Khung trời tuổi ngọc
Buổi trưa vô cùng vắng lặng. Tà nắng tơ vàng lọc qua hàng tre
se động, nhấp nhánh reo vui như từng đám sao li ti, cùng với tiếng gió vi vu đối
với cô bé là một suối nhạc thần tiên. Hàng rào tre rất dày với những thân tre
xanh láng hoặc vàng ngà cao vút, gai nè đan chằng chịt dưới gốc.
Bé ngẩng nhìn lên ngọn tre: vùng lá xanh dịu mát lao xao, mấy
thân tre cọ xát vào nhau phát ra một giai điệu thật thanh bình. Có tiếng chim
chích chòe hót rất gần: “Chi... chi... chích... chòe!” Bé nghểnh cổ cố tìm xem
chú chim đậu ở cành nào ngay trên đầu mình, nhưng lá tre đan thật dày và gió cứ
xô đẩy, lấp lánh, xào xạc, thật khó mà tìm ra người bạn nhỏ có tiếng hót quá đỗi
dễ thương ấy. Tiếng hót pha lê cứ ngân dài trong buổi trưa vắng, cách khoảng thật
đều, và đó là âm thanh vô cùng yêu thương trong thế giới của Bé. Bé cố tìm cho
ra chú ca sĩ tí hon của hàng tre xanh, nhưng chỉ thấy gần đó một chàng chào mào
có chùm lông đỏ thắm trên đầu vụt cất cánh bay cao.
Trưa nào cũng vậy, lúc cả nhà nghỉ trưa, và cả ngôi nhà cùng
khu vườn bao la hoàn toàn im vắng, chỉ thỉnh thoảng có tiếng con gà trống tía
phía sau bếp đập cánh cất tiếng gáy: “Ọ... o... ò... o...”, rồi xa xa từ phía
dưới - gọi là xóm Ông Câu - lại có tiếng một con gà trống khác đáp lại: “Ọ...
o... o... ò...” là lúc Bé thơ thẩn ra vườn một mình, tìm hái mấy đóa hoa dại mọc
ven bờ cỏ. Bé đã ép vào tập vở cả mấy chục loại hoa rồi. Có những loại hoa quý
trong vườn hoa của Ông Ngoại như bạch mai, bích đào, tường vi, ngọc lan, oanh
trảo v.v..., nhưng Bé vẫn ưa thích những loài hoa dại mọc trong bụi bờ dọc theo
hàng rào tre, hoặc ven đường lên chùa Châu Lâm, hay trên những đồi thông nắng
vàng thoai thoải có những cụm sim tím và những đám cây chổi đơm đầy hoa trắng
nhỏ li ti. Mỗi lần tìm được một loài hoa rừng xinh xinh là Bé rất vui và hãnh
diện nghĩ rằng mình là người đầu tiên khám phá ra những tuyệt tác ấy của đất trời.
Bé rất yêu những nụ hoa mà Mạ gọi là hoa éo (một loại cỏ dại ăn được): hoa nhỏ
xíu chỉ bằng đốt tay út của Bé, màu tím hoa bèo và lòng hoa thì trắng nuốt và
hơi ửng vàng với phấn mịn óng ánh. Cấu tạo nụ hoa thật tuyệt vời với tâm hồn mười
tuổi của Bé. Bé ngồi hàng giờ ngắm nhìn rất kỹ những cánh hoa thật mỹ miều, thật
thanh bai, nhất là cái màu phơn phớt tím, màu mây trời hoàng hôn mà Bé bắt đầu
biết yêu thích.
Nhưng loài hoa khiến Bé say mê nhất, chính là hoa bò bò, mà
Bé chưa bao giờ được trông thấy, chỉ ngửi được làn hương ngào ngạt, huyền ảo,
quyến rũ và vô cùng thơm ngon, hơn tất cả những cái gâteaux có bỏ vanille mà Bé
vẫn thường được ăn. Bởi hoa rất khiêm tốn, núp sâu trong bụi rậm và chỉ tỏa hương lúc trời sập tối. Mãi mấy năm sau đó, Bé mới có dịp hái được một cành hoa
bò bò huyền thoại đó khi nó đang tỏa hương ban đêm. Hoa không đẹp lắm, cánh
dày, màu hơi vàng pha lẫn màu hoa thiên lý, trông có vẻ thô sơ so với những
loài hoa khác, khiến Bé hơi ngạc nhiên vì đã quá tưởng tượng rằng nó phải diễm
lệ vô cùng. Tuy vậy, lòng yêu thích không hề suy giảm, có lẽ vì Bé đã yêu nó từ
lâu rồi và cũng có lẽ vì mùi hương tuyệt vời độc nhất vô nhị của nó.
Đây là Chiêu Dương Viên, thuộc vùng Nam Giao, cạnh rừng Quảng
Tế của Huế. Từ ngã tư Bánh Bèo đi vào độ 400 thước, con đường đất hiền hòa thêu
nắng có hàng cây rì rào và lác đác dăm ba mái nhà tranh, mà một thi sĩ quê quán
tại đây đã viết:
Và tà áo bay bay chiều lá
rụng
Những con đường mòn nhỏ gió xiêu xiêu
Những tiếng hát Huế đầy trong giọng nói
Những âm thanh trộn lẫn với tình yêu...
(Thơ Trúc Lang)
Khu vườn mênh mông với vô số ổi, thơm và mít. Nhãn, vải, đào,
măng cụt, mãng cầu, đu đủ, khế, vả v.v... thì mỗi thứ chỉ một, hai cây thôi.
Cau, chuối thì nhiều hơn, nhưng nhiều nhất là mít, ổi và thơm. Có một cây mít
thật lớn ngay giữa vườn, trái tròn cỡ bằng trái dưa hấu loại tròn, năm ấy cả
nhà đếm được đúng 100 trái. Mít ướt, mít ráo, mít mật, mít dừa, mít tố nữ... thật
là nhiều. Có khi hái không kịp, mít ướt quá chín, cả trái rơi “bạch” xuống đất,
múi mít văng tung tóe, nhìn lên cây thấy cuống trái và cồi mít còn dính trên
cành.
Cứ mỗi chiều, Ông Chú Đ. (em Ông Ngoại của Bé) cầm một cây
sào dài đi thử mít, cứ gõ vào mấy trái mít già, trái nào kêu “bịch, bịch” là sắp
chín, trái chưa chín thì khi gõ chỉ nghe kêu “cóc, cóc”. Bé thường theo Ông Chú
đi thử mít và rất vui thích trong công việc này. Ông Chú một tay cầm sào, một
tay đặt trên đầu tóc vừa chấm vai của Bé. Chính những lúc này Ông Chú bắt đầu dạy
Bé làm thơ, và Bé cũng tập tễnh làm những vần thơ vụng dại đầu đời từ dạo ấy.
Ổi thì đếm không xuể. Ổi trắng, ổi đỏ, ổi sẻ, ổi xá lị v.v...
Lá ổi non, thơm dễ thương chi lạ. Mạ và mấy Dì thường hái để gói tré. Mùi riềng,
tỏi và mè ướp với thịt đầu heo luộc chín, cuốn chặt bằng lá chuối, ủ ít hôm cho
vừa chua như nem, rồi xắt thật mỏng, quyện hương lá ổi non, là món ăn mà cả nhà
ai ai cũng ưa thích. Những sáng mùa hè, vừa thức dậy, anh Nh. (anh cả của Bé),
cậu M.Đ., dì K.T., Bé và thằng em D., mỗi đứa leo tót lên một cây ổi, ngồi vắt
vẻo, rồi lựa trái nào ngon nhất, thơm nhất, ăn đến no, chẳng thèm nhìn đến buổi
điểm tâm đang dọn. Vậy mà chẳng ai bị đau bụng cả. Đến mùa, ổi chín thường rụng
trắng sân. Mấy bà bán rau trái trong xóm thường đem thúng gióng lại mua. Cứ vài
ngày là họ đến hái mang đi cả mấy gánh nặng trĩu, vậy mà ổi chín vẫn rụng đầy
vườn. Nói là bán, nhưng Bà Ngoại bán rất rẻ, xem như nửa bán nửa cho.
Ông Chú có nuôi một bầy gà độ năm mươi con. Ông đặt tên cho từng
con một: con Trống Tía, con Trống Chuối, con Trống Bông..., con Mái Nổ, con Mái
Bông, con Tra Trắng chị, con Tra Trắng em, con Thanh Tú chị, con Thanh Tú em
v.v... Ai nghe gọi cũng buồn cười. Ông không làm chuồng, cho nên cứ chạng vạng
tối là lũ gà tự động bay lên mấy cành ổi mà ngủ. Bé vẫn nghĩ: “Tụi gà có chỗ ngủ
thật là thi vị!”
Vườn trồng nhiều thơm, có hàng trăm cây; vì thơm không chiếm
nhiều đất và trồng chỗ nào cũng được, dưới gốc mít, dọc hàng rào tre, hay bên
hè bếp. Thơm sòng, thơm mật, thơm La Ba v.v... Thơm Victoria trái nhỏ mắt cạn,
thịt trắng ngà mà giòn và ngọt thanh. Nhiều lúc Bé ăn thơm đến rát cả lưỡi. Mạ
thường đi chợ về là ra vườn bẻ một trái thơm chín, gọt vỏ, xắt lát mỏng lót dưới
đáy soong để kho cá. Cá lá mít, cá nục, cá cơm, cá thu, kho với mấy lát thơm vừa
chín, hương vị dịu ngọt, độc đáo. Cũng có khi Mạ kho cá với xơ mít chín, hương
mít ướp vào cá, ngon đặc biệt, khi ăn thì gắp xơ mít bỏ đi. Mít non thì Mạ nấu
canh tôm thịt với lá sân hay lá lốt trong vườn xắt nhỏ, thật tuyệt vời! Nhưng
Bé vẫn mê nhất là món canh mồng tơi, lá non trong, hái vào buổi sáng sớm sau
cơn mưa đêm. Chỉ cần mươi con tôm gân còn nhảy là Mạ nấu được một bát canh
trong xanh thật là tinh khiết ngon lành. Ôi! Những món ăn mộc mạc của Huế! Có chi
mà sánh được!
Ngay cửa phòng ăn nhìn ra vườn sau là hai cây nhãn, cành lá
sum suê, che kín cả một khoảng vườn. Cứ đến mùa trái, lại có mấy “ông nhà quê”
chuyên môn đi lồng nhãn đến lồng. Họ tính vừa đúng độ là đến với hàng trăm cái
lồng làm bằng mo cau dày có đục lỗ thông hơi. Những chùm nhãn thật sai được lùa
vào đó, cột lại, khỏi sợ chim ăn, và trái nhãn thì được im mát nên lớn nhanh no
tròn, ngọt lịm và thơm ngát. Khi nhãn thật chín, họ lại đến bẻ, hết sắp đầy dưới
gốc cây, rồi hình như là chia hai, họ một nửa, mình một nửa thì phải. Tụi con
nít rất vui khi đến mùa bẻ nhãn. Trong vườn rộn rịp hẳn lên, và mặc sức ăn nhãn
thỏa thích. Có một lần Bé bị đỏ mắt, o người làm của Mạ nói rằng tại Bé ăn nhãn
nhiều quá.
Lúc này là lúc Mạ đi chợ tìm mua cho được hột sen tươi hồ Tịnh
Tâm. Những hột sen mới hái màu nâu non, tươi mát, trơn tru, gói trong chiếc lá
sen to, tròn và mịn mướt. Đem về, phận sự của Bé là lột vỏ từng hột cho thật trắng,
đem ngâm vào thau nước, xong cắt hai đầu, lấy tăm xoi tim bỏ đi. (Cũng có khi để
nguyên tim, nấu chè tuy hơi đắng, nhưng Bà Ngoại nói rằng ăn vào ngủ rất ngon).
Rồi Mạ ngào qua hột sen với đường cho thấm, xong lột trái nhãn, lấy cơm nhãn bọc
những hột sen mềm ngọt đó, đem thả vào nước đường phèn đang sôi. Hương nhãn quyện
với hương sen, nước đường phèn trong veo, hột sen mềm múp bọc trong lóp cơm
nhãn trắng ngần như những viên bạch ngọc, thơm thanh khiết lạ thường, tưởng như
bao nhiêu tinh hoa của đất trời đã lắng đọng vào trong đó. Đó là món chè mà Bé
mê nhất, hơn tất cả bao nhiêu loại chè nhiều không kể xiết của Huế. Thời ấy
chưa có tủ lạnh, có khi ban đêm Mạ đem chè hột sen bọc nhãn đựng trong cái tìm
sứ con rồng xanh, đem để ngoài sương cả đêm, sáng sớm bưng vào ăn, mát rượi và
ngon tuyệt!
Con đường từ cổng vào nhà Ông Ngoại thật là dài đối với Bé.
Đi cả đỗi mới trông thấy ngôi nhà. Khoảng sân rộng trước mặt nhà là một khu kỳ
hoa dị thảo. Vườn hoa được đắp thành ba tầng. Mấy cây lê trái trắng lủng lẳng
là những cây khá hiếm. Mấy cây bạch mai mùa xuân thả những cánh trắng vờn bay
trong gió, mùi hương y hệt những đóa tường vi mà Ông Ngoại vẫn thường hái buổi
sáng để bỏ vào bình trà. Cây bích đào hoa màu hồng có những trái nhung mịn, ăn
chua chua ngọt ngọt. Mấy gốc sứ già, thân cành khẳng khiu, lá to hoa trắng nhụy vàng, rất thơm. Bé và dì K.T. (cùng tuổi với Bé) vẫn thường hái hoa sứ kết lại
làm vòng đeo cổ. Mùa Vu Lan, các chùa thường hái hoa sứ kết thành những lá phướng
để trang hoàng điện Phật. Hoàng mai, mai tứ quý, cứ đến cuối đông, khoảng thượng
tuần tháng chạp thì Ông Ngoại lại cho trảy hết lá để mai mau trổ bông. Hai cây
tử vi, hoa màu đỏ cánh sen trồng sát tường phòng khách, mấy Dì thường dặn đừng
ngửi vì hoa rất độc. Hoa hàm tiếu hình dáng gần giống như hoa ngọc lan nhưng nhỏ
hơn, màu tim tím, thơm ngào ngạt. Hoa hải đường cánh dày, màu đỏ gạch, không
thơm. Mấy khóm hoa trang, đơm đầy những đóa lớn, mỗi đóa gồm nhiều chiếc hoa nhỏ
li ti kết lại, Bé và dì K.T. thường rứt một chùm cánh để hút mật ngọt trong đó.
Thược dược đủ màu, cánh sắc sảo như tranh vẽ, trồng trong những chậu sứ sắp hai
bên dọc theo những bậc cấp bước lên phòng khách. Hoa ngâu, hoa sói, bạch lựu, hồng
lựu. Hai cây phượng ta, một đỏ, một vàng, trồng bên hông điện Phật, trái ăn rất
ngon đối với tụi con nít. Cây hạnh đào, trái thật xinh, ăn chua chua thơm thơm,
có khía như trái khế, nhưng nhỏ và tròn, treo lủng lẳng như những viên ngọc quý
đủ màu, từ xanh đến vàng, rồi hồng và đỏ thắm.
Ngay trước điện Phật là cây ngọc lan cổ thụ, lá to, dài, láng
lẩy, với vô số nụ hoa trắng nuột nà thơm tỏa cả một góc vườn. Bé vẫn tưởng tượng
đó là những ngón tay búp măng của một người con gái đẹp. Bên kia, ngang hàng với
cây ngọc lan và cũng to lớn như vậy, là cây hoàng lan cũng gọi là oanh trảo.
Cây này cành mềm lả ngọn, xõa xuống la đà mặt đất, hoa màu vàng, khi nở cánh
hoa lả xuống cùng với đài hoa trông giống như những cái móng chim oanh nên gọi
là oanh trảo. Đây là hai loại hoa mà Bé thường dậy sớm, hái đựng trên hai đĩa
trà, dâng cúng Phật.
Những chiều lộng gió, hai cây ngọc lan và hoàng lan xao động,
cành lá ngửa nghiêng xào xạc, làm hoa rơi rụng lả tả. Những lúc đó, dù đang học
bài, Bé cũng chạy ngay ra vườn, ngây ngất dang tay làm chim bay lượn chung
quanh gốc hoa. Bé cũng mê gió, mê cây, mê hoa, mê chim, và mê cả khung trời tuổi
nhỏ, đối với Bé là cả một thế giới thần tiên rộng lớn.
Vào mùa hè, buổi cơm chiều thường được dọn trên hai bộ phản
kê ngoài vườn. Ông Ngoại mặc bộ pyjama bằng lụa màu ngà, và Ông thường tự tay
rót một ly rượu Mai Quế Lộ. Có khi trong buổi cơm, Ông ngâm những bài thơ Đường,
rồi giảng giải cho con cháu nghe. Bửa ăn thật là thi vị, có chim hót trên đầu,
có gió xao xuyến ngọn cây, và ở ngay giữa khu vườn hoa trái xanh tươi. Cơm nước
xong thì trăng cũng vừa lên. Lúc này hai bộ phản đã được lau chùi trơn láng, và
cả nhà nằm dài trên đó, đối diện với bầu trời lồng lộng trăng sao. Đây là chùm
sao Ông Tiên với con vịt lội. Kìa là sao Đại Hùng Tinh, Tiểu Hùng Tinh (Grande
Ourse, Petite Ourse). Dì K.T. và Bé thì theo dõi mấy cụm mây tan rồi hợp, và đố
nhau xem mây đang kết lại thành hình gì... Mãi đến khuya, khi tiếng chuông chùa
Tây Thiên vang vọng trong màn đêm yên tĩnh và sương bắt đầu xuống lạnh, cả nhà
mới vào nhà.
Đêm giao thừa năm ấy thật là tưng bừng. Mấy dì cháu cùng kéo
nhau lên đồi thông lượm trái thông đem về để đốt lửa trại. Những trái thông khô
đồi Quảng Tế nhẹ và sạch, thơm ngát mùi térébenthine thật tinh khiết. Cả chục
bao chứa đầy trái thông khô được mấy dì cháu ì ạch kéo về. Đêm ba mươi Tết vô
cùng rộn rịp. Mạ và các Dì lo làm đủ thứ đồ ăn và mứt bánh. Hàng chục lọ mứt được
sắp xếp ngay ngắn trên kệ ở phòng ăn: mứt gừng, mứt bí, mứt dừa, mứt khế, mứt
thơm... Những trái kim quật rim đường đỏ trông như ngọc grenat, những trái mứt
me xanh túy như những thỏi ngọc thạch, những lát cam rim màu hổ phách v.v... Dường
như Mạ và các Dì chỉ dụng ý trưng bày cái tài nội trợ khéo léo tinh vi nhiều
hơn là cốt ăn ngon. Bánh thì đủ thứ đựng đầy trong những quả lớn sơn son: bánh
ít đen, ít trắng, bánh dừa, bánh măng, bánh su sê gói bằng lá dừa xếp thành
hình hộp, bánh phục linh bọc giấy đủ màu sặc sỡ, bánh thuẫn, bánh kẹp, bánh
rơm, bánh đậu xanh nhân mỡ nướng trên những miếng ngói vàng lườm thơm phức...
Dì C.T. thì ngồi canh nồi bánh tét. Ngày Tết, nhà Bà Ngoại Bé cứ cúng liên
miên: 23 Tết cúng đưa ông Táo về trời, chiều 30 Tết cúng rước Ông Bà về ăn Tết,
khuya 30 cúng Giao thừa, sáng Mồng Một cúng mừng tuổi Ông Bà, sáng Mồng Hai
cúng mừng Ông Bà còn ở lại chơi Tết với con cháu, chiều Mồng Ba cúng tiễn đưa
Ông Bà, chiều Mồng Bảy cúng hạ nêu. Buổi chiều Mồng 7, khi cây nêu được hạ xuống,
lòng bọn con nít không khỏi man mác buồn, nghĩ rằng những ngày vui đã qua và phải
chờ lâu lắm mới đến một cái Tết khác!
Dạo ấy Bé rất mê thổi sáo. Ống sáo là ống trúc chặt ở hàng
rào tre trong vườn. Bé phải theo năn nỉ anh Nh. để anh làm cho một ống sáo của
riêng Bé. Anh chọn một thân trúc thật thẳng, trau chuốt lại cho trơn tru, rồi lấy
đũa sắt nung đỏ đục 6 lỗ nối tiếp cách khoảng điều nhau, và một lỗ lớn hơn ở đầu
phía trái để thổi. Cuối ống sáo phía phải, lại phải đục 2 lỗ nhỏ hơn.
Thuở ấy Bé đã biết “vuốt sáo” để âm thanh nhè nhẹ thoát ra thật
lả lướt du dương. Những đêm trăng ngát lộng cả khung trời vằng vặc, tựa song cửa
sổ, Bé thổi say sưa những bài “Suối Mơ”, “Thiên Thai”, “Giọt Mưa Thu” v.v...
Lòng cô bé đã bắt đầu biết bâng khuâng theo dòng âm thanh vắt vẻo chơi vơi giữa
trời trăng mờ ảo...
Phía sau Chiêu Dương Viên là chùa Tây Thiên. Buổi chiều khi
hoàng hôn nhuộm tím núi đồi trùng điệp và ban khuya trong màn đêm huyền bí trùm
phủ thôn làng, những hồi chuông chùa Tây Thiên là âm thanh thật trầm buồn vọng
sâu vào cô tịch.
Chùa Châu Lâm, cách đó chừng hơn một cây số, do Ông Ngoại Bé
cúng sở đất và một số tiền để xây cất, là ngôi chùa tuyệt vời thơ mộng giữa đồi
thông. Nơi đây, cả đại gia đình gồm Ông Bà Ngoại, các Dì, Mạ và mấy anh chị em
Bé đã trú ngụ 4 tháng trời khi Tây trở lại bố ráp thôn làng và thiên hạ gồng
gánh chạy lánh nạn xa hơn. Đối với Bé, những tháng ngày chạy giặc ở chùa Châu
Lâm là khoảng thời gian thi vị nhất. Bé đã được sống gần gũi với thiên nhiên
hoang dại, ngay giữa lòng núi rừng thanh khiết bao la:
Xanh xanh rừng Quảng Tế
Thành cây thế bờ mây
Thiên thu sầu lẵng lặng
Triền miên buồn thu đây...
(Thơ Trần Thanh Địch)
Buổi xế chiều, khi nắng vàng xối chảy nghiêng nghiêng trên sườn
đồi rực sáng và bắt đầu có những cơn gió dịu mát thơm thơm hương phấn thông là
lúc Bé một mình ra thăm mộ Ba bên cạnh chùa Châu Lâm để tụng kinh. Hôm nào cũng
vậy, sau một biến kinh A Di Đà và sau khi mơ mộng thỏa thuê dưới gốc thông có
phấn vàng rơi lả tả, Bé lại tung tăng đi hái sim và hái hoa ngũ sắc mọc đầy
trên núi. Bé rứt từng chùm cánh nhỏ li ti đủ màu vàng đỏ tím hồng, đựng trong vạt
áo dài vải trắng, rồi leo lên mô đất cao, tung hoa lên như những đàn bướm nhỏ lấm
tấm muôn màu...
Ôi! Những ngày tháng thơ dại thần tiên ấy không kéo dài được
bao lâu thì tiếp đến một thời gian tao loạn. Gia đình Bé phải rời bỏ núi rừng
Quảng Tế thân yêu, dời về vùng Bến Ngự, để lại Chiêu Dương Viên cô liêu với
ngàn thông vi vu u tịch... Và không lâu sau đó, vì vấn đề an ninh, tất cả các
cây lớn trong vườn đều bị chính quyền địa phương bắt buột phải đốn chặt. Mấy đồi
thông tuyệt đẹp lân cận cũng cùng chung số phận, trở thành trơ trụi như một niềm
cô độc mênh mông...
Vài năm sau đó, có dịp lên nam Giao thăm lại ngôi nhà và khu
vườn tuổi nhỏ, lòng cô nữ sinh Đồng Khánh đã sững sờ se thắt trước cảnh trống vắng
hoang tàn vì chinh chiến.
Và chiều nay... Chút hương u hoài ngậm ngùi gởi về một quãng
đời nắng sáng ngày xanh đã hút xa, với bao người thân nay đã khuất cùng khung
trời dấu yêu không còn mong tìm lại!
Rồi cũng tàn... theo thăng
trầm, năm tháng
Bao sắc hương hoa mộng thuở thiếu thời
Như gió quyến ngàn xanh xa vời vợi
Xóa mờ trôi những bóng dáng hình hài...
Ôi cổ độ! Còn vọng vang âm
hưởng
Của muôn đời vẫn để lại nghìn sau
Ai có nghe trong lời than gió lộng
Tình quê hương và cả nỗi thương đau?
Mùa hạ, 1994Diên ChiNguồn: Trích đặc san TIẾNG SÔNG HƯƠNG, 1995, trang 127-130
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét