Những truyện ngắn hay nhất mọi thời đại
ANH PHẢI SỐNG
Truyện KHÁI HƯNG
Trên đê Yên Phụ, một buổi chiều mùa hạ.
Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn
lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi.
Theo dòng nước đỏ lờ lờ, những thân cây, những cành khô trôi
từ rừng về, nổi lềnh bềnh, như một dẫy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thực nhanh tới
một nơi không bờ không bến.
Đứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ
ấy tỏ ra ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ,
ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:
- Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân giời đùn lên mau lắm.
Mưa đến nơi mất, mình ạ!
Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng đứng dừng lại,
hỏi vợ:
- Mình đã thổi cơm chưa?
Vợ buồn rầu đáp:
- Đã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.
Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau... Rồi hình như cùng bị một
vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông:
Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ.
Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:
- Liều!
Vợ lắc đầu, không nói. Chồng hỏi:
- Mình đã đến nhà bà Ký chưa?
- Đã.
- Thế nào?
- Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao
tiền. Bà ấy không cho vay trước.
- Thế à?
Hai chữ “thế à” rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống
viên gạch đặt trên bức tường đương xây. Thức quả quyết sắp thi hành một việc
phi thường, quay lại bảo vợ:
- Này! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.
- Đã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.
- Nhưng mình về thì vẫn hơn. Cái Nhớn nó mới lên năm, nó
trông nom sao nổi hai em nó.
- Vậy thì tôi về... Nhưng mình cũng về, chứ đứng đây làm gì?
- Được, cứ về trước đi, tôi về sau.
Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ.
Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng
dừng lại ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng.
Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đương cùng khóc
lóc gọi bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng.
Cái Nhớn dỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:
- Mày đi tìm bu về để cho em nó bú.
Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chửi vừa kêu.
Chị phó Thức chạy vội lại ẵm con, nói nựng:
- Nao ôi! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.
Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú
mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước.
Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng.
Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:
- Nao ôi! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú!
Một lúc, thằng bé vì mệt quá lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người
mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ.
Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất
phác của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp
đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện
ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta
nhớ một cách rành mạch, là chưa bao giờ được thư nhàn, được hưởng chút sung sướng
thư nhàn như những người giàu có.
Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất
thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng,
năm lại năm...
Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi,
chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người
yêu nhau, rồi hai người lấy nhau.
Năm năm ròng, trong gian nhà lụp xụp ẩm thấp, tối tăm ở chân
đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép về hai cái đời trống rỗng của
hai người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con.
Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít công hạ, khiến hai vợ chồng
loay hoay, chằn vặt suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi
con.
Bỗng mùa nước năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách
sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày
ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được
tiền ăn tiêu thừa thãi.
Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày
có nước to.
Thì hôm qua, cái ăn, trời đã bắt đầu đưa đến cho gia đình nhà
bác.
Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã,
rồi rón bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.
Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu.
Gió vẫn to, vù vù, gầm hét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm
chảy nhanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời: da trời một màu đen sẫm.
Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu bành bạch như tiếng sóng vỗ
mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống
phía đê bên sông.
Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan. Lạc thấy chồng
đương ra sức níu lại các nút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng
làm xong công việc, mới bước vào thuyền, hỏi:
- Mình định đi đâu?
Thức trừng trừng nhìn vợ, cất tiếng gắt:
- Sao không ở nhà với con?
Lạc sợ hãi ấp úng:
- Con... nó ngủ.
- Nhưng mày ra đây làm gì?
- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?
- Mày hỏi làm gì?... Đi về!
Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:
- Sao mình khóc?
- Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.
Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:
- Mình không đi được... Nguy hiểm lắm!
Lạc cười:
- Nguy hiểm thời nguy hiểm cả... Nhưng không sợ, em biết bơi.
- Được!
Tiếng “được” lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh,
nước chảy vẫn dữ, trời một lúc một đen. Thức hỏi:
- Mình sợ?
- Không.
Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ
bơi. Cố chống lại với sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du,
nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô khi chìm, khi ẩn khi hiện
trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt
chết đuối trong nghiên son.
Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ
ghì lái, vợ vớt củi.
Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở
vào bờ, thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời
long đất lở.
Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu. Hai người cố bơi,
nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...
Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:
- Giời ôi!
Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh
lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp...
Chồng hỏi vợ:
- Mình liệu bơi được đến bờ không?
Vợ quả quyết:
- Được!
- Theo dòng nước mà bơi... Gối lên sóng!
- Được! Mặc em!
Mưa vẫn to, sấm chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong
vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:
- Thế nào?
- Được! Mặc em!
Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình
sinh nàng lại mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc
vợ, một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc,
Thức kêu:
- Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi
được mình nữa.
Mấy phút sau chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rã rời.
Vợ khẽ hỏi:
- Có bơi được nữa không?
- Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.
- Em buông ra cho mình vào nhé?
Chồng cười:
- Không! Cùng chết cả.
Một lát, một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày, chồng lại hỏi:
- Lạc ơi! Liệu có cố bơi được nữa không?
- Không!... Sao?
- Không. Thôi đành chết cả đôi.
Bỗng Lạc run run khẽ nói:
- Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa.
Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho
chồng đủ sức bơi vào bờ.
Đèn điện sáng rực suốt bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một
người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh.
Đó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy
sinh vì lòng thương con.
Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.
[Rút từ tập truyện ngắn ANH PHẢI SỐNG, Nxb Đời nay, Hà Nội,
1934].
BÓNG NGƯỜI TRÊN SƯƠNG MÙ
Truyện NHẤT LINH
Viết theo chuyện một người bạn kể lại.
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi
đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một chuyến xe. Mười
năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ
gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp khảm rất đẹp,
liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không bằng lòng,
nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp bịt kín, ở
trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn
thận thế này?
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài,
nhưng đối với tôi...
Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng
tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu
này đã mười năm nay...
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?
- Vâng, nhưng sự tích buồn... chuyện đã ngoài mười năm: mười
năm trước độ anh đi Saigon thì tôi còn là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi
chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.
- Cũng như tình cảnh tôi...
- Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy
một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong
tình cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi
không quen chịu được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.
Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không
ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm
ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền.
Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào
kêu với ông Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở
ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra
sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu
có mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ vì sao, tôi liền
đem việc ấy kể lại cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo
tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì
đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mai về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo
ra ga. Đến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới
biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này,
lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng
chỉ được một lúc thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn
đổ. Người “ét” của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:
- Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm
thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người
vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ
hôi ra ướt đẫm cả người.
Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn.
Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không
nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa.
Bỗng tôi thấy... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái
hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng,
nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người “ét” lại cửa toa, bảo ông
ta nhìn rồi hỏi:
- Bác có thấy gì không?
Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác “ét” thò đầu ra và
bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.
- Không rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù
nhưng vừa biến mất.
Người “ét” cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào
lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Được một lát,
hình người đàn bà lại hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn
ngăn đường không cho xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người “ét” nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm
đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy
có thật, mà ai cũng phải thấy. Tôi đến cầm lấy tay bác “ét” kéo bác ra xem rồi
bảo, cả quyết:
- Nhìn xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói:
- Lạ thật!... ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái hình người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc
rõ, lơ lửng giữa lưng trời. Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả,
như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.
Tôi bảo bác “ét”:
- Bác này, có sự gì lạ sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫn thật
nhanh như người tỏ ý thất vọng, vì bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
Còn tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi
văng vẳng nghe có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo
tôi:
- Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái “phanh” như định hãm rồi lại
không hãm. Một lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục
tôi:
- Hãm lại! Hãm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật
mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ
từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người “xếp tanh” cầm
đèn lên hỏi:
- Việc gì thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai
tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự gì lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đã.
Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi
thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng
nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy.
Đến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước
nguồn chảy về xoáy gẫy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở
quan Toàn Quyền đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng
không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên mới không có cái
tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu sao cả.
Người “xếp tanh” mừng cuống quít, hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hãm?
- Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi
dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra, quan Toàn
Quyền đến, ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ
tay bắt tay tôi, cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng
thưởng lúc đó đối với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không
biết ra sao. Tôi đi trở lại và thoáng thấy cái gì bám ở cái đèn để đầu toa,
nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đen, đương đập cánh để tìm đường
thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi,
chính cái hình người đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương
mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người
vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm
đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong
toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...
Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin
nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một
sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm
này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà
làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giầu sang phú quý bây giờ đối với
tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn
thờ nói:
- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn!
[Rút từ tập truyện ngắn ANH PHẢI SỐNG, Nxb Đời nay, Hà Nội,
1934]
CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG
HÀN MẶC TỬ
Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng
thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy
có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ
gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghĩa là
trăng rằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước
xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc
chê chán... Phải không hở chàng Ngâu và ả Chức?
Sông? Là một giải lụa bạch, không, là một đường trăng trải
chiếu vàng, hai bên bờ là động cát và rừng xanh và hoang vu và thanh tịnh. Chị tôi
và tôi đồng cầm một mái chèo con, nhẹ nhàng lùa những đống vàng trôi trên mặt
nước.
Chị tôi cười nả nớt, tiếng cười trong như thủy tinh và thanh
khiết lạ thường. Luôn luôn cứ hỏi tôi và đố tôi cho kỳ được: “Này, chị đố em
nhé, trăng mọc dưới nước hay mọc trên trời, và chúng mình đi thuyền trên trời
hay dưới nước?” Tôi ngước mắt ngó lên trời rồi ngó xuống nước và cũng cười đáp
lại: “Cả và hai, chị a.” Sướng quá, thích quá, chao ôi, hai chị em lại thỉnh
thoảng rú lên cười làm náo động luồng tinh khí của hạo nhiên.
Vây chúng tôi bằng ánh sáng, bằng huyền diệu, chưa đủ, Ngưu
Lang và Chức Nữ, chúa của đêm trung thu còn sai gió thu mang lại gần chúng tôi
một thứ mùi gì ngào ngạt như mùi băng phiến; trong ấy biết đâu lại không phảng
phất những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa... Thuyền đi êm ái quá, chúng
tôi cứ ngờ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa, và ngây ngất vì ánh sáng.
Hai chị em như đê mê, không còn biết là có mình và nhận mình là ai nữa. Huyền ảo
khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hoà lên mấy độ,
và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như
khói... Ở thượng tầng không khí, sông Ngân hà trinh bạch đương đắm chìm các
ngôi sao đi lạc đường. Chị tôi bỗng reo to lên: “Đã gần tới sông Ngân rồi! Chèo
mau lên em! Ta cho thuyền đậu ở bến Hàn giang!”
Đi trong thuyền, chúng tôi có cái cảm tưởng lý thú là đương
chở một thuyền hào quang, một thuyền châu ngọc, vì luôn luôn có những vì tinh
tú hình như rơi rụng xuống thuyền...
Trên kia, phải rồi, trên kia, in hình có một vì tiên nữ đang
kêu thuyền để quá giang...
Thình lình vùng trời mộng của chúng tôi bớt vẻ sáng lạng. Chị
tôi liền chỉ tay về phía thôn Chùa Mo (1) và bảo tôi rằng: “Thôi rồi! Trí ơi!
Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không
sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?” Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền
đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn?”
Hai chị em liền dấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng
lạc vào một đường lối rất lạ, chân dẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa.
Nước suối chảy ở hang đá trắng, tinh khiết như mạch nước ngọc tuyền, chồm lên
những vừng lá, hễ trông đến là kinh hãi vì ngó giống con bạch hoa xà như tạc...
Sao đêm nay kiều diễm như bức tranh linh động thế này? Tôi muốn
hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong một ngụm nước
lạnh, mát đến tê cả lưỡi và hàm răng. Chị tôi làm thinh, – mà từng lá trăng rơi
lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng. Động là một thứ hòn non bằng cát, trắng
quá, trắng hơn da thịt của người tiên, hơn lụa bạch, hơn phẩm giá của tiết
trinh, – một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay
áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát...
Hai chị em đồng dang tay níu áo, gượng vào nhau dấn bước lên
cao... Thỉnh thoảng mỏi hai đầu gối quá, cả chị liền em đồng ngã lăn ra. Lại một
dịp cho tiếng cười của chị tôi được nở ra, dòn tan trong không khí. Lên tới đỉnh
là hao mòn đi một tí. Nhưng mà ngợp quá, sáng quá, hứng trí làm sao? Đây có phải
là nước Nhược non Bồng, động phủ thần tiên ngàn xưa còn sót lại? Nhìn xuống cát
cố tìm dấu tích gì lưu lại một vết chân của Đào nguyên Tiên nữ, nhưng tấm cát
phẳng lờ như lụa căng, trinh bạch làm sao!
Bất tri thử địa hà xứ
Tu tựu Đào nguyên vấn chủ nhân?
Bây giờ chúng tôi đương ở giữa mùa trăng, mở mắt ra cũng
không thấy rõ đâu là chín phương trời, mười phương Phật nữa. Cả không gian đều
chập chờn những màu sắc phiếu diễu đến nỗi đôi đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi
vì chói lói... Ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế
giới chở chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bềnh bồng
đến một địa cầu nào khác.
Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả
vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu...
Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi
tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là bực tinh truyền chi thánh. Tôi muốn
sốt sắng quỳ lạy mong ơn bào chữa. Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến
thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa,
trông thanh sạch quá đi.
Tôi nắm tay chị tôi dặt lia lịa và hỏi một câu hỏi tức cười
làm sao: “Có phải chị không hở chị?” Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: Chị tôi
là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội
reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng, mà em đây cũng là trăng nữa!”
Ngó lại, chị tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt. Chị
tôi hí hửng như xuân, chạy nhảy xênh xang, cơ hồ được dịp phát triển hết cả
ngây thơ của người con gái mười lăm tuổi, tôi ngắm mãi chị tôi, và tự vui sướng
trong lòng vô hạn. Có lúc tôi đã kiêu ngạo thay cho cái sắc đẹp nhu mì ấy, mà
chỉ dưới trời thu đêm nay tôi mới biết thưởng thức. Những phút sáng láng như
hôm nay, soi sáng linh hồn tôi, và giải thoát cái “ta” của tôi ra khỏi nơi giam
cầm của xác thịt... Tôi bỗng rú lên một cách điên cuồng, và chực ngửa tay hứng
một vì sao đang rụng. Chị tôi đằng xa chạy lại bảo tôi: Em la to quá, chị sợ âm
thanh rung động đến khí trời, rồi những ánh trăng sẽ tan ra bọt mất...
– Không, không, chị ơi! Rồi ánh sáng đêm nay sẽ tan đi, ta sẽ
buồn thương và nhớ tiếc. Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm
thôi...
(1) - Một làng ở hải khẩu tỉnh Quảng Ngãi.
TÔI ĐI HỌC
Truyện Ngắn THANH TỊNH
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên
không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang
của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy
nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi
không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt
rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh.
Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này
tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung
quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi
đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng
nô hò như thằng Sơn nữa.
Trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng
và đứng đắn.
Dọc đường tôi thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tôi, áo quần tươm tất,
nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở
mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt, nhưng
một quyển vở cũng chì ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xóc lên và nắm lại cẩn
thận. Mấy cậu đi trước o sách vở thiệt nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy
cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ nắm cũng được.
Tôi có ngay cái ý kiến vừa non nớt vừa ngây thơ này: chắc chỉ
người thạo mới cầm nổi bút thước.
Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt
ngang trên ngọn núi.
Trước sân trường làng Mỹ Lý đầy đặc cả người. Người nào áo quần
cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa.
Trước đó mấy hôm, lúc đi ngang làng Hòa An bẫy chim quyên với
thằng Minh, tôi có ghé trường một lần.
Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung
quanh các lớp để nhìn qua cửa kính mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm
tưởng gì khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi, trường Mỹ Lý vừa xinh
xắn vừa oai nghiêm như cái đình Hòa Ấp. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi
trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ.
Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bở ngỡ đứng nép bên người
thân, chỉ dám nhìn một nữa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim con đứng
trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng
và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt
rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc vang dội cả lòng tôi, mấy người học
trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Chung quanh những cậu bé vụng về
lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu
tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ
dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi mạnh như đá một quả banh
tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn
ràng trong các lớp.
Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đứng lên trước
lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông đọc
tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đang
đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc
xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói sẽ:
- Thế là các em đã vào lớp năm. Các em phải cố gắng học để thầy
mẹ được vui lòng, và để thầy dạy chúng em được sung sướng. Các em đã nghe chưa?
(Các em đều nghe nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có tiếng dạ rang của
phụ huynh đáp lại).
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu
học trò lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người
đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút giây này chúng tôi được người ta ngắm
nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi càng lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới
trước. Nhưng người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ. Không giữ được
chéo áo hay cáng tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới
hiên lớp. Các cậu lủng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu
với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại
rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo. Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám
học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ. Một bàn tay quen nhẹ
vuốt mái tóc tôi.
Ông đốc nhẫn nại chờ chúng tôi.
- Các em đừng khóc. Trưa này các em được về nhà cơ mà. Và
ngày mai các em lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới
hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi,
gương mặt hiền từ, đang đón chúng tôi vào cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa
bao giờ xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ vì có nhũng hôm đi chơi suốt
cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay
xa mẹ tôi chút nào hết.
Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên
tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi
tự nhiên nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một
người bạn tôi chưa hề biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút
nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có
thật. Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi
vỗ cánh bay cao.
Tôi đưa mắt thèm thuồng nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ
đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa bay trên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí
tôi.
Nhưng những tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen
đã đưa tôi về cảnh thật. Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm
đọc:
Bài tập viết: Tôi đi học!
[Rút từ tập truyện ngắn QUÊ MẸ, 1941]
BỎ TRƯỜNG MÀ ĐI
CHẾ LAN VIÊN
Sắc nắng dần nghiêm lại, rồi gió nam về dấy bụi mù quấy rối ý
xanh cao. Mỗi buổi mai, hoa xoan bừng sáng với mặt trời. Nệm đỏ chăn xanh, ngày
dịu ngã mình trưa, đôi tiếng ve nhịp theo im tĩnh. Đến khi không gian thiết tha
nhớ đến nắng vàng thì buổi chiều qua rất nặng nề, chắc bởi vừa trôi vừa mơ mộng.
Ôi! Đất trời bỗng nhiên mang hồn một người Do Thái phiêu
linh. Mùi muối biển nổi lên đậm đà trong mạch gió tuôn thao, ấy là nồng mặn của
Ấn Độ dương gửi đến. Và bụi mù bay ở ngoài kia, cứ xem những vẻ dàn bày ở dưới
vòm xanh, hẳn đã từng qua sa mạc Phi châu.
Nhưng thầm kín hơn hết chỉ có tình ý của hoa xoan. Hãy lắng
nghe màu tươi trôi chảy đến sắc buồn, sự già nua mỗi lúc mỗi tăng trong nửa
phút giây dịch biến. Chỉ một ngày mai thì hoa xoan đã là hoa cuối chợ đầu đình.
Ôi! Mi đến giữa bụi đường và mất đi theo cỏ rác! Và những đàn ve nữa, một khi
mùa hè đã khuất, người ta liền quét dọn với hoa khô.
Những tràng học kia, nằm mê trong nắng, thì bởi lẽ gì cũng
nhuốm nỗi buồn những người Do Thái phiêu linh? Cửa mi mở rộng, tam cấp trơn
tru, ta nghe mi gọi đàn con thơ sạch của mi và bảo:
- Các con ơi! Mùa thu và mùa đông lạnh lẽo đã qua rồi. Những
cánh cửa không còn cùng nhau chung kết nỗi buồn, bây giờ đất trời nắng ráo, các
con có thể rời ta. Ôi! Mái ngói của ta đang rên lên vì những lời kêu gọi trên
cao, sao các con dửng dưng với bao nhiêu thúc dục bên ngoài?
Mùa xuân, khi hoa cỏ giàu sang, phấn hương thịnh mãn, lời mời
đưa nào đâu rõ rệt thế này. Và bây giờ nắng nghiêm gió khắc, sự biệt ly lại hiện
đến trên đường lót chông gai ngăn bước của chân non.
Những cậu học sinh, mấy năm nay điệp lẫn với thái bình của
bàn của ghế, cũng đã bắt đầu thành những người Do Thái phiêu linh. Tôi thấy các
cậu, vào những giờ học, ngồi thừ bên sách vở, mắt mờ đi, huyễn hoặc bởi hạt ngọc
vô hình của đôi điểm không gian.
Vâng, cũng có đôi người mơ đến một cảnh nhà trên núi đồi nào
đó, nuôi sống bởi dăm ba mẫu ruộng, một sức trâu hay một sức bò. Đôi người mơ đến
sự cầm tù có lương trong một mái sinh nhai nào đó, làm nô lệ tháng ngày cho cái
đồng hồ ông chủ, rút bớt không gian hầu yên tĩnh với thời gian. Nhưng rất đông
là mơ rời bỏ gia đình, làm thia lia vang bóng cho sự rời bỏ nhà trường. Họ sẽ lấy
độ đường dài làm nóng bánh xe lăn (trai trẻ vốn đang thèm sức nóng).
Do Thái giang hồ, họ không nghĩ rằng ngày kia rồi sẽ trở về
nước cũ. Những quả tim thơ dại kia ơi, đã là con chim bồ câu trắng thì không
nên ra khỏi chuồng chim. Bùn dơ sẽ làm bẩn hết lòng mi cho đến lúc lòng mi cùng
với bùn dơ lẫn kiếp.
Vậy thì làm sao, khi chiếc xe của một lưu học sinh chở đồ ra
khỏi cổng trường, lại không có ác điểu của Edgar Poe đâu đấy để kêu lên lời
than đen tối sau này:
- Và thôi, không có gì nữa hết.
Cái ý tưởng đưa ra đây nếu không buồn cười quá: Trước cổng
trường, theo tôi, nên xây một cái tam cấp thật cao. Ngày bãi học, chọn một ông
thầy già ra đứng đấy. Và mỗi người học sinh đi qua trước mặt, lặng yên để nghe
ông ta bảo:
- Con ơi, con đang bước xuống cuộc đời.
Cuộc đời không phải là một cái gì lên cao nữa.
Bây giờ, khi sự biệt ly chỉ còn gang tấc, những cõi lòng đã
bao lâu tê lạnh, cùng cất lên những lời kêu gọi đắm say. Đấy là những mùa hè bừng
cháy với nắng thiêu, êm đềm với bóng mát. Mỗi giờ chơi, các học sinh từng đoàn,
từng tốp, nhưng thường lắm chỉ hai người, dìu nhau đi trên piste của sân trường.
Người cúi đầu nhìn bóng vướng theo chân, người ngẩng mặt lên cao chờ nét mây
bay qua mắt. Bước đi không bao trùm tiếng nói, lời buông ra hạ thấp xuống như
đêm (sự mơ hồ dễ làm hiểu những ý quá xa cách nói).
Buổi chiều, nếu có bạn thân ở ký túc xá, người ta lưu lại độ
nửa giờ, nếu cùng ở ngoài, người ta kéo đến nhà nhau, hay nếu cả hai cùng học
trong trường thì những nẻo vắng, những phòng im được nghe hơi họ thở.
Vì còn một tháng nữa sẽ xa nhau. Một tháng nữa sẽ xa nhau! Tiếng
ấy bay theo gió ở ngoài sân, có ai đưa vào lớp học, một đôi người nghe ở cổng
trường.
Khi ngạo mạn như một lời thử thách. Một tháng nữa sẽ xa nhau.
Có gì lo và có gì đáng nói. Rồi đây chết cả đi cũng được, cùng gặp nhau trở lại
chưa hẳn đã hay gì.
Khi mềm yếu và chỉ là những cánh tay đưa ra cầu khẩn, những
bàn tay rộng mở theo nhịp của lòng.
- Tình thương của tôi ơi! Còn một tháng nữa sẽ xa nhau, hãy mặn
nồng thêm chút nữa.
- Còn một tháng nữa sẽ xa nhau! Nếu không yêu, xin chớ nói
chi sự thật. Cứ lầm nhau trong ảo tưởng hoa sương.
Còn một tháng nữa sẽ xa nhau! Và thôi, thế là không còn gì nữa
hết. Người đi bước xuống cuộc đời. Người ở lại, trên giấy tím viết thư, thay
tên người bạn khác. Những cặp tình nhân bắt nhau thề thốt, bắt nhau hẹn hò. Lợi
dụng thì giờ ngắn ngủi, họ đòi nhau từng chút yêu thương, để lúc vàng đã vào
tay, bỗng nhỏ lệ vì thì giờ ngắn ngủi.
Còn một tháng nữa sẽ xa nhau! Và bỗng một hôm, một buổi chiều
(tại sao cũng cứ buổi chiều?), trường học sẽ nằm mơ thấy cửa mình tự mở, rồi dường
như có ai bước nhẹ trên thềm. Và nằm khoèo ở bốn góc trời, các học sinh, trong
lúc xa xôi trường nhớ đến người, bỗng thương tiếc cây xanh ngói đỏ.
Và bỗng một hôm, một buổi chiều (tại sao lại đến buổi chiều?)
trường học sẽ nằm mơ thấy cửa mình tự mở, rồi dường như có ai bước nhẹ trên thềm.
Và nằm khoèo ở bốn góc trời, các học sinh, trong lúc xa xôi trường nhớ đến người,
bỗng thương tiếc cây xanh ngói đỏ.
Một người nhớ đến một buổi sáng mùa xuân qua từ lâu. Anh
chàng đang ngồi học, bỗng nghe có tiếng lính kéo nhau đi tập ngoài đường. Vội
vàng mở cửa nhìn ra. Và mắt anh ngưng lại bên hè, một đàn bướm đậu. Năm con, mười
con, không, dễ thường nhiều hơn thế nữa – một ngày lễ bướm chen nhau trên một
chỗ đất bằng. Anh chàng lén thầy giáo, viên giấy quăng ra, nhưng hơn mười bận đều
đi sai cả. Giờ chơi, ra đuổi, anh chàng sát mũi vào chỗ đất, để rồi ngạc nhiên
không thấy một mùi hương ngát nào hết cả, quên đi rằng mình chẳng phải là loài
có cặp cánh vàng. Anh đặt lên đấy một tờ giấy trắng, và đàn bướm không tìm ra
chỗ cũ. Bây giờ nằm không, anh ví von một cách khá rẻ tiền:
- Cái gì đã làm mất dấu trường tôi? Hay ai đã bỏ lên đó một tờ
giấy trắng?
Một người nhớ đến một buổi chiều (hình như vương lại từ mùa hạ).
Bấy giờ là sau buổi học, anh bơm xe sửa soạn ra về. Bỗng dừng tay lại, từ
laboratoire gần đấy vang ra giọng bổng trầm của một chiếc harmonica lẫn theo tiếng
hát. Rồi động khung cửa trên cao, hai khuôn mặt đẹp, ngập ngừng giữa lá cây
xanh. Lời ca và khúc hát dìu nhau đi trong mơ màng. Soir de Rafles, J'ai
deux amours… Toàn những điệu đã xưa, giờ đây hồ dễ không một ai nhớ đến. Phút
giây chiều ảo não của âm thanh đã đưa anh về những ngày tháng xa mờ: Chiếc hôn
yêu lúc mới vào trường – một cuộc hòa nhạc năm đệ nhất niên – một người hay đi
mà hát dưới bóng thông… Những kỷ niệm đứng buồn trong sương của trời dĩ vãng.
Mỗi người giữ một hình ảnh riêng, và đó là cái trường của họ.
Riêng tây như một linh hồn.
Tất cả lòng thương, tôi đem ra thương hại lấy tôi. Vì một
tháng nữa đây, tôi bỏ trường mà đi.
Bỏ trường mà đi! Bỏ trường mà đi! Ô hay! Không một ai kêu mà
bỗng nghe như vang dội!
Ô hay! Không một ai kêu mà bỗng nghe như vang dội!
Cảnh trường đẹp đẽ của ta ơi! Ngày mai ta sẽ bị lùa ra – dù
muốn hay không – ở giữa chỗ ô uế của cuộc đời. Ngồi vào bữa tiệc đời, dễ gì vui
với đôi cái vỏ dưa. Thường lắm là – như lời của nhà thi sĩ Pháp – người ta làm
những hình ma để khách đồng bàn đánh rơi chén đũa.
Người ta không thể, nụ cười ánh ở trên môi, nói dễ dàng như
buổi xưa kia ngồi bên cửa sổ: “Hạnh phúc nào có khó gì. Chỉ cần nhận biết màu
xanh của da trời và sắc hồng của cành đào đang hé nở.”
Kể ra thì trời cũng xanh luôn đấy chứ, và nếu chịu khó đi vào
miền Nam, hoa đào hồng ở đó nở quanh năm! Nhưng hỡi ôi! Sắc màu làm sao đi đến
con ngươi, mắt người ta bây giờ không còn trong sáng nữa.
Các em rất gần gũi của ta ơi! Hãy giơ tay lên để tôi xem đến
bao nhiêu thì sự cách xa làm các em lẫn với sắc trời. Những lời hò hẹn khó khăn
lắm mới quấn gót chân đi, và khi về đến cổng nhà, bao nhiêu trẻ thơ của các em,
tôi sợ e gia đình cướp mất.
Riêng tôi về trong một cái thành hẻo lánh quạnh hiu. Bỗng một
sáng nào, tôi thấy nhớ cảnh trường đã cùng các em rời bỏ. Một chiếc vé tàu, mấy
xu xe kéo, và này đây tôi ở giữa cảnh xưa. Nhưng lạnh lùng, vắng vẻ biết bao
nhiêu! Người ta chú ý đến giày mũ của tôi hơn tấm lòng tôi mang đến đó. Người bạn
thân yêu nhất có lẽ chỉ khác mọi người ở chỗ cái riết tay hơi chặt mà thôi!
Nhưng nếu sự tình cờ nào lại lùa chúng ta trở về đấy cả, sự
tiếc thương vẫn không thôi cào cấu lòng người. Lạc đi trong bốn phương trời,
chúng ta đã học được những tiếng nói dị kỳ, cái máy móc của cuộc đời làm sự
ràng rịt chúng ta sai mạch lạc. Ai nhớ chi người! Ai thương chi cảnh! Lòng ta
mơ chỉ là mơ một tuổi đã qua rồi.
Nhưng tôi tưởng buồn bã hơn hết chỉ có cảnh sau này:
Một ngày kia, cột cho mụ vợ, người ta sẽ đóng tôi vào ẩm mục
của gia đình. Chiều nào nhắc ghế ra sân, tôi ngồi nhìn mây bay gió thổi. Trời
cao tột mấy từng trời, núi xa xanh không hiểu nghĩ suy gì bỗng thâm màu lại. Và
cũng chẳng hiểu vì sao, thiết tha không gian lại làm tôi nhớ đến nhà trường.
Vài giọt lệ rơi châu trên mí mắt. Vợ tôi ra gọi vào ăn cơm tối, thấy nước mắt
tôi, người sẽ nghĩ làm sao? Ai đến trả lời cho tôi rằng tôi nhớ cái trường lúc
đó.
Một đứa con nữa ra đời, một cái quả để còng đầu tôi xuống tuổi
già của tâm hồn cũng như của thể chất. Và chẳng may trưa nào đó, một trong những
người thường biết cánh tay tôi lạc vào bình yên ẩm thấp của gia đình tôi. Một bữa
cơm ngon, một chiếc mùng dọn sạch, thau nước sau khi họ thức dậy, bạc vài đồng
để tiễn họ đi xa.
Và khi người phái bộ của dĩ vãng đi rồi, tôi sẽ kêu con tôi để
bảo:
- Đó là một người bạn thân, xưa kia thầy ở nhà trường.
Bạn thân mà thôi. Chữ bạn yêu, đã lâu, lâu rồi, người già
không dùng đến nữa.
Ôi! Bỏ trường mà đi! Bỏ lòng mà đi! Hỡi những học sinh, khi
ra khỏi trường, nhớ vứt trả sách vở cho những tên cu-li canh cửa. Không phải lo
mai sau nhớ lại, nhưng sợ rằng góp nhặt bao nhiêu vẫn chẳng gợi nên vết tích
gì. Cũng đừng hiểu lầm để thở than khi lưu luyến cổng trường: “Kỷ niệm sẽ bị
chôn sâu trong trí nhớ.”
Không! Không! Xác chết thường hay lấy lại được hồn. Hãy nói rằng:
“Kỷ niệm đã đem nhau ra khỏi cửa hồn, và cuộc đời gian xảo lấy bạc vàng để đánh
lận của ta bao nhiêu hương và sắc.”
Ôi! Ngoài kia nắng cao muôn trượng, gầy gầy trời xanh mở giữa
cô liêu. Cây trong sân rẽ lá cho gió thổi một nguồn tươi. Tiếng chim sẻ rơi
thành muôn vàn chấm nắng… Chỉ một chốc nữa thì giờ chơi, các học sinh sẽ đi qua
trên những lớp sỏi mòn, và sân trường lại phủ thêm một lần kỷ niệm.
CHẾ LAN VIÊN
Hè 1939 - Collège Quy Nhơn.
Nguồn: Cô Tuyết Mai sao chép và gởi tặng dịch giả Trúc
Huy tháng 10 năm 2003.
[Ghi chú: Bản văn này, do tác giả nhuận sắc lại và thêm một
ít đoạn mới, có hơi khác so với nguyên bản đã in trong tập văn xuôi VÀNG
SAO do Tân Việt xuất bản năm 1942]
BÔNG HỒNG CÀI ÁO
NHẤT HẠNH
Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương.
Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con
trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì
cũng không “lớn” lên được. Cằn cỗi, héo mòn.
Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký: “Tai nạn lớn nhất đã
xẩy ra cho tôi rồi!”. Lớn đến mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy
bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, bài thơ ca tụng
tình mẹ bài nào cũng dễ, cũng hay. Người viết dù không có tài ba, cũng có rung
cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm,
ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ.
Những bài hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có.
Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ
đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài thơ ấy thì sợ sệt, lo âu... sợ sệt lo âu một
cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chưa chắc chắn phải đến:
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời!
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội
trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi.
Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng
của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ
chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình
mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn
sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta.
Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? hay là
tơ trời đâu la miên?) trên trán nóng ta và than thở “khổ chưa, con tôi”, ta mới
cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối
ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình
mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy
không bao giờ cùng tận.
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi
tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng
nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu.
Nhờ mẹ mà tôi được biết tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi biết được
thế nào là tình nhân loại, tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về
đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý thương yêu của
tôn giáo vốn dạy về tình thương.
Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em
bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần
dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh
Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức
mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi.
Mà từ yêu thương tín ngưỡng và hành động thì không xa chi mấy bước.
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ
(Mother's Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một
ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Đông Kinh, nửa đường gặp
mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy
Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài
vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng
không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ
nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết
đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông
hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ
được cài trên áo một bông hoa trắng.
Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân.
Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có
được cái tự hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ
thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ
thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một
mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài
hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu
Lan.
Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta
không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời
tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới
nói: “Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ
được mặt mẹ!”. Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi.
Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy.
Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì
con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp.
Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn
kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: “Thật
như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!”
Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy
vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ.
Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật
kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm
tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?”
Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt
mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ
không?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi
người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ
sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất
diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Kiền
Liên và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu
cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương Tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi
cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng
do tình thương mà có; không có tình thương hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng
về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ rồi. Cần chi nói đến bổn phận.
Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận.
Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước.
Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn
phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát
thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ
cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là
con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: “Con mà thương
mẹ thì phải làm thế nào?” Tôi trả lời: “Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng
lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi”. Bây giờ thì tôi biết rằng: Con
thương mẹ thì không phải “làm thế nào” gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi,
đủ hết rồi, cần chi phải hỏi “làm thế nào” nữa!
Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà
nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương
mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một.
Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt hại cho chị.
Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở
rằng: Đời ta không còn gì cả. Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ
chăng có làm Ngọc hoàng Thượng đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng.
Nhưng tôi biết Ngọc hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc hoàng là đấng tự sinh,
không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.
Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng nhẽ chị tôi
không đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà
đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu, người thì
đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ
tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi.
Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi
giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói: “Mười tám năm trời
nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một
nhà khác”. Chị tôi gục đầu xuống mâm khóc. Chị nói: “Thôi con không lấy chồng nữa”.
Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. “Cắt ái từ
sở thân” là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời
khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi
cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự
chọn lựa nào mà không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn
làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu nhưng tôi tiếc
và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng
quý báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được
ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.
Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: “Không nên đuổi theo sự
nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ!” Tôi đã nói là tôi không khuyên răn gì hết –
tôi không giảng luân lý đạo đức – rồi mà! Tôi chỉ nhắc anh: “Mẹ là chuối, là
xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương”. Để chị đừng quên, để em đừng
quên. Quên là một lỗi lớn: Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi.
Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào
túi áo anh một bông hoa hồng: để anh sung sướng, thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh, như thế này. Chiều nay,
khi đi học hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng
và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi.
Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ, để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang
sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý.
Anh hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nhìn anh, vừa cười
vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi
tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời.
Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi, thì anh cũng hỏi một
câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng,
sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, Anh sẽ không hối hận,
đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.
Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh
hãy ca, chị hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đoá hoa mầu
hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.
NHẤT HẠNH (1962)
- Bản dịch Anh ngữ A Rose For Your Pocket xin mời đọc
ở đây.
BUỔI CHIỀU HẰNG CỬU
TRẦN HỒNG CHÂU
Thành phố trong hồi tưởng: một công nương
Nghiêng mắt biếc kỷ niệm trải mưa hoa…
Thành phố cũng như một người thân thuộc. Sống gần nhau, gặp gỡ
hàng ngày, vào ra đụng chạm, ta coi sự hiện diện của người quen, của tha nhân
bên cửa sổ, như một yếu tố hiển nhiên, bình dị, không có gì đáng nói.
Bỗng vào một hôm nào, một giờ nào đó, ta chợt bắt trên khuôn
mặt quá quen thuộc, bình thường của cô hàng xóm, một nét đẹp bất ngờ. Nắng quái
chiều hôm, lúc đó, có thể viền một lớp vàng diệp lên mái tóc cô gái làm ta cảm
động đến rạo rực, bồn chồn, vì nó có vẻ “mây” hơn, “suối” hơn. Hay, vào một buổi
sớm, thoảng gió heo may làm se người và rụng tả tơi mấy chiếc lá vàng không thể
thiếu được trong một cảnh thu cổ điển, ta bỗng thấy mắt cô bé “ướt” hơn, “sầu mộng”
hơn. Và ta hối hận vì ngày thường trong cuộc sống vội vã, dồn dập, đã để trôi
qua mất những phút giây quý báu, đáng lẽ phải được dành cho những khám phá trân
trọng, những nâng niu đượm tình người hơn. Ðối với cảnh cũng như người. Ta có
thể sống bên bờ sông Hương hay những đồi thông Ðà Lạt mãi mãi, hoài hoài, cho tới
lúc ánh mắt mòn dần đi, chai lì đến dửng dưng, làm ta quên hẳn cái diễm phúc,
cái ân sủng lớn lao là đã được gần gũi những kho tàng thiên nhiên, tràn đầy
hương sắc trần gian…
Cho nên sống gần như đòi hỏi một cảnh giác, một khẩn trương,
một tái tạo thường trực. Luôn luôn tìm kiếm, khám phá trong cái “không có gì”,
luôn luôn giữ mãi cái tươi mát, mẫn cảm của tâm hồn trước những phong cảnh vật
chất và tinh thần đẹp, vốn vẫn có tiềm lực đánh thức nguồn cảm một cách mãnh liệt.
Luôn luôn giữ được ánh mắt hồn nhiên, trong sáng của đứa trẻ thơ. Ánh mắt đi thẳng
vào trung tâm sự vật. Ánh mắt “thấy”, chứ không phải “nhìn”. Ánh mắt khám phá
và tái tạo sự vật. Luôn luôn giữ được khả năng xúc cảm lớn lao và niềm kinh ngạc
thường xuyên của người tiền sử đứng trước một vũ trụ băng trinh, mới mẻ…
Sống là một nỗ lực, từng phút giây, để khám phá, để bâng
khuâng rạo rực, để giữ mãi cho tâm hồn sức trẻ, sáng tạo và năng động. Luôn
luôn trắc nghiệm lại khả năng cảm và nghĩ, khả năng sống của tâm hồn. Luôn luôn
mở to mắt, sẵn sàng thức tỉnh. Ðể thâu góp, lĩnh hội và cảm thông muôn vẻ đẹp,
rơi rớt trên những đại lộ trần gian với rất nhiều đường ngang ngõ tắt, rất nhiều
đổi biến thời tiết và sắc màu, trí thức cũng như tình cảm.
Những vẻ đẹp chào đón, phô bày, nhưng đồng thời cũng giấu kín
trong thẳm cùng những cấm thành của lạnh lùng xa cách… Tùy theo góc độ nhìn,
tùy theo ánh mắt và “nền” tâm tư ở hậu cảnh. Một vật đẹp muôn năm vui. Ðẹp
bao gồm tất cả và luôn luôn gắn bó với con người, một tổng thể phức tạp trong
đó tốt xấu, thiện ác, thiên thần và quỷ dữ, phi lý và hữu lý, hàng ngày gặp gỡ
nhau, trò chuyện, hòa hợp, phân tán, cách ly, rồi lại hòa hợp, phân tán để dòng
đời mãi mãi trôi…
Ðã là người thì cái gì liên quan đến con người đều không xa lạ
với tôi… Thành phố là cái nôi của con người thời đại. Tôi chấp nhận tất cả những
nụ cười và nước mắt trên khuôn mặt thành phố, được tạo dựng bằng tất cả sắc
hình của dịch biến và hằng cửu.
Năm tháng qua, như nước chảy dưới cầu Khánh Hội, như mây bay
trên mười tám thôn Vườn Trầu, tôi vẫn không hết ngạc nhiên, xúc động đến thảng
thốt, mỗi khi mưa Sàigòn bủa vây, tới tấp, hay khi nắng Sàigòn nung nấu đến
rùng mình cả một bầu khí quyển siêu thực, vàng ánh như tranh Van Gogh với cái
chói chang bỏng lửa của trưa hè, đúng ngọ. Mỗi khi hoa mai bừng nở ở Minh Phụng
hay khi con đò Thủ Thiêm đủng đỉnh bắc cầu cho những Sâm Thương thời đại. Mỗi
khi sông Nhà Bè bồn chồn nước chảy chia đôi hay khi tấm lòng son những
trái dưa Hà Tiên bằng ngọc thạch được giãi bày trên lề đường đi về cầu Ông Lãnh
trong những ngày đầu xuân.
Dưa đỏ, mai vàng… Nhớ lại không khí Tết, gần gũi cũng như xa
vắng, gắn liền với hai màu tượng trưng, đang dàn trải trên phố phường Sàigòn. Ðỏ,
vàng… Máu đỏ, da vàng…, điểm xác minh cũng như nhận diện của lịch sử và giống
nòi. Vàng, son… sắc màu của những cung điện tâm hồn và ý thức nghệ thuật.
Trái dưa là chứng tích bình minh dân tộc với sức sống mạnh và
lòng tin yêu, lạc quan không gì lay chuyển nổi của thời dựng nước. Cành mai
thanh tao, thân hình uốn lượn, đơn sơ và khỏe. Vừa khắc khổ, đạm bạc, vừa rực rỡ,
lãng mạn. Nói lên khí phách người quân tử “thế gia thanh bạch tỉ sơn mai”, một
mình đương đầu với cái đa số, có khi a dua, sai lầm, phi lý. Nói lên cốt cách
nghệ sĩ, có thể cương nhu, đậm nhạt, ở những thời và không gian khác nhau,
nhưng luôn luôn bảo vệ được sinh mệnh tinh thần của mình trong tư thế mắt sáng,
đầu ngửng cao.
Hai sắc đỏ vàng nở rộ trên đường phố đô thành có nghĩa là mùa
xuân đã tới, không một lần lỡ hẹn. Cũng như tiết điệu và ý lời những bài thơ
xuân từng vượt qua trường thành của thời gian và quên lãng. Xuân giang hoa
nguyệt dạ hay Xuân nhật túy khởi ngôn chí…
Dưa đỏ, mai vàng trên đường Nguyễn Thái Học và Trần Hưng Ðạo.
Xuân về đúng chu kỳ, chính xác như một định lý toán học. Ðồng thời cũng biện
minh cho một nhận định tâm lý: sắc màu, âm thanh thường quấn quít, đan xen
trong một tổng thể hồi tưởng đa dạng. Quá khứ thường trở về trên đỉnh trời âm
và sắc. Vì đó là hai chất xúc tác, khơi động, gợi nhớ… Là tố chất không thể thiếu
được của cái bản thể cái đã qua, dù ở thời điểm nào.
Mùa xuân đã trở về với dưa đỏ, mai vàng và tiếng ngâm thơ Hồ
Ðiệp, giai điệu muôn màu, âm vang trên suốt chiều dài phố phường Sàigòn.
Tôi vốn có duyên với đường Trần Hưng Ðạo. Ðổi nhà mấy phen vẫn
quanh quẩn trong lưu vực của dòng Trường giang thành phố đó. Tôi trầm ngâm nhìn
ngoài bản đồ Sàigòn và trong tâm tư để xác định những điểm “cao”, những địa
linh rải rác khắp dọc “sông”. Ðường Ðồng Khánh hay Trần Hưng Ðạo nối dài, vùng
các khách sạn Ðồng Khánh và Thiên Hồng – Arc-en-Ciel – nhất định phải là hẻm Vu
Sơn, Vu Giáp trong Tình sử và Ðường Thi. Lòng đường bỗng dưng co hẹp lại, nhà
cao tầng san sát, rập rình lớp lớp ngựa xe, từng hồi chao đảo, từng hồi nhấp
nhô như sóng nước Trường giang bị kẹp chặt giữa hai sườn núi đá chênh vênh.
Luôn luôn âm u sương khói phủ – khói phù dung và phạn điếm? – Giống như những
nét mịt mùng, đậm nhạt, rất thủy mặc của vùng cao nguyên Tứ Xuyên, đầy lam sơn
chướng khí và màu sắc u huyền. Luôn luôn chìm trong mênh mông màn khói thuốc lá
thơm và hoang tưởng mùi phấn hương của nhạc chiều luân vũ, gần bên những Tân
Ðào Viên, những Bá Lạc Ðài, những Ðại Thế Giới của một thuở nào. Ðây là nơi đã
từng đốt cháy hơn một cuộc đời, đất hứa của những cảm giác lạ, những giấc mơ
tình ái có nhiều mây và mưa trong vương quốc của nữ thần huyền thoại. Ðây là
nơi, đúng như trong những diễm tình tiểu thuyết cổ điển, ta có thể lên ngôi
hoàng đế một đêm, để sớm mai lại lủi thủi đi bên lề đường, cô đơn, như một Mại
du lang đa tình, hay một thư sinh chưa trọn giấc kê vàng sau buổi lạc đề thi
ngoài cửa khuyết.
Ði xa hơn nữa tới vùng Nancy, mang tên con gái êm đềm của một
vang vọng tình cảm, là đường Cộng Hòa mà tôi tạm gọi là sông Tương chảy vào Trường
giang. Ngược dòng Tương thủy thì tới Ngã Sáu, công trường rộng lớn như một Ðộng
Đình Hồ của những truyền thuyết xưa. Ở đây, có lẽ đã có nhiều mối tình dang dở,
ngăn cách, quân tại Tương giang đầu… Ở đây, tôi cũng có những người bạn lớn
tuổi, đã lặng lẽ ra đi như “tích nhân” của một Hoàng Hạc hay Nhạc Dương Lâu nào
đó, nhất định phải có trên ven “hồ”, bập bềnh sóng vỗ, từng đợt ngựa xe, vào những
giờ cao điểm.
Về phía hạ lưu của đại lộ đổ vào chợ Bến Thành thì cũng là một
vùng Giang, Triết phồn hoa, mặc dầu mặt trái tiêu cực, của nơi thị tứ nhộn nhịp,
bon chen. Ðây cũng là một trong vài tụ điểm của những người đẹp Sàigòn. Một
trong vài vương quốc của phụ nữ đô thành, của những cái gì đem lại một tấm linh
hồn yểu điệu, nồng thắm cho trái tim miền Nam này…
Phấn son, tà áo đỏ, xanh, vàng như cánh bướm, cộng thêm là
muôn ngàn công việc nội trợ linh tinh. Có khi là những bước tản bộ khoan thai,
có khi là những chiếc 403 đôn hậu, trang nghiêm hay Dauphine nhẹ nhàng, diêm
dúa. Có khi là những chiếc Solex bé bỏng, tưởng chừng như có thể ôm lọt trong
vòng tay cả nữ chủ nhân lẫn giàn xe duyên dáng…
Ai trong chúng ta, ở bất cứ tuổi nào, mà chả có lần rung động
trước những ánh mắt, nụ cười chợt thoáng gặp ở vùng trung tâm Sàigòn? Và chắc
nơi đây cũng từng in dấu ấn ngậm ngùi hay chua xót của hơn một mảnh tình, mong
manh như cát bụi đang chìm nổi trong không gian Sàigòn hai mùa mưa nắng:
Hôm nay tôi buồn hỏi
gió hỏi mây
Bước chân em lưu lạc phương nào hay vẫn vào
ra sáu cửa Bến Thành?
Những bước chân đó tôi đã từng theo dõi trong mấy phiên chợ Tết
của một mùa xuân xưa cũ. Tôi còn nhớ gì không? Chỉ biết lúc đó vùng trung tâm
Sàigòn, quanh khu chợ, là cả một biển ánh sáng rập rình, lung linh. Lớp lớp
sóng người, trong vòng tuần hoàn lớn của niềm vui đầu xuân, cùng chen vai thích
cánh, di động, bao vây chợ Bến Thành trong vòng tay lớn của tuổi trẻ đô thành…
Hiện thân của nhiệt tình và hoan lạc… Cầu vồng của bánh mứt,
ruợu ngọt. Cầu vồng của trái cây, hoa lá. Cầu vồng của những tà áo phất phơ hay
bó chặt những khối hình và đường cong nhịp nhàng. Cầu vồng của những cảm nghĩ
mông lung có lẽ chỉ là hương phấn, tràn trề như một đàn bướm say, tung cánh
phơi phới khắp mọi nẻo đường… Tưởng như đang đi giữa phố phường Kim Lăng đêm
Nguyên Tiêu, đại hội hoa đăng, của Hồng Lâu Mộng với bóng dáng những
Ðại Ngọc đa sầu và những Bảo Ngọc “chân bước đây mà lòng ở nơi nao”. Tưởng như
chàng tân khoa của Tùy Ðường vừa vứt xong gánh nặng trường ốc, thì đã bị cuốn
hút ngay vào dòng sông ánh sáng của dạ hội Trường An đầu xuân, lớp lớp đèn lồng
và liễu xanh, quanh co đưa tới những vương phủ đài các, với hơn một kỳ ngộ diễm
ảo như trong mơ.
Chiều và đêm xuân Sàigòn có khả năng biến hóa như thế đó! Những
đường nét sắc cạnh gồ ghề, thô lậu của thực tiễn đã được gọt giũa, trau chuốt để
tất cả dần dần chỉ còn là nhạt nhòa sương khói, trong những kích thước rộng mở,
đưa đẩy dần dần vào vùng trời huyền diệu. Cái huyền diệu của sự vật hàng ngày
quanh ta. Cái đẹp của con sông nước chảy đôi dòng, chập chùng giao thoa giữa thực
và hư, giữa tỉnh và say…
Buổi chiều Sàigòn có cái gì rất là độc đáo, ấy là ngọn gió
mát thổi nhẹ từ bến cảng vào.
Ngày có thể như lửa bỏng nung nấu, mọi vật chìm đắm trong bực
bội và uể oải, nhịp sống thành phố như chùng hẳn lại, nhưng khoảng năm giờ chiều
trở đi, cơ thể Sàigòn lại dần dần hồi sinh. Từng lớp người lại đổ ra đường lo
công chạy việc, đi hóng mát hay ngồi trước cửa, dông dài trò chuyện, rồi ngắm
nhìn khách bộ hành, cuối cùng, không còn gì nữa, thì ngước mắt nhìn trời, mây,
chờ đợi màn đêm từ từ hạ xuống thành phố…
Ngoại cảnh thì thế, nhưng ngõ dọc đường ngang của tâm hồn thì
thật là khó lường. Có hôm, chẳng hiểu vì sao, ta buồn chán, cau có, gắt gỏng,
thấy đời hoàn toàn đen tối, có hôm cũng vào giờ đó, cũng chẳng hiểu vì sao,
lòng lâng lâng như bay bổng chín từng mây, sẵn sàng mở rộng, đón mời tất cả với
một nụ cười ưu ái, với một cặp kính hồng chiếu lên toàn thể sự vật trong cõi đời
này.
Chiều hôm nay cũng vậy. Hình như có một động lực tích cực nào
đó thúc đẩy, một dòng suối yêu đời nào đó, cuồn cuộn giữa hai bờ sỏi đá trắng
muốt và cỏ thơm, ào ào đổ xuống hồn tôi, thức tỉnh những tiềm lực, những điện
năng còn ủ ấp trong sâu kín, để cuối cùng tỏa ra như một bừng nở không gì ngăn
nổi. Tôi mở toang cửa, hát nhè nhẹ – tuy tôi hát rất dở – rồi hào hứng ra đi để
mặc dòng người và đôi chân lôi cuốn trong một buông lơi, một thả lỏng, yêu đời
và tràn ngập độ lượng, thiết tha. Dĩ nhiên tôi lại giong buồm lái xuôi theo
dòng Trường giang mến yêu, dừng chân trên tất cả những bến nước đợi chờ, đã từng
in dấu vết tâm hồn của người lãng tử vẫn quen mỗi ngày, mỗi ngày, làm một cuộc
viễn du trong lòng thành phố.
Tới góc Ðề Thám, tôi rẽ sang đường Bùi Viện để rơi ngay vào
“Ngã Tư Quốc Tế”. Cũng chẳng hiểu vì sao. Tại có người quen ở đây, tại chợt nhớ
âm vang não nuột của mấy câu vọng cổ, hay chỉ tại theo đà nhịp chân “lạc bước
phiếm du một buổi chiều”?
Không biết người nào đầu tiên đã dán chặt nhãn hiệu “Ngã Tư
Quốc Tế” lên khu vực này. Có lẽ phải nghĩ đến một Rond Point des Champs Elysés,
một Piccadilly Circus hay một Times Square…, màu sắc, nhộn nhịp và rực rỡ ánh
đèn đêm. Nhưng không, đây chỉ là một ngã tư nhỏ, rất nhỏ. Lòng đường, lề đường
co ro thu hẹp lại, với những mảnh tường ám khói, những gánh bánh canh, mì, phở,
những chiếc chõng nhỏ đầy đồ nhậu nhẹt: ốc, hến, mực khô, trứng lộn muối tiêu
và những trái cóc gọt vỏ, trầm ngâm trong một thứ nước xanh vàng rất khả nghi,
như một đoàn tàu bị đắm chìm từ hồi xửa hồi xưa, trong một Thanh hay Hoàng Hải
nào đó… Gần bên là miệng cống tối đen, nồng nặc như hang mãng xà tinh trong
truyện Thạch Sanh và những dòng nước đen bóng bên lề đường rác rưởi, nơi tụ tập
của mấy lũ trẻ bụi đời.
Thế đấy! Cũng như hàng chục, hàng trăm ngã tư khác của Sàigòn
thôi. Nhưng, đây là “quốc tế”, chẳng hiểu vì sao, đây là “danh trấn giang hồ”,
vì là cửa hậu một nhà hát, là nơi lui tới thường xuyên của nhiều tên tuổi trong
làng hia mão, cải lương… Quần chúng bình dân Sàigòn dễ dãi, xuề xòa lắm! Chỉ cần
la de và vọng cổ sáu câu thôi. Và ngày đêm có bao giờ họ lại không tạt qua đây
để gặp bầy con cưng của sân khấu: Thanh Nga tài sắc vẹn toàn, Bạch Tuyết cải
lương chi bảo, kiều nữ Bích Sơn, Hùng Cường trẻ trung, đa tài và Thành Ðược với
giọng ca ấm áp, thêm cặp mắt đa tình, lẳng lơ rất đúng mức…
Có một cái gì vừa hỗn tạp, lề mề, vừa đẹp và gợi cảm ở nơi
đây. Tưởng như anh hồn những tài hoa xưa, những “vua” Tư Chơi, những “vương hậu”
Năm Phỉ, còn phảng phất đâu đây, theo làn khói hương từ những bàn thờ Thiên
Quan nhỏ bé gắn bên khuôn cửa một vài căn nhà hàng phố. Tiếng hát “đổ nước” của
Năm Phỉ ở thập niên 30. Tiếng hát “nghiêng thành” của Thanh Nga những năm 60…
Chắc không ít người dân Sàigòn đã đánh dấu nguồn mỹ cảm và cuộc đời bằng hai
cánh hoa sớm nở tối tàn đó, bên cạnh những kỷ niệm đẹp khác. Vì cái đẹp, vì nghệ
thuật là rộng mở, là không biên giới, không thành kiến, là mang mang như mây
gió, không phân biệt Ðông Tây hay mới cũ.
Bóng mây chiều thấp thoáng chở sầu lên quan ải cho lòng ai luống
những ngậm ngùi… Tiếng hát vươn lên cao, nhào xuống như thác đổ, bỗng ngưng lại
trong phút giây, rồi lan tỏa thành một âm ré mineur, vọng ngân, dài dài mãi,
trong đà xuống dốc, như trút hết nỗi niềm nhung nhớ, hầu như tuyệt vọng, của
người “trong cánh cửa” thương “người ngoài chân mây”, ở một thời rất xa xưa mà
cũng vẫn là hôm nay. Không phải tiếng hát Út Bạch Lan hay Ngọc Giàu đâu, đây chỉ
là những âm thanh nhịp nhàng từ miệng một cô gái nhỏ khoảng 15, 17 tuổi, dáng dấp
thợ thêu may hay em bán hoa nhài trong chợ Bến Thành, mặt không son phấn, nhưng
mười ngón chân thì nhuộm vernis đỏ chói pha ánh bạc mờ. Ðấy cải lương đã đi vào
lòng người như thế đó. Và dân Sàigòn buồn vui, mộc mạc, yêu nghệ thuật hồn
nhiên như thế đó!
Nói cho cùng thì, nếu loại trừ cái phần “tạp lục”, công thức
và cường điệu hóa của sân khấu cải lương ra, ta vẫn còn ghi được một điểm son:
đó là âm giai và tiết điệu sáu câu vọng cổ. Nó đi thẳng vào máu thịt nhân dân
vì đã thoát thai từ mảnh đất quê hương thiết thực. Nó không hề bị tác động dị ứng
của tâm hồn Việt như những nhân tố nghệ thuật giả tạo hoặc lai căng. Và, đúng
như vậy, em bé bán hoa nhài, chiều hôm nay, mới là người trình diễn chân
phương, tự nhiên và gần gũi nghệ thuật nhất!
Vùng trời ca nhạc bừng nở những vì sao lấp lánh bắt đầu bao
trùm lên đêm thành phố. Ðêm muôn màu ngàn điệu, mỗi lúc lại rùng mình, bâng
khuâng buồn vui tình bảy mối, theo dòng đời nổi trôi tưởng như vô cùng tận.
Hai chục năm Ngã Tư Quốc Tế. Năm mươi năm mê hát… Ðó là những
đầu đề đã có, hay có thể có, của hơn một tác phẩm mô tả cuộc sống hỗn tạp, sinh
động, sạch bẩn, tế nhị, thô lỗ, vực thẳm và trời cao, của Ngã tư này trong một
pha trộn vừa khó hiểu vừa tự nhiên như hơi thở.
Nhưng cái phức tạp phi lý đó cũng chính là hình ảnh cuộc đời
và hình ảnh nghệ thuật, hồi quang đích thực của cuộc đời…
Quả cầu lửa mặt trời đã nghiêng xuống thấp. Gió mát từ sông
Sàigòn đổ ào về, chạy dài theo các phố phường, lúc này chỉ còn là êm dịu và mời
chào. Và đường phố Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do, buổi chiều, đúng là thực phẩm trần
gian đầy hương vị mà đôi tay mở rộng của Sàigòn ngày ngày dâng hiến chúng ta, hồn
nhiên, dung dị, không đòi hỏi thêm một điều kiện nào cả.
Nếu cường điệu một chút thì đây là một thứ Champs Elysées pha
lẫn Rue de Rivoli, một thứ Strand pha lẫn Oxford Street… Tất nhiên là dù thế
nào đi nữa, địa điểm này cũng chỉ phù hợp với khuôn khổ Sàigòn, với kích thước
tâm hồn người Sàigòn thôi!
Ngược đường từ phía Bến Thành lên, qua nhà thương Ðô Thành,
khách thừa lương có thể bước ngay vào Bồng Lai tiên đảo, vào “vườn treo” tên
sân thượng lầu bốn, lầu năm gì đó, bao quát một vùng Sàigòn với từng vầng cây cối
xanh um, lơ lửng giữa trời. Có phải vườn hoa của Babylon xưa, một trong bảy kỳ
quan vũ trụ, đã tình cờ rơi rớt xuống đây chăng? Vào một chiều cao hứng, ta có
thể thưởng thức món Bách điểu quy sào với trái bí tần xanh, trong mướt
ngọc thạch và những miếng thăn gà hạt lựu, trắng nõn như ngà. Hay món Trúc
lâm thất hiền với những lát măng thanh đạm, biểu tượng rừng trúc thâm u và
bảy chiếc nấm đông cô hình dung cho Kê Khang, Nguyễn Tịch và các bạn đồng hội đồng
thuyền, những nghệ sĩ độc đáo và rất “đi trước thời đại” của kỷ nguyên Lục Triều.
Bóng cây che khuất sắc phồn hoa và gạn lọc bụi kinh thành…
Chơi vơi trên đỉnh Bồng Sơn, thực khách có cảm tưởng đánh mất không gian và thời
gian. Mắt mờ say chỉ còn thấy đó đây một đoàn thể nữ, áo trắng tinh, nhẹ lướt
giữa đám đông, khi nghiêng bình rót ly Mai Quế Lộ trong như sương, khi đưa mời
chén lệ chi trắng muốt như nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Ðến giờ hạ sơn, lững thững đi dọc theo đại lộ trở về với thực
tế bon chen, ta có thể dừng chân bên lề phố, nhấm nháp ly nước mía Viễn Đông,
góc đường Công Lý. Nước mía nguyên chất từ lòng một giống mía đặc biệt, thân nhỏ
và ngọt, chảy chầm chậm từ máy ép vào ly với một lượt kem thảo mộc ngọt, bùi và
ngậy, điểm thêm vị thơm của trái quất và cái lạnh mát đúng độ của một cục nước
đá thật nhỏ, “chỉ một cục thôi”.
Ði xa hơn nữa, về phía “tả ngạn” là bánh ngọt Givral. Bánh xốp
nhẹ, không đặc và ngọt sắc như bánh Chợ Lớn. Lớp kem phủ mặt bánh thơm ngậy,
tan nhuyễn trong cổ họng, tất nhiên không làm ta quên được pâtisserie viennoise
– bánh ngọt thành Vienne – của bâng khuâng miền hồi tưởng, nhưng cũng có thể
thuộc loại đứng đầu Á Châu. Cửa kính to, trong suốt, nhìn ra đường, kèm thêm
chén cà phê phin, màu đen nâu như mắt ai, làm ta bồi hồi nhớ lại những chiều học
thi và làm thơ, trong quán cà phê bờ sông Seine, lúc nắng hoàng hôn và lá vàng
bắt đầu rơi rụng trong sương mờ những mùa thu cũ…
Ðôi mắt, cửa sổ linh hồn, vẫn là cái gì sống động nhất trong
thân thể con người. Thị giác vẫn là giác quan “vua”, đưa ta thẳng vào cuộc đời,
vào nghệ thuật bằng con đường ngắn nhất.
Thôi, hãy tạm giã từ những gì vuốt ve nhất đối với vị giác để
đem ánh mắt vạn năng ra chiếm lĩnh trận địa trên một những quãng đường đẹp nhất
Sàigòn, nếu thực ra chúng ta có thể tách rời phức hợp cảm giác và ấn tượng ra từng
khu vực riêng biệt!
Chiều trên hệ thống đại lộ Tự Do, Lê Lợi bao giờ cũng là một
bừng nở muôn màu, một hội hoa xuân tưng bừng. Ánh mắt, nụ cười, màu áo… tất cả
đều là hoa. Vườn hoa của Tuổi trẻ, của Ðẹp và Thơ, vườn hoa bất tận, vườn hoa
luôn luôn di động, đổi thay. Từng lớp sóng người cuồn cuộn chảy trong lòng đường
như không hẹn mà cùng vươn tới điểm trung tâm của đô thành.
Những đôi mắt nhung lụa. Những nụ cười bình minh nắng sớm. Những
luồng điện chằng chịt từ muôn ngàn thế giới tâm linh để kết nên những kỳ ngộ,
những tiền duyên đẹp. Những từ trường thu hút quấn quýt, tỏa rạng từ hơn một lứa
đôi, từ những chuyện chúng mình và thầm thì anh với em… Những dấu
chân trên đường, những ánh mắt phù du đó có bao giờ hẹn ngày tái ngộ? Hay tất cả
rồi sẽ chỉ còn là tích tụ cát bụi trần gian để trở về dòng điện cảm ứng của Ðại
ngã không cùng?
Làn sóng người vẫn cuồn cuộn chảy, lớp lớp hoa xuân vẫn di động
không ngừng trên bờ đại lộ, rưng rưng màu son phấn. Lượt là, nhung lụa… đỏ bình
minh, vàng ráng chiều, xanh bích ngọc, tím hoàng hôn và trên hết là những trắng
ngà lụa nõn, những thanh tân lồng lộng tình lúa mới của tuổi 20. Sau cùng nữa là
những bộc phát chín muồi, những bâng khuâng não nùng của mấy vùng nhan sắc đã
chớm thu, nhưng vẫn vô cùng quyến rũ. Quyến rũ như tấm lòng hỏa sơn rộng mở, cuồng
nhiệt mời yêu, mời viễn du về những vườn táo tiền sử mà hương vị dường như cũng
thêm ngọt ngào. Vì tình ái, như mỹ tửu, có thể có những thời điểm tối ưu, những vintage,
kết hợp cái lịch duyệt trong cuộc sống với cái phong phú chập chờn mưa nắng ở
vùng giao thoa của những đoạn đời.
Ai ra đi trong ánh chiều vàng giữa vườn hoa thanh sắc đó mà
lòng không nao nao gợn sóng như nhấp rượu nồng? Ai không muốn vướng mắc trong
thiên la địa võng, mềm mại và bền chặt, của muôn ngàn ánh mắt đẹp chết người
đó? Có thể coi đây là mực thước phát hiện, tiêu chuẩn và lượng kế của những hiện
tượng tâm tình muôn vàn phức tạp trong những buổi chiều ở trung tâm Sàigòn. Ðất
trời chuyển vận, mỗi năm, mỗi tháng lại thêm một đợt sóng mới dồn dập về nơi hội
tụ. Búp non lớn dần, hé mở tâm tình trong e ấp vào đời, mang tới muôn vàn màu sắc
mới, muôn vàn xúc cảm chưa từng xuất hiện trên bản đồ Tình Ái. Mỗi phân tử phấn
hương như một sắc cầu vồng óng ả, tạo dựng nên bản giao hưởng ánh sáng duy nhất,
ánh sáng huyền ảo của nhan sắc và yêu mê. Hình như thuận với bước tiến thời
gian, mỗi đợt sóng thế hệ lại đẹp hơn, chói đầy sao hơn thế hệ trước. Có phải
đây là sự thực về nhịp tuần hoàn sinh lý của vũ trụ, hay chỉ là ảo ảnh loạn thị
của kẻ đi xa về còn ngỡ ngàng chưa quen với phố phường quê hương…
Một quầng mắt đen hay xanh lơ nhạt uốn theo nét bút chì Max
Factor, một vòng cung làn môi thắm đỏ yên chi, ảo huyền như cung tên dã thần
Tình Ái. Ôi, những phút nhiệm mầu bên bờ hiểm nguy! Chỉ có thế thôi, nhưng lòng
đã chùng lại, lằn chớp nhoáng đã thành ngàn thu và điểm vi mô bỗng nhiên dàn trải
thành những miền không giới tuyến… Son phấn đã tạo nên muôn vàn ảo ảnh, nhưng
thi sĩ vẫn muốn chúng ta tự ru ngủ, tự huyễn hoặc và bằng lòng với thế giới ảo
tưởng đó, coi nó là thực hơn cả sự thực. Từ ngàn xưa lúc người con gái tiền sử,
lần đầu tiên vò cánh hoa hồng thắm, bôi lên gò má và làn môi để “làm đẹp” thì
viễn tổ thuộc phái khỏe của chúng ta đã bắt đầu đi vào mê trận quyến rũ của một
trời son phấn tràn đầy sắc hương:
Cho tôi nghe một ảo
tưởng thâm trầm
Và mặc kệ nếu đó là dối trá!
Hôm nay, trên đường Lê Lợi, giữa dòng người và dòng đời luân
lưu, tôi cũng đi vào đam mê gặp gỡ hậu thân của những nhan sắc mà trường phái
Chi phấn đã tôn vinh bằng những vần thơ Vãn Ðường óng chuốt và đắm say nhất. Có
phải đây là Trường An phồn hoa và cổ kính đã chôn sâu hơn một mối tình Lý
Thương Ẩn? Có phải đây là lớp lớp son phấn hay bụi kinh thành bao phủ cả mấy
góc A Phòng của một Ðỗ Mục ngẩn ngơ trong nội thành Hàm Dương?
Nhan sắc ơi, cây cỏ chói đầy sao, tôi đã bị cuốn vào từ tường
của mấy vùng hương phấn… Tôi đã đi vào những thế giới ảo huyền, thực hơn cả sự
thực để ngợi ca Tuổi trẻ và Tình yêu!
Chẳng hiểu theo áp lực nào của tiềm thức, tôi lại từ Lê Lợi rẽ
sang Nguyễn Huệ. Hai đường phố. Hai cánh tay giao liên. Hai động mạch chuyên chở
những gì là màu sắc và vóc dáng Sàigòn nhất. Gần Tết rồi! Chỉ một sớm một chiều,
đường Nguyễn Huệ đã biến thành một rừng hoa…
Như một chiếu chỉ hay phù phép của Vũ Hậu, mà ý muốn độc tài,
đi xa hơn cả thế giới loài người, bắt muôn hoa về họp đại hội tại thành đô trước
đêm trừ tịch. Như mấy làng hoa Nghi Tàm và Ngọc Hà của tuổi ấu thơ. Gánh hàng
hoa và những cô gái bán hoa. Bước chân đi quẩy gánh nhịp nhàng… Nhạc điệu muôn
đời của đất trời quê hương. Bông hoa “mười thương” gánh vác trên đôi vai mảnh
mai cả giang sơn nhà chồng, cả hương hoa đất nước để cho đời mãi mãi đẹp hơn.
Tất cả là một bừng nở sáng chói. Hương và sắc. Hoa thảo mộc
và hoa biết nói, theo sáo ngữ. Cùng đứng bên nhau. Thân thiết: Nhân diện
đào hoa tương ánh hồng. Lan tỏa, mênh mang: Xuân thành vô xứ bất phi hoa.
Thoạt tiên là thược dược, cẩm chướng, rồi hướng dương cánh mở rộng như một mặt
trời Van Gogh. Tiếp theo là mãn đình hồng với thân cây cao vồng đi nhanh hơn cả
thời gian, với nhụy hoa gieo rắc phấn vàng óng ả của loài hoa nhiệt đới làm bằng
sắc đậm tươi và hương nồng say đến choáng váng…
Nhưng nhiều nhất vẫn là cúc, hồng và lan, những nữ hoàng của
hội họa, của mùa xuân bất tận. Cúc vàng, cúc trắng… đi từ kim cúc bé nhỏ đến đại
đóa bời bời tóc rối. Từ trắng đục, vàng lạt, hoàng anh của Nguyễn Du trong những
ngày Kinh bắc, bệnh hoạn và mai danh ẩn tích, đến vàng cam, sơn mài, của những
cánh vạn thọ ngoài thành Lộc Uyển mà có lẽ Thích Ca đã từng yêu mến trong những
buổi chiều thuyết pháp.
Hồng nhung, hồng quế… tất cả sắc tố đậm nhạt của màu hồng đi
từ nụ hồng tầm xuân đến huyết dụ đỏ tía. Như sắc tố đậm nhạt của những thỏi son
khác nhau đã lần lượt đi trên môi, từ thuở người gái dậy thì khởi đầu biết làm
dáng tới những ngày “mùa thu thiếu phụ” đầy ngậm ngùi và hồi tưởng.
Lan là vương giả chi hoa. Ðịa lan. Phong lan. Yểu điệu. Mảnh
mai. Cánh bướm vàng phơi phới. Hạc đồng nội nhởn nhơ. Chiếc hài vân đong đưa gợi
mùa xưa cũ. Một điểm hồng. Vài bông ngọc trắng rung rinh trước gió xuân ngạt
ngào như nửa tỉnh nửa say. Thế giới của lan là một thế giới mềm mại, gần như yếu
lả, nhạt nhòa, thoang thoảng. Hương sắc, hình hài, thanh âm tưởng như có, như
không. Thế giới ấn tượng của buổi chiều Monet, vầng sáng Pissaro và làn da
Renoir, thấp thoáng, mờ ảo, bấp bênh, có lẽ cũng chỉ được dựng xây bằng những tố
chất đó thôi.
Trong biển hoa Nguyễn Huệ, người và hoa dường như cùng chung
một ý thức về thời gian. Mọi chuyện đều là phù du, hư ảo, sớm nở tối tàn. Hãy sống
với hiện tại, với những gì hiện hữu nhất trong phút giây hiện hữu của ngày hôm
nay!
Có những cặp vợ chồng đi xem hoa như một nghi lễ cuối năm
không thể thiếu được. Ðể nhớ kỷ niệm một chợ Tết xưa. Ðể tìm lại trong rừng hoa
niềm yêu đời và sức sống cần phải có trước lớp lớp ưu tư đang ló dạng ở chân trời.
Có những người tình bé nhỏ, ngồi bên nhau, lặng lẽ ngắt và đếm những cánh hoa
cúc vàng. Dò hỏi về tương lai, đầu năm, theo truyền thống nhân gian? Hay suy
nghĩ về kiếp hoa mong manh để bàng hoàng lo sợ, rồi quyết tâm buồm lái đi ngược
lại dòng sông định mệnh?
Có những chàng trai đi chợ hoa với tâm hồn nghệ sĩ vượt thời
và không gian. Niềm hoài cổ chợt như sóng biển tràn lan… Không biết Thăng Long
xưa vào những đêm chợ hoa ngày Tết ra sao? Trong khuôn viên Văn Miếu lộc xuân
nõn nà có trổ lại nhiều không? Ngoài cửa Kim Mã, trai thanh gái lịch chắc phải
có hơn một cuộc hẹn hò đầu xuân. Những buổi khán hoa và bình thơ xuân trên sóng
nước Tây Hồ tưởng như vẫn còn để lại dư âm và phong vị của ngày xa xưa, khi Lê
Quý Ðôn hay Nguyễn Nghiễm từ những phiên trấn xa xôi trở lại thăm cố đô và các
bạn vong niên mỗi độ xuân về…
Êm ái chiều xuân đến
khán đài
Lâng lâng chẳng gợn chút trần ai
Rồi những hội chùa đầu xuân nữa chứ! Ðâu rồi những Ngọc Hồ và
Quảng Vân Ðình, những Tiên Du và Phật Tích, những cành mẫu đơn và tranh tố nữ Cầu
Ðông? Có lẽ trong lòng thanh niên Sàigòn giữa chợ hoa vẫn còn phảng phất đâu
đây nhiều kỷ niệm đẹp. Kỷ niệm những kỳ ngộ và kỳ tích trong đó hoa thường gần
gũi người, gắn bó với người.
Ðêm khuya trên phố vắng. Chợ tàn. Những xe lam cuối cùng đã
đưa về Bình Triệu, Phú Xuân mấy chậu hoa còn sót lại. Hoa lỡ thời, rầu rầu,
chưa nỡ rời chợ hoa vì còn ngậm ngùi “nhớ nơi kỳ ngộ”.
Gió lạnh thêm. Ðêm trở nên hoang liêu. Những cành hoa chết nằm
la liệt trong lòng đường, bơ vơ, lạc lõng. Bạc mệnh cầm chung oán hận trường.
Có ai nhỏ một giọt lệ thương vay? Có phải đây là oan hồn những vong nữ mà không
một bài thơ đoạn mệnh, không một trang Liêu Trai nào có thể giải tỏa hết nỗi u
uẩn, niềm thương đau của kiếp người và kiếp hoa mãi mãi đắm chìm trong vòng trần
lụy…
Ðường Nguyễn Huệ có nhiều ngõ ngang nhỏ bé dẫn dắt tới đường
Tự Do. Như những cánh tay nối dài của hai người bạn đường, cùng song song nhịp
bước đi về hướng bến Bạch Đằng, hướng của sông dài biển rộng. Ðường Tự Do mang
tính cách biểu tượng giữa trung tâm Sàigòn, là một cấu trúc không thể thiếu được
của hệ thống Bến Thành – Lê Lợi – Nguyễn Huệ – Tự Do… Vẫn là diễm lệ, vẫn là phồn
hoa, chỉ khác là, ở đây, đài các, lắng đọng hơn và mát rượi trong tâm tư cũng
như ở ngoại cảnh nhờ bóng mát ấp ủ xanh rờn của hàng me, lá nõn đang tơ, phấp
phới như đàn bướm non đã từng tung cánh có lẽ từ những thuở Phiên an Ngoại trấn
xa xưa cho đến giờ…
Có những hình ảnh, tưởng như không bao giờ quên, được chắt lọc,
trừu tượng hóa từ thực tiễn cuộc sống đa diện và sôi nổi.
Trước cửa nhà sách A. Portail, một thiếu phụ – tuổi ba mươi
trông mòn con mắt của Balzac và Stendhal – tóc xõa ngang vai thành những boucles
anglaises xoắn chặt lấy trái tim người đời, tay trắng muốt, tỳ mạnh lên
bánh lái chiếc Mercedes-Benz đen bóng như chất sơn mài quý báu vừa thành hình
trong lòng tay sáng tạo của nghệ nhân… Một thoáng hiện, một lướt nhẹ, nhưng đồng
thời cũng là một hiện diện ray rứt, một thôi thúc nồng cháy.
Một làn môi rực thắm san hô… một chiếc áo dài màu lửa đỏ
khoan thai bước ra ngoài cánh cửa lớn phòng trà lầu năm, khách sạn Majestic,
trông thẳng ra bờ sông Sàigòn tàu thuyền ngược xuôi… Chỉ có thế thôi, nhưng qua
ánh vàng ly rượu mạch, nức mùi hoa bố tử, khách đã cảm thấy bâng khuâng như nhà
thơ tiền chiến:
Người đi môi đỏ như
màu áo
Tôi khép lòng trên những cánh thơ.
Có phải đây là hậu thân những nhan sắc thế kỷ trước, những mô
hình “một thương tóc bỏ đuôi gà”, với lớp áo xanh đỏ lượt là, “mớ ba mớ bảy”, với
xà tích ánh bạc và hộp trầu thơm mùi quế chi của thời oanh liệt những Bình di Đại
tướng quân Trương Minh Giảng, những Doãn Uẩn và Thoại Ngọc Hầu? Những người con
gái đó, nước non ngàn dặm ra đi, theo chân chồng con vào vùng đất mới, hết đèo
Ngang mây phủ, lại cọp Khánh hòa rồi sấu Ðồng nai…, qua bao thăng trầm, biến đổi,
đã thành một nguyên tố của cơ cấu nhân chủng địa phương. Do đó, vào đầu thế kỷ,
chúng ta mới có con tem, hộp sáp Cô Ba, cô Ba con thầy Thông Chánh, đẹp tuyệt vời
với mái tóc búi lật ngược, mượt mà, thơm mùi dầu dừa mới thắng. Cộng thêm vào
đó là những người con gái chèo xuồng ba lá, mặn mà, sắc sảo của vùng gạo trắng
nước trong Vĩnh Long, Sa Đéc, Hậu Giang… Và cuối cùng, lại một lần nữa, lớp lớp
“gái thời loạn” từ miền Bắc, theo sóng Biển Ðông nườm nượp ra đi trong khước từ,
trong nhung nhớ, của thập kỷ 50. Ðể tất cả những tố chất đó hòa hợp, đan xen
nhuần nhuyễn, tạo dựng nên chân dung người phụ nữ Sàigòn hôm nay…
Từ thời những sông rạch xa xưa, những Phiên An di cựu
khách của Tôn Thất Thuyết, Án sát Gia Định thành, đến đường Tự Do hôm nay,
bên dãy cửa hàng thời trang và bóng lá me, có ai nghĩ tới những đợt sóng phế
hưng, những ngày binh lửa triền miên, những lớp phù sa thế nhân đã xây đắp nên
khuôn mặt bình thản nhưng trăn trở đau thương của Sàigòn nửa sau thế kỷ?
Thôi, chiều nay cuối tuần, hãy tự cho phép, một lần, quên đi
tiếng gầm trọng pháo và ánh sáng hỏa châu! Ðể chỉ sống trong hiện tại, ly cách
không gian và thời gian. Ðôi lúc, quá mệt mỏi với những phương trình nan giải của
thời thế thì cũng phải tạm dừng chân cát bụi rồi “tắm mát trên ngọn sông đào” trong
một vài phút giây quý báu và hiếm hoi của cõi đời này!
Tâm tư bềnh bồng di chuyển giữa những bình diện thời gian
muôn màu, muôn vẻ, trong khi chân vẫn ung dung dạo bước trên nền ciment và gạch
bông, chạy dọc theo dãy cửa hàng lồng kính đại hội và ốp gạch men cẩm thạch đã
từng soi bóng bao khuôn mặt đẹp trong những buổi chiều lịch sử của đô thành miền
Nam. Ngọc ngà, đồi mồi, vàng diệp, bạc nguyên chất, sơn mài óng ả, tranh lụa
nõn nà… Tất cả như sống lại, nhiệt tình reo vui, hay u uất sầu muộn, nói lên tất
cả những lắng đọng trầm tư của tâm hồn Ðông Phương. Cây xanh, người đẹp và ngọc
ngà đường phố dài hun hút, óng ánh màu sắc tà huy bỗng dưng làm ta muốn mơ về một mạch
đầu dương liễu sắc của những thâm cung, phố phường. Lạc Dương và Kim Lăng
xưa vốn vẫn tiềm tàng ẩn náu trong những địa tằng đam mê của tiềm thức.
Có những buổi chiều thật kỳ diệu. Bước đi như theo một nhạc
điệu thầm kín, tâm hồn lâng lâng bay bổng như say rượu mạnh. Giờ phút này bất cứ
người đàn bà nào cũng có thể mang vóc dáng một phi tần xưa, một hoa hậu hay
minh tinh màn bạc của hôm nay. Giờ phút này hàng cây ven đường tự nhiên cũng
như tràn đầy nhựa sống một mùa xuân vĩnh cửu. Hoa lá phơi phới, qua làn mi rưng
rưng niềm cảm xúc đắm say, tưởng chừng như vừa bằng lụa mềm, vừa bằng đá quý
trau chuốt, trong những bức tứ bình kim chi ngọc diệp, nơi phòng khách những
danh gia một thuở nào. Và, như một điệp khúc, thấm vào tất cả, vẫn là những giọt
nắng chiều mong manh, chắt lọc qua kẽ lá, dệt thành một màng lưới tơ trời, lung
linh sương khói, dìu dịu, nửa như hiện thực để không xa lìa cuộc sống, nửa như
mờ ảo để gây quên lãng và mộng mơ…
Con sông, phố phường nào cũng đổ ra biển, đi từ những vùng đất
chật hẹp, quanh co, bóng cây và tường thành, ra tận ngoài khơi lồng lộng, gió bốn
phương. Bến Bạch Ðằng ở cuối đường Tự Do chỉ là một bến sông, nhưng cũng là tiền
thân của biển cả, mang vào thành phố những chân trời xa, những vùng đất lạ, đủ
để vỗ về tâm hồn mệt mỏi, tù túng nhất trong vôi gạch thành phố, trong vòng đai
những thói quen và nếp sống cố hữu của cuộc đời ngàn năm mây ngừng, nước đọng.
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá
trắng
Ngồi lên để thả mảnh hồn thơ…
Không có mỏm đá trắng nào cả, nhưng có dãy ghế dành cho khách
thừa lương dọc theo bờ cỏ xén tỉa gọn ghẽ của sân golf tí hon như một đồ chơi
trẻ nhỏ. Cà phê đen, nước lựu đỏ, chanh vàng và những mái tóc xanh kề bên nhau
thủ thỉ lời tâm sự. Ðể khởi đầu mấy bước chập chững vào vườn tình ái, hay để an
ủi, vỗ về nhau, sau những thất bại trong cuộc sống bon chen nơi thị tứ phồn
hoa?
Và, bao trùm tất cả vẫn là gió chiều Sàigòn. Ngọn gió truyền
thống. Từ biển khơi thổi vào hay từ trời cao đổ xuống? Chỉ biết đây là từng đợt,
từng luồng sóng mát, dang tay rộng mở, tung cánh tràn ngập vào thân thể đô
thành, thấm dần vào từng đường ngang ngõ dọc, luồn qua những khung cửa, những
khe tường, đem êm ái, dịu ngọt vào từng phiến đá, bụi cỏ, từng viên gạch, gốc
cây. Ngày nóng như lửa bỏng, nóng đến đá chảy mồ hôi, nóng đến cháy khét mầm
non, nhưng chiều đến là một thế giới khác: cả thành phố chìm đắm trong một biển
gió hiền hòa, mực thước, mơn man, mát rượi như ly chè thạch đen và khóe mắt cô
hàng đỏm dáng đứng sau những chiếc xe giải khát, thấp thoáng dọc theo khắp phố
phường Sàigòn.
Chính vì ngọn gió mến yêu, ngọn gió mang ân sủng và hoan lạc
đó mà, khi chiều về, bờ cỏ bến Bạch Ðằng đã thu hút dân Sàigòn như một vầng từ
thạch khổng lồ màu xanh mướt, gói trọn ân tình của cột cờ Thủ Ngữ cũng như con
đò Thủ Thiêm. Bao giờ cạn lạch Ðồng Nai…
Gió mát. Áo xanh, áo đỏ và những đoàn tàu lớn, mình đen hay
ánh bạc, chập chờn trên sông nước lăn tăn gợn sóng. Những con tàu mang xa khơi
và viễn mơ. Tiếng còi vọng vang, xé nát những tấm lòng quên bước sông hồ, bập bềnh
sóng vỗ, hay đang chôn chân trên bến cảng với hồi tưởng và luyến tiếc. Tiếng
còi giục giã và gieo rắc mộng mơ trong hơn một tâm hồn trẻ đang vươn cánh về những
trời xa, biển lạ. Tôi vẫn ngồi đây trong im lặng, mặc cho gió mát bủa vây như
người thủy thủ già sống bằng hoài niệm, nhưng cũng nao nức, rộn rã xông pha như
chàng lãng tử buổi mới lên đường. Tôi là quá khứ mà cũng là tương lai trong
dòng đời chảy trôi không ngừng, trong những buổi chiều Sàigòn hằng cửu, những
buổi chiều không thể quên…
Gió mát. Màn đêm buông xuống cùng với nhịp lòng trầm trầm lắng
dịu. Lá cây và cánh phù du, chập chờn vùng ảo hóa, từng đàn, từng loạt, xoay
quanh những bóng đèn trắng mờ, mở to như đôi mắt mệt mỏi và ngỡ ngàng vì đêm xuống
quá mau. Tiếng xe hơi, theo đường Tự Do, hun hút nhỏ dần cùng với tiếng giày
khách tản bộ lạnh lùng, đơn chiếc. Cùng với tiếng rao hàng quà đêm, bánh Tô
Châu và mì Phúc Kiến, lanh lảnh hắt ra từ những phố ngang nhỏ bé đổ vào con đường
chính. Nơi đây có những tiệm ăn “bé bỏng”, những hộp đêm bỏ túi với những nữ
chiêu đãi mình cong trên ghế quầy rượu, trong tư thế máy chém mà lưỡi dao sáng
ngời là những ly “whisky, trà Sàigòn”, luôn luôn vơi rồi đầy, rồi lại vơi như
nhịp âm dương biến dịch không ngừng. Trong chừng hạn nào đó, ta chợt nhớ lại đại
lộ Ginza giữa lòng Ðông Kinh hoa lệ với hàng chục đường phố nhỏ vắt ngang. Ðường
son phấn và dạ vũ. Ðể những thủy thủ mới vào nghề có dịp cháy túi, nếu không phải
là cháy cả cuộc đời. Ðể những đêm thế kỷ hai mươi còn mang lại phảng phất âm
vang giấc mộng Dương Châu của những chàng Tiểu Ðỗ, mười năm lạc phách giang hồ…
Tôi vẫn chưa muốn rời đường Tự Do. Chiếc bảng hiệu “Ðêm Màu Hồng”
nổi bật trên đêm màu đen như một lời mời chào không gì cưỡng nổi.
Ánh đèn mờ ảo. Nhạc cụ và nhạc công rập rình như một đàn hồng
điểu hay vẹt rừng xanh bị kích thích tột độ với bộ điệu cồng kềnh, nghiêng ngửa,
như những cột nhà xiêu vẹo trong cơn bão táp âm thanh. Nhưng đây cũng là thế giới
của những nữ vương đắm chìm trong nghiệp cầm ca. Áo xanh, áo đỏ lấp lánh kim
nhũ. Mắt quầng, xanh đậm như tranh vẽ, nàng áo đỏ mắt thuyền dâng ruợu mới.
Môi bừng sáng dưới ánh đèn dạ lạc, môi con gái nhỏ thắm yên chi… Và những
mái tóc uốn chải kỳ khu nhất, với tối đa thời gian và nghệ thuật, thành những
tòa lâu đài mà kiến trúc thay đổi hàng ngày, hàng đêm, theo cảm hứng và thời
thượng…
Nhưng thôi, ta hãy nhắm mắt lại, rút lui về đằng sau những
màu sắc ảo ảnh, phù du của đêm đô thành nhiều dối trá và cạm bẫy, để chỉ chắt lọc
những âm thanh tiếng hát lời ca đẹp nhất. Vì ở đây, trên sân khấu, với ánh sáng
tiền trường trong tư thế chịu đựng, đơn độc, ca sĩ chỉ có thể mang đến cái gì
là thực nhất, thuần khiết, không ngụy tạo “có sao, hay vậy”, không gì che đậy nổi,
và, do vậy cũng chỉ có thể tồn tại được với tài năng đích thực.
Tôi yêu nhất Ðêm Tàn Bến Ngự vừa trổi dậy và được
di động vào giữa đêm màu hồng của Sàigòn. Tìm trăng, trăng khuyết đã lâu…
Những hồi tưởng xa xưa lại thức tỉnh với niềm đam mê của tuổi trẻ, với bước
nhàn du trên những dòng chảy nên thơ của Thuận Hóa chẳng bao giờ tàn phai… Phải
là người nghệ sĩ tài hoa, dòng dõi tác giả Hồng Hồng, Tuyết Tuyết, mới
viết nên những lời đẹp, những nhịp điệu bâng khuâng, sầu muộn đến thế, những lớp
sóng nhạc “buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn”, ray rứt và xót xa đến thế! Phải
là Thanh Thúy, người nữ ca sĩ có giọng hát não nùng, lãng mạn và truyền cảm nhất,
mới đem thẳng được đêm tàn Bến Ngự vào lòng chúng ta. Ðêm nay chỉ một tiếng hát
đó, tiếng hát độc đáo vì tự tìm tòi chẳng giống ai, tiếng hát vọng vang, rung
rinh, thủ thỉ như một cành hoa yếu mềm, đặc biệt con gái sông Hương, điểm thêm
chút làn điệu Nam Ai, chút hương trầm thoang thoảng, chút áo xanh Ðồng Khánh phất
phơ trên những chuyến đò ngang về Nội Thành, và thế là chúng ta đã có Đêm Tàn Bến
Ngự, có tất cả đêm nay!
Tôi yêu nhất Ngậm Ngùi qua tiếng hát bằng vàng diệp
của Lệ Thu, tiếng hát giàu âm hưởng, đầm ấm, mượt mà, trong sáng và cũng nhịp
nhàng, quyến rũ nhất:
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Nhà thơ lúc đó còn ở tuổi trong trắng, cũng trên bờ sông
Hương của dĩ vãng, trước ngày cơn hồng thủy bạo tàn ào ào tới, nhận chìm xuống
vực thẳm những tài năng và nhân cách. Nhạc sĩ lúc phổ nhạc thì đã dày dạn phong
sương trên những nẻo đường đất nước và cũng có những phút nhập thần, nhất là
trong các bài thơ chuyển thể. “Mùa thu đẹp”, người nữ ca sĩ trẻ trung, được
linh thần thanh nhạc chiều chuộng nhất trong thập kỷ này, đã đem điệu ru em từ
đồng ruộng phương Bắc vào đây, đưa làn điệu được biến cải lên đỉnh trời cao nhất.
Ðiệu ru em của mẹ trong nôi và của người tình ngoài cuộc đời. Ðiệu ru em của
hai người đàn bà đã dựng xây cuộc sống tình cảm cho mỗi con người chúng ta. Hai
người đàn bà cơ bản, hai cực đầy hấp lực phi phàm, hai phù tiêu sáng chói trên
dòng đời mỗi con người chúng ta. Trái sầu rụng rơi… Trăm sầu ngàn muộn đã
rũ sạch! Ma lực của tiếng hát nõn nà. Ngủ đi em mộng bình thường! Khách
cũng thấy lâng lâng như đi vào cõi mộng, trong một thế giới vật chất và tâm
linh gần như không trọng lượng, thế giới của vô thức và lãng quên.
Ngoài đường yên tĩnh, gió mát từ bến cảng vẫn từng đợt trầm
trầm, miên man, theo đường Tự Do dài hun hút, len lỏi vào kinh mạch những tâm hồn
đa cảm, lúc chiều đã chìm hẳn vào lòng đêm. Giờ phút này, diện đối diện, ta lại
gặp ta trong vắng lặng, trầm tư. Ánh đèn đường mờ nhạt, nhịp bước đi nhỏ dần. Cung
đàn lểnh loảng giọng hà mô… Nhưng những vọng vang tiếng hát từ “Ðêm Màu Hồng” vẫn
theo dõi như một ám ảnh. Tiếng hát chạy dài trên đại lộ, nhắc nhở, thiết tha,
yêu đương và hờn trách…
Tiếng hát chạy dài trên đại lộ. Một thi sĩ bạn đã nói như vậy
về tiếng hát Bích Chiêu vút qua bầu trời ca nhạc rồi chợt biến, như một vì sao
băng, cách đây có lẽ đã hàng mấy chục mùa xuân rồi! Tôi cũng liên tưởng đến
giai điệu phong phú và óng chuốt của những Thương Huyền, Minh Ðỗ, Ánh Tuyết, những
Hồ Ðiệp, Minh Trang và Hoàng Oanh, tiếng oanh vàng của Bến Xuân thời tiền chiến…
Hàng chục mùa xuân rồi! Lưu thủy thập niên gian…
Không biết giờ đây những người đẹp xưa, những cánh họa mi cũ
đã bay về hướng trời nào, về tổ êm ấm hay vẫn còn bạt ngàn gió bão, hoặc đã âm
thầm và vĩnh viễn giã biệt dải đất trần gian này!… Khách vẫn lặng lẽ đi, mang vầng
trán ưu tư và mái tóc bềnh bồng lẫn vào đám lá me non hai bên đường Tự Do, dòng
sông đêm không bao giờ tắt lửa của Sàigòn. Lòng vẫn còn vương vấn nỗi ngậm
ngùi dài dài bên bờ Bến Ngự hôm nay giữa thành đô miền Nam. Tiếng
hát hôm nay rồi sẽ thành quá khứ, khóe mắt và nụ cười hôm nay rồi sẽ chỉ còn là
kỷ niệm!…
Cố sự và cố nhân… Thành phố trong hồi tưởng. Chiều và đêm
Sàigòn là chất sống, là cấu trúc và nhân tố cuộc đời. Buổi chiều bất diệt. Buổi
chiều đứng ngoài không gian và thời gian. Sàigòn, Sàigòn của những hoài niệm vừa
bỏng lửa nhiệt tình vừa tê buốt não nùng.
Buổi chiều hằng cửu. Buổi chiều của trái tim muôn vàn…
Văn Tuyển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét