cười của em thôi. Tiếng em cười rất hồn nhiên.” Còn bây giờ? Lúc nào cũng… nhảm nhí!
Chàng nghiêm chỉnh:
– Này em, qua phone thì anh chỉ tưởng tượng thôi. Mà cái hình em mặc áo tứ thân thì trông giống con nhà lành trăm phần trăm. Còn bây giờ, em cứ khiêu khích thế kia, làm sao anh nói chuyện bằng mắt được!
Nàng dơ nắm tay dọa:
– Không nói nhảm nhé! Em lúc nào cũng ngoan nhất nước (!), không hề khiêu khích nhé! Anh chỉ giỏi vu khống! Rồi, xong!
Chiếc va ly đã cột gọn.
– Đi đâu bây giờ em?
– Ăn cơm niêu! Gần trưa rồi.
Con đường Tú Xương bây giờ không như xưa. Ngày xưa đây là con đường quý tộc. Hàng cây cao, bóng mát. Những villa xinh đẹp. Giàn hoa giấy tím. Hay ti gôn hồng. Nhưng khi những đỉnh cao tiếp thu thì villa được biến thành nơi chăn heo. Và bây giờ là những căn nhà được cơi thêm, mất hết nét sang trọng hài hòa của phố Saigon xưa…
Niêu cơm nhỏ bé. Người tiếp viên tung niêu. Xoảng. Chiếc niêu vỡ. Một vồng cơm cháy vàng rụm bao tròn. Vồng cơm cháy được tung hứng vài vòng trên không như làm xiếc.
Chàng chấm miếng cơm cháy vàng rụm với muối vừng. Tuyệt.
– Sao anh?
– Ngon lắm! Lâu lắm anh mới được ăn cơm cháy muối vừng. Mà này, sao em không trổ tài nấu món gì đó cho anh mà toàn đưa đi nhà hàng vậy? Có lẽ gia chánh em rất tệ! Thông thường như thế. Đàn bà dễ thương, lại học giỏi thì thường ẹ về nấu nướng!
Nàng phì cười:
– Có lẽ em phải bầu anh là quán quân trong việc khiêu khích, chọc tức người khác.
Chàng ngây thơ:
– Đâu có! Bạn anh đa số quý anh lắm vì tụi nó bảo anh hiền như bụt ấy!
Nàng bĩu môi:
– Hóa ra đi với bạn, anh mặc áo cà sa còn đi với em anh mặc áo giấy!
– Oan lắm em ơi. Anh chỉ có một bộ mặt thôi, ai mà tắc kè như em! Nhưng thôi, nói đi em biết nấu ăn không?
Nàng vênh mặt:
– Xin báo cho “chàng” hay, con gái tôi đoạt giải nhất nấu ăn, giải ba cắm hoa nhé! Báo đăng dàng hoàng nhé!
Chàng gật gù:
– À ra vậy! Nhìn mẹ biết con. Còn bây giờ nhìn thành tích con để suy ra mẹ!
– Chứ sao!
Cả chàng và nàng cùng cười.
Những giây phút cuối đang được đếm. Nàng huyên thiên. Chàng cũng huyên thiên. Như không hẹn mà cả hai như cố làm ra vẻ bình tĩnh. Ra vẻ mọi chuyện bình thường.
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất – nửa dêm.
Chàng đã về quê hương vào nửa dêm. Và cũng ra đi vào nửa dêm. Về khuya, trời Saigon có phần hơi lạnh.
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
 Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách…
(CTT và PD)
Ngày xưa, ga Lyon đèn vàng. Chàng đã tiễn nàng về xứ mẹ. Chàng đã nói bằng tiếng hôn…
Còn bây giờ sân bay Tân Sơn Nhất không buồn hiu hắt. Và nàng thì tiễn chàng đi. Đi hay về? Với bao nhiều người Việt, rời khỏi VN là đi hay về? Ôi quê hương, nỗi đau này bao giờ mới khỏi?
Nàng nhìn xa xôi. Mới đó đã hai năm trôi qua. Phi trường Colorado thật đẹp.
Anh đã rủ em đi một vòng. Khi khuất mắt mọi người, anh lại dịu dàng choàng vai em. Lúc nào anh cũng ân cần và dịu dàng quá đỗi.
Nàng lại nhớ vườn hoa Nhật. Từng đàn cá Koi đủ mầu. Buổi sáng San Jose hôm ấy, trời Cali cũng thật trong xanh.
Khu vườn Nhật
Trưa hè nắng gắt.
Đàn cá Koi lơ đãng nhìn người.
Yêu Em qua môi như thú tìm mồi.
Những đàn cá vàng, hồng, xanh, tím
Biết quậy, biết rong chơi bên ghềnh đá.
Mi Em cong vút chân trời.
Mơ hồ bọt nước nghiêng nghiêng bóng người.
Price Cosco, một chiều vắng,
Em hôn Anh như một tình nhân,
Trong mùa cưới.
Tình yêu từng bước vong thân,
Có gì như thể cảm quan đong đầy.
San Jose, 09-17-2000.
VIỆT BẰNG
Em,
Hãy gửi hình cho anh. Anh chỉ làm thơ được khi có hình trước mặt. Hãy gửi bức hình có anh và em ở Las Vegas…
Nàng không gửi. Sang Mỹ, vùng đất một thời nàng mơ ước, quá khứ ngày xưa của nàng, nàng không muốn gặp. Quá khứ của cuộc tình ngàn trùng, nàng cũng không muốn gặp. Những luyến lưu lại là của những người anh…
– Em nghĩ gì thế?
– Không nghĩ gì!
– Em đang nghĩ lung tung. Khi lung tung thì đồng nghiã với không có gì!
Nàng im lặng. Gió thổi rì rào. Chàng choàng tay qua vai nàng.
Em
Còn bao lâu nữa? Chúng ta còn gặp nhau lần nữa không hay muôn trùng xa cách? Cuộc đời làm sao biết trước được?
Đã bảy ngày bên nhau. Cám ơn em đã cho anh những giây phút ngọc ngà. Cám ơn em để chuyến về quê của anh như hoa gấm. Rồi đây trong quãng đời còn lại, anh có tìm được những giây phút như những ngày qua? Duyên kỳ ngộ, mấy ai có được!
Rồi em cũng sẽ đi xa. Nơi vùng trời ấy, chỉ mình em lại đương cự với bão táp phong ba ở tuổi xế tà. Anh thương lắm! Thánh giá trên vai em quá nặng. Muốn san sẻ cùng em nhưng ngã ba biên giới vẫn còn đây!
Biết làm sao hơn! Thôi thì mỗi tối lại vỗ về: Em ơi, xin trao cho anh những nỗi buồn của ngày hôm nay. Anh sẽ giữ dùm cho em. Và hãy ngủ đi, cô Bắc kỳ “nhảm nhí” của anh. Ngủ đi, mộng hãy bình thường. Ru em, anh vượt trùng dương gọi về…
Nàng nhìn đồng hồ:
– Đến giờ rồi. Anh vào đi!
Chàng xoay người nàng. Đối diện. Nàng cúi xuống. Mông mênh… Chàng dịu dàng hôn nhẹ lên trán nàng. Nàng ngẩng lên. Một giọt nước mắt lăn tròn trên gò má…
Đêm Saigon vẫn mênh mông…
Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp (1950- )
Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình.
Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
Khi lớn lên, tôi chẳng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh.
Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
Tôi là con một; tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi. Ông này đại tá, chỉ thạo việc xây doanh trại.
Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng.
Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu tuổi), vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng.
Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông bảo: “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi!”
Tôi bảo: “Vâng.”
Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp.
Vợ tôi bảo: “Không để thế được.”
Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình.
Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi ba mươi bảy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lú lẫn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà.
Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: “Cháu chẳng ăn thế bao giờ.”
Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng.
Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình.
Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?”
Tôi bảo: “Viết hồi ký.”
Cha tôi bảo: “Không!”
Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem.”
Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim họa mi, chim vẹt.
Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?”
Vợ tôi không trả lời.
Cha tôi bảo: “Để xem đã!”
Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế.
Tôi cười: “Cha bình quân!”
Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống.”
Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại.”
Mọi người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: “Tại mẹ lẫn.” Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận.
Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc.”
Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?”
Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc.”
Hai đứa bảo: “Thế thì không có.”
Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui.
Tôi hỏi: “Có chuyện gì thế?”
Ông bảo: “Ông Cơ và cô Lài vất vả quá! Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?”
Tôi bảo: “Để con hỏi Thủy.”
Vợ tôi bảo: “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ.”
Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú.
Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức.”
Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ: ‘Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v… Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậu v.v…’ Cha viết như thế được không?”
Tôi bảo: “Được.”
Vợ tôi bảo: “Không được!”
Cha tôi gãi cằm: “Người ta nhờ mình.”
Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ quốc phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái.
Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.
o O o
Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân, con trai ông, làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là ‘hoa nhài cắm bãi cứt trâu.’ Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi ‘một giọt máu đào hơn ao nước lã,’ giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền.
Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược.
Ông Bổng rất ức, ông nói: “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ.” Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả.
Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi: “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là ‘môn đăng hộ đối’. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì!”
Cha tôi bằng lòng.
Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp:
Ừ ê cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta
Ừ… e… cái con gà rù…
Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng những ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc Beatles và Abba.
Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt.
Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì. Cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ.
o O o
Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: “Cha muốn nói chuyện với con.” Tôi pha cà phê, cha tôi không uống.
Ông hỏi: “Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn.”
Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi.
Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này.”
Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà.
Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!”
Ông Cơ bảo: “Cháu quên, cháu xin lỗi mợ.”
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo: “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn.”
Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo: “Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây.”
Tôi hỏi: “Về đâu?”
Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tắcxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó, bố của Kim Chi, một ngày. Ông này vừa đi công tác ở Ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao.
Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ chồng tôi: “Cháu xin cậu mợ một việc.”
Vợ tôi hỏi: “Việc gì?”
Ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. Ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt. ‘Nghĩa tử là nghĩa tận.’ Ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này ‘cáo chết ba năm quay đầu về núi.’
Vợ tôi cắt lời: “Thế bao giờ đi?”
Ông Cơ gãi đầu: “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết.”
Vợ tôi tính: “Được. Anh Thuần này (Thuần là tên tôi), anh có nghỉ phép được không?”
Tôi bảo: “Được.”
Ông Cơ bảo: “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như đi du lịch.”
Vợ tôi bảo: “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?”
“Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu.”
“Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?”
“Cháu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là năm.”
“Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi được.”
Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu: “Chị Lài xinh nhất.”
Cô Lài cười thỏn thẻn: “Chả phải. Mợ mới xinh nhất.”
Vợ tôi bảo: “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu xe.”
Cha tôi bảo: “Hay thôi không đi?”
Ông Cơ giãy nảy: “Chết, cháu đã điện rồi: Mang tiếng chết.”
Cha tôi thở dài: “Tôi có tiếng gì mà mang!”
Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào sáng chủ nhật.
Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch,” vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi.
Thủy bảo: “Mẹ già rồi.”
Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ ra.
Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn, ăn được cơm.
Tôi bảo: “Mừng rồi.”
Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc.
Tôi hỏi: “Chuẩn bị à?”
Vợ tôi bảo: “Không.”
Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm.
Vợ tôi bảo: “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ.”
Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế.
Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo: “Tùy anh.”
Ông Bổng sang thăm. Ông nói: “Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!” Lại hỏi: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?”
Mẹ tôi bảo: “Có.”
Lại hỏi: “Thế em là ai?”
Mẹ tôi bảo: “Là người.”
Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người.”
Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi.
Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất.
Ông Cơ và cô Lài nói: “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất.”
Vợ tôi bảo: “Nói nhảm.”
Cô Lài khóc: “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?”
Ông Bổng cười: “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván.”
Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng: “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?”
Ông Bổng bảo: “Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, ‘đòm’ phát là sướng.”
Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước.
Ông thợ mộc quát: “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?”
Ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân?”
Tôi bảo: “Bốn phân.”
Ông Bổng bảo: “Mất mẹ bộ xa lông! Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván.”
Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn.
Ông Bổng bảo: “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi.”
Vợ tôi hỏi: “Mấy cân gạo hả chú?”
Ông Bổng bảo: “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân!”
Vợ tôi bảo tôi: “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ.”
Ông Bổng hỏi tôi: “Nhà này ai chủ trì kinh tế?”
Tôi bảo: “Vợ cháu.”
“Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế?”
“Vợ cháu.”
“Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé?”
“Ông để con.”
“Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?”
“Mười mâm.”
“Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm.”
Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà.
Vợ tôi bảo: “Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm.”
Tôi bảo: “Ông Bổng cầm bốn nghìn rồi.”
“Buồn anh lắm!”
“Anh đòi lại nhé?”
“Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo.”
Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo: “Để đi đò.” Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo: “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc.”
Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền.
Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: “Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó.”
Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi.
Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?”
Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố?”
Tôi khóc: “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín.”
Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần.”
Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa.
Từ nhà tôi ra nghĩa địa đi tắt chỉ năm trăm mét, nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài.
Có người nằm lăn ra, nói: “Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối.”
Ông Bổng bảo: “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm!”
Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ ‘cha đưa mẹ đón.’
Ông Bổng bảo: “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó.”
Cha tôi bảo: “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?”
Ông Bổng nín bặt, lại khóc: “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi…”
Tôi nghĩ: “Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều đã đánh lừa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?”
Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi: “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt.
Đến tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc: “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?…”
Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo.
Cô Lài lại khóc: “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?”
Vợ tôi bảo: “Đừng khóc.”
Tôi cáu: “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu?”
Vợ tôi bảo: “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?”
Tôi bảo: “Sát.”
Ông Bổng bảo: “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?”
Cha tôi bảo: “Bùa con khỉ! Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này.”
Ông Bổng bảo: “Thế là sướng, ‘đòm’ phát là xong.”
Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò.
Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh, đại úy cần vụ, đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn.
Ông Chưởng hỏi cha tôi: “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón.”
Cha tôi bảo: “Được.”
Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi: “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm.”
Cha tôi bảo: “Con tôi làm đấy.”
Tôi bảo: “Đấy là vợ cháu.”
Vợ tôi bảo: “Cô Lài chứ!”
Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này đầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh: “Chả phải.”
Cha tôi đùa: “Thế thì do mô hình V.A.C.”
Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn.
Cha tôi hỏi: “Thằng Tuân có thư từ gì không?”
Kim Chi bảo: “Không.”
Cha tôi bảo: “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa.”
Vợ tôi bảo: “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết.”
Kim Chi ngượng.
Tôi bảo: “Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật!”
Kim Chi khóc: “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm! Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan!”
Vợ tôi bảo: “Tôi còn hai con gái cơ!”
Tôi bảo: “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?”
Cha tôi bảo: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục… Tâm càng lớn, càng nhục.”
Vợ tôi bảo: “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết.”
Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi.
Khổng bảo: “Thơ siêu nhất.”
Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay.
Vợ tôi bảo: “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?”
Tôi lắc đầu.
Vợ tôi bảo: “Anh già rồi.”
Bất giác tôi thoáng rùng mình.
Một hôm, bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón ở cổng, ông bảo: “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá.”
Tôi bảo: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?”
Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác.
Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực.
Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi: “Ông anh ơi, có đi chơi không?”
Tôi lắc đầu.
Khổng có ý tránh mặt tôi.
Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi: “Cháu đánh nó nhé?”
Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ: “Thôi.”
Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi?
Cha tôi bảo: “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình.”
Tôi bảo: “Không phải, cuộc đời nhiều trò đùa lắm.”
“Anh cho là trò đùa à?”
“Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng.”
Sao tôi cứ như lạc loài?
Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi: “Anh đi nhé?”
Vợ tôi bảo: “Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi.”
Vợ tôi òa khóc: “Em thật có lỗi với anh, với con.”
Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng: “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?”
Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run.
Thư viết: “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép.”
Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa, nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây.
Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch.
Cha tôi không nghe, ông bảo: “Cho vào ba lô.”
Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia đá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ.
Cha tôi lại gọi cô Lài đến bảo: “Cháu lấy chồng đi.”
Cô Lài òa khóc: “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa.”
Cha tôi nghẹn ngào: “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?”
Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là điềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi.
Ông bảo: “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem.”
Cái Mi, cái Vi chào ông.
Cái Mi hỏi: “Ông đi ra trận hả ông?”
Cha tôi bảo: “Ừ.”
Cái Vi hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?”
Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”
Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao (vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi), bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang.
Ông Bổng thích lắm: “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao một chum.”
Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt, trong chẳng có gì.
Ông Bổng bảo: “Chắc còn nữa.”
Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát.
Ông Bổng bảo: “Thôi chết, tao nhớ ra rồi! Ngày xưa tao với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao.”
Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc.” Cả hai đã chết mục xác từ thuở nao thuở nào.
Ông Bổng bảo: “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ.”
Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ: “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình.”
Khổng bảo: “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!”
Điện của ông Chưởng: “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày…, mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày…”
Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy.
Vợ tôi bảo: “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại.”
Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ.
Ông Chưởng bảo: “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình.”
Tôi bảo: “Không phải thế. Đời người có mệnh.”
“Cha anh là người đáng trọng.”
“Theo nghi lễ quân đội hả chú?”
“Cụ ra trận địa, đòi lên chốt.”
“Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa.”
Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người.
Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm.
Ông bảo: “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả.”
Vợ tôi bảo: “Tại chú quen đấy. Ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội.”
Ông Bổng bảo: “Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù!”
Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó, nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn.
Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ.
Diệp Minh Tâm
Theo https://tamdiepblog.wordpress.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Khơi lên ngọn khói chiều no ấm Đường đê cong, dáng mẹ hao gầy/ Chân bám bùn trong chiều mưa gió/ Lại có ngày nắng như đổ lửa/ Mẹ trở về ...