Kìa xuân... đã về!
Tết Nguyên Đán, còn gọi Tết Ta, Tết Âm Lịch, Tết Cổ Truyền,
năm mới hay chỉ đơn giản Tết, là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương Lịch hay Tết Tây, thường rơi vào khoảng
cuối tháng
1 đến giữa tháng 2 Dương
lịch và nói chung kéo dài khoảng 5-6 ngày, tạo điều kiện cho những thành
viên gia đình sinh sống làm ăn ở nơi xa có thể về quê vui cảnh đoàn viên ít
ngày. Nhưng ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết ở chỗ nó là dịp để người Việt nhớ
về cội nguồn, ông bà tổ tiên. Ngày tết đem lại một sự khởi đầu mới, rũ bỏ những
gì không hay đẹp của năm qua nên mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với
nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Lòng người nào cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc
và thịnh vượng cho năm mới.
Hai chữ "Nguyên Đán" (元旦) có gốc chữ
Hán; "Nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và
"Đán" là buổi sáng sớm. Tết Nguyên Đán được người Trung Quốc ngày nay
gọi là Xuân Tiết (春節, chữ Tết là từ chữ Tiết), Tân Niên (新年) hoặc Nông Lịch Tân Niên (農曆新年).
Thời gian cử hành Tết
Ngày đầu năm này cũng gọi là ngày Mồng Một Tết, ngày bắt đầu
của một dịp lễ cổ truyền long trọng nhất trong năm của người Việt. Có những thời
điểm trước đây chuỗi ngày Tết được kéo dài hơn hiện nay, người ta "ăn Tết"
(tận hưởng Tết) đến Mồng Tám, Mồng Chín tháng giêng (tháng một Âm lịch); nói
chung khi nào những công sở, trường học còn nghỉ thì còn Tết. Tết là dịp hội hè
vui chơi sau một năm lao động vất vả, và là dịp để những người tha phương tìm về
sum họp với gia đình, cùng nhau tưởng nhớ đến tổ tiên, cội nguồn. Người Việt
Nam tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho
đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa
lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những
ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn
những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và
chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng
một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết.
Những nét chính về Tết
Mùa Tết
Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt đầu vào thời kỳ rộn ràng của
mùa Tết, tính từ mốc sự kiện "đưa ông Táo về
trời" (một nghi thức tiễn đưa thần
bếp lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại tình hình trong năm của chủ gia)
vào ngày này. Thiên hạ đua nhau nô nức mua sắm các vật dụng, đặc biệt là quần
áo và thức ăn (việc buôn bán mùa Tết thường sẽ chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc
30 tháng chạp, từ khi đó lần đầu tiên trong năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các
sạp trống không). Tại những bến xe tấp nập những người tha phương mua vé xe để
trở về quê đoàn tụ cùng gia đình. Không khí lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người
người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẩn bị đón xuân
Chợ Tết
Đấy là những chợ đặc biệt chỉ xuất hiện vào dịp Tết và chuyên
buôn bán các loại "đặc sản" cho người dân hưởng xuân. Vì tất cả những
người buôn bán hầu như sẽ nghỉ xả hơi trong những ngày Tết nên nảy sinh tâm lý
mua dự trữ, đưa đến mức cầu rất cao. Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số
nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những loại trái cây,
đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa,
đu đủ, xoài v.v... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả
đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt.
Tranh dân gian chợ tết.
Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc
túy"
Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được bày bán đầy các chợ.
Các bà nội trợ mua về cắt lấy phần củ trắng nõn nà, phơi qua vài nắng cho khô
quắt lại rồi cho vào những ve keo, kế đó cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu
với đường, xong đậy kín lại. Vào vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng
vịt để chuẩn bị món dự trữ chủ lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh
tráng, giá để làm dưa giá nữa là xong. Không ai là người Việt mà không cảm khái
thứ hương vị dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra
trên một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một miếng hột vịt, vài ba củ kiệu,
ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho dằm miếng ớt. Ngày tết hễ
đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể thiếu được "thịt kho, dưa giá, củ kiệu, bánh
tráng. Phải nhìn thấy chúng,
nếm chúng, nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân trọn
vẹn.
Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu, một số người dùng củ hành
ta với cách làm cũng tương tự. Ve dưa hành có màu hồng như ngọc, trông rất đẹp
và "may mắn".
Màu của ngày Tết
Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn
là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt
Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt
dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa
ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v... Trước đây khi pháo còn được cho
phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ
giao thừa đến rạng sáng Tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng"
mới thôi.
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Hoa đào, nở vào ngày Tết, báo hiệu mùa
xuân ở miền bắc Việt Nam
Khái niệm thời gian
Mùa Tết, không ai bảo ai, mọi người đều cùng nhau dẹp bỏ
dương lịch và quay trở sang âm lịch rất tự nhiên, với những khái niệm thời gian
trước tết gọi là “hăm” (ngày 20 tháng chạp âm lịch +): hăm mốt tết, hăm chín tết (nếu rơi
vào tháng chạp thiếu sẽ không có ngày ba mươi tết), sau tết gọi là “mồng”: mồng
hai tết, mồng tám tết... Âm lịch hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi
người Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của ngày lễ trọng đại, thiêng liêng
nhất này.
Lịch sử
Theo lịch sử Trung
Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ.
Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng
giêng, tức tháng Dần. Nhà
Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng
chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa
sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên
quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời,
giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời nhà Đông Chu, Khổng Phu Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định
là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Cho đến khi nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng
giêng. Từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào
thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa
có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư
sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài
Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ
ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy tháng
giêng (8 ngày).
Ngày nay, Việt Nam quy
định viên chức và công nhân lao động được nghỉ Tết vào ngày 29 hoặc ngày 30 trước Tết và từ mùng Một đến mùng Ba (tổng cộng 4 ngày). Việt
kiều sinh sống tại Âu Châu hay Bắc Mỹ hoặc
chỉ giữ ngày mùng Một hoặc tổ chức Tết vào ngày cuối tuần gần nhất.
Ngoài ra, người ta thường nói "20 Tết", "15 Tết"...
đây chỉ là nói những ngày ảnh hưởng do những công việc để chuẩn bị đón Tết hay
dư âm còn lại của những ngày Tết.
Nguyên nghĩa của Tết chính là "tiết". Văn hóa Việt
- thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước - do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã
"phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời
khắc "giao thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của
một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến
là Tết Nguyên Đán.
Ngày nay, cùng với người
Hoa, người Việt, các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Triều
Tiên, Mông Cổ, Tây
Tạng, Nepal, Bhutan, H'mông Trung
Quốc cũng tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ chính thức. Trước đây Nhật
Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.
Trước năm 1967, Việt Nam lấy giờ Bắc Kinh làm
chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi
lịch dùng múi giờ GMT +7 làm chuẩn. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền bắc ngày 29 tháng
1 trong khi miền nam thì ngày 30 tháng
1) [1].
Hiện nay, vì chênh lệch một giờ giữa Việt Nam (UTC +7)
và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (UTC +8),
đôi khi Tết của Việt Nam không trùng ngày với Tết của Trung Quốc. Từ năm 1975 đến năm 2100, có 4 lần không trùng; đặc biệt năm 1985, Tết Việt Nam lệch
với Tết Trung Quốc khoảng một tháng, do năm 1984 âm lịch Việt Nam không có tháng nhuận trong
khi lịch Trung Quốc nhuận tháng 10.
Cây mai báo hiệu xuân về ở miền
nam
Ba "giai đoạn" đón mừng Tết
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về sum
họp dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước bàn thờ, thăm lại
ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh
sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có
thể gắn liền với giếng nước, mảnh sân nhà. "Về quê ăn Tết" đã
trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Tuy là Tết cổ truyền của dân tộc nhưng tùy theo mỗi vùng, mỗi
miền của Việt Nam hoặc theo những quan niệm về tôn giáo khác nhau nên có thể có
nhiều hình thức, nhiều phong tục tập quán (địa phương) khác nhau. Xem thêm bài
viết chính phong tục Tết miền Bắc, phong tục Tết miền Trung và phong tục Tết miền Nam.
Phần sau đây trình bày các điểm chung giữa phong tục Tết ba
miền. Nói chung Tết ở ba miền đều có thể phân làm 3 khoảng thời gian, mỗi khoảng
thời gian ứng với những sự chuẩn bị, ứng với những lễ nghi hay ứng với những
hình thức thể hiện khác nhau, đó là Tất Niên, Giao Thừa và Tân Niên.
Tất Niên
Đối với Tết cổ truyền, dịp tất niên là lúc mọi nhà chuẩn bị
cho Tết, mua tích trữ thực phẩm và đồ dùng thiết yếu. Lý do là nhiều hoạt động
mua bán sẽ bị ngưng trệ trong và sau Tết, chừng một vài ngày đến một tuần, do mọi
người đều nghỉ ăn Tết. Nhu cầu mua sắm vào dịp này cũng một phần là vì các nhà
thường chuẩn bị tài chính cho dịp Tết từ năm cũ. Những nhà làm nghề nông cũng
tích trữ vật nuôi hay hoa màu từ trong năm cũ cho dịp Tết.
Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm cuối năm cũng có thể
nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm,
may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người
thân ở xa về... Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng,
đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.
Cúng bái
Sắp dọn bàn thờ - Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tùy theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là
nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng
cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau
hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn.
Cũng có nhà cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với cầu mong
làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa
có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên
trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt
hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tùy mỗi miền có sự biến thiên các loại
quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát
nước trong với ý nghĩa để các cụ rửa chân tay sạch sẽ về đón tết cung con cháu. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về
với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Cúng ông Táo - theo quan điểm của người Việt thì ông Táo là
người ghi chép tất cả những gì con người làm trong năm và báo cáo với Ngọc Hoàng. Ngoài ra, ông Táo còn đại diện cho sự ấm no
của một gia đình. Ông Táo được cúng vào ngày 23 tháng chạp Âm lịch hàng
năm. Lễ cúng ngoài hương, nến, hoa quả, vàng mã còn có hai mũ đàn ông, một mũ
đàn bà và con cá chép, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng.
Cúng Tất niên: lúc đầu được hiểu như là hoàn tất (công việc)
trong năm, tức cúng các tổ nghề đã phù hộ cho công việc làm ăn, nhưng vì không
phải thợ nào cũng có vị tổ nghề rõ ràng nên dần dà, mọi người đều cúng. Lễ cúng
này thường vào các ngày từ sau 23 đến 29 hoặc 30 Tết.
Giao thừa
Cúng Giao thừa hay lễ Trừ Tịch: Theo tục lệ cổ truyền thì
"giao thừa" được tổ chức nhằm đón các thiên binh. Lúc đó họ đi thị
sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng
thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Mâm lễ được sắp bày với lòng thành
tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người mới xuống làm nhiệm
vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn
trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến
lòng thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc
hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc
con gà, bánh
chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã. Đôi khi có thêm chiếc mũ của Đại Vương hành khiển.
Lẽ trời đất có khởi thủy phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết
thúc. Bắt đầu vào lúc giao thừa, và cũng kết thúc vào lúc giao thừa. Theo Từ
điển Hán-Việt của Đào
Duy Anh, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Cao
đài Từ điển giải nghĩa trừ tịch 除夕 thì trừ: bỏ đi, bớt ra, cuối
năm; tịch: đêm và Giao thừa 交承 thì giao: giao tiếp và thừa:
tiếp tục. [2] Ý nghĩa
của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp
của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khử trừ ma quỷ".
Sau khi cúng Giao thừa xong, các gia chủ khấn Thổ
Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn
thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ở Nam bộ, Thổ Công
được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất. Sau khi cúng xong, xem như Tết thực sự
đã đến với gia đình.
Pháo Tết: Trước đây, đúng vào phút Giao thừa, mọi người thường
đốt pháo Tết. Theo lời truyền miệng dân gian, pháo được cho nổ
vào dịp năm mới để xua đuổi ma quỷ của năm cũ (vì người xưa đã tin rằng ma quỷ
sợ tiếng động lớn) và chào đón năm mới. Pháo càng dài và lớn, nổ càng lâu, kêu
càng to, cháy ra nhiều xác phác pháo và cháy hết thì càng được cho là điềm lành
của năm mới. Tuy nhiên do nguy cơ cháy nổ, sát thương và ô nhiễm môi trường mà
từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, pháo Tết đã bị cấm
ở Việt Nam. Nay được thay thế bằng bắn pháo hoa do nhà nước Việt Nam tổ chức,
hiện chỉ ở các thành phố lớn do giá thành còn đắt.
Tân Niên
Xông đất: (Miền Bắc gọi là "xông đất", nhưng miền
Trung dùng đúng tên cổ tục này là "đạp đất"). Người Việt quan niệm
ngày mồng Một Tết, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn thì cả năm cũng sẽ được
tốt lành thuận lợi. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế
mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà
con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang
thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ
không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy
thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người
được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt
năm tới. Thời xưa chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn
người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Người xông đất phải là đàn ông trụ
cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn giản hơn nhiều: Người được
chọn xông đất phải khỏe mạnh, tốt tính, và gia cảnh khấm khá, hòa thuận.
Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán,
con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc
huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi
vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc
cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết
đến là thêm 1 tuổi).
Lì xì (利市, phát âm theo người Quảng Đông: lishi):
người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng
bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn.
Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua
đuổi quỷ đến quấy nhiễu.
Xuất hành và hái lộc: "Xuất hành" là đi ra khỏi nhà
trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất
hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các
quý thần, tài thần, hỉ thần... Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái,
người Việt còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy
phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ
hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục
hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho
nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền
Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền
Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Thăm viếng họ hàng - để gắn kết tình cảm già đình họ hàng
v.v... Lời chúc tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi
ước muốn đều thành công...; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau
"tai qua nạn khỏi" hay "của đi thay người" nghĩa là trong
cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
Chưng dọn, trang trí
Mâm Ngũ Quả
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây
khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây
bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của
chúng.
Cây nêu
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5-6 mét. Ở ngọn thường
treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để
táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi
người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất
va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai... Người ta
tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất,
là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy
nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết
đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ
hoặc những điều không may. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng
chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng
mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng
cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.
Bớ lũ quỷ kia, tớ dựng cây nêu ngán chửa?
Hỡi bầy trẻ nọ, bay nghe tiếng pháo mừng không?
Tranh tết
Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả,
chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...).
Câu đối tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các
nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo
"câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen
hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là
câu đối đỏ.
Có là bao ba vạn sáu ngàn ngày được trăm bận Tết
Ước gì nhỉ một năm mười hai tháng cả bốn mùa Xuân
Hoa tết
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để
cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung
Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh,
màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân. Miền Trung và miền Nam lại
hay dùng cành mai vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển
cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc
hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí
trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Ngoài hai
loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại
hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet...
Cây quất: Thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với
lộc xanh mơn mởn, hoa trắng lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng
trưng cho sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
Ẩm thực ngày Tết
Thành ngữ Việt Nam có câu "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết".
Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay giật, xoay xở để có đủ
ăn trong ba ngày Tết. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi
người mà nhất là trẻ em, được ăn uống no nê, không những thức ăn ngon mà lại rất
nhiều. Vì vậy mà người ta đã gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn
có:
Bánh truyền thống: bánh
chưng, bánh dầy, bánh
tét... Đây là các loại bánh đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày Tết ở Việt
Nam. Bánh chưng và bánh giầy còn được gắn với các sự tích cổ của các vua Hùng,
tổ tiên của người Việt.
Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là
ăn cỗ. Các món cỗ trong nhiều gia đình có thể có bóng bì,
canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu
lòng gà, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa,
giò mỡ, nộm, dưa hành muối...
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng và để dọn đãi
khách. Mứt có rất nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất, mứt sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà là... Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: kẹo thèo lèo, kẹo dừa, kẹo cau,
kẹo đậu phụng (kẹo cu đơ)... Ngoài ra, Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang...
Những tập tục, sinh hoạt ngày tết
Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà
các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà.
Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà
dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ
những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều
hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.
Dọn dẹp nhà cửa trước Tết, do tục kiêng cữ quét nhà trong
ngày Tết. Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo
cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị rông cả
năm.
Sêu Tết, miền Nam gọi là "đi tết", là nghĩa vụ phải
làm trước Tết của chàng trai sau lễ hỏi và trước lễ
cưới. Sau lễ hỏi chàng trai chính thức là rể chưa cưới và có bổn phận đối với
nhà gái. Bổn phận này bao gồm phải có "sêu tết" và đôi khi có việc đi
làm rể. "Sêu" có nghĩa là mùa nào thức ấy, chàng trai phải mang lễ vật
sang biếu bố mẹ vợ chưa cưới.
Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, xóa
bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ hòa thuận hơn.
Vào ngày 30 Tết, người Hà Nội còn
có thói quen đi mua lá mùi già về để tắm tất niên đón chào năm mới. Đó là
loại cây lá và thân ngào ngạt mùi hương rất thơm, thường có nhiều vào dịp Tết,
mùi thơm của cây mùi già luôn gợi nhớ tới ngày Tết.
Đầu Xuân, người có chức tước khai ấn; học trò, sĩ phu khai
bút; nhà nông khai canh; người buôn bán mở hàng lấy ngày... Sau ngày mùng Một,
dù có mải vui cũng chọn ngày để "Khai nghề", "Làm lấy
ngày". Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì
Giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay
xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia
đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt
nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ
phần lớn là đi chơi xuân.
Các trò chơi dân gian như, bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát
chèo, đánh đu, thi leo cột mỡ; bài chòi và nhiều loại bài bạc cổ truyền khác.
Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền, đấu
vật, đánh còn, múa lân, múa
rồng, thi thả chim bồ câu... tùy theo mỗi địa phương các lễ hội này có thể
được tổ chức hay không.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán
con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, chắn, tổ tôm...
ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ
tổ tôm... hoặc đốt luôn hóa vàng.
Cúng đưa, hạ nêu: Trong những ngày Tết, người Việt quan niệm
rằng có sự hiện diện của Ông Bà tổ tiên nên bàn thờ luôn được thắp hương và
cúng cơm mỗi ngày. Thường thì chiều mồng Ba cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều mồng Bảy
cúng hạ nêu.
Đi viếng lễ chùa xin xăm: Không ai biết chắc chắn phong tục
này có từ bao giờ và tại sao nhưng trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều
người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào
buổi sáng mồng một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn
hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi
lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm.
Đốt pháo: Thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc
giao thừa ngày tết cổ truyền. Nay gần như không còn vì pháo đã bị cấm do tính
chất nguy hiểm dễ gây sát thương của nó. Xem thêm Bánh
pháo.
Tín ngưỡng
Điềm lành
Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều
và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông
hoa 6 cánh.
Chó lạ vào nhà: Tục ngữ "Mèo đến nhà thì khó, Chó đến
nhà thì sang".
Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên
đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc.
Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều
lộc. Nếu có đủ Tứ quý: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt
cả năm.
Kiêng kỵ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều
tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, do
đó, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:
Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc,
ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng.
Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hòa chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì
vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng,
ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà
gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, đa số
các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm. Trường hợp chết đúng ngày
mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng
Hai làm lễ phát tang.
Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà
mình, vì quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng
Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ,
trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió v.v...
Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung
Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt
rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.
Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ
việc vay mượn hay trả nợ, cho vay.
Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... Nếu ăn những
thứ này bào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ xúi quẩy
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không
được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui
xảy ra với gia đình.
Người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa
trong dịp Tết.
Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người
Việt thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành. (Ca dao: "Mồng
năm, mười bốn hăm ba. Đi chơi cũng lỗ lọ là đi buôn")
Thi ca
Tết, và các tục lệ, được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Việt Nam:
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
Mùng Một tết cha,
Mùng Hai tết mẹ, Mùng Ba tết thầy
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Mong cho Tết đến dựng nêu ăn chè
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Tết cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ:
Ông đồ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực
tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua...
(Vũ Đình Liên)
Tết Nguyên Đán
Hết một năm rồi, tiếng pháo đưa
Gió xuân thổi ấm chén đồ tô
Ngàn cửa muôn nhà vừa rạng sáng
Đều đem đào mới đổi bùa xưa.
(Trần Trọng San)
Người ta còn nghe thấy cả tiếng reo chào đón mùa xuân của Thế Lữ:
Xuân đến rồi kia
Xuân đến rồi!
Hèn nào hoa nở rộ trong tôi
Đào?
Mai?
không, chỉ bừng hoa Lựu
Gốc tự miền Nam, đất bỏng sôi!...
Câu thơ của Tú
Xương:
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà
Hay câu đối Tết như:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào
nhà.
(Nguyễn Công Trứ)
Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt lại, kẻo ma vương
đưa quỷ tới.
Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa, mở toang ra, cho thiếu nữ
đón xuân vào.
(Lưu truyền là của Hồ Xuân Hương)
Chữ "Tết" trong ngoại ngữ
Do ảnh hưởng của sự kiện Tết Mậu Thân, chữ "Tết" đã
được du nhập vào Anh ngữ, dưới dạng Tet hay Têt, để chỉ sự kiện này. Ngoài
ra, Tet hay Têt còn được dùng trong Anh ngữ hay Pháp ngữ khi nói đến lễ hội năm mới của người
Việt.
Đưa xuân về nhà
Một số hình ảnh về xuân ở các miền:
- Xuân miền Bắc.
Dịu dàng bên hoa
Hoa trưng tết.
Về nhà đón xuân
- Xuân miền Trung:
Chợ xuân
- Xuân miền quê:
Làm bánh trưng
Gánh hàng ra chợ quê
Bán hàng, sắm xuân.
Chị em cùng mẹ làm bánh đúc
Ông đồ ngày xuân
- Xuân miền Nam:
Mai xuân
Thanh Long trưng tết.
Chờ mẹ sắm tết.
Đường hoa Nguyễn Huệ
Xuân miền Tây.
- Xuân hải ngoại:
Chợ ở Little Sài Gòn.
Lê Xuân Anh sưu tầmNguồn: Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét