Âm nhạc luôn luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần con người. Nó không chỉ phản ánh tâm tư, tình cảm, cảm xúc mà thông qua âm nhạc, người ta còn biết đến văn hóa của một dân tộc. Xuất phát từ ý nghĩa trên, chúng tôi đã chọn: “Văn hóa âm nhạc Việt Nam trong quan hệ giao lưu tiếp biến với phương Tây – nhìn từ nhạc khí” làm đề tài nghiên cứu.
VĂN HÓA ÂM NHẠC VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ GIAO LƯU TIẾP BIẾN VỚI PHƯƠNG TÂY- NHÌN TỪ
NHẠC KHÍ
Ngô Anh Đào - ĐH KHXH & NV TP. HCM
Nghiên cứu văn hóa âm nhạc Việt Nam - nhìn từ nhạc khí với hai quá trình dân
tộc hóa và hiện đại hóa không phải là một đề tài mới, đã có một số công trình
của các tác giả như: Nguyễn Thụy Loan (Lược sử âm nhạc Việt Nam), (Thuờng thức
về âm nhạc cổ truyền Việt Nam và lịch sử âm nhạc); Tô Vũ (Sức sống của âm nhạc
truyền thống Việt Nam), Võ Thanh Tùng (Nhạc khí dân tộc Việt)...Tuy nhiên, đa
số các công trình đều hướng về quan điểm chung: xem việc dân tộc hóa hay hiện
đại hóa nhạc cụ là một biểu hiện của tinh thần dân tộc. Do đó, trong bài nghiên
cứu này, chúng tôi tiếp cận dưới góc độ văn hóa học, nhận định quan hệ giao lưu
tiếp biến văn hóa cũng như tính linh hoạt của văn hóa Việt mới là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sự cải tiến, thay đổi ở nhạc khí Việt Nam.
Nhạc khí là một trong những thành tố quan trọng, góp phần tạo nên nét đặc trưng
riêng trong văn hóa âm nhạc của mỗi dân tộc. Ở buổi bình minh lịch sử, con
người biết đến âm nhạc, trước hết là ở giọng hát và những âm thanh phát ra từ
các loại nhạc cụ. Trống đồng, khèn bàu hay đàn đá vừa phục vụ cho các nghi thức
tín ngưỡng, tôn giáo, vừa đáp ứng nhu cầu thưởng thức âm nhạc của cộng đồng.
Như vậy, ngay từ giai đoạn sơ khai, âm nhạc đã gắn với nhạc khí. Nếu âm nhạc là
nội dung thì nhạc khí là hình thức để biểu hiện nội dung đó. Vì thế, muốn biết
về văn hóa âm nhạc của một dân tộc, ta có thể bắt đầu từ việc tìm hiểu hệ thống
nhạc cụ của dân tộc đó và ngược lại. Xét trên bình diện tổng thể, văn hoá âm
nhạc cũng là một thành tố của văn hóa. Do vậy, ít hoặc nhiều, nó sẽ phản ánh
phần nào về văn hoá Việt Nam .
Trên thế giới, theo xu hướng phổ biến của giới nghiên cứu âm nhạc , đặc biệt là
phương Tây, khi nói đến nhạc khí, điều trước tiên là người ta phân loại thành
các bộ, tiếp đến xem cụ thể từng bộ gồm những loại gì, rồi mới xét về nguồn
gốc, thời điểm ra đời, đặc điểm cụ thể... của từng nhạc cụ. Tất cả các loại
nhạc khí, nhìn chung, đều được quy về ba bộ chính: bộ gõ, bộ dây và bộ hơi. Dựa
trên nguyên tắc có nguồn phát âm và cách phát âm tương đối giống nhau, chúng sẽ
được xếp vào cùng một bộ và có thể bố trí ở gần nhau khi cùng nằm trong một dàn
nhạc.
Ở Việt Nam, sự phân chia không diễn ra theo cách thức thông thường đó mà có nét
khác biệt. Dựa vào nguồn gốc và tính chất thời gian: “cổ” hay “kim”, người ta
phân chia thành hai hệ chính: hệ nhạc khí truyền thống (là những nhạc khí hiện
diện từ rất lâu đời, có nguồn gốc phương Đông, đã nhập vào truyền thống âm nhạc
dân tộc như: tỳ bà, tranh, nguyệt....) và hệ nhạc khí mới (những nhạc khí đến
từ phương Tây, có thời gian du nhập tương đối gần ngày nay so với đại bộ phận
các nhạc khí truyền thống, như: violon, guitar, piano...), tự bản thân trong
trong mỗi hệ đó, mới có sự chia nhỏ thành các bộ. Đến lượt mình, các bộ lại
tiếp tục phân thành các “họ”.[1]
[1] * Bộ Dây gồm hai họ nhỏ: họ dây gảy và họ dây kéo
* Bộ Gõ gồm hai họ nhỏ: họ màng rung và họ tự thân vang
* Bộ Hơi gồm hai họ nhỏ: họ ống thẳng và họ ống loe
Theo dòng chảy thời gian cùng với quy luật phát triển về mọi mặt, hệ nhạc khí
ngày càng định hình rõ nét và không ngừng mở rộng. Từ thế kỷ XV trở đi, sự nhân
lên về số lượng các loại nhạc khí có nguồn gốc bản địa hay ngoại nhập và việc
xác định ngôn ngữ âm nhạc dân tộc bằng hệ thống thang âm ngũ cung, âm nhạc cổ
truyền nước ta bước vào thời kỳ ổn định, đi dần vào quỹ đạo chính thống, là một
điều kiện thuận lợi để dẫn đến sự ra đời của hàng loạt thể thức, loại hình nghệ
thuật mà ở đó, vai trò chủ đạo thuộc về âm nhạc (như ca trù, chèo, tuồng...).
Tuy nhiên, giống như bất kỳ một lĩnh vực nào khác cũng chịu sự chi phối của yếu
tố lịch sử - thời đại, hơn bốn thế kỷ phát triển và ổn định, âm nhạc Việt Nam
bước vào hành trình mới . Để tự bảo vệ mình, tồn tại mà vẫn gìn giữ, phát huy
được bản sắc trước làn sóng lan truyền mạnh mẽ của văn hoá phương Tây xuất hiện
ở cuối thế kỷ XIX, âm nhạc đã có những biến chuyển, thay đổi lớn cho phù hợp
với hoàn cảnh thực tế. Một quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa đã diễn ra ở
bộ phận nhạc khí với hai hình thức:dân tộc hóa nhạc cụ phương Tây và hiện đại
hóa nhạc cụ truyền thống. Quá trình đó vừa là sự khắc phục dần những nhược
điểm, đồng thời cũng là sự tiếp tục “phát triển những tinh hoa truyền thống
nhằm đáp ứng nhu cầu mới của nghệ thuật, đồng thời vẫn giữ được cốt cách, cái
hồn dân tộc”[Tô Vũ 1996: 157]. Trong một chừng mực nhất định nào đó, ta có thể
nhận thấy bản sắc văn hoá của dân tộc được biểu hiện trong âm nhạc.
Cuối thế kỷ XIX, cùng với sự xâm lược của người Pháp là việc thâm nhập văn hóa
Tây phương ở Việt Nam. Trong âm nhạc, âm nhạc Pháp rồi âm nhạc Tây Âu đủ loại
tràn vào nước ta theo nhiều nguồn, nhiều hình thức khác nhau. Âm nhạc từ nhà
thờ, từ những đội kèn đồng quân viễn chinh, âm nhạc qua máy, đĩa hát, màn ảnh,
phòng trà,sách vở....được tuyên truyền một cách rộng rãi. Công chúng dần quen
với những âm thanh lạ đến từ các nhạc cụ phương Tây và bắt đầu sao nhãng, thờ ơ
với âm nhạc cổ truyền. Nguy cơ nghệ thuật âm nhạc dân tộc sẽ bị nhấn chìm được
một số tầng lớp xã hội cấp tiến, có tinh thần dân tộc nhận thức. Trước tình
hình đó, để tiếp tục bảo tồn và gìn giữ tinh hoa mà ông cha để lại, đồng thời
với việc phát huy chúng và bắt kịp theo yêu cầu nghệ thuật của thời đại mới thì
sự biến đổi dựa trên nền tảng truyền thống của âm nhạc dân tộc là một vấn đề
cấp thiết phải thực hiện. Do vậy, ở giai đoạn này, các hiện tượng mới lần lượt
xuất hiện và một trong số đó, nổi bật là hình thức dân tộc hóa nhạc khí phương
Tây.
Nhạc khí phương Tây là những loại nhạc cụ có nguồn gốc từ âm nhạc dân gian Châu
Âu (như mandolin, guitar, bangio....) hoặc âm nhạc cung đình (như violon,
celle, flúte, oboa...), du nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, không
phải bất cứ nhạc cụ nào cũng thích hợp cho việc dân tộc hoá, mà ngược lại, nó
chỉ áp dụng đối với những loại có âm sắc thích hợp,có khả năng biểu hiện những
ngón đàn đặc trưng của âm nhạc cổ truyền.
Trong biên chế của dàn nhạc giao hưởng phương Tây, với hình dáng gọn, đẹp, âm
thanh du dương, biểu biễn được nhiều ngón kỹ xảo phong phú, violon luôn được
xếp ở vị trí đầu bảng. Về nguyên lý nhạc khí học, nó cùng loại với những cây
đàn cò, đàn gáo. [Tô Vũ 2002: 168]
Cấu tạo của violon gồm: thùng đàn , mặt đàn với hai lỗ mở hình chữ f, thân đàn
khuyết ở giữa theo đường nét chữ C và hậu đàn. Đi kèm với nó là archet –là một
que gỗ dài và cong, một đầu có mấu, một đầu có bộ phận căng dây.Túm lông đuôi
ngựa khoảng 150 sợi được lắp vào mấu đầu archet và bộ phận căng dây dàn thành
một mặt phẳng rộng 6mm, dài 65cm [ Trịnh Tuân 2004: 16-17].
Về đặc điểm kỹ thuật, violon có 4 dây, có tầm cữ là 3 quãng 8. Tuy nhiên, với
điểm xuất phát là Châu Âu- nơi mà đặc điểm âm nhạc về cơ bản hoàn toàn khác
nước ta cho nên, khi “gia nhập” vào “gia đình” nhạc cụ truyền thống Việt, bao
gồm nhiều loại như tranh, kìm, cò, nguyệt...., violon buộc phải có sự cải biến.
Violon chính thống vốn lên dây theo quãng 5 đúng liên tiếp (Sol – Re- La –Mi)
[Tô Vũ 2002: 169]. Cách lên dây kiểu này nhằm tạo ra những âm vực rộng, thích
thích nghi với hình thức độc tấu trong dàn nhạc giao hưởng phương Tây. Nhưng
nay, khi ở trong một dàn nhạc phương Đông, tính chất tổng hợp được đặt lên hàng
đầu, đòi hỏi tất cả các nhạc cụ có mặt đều phải hoà hợp với nhau và âm thanh
giữa chúng không lấn át, không chỏi nhau. Vì vậy, violon đã được so dây lại
theo kiểu “Xề buông” (Hò- Xê- Liu- Xế) hoặc “Xề bóp” (Hò – Xang- Liu- Xế) [ Tô
Vũ 2002: 169] .Và một sự cải tiến nữa cũng được thực hiện với cây violon “Việt
Nam” là “vận dụng lối bấm phím của kìm, cò”[2] [Tô Vũ 2002: 170] để tạo ra ngón
rung- một trong những ngón sở trường của các nhạc cụ truyền thống nước ta nhằm
mục đích là tạo ra âm thanh ngân dài hơn, vang hơn.
[2] Lối bấm phím của kìm cò: để tạo ra âm thanh có độ vang, ngân dài, không
dùng ngón út bấm thẳng vào vị trí cần thiết trên dây đàn mà dùng ngón áp út
“rà” trên dây đến vị trí đó).
2.2 Cải tiến cây đàn Ghita phương Tây thành cây đàn Ghita Việt Nam (Ghita phím
lõm)
Ghita phím lõm được cải tiến từ cây đàn ghita phương Tây. Xét theo nguyên lý
nhạc khí học, nó thuộc họ dây gảy, giống như ghita cổ điển. Tuy nhiên, về cấu
tạo, phím của ghita cổ điển rất cạn nên âm phát ra không sâu, nhạc công không
có những ngón rung, ngón nhấn để tạo hiệu ứng đặc biệt cho âm thanh . Do đó,
khi đến Việt Nam, đặc biệt là khi tham gia trong dàn nhạc tài tử, cải lương, nó
đã có sự thay đổi.
Thùng đàn và cần đàn được làm dẹp hơn, trên cần đàn, khoảng cách giữa hai ô phím được khoét sâu hơn một chút để có thể vừa bấm, vừa rung dây đàn, nhờ vậy, người diễn tấu có thể tô điểm thêm cho tiếng đàn của mình với những âm sắc khác nhau, bộc lộ được sắc thái tình cảm phong phú của bản nhạc cũng như của nghệ sỹ. Ghita phím lõm nhanh chóng trở thành một thành viên trong hệ thống nhạc khí truyền thống . Ưu điểm nổi trội nhất của nó là có thể nhấn nhá giống như đàn kìm khi chơi nhạc tài tử, có thể thích ứng với các loại hơi (Bắc, Nam) do có nhiều cách so dây và dễ dàng dịch giọng phù hợp với các loại giọng hát có tông khác nhau do hệ thống dây nhiều và bàn phím vẫn để theo thang bình quân của âm nhạc phương Tây.Ghita phím lõm không hề gặp trở ngại gì khi đàn các bài “ta” hoặc khi hoà tấu với các loại nhạc khí truyền thống khác. Nó được xem như nhạc khí phương Tây thích nghi nhất, phù hợp nhất để tham gia vào “biên chế” dàn nhạc dân tộc.
Thùng đàn và cần đàn được làm dẹp hơn, trên cần đàn, khoảng cách giữa hai ô phím được khoét sâu hơn một chút để có thể vừa bấm, vừa rung dây đàn, nhờ vậy, người diễn tấu có thể tô điểm thêm cho tiếng đàn của mình với những âm sắc khác nhau, bộc lộ được sắc thái tình cảm phong phú của bản nhạc cũng như của nghệ sỹ. Ghita phím lõm nhanh chóng trở thành một thành viên trong hệ thống nhạc khí truyền thống . Ưu điểm nổi trội nhất của nó là có thể nhấn nhá giống như đàn kìm khi chơi nhạc tài tử, có thể thích ứng với các loại hơi (Bắc, Nam) do có nhiều cách so dây và dễ dàng dịch giọng phù hợp với các loại giọng hát có tông khác nhau do hệ thống dây nhiều và bàn phím vẫn để theo thang bình quân của âm nhạc phương Tây.Ghita phím lõm không hề gặp trở ngại gì khi đàn các bài “ta” hoặc khi hoà tấu với các loại nhạc khí truyền thống khác. Nó được xem như nhạc khí phương Tây thích nghi nhất, phù hợp nhất để tham gia vào “biên chế” dàn nhạc dân tộc.
Trong điều kiện xã hội mới với nhiều chuyển biến, thị hiếu thẩm mỹ trong nghệ
thuật cũng đã có ít nhiều thay đổi không còn như trước, bên cạnh việc dân tộc
hóa một số nhạc cụ có nguồn gốc từ phương Tây thì một phương thức cũng rất cần
thiết và góp phần không nhỏ cho sự bảo tồn, phát huy tinh hoa âm nhạc cổ
truyền, đó chính là sự hiện đại hóa nhạc cụ truyền thống. Quá trình hiện đại
hóa thực chất là cải tiến cách sử dụng, áp dụng “sự phát triển của kỹ thuật
nhằm mở rộng, nâng cao hiệu suất nhạc khí” [ Tô Vũ 1996: 162].Tuỳ thuộc vào yêu
cầu và đặc điểm của từng loại nhạc cụ mà người ta có thể tiến hành hiện đại hóa
hay giữ nguyên những hình thức trước nay của chúng. Đàn tranh, đàn bầu là những
nhạc khí được ưu tiên hiện đại hóa vì chúng vừa có thể độc tấu, vừa có thể hoà
tấu trong cả dàn nhạc phương Đông cổ truyền lẫn dàn nhạc phương Tây hiện đại.
Chính nhờ khả năng thích ứng cao và đặc biệt là ở một bối cảnh mới , đàn tranh,
đàn bầu cho phép các nhà nhạc khí học Việt Nam tìm đến những sự tìm tòi, thử nghiệm
trong nghệ thuật mà trước đây chưa từng được ứng dụng.
Thông qua sự cải tiến, những ngón á [3] [Trần Văn Khê : 230], ngón rung [4] [Võ Thanh Tùng 2001: 47-48], ngón nhấn [5][ Võ Thanh Tùng 2001: 45] - sở trường của âm nhạc cổ truyền sẽ càng phát huy
Thông qua sự cải tiến, những ngón á [3] [Trần Văn Khê : 230], ngón rung [4] [Võ Thanh Tùng 2001: 47-48], ngón nhấn [5][ Võ Thanh Tùng 2001: 45] - sở trường của âm nhạc cổ truyền sẽ càng phát huy
thế mạnh của mình hơn nữa, góp phần làm phong phú thêm sắc thái của nhạc dân
tộc.
[3] Ngón á: kỹ thuật dùng ngón tay cái của bàn tay phải kéo dài từ dây đàn
giọng cao xuống dây đàn giọng thấp.
[4] Ngón rung: là kỹ thuật lay nhẹ đầu ngón tay bấm trên dây hoặc đặt ngón tay
xuống cung đàn, dùng gân ngón bấm vít dây xuống rồi lại thả ra đều đặn cho đến
hết trường độ của nốt nhạc
[5] Ngón nhấn: kỹ thuật dùng ngón bấm xuống dây. Hiệu quả: tạo nên âm thanh
nghe cao hơn,diễn tả được những chữ đặc biệt như Công non, Oan.
Đàn tranh thuộc họ dây gảy, cấu tạo gồm các bộ phận như : khung, mặt đàn, cần
đàn, đáy đàn, dây đàn và các con nhạn. Dưới bàn tay thuần thục của Nguyễn Vĩnh
Bảo- một nhạc sỹ đàn tài tử nổi tiếng, đàn tranh được cải tiến. Trên cơ sở bảo
lưu những đặc điểm vốn có, nó chỉ có một số biến đổi như: cải cách hình dáng
các con nhạn để chúng tiếp xúc chắc hơn với mặt đàn, tăng số lượng dây đàn từ
16 lên 19, 21 hoặc 24 dây. Với chiếc đàn tranh mới này, âm thanh thoát ra vang
hơn, khoảng âm trầm đầy đặn, màu âm đẹp, đều, âm vực rộng hơn, cách so dây đa
dạng tương thích với một số điệu thức, những ngón á, nhấn được thực hiện dễ
dàng.
3.2 Đàn bầu
Đàn bầu là nhạc khí độc đáo, hoàn toàn được sáng tạo nên bởi người Việt Nam. Nó
gồm một thùng đàn, mặt đàn, hộp cộng hưởng làm từ vỏ quả bầu khô,1 sợi dây duy
nhất bằng thép được căng xéo giữa cần và trục đàn. Với đặc điểm nổi bật là sử
dụng những bồi âm nên âm thanh phát ra nghe mềm mại, ngọt ngào, sâu lắng. Tuy
nhiên, đây vừa là ưu điểm cũng vừa là nhược điểm . Do âm thanh của bồi âm rất
hạn chế về âm lượng nên đàn bầu khó có thể trình diễn trước đám đông. Khi khoa
học kỹ thuật phát triển, điện khí hoá diễn ra trong nhiều lĩnh vực thì đàn bầu
được cải tiến bằng cách gắn pick up để âm thanh vang to hơn. Nhờ tần số âm
lượng phát ra to hơn và màu âm trầm, bổng đặc sắc vẫn không mất đi, đàn bầu
hoàn toàn có thể yên tâm khi độc tấu hay hoà tấu với dàn nhạc phương Đông,
phương Tây mà không lo bị âm thanh của các nhạc cụ khác lấn át.
Việc dân tộc hóa nhạc cụ nước ngoài hay hiện đại hóa nhạc cụ truyền thống, nhìn
chung, điều quan trọng nhất là vấn đề: làm sao cho cây đàn đó phải “diễn tả
được ngôn ngữ âm nhạc”[ Trần Văn Khê :221] dân tộc, các kỹ thuật rung, nhấn, á
thực hiện một cách dễ dàng mà vẫn đảm bảo “tiếng đàn phát ra rất Việt Nam”
[Trần Văn Khê 2004 :221], không bị ngọng nghịu hay bị phô, biểu lộ tâm tư, tình
cảm, tâm hồn Việt.
Tóm lại, dân tộc hóa nhạc cụ phương Tây và hiện đại hóa nhạc cụ truyền thống là
một kết quả tất yếu của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Nếu văn hóa
phương Tây, mà cụ thể hơn là âm nhạc Châu Âu không xuất hiện và phổ biến rộng
rãi thì âm nhạc truyền thống Việt Nam sẽ không có sự chuyển biến, không nảy
sinh những “hiện tượng” mới và có lẽ, nó vẫn đứng yên và tồn tại như trước đây.
Ngược lại, sự hiện diện của những làn sóng âm nhạc đến từ một phương trời xa
xôi, với rất nhiều điểm khác biệt với tinh thần cổ truyền đã tạo ra bước phát
triển trong âm nhạc. Những nét bản sắc được gìn giữ, bảo tồn cùng với việc tiếp
thu có chọn lọc những yếu tố ngoại nhập tích cực, góp phần củng cố, làm phong
phú thêm, đồng thời phát huy mạnh mẽ tinh hoa truyền thống của văn hoá âm nhạc
dân tộc. Qua quá trình giao lưu, tiếp biến diễn ra trong văn hoá âm nhạc, ta
còn thấy được nét bản sắc độc đáo của văn hoá Việt Nam, đó là tính linh hoạt
“có khả năng thích nghi cao với mọi tình huống, mọi biến đổi” [ Trần Ngọc Thêm
2004: 577]và tính tổng hợp dựa trên cái nền ổn định có sẵn tạo nên “những sản
phẩm mang bản sắc Việt Nam” [Trần Ngọc Thêm 2004: 578].
Trả lờiXóahãng bay eva
vé máy bay đi boston mỹ
số điện thoại hãng korean air
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich