SAO ANH KHÔNG VỀ CHƠI THÔN VĨ?
Bài viết của Ban Mai
70 năm trôi qua kể từ khi Hàn Mặc Tử
– thi sĩ của “Trường thơ Loạn“ đi vào cõi vĩnh hằng, người đời
vẫn không nguôi nhắc về ông. Ông là một hiện tượng độc đáo, một tài năng kỳ lạ
bất thường trong phong trào Thơ Mới.
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng
Trí, sinh ngày 22/9/1912 mất ngày 11/11/1940. Quê ở làng Lệ Mỹ (Đồng Hới),
Quảng Bình. Ngay từ nhỏ gia đình ông chuyển vào sống tại Quy Nhơn. Nhà nghèo,
cha mất sớm, học trường Quy Nhơn đến năm thứ ba. Làm việc ở Sở Đạc điền Quy
Nhơn một thời gian bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ở Sài gòn ít lâu lại
trở về Quy Nhơn. Sau đó bị bệnh hủi, đưa vào bệnh viện phong Quy Hoà ở Quy Nhơn
rồi mất ở đó.
Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 16 tuổi (lấy hiệu Phong Trần rồi Lệ
Thanh). Đến năm 1936, khi phụ trách phụ trương văn chương báo Sàigòn mới đổi
hiệu là Hàn Mặc Tử. [1; 196]
Là một tài thơ lớn của phong trào
Thơ Mới, Hàn Mặc Tử sáng tạo nhiều bài thơ tuyệt hay như “Mùa xuân chín”,
“Đây thôn vĩ dạ”…. Bên cạnh những vần thơ hết sức trong sáng, là một thế
giới hình tượng kỳ lạ đầy ghê sợ, thể hiện một tâm hồn thơ đau đớn, điên loạn,
những dòng thơ viết bằng máu và nước mắt. Hàn Mặc Tử chết sớm năm 28 tuổi. Thơ
ông là bằng chứng của một chàng trai trẻ tài hoa có tâm hồn luôn yêu đời, khao
khát cuộc sống, nhưng cuộc đời cay nghiệt đã bắt ông phải lìa bỏ sớm. Cho nên
trong thơ Hàn Mặc Tử, ta có thể cảm và nghe được cả một thế giới bên trong vô
hình đang lâm vào niềm tuyệt vọng, là tiếng nói vô vọng của một thân phận bị
dồn đẩy đến cùng cực, chới với bên bờ miệng vực của thần chết mà ngoái nhìn,
nuối tiếc cuộc đời.
Sinh thời, Hàn Mặc Tử đã từng được
Phan Bội Châu khen ngợi: “ Từ về nước đến nay được xem nhiều thơ văn quốc âm
song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc ước ao có ngày gặp gỡ
để bắt tay nhau cười to một tiếng ấy là thỏa hồn thơ đó”. Có lẽ ông già
bến ngự là người đầu tiên giới thiệu Hàn Mặc Tử với công chúng, động viên
nhà thơ trẻ tự tin trên con đường sáng tạo.
Năm 1936, với tập “Gái quê”, thi
nhân họ Hàn đã làm xôn xao dư luận trong phong trào Thơ Mới, đặc biệt khi Trường
thơ Loạn và tập Thơ Điên xuất hiện, giới phê bình lắm kẻ khen chê.
Ta hãy xem tác giả Thi nhân Việt Nam nhận xét: “Tôi đã nghe người ta mạt sát
Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo Hàn Mặc Tử, thơ với thẩn gì! Toàn nói nhảm.
Có người nghiêm khắc hơn nữa: Thơ gì mà rắc rối thế! Mình tưởng có ý nghĩa khuất
khúc, cứ đọc đi đọc hoài, thì ra nó lừa mình…”
Trong báo Ngày nay số 122 ( chủ nhật
ngày 7/8/ 1938) Xuân Diệu viết bài Thơ của Người có lẽ cũng nhằm ám chỉ
các thi sĩ “Trường thơ Loạn” ở Bình Định bằng một thái độ phủ nhận: “Hãy
so sánh thái độ can đảm kia, thái độ của những nhà chân thi sỹ, với những cách
đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: tôi điên
đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không
biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống”.
Nhưng cũng lắm người ca tụng. Nhận
xét về Hàn Mặc Tử, tài năng lạ của một thời, Chế Lan Viên viết: “Tôi xin hứa
hẹn với các người rằng, mai sau những cái tầm thường mực thước kia sẽ biến tan
và còn lại của các thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử.”
Tỉnh táo và sâu sắc, Trần Tái Phùng
đã không ngần ngại phô bày vẻ đẹp tuyệt mỹ của thơ ca Hàn Mặc Tử : “Nghệ
thuật chàng tựa một con sông dài đi xuyên qua thế kỷ chúng ta và hai bờ sông
dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau đẹp đẽ đến say ngợp, đến tê
liệt cả lòng người”. Trần Tái Phùng đã ví thơ Tử với những khung cảnh
thần tiên của thời thượng cổ theo hội họa của Poussin, Millet và Murillo…
Bước vào thơ Hàn Mặc Tử, người đọc không khỏi có cảm giác phân tâm, bởi mạch thơ ông luôn là một mạch kết cấu của một dòng thơ bất định, tuôn chảy theo niềm cảm xúc phản ảnh một tâm trạng luôn bất ổn trong cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” trong tập Thơ Điên là một tác phẩm nổi bật phần nào tiêu biểu cho dòng thơ ông.
Bước vào thơ Hàn Mặc Tử, người đọc không khỏi có cảm giác phân tâm, bởi mạch thơ ông luôn là một mạch kết cấu của một dòng thơ bất định, tuôn chảy theo niềm cảm xúc phản ảnh một tâm trạng luôn bất ổn trong cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” trong tập Thơ Điên là một tác phẩm nổi bật phần nào tiêu biểu cho dòng thơ ông.
Vĩ dạ là một thôn gần sát ngay cố đô
Huế, làng ấy ngày xưa là nơi các vương hầu hoàng tộc và các gia đình quyền quí
cư trú. Vĩ dạ là một làng khá tiêu biểu cho phong cách sống trầm mặc khép kín
của xứ Huế. Nhà nào cũng có hàng rào dâm bụt, cắt xén gọn, tươm tất. Vào sân
vườn là những chồi cây cảnh, xen kẽ hoa trái. Sau vườn là các khóm rau, có khi
cả vạt bắp, và bậc cấp xuống mé sông Hương. Nhà vườn và tính chất an nhiên là
một nét tiêu biểu của thôn Vĩ dạ.
Hồi ở Quy Nhơn những năm 1932 –1933
Hàn Mặc Tử có một mối tình với cô Hoàng Thị Kim Cúc. Cha cô Cúc làm ở Sở Đạc
Điền và Hàn Mặc Tử cũng làm việc ở đó, thời gian sau ông bỏ vào Sàigòn làm báo,
khi trở về Quy nhơn thì gia đình cô Cúc đã chuyển về Huế, ở thôn Vĩ dạ. Ít lâu
sau, biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, đang đau đớn và cô đơn tại bệnh viện phong
Quy Hòa, người em họ gợi ý cô Cúc gửi một bưu thiếp thăm hỏi sức khỏe cho Mặc
Tử. Hàn Mặc Tử làm bài thơ này đáp lại như một lời cảm ơn.
Đây thôn Vĩ dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà!
Toàn bài thơ là những câu hỏi phiếm
chỉ, thể hiện tâm trạng bất an, bất định của tác giả, làm cho không khí bài thơ
mang âm hưởng buồn.
Ngay đầu đề bài thơ, thi nhân đã cho
người đọc một cảm giác lạ. Tại sao không gọi bài thơ là “Thôn Vĩ dạ”, mà
phải là “Đây thôn Vĩ dạ”. Từ “đây” có một cái gì đó giới thiệu rất trân
trọng. Hàn Mặc Tử trân trọng một làng quê mà ở đó có người con gái ông hết lòng
yêu mến. Ở đây, thi nhân muốn thể hiện tình cảm của mình với cô gái qua cách
giới thiệu. Trân trọng làng quê của người mình yêu cũng là trân trọng người
yêu.
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi nhưng
cũng có thể là lời hờn trách của cô gái “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.
“ Sao anh…” đại từ nhân xưng “anh” ngọt ngào đã biểu lộ được mối
quan hệ thân mật giữa thi nhân và cô gái. Sao anh không về chơi quê em, hay là
sao anh không về đây thăm em. Dường như có một thôn Vĩ mà chỉ cần một
lời mời đầu môi thì nó đã đủ cho hai người ngầm hiểu nhau rồi. Cả một câu thơ
bảy chữ thì đã có sáu chữ đầu là thanh bằng, tạo nên một âm hưởng dịu êm mang
đậm phong cách nhẹ nhàng của các cô gái Huế.
Về đây thăm quê em để ngắm hàng cau
vươn mình trong nắng mai, để thả hồn chan hòa trong thiên nhiên xanh ngát, để
ngắm nhìn ai tha thướt, thấp thoáng dưới hàng cây. Cảnh vật chỉ đơn sơ vậy
thôi, nhưng đã đủ làm xôn xao, sầu nặng hồn ai. Cũng là cảnh làng quê, nhưng có
người thích ngắm trong nắng trưa, hay buổi chiều tà, ở đây Hàn Mặc Tử muốn ngắm
làng quê dưới ánh nắng ban mai của một ngày mới. “Nhìn nắng hàng cau, nắng
mới lên”, câu thơ tả cảnh của ông có một nhịp điệu khác thường, hai từ “
nắng” trong cùng một câu thơ tạo nên cái tâm trạng xôn xao, háo hức của một
thanh niên trẻ trung yêu đời. Và cuối cùng là một lời reo “ Vườn ai mướt quá
xanh như ngọc”, vườn ai mà đẹp quá như vậy, có phải là vườn nhà nàng chăng?
Người ta có thể nói xanh biếc, xanh mơn mởn, xanh mướt để tả màu xanh. Ở đây,
Hàn Mặc Tử rất tài tình khi không dùng hai từ “ xanh mướt” đi kề nhau,
bởi “ xanh mướt” có một vẻ gì đó yếu ớt, ít sinh khí. Vì thế, Hàn Mặc Tử
đã tách ra, hoán đổi trật tự từ và thay bằng lời reo “mướt quá” rõ ràng
câu thơ cũng tả về màu xanh nhưng lại tràn đầy sức sống, dồi dào sinh khí hơn.
Do vậy, từ “xanh như ngọc” gieo vào lòng người đọc một cảm nhận đầy ấn
tượng. Vườn của ai mà đẹp quá, quí giá quá, xanh quá, trong suốt như ngọc.
Đứng trước thiên nhiên đầy sức sống như thế, ai lại không thấy yêu đời, yêu cuộc sống. Và kìa, thấp thoáng sau những khóm tre, khóm trúc là khuôn mặt của một người. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Thơ xưa thường ca ngợi cái đẹp “thanh mai trúc mã”, nét mảnh mai của cô gái bên cạnh cái cứng cỏi của một chàng trai. Hàn Mặc Tử muốn tả trong một khoảnh khắc nào đó, hình ảnh của một “ai đó” qua khóm trúc đã gây cho Hàn một ấn tượng mạnh, nên đã in dấu trong hồn thi sĩ và khi đặt bút đề thơ ông đã tạo ra một hình tượng thơ bí ẩn.
Đứng trước thiên nhiên đầy sức sống như thế, ai lại không thấy yêu đời, yêu cuộc sống. Và kìa, thấp thoáng sau những khóm tre, khóm trúc là khuôn mặt của một người. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Thơ xưa thường ca ngợi cái đẹp “thanh mai trúc mã”, nét mảnh mai của cô gái bên cạnh cái cứng cỏi của một chàng trai. Hàn Mặc Tử muốn tả trong một khoảnh khắc nào đó, hình ảnh của một “ai đó” qua khóm trúc đã gây cho Hàn một ấn tượng mạnh, nên đã in dấu trong hồn thi sĩ và khi đặt bút đề thơ ông đã tạo ra một hình tượng thơ bí ẩn.
Ở đây, chúng ta không cần phải tách
bạch, “ khuôn mặt chữ điền” ấy là của ai. Bởi lẽ, đó cũng là một chi tiết
thoáng qua, một đường nét đẹp nằm trong cái tổng thể.
Trên toàn cảnh của khổ thơ đầu là
bút pháp tả thực của Hàn Mặc Tử về một miền quê xanh tươi tràn đầy sức sống, và
đó cũng chính là lòng ham sống, lòng yêu đời của thi nhân. Vì nếu không ham
sống, không yêu đời thì làm sao có thể tả được một khung cảnh bình dị mà đắm
say lòng người đến thế.
Nhưng sang khổ thơ thứ hai, người
đọc đột ngột rơi vào một tâm trạng buồn, chia cách khi nghe một nhạc điệu khác
thường, lạnh lẽo, vô tình đến nghiệt ngã.
Thiên nhiên cũng có gió, có mây, có
nước, có hoa, nhưng sao rời rạc, nhạt nhẽo. Gió mây chia đường, tách ngã, và
sông thì lặng im không buồn chảy trong khi đó hoa bắp lại vô tình lay. Mới vừa
đây, thi nhân đang rạo rực trước sự sống thì nay tâm trạng bỗng buồn bã, nát
tan. Bởi vì Hàn Mặc Tử có yêu đời mãnh liệt như thế nào, cũng bằng không – khi
bản thân ông biết mình đang tan rữa từng ngày. Từng ngày là từng ngày bước dần
vào cõi chết. Đó chính là mâu thuẫn trong tâm hồn của Hàn. Yêu đời nhưng tuyệt
vọng.
Cuộc đời đã ngoảnh mặt quay lưng,
nắng hình như đã tắt, trời đã chuyển hoàng hôn. Thi nhân tan nát cõi lòng,
tuyệt vọng có thể chấm dứt hy vọng nhưng không thể chấm dứt tình yêu. Đối với
Hàn Mặc Tử giờ đây tình yêu là lối thoát cuối cùng mà ông đang cố bám víu để hy
vọng sống.
Trong thơ ca dân gian Việt Nam, hình
tượng thuyền và bến thường xuất hiện trong những bài ca về tình yêu để bộc lộ
nỗi lòng và tâm trạng đôi lứa. Con thuyền là sự vật chuyển động không ngừng
trên sông biển và thuyền mang ý nghĩa biểu trưng cho hình ảnh người con trai.
Còn bến, bờ là điểm đến hay rời đi của thuyền thường biểu trưng cho hình ảnh
người con gái. Sự kết hợp giữa thuyền và bến được khai thác bởi các yếu tố động
– tĩnh, bởi hành trình và yên nghỉ … qua đó biểu hiện hoặc gợi lên những trạng
thái tình cảm tương ứng.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Tuy nhiên, cũng có lúc trong ca dao
thuyền lại được ví như thân phận long đong của người con gái:
Tròng trành như nón không quai
Như thuyền không lái, như ai không chồng
Như thuyền không lái, như ai không chồng
hay thân gái lênh đênh mười hai bến
nước:
Cũng giống như thơ ca dân gian, Hàn
Mặc Tử kế thừa truyền thống dân tộc lấy hình ảnh thuyền và bến làm biểu trưng
cho tình yêu đôi lứa. Hồn thơ Hàn tuyệt đẹp khi liên tưởng thuyền trăng, bến
trăng, sông trăng. Trong đêm trăng kỳ ảo tràn ngập ánh vàng, thuyền em có kịp
chở trăng về với anh trong đêm nay. Anh đang cô độc, đang cô đơn, đang tuyệt
vọng, làm sao em đến được với anh trong lúc này. Câu hỏi “ Thuyền ai đậu bến
sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay?” là một câu hỏi khẩn thiết của
một người đang quằn quại trong đau đớn. Lúc này đây, ngay “ tối nay” đây, em có
kịp về không? Tình yêu của em có đến kịp không? Anh cần em, tình yêu là niềm
tin cuối cùng anh đang bấu víu để sống. Còn yêu là còn sống.
Trăng là một trong những hình ảnh
nổi bật trong thơ Hàn Mặc Tử, có lẽ ông là một trong ít thi nhân có những câu
thơ nói về trăng lạ lùng, kinh dị và độc đáo nhất. Ông nhân hóa trăng như người
con gái:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
Trăng cũng có mùi vị:
Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô
Thơm như tình ái của ni cô
(Huyền ảo)
Ông xem trăng như tài sản của riêng
mình, trăng là của mình, nên tự ý rao bán:
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò
(Trăng vàng trăng ngọc)
Hàn Mặc Tử đang tự hỏi lòng, vẫn
biết câu hỏi sẽ rơi vào hư vô, hy vọng của mình là hy vọng hão huyền nhưng ông
vẫn ước:
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà!
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà!
Bây giờ, Hàn Mặc Tử đã rơi vào mộng
thật rồi, Hàn đang tưởng tượng có người phương xa đến thăm chàng, mơ “ khách
đường xa, khách đường xa” được lặp lại hai lần trong một câu diễn tả tâm
trạng thiết tha mong ngóng đến độ khẩn thiết. Nơi chàng ở, cô liêu quá, người
đời hắt hủi chàng, xa lánh chàng, ghê sợ chàng, chàng đang sống cô lập ở một
nơi xung quanh bạt ngàn đồi cát trắng, trên một bờ biển hoang vắng ít dấu chân
người, bạn của chàng là tiếng sóng vỗ, là tiếng thông reo, tri kỷ của chàng là
ánh trăng đêm. Đêm nay, mơ thấy em về nhưng em mờ ảo quá, anh không thấy gì cả.
“Áo em trắng quá nhìn không ra” hay vì anh nhìn em từ một cõi xa xăm
nào. Bởi vì, trong đời sống bình thường làm gì có màu trắng nào là màu trắng
không thể nhìn thấy được. Bút pháp của Hàn Mặc Tử lúc này đã rơi vào tâm linh,
siêu thực.
Ai biết tình ai có đậm đà!
Từ hy vọng Hàn Mặc Tử đã rơi vào
niềm tuyệt vọng, câu cảm thán cuối cùng của Hàn cũng vừa là một câu hỏi, vừa
khẳng định vừa nghi vấn. “Ai biết tình ai” là một cặp từ phiếm chỉ nhiều
tầng nghĩa, vừa gần gũi vừa xa vời. Có phải Hàn Mặc Tử đang muốn biết tình cảm
của cô gái đối với mình có còn không? Hay Hàn đang muốn người phương xa biết
tình mình vẫn ngày đêm mong ngóng? Một câu hỏi không có hồi âm, nó thiết tha mà
nghẹn ngào xót tủi như cái ngơ ngác của kẻ đứng trước ngã ba đường tiến thoái lưỡng
nan, đi về phía nào cũng thấy cụt đường, không còn phương hướng nữa.
Chu Văn Sơn đã từng bình thật hay: Khép
lại bài thơ, người đọc có thể thấy rõ mạch liên tưởng “cóc nhảy” đứt đoạn, bất
định trong ba khổ thơ. Khổ đầu: một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất
lên như một lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm âm u lại mang gương mặt
sáng sủa của khát khao rực rỡ. Khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt
trở thành một hoài vọng chới với nghẹn ngào. Khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló
dạng hướng ra thế giới bên ngoài đã vội biến thành mối hoài nghi hướng vào nơi
đang tồn tại. Mối u hoài nối ba khổ thơ tách biệt ấy còn được thể hiện bằng một
“sợi dây” liên kết khác nữa: Ba khổ thơ đều ngầm chứa ba câu hỏi với bốn chữ ai
dãi đều trong lòng bài thơ (Vườn ai? Thuyền ai? Ai biết tình ai?) khiến chúng
vang lên thành giọng điệu da diết khắc khoải. Vậy là, nếu lối liên tưởng “cóc
nhảy” tạo ra một văn bản hình tượng đầu Ngô mình Sở, thì dòng lưu chuyển cảm
xúc đau thương dưới dạng u hoài khắc khoải kia lại tạo ra một âm điệu nhất
quán, liền mạch. Phi logic ở bề mặt, nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu, đó
chính là siêu logic, đây là nét thi pháp điển hình của “ Đây thôn Vĩ dạ”.
Chế Lan Viên, trong khi chỉ ra cách
đọc thơ Hàn Mặc Tử cũng đã từng viết rằng Hàn Mặc Tử thuộc týp thi sĩ bị thơ
làm. “Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm
văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi điêu
khắc, chạm trổ từng câu, từng chữ. Ta hiểu anh không phải từng câu, từng chữ,
mà từng hơi.”
Trong bài “Đây thôn Vĩ dạ” Hàn Mặc
Tử đã viết theo thể thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt gồm 3 khổ 12 dòng, mỗi
khổ 4 câu 7 chữ nhưng với phong cách sáng tác hoàn toàn mới, nhà thơ đi từ bút
pháp tả thực, đến tượng trưng, rồi siêu thực.
Hai câu thơ:
Mang màu sắc tâm linh, kinh dị. Thực
ra, như Chu Văn Sơn nhận xét: “…vẻ kinh dị trong thơ Hàn không quá xa lạ. Chúng
ta đã từng tiếp nhận trong truyền thống ở những chuyện ma quái dân gian như “ Lĩnh
nam chích quái, “ Việt điện U linh”, “ Truyền kỳ mạn lục”
cả đây đó trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du… và đương thời Hàn Mặc Tử
cũng có nhiều đồng minh trên con đường phiêu lưu vào thế giới của cái kinh dị
như Chế Lan Viên, Thế Lữ, Vũ Bằng… song, có thể nói “Quyết đi tìm sự lạ”
chính là động cơ lớn chi phối hành trình sáng tạo của Hàn Mặc Tử”. Trong tiểu luận “Nghệ thuật là gì?” Hàn Mặc Tử đã viết: “ Quăng mình đi giữa
cái vũ trụ mênh mông, vượt ra theo những nguyện vọng cao xa, những cái ý nghĩa,
ấy là do cái năng lực tinh thần mạnh mẽ nó thúc giục mình (…) Bồn chồn, ta
quyết đi tìm sự lạ”
Có người cho rằng Hàn Mặc Tử chịu
ảnh hưởng lớn chủ nghĩa siêu thực của Baudelaire. Ông đã thụ lĩnh từ tác
giả Hoa ác một cảm quan ma quái để đi vào thế giới đau thương, rồi
cứ bị thôi miên bởi vẻ đẹp kỳ lạ, kinh dị. Tuy nhiên, theo tôi chúng ta cần
lý giải theo chiều hướng khác, dưới góc nhìn của văn học so sánh. Đây chính là
hiện tượng tương đồng khi có cùng hoàn cảnh sáng tác trong sáng tạo nghệ thuật.
Thật vậy, Hàn Mặc Tử mang bệnh nan y, ông luôn ở trong tình trạng cô đơn, ám
ảnh từ cái chết nên thế giới ông đầy ma quái, nhất là những đêm trăng tròn bệnh
“hủi” phát tán mãnh liệt gây đau đớn quằn quại, trong lúc nửa mê nửa tỉnh như
vậy thơ ông tuôn ra mang hình ảnh siêu thực là điều đương nhiên, không thể nói
thơ ông lúc ấy làm do ảnh hưởng Baudelaire. Có chăng, thơ Hàn Mặc Tử là sự kết
hợp tâm hồn đặc biệt của ông và nền văn hóa Pháp trong bối cảnh phong trào Thơ
Mới những năm 30 của thế kỷ 20.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” từ khi mới
ra đời đã được người đọc đón nhận một cách nồng nhiệt và trân trọng, thi phẩm
được đánh giá là một trong ít bài thơ tả cảnh làng quê xinh đẹp, nên thơ hay
nhất trong phong trào Thơ Mới lúc bấy giờ.
Đây cũng là bài thơ nổi tiếng, tiêu
biểu cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử đi từ tả thực – tượng trưng đến
siêu thực.
Bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” thực chất
không phải là một bài thơ tả cảnh làng quê của Hàn Mặc Tử, thi nhân đã mượn
cảnh để nói cái tình của mình. Nhân bức bưu ảnh gửi tặng của người xưa, ông
hoài niệm về một mối tình đã qua. Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi và cuối cùng
kết thúc như một câu hỏi, thi nhân hy vọng vào tình yêu nhưng không dám tin vào
tình yêu, bởi vì Hàn Mặc Tử biết đó là mối tình tuyệt vọng, mâu thuẫn ấy là một
tâm trạng đau thương, bởi Hàn biết mình đang đi dần vào cõi chết. Bài thơ này
làm trong giai đoạn cuối của cuộc đời ông.
Bài thơ khép lại nhưng câu thơ “Ai
biết tình ai có đậm đà!” như vẫn còn rung mãi trong lòng người đọc như
tiếng ngân của một điệu hò. Tứ thơ và lời thơ tuy buồn lay hiu hắt đã sắc đậm
màu lục của lá trúc cắt vào lòng khách thơ, đến nỗi, không ít khách phương xa
về qua Huế, không ai lại không muốn đến thăm “miền thôn Vĩ dạ ấy” để
được tận mắt chứng kiến một lần thôn vỹ của Hàn Mạc Tử, được tận mắt
nhìn thấy những nhà vườn Huế ẩn khuất bóng dáng của một đôi mắt và được sống
dưới hàng cau mướt xanh đậm tình người…
Văn chương, cũng như cuộc đời, mang
thăng trầm của giông bão chịu những định kiến từ quan điểm giai cấp hay phê
phán hữu khuynh, từ sau 1945 đến năm 1986 dòng văn chương lãng mạn đã không
được chấp nhận. Tài liệu hướng dẫn giảng dạy Văn học lớp 12 năm 1983 của Nhà xuất
bản Giáo dục đã từng ghi: “Về nội dung, đây là dòng văn học bạc nhược, suy
đồi, tiêu cực, có tính chất phản động, tuy có ít nhiều yếu tố tích cực. Do đó,
sau bài khái quát này, chương trình hiện hành không đưa tác phẩm cụ thể vào kế
hoạch học giảng văn, tuy sách giáo khoa có giới thiệu bài thơ “Cây đàn
muôn điệu của”của Thế Lữ để học sinh đọc thêm. Chúng ta cũng nên khuyên học
sinh không nên đọc sách báo lãng mạn…” với quan niệm trên, thi ca Hàn
Mặc Tử càng bị bài xích vì tư tưỏng siêu thực, thoát ly ngoài cuộc sống, “Đây
thôn Vĩ dạ” cũng nằm trong tình trạng ấy. Chính cách đánh giá lạc hậu này từ
một nền thẩm mỹ đóng khung, đã làm cho bao thế hệ học sinh bị thiệt thòi trong
việc tiếp cận những áng văn thơ tuyệt tác của đất nước.
Văn chương theo đất nước rẽ vào
những nhánh sông đổi mới, tuy chưa ra biển lớn. “Đây thôn Vĩ dạ” đã tìm
lại vị trí xứng đáng của một thi phẩm tuyệt tác của một tài thơ lớn trên thi
đàn Việt Nam. Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay từng là thân phận của
“Đây thôn Vĩ dạ”, ngày nay, đã được giảng dạy trong chương trình trung học phổ
thông.
Một tiếng thơ lớn, là một tiếng thơ
mà lịch sử không xóa được.
BAN MAI
đại lý vé máy bay eva air
giá vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
vé máy bay hãng korean air
mua vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch