Bà
Ivêta Glêbôva là vợ của GS Niculin. Cả hai ông bà là đồng soạn giả
cuốn Từ điển Việt - Nga (gần 36.000 từ, xuất bản tại Mátxcơva,
1961) mà theo đánh giá của nhiều người, cho tới nay, vẫn chưa có cuốn
từ điển nào thuộc loại này, vượt được. Đầu năm 1975, đúng dịp Tết
Nguyên đán, bà Ivêta Glêbôva sang thăm Việt Nam và được gặp Xuân Diệu.
Hôm chúng tôi tới thăm, ông bà vẫn nhắc những ấn tượng rất tốt đẹp
về “Nhà thơ của mùa xuân và tình yêu” của Việt Nam.
...
Dạo ấy vào một ngày cuối xuân, tôi ở trong nhóm phóng viên Thông tấn
xã Việt Nam lên tỉnh miền núi Yên Bái làm tin, ảnh chuyên đề về đề
tài nông nghiệp - cuộc vận động đồng bào vùng cao định canh định cư.
Tại nhà khách của UBND tỉnh, chúng tôi gặp nhà thơ Huy Cận (bấy giờ
là Thứ trưởng Bộ Văn hóa). Vốn thích văn học, yêu thơ, nên với tôi đây
là một dịp may hiếm có. Ở nhà khách, chúng tôi có nhiều dịp đàm
đạo với nhà thơ. Khi chia tay, Huy Cận dặn khi nào về Hà Nội thì nhớ
ghé nhà chơi. Ông đọc địa chỉ nhà mình bằng hai câu văn vần: “Nhà tôi
hai bốn Cột Cờ/ Ai yêu thì đến, hững hờ thì đi”.
Hết
đợt công tác ở Yên Bái, trở về Hà Nội, vào một buổi tối, tôi đến thăm nhà Huy
Cận. Vẫn dáng niềm nở có phần xuề xòa thường nhật, Huy Cận tiếp tôi ở phòng của
nhà thơ Xuân Diệu, bấy giờ ở cùng nhà ông. Thật may mắn, tôi được gặp cả hai
nhà thơ lớn cùng một lúc trong khung cảnh gần gũi, thoải mái.
Chỗ
ở của Xuân Diệu chỉ có một buồng - vừa là nơi ngủ, vừa là phòng
làm việc, tiếp khách, phòng ăn. Giá sách lớn cũng ở đó. Về sau,
được biết trong căn phòng này còn có một ngách nhỏ chứa đồ vặt. Nơi
đây có kê một chiếc bàn và một ghế băng. Những người đã trở nên thân
quen (mà phần lớn là thanh niên) hoặc người tới sau có thể vào đây
đọc sách mỗi khi nhà thơ bận tiếp khách quan trọng. Tôi cũng đã mấy
lần vào đây và được Xuân Diệu đưa cho đọc những quyển sổ thơ tình
chép tay của ông mà chưa thấy công bố bao giờ.
Ít
lâu sau, tôi được cơ quan Việt Nam Thông tấn xã cử đi Cuba học tiếng Tây
Ban Nha và văn học châu Mỹ Latinh. Thỉnh thoảng tôi vẫn dịch thơ gửi
về đăng báo ở Hà Nội, trong đó có bài Cây đàn ghi ta của Víchto
Hara (nhạc sĩ Phan Nhân đã phổ nhạc bài thơ này của Phêlích Pita
Rôđrighết thành bài hát cùng tên). Trở về nước, tôi sang giảng dạy
văn học châu Mỹ Latinh ở Đại học Sư phạm 1 Hà Nội, vẫn tiếp tục
dịch thơ gửi đăng trên Tạp chí Tác Phẩm Mới do Xuân Diệu làm
Tổng biên tập.
Một
hôm, tôi nhận được thư của Xuân Diệu, nhắn ra nhà chơi và tham gia dịch
thơ Nicôla Ghiden(*). Hôm sau, tôi đạp xe
xuống 24 Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ). Xuân Diệu nói đại ý:
Dịp sang thăm Cuba, anh Cù Huy Cận nhận với Nicôla Ghiden sẽ dịch và
xuất bản tác phẩm của nhà thơ Mỹ Latinh này ở Việt Nam. Nhưng anh ấy
bận, nên Xuân Diệu phải thực hiện lời hứa.
Ông
đề nghị, hàng ngày hết giờ làm việc ở cơ quan thì tôi tới nhà ông
để dịch thơ, cố gắng làm xong trong một tháng. Việc của tôi là đối
chiếu bản dịch tiếng Việt với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha (Xuân Diệu
dịch qua bản tiếng Pháp). Tôi cũng dịch từ nguyên bản một số bài.
Bản dịch nào không phải chữa thì đứng tên riêng. Còn bản nào Xuân
Diệu phải gia công nhiều thì cuối bài dịch đề tên hai người, tên tôi
đứng trước, rất sòng phẳng.
Về
dịch thơ, Xuân Diệu nêu quan điểm rõ ràng - đó là công việc của những
nhà thơ. Bài thơ dịch phải trung thành với ý của nguyên tác. Người
dịch không được gò vần, tỉa tót, gọt đẽo quá mức mà thay đổi mất
bài thơ. Ông lấy ví dụ cụ thể: Một bài thơ hay như thể nàng thiếu nữ
đẹp. Nếu trang điểm quá cầu kỳ tới mức loè loẹt... thì không còn là
một phụ nữ đẹp nữa, có khi còn chẳng nhận ra đấy là phụ nữ.
Đọc
thơ, Xuân Diệu nắm được tứ và thần thái tác phẩm rất nhanh; ông cho
rằng, tác phẩm của những nhà thơ lớn như N. Ghiden đều chứa đựng
logic nghệ thuật nội tại. Từ ngữ trong bản dịch phải lột tả cho
được điều ấy. Có thể lấy bài Mía làm ví dụ: “Người da
đen/ gắn mình trong đồng mía. Tên Yăngki/ phởn phơ trên đồng mía. Đất
mỡ màu/ lặng nằm dưới đồng mía. Máu đỏ thắm/ chảy ra ngoài chúng ta!”.
Hãy lưu ý những từ “trong”, “trên”, “dưới”, “ngoài” ở bản dịch của
Xuân Diệu!
Những
ngày làm việc gần Xuân Diệu, tôi thấy ở ông một tấm gương về lao
động nghệ thuật cần mẫn, sống chân thành, đôn hậu, chu đáo với hết
thảy mọi người. Đêm nào Xuân Diệu cũng làm việc đến khuya. Món bồi
dưỡng ban đêm thường là 1-2 quả trứng ngâm trong thuốc Bắc (do ông tự
chế). Khi suy nghĩ và viết căng thẳng, ông có thói quen tự đấm tay lên
đầu, miệng nói: “Đau óc quá!”. Có lần nhà thơ bảo tôi: “Thấy việc
gì làm được thì cố gắng làm khi còn trẻ. Đến khi sờ lên đầu thấy
nắm tuổi to thì khó làm lắm!”.
Nửa
thế kỷ lao động cật lực cho thơ-văn, Xuân Diệu cống hiến cho văn học
nước nhà gần 50 đầu sách, thực hiện hơn 400 cuộc bình thơ ở khắp
mọi miền, viết báo, biên tập, làm công tác xã hội... Quan điểm sống
của Xuân Diệu rất rõ ràng: Sống là để làm việc có ích cho đời. Ông
ví mình như một quả cam: “Cái quả cam này đã vắt hết/ Hiến cho non nước,
hiến người thân”. Và: “Tôi là một trái cam, hãy vắt kiệt lấy
nước của nó - đó là những dòng thơ tôi”.
Xuân
Diệu luôn sống hồn nhiên, như chẳng biết tới già nua bao giờ. Ông vui
suốt buổi khi gặp một người dân bình thường thể hiện lòng quý trọng
nhà thơ: Nhận ra thi sĩ Xuân Diệu đi mua hoa, bà lão bán hàng chọn
giùm ông những bông hoa hồng đẹp nhất; người bán nước mía ven đường
nhất quyết không lấy tiền một ly nước mát biếu nhà thơ. Về nhà, ông
hồ hởi kể với người thân: Mình đang còn có ích!
Thế
rồi, ông lại ngồi vào bàn cặm cụi viết như chưa từng biết mệt mỏi
là gì.
Xuân
Diệu buồn và phản ứng tắp lự khi đang buổi bình thơ mà có người
mất trật tự vì một lý do gì đó (cho dù lý do ấy có thể thông
cảm). Có lần, ông đọc đi đọc lại câu thơ của mình: “Lòng ta là
một cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá khoai”.
Cuộc
đời và sự nghiệp của nhà thơ lớn Xuân Diệu thể hiện một cách minh
bạch quan niệm thế nào là hạnh phúc - một câu hỏi lớn cho hôm nay và
mai sau mà người đời chẳng dễ thống nhất cùng nhau!
Nhà thơ Xuân Diệu khi trẻ.
Nguồn: Internet.
Thật
hiếm thấy nhà văn nào lại quý trọng lớp người viết văn trẻ như Xuân
Diệu. Chưa thấy ai tới hỏi về thơ mà ông từ chối tiếp đón ân cần.
Khách ra về, việc đưa tiễn là thói quen của nhà thơ; nhiều khi tiễn
bạn văn tới tận gốc cây hoàng lan, hay bóng của vòm cây phía trên
cổng rồi đứng lại đàm đạo hồi lâu. Như có sự sắp đặt trước của
định mệnh, tác phẩm kỳ công cuối cùng của Xuân Diệu là bản tham
luận Sự uyên bác với việc làm thơ, được công bố tại Hội nghị
những người viết văn trẻ lần thứ III vào sáng ngày 19/2/1985 ở Hà
Nội (chỉ sau hơn mười tiếng đồng hồ, nhà thơ trút hơi thở cuối cùng
ở bệnh viện Hữu Nghị Việt - Xô).
Khi
nhà văn Lữ Huy Nguyên đọc hết dòng cuối của nguyên tác: “Xin cảm ơn sự
theo dõi của các bạn! Xuân Diệu” thì cả hội trường lặng đi, chỉ còn
nghe rõ tiếng nấc sụt sùi. Phải chăng, dòng chữ này thay cho tập hồi
ký Tôi xin cảm ơn cuộc đời mà nhà thơ dự định viết, nhưng chưa
kịp bắt đầu!
Trong
bài viết này, thấy cần nói đôi dòng về một người phụ nữ (chưa thấy
được nhắc đến trong các bài viết về Xuân Diệu) mà nhiều năm tháng
đã tận tình chăm lo cho đời sống của nhà thơ. Đó là u Khang. Bà hơn
tuổi Xuân Diệu, từ nông thôn ra Hà Nội giúp việc cho nhà thơ đã lâu
và sống cho đến cuối đời ở đây. Theo cách gọi của Xuân Diệu, chúng
tôi đều gọi bà là u Khang.
Cứ
tối tối, sau khi cơm nước xong, bà lại từ phòng riêng phía nhà bếp đi
lên, lễ phép nói với Xuân Diệu: “Thưa bác! Ngày mai bác ăn gì?”. Biết
“thực đơn” (bao giờ cũng rất đơn giản), rồi nhận đủ tiền cho ngày mai
sau khi tính toán tiền chợ hôm nay còn lại. Bà vui khi thấy Xuân Diệu
ăn ngon miệng và buồn khi trong nhà có chuyện chẳng lành. Ngày ấy,
đang còn chế độ bao cấp, một hôm kẻ gian vào nhà lấy đi toàn bộ tem
phiếu mua thực phẩm cung cấp của Xuân Diệu. Bà lo lắng, bới tìm khắp
các xó nhà, tiếc mãi như chính mình bị mất tài sản quý.
Trong
đời sống thường ngày, Xuân Diệu căn cơ, sòng phẳng, nhưng cũng rất chu
đáo, luôn quan tâm đến những người xung quanh một cách thật cụ thể.
Một lần tôi về thăm quê ở vùng trung du tỉnh Phú Thọ. Khi trở ra Hà
Nội, mẹ tôi gửi biếu Xuân Diệu quả mít duy nhất có trong vườn nhà
năm ấy. Mãi mấy hôm sau, tôi từ trường Đại học Sư phạm ở Cầu Giấy ra
nhà Xuân Diệu vẫn thấy quả mít còn đó tuy đã chín lắm. Ông nói:
“Đợi em ra cùng ăn. Năm nay trên ấy mất mùa hoa quả”. Nhà thơ còn hẹn
chờ dịp thuận tiện sẽ lên thăm cha mẹ tôi ở Phú Thọ và nói chuyện
thơ để cả làng nghe cho có “tiếng thơm”.
Có
một kỷ niệm mà cả gia đình tôi còn nhớ mãi: Nhà thơ Xuân Diệu đạp
xe đến dự lễ cưới của chúng tôi tổ chức ở sân tập thể khối phố
gần chợ Ngọc Hà (Hà Nội). Món quà mà ông trao tặng thật là quý vô
giá. Đó là hai bài thơ tình. Khi Xuân Diệu đọc thơ, rất đông bà con
khu phố tới lắng nghe, vỗ tay tán thưởng hồi lâu. Trong số thính giả
hôm ấy có cả những em bé chưa hiểu thơ, nhưng cũng chạy tới để tận
mắt mình được ngắm nhìn bác Xuân Diệu kính mến với tất cả lòng
ngưỡng vọng thơ ngây.
Trong
tháng dịch thơ Nicôla Ghiden, có đêm tôi phải nghỉ lại ở nhà Xuân Diệu
vì đường về Cầu Giấy vừa xa vừa vắng. Xuân Diệu tự tay lấy giường
xếp, chăn màn cho tôi, dặn mắc màn cẩn thận kẻo muỗi đốt. Ông cũng
không quên nhắc phải khoá xe đạp cho yên tâm. Sau đó ít lâu, mẹ tôi qua
Hà Nội trên đường vào Nam thăm con gái - đang là giảng viên văn khoa
trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang. Biết tin, Xuân Diệu bảo tôi: “Mời cụ
vào nhà nghỉ ngơi cho đỡ mệt rồi mai hãy lên tàu!”. Mẹ tôi cứ xuýt
xoa, cảm kích mãi trước thịnh tình ấy!
Năm
1981, tập Thơ Nicôla Ghiden được xuất bản tại Hà Nội (Nhà xuất
bản Văn Học). Với tôi, đây là một kỷ niệm đẹp và cũng là dịp học
tập được nhiều điều ở nhà thơ lớn.
Đầu
năm 1985, Xuân Diệu tham gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự Tuần lễ Văn hóa Việt
Nam tại Liên Xô. Khi ấy, tôi đang làm nghiên cứu sinh ở trường Đại học
Tổng hợp Quốc gia Mátxcơva mang tên Lômônôxốp. Chẳng ngờ lần ra thăm
nhà thơ ở khách sạn Mátxcơva này lại là lần cuối cùng tôi được găp
ông. Nhà thơ Xuân Diệu qua đời ngày 18/12 năm ấy, tôi nhận tin qua tờ
báo Văn Nghệ của Việt Nam.
Suốt
ngày hôm ấy, tôi bồn chồn không yên. Cứ nghĩ đến Xuân Diệu là nước
mắt lại ứa ra không sao cầm được. Thế là hẹn ước của ông về thăm quê
tôi và nói chuyện thơ cho dân làng Tiên Châu (xã Chí Tiên, huyện Thanh
Ba, tỉnh Phú Thọ) của tôi nghe chẳng bao giờ có thể thực hiện được
nữa! Mãi tới giờ, mỗi khi nghĩ tới điều này, tôi lại thấy ân hận
vì chưa thu xếp được dịp để đón mời ông.
Xuân
Diệu “Giã từ... cõi thực để vào hư” - như nhà thơ tự nói về mình
trong bài thơ Không đề, đến nay đã trên hai chục năm trời. Hơn hai
mươi mùa xuân đã đi qua! Thi đàn Việt Nam dường như vẫn còn đó một khoảng
trống vắng…!!
(*)
|
Nicôla Ghiden
(1902-1988): Nhà thơ lớn châu Mỹ Latinh, người cầm đầu trường phái
“thơ đen” (poesia negra) và “thơ lai” trong nền văn học bằng tiếng Tây
Ban Nha, nguyên là Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật Cuba, người rất
có cảm tình với Việt Nam, đã sáng tác một số bài thơ ủng hộ
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
|
hãng bay eva
tìm vé máy bay đi mỹ
hãng hàng không hàn quốc
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich