Hoa mai - Nhất chi mai
Đã từ lâu hoa mai đã được mọi người chiêm ngưỡng, tượng trưng cho những gì đẹp
đẽ thanh tao. Mỗi khi hoa mai nở rộ là mỗi lúc lòng người hớn hở nao nao, là dấu
hiệu mùa xuân đang về. Hoa mai và ngày xuân là một biểu tượng không thể thiếu
cho phần lớn các sắc dân cư ngụ trong vùng Á Châu. Khi nói đến ngày xuân, người
ta liên tưởng đến ngày đầu năm, thật vậy, ngày Tết Nguyên Đán mà thiếu vắng
bóng dáng hoa mai là một điều thiếu sót lớn mà mọi người trong chúng ta đều mặc
nhiên công nhận. Đã từ lâu hoa mai đã đóng một vai trò quan trọng trong văn học
Á Đông, đó là nguồn cảm hứng của biết bao danh nhân:
Vị
tình lai ký nhất chi mai
Ký nhất chi mai hữu biệt hoài
Hữu biệt hoài chi mai nhất ký
Chi mai nhất ký vị tình lai
(Diễn nghĩa)
Vì tình ai gởi lại một cành mai
Gởi lại cành mai xa nhớ hoài
Xa nhớ hoài cành mai gởi lại
Cành mai gởi lại vì tình ai
"Nhất chi mai" và cũng chỉ "nhất chi
khai" nói lên cái đẹp của một cành mai và chỉ một cành mai nở hoa đẹp tuyệt
vời trong khung cảnh tuyết phủ lạnh lẽo. Nhất chi mai trong bài "Cáo tật
thị chúng" của thiền sư Mãn Giác:
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đêm qua sân trước một cành mai)
Nhất chi khai, chỉ duy nhất một cành mai nở sớm trong bài
"Tảo mai" của Tề Kỷ: Tạc dạ nhất chi khai
Người Trung Hoa lấy hoa mai tượng trưng cho tinh thần và khí
tiết của dân tộc, họ coi hoa mai là quốc hoa. Nghệ thuật thưởng thức hoa mai
phát xuất từ Trung Hoa, sau đó lan rộng sang những nước chịu ảnh hưởng của nền
văn hóa này. Mượn hoa, mượn cảnh để gởi gấm tâm tình của các thi nhân hay chuyển
ý, tải đạo của các vị thiền sư đã trở nên vô cùng quen thuộc. Xuất phát từ
Thiên Quý Thi trong sách Luận ngữ "Ích giã tam hữu" là hữu trực, hữu
lượng và hữu đa văn (Bạn hữu có ích gồm 3 hạng; ngay thẳng, rộng lượng và hiểu
biết nhiều) mà người xưa đã xếp Mai, Tùng, Trúc thành "Tam Ích Hữu"
(Ba người bạn có ích, gọi là Ngự Sử Mai, Trượng Phu Tùng và Quân Tử Trúc). Sách
Nguyệt Lệnh Quảng Nghĩa lại gọi hình tượng ước lệ mai, tùng, trúc là "Đông
Thiên Tam Hữu", Đông Xuân Tam Hữu" hay " Tuế Hàn Tam hữu".
Tuế hàn tam hữu là đề tài chiếm một vị trí quan trọng trong thi ca cổ điển Á
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Mai, tùng, trúc là ba loại cây có đặc tính
biểu hiện cho cái đẹp chân, thiện, mỹ, chịu đựng được sự khắc nghiệt của phong
ba, bão tuyết nên được xưng tụng là Tuế Hàn Tam Hữu. Thiển nghĩ, những người
tiên phong trong việc thành lập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chắc hẳn đã dựa trên
nguyên lý ấy. Trong quân hàm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, các sĩ quan bộ
binh cấp Thiếu Úy trở lên được đánh dấu bằng hoa mai vàng, sĩ quan cấp Thiếu Tá
trở lên được đánh dấu bằng hoa mai trắng, có phải chăng người sáng lập đã ít
nhiều mượn hình thái và bản chất của hoa mai để nói lên cái tính hào hiệp của
người lính trận, tính tháo vát vẹn toàn của cấp chỉ huy giữa trận mạc. Trong cuộc
chinh chiến nam bắc vừa qua, hình ảnh các thiếu nữ miền nam tha thướt trong tà
áo dài trắng, dường như đã gắn liền với bông mai vàng của các sĩ quan tốt nghiệp
trường võ bị. Hình ảnh các sĩ quan trẻ trong bộ quân phục lấp lánh trên ve áo
bông mai vàng là tượng trưng cho những gì oai phong hào hiệp mà thi ca vào thời
điểm đó đã không ngớt ca tụng và lưu lại trong kho tàng văn học nhũng tình khúc
thời chinh chiến bất hủ.
Ngoài bộ Tam Hữu, mai còn kết hợp với lan, cúc, trúc tạo nên
bộ tranh "Tứ Quý" lưu truyền trong dân gian. Chính danh bốn loại
cây "Mai, Lan, Cúc, Trúc" được các vị theo Nho học gọi phóng là
"Tứ quân Tử", nói lên sự yêu quý của họ đối với tứ quý này. Người
Trung Hoa xếp hạng "Quân tử" cao hơn "Anh hùng, Hào kiệt"
rất nhiều. Như ta biết trong Tứ Quân Tử thì trúc đứng hàng đầu.
MAI: là loài hoa nở đầu tiên trong năm, ngay từ tiết Lập xuân giá lạnh, trong
khi những loài hoa khác lại bị héo úa, nên được xưng tụng là "Bách Hoa
Khôi", tượng trưng cho cốt cách thanh nhã của người quân tử.
LAN: còn gọi là "Vương giả chi hoa", riêng Khổng
Tử gọi là "Vương giả chi hương" qua bài "Ỷ Lan Tháo", khi
nhìn hoa lan nở giữa đám cỏ dại. Bởi thế Lan tượng trưng cho người quân tử bất
đắc chí.
CÚC: còn có tên là "Tiết Hoa", không chịu nở cùng
lúc với các loài hoa khác, chỉ nở vào tiết lạnh của mùa thụ Do sự biệt lập đó
mà Cúc tượng trưng cho tiết tháo của kẻ sĩ: không a dua, không siểm nịnh.
TRÚC: "Tiết trực tâm hư" là một loài phi thảo,
phi mộc; bất cương, bất nhu; tiểu dị không thực, đại đồng tiết mục... Trúc tượng
trưng nơi ăn, chốn ở của bậc chính nhân.
Sách vở Trung Hoa đã phân chia thứ bậc cho các giống mai. Quý
nhất là Khánh Khẩu mai, kế đến Hà Hoa mai, Đàn Hương mai, Ban Khấu mai, sau
cùng la Cẩu Đăng mai.
- Khánh Khẩu mai: Hoa mai mọc ở vùng núi cao Khánh Khẩu.
- Hà Hoa mai: Cánh mai giống như cánh hoa sen ôm tròn vào nhụy.
- Đàn Hương mai: Hoa mai màu vàng sậm như màu gỗ Tử Đàn. Hoa mai Đàn Hương rất
nhiều hoa, Hương thơm nồng, nở trước các loại mai khác.
- Ban Khấu mai: Hánh hoa cong cong, khi nở không xòe và hoa hơi cúi đầu.
- Cẩu Đăng mai: Hoa nhỏ, không có hương thơm.
Tên khoa học của hoa mai là Ochna Harmandits. Trên thế giới
có hơn 20 loại hoa mai khác nhau. Riêng tại Việt Nam, có khoảng tám (8) loại mai
gồm Bạch mai, Hồng mai, Hoàng mai, Nhất chi mai, mai tứ Quý, mai Chiếu Thủy,
Song mai và hai (2) loại đã có tên riêng theo trái của nó đó là mơ và mận.
Nhưng khi phân loại theo tính chất của một loài hoa, mơ và mận vẫn được ghép
vào loại hoa mai. Theo phong thủy từng vùng, những cơn mưa phùn trên đất Bắc và
xứ Huế, luôn kèm theo những cơn gió bấc, nên "Đàng Ngoài" có các loại
mai như:
- SONG MAI: Một giống mai đặc biệt, có nhiều ở huyện Thanh
Trì, miền Bắc. Hoa màu trắng muốt, ra hoa và kết trái từng đôi nên được gọi là
song mai.
- MAI MƠ: Còn gọi là Hạnh mai, thông tục gọi là cây mơ. Tên
khoa học là Prunes Mume(Armeniaca Mume), xếp vào họ Rosaceae, có khoảng 300 loại.
Cây mơ cao từ 6 đến 9 mét, lá rộng tròn và dài, đầu nhọn, có răng cưa. Hoa nở
vào đầu xuân, sau đó mới nảy lá, đài hoa đỏ tía hoặc xanh thẫm, hoa thường có 5
cánh với hai sắc: trắng và hồng. Hoa mai mơ sắc trắng còn được gọi là Lục Ngạc
Mai. Hoa kết thành quả, quả khi chưa chín có màu xanh, khi quả chín có màu
vàng. Trái có vị chua ngọt, mùi thơm phảng phất rất lâu. Trái mơ được rim với
đường làm thành ô mai xí muội mà trẻ con và thanh thiến niên không thể không biết
đến. Trong thi ca, ô mai đã đi chung với tuổi vị thành niên như bài "Tuổi Ô mai" (... ten nhạc sĩ), chữ xí muội gọi theo âm Quảng Đông của chữ Hán
Tiểu Mai. Nơi núi rừng quanh chùa Hương, thuộc vùng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, Bắc Việt
có những rừng mơ trắng xóa, phong cảnh này được nhắc đến rất nhiều trong thi ca
Việt Nam như:
"Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi" - Nguyễn Bính
Hay:
"Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái" - Chu Mạnh Trinh.
Tại miền nam Việt Nam ngày Tết luôn rơi vào thời tiết nóng,
vì thuộc khí hậu nhiệt đới và gần đường xích đạo, khác với khí hậu có phần nào
lạnh lẽo như tại miền Bắc, do đó tại "Đàng Trong" ta tìm thấy các
loại mai như mai Chiếu Thủy, Nhất chi mai, mai Tứ Quý, Bạch mai, Hoàng mai, Nam
mai và một loại mới, đó là mai trắng Miến Điện.
- MAI CHIẾU THỦY: là cây đa niên, gốc to, cành nhánh nhiều.
Cao khoảng 1m50. Lá dài, nhỏ, mọc thành đôi. Hoa nhỏ 5 cánh, mọc thành chùm nhỏ
li ti, màu trắng tuyền, có mùi thơm dịu dàng, dễ chịu. Cuống hoa dưới luôn luôn
hướng xuống đất nên được gọi là mai Chiếu Thủy.
- NHẤT CHI MAI: hoa màu trắng pha hồng, gặp ở miền Nam.
- MAI TỨ QUÝ: Loại mai có 5 cánh màu vàng tươi, tên khoa học
là Ochna Astropurpur. Hoa không nhiều, nhưng tự trổ, không cần trảy lá trước.
Loài hoa này được coi là một loại mai kiểng. Vì loài hoa này nở quanh năm, mùa
nào cùng có thể trổ hoa nên còn được gọi là mai Tứ Quý. Ngoài ra còn có tên gọi
khác là "Mai đỏ", nguyên do chính là khi hoa tàn 5 cánh hoa vàng rụng
hết và 5 đài hoa bên dưới liền biến thành đỏ sẫm. Các đài hoa thay vì xòe ra
như trước khi tàn, lại úp vào ôm lấy nhụy, trông như đóa hoa búp vậy. Nhụy hoa
bên trong kết hạt, từ màu xanh khi còn non đổi sang màu đen lúc già, to dần, đẩy
5 đài hoa lại nở bung ra lần thứ hai như một đóa hoa mai màu đỏ, chính vì lẽ đó
mà mai Tứ Quý còn được gọi là Nhị Độ mai (hoa nở hai lần, trước vàng, sau đỏ).
- BẠCH MAI: Cây cao 15m, hoa có mùi thơm dễ chiu như mai Chiếu
Thủy. Hoa bạch mai có dáng như hoa sứ, màu trắng, 4 cánh dày, nhụy vàng, thuộc
loại hoa hiếm. Có ở vùng núi Bà Đen (thuộc tỉnh Tây Ninh), đền Cây Mai
(Cholon), chùa Giác Duyên (Cholon), đình Phú Hưng( Bến Tre), lăng Mạc Cửu (Hà Tiên).
- MAI TRẮNG MIẾN ĐIỆN: Đây là một loài hoa mai lạ, chỉ có ở một
số tỉnh miền Tây. Thân cành như cây mai vàng, lá hơi to, màu sắc nửa trắng, nửa
xanh như lá cây mai trắng Miến Điên. Đài hoa có 5 cánh thuôn dài, bên ngoài màu
xanh nhạt, bên trong màu xam xám. Hoa rất đẹp,10 cánh màu trắng, nở xòe rộng,
to và tròn. Dọc theo cánh hoa có từ 2 đến 3 đường gân nhuyễn nổi lên, trông rất
la. Ngay giữa hoa có chùm nhụy màu vàng nghê, có khi từ 10 cánh, hoa nở thành 12
hoặc 13 cánh.
- NAM MAI: là một loại mai trắng có rất nhiều ở vùng "Nam kỳ lục tỉnh", cũng có thể kiếm thấy ở Thừa Thiên, miền Trung. Đó chính
là cây "Mù U". Cây mù u có tên là Nam Mai do sự tích Nguyễn Ánh (vua
Gia Long) tẩu quốc. Cây mù u có tên khoa học là Ochrocarpus samensis, thuộc họ
Guttiferae (măng cụt). Cây mù u thân mộc, dùng làm cột nhà, cầu khỉ, cối xay
v.v... Lá mù u to bản, dày, kích thước bằng bàn tay người lớn. Trái mù u tròn,
to cỡ ngón chân cái, không ăn được. Hột mù u ép làm dầu thắp đèn(nhiều khói, ít
sáng). Vỏ trái mù u dùng làm gáo múc nước mắm, nước cốt dừa v.v... Gáo mù u càng
dùng lâu càng đổi màu nâu sẫm. Hoa mù u 5 cánh trắng và to như hoa Bạch mai,
cây Nam mai này đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ "Minh Hương" Trịnh
Hoài Đức và các cây bút cùng thời viết nên thi tập "Mộng Mai Đình".
Cây Nam mai này cũng là biểu tượng của "Thi xã Bạch Mai" quy tụ nhiều
tên tuổi ở Nam Kỳ vào thế kỷ trước như Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Trần Thiện
Chánh, Hồ Huấn Nghiệp, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông v.v...
Thi hào Cao Bá Quát trong bài "Tài Mai" có câu:
"Thí tương mai trữ tịch quan sơn"
(Muốn đem hạt mai gieo trồng khắp núi đồi).
Vì hoa mai đã được nhân tài thất thời của thế kỷ 19 nghiêng
mình:
"Nhất sinh đê thủ bái mai hoa"
(Một đời chỉ cúi đầu bái phục hoa mai).
Cây Nam mai cũng được vào thi ca của Cao Chu Thần như sau:
"Phiêu phiêu thùy lệ hướng Nam Mai"
(Rưng rưng dòng lệ nhìn hàng Nam Mai)
Thi sĩ Kiên Giang đã viết "Nện vào lòng tiếng vọng rưng
rưng" qua bài "Theo chân ngoại lượm trái mù u"
... Lượm tiếp ngoại mù u mới rụng
Xe đèn thắp đỡ tối ba mươi
Ở nhà quê nhớ thời đồ khổ
Đèn đuốc mù u vẫn sáng trời
... Móc ruột mù u, chừa vỏ mỏng
Anh làm gáo nhỏ, chơi nhà chòi
Nước mưa, em uống năm, mười gáo
Uống nước nhà quê nhớ suốt đời
... Cây mù u cỗi, người ta đốn
Làm cối, làm chày, giã gạo thuê
Mất ngoại, xa em, buồn héo ruột
Mình anh thờ thẫn dạo đường quê
Đèn mù u, chiếc gáo mù u
Đã lắng chìm trong bụi mịt mù...
- HOÀNG MAI: Mai vàng, còn được gọi là Lạp mai. Lạp là sáp
ong, được ví với màu vàng tươi nhuận của hoa mai. Còn hiểu cách khác thì Lạp
nguyệt là tháng chạp, vậy Lạp mai là loài hoa mai chỉ nở một lần trong năm vào
cuối tháng chạp (tháng 12 âm lịch). Tại Việt Nam, nơi có nhiều mai vàng nhất là
trong những khu rừng thuộc dãy Trường sơn, thuộc các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng
đến Khánh Hòa. Rừng ở các tỉnh cao nguyên cũng có, nhưng ít hơn. Mai vàng mọc
trên rừng còn gọi là "Mai Núi". Mai núi do phải chen tìm đất sống với
những cây khác ở địa thế khắc nghiệt trong cuộc sinh tồn nên dáng cây có vẻ đẹp
đặc biệt. hoa lại có nhiều cánh. Có hoa có từ 12 đến 18 cánh. Một loại mai vàng
khác mọc ở triền cát, rừng ven biển được gọi là "Mai Động". Dáng cây
mai động suông, tròn, hoa ra chi chít, cánh nhỏ. Các tỉnh miền Trung từ Quảng
Bình, Quảng Trị đổ vào, kéo dài đến tận đồng Nai, Tây Ninh, nơi nào cũng có mai
vàng. Hoa mai vàng mọc thành chùm, có cuống dài treo lơ lửng bên cành, ở nách vệt
cuống lá và hơi thưa. Hoàng mai mãn khai sau khoảng 2 ngày thì rụng cánh. Hoàng
mai có nhiều loại khác nhau. Có loại cánh lớn, mọc dày, ngược lại, có loại thật
mỏng manh với những cánh nhẹ tênh. Có loại màu vàng đậm như Huỳnh Tỷ mai, có loại
phơn phớt vàng như mai Tai Giảo v.v... Cây mai vàng trong rừng rụng lá mùa đông.
Cành mai vàng mềm mại hơn cành đào. Hoàng mai chuộng ánh sáng cùng đất thịt và ẩm;
ngược lại hoa không chịu được khí lạnh. Người trồng Hoàng mai thường canh ngắt
lá đúng ngày để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa vào đúng dịp Tết Nguyên Đán. Ngắt
lá là một nghệ thuật vì nếu lá ngắt đi không đúng lúc sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa
nở. Theo kinh nghiệm thì cây mai vàng càng già, hoa lại càng đẹp. Do đó, người
ta rất ưa chuộng lão mai.
Như đã trình bày, hoa mai dường như đã đi sâu vào đời sống,
ta tìm thấy chữ Mai hiện hữu khắp nơi. Các bậc sinh thành thường dùng chữ
"mai" đặt tên cho con cái. Đa số dùng chữ Mai để đặt tên cho con gái,
lẽ đương nhiên có vài trường hợp ngoại lệ dùng làm tên gọi cho con trai. Ta thường
tìm thấy chữ Mai dùng để đặt tên cho phụ nữ như Xuân Mai, Kim Mai, Thanh Mai,
Ngọc Mai, Mai Hương, v.v... Ngoài ra ta cũng tìm thấy chữ Mai dùng để đặt tên
cho một số cơ quan từ thiện như bệnh viện Bạch Mai chẳng hạn.
Trong văn học Á Đông hoa mai đã hiện hữu từ lâu, các danh
nhân ngày xưa đã dùng hoa mai để làm đề tài, như:
Tiền thôn thâm tuyết lý
Tạc dạ nhất chi khai
Hai câu thơ của Tề Kỹ đã vẽ cho ta một thôn xóm với tuyết phủ
trắng xóa, dày đặc, một cây mai ngạo nghễ vươn lên với một cành điểm hoa nở đêm
qua, hôm trước chưa hề có. Nhà thơ với ba chữ "nhất chi khai" đã dồn
hết tâm ý khi chiêm ngưỡng hoa nở sớm, thưởng thức hương sắc tuyệt vời của trời
đất trên cánh hoa mai trắng nõn nà. Khí phách xung hàn của hoa mai gây nhiều cảm
khái là vậy! Hoa mai được nhắc nhở trong thi ca của người xưa, dù ở Trung Hoa
hay tại Việt Nam, thường là mai trắng. Hoa mai nở vào mùa xuân là một hình ảnh rất
phổ biến. Đây là một nét độc đáo trong thi ca, vì bản thân mùa xuân đã là nguồn
cảm hứng vô tận cho các thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ v.v... Trước khung cảnh mùa xuân
với muôn hoa, muôn sắc gọi mời, ai có thể dửng dưng được?. Điển hình là Thi
sĩ Kim Tuấn đã bạo dạn tặng người yêu cả mùa xuân, lời thơ đã lẳng lơ gợi cảm,
đồng gợi hình với những nét độc đáo như: "đường lao xao lá đầy",
"lộc non vừa trảy lá", "lời thơ thương cõi đời", "bầy
chim lùa vạt nắng"... qua bài "Anh cho em mùa xuân":
Anh cho em mùa xuân
Nụ mai vàng mới nở
Chiều đông nào nhung nhớ
Đường lao xao lá đầy
Chân bước mòn hè phố
Mắt buồn vin ngọn cây
Anh cho em mùa xuân
Mùa xuân này tất cả
Lộc non vừa trảy lá
Lời thơ thương cõi đời
Bầy chim lùa vạt nắng
Trong khói chiều chơi vơi...
Mùa XUÂN và MAI là cái duyên keo sơn đã được tạo hóa an bài từ
thuở xa xăm, từ muôn kiếp trước. Trong khi mai trắng được ca tụng trong thi ca
cổ nhân, thì mai vàng xuất hiện khắp nơi trong dòng nhạc thời nay. Tiêu biểu nhất
là bài "Mùa xuân trên cao" của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng:
Trời bây giờ trời đã xang xuân
Anh và mai ngủ bên bìa rừng
Chờ giấc ba mươi mộng ảo
Mùa xuân vẫn đẹp vô cùng...
hay diễn tả tâm tư người lính trận gác giặc nơi địa đầu giới
tuyến, nhìn rừng mai vàng trong bài "Đồn vắng chiều xuân" của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh:
... Ven rừng kín hoa mai vàng
Chợt nhớ tới sắc áo năm nào, em đến thăm gác nhỏ
... Đồn anh đóng bên rừng mai
Nếu mai không nở
Anh đâu biết xuân về hay chưa?
Hay như trong bài "Anh và Mai" của NNguong:
... Như núi rừng trong mùa mai nở
Cùng trần gian thưởng ngoạn mùa xuân
Anh đã mở lòng mình khốn khó
Trải tình yêu ra thưởng ngoạn em
Lòng vẫn biết, mình thân rừng núi
Chỉ quẩn quanh bên cội mai vàng
Mở trái tim mình đem đánh đổi
Một mùa xuân cho kiếp lang thang
Trời bây giờ trời đã sang xuân+
Anh nhìn em, tình yêu thật gần
Mỗi lần xuân đến nhìn hoa :nhớ
Nở trong anh, MAI, đóa phù vân.
"Trải tình yêu ra thưởng ngoạn em"!. Tác giả đã thi
vị hóa người đẹp với hoa mai, hay hoa mai chính là người đẹp? "Chinh là
em"! "Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi" (cách hàng ngàn năm, gặp
gỡ, tâm sự vẫn giống nhau) NNguong cùng một ý tưởng như nhà thơ Lô Đồng, đời Đường
bên Tàu với bài "Hữu Sở Tư":
Mỹ nhân hề! Mỹ nhân
Bất tri mộ vũ hề! Vi triệu vân
Tương tư nhất dạ mai hoa phát
Hốt đáo dong tiền nghi thị quân
(Diễn nghĩa)
Người đẹp này! Người đẹp
Bây giờ là mưa chiều hay mây sớm
Một đêm nhớ nhau, mai nở hoa
Trông thấy hoa trước cửa sổ, ngỡ là bóng nàng
Với ba chữ "Mai cốt cách", thi hào Nguyễn Du đã nói
lên cái cốt cách, cái nét duyên dáng, đoan trang của người phụ nữ. Tao nhân, mặc
khách ngắm hoa mai, không đơn giản nhìn cái màu sắc vàng rực rỡ của hoa, mà là
cái tha thiết, bâng khuâng nơi cái duyên ngầm của hoa, hương hoa Mai. Khi bàn đến
hoa mà không luận đến mùi hương quả là điều thiếu sót. Đã nói đến hoa, thì
hương hoa không thể thiếu. Hương thơm của hoa mai không nồng ngát như Dạ lan,
không âm thầm như hoa Ngâu, không thắm đượm như hoa Hồng mà rất nhẹ nhàng,
thanh cao. Trừ mai vàng phô hương hơi lộ liễu, các loại mai khác có hương rất
nhẹ, khó thưởng thức, phải người tinh nhạy lắm mới cảm thấy vì hương mai là một
thứ "Ám hương". Tiết trời càng lạnh, mai càng tỏa hương thơm ngan
ngát. Nếu tâm tình con người vọng động thì khó mà cảm được hương mai. Như Tề Kỹ
trong bài "Tảo Mai":
Phong đệ u hương xuất
Cầm khuy tố diễm lai
(Diễn nghĩa)
Gió lay nhẹ hương thoát ra
Chim nhìn vẻ đẹp trắng ngà mê say
Làn gió nhè nhẹ đưa tới một mùi hương sâu kín thoang thoảng tỏa
ra, khiến cho chim chóc dòm ngó một vẻ đẹp nguyên vẹn hiện lên. Tư sắc và phong
vận của hoa mai sẵn có, làm bạn với gió và chim muông. Nên Trần Huyền Trân đã
thốt lời tự hỏi
"Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng?"
Người xưa và người nay đều đồng cảm với hương mai, dù cách
nhau bao thế kỷ người có tâm hồn thường gửi gấm tâm tình của mình theo làn
hương thoảng của hoa, gói trọn niềm nhung nhớ thương yêu trên cánh hoa nho nhỏ. Thử đọc bài "Mai Hương" của Hoàng Mai Phi:
Mai cành búp nở chào xuân
Hương vàng nắng tỏa từng cân trên ngàn
Mai em có nhớ tiếng đàn
Hương thơm đừng chất phũ phàng theo mưa
Mai về anh nhớ năm xưa
Hương thầm quyện lối so vừa bước chân
Mai còn lắng đọng ngoài sân
Hương thơm lơ lửng chào xuân hoa vàng
Mai đây em có ngỡ ngàng
Hương thơm đọng lại bóng chàng yêu thơ
Mai em còn nhớ hay mơ
Hương ơi! Hãy nhớ vần thơ anh làm
Mai kia vẫn nở rộn ràng
Hương êm vẫn khép nép vàng dễ thương
Mai hoa còn khép mùi hương
Hương thơm đọng lại liễu nhường hoa mai
Hoa mai không những đã gây rung cảm cho các tao nhân trong
dân gian mà còn tạo được niềm cảm xúc nơi người đã xuất gia. Một bài kệ của thiền
sư Hoàng Bá Hy Vân (Người Phước Kiến - Trung Hoa - 850) có hai câu:
Bất thị nhất phiêu hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương
(Diễn nghĩa)
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương
Chiêm ngưỡng để rồi sau đó có ý tình với hoa mai mới thưởng
ngoạn hết mùi hương thanh khiết của hoa mai. Chẳng biết người yêu hoa mai có
cùng tâm trạng với thi nhân Lê Cảnh Tuân trong bài "Nguyên Nhựt" hay
không:
Lữ quán khách ngưng tại
Khứ niên xuân phục lai
Quy kỳ hà nhật thị?
Lão tận cố hương mai
(Diễn nghĩa)
Thân mình phiêu lãng nơi đất khách, quê người không đáng lo,
Chỉ sợ "Cây mai cũ ở quê nhà ngày càng mòn mỏi".
Cảm khái, bâng khuâng nhớ người tha thiết, ai hoài, tâm trạng
của Hoàng Mai Phi ai người có hiểu! Cái tên Hoàng Mai Phi đã gợi cho người viết
cảm giác đi lạc vào một khu rừng mai, ngập tràn những cánh mai vàng mãn khai.
Trong khoảnh khắc một làn gió nhẹ đi qua, cành mai chuyển mình đưa muôn vàn
cánh hoa mai bay lã chã. Nhờ thân nhẹ nhàng, hoa đã nương theo gió lượn lờ tựa
muôn ngàn cánh bướm, trước khi đáp xuống mặt đất lạnh. Cái gắn bó duyên nợ của
bướm và hoa làm sao có thể kể xiết trong đời. Thi sĩ Nguyễn Bính đà dùng rất
nhiều "hình tượng bướm" trong những bài thơ của ông như:
Hỡi ơi! Bướm trắng, tơ vàng
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi
(Cô hàng xóm)
Hay:
Chiều nay bướm trắng ra nhiều quá
Không biết là mưa hay nắng đây
(Vẩn vơ)
Hoặc là:
Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng
(Xuân về)
Đầy nước mắt như trong bài Dòng dư lệ viết cho TTKH:
Dừng chân trước cửa nhà nàng
Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
Tìm nàng chẳng thấy nàng đâu
Lá rơi lả tả bên lầu như mưa.
Yêu hương mai để nguyện làm một cánh mai vàng bay trong gió
sao hữu tình lắm vậy. Nhiều khi con người cũng cần có tâm tình đủ lớn để cảm nhận
được tình sâu của người khác. Hoa vàng với bướm vàng hôn nhau để hòa làm một thể
hay cánh mai vàng chập chờn rơi tựa cánh bướm vàng thì cũng là một, thảo nào
ngày xưa hồn Trang Chu hóa bướm hay bướm là hóa thân của hồn Trang Chu
"Cái con bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu" trong bài "Hết bướm
vàng" của Nguyễn Bính có hai câu:
Hôm nay, vườn cải hoa tàn hết
Em hỡi từ nay hết bướm vàng!
Ôi! Từ con bướm vàng "khép cánh tình chung ở giữa đời"
đến con bướm vàng của Đình Nguyên:
Bướm vàng bay tận đâu dâu
Chẳng còn duyên cũ, thề xưa - chẳng còn
Đường về xa tít đầu non
Thương ai cứ mãi héo mòn - thương ai
Mù u của những ngày nào
Bây giờ bên ấy ra sao - bây giờ.
Để cho một người bạn thơ là Vân Hạc họa lại như sau:
Bướm vàng ngủ đậu vườn mê
Lỡ làng duyên nợ hẹn thề mai sau
Mù u chia nhánh tình đầu
Trầu cau giữ lại chờ nhau kiếp nào
Yêu người ngơ ngẩn ước ao
Mù u còn đó, bay vào bướm ơi!
Mù u hay Nam Mai và con bướm vàng cũng đã đi vào lòng người
trong dân gian. "Mù u còn đó, bay vào bướm ơi"!. Nếu không Trần Tiến chẳng
đã nhắc đến trong ca khúc "Lá Diêu Bông" rất thành công qua giọng
hát truyền cảm của đôi song ca Như Quỳnh/ Mạnh Đình:
Có chú bướm vàng bay theo em
Bướm vàng đã đậu cây mù u rồi
Lấy chồng sớm làm gì
Để lời ru thêm buồn.
Đã thế hoa mai đã được sử dụng như dấu mốc để đo lường thời
gian. Hoa mai đi đôi với mùa xuân, nên hoa đã đã gợi lại hình ảnh thời xuân thì
của người chinh phụ. Hoặc như cô đơn nơi khuê phòng người thiếu phụ đã đánh dấu
thời gian theo những độ hoa mai nở, trải nỗi niềm trông ngóng chinh phu biền biệt
nơi miền xa. Thi sĩ Kim Tuấn chẳng viết:
Bông mai vàng thuở nàng còn trẻ
Trên lối đi về lắm kẻ đợi mong
Bây giờ tình đã sang sông
Anh trèo cây khế ngó trong đất trời...
Bông mai vàng tiễn chàng xa xứ
Em ở quê nhà em cứ đợi trong
Mai vàng nở rộ mùa bông
Anh xa mà chẳng trông mong ngày về...
Bước sang thế kỷ mới với bao tiến bộ về khoa học, nhưng có lẽ
tâm tình con người không thể phôi pha. Ngày nào còn hoa còn bướm hiện hữu, dù
trong hoàn cảnh nào tâm tư còn người vẫn rung động như nhau. Nhìn nét hoa vàng
rung rinh trong gió, cánh hoa vàng nho nhỏ bay bay trong gió với mùi hương nhẹ
nhàng, không ai có thể dửng dưng. Dầu không diễn tả độc đáo nhưng ít nhiều tâm
tư cũng dao động nhắc cho người nhớ đến ai đó, nhớ đến những gì thân thương nhất,
gần gũi nhất, nhớ đến một thuở vàng son đầy hạnh phúc. Tất cả gói ghém đơn gian
trong chữ "MAI"... Tạo hóa đã khéo an bài thay!.
16/1/2011
Xuân Phương và HMP sưu tầm
Nguồn: Blog Diệu Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét