Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

Hoài Khanh sầu xanh vườn cô liêu

Hoài Khanh sầu xanh vườn cô liêu 
Từ năm 1959, nhà thơ Bùi Giáng đã có những cảm nhận độc đáo về Hoài Khanh qua tác phẩm Dâng Rừng, tập thơ đầu tay của thi sĩ :
“Chỉ yêu là một nụ cười
Chỉ đau lòng lệ của người mà thôi
Ai lên mà hỏi được trời
Vì sao nhân thế hay cười lại đau
Qua sông là một nhịp cầu
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung
Anh chưa quá 20 tuổi, anh viết những vần thơ mà Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh nghe được phải lạnh mình trước cái vĩ đại hồn nhiên lẫm liệt của tài hoa chưa ráo máu đầu. Cái vẻ ngây thơ thăm thẳm của lời thơ, chỉ những thiên tài xuất chúng mới có được.”*
Bước đi của thi sĩ Hoài Khanh không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết, trôi dạt bập bềnh lênh đênh như một cánh lục bình, lưu linh lạc địa qua hàng ngàn bến sông đời rồi mà vẫn còn trên những nhịp sầu cô liêu lặng lẽ. Nghe những tiếng lòng tơ tưởng chợt tan vỡ thanh âm trầm thống rờn lạnh buốt hoang lương :
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian
Ta nghe lòng vỡ cung đàn
Hồn âm thanh rợn chiều hoang lá cành
Ơi chao ! Trào tuôn một nỗi u buồn ngút ngàn phiêu linh lãng đãng, chập chùng sương khói hoang vu phủ xuống những nhịp cầu sông xa quạnh quẽ, chập chờn trăng nước vàng thu mờ lau lách xạc xào, áo não gió mưa bay:
Bến sông này bến sông này
Trăng xưa phủ xuống hàng cây gục đầu
Người xưa chừ biết là đâu
Này trăng gió cũ này câu giã từ
Lối đi vàng nhạt mùa thu
Nghe lau lách động niềm u uất buồn
Mắt người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm
Trầm ca chi mà đứt ruột đau ngầm. Thâm u ám phủ phù sa trong rã rời xa vắng, dằng dặc một mối sầu vạn đại không biết tâm sự cùng ai. Còn chi ý nghĩa nữa đâu, khi mọi sự đều đóng băng, cũ mốc, khô khan, nhạt nhẽo. Thôi thì chỉ ngắm trăng nhìn gió, ngó nước chảy mây bay mà khơi vơi bày tỏ cùng nàng thơ não nùng thùy mị rất mực gần gũi mà xa xôi:
1
Cũ rồi câu chuyện chia phôi
Nước sông xanh đó vẫn trôi lặng lờ
Suốt đời tôi chỉ làm thơ
Buồn không thể nói bây giờ than van
Làm sao nói được, trước những cuộc tương tàn tương sát, kinh hoàng tàn bạo của nhân loại cứ mãi còn gây bao chuyện chiến tranh, chiến đấu tiêu diệt lẫn nhau, những oan khiên nghiệt ngã, đọa đày cay đắng trong rợn rùng khủng bố, tàn phá và hủy diệt sự sống không ngừng:
Với ngày tháng ở sau lưng
Yêu em lòng thấy vô cùng đớn đau
Xung quanh còn có gì đâu
Nghe ầm tiếng súng đời sâu dưới mồ
Giống như nhà thơ Huy Cận: “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu” Hoài Khanh cũng cùng tâm trạng sầu mang mang đó, cho nên cứ vẫn lạc loài qua những nẻo độc hành đơn chiếc lẻ loi, bước lệch gót lữ dặm dài lao đao lảo đảo :
Phố khuya vọng bước tan tành
Ta đi lòng biết chẳng đành riêng tư
Lâu rồi vẫn một phù du
Ta cười giữa những ngục tù áo cơm
Tù ngục nào giam nhốt, vây khổn trong phù du ảo mộng, trong cuồng si, túy sinh mộng tử triền miên ? Khiến cho Thúy Kiều phải chịu đọa đày suốt mười lăm năm trời trầm luân khổ ải ? Phải chăng, đó là cái nghiệp mệnh của Thúy Kiều cũng như của muôn kiếp phù sinh bèo bọt lưu linh giữa mộng dời hư huyễn bể dâu ?
Mộng đời nát ngọc chìm châu
Bến mê vẫn rợn mấy màu trầm luân
Mười lăm năm bấy nhiêu lần
Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia ?
Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Có hay không, mộng hay thực… hỡi tồn sinh bức bách, để cho nhà thơ Hoài Khanh phải chạnh lòng thâm cảm trong niềm trắc ẩn khôn nguôi mà thốt lên một câu hỏi sững sờ cùng tuyệt thiết tha :
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê Nhà Bao Dung ?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
Trong cơn trường mộng vô cùng thời gian ?
Giữa đêm dài sinh tử mù mịt vô minh, cứ mãi lềnh bềnh trên dòng sông nghiệp chướng, vương mang thân phận lạc nẻo xa nguồn. Biết đâu là bờ bến, khi dòng

2
đời cứ vẫn vô tình trôi mông lung một cách lạnh lùng trong cô đơn cóng buốt :
Cuộc đời cứ lạnh lùng qua
Cuộc tình người cứ dần dà xuôi trôi
Một đêm ngửa mặt trông trời
Hoang lương cõi lạ giọng người bỗng đau
Đau khổ xao xuyến, đau đớn quằn quại, trải qua suốt muôn chiều hoang mang xuôi
ngược giữa biển trần ai vô thường dâu bể, bão loạn đoạn trường, đắm chìm trôi nổi trong mịt mù u tối, không biết đâu là nguồn cội :
Tôi trong cõi đó còn gì ?
Cây khô đá núi đất ghì giọt sương
Ngàn năm cát bụi vô thường
Sông kia bãi nọ đoạn trường riêng sao ?
Về trong cõi diệt sắc màu
Cây khô bình tịnh bóng nào âm dương
Người đi về giữa con đường
Xin cho tôi biết cội nguồn tôi đâu ?
Hỏi cho có hỏi vu vơ thế thôi, chứ thi nhân cũng thừa biết rồi, chính nền cơ khí kỹ thuật thời hiện đại đã làm băng hoại, tan hoang hết những giá trị tinh thần, tinh thể, những mộng đời xanh biếc, dặt dìu trăng gio yêu thương. Chính cái gọi là văn minh, khoa học đã tiêu diệt, giết hại hàng triệu triệu người. Còn chi đâu, ngoài nỗi điêu tàn phai úa, xiêu đổ rơi rụng hết rồi  :
Vào đời một trái tim côi
Bao phen rách nát giọng cười hỗn mang
Ai đâu một tấm lòng vàng
Hai mươi thế kỷ điêu tàn rồi chăng ?
Người ta đang thoát căn phần
Văn minh cơ khí giết dần thương yêu
Tương lai vào một buổi chiều
Đời người rồi cũng xế chiều chao ôi !
Sự nhạy cảm của thi sĩ báo hiệu, tiên đoán một ngày mai tiêu điều như thế, buổi hoàng hôn nhân loại cũng sắp phủ trùm xuống mặt đất cằn khô này rồi. Làm sao mà tránh khỏi não nề, tê tái, làm sao mà không đau nhói một nỗi hoài vọng dư vangngày tháng cũ dưới gót chân lữ thứ phong trần và lắng nghe trong  ưu phiền biển lệ máu sông mộng mị từng cơn gió rời rã phai nhòa :
Đã mòn một cánh chim bay
Hồn thanh niên bỗng đêm ngày ngẩn ngơ
Và tôi hột cát xa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ sương tan
Đi sông bến lạnh lên ngàn
Khóc thời xa cũ đã tàn thanh âm

3
Ngùi nghe trái đất thì thầm
Nhỏ dòng máu lệ kiếp trầm luân sâu
Sầu khúc rung ngân rờn rợn màu máu lệ, xót xa cho kiếp người cứ mãi luân hồi trong vòng trầm kha khổ đế. Mối sầu khốc liệt miên trường, ứa lệ cảm thương của
Hoài Khanh gợi nhớ đến nhà thơ Trần Tử Ngang thuở nào thấp thoáng hiện về heo hút cuối nẻo mù xa :
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tưôn giọt lệ
Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế, có ý nghĩa gì trong cuộc tồn sinh ? Khi mà giữa trời đất thiên nhiên, mây vẫn trôi nước vẫn chảy giữa hai bờ cách biệt nhớ thương. Ơi thương nhớ mênh mang trong sóng vỗ vô tình rong rêu xa mù nghi ngút mấy màu hiu hắt khói sương vây:
Quay về soi bóng dòng sâu
Nước kia cứ chảy về đâu biết gì ?
Bỗng nhiên lệ ướt vào mi
Sông đêm nào đó vẫn đi buồn buồn
Nước trôi nước có về nguồn
Và đôi bờ bến có thường nhớ nhau ?
Chiều nay chẳng hiểu vì đâu
Hai dòng nước mắt chìm sâu mặn nồng
Bồng bềnh một hình một bóng rong rêu lạc nẻo về. Vì sao như thế ? Vì sao cứ mãi cô đơn rờn lạnh trong nỗi buồn man dại tái tê, mặc dù thi nhân vẫn chan chứa vô lường thương yêu người em thi ca huyền mộng ? Yêu trong nỗi sầu riêng biệt, thiên cổ nhạt nhòa da diết miên man :
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà man dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường không em ?
Mỗi đêm gió nhớ trăng tìm
Bãi sông triều dậy đi niềm chia phôi
Lòng anh chiếc bóng bên trời
Ôi con sông đó dài trôi lặng lờ
Tình anh cũng chỉ bơ vơ
Một dòng sông nhỏ mịt mờ bóng sương
Sương khói tỏa mù vây phủ u buồn sầu thảm đạm khôn nguôi. Sầu ngậm ngùi rưng rức, rưng rưng nhức nhối nỗi quạnh vắng đìu hiu giữa cảnh xế chiều vàng vọt của Đông phương loang rờn trên mặt đất trần trụi đuối mộng trầm mê. Về đâu đây khi
4
tiếng hát lời ca đã tắt lịm trong lòng và cũng hết rồi những vấn vương thương nhớ ngỡ ngàng. Buổi xế tà của nhân loại quái ác đang bũa xuống âm u hiu hắt, nắng vàng tàn tạ quá đỗi lạnh se, le lói rạc rời, hỡi em, hỡi vạn hồn chiều phiêu hốt giữa hoang vắng tịch liêu:
Nhưng thôi buồn đã ra nhiều
Trong ta là vạn hồn chiều rưng rưng
Trong ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi
Tiễn đưa thì tiễn đưa rồi
Nhớ thương thì nhớ thương rồi người ơi!
Thương nhớ nàng thơ hay nhớ thương, tương tư mối tình thiên cổ nghìn thu nào mà da diết ngậm ngùi xiết kể, không thể nguôi ngoai ? Bàn tay thi nhân nhỏ quá làm sao bảo vệ, canh gác, nắm giữ được mùa hương sắc thanh xuân ? Đành bất lực  đứng nhìn hương sắc mong manh cứ dần dần phôi pha rã rụng xuống nghẹn ngào đổ gãy nát tàn phai :
Ai nghìn xưa ai nghìn sau
Tháng năm vàng xuống bờ lau tội tình
Thương làm sao nổi thân mình
Mà thương cho cả thế tình cũng đau
Bàn tay nhỏ quá đi rồi
Trái tim cũng lạnh cả trời mê hoang
Đem theo trăng nhớ rưng ngàn
Là đem theo cả điệu đàn quạnh hiu
Lang thang trong vạn hồn chiều
Nghe mùa gãy đổ dưới nhiều bến sông
Lời thơ nghe quằn quại, khắc khoải, nhức nhối một nỗi gì thấm thía chia phôi, nỗi sầu chết lặng bàng hoàng như thế, tưởng chừng như nặng trĩu nhiêu khê, không cách gì thoát ra được, nhưng mà cũng may mắn thay, vẫn còn người em thi ca và bằng hữu đó đây là có thể làm cho thi nhân khuây khỏa ít nhiều, trên những dặm dài nghi ngút khói bụi thì thào cô lữ long đong:
Bóng mây bọt nước qua cầu
Nửa đời thôi đã nát nhầu suy tư
Bây chừ thành phố mùa thu
Lá khô những lối hiền từ than van
Nhìn mây với nước xuôi tràn
Bước đi nghe vọng từng hàng tịch liêu
Thôi còn an ủi tình yêu
Bạn bè dăm đứa hắt hiu cuối trời
Và hy hữu làm sao, tân kỳ hơn nữa, nhất là vẫn còn thơ, một hồn thơ, một trời thơ
5
bát ngát thiên thanh vĩnh thúy, bao trùm lên trên thiên địa vạn cổ sầu. Hồn thơ huyền diệu đó đã đi về cứu độ, mở ra một phương trời cao rộng thênh thang cho thi sĩ. Một thi sĩ  bi tráng từng cúi xuống va chạm, đối mặt với tận hố thẳm cô liêu của chính mình.
Nói đến thơ là nhớ đến Phạm Công Thiện, một người bạn vong niên thân thiết của Hoài Khanh, đã có lần phát biểu về thơ : “Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ tự nói về thơ từ trong thơ đến trong thơ : Cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”**
Chính nhờ vào thần lực của thi ca mà Hoài Khanh vụt đứng dậy một cách vững vàng chứ không té ngã xuống vũng bùn lầy u tối u sầu:
Một lần thương một lần đau
Vần thơ tuyệt diễm mắt nào không cay
Nước ơi sông vẫn còn đây
Hồn ơi thơ vẫn lên đầy không trung
Cũng nhờ hồn thơ mênh mông, lồng lộng đó mà người thi sĩ cô đơn khốc liệt đã trót cưu mang mối sầu thiên cổ lụy, tự gánh lên vai gầy trĩu nặng oằn vai những nỗi nhớ niềm thương, những đoạn trường, xót xa vô kể. Thế mà vẫn bước đi lên rừng xuống biển đến tận chỗ sơn cùng lộ tuyệt thì đùng một cái, chợt hoát nhiên trực ngộ ra một điều quá giản dị đơn sơ mà hoằng đại thâm trầm :
Tâm thường trụ cõi thái hư
Trái tim máu chuyển dường như tội tình
Ngàn năm ôi chuyện tử sinh
Thoảng như một chú cá kình vẫy đuôi
Sáng trưng rực rỡ mặt trời
Vòng quay chung cuộc là rồi tối tăm
Ngàn năm ôi chuyện ngàn năm
Chỉ duy có một cái tâm mới là
Thế là trên cuộc lữ lang thang vạn lý sầu, bước đi của thi nhân đã chuyển sang một cung bậc trầm hùng, rung ngân bất tận. Ngân rung giữa trùng trùng duyên khởi với trời mây, bụi đất rồi cuối cùng nhẹ nhàng về lặng im thư thả:
Niềm im lặng của thiên nga
Là niềm im lặng của ta lạc loài
Niềm im lặng của mây trời
Là niềm đốn ngộ của loài thi nhân
Thiền sư thì ngộ đạo Tâm bất khả tư nghì, còn thi sĩ thì ngộ đạo Thơ cũng ly kỳ gay cấn, không thể nghĩ bàn. Kể từ vô lượng kiếp đến nay đã từng trải qua ba chìm bảy nổi biết bao nhiêu chuyện nặng nề tham lam, sân hận, si mê, đắm đuối hồng nhan trĩu đầy nghiệp chướng đến quên cả đường về. Rồi một hôm bất thần vẳng nghe lời Đức Phật giảng Kim Cang trong ánh bình minh tịch lặng:
Tham sân như cát sông Hằng
6
Đắm mê bóng sắc quên thân phận mình
Một hôm sực nhớ câu kinh
“Phải không chỗ trụ mà sanh tâm mình”
Ý thơ lấy từ câu kinh Kim Cang “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Đừng để tâm mình dính mắc vào bất cứ điều gì. Chỉ một câu đó thôi mà chú tiều Huệ Năng trở thành Lục Tổ Huệ Năng và Hoài Khanh cũng thầm nghe ra những gì vi diệu trong tận đáy lòng sâu thẳm im lìm :
Kiếp xưa nay có nguyên hình
Mà câu kinh cũ thình lình vọng âm
“Ưng vô sở trụ… kỳ tâm”
Mới hay vô trụ ngàn năm vẫn là
Vô sở trụ, vô sở cầu, vô sở đắc là những thanh âm sấm sét dữ dội từ Kim Cang vang rền như một cung đàn linh diệu có thần lực bảo hộ cho thi nhân tăng thêm năng lực vô úy, uy hùng đối mặt với mọi thứ ma vương quỷ sứ, đứng sừng sững vững vàng vững chãi, không hề nao núng, sợ hãi hay dao động chi cả:
Những điều quỷ nói với ma
Là trong tính thể nghe ra chết chìm
Những điều bướm nói với chim
Là trong tính thể đậm niềm yêu thương
Những điều gió nói với sương
Là trong tính thể cội nguồn mênh mông
Những điều biển nói với sông
Là tâm ơi hãy bao dung độ trì
Dù đời có lạc đường đi
Tâm ta mà vững thì chi sá nào?
Kinh Hoa Nghiêm tuyên bố: “Tất cả do tâm tạo” cũng như lời dặn dò của cha mẹ nhắn nhủ lại với con cái thân yêu, trước khi về trong cõi gió mây :
Bây giờ cha mẹ về đâu
Dường như trong gió vẳng câu thì thầm :
Ngàn năm hay vạn triệu năm
Người ta dẫu mất nhưng tâm vẫn còn
Chao ơi ! Chỉ cần thông suốt thấu hiểu một chữ tâm này thôi là thấu đạt liễu ngộ đạo Thiền. Thiền sư Huệ Năng nói : “Không phải gió động hay phướn động mà là tâm ông động.” Như vậy chứng tỏ, mọi sự đều do từ tâm mình thấy, tâm mình nghe, tâm mình tạo ra cả đấy thôi. Trời xanh mây trắng lồng lộng phong quang rạng rỡ ánh đạo nhiệm mầu bừng chiếu khắp nhân gian trổ ngát hương diệu tâm thâm thúy yêu thương :
Người về với ánh nhiệm mầu
Mấy ngàn năm đã qua cầu tử sinh
Đạo vàng ôi sắc hiển linh
7
Muôn đời vẫn vọng câu kinh độ trì
Muôn đời ánh đạo Từ Bi
Sẽ xua quỷ dữ sân si bạo tàn
Sẽ đem trả lại nhân gian
Cuộc sinh tồn ngát hoa vàng từ tâm
Hoa vàng ngan ngát phất phơ bờ cỏ dại, nhà thơ thoải mái thở phào nhẹ nhõm mỉm  
cười giữa vườn Cô Liêu của mình và thưởng thức những vệt nắng lấp lánh xanh vàng bên hiên chiều long lanh óng ả:
Thưa rằng trong cõi người ta
Tiến lên cũng có lúc sa xuống bùn
Xin đừng vọng tưởng xa phương
Trong ta hằng hữu cội nguồn chân như
Chân như, chân tâm, chân lý là lẽ thật muôn đời của vũ trụ nhân sinh, là thực tại hiện tiền, là sự tự do tự tại, luôn luôn có mặt hằng hữu trong ta. Chỉ cần ứng dụng được là mặc sức hý lộng phiêu bồng theo thể thái vô ngại thảnh thơi:
Tự do là nắng của trời
Là mây của gió là lời của yêu
Tự do là sớm của chiều
Là xương của máu là triều của sông
Tự do là cá hóa long
Là tâm vô úy giữa lòng phù sinh
Tự do là mộng của thơ
Là tình yêu buổi ban sơ đẹp hoài
Tự do tuyệt lắm người ơi
Mà loài độc ác muôn đời biết đâu
Tự do là sắc muôn màu
Trên đôi cánh hạc khởi đầu thiên di
Tâm Nhiên
* Bùi Giáng. Giảng Luận Về Chu Mạnh Trinh. Tân Việt xuất bản. Sài Gòn 1959
** Phạm Công Thiện. Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử. Hoa Kỳ 2009
Thơ Hoài Khanh trích trong các tác phẩm :
Gió Bấc Trẻ Nhỏ Đóa Hồng Và Dế. Nhà xuất bản Ca Dao. Sài Gòn 1970
Thân Phận. Nhà xuất bản Ca Dao. Sài Gòn 1972
Lục Bát. Nhà xuất bản Phương Đông. Tai bản lần thứ 3. TP. HCM 2009
Hương Sắc Mong Manh. Thư Ấn Quán xuất bản. Hoa Kỳ 2006.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Truyện ngắn của Đỗ Xuân Thu: Lão “Chõe Bò” Nhà văn Đỗ Xuân Thu vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Ông sinh năm 19...