Về một bài trong quyển Thi nhân Việt Nam
Ông Hoài Thanh xuất bản
quyển Thi nhân Việt Nam năm 1943 mà mãi 14 năm sau, đến năm 1957 tôi
mới được đọc. Quyển sách ra đời trong thời gian tôi ở tù 5 năm, rồi sau đó
trong nước có chiến tranh, sách báo không lưu hành được dễ dàng, và tôi hoàn
toàn không biết có quyền sách ấy cho đến năm 1957 mới trông thấy nó, lần đầu
tiên, do một người bạn cho mượn. Quyển sách đã rách nát hết bìa, chỉ còn trên
một trăm trang ruột.
Lật sách ra coi, tôi hết
sức ngạc nhiên về bài nói đến tôi. Ông khởi đầu bằng một lời phê bình lạ lùng:
“Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai…”
Không biết ông Hoài
Thanh lấy theo tài liệu lịch sử nào mà ghi chép như thế? Quyển Tập thơ Đầu ra
đời năm 1934 – lúc bấy giờ sự thật tôi mới có 22 tuổi, chỉ là một cuộc trình
diễn rụt rè và im lặng.
Tập thơ Đầu – Premières:
Poésies chỉ gồm có năm sáu bài thơ Việt và sáu bài thơ Pháp, mà tôi làm
chơi, chép lẫn lộn trong một xấp giấy. Trương Tửu trông thấy, lấy đưa Lưu Trọng
Lư xem, rồi chính Lư đưa nhà in Tân Dân in dùm mà tôi không có tiền trả. Lưu
Trọng Lư cũng không có tiền. Trương Tửu cũng vậy. Thành thử từ khi Tập thơ
Đầu được in chịu và chỉ phát hành ở Hà Nội thôi, mãi hai năm sau tôi mới
trả được tiền in cho ông chủ nhà in, Vũ Đình Long. Sách in ra gởi bán, không có
một quảng cáo nhỏ và toàn thể báo chí Hà thành cũng im lặng trong một tháng
trời, không có một lời giới thiệu. Tập thơ mỏng mảnh, không có tranh vẽ, không có màu mè, cũng
không có một lời tựa của tác giả hoặc của ai. Lưu Trọng Lư muốn có mấy lời giới thiệu nơi trang đầu tập thơ, tôi không bằng
lòng.
Như thế, trong
quyển Thi nhân Việt Nam, ông Hoài Thanh bảo “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng
thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai…”, thì thật là sai hẳn với thực tế
lịch sử hồi đó.
Bỗng dưng, một tháng
sau, tờ báo đầu tiên ban cho tôi một hân hạnh đặc biệt là tờ tuần báo Pháp
văn L’ Annam Nouveau của cụ Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong một cột dài, tờ
báo ấy khen nhiều bài trong Tập thơ Đầu, cả thơ Việt văn lẫn thơ Pháp văn.
Tôi nhớ báo ấy trích cả đoạn dài của bài Débris d’aile et Desbris d’Ell và
bài Đức thánh Đồng đen. Cách mấy số sau, cũng trong L’ Annam Nouveau,
Nguyễn Nhược Pháp viết một bài phê bình rất có cảm tình nồng hậu.
Tôi thật cám ơn hai bài
báo ấy. Nhưng, tiếp sau đó, Thế Lữ với một bài dài đăng trong tuần báo Phong
hóa, đả kích nhiệt liệt mấy bài thơ Việt văn của tôi. Ông bảo tôi “dốt”, ông
chê tôi “bất tài”. Rồi mấy chàng “Thi sĩ” vây cánh với Thế Lữ – hiện nay hình
như không còn được mấy người – cũng nhao nhao nổi lên viết trong vài tờ báo
khác những bài mạt sát tôi và mấy bài thơ của tôi.
Cuộc đả kích đột ngột và
tàn nhẫn ấy có mục đích đánh cho tôi quỵ xuống và dìm tôi xuống đất bùn. Nhất
là bài của Thế Lữ, viết với giọng ngạo nghễ, kiêu căng, tự cao tự phụ. Thế Lữ
lúc bấy giờ là ông trùm của một phe “thi sĩ” chuyên môn tâng bốc anh chàng để
được chen chân vào Tự lực văn đoàn.
Cuộc đả kích hỗn xược và
ồn ào ấy, đối với tôi chỉ là một thử thách nhất thời mà tôi phải chịu đựng.
Nhưng nhiều bạn làng thơ, làng văn, tỏ lòng phẫn nộ. Trong số đó, có một thiếu
nữ xa lạ mới 18 tuổi, ở tận rừng núi Phủ Lạng Thương, tên Mộng Sơn gởi bài công
kích Thế Lữ, nhưng Thế Lữ không đăng. Để hưởng ứng với tôi, và trả lời cuộc đả
kích hằn học của Thế Lữ, Mộng Sơn gởi đăng trong các báo văn nghệ ở Hà Nội
những bài thơ của Mộng Sơn theo lối thơ riêng của tôi, nhất là trong báo Đông
phương và Văn học tạp chí. Lan Khai, Trương Tửu, Lưu Trọng Lư,
Lê Tràng Kiều, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Đức Quỳnh, Phạm Huy Thông, Vũ Trọng
Phụng, là những bạn làng văn, làng thơ ở Hà Nội, đã công kích Thế Lữ và bênh
vực tôi. Tôi rất cảm ơn mấy bạn ấy.
Riêng tôi vẫn im lặng.
Mãi về sau do sự giục của Lan Khai, tôi chỉ viết một lời phi lộ trong báo Đông
phương để xác minh một vài chủ trương của tôi về thơ ca Việt Nam hồi bấy
giờ.
Sau đó, Trương Tửu diễn
thuyết ở nhà hội Khai trí Tiến Đức, về thơ của tôi. Cuộc diễn thuyết này rất
sôi nổi. Đêm diễn thuyết tôi không đi nghe, nhưng các báo tường thuật cho biết
thính giả rất hoan nghênh. Duy có Thế Lữ là mạt sát hăng hơn nữa. Thơ tôi lại
bị anh ta đem ra làm mắm, giữa tiếng hoan hô hùa theo của các thi sĩ che tàn
nhóm “văn phiệt”.
Có lẽ ông Hoài Thanh,
bạn của nhóm Thế Lữ, thấy mấy bài thơ của tôi (sự thực hồi đó mới chỉ có năm ba
bài thôi) đã gây ra một cuộc sóng gió xôn xao trong làng thơ Bắc Việt mà ông
phao vu ngay rằng tôi “đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng…” chăng?
Chiêng, trống, xập xoèng, là do người ta đánh lên đấy chứ, mà nhứt là do tay
Thế Lữ, như thể một cuộc báo động kinh khủng vậy! Chớ riêng tôi, chỉ lặng lẽ
đưa Tập thơ Đầu mỏng mảnh kia ra, không hề dám ho lên một tiếng!
Tôi biết ông Hoài Thanh
là một người phục thơ Thế Lữ, nhưng phục thơ Thế Lữ thì ông cứ tự do ca tụng
nhà Thơ ấy, chứ sao ông lại hùa theo chàng mà vác gậy đập tôi? Đập tôi, sau rồi
lại vuốt ve tôi?
Ông Hoài Thanh muốn mạt
sát tôi, ông phê bình tôi có “cái lối ăn mặc và điệu bộ lố lăng”… Lối ăn mặc
của tôi hồi ấy là lối ăn mặc của một người sinh viên nghèo. Tóc không có
brillantine để chải cho bóng, quần áo của bạn bè giúp cho, sơ mi rách vá, giày
tây há mồm. Ông Hoài Thanh là nhà tư bản giàu sang, y phục bảnh bao, thấy tôi
áo quần xốc xếch như vậy thì cho rằng tôi “ăn mặc và điệu bộ lố lăng”?? Có
phải “điệu bộ lố lăng” là điệu bộ của một chàng thanh niên trời rét mướt
không có áo trench-coat như ông, không có pardessus, không có mũ, đi đâu cũng
phải đút hai tay trong quần cho đỡ lạnh mà vẫn run run cầm cập? Có phải thế
không?
Ông giới thiệu tôi như
thế với người của thế hệ, thì thật là vinh dự cho tôi quá!
Nhưng dù sao, ông Hoài
Thanh viết một quyển sách văn học sử, mà ông phê bình cả lối “ăn mặc lố lăng”
và “chiêng, trống, xập xoèng”, thì tôi thấy ông đi quá mức rồi đó. Ông viết một
quyển sách để lại cho hậu thế mà y như ông viết một bài báo cho độc giả nhất
thời, để thỏa mãn một thái độ cá nhân của ông, thì ông kém cả lễ độ văn hóa vừa
nhận xét chủ quan quá đáng, không xứng đáng một tác giả ký tên trên một quyển
sách nhan đề Thi nhân Việt Nam.
Về phần giá trị văn thơ
của tôi, ông mâu thuẫn với ông một cách rất bất ngờ. Ở đoạn trên, ông viết:
“Lúc đầu, ta thấy con người ấy không có gì”, “rất tầm thường”, rồi đoạn dưới
ông viết: “người ta thấy Nguyễn Vỹ sáng tạo ra một nhạc điệu riêng…” Rồi ông
lại viết: “Bài Gửi Trương Tửu thật là một kiệt tác”. Ủa! Té ra “con
người rất tầm thường” kia, “chỉ lòe với những kẻ tầm thường” mà lại có thể
“sáng tạo ra một nhạc điệu riêng” và viết ra “một kiệt tác” như ông nói ư? Ông
lại viết: “Ta xem thơ, có thể khóc lên được”. Thưa ông, tôi không dám ạ, ông
khen quá lời. Nhưng ông Hoài Thanh khóc thật à? Ông vừa mới cười tôi là “lố lăng”,
ông vừa trề môi khinh khi tôi là “tầm thường”, rồi đọc bài thơ Gửi Trương
Tửu, ông rỉ rả hai giòng châu lệ?
Ông Hoài Thanh giống hệt Thế Lữ. Viết chửi tôi thậm tệ hôm tháng trước, rồi tháng sau đi với Vũ Hoàng Chương đến nhà tôi mà xin lỗi và khen tôi “thâm trầm cảm động”! Tôi không phục thái độ phi văn hóa ấy.
Ông Hoài Thanh giống hệt Thế Lữ. Viết chửi tôi thậm tệ hôm tháng trước, rồi tháng sau đi với Vũ Hoàng Chương đến nhà tôi mà xin lỗi và khen tôi “thâm trầm cảm động”! Tôi không phục thái độ phi văn hóa ấy.
Tập thơ Đầu xuất
bản năm 1934. Ông Hoài Thanh viết về tôi trong Thi nhân Việt Nam năm
1941, năm 1941. Trong thời gian vỏn vẹn 7 năm qua, tôi bị tù một lần sáu tháng
(1937) và một lần 5 năm (1940 -1945). Thành thử ngoài Tập thơ Đầu chỉ
có 5 hay 6 bài, bị Thế Lữ công kích nhiệt liệt, nhất là bài Đức thánh Đồng
đen, tôi chỉ còn đăng rải rác trong hai tờ tuần báo Văn nghệ bài Gửi
Trương Tửu và Sương rơi, và một vài bài gì nữa thôi. Ngoài ra, tôi
bận công việc khác, không có thì giờ làm thơ đăng báo.
Một lý do nữa là hồi đó
tôi mới có 22 tuổi gì đó thôi và tôi tin rằng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm về
đời, chưa sống nhiều, chưa đau khổ nhiều, tâm hồn chưa rắn rỏi, tư tưởng chưa
cô đọng, thi tứ chưa phong phú, tình cảm chưa dồi dào, thì không nên làm thơ
vội.
Mãi đến khi ở tù ra lần
sau này, tôi mới đáp lại tiếng gọi của tâm hồn thơ rạo rực từ lâu. Tôi đã viết
vài trăm bài mà đến nay vẫn chưa có điều kiện in thành sách được. Vậy thì ông
Hoài Thanh viết trong Thi nhân Việt Nam “Trường thơ Bạch Nga của
Nguyễn Vỹ chỉ còn lưu lại một bài Sương rơi”, tôi sợ ông nhận xét có hơi
vội vàng quá chăng? Ông ấy làm như thể tôi đã chết năm 1941 rồi, không còn ở
trên trần gian để làm thơ được nữa! Tôi mới bị đi ở tù, chớ đã rục xương đâu,
mà ông ấy đã quả quyết như đã đậy nắp hòm cho tôi rồi vậy! Cứ nói đến 1941, thì
ông chỉ kể 1 bài Sương rơi, vậy chớ bài Gửi Trương Tửu, mà ông vừa
đọc vừa khóc thảm thiết đó, không phải là Thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ ư? Té ra
ông ấy cũng chẳng hiểu Thơ Bạch Nga là gì! Thế mà ông ấy dám viết sách về văn
học sử. Ông Hoài Thanh táo bạo thật!
Tôi viết bài này chỉ đáp
lại thịnh tình của một số đông bạn làng thơ của thế hệ ngày nay, đã nhiều lần
yêu cầu tôi cho biết ý kiến về bài nói đến tôi trong quyền Thi nhân Việt
Nam.
Lâu nay, tôi đã chủ
trương nhiều tờ báo và tạp chí văn nghệ, nhưng tôi không muốn nói đến quyền
sách ấy. Vì tôi nghĩ không cần phải vội xác minh thái độ đối với một chương
sách nói đến tôi từ năm 1941, trong lúc tôi bị tù. Và tôi nghĩ rằng sớm hay
muộn tôi cũng sẽ ra mấy quyển thơ, trong đó tôi sẽ đặt dấu chấm trên chữ i.
Ngày nay, tôi rất tiếc
ông Hoài Thanh không có mặt ở Việt Nam tự do (Sài Gòn trước 1975- LLVH). Nhưng
tôi có phần tin chắc rằng bằng cách này hay cách khác tạp chí Phổ thông
vẫn lén lút ra đến Hà Nội. Vậy nếu đọc bài này ông Hoài Thanh muốn trả lời trên
một tờ báo nào ở ngoài ấy, tôi sẽ tìm đọc ông. Và nếu ông muốn, tôi sẽ đăng bài
trả lời của ông trên tạp chí Phổ thông.
Có điều xin ông biết
rằng ngày nay ông không thể dìm tôi được nữa như hồi 1941. Chứng cớ là lúc
quyển sách ra đời thì tôi bị ở tù nhưng 18 năm sau, đến nay tôi vẫn có cơ hội
chỉ những chỗ sai lầm ác ý của ông và nhận xét chân tướng của quyển sách vô giá
trị kia.
Trả lờiXóaeva air việt nam
cách mua vé máy bay đi mỹ
korean air vn
vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich