Đọc thơ, cảm cái hay của thơ có khi khác với hiểu thơ. Hiểu
thơ là hiểu cặn kẽ chữ nghĩa, điển tích trong thơ còn việc cảm cái hay của
thơ đòi hỏi phải vận dụng cảm xúc. Cảm xúc là hoạt động tâm lí nhiều khi nằm
ở vô thức. Nó đối lập với ý thức. Cảm xúc đôi khi khó nói bởi nó không rành
mạch như lí trí. Cảm xúc thường đến trực tiếp - còn hiểu thơ thường
phải vận dụng bao nhiêu tri thức. Nhiều bài thơ thuở bé đọc ta thấy hay mà ta
chưa thực sự hiểu nhưng vẫn gây cảm xúc, in đậm mãi vào tâm trí…
Kỷ niệm về một bài thơ
Ở miền Nam, trước 1975 muốn vào học trường trung học công lập
phải qua kì thi tuyển gay go bởi tỉ lệ tuyển thường khá thấp. Vùng tôi ở,
hàng năm chỉ tuyển khoảng 20-30%. Đầu những năm sáu mươi, tôi được tuyển vào
học trường trung học công lập. Lúc này miền Nam còn nghèo, nhiều học sinh đến
trường còn đi chân đất, da sẫm màu, tóc cháy nắng vì đi bộ từ quê lên… vậy mà
vẫn sung sướng lắm. Ngồi trong lớp, tường xây gạch ba mươi, nhà hai tầng, lợp
ngói, chúng tôi rất hãnh diện. Nhìn lên bảng đen, nhìn thầy giáo anh nào cũng
chăm chú, cung cúc nghe theo lời thầy như những tên nô lệ
vâng lệnh chủ, vừa sợ vừa kính phục.
Tôi nhớ nhất những giờ Việt văn. Bấy giờ sở dĩ gọi là giờ Việt
văn mà không gọi là giờ Văn bởi nó khác với giờ Pháp văn, Anh văn, Hán
văn…Thời ấy học xong bài văn Việt nào, thầy giáo lại bắt
về nhà học thuộc lòng. Đến lớp dò bài, phải đọc trôi như cháo những đoạn văn
trích khá dài từ Tôi đi học của Thanh Tịnh, Trên lái
thán của Trần Cư, O chuột, Xóm Giếng ngày xưacủa Tô
Hoài… Phấn thông vàng của Xuân Diệu…và cơ man nào là thơ. Giờ Hán văn cũng học thuộc
lòng. Mỗi tuần một giờ Hán văn. Đến nay tôi vẫn còn thuộc được mấy bài thơ
Đường học từ những năm bé bỏng ấy. Tôi nhớ bấy giờ học bộ sách Giảng
văncủa thầy Nguyễn Quảng Tuân. Sách có nhiều thơ cổ, lại cũng có nhiều
bài mang nội dung lánh đời của các nhà Nho xưa. Chẳng hạn bấy giờ lũ
học sinh bé tí chúng tôi học bài thơ Cảnh
nhàncủa Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy lúc này chưa có một ý niệm gì về xuất-xử(1) mà
tôi vẫn ít nhiều cảm nhận được tâm trạng yếm thế của họ. Chúng tôi cũng chưa
thể hiểu hết nghĩa chữ “nhàn” nhưng cũng cảm được phần nào cái thảnh thơi vui
thú với thiên nhiên:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Thầy cứ đọc, trò cứ học. Xem ra bài thơ cũng dễ hiểu song câu thứ 5 có chữ “giá”
là khúc mắc. Thu ăn măng trúc – đông ăn giá.
Lúc này tôi mới khoảng 13, 14 tuổi nhưng cũng lí luận lắm, đọc
câu thơ thấy có vấn đề mà lại rụt rè không dám hỏi thầy; mà vị tất lúc này
tôi hỏi thầy đã giải thích được “ăn giá” là ăn gì? Ăngiá (đỗ),
hay ăn giá (băng)? Sách không chú thích mà thầy cũng không
bàn luận gì. Thôi thì cứ mặc nhiên hiểu là mỗi mùa có món ăn của đất trời
cung cấp. Câu thơ nói lên cái phóng khoáng trong cảnh ẩn dật: ăn uống giản dị
mà hợp lẽ tự nhiên - mùa nào thức nấy - mùa thu đã sẵn măng trúc của núi
rừng, mùa đông thì có “giá”…!.
Vậy nhưng “giá” ở đây là gì thì không rõ. Nếu là cây giá làm từ đậu (đỗ) thì mùa nào chẳng có, hà tất phải đợi đến mùa đông?! Bài thơ trong sách viết bằng quốc ngữ nên “giá” cũng có thể là băng giá chăng? Lại càng thậm vô lí bởi dân ta ở thế kỉ 16 làm gì đã có thói quen uống đá lạnh? Hơn nữa lại ở vùng nhiệt đới, miền đồng bằng Bắc bộ mùa đông dù lạnh mấy cũng đã làm gì có băng? Quả là điều khó hiểu! … “giá” trong câu thơ là vật gì?
Phải chăng là: “Thu ăn măng trúc đông ăn mía”?
Qua mấy năm học, bù đầu với bao nhiêu môn Toán, Lí, Hóa, Vạn
vật… rồi nào là Anh, Pháp văn, Triết học, Sử Địa… chuẩn bị cho 2 kì thi Tú
tài liền nhau… câu thơ Trạng Trình lui dần vào kí ức. Học xong trung học, lên
Đại học, học Việt Hán, Quốc âm… rồi lên Cao học với đề tài văn thơ Hán Nôm,
tôi lại lọ mọ tìm gốc gác của câu thơ. Sục vào thư viện trường rồi thư viện
thành phố… chưa tìm được bản thơ chữ Nôm nào của cụ Trạng thì chiến cuộc đã
đến hồi khốc liệt. Xếp bút nghiên… lại vật lộn với cuộc sống mấy mươi năm…
cho đến mãi gần đây tôi lại gắng tìm lời giải cho vấn nạn của 50 năm trước…
Ngẫm nghĩ chữ giá蔗 âm Hán-Việt là cây
mía. Có thể câu thơ chính là “Thu ăn măng trúc , đông ăn mía” chăng?
Cũng có lí… vì ở nông thôn xưa, mùa đông là mùa của mía, lúc này đã hết mưa,
trời hanh khô, mía ngọt. Người ta thường chặt mía vào tháng chạp, rồi cho
trâu kéo ép mía, lấy mật đựng vào chum ăn dần. Mía là đặc sản của mùa đông.
Vậy nhưng bài thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng chữ “giá” nào?
Nếu Cụ viết chữ “giá” là 蔗 (2) thì
đúng là cây mía rồi nhưng đây là thơ Nôm thì không thể viết là 蔗 để đọc làgiá và hiểu là mía được…
mà phải dùng đúng chữ “mía” Nôm: 𣖙 (mía = mộc + mỹ ;
chữ 美 “mỹ” bên phải dùng chỉ âm).
Một câu hỏi chưa lờ đáp
Giả thuyết đặt ra nhưng vấn đề cốt lõi là phải xem cho được tận
mắt bài thơ của cụ Trạng viết bằng chữ Nôm. Gắng tìm trên 400 văn bản Hán-Nôm
lưu trữ ở Thư viện Quốc gia, tôi chỉ được có 2 cuốn Bạch Vân Am thi
tập kí hiệu R.1917 và R.2017 cùng cuốn Bạch Vân am tiên sinh kí
hiệu R.101. Không có Bạch Vân quốc ngữ thi nên chẳng thể có
được bài thơ.
Bẵng đi một dạo…; mới đây, tôi viết thư cho Viện Nghiên cứu Hán
Nôm Hà Nội. May mắn làm sao - Viện đã tìm giúp cho cuốn“Trình Quốc công
Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập” và chụp cho 2 trang, gồm trang bìa tập
thơ và trang có chép bài thơ. Cuốn thơ được Viện đánh giá là tài liệu tốt
nhất về mảng thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Phiên âm quốc ngữ bài thơ trong ảnh trên:
Một mai một cuốc một thanh đao.
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.
Rượu đến bóng cây ta hãy uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Đọc bài thơ trên, quả đúng câu 5 là “Thu ăn măng trúc, đông
ăn giá” nhưng ngạc nhiên làm sao: chữ “giá” ở đây lại được
viết là 稼. Đến đây thì bao hồ nghi cũ đành
bỏ qua.
Câu thơ số 5 của bài thơ nhắc đến một thức thiên nhiên của mùa:
“giá” của mùa đông. Vậy nhưng đây lại là một điều bế tắc… “Giá”
稼 trong câu thơ hoàn toàn không phải là cây giá người
Việt ta vẫn thường dùng làm thức ăn. Người Trung Quốc không gọi những mầm mọc
từ hạt ngũ cốc là“giá” như ta thường gọi… mà gọi là “nha” 芽. Giá đậu (đỗ) ta ăn hàng ngày, họ gọi là đậu
nha 豆芽. Mầm lúa là mạch
nha 麥芽… còn chữ 稼 (đọc là giá) lại là cây lúa non, là cây mạ(3).
Sao thơ Trạng Trình lại dùng cây mạ làm thức ăn
mùa đông? Chẳng lẽ cụ Trạng lại nhầm về từ Hán-Nôm đến vậy sao?
Câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và truyện “Hương cuội ” của Nguyễn Tuân
Đến đây thì tôi đành bế tắc. Có anh bạn văn chương thấy việc khó
bèn góp ý lí giải câu thơ: nêu tập truyện Vang bóng một thời của
Nguyễn Tuân có truyện Hương cuội kể về bữa rượuThạch lan
hương của cụ Kép làng Mọc: …Mạch nha được làm từ cuối đông, đem bọc
vào những viên sỏi trắng, xếp một lượt lên những tờ giấy bản sắp lên mặt
những chậu lan đang trổ bông. Dùng những chiếc lồng phất giấy chụp lại, qua
mấy đêm, mạch nha nhiễm mùi hương thơm ngát của hoa lan. Bữa rượu Thạch
lan hương của cụ Kép đãi các bạn nhà Nho cùng thưởng hoa, ngâm thơ
đầu xuân là thú vui tao nhã…
Anh bạn tôi nêu nghi vấn: Hạt lúa vừa mọc mầm…làm ra mạch nha.
Biết đâu “giá” trong câu thơ của Trạng Trình là cây lúa non mới mọc từ
hạt lúa nếp cũng có thể dùng làm mạch nha, vật phẩm của mùa đông? Cụ Trạng
Trình viết câu số 5 của bài thơCảnh nhàn biết đâu lại chẳng muốn
nhắc đến một thú vui tao nhã của người ẩn dật như Nguyễn Tuân đã tả?
Nói nghe chơi vậy thôi chứ muốn nói đến mạch nha thì
chẳng thể dùng cây mạ non để thay thế được.
Rốt ráo “giá” (cây mạ) trong “đông ăn
giá” vẫn là điều khó hiểu.
CHÚ THÍCH:
(1) Xuất 出: ra làm việc nước, giúp đời.
Xử 處: lui về thôn dã ẩn dật, lánh đời.
(2) Giá 蔗 là cây mía.
(3) Trong tiếng Hán, cây mạ viết là 稼, gồm bộ hòa 禾 chỉ nghĩa, kết
hợp với chữ gia 家 chỉ âm.
|
||
Nguyễn Cẩm
Xuyên
|
(KIẾN THỨC NGÀY NAY số 839 ngày 30.11.2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét