Hoài Thanh, tri âm của thi nhân
Lịch sử văn học Việt Nam
thế kỷ XX không thể không nhắc đến Hoài Thanh. Người ta nhắc đến ông không phải
vì ông đã từng giữ những trọng trách quan trọng trong giới văn nghệ. Người ta
nhắc đến ông cũng không chỉ vì hồi nào ông đã góp phần làm cho văn đàn sôi động
hẳn lên vì cuộc tranh luận “nghệ thuật vì nghệ thuật”. Người ta nhắc đến ông là
nhắc đến một nhà văn, một nhà phê bình văn học, một tri âm của thi nhân, một
tri âm của thơ ca. Mà quả đúng như vậy, những gì ông viết cách đây ngót nửa thế
kỷ vẫn giữ nguyên giá trị. Những gì ông viết về Thơ mới vẫn chưa ai vượt qua.
Chúng ta cảm ơn ông, cả phong trào Thơ mới biết ơn ông. Nếu phong trào Thơ mới
ra đời vào năm 1932, thì chỉ 10 năm sau đó (1942) ông đã làm công việc của một
người tổng kết. Và lạ lùng thay những tổng kết có tính chất tức thời của ông
cho đến bây giờ vẫn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.
Tưởng cũng nên nhắc lại
một chút rằng Thi nhân Việt Nam mà ông viết chung với Hoài Chân cũng đã trải
qua nhiều thăng trầm. Có một thời người ta không thừa nhận nó, bởi vì nó dám
khen cái “thứ” thơ buồn. Rồi ngay đến ông, tác giả của nó, cũng hơn một lần
chối bỏ nó. Hồi ấy Thơ mới gần như bị phủ định. Một cuốn sách viết về nó cũng
không có lẽ gì mà tồn tại. Hoài Thanh đã không vượt ra được ngoài cái hoàn cảnh
“gặp thời thế thế thời phải thế” ấy. Năm 1964 ông viết : “Tất nhiên cuốn sách
chúng tôi đã tác hại nhiều. Nhất là chúng tôi đã nói những điều sai lầm ấy với
một giọng chân thành thiết tha”, và “Chắc chắn cuốn Thi nhân Việt Nam đã làm
vướng chân một số anh chị em tìm đường cứu nước”. Rồi ông cao giọng cảnh tỉnh
những ai đó còn say mê Thi nhân Việt Nam : “Đối với tiếng nói Thi nhân Việt Nam
thiết tưởng cũng phải đề phòng”. Kể ra nói như vậy là hết, tưởng không phải nói
gì thêm nữa. Thế rồi miền Nam giải phóng. Vào Nam, Hoài Thanh thấy Thi nhân
Việt Nam vẫn được mến mộ của đông đảo bạn đọc, nhất là giới học sinh sinh viên.
Sự mến mộ này khiến ông không yên lòng. Và một lần ông lại “nói thêm” để phê
phán Thi nhân Việt Nam. Ấy là vào 1977. Lần này ông viết nhẹ nhàng hơn, nhưng
cũng không kém phần quyết liệt : “Ngày nay hòa bình đã lập lại, hoàn cảnh đã
đổi khác. Trong hoàn cảnh mới, nên chăng nhìn lại Thi nhân Việt Nam một cách
khác ? Tôi nghĩ chúng ta sẽ tiếp tục trân trọng phần hay, phần đẹp trong Thơ
mới như ta vẫn trân trọng trước đây. Nhưng phần ấy không phải là phần chính”.
Năm năm sau khi viết những dòng này thì ông mất (3. 1982). Không biết trong Di
bút ông có viết gì khác không, chứ căn cứ vào những gì ông đã viết, đã công bố,
kể cả trong tuyển tập in sau này ông mất, thì cho đến khi về nơi chín suối, ông
vẫn xem Thi nhân Việt Nam là lỗi lầm của một thời.
Rồi những năm 80 ngọn
gió đổi mới đã đưa lại những cách nhìn khác đối với những giá trị cũ. Thơ mới
được đánh giá lại công bằng hơn, khách quan hơn. Và dĩ nhiên Thi nhân Việt Nam
cũng được đánh giá lại, nhìn nhận lại. Năm 1988, Hội nghiên cứu và giảng dạy
Việt Nam TP Hồ Chí Minh đã cùng với NXB Văn học in lại Thi nhân Việt Nam trong
tủ sách Tinh hoa văn học. Rồi năm sau đó, NXB Văn học lại tái bản lần nữa...
Trong Lời cuối sách cho bản in 1988, GS Lê Đình Kỵ chính thức định vị lại cho
Thi nhân Việt Nam sau bao thăng trầm : “Cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh
và Hoài Chân trước sau ý kiến hầu như thống nhất, coi đó là tác phẩm hay nhất
đã viết về Thơ mới”.
Thế là qua bao thăng
trầm của thế sự, Thi nhân Việt Nam cuối cùng đã được trả về đúng vị trí của nó,
đúng giá trị của nó. Đó là cuốn sách hay nhất viết về Thơ mới, và cũng là một
trong những cuốn sách hay nhất của phê bình văn học Việt Nam.
Để đạt được thành công đó, trước hết phải nói
đến tài năng cảm thụ văn học của tác giả. Chính tài năng này đã khiến cho Hoài
Thanh cảm thụ được những cái hay nhất của Thơ mới. Và chính tài năng này đã đưa
ông trở thành tri âm của thi nhân, của thi ca. Sinh thời Hoài Thanh rất ngại
người ta gọi mình là nhà phê bình. Trong mấy lời Nhỏ toThi nhân Việt Nam, ông
đã từng tâm sự : “Cuốn sách này ra đời, cái điều tôi ngại nhất là sẽ mang tên
nhà phê bình. Hai chữ phê bình nghe sao nó khó chịu quá. Nhưng phê ? Sao lại
phê ? Hoài Thanh không muốn làm nhà phê bình với thi nhân mà ông muốn cùng họ
chia sẻ những tâm sự buồn vui trong thơ ca. Ông từng nói rằng : “Thích một bài
thơ thực chất là thích một con người đồng điệu”, “Mỗi bài thơ hay là một cánh
cửa mở đi sâu vào một tâm hồn”. Hay nói khác đi, muốn hiểu được thơ người khác
thì phải là một tri âm với nhà thơ. Cho nên đọc những gì ông viết ra, chúng ta
thấy không chỉ là một sự thấu hiểu rất mực về văn chương, mà còn là sự hiểu
thấu rất mực về tâm hồn. Những câu thơ ông trích, ông bình đều rất đúng với tâm
trạng, tình cảm, suy tư mà thi nhân gởi gắm trong đó. Hãy đọc lời ông bình về
thơ Anh Thơ : “Chỉ ít bông hoa mướp, một lũ chuồn chuồn mà Anh Thơ gợi nên cả
cái không khí thu : in cuối cuốn
Hoa mướp rụng từng đóa
vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng
ngẩn ngơ bay.”
Hay đọc nỗi lòng ông
chia sẻ cùng Bàng Bá Lân : “Tả cảnh trưa hè trong một gian nhà tranh tịch mịch,
người viết :
Bụi nằm lâu chán xà nhà
Mười bốn chữ, chữ nào
cũng mang nặng một chút hồn ! Thiết tưởng người ta không thể đi vào cảnh vật xứ
quê hơn nữa”. Hay ông mơ màng cùng Xuân Diệu : “Xuân Diệu có hai câu thơ thiệt
hay :
Con đường nho nhỏ, gió
xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng
trở chiều
Chính là hai câu thơ tả
cảnh. Nhưng cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất đi một tí rõ ràng
để được thêm rất nhiều thơ mộng”. Hầu như không có lời bình nào lại không chứng
tỏ sự hiểu thấu tấc lòng thi nhân của ông. Ông không chỉ tìm đúng, hiểu đúng
những câu thơ hay của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ mà ông cũng chắt chiu từng câu
thơ hay của Lan Sơn, Thức Tề, của Thu Hồng, Nguyễn Vỹ... Nếu không có sự tri âm
sẽ không có được sự cảm nhận ấy.
Đặc biệt Hoài Thanh hiểu
rất đúng, cảm nhận rất chính xác hồn thơ của từng người. Với ai ông cũng chỉ ra
rất đúng nét riêng của họ. 45 gương mặt thi nhân trong Thi nhân Việt Nam không
một ai lẫn vào ai, dù họ là người đã nổi tiếng hay chỉ mới dăm ba bài hay thậm
chí mới chỉ có một vài câu đọc được. Chẳng hạn, ông vẽ chân dung thơ Mộng Tuyết
: "Hoặc nhẹ nhàng, hoặc hí hởn, hoặc hàm súc lâm ly, hoặc nhớ nhung bát
ngát, hoặc xôn xao rạo rực, tuồng chi là lời một thiếu nữ, khi tự tình,
khi đùa giỡn, khi tạ lòng người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như
khi được đọc thư tình gửi cho một người bạn : người thấy mình đã phạm vào chỗ
riêng tư của một tâm hồn, trong tay dường như đang nắm cả một niềm ân ái”. Hoặc
ông nói về cái đặc sắc của văn Xuân Diệu : “Ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ
chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói, hay như người ngoại quốc mới
võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái dáng bỡ ngỡ ấy chính là chỗ
Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những đường có
sẵn. Ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn phải lung lay”. Hoài Thanh hiểu thi sĩ đến
độ với mỗi người ông chỉ cần dùng vài chữ thôi là đã thâu tóm được cái thần
thái của họ. Ông viết : “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao
giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất
hiện cùng một lúc hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê
mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn
như Xuân Diệu.”.
Để tri âm được với thi
nhân, Hoài Thanh đưa lên đầu tiêu chuẩn khách quan trong việc đánh giá thơ. Ông
không vì yêu người mà khen thơ, cũng không vì ghét người mà chê thơ. Câu thơ có
cái hay cái dở riêng của nó. Ông viết : “Trong các nhà thơ cũng nhiều người tôi
gặp giữa đời. Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tôi lại toàn cử chỉ rất
mực xấu xa. Họ phủ phàng, họ nhỏ nhen... Trái lại có những nhà thơ tử tế
với tôi vô cùng mà thơ của học tôi chỉ thích...có hạn. Nếu bảo rằng tôi không
ái ngại người này, không khinh ghét người kia thì không thực. Nhưng ái ngại hay
khinh ghét, khi xem thơ tôi chỉ biết có thơ”. Sau này cũng có lần ông tâm sự :
“Trong lĩnh vực thơ văn yêu quý nhau là một chuyện, yêu quý thơ văn nhau lại là
một chuyện khác”. Chính quan niệm này đã giúp cho ông thẩm định đúng, hiểu đúng
cái hay dở của thơ từng người, tránh được sự nể nang, cũng như quy chụp trong
đánh giá. Chính vì lẽ đó nên dù trong phê bình Hoài Thanh tuy nghiêng về nói
cái hay, cái đẹp của thơ mà gần như chưa bao giờ ông rơi vào sự “bốc thơm” một
cách vô lý. Với ông tiêu chuẩn cao nhất là cái hay, cái đẹp. Ai đó đã từng
trách ông phê bình nặng về “duy mỹ” nghĩ cũng thật vô lý. Ô hay phê bình thơ là
phê bình cái hay cái đẹp mà không duy mỹ thì còn “duy” cái gì cơ chứ ?
Hoài Thanh cũng cho rằng
muốn phê bình được thơ thì phải tìm thơ hợp với mình. Ông viết : “Liệu thơ
không hợp với mình, không thể viết được, thì tôi không viết. Xin nói rõ thêm :
không hợp không nhất thiết là không hay. Thơ hay cũng có thể không hợp”. Hoài
Thanh rất nhiều lần nhắc đến chữ “tạng” của mình. Ông cho tìm được thơ hợp với
“tạng” mình rất quan trọng. Đó không chỉ là một thái độ cẩn trọng, mà chứng tỏ
sự am hiểu rất mực về văn chương, khác hẳn kiểu nhà phê bình thấy cái gì cũng
có thể “nhảy” vào được. Đó cũng là lý do giải thích sự gặt hái thành công
của Hoài Thanh trong phê bình văn học.
Ngày xưa, Lưu Hiệp, một
nhà lý luận văn học Trung Quốc cổ trong tác phẩm Văn tâm điêu long nổi tiếng đã
từng viết : “Tri âm thực khó thay, âm đã khó tri, người tri khó gặp, gặp kẻ tri
âm, nghìn năm có một.” Trong cuộc đời cũng như trong văn chương gặp được kẻ tri
âm kể ra cũng khó. May mắn cho phong trào Thơ mới, ngay từ buổi đầu đã gặp
người tri âm, cho nên chỉ 10 năm sau khi xuất hiện đã có được một cuốn như Thi
nhân Việt Nam.
Trả lờiXóave may bay eva airline
đặt vé máy bay đi mỹ online
mua ve may bay hang korean air
giá vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich