|
Thơ và thiền là đôi cánh đại bàng tung bay trên bầu trời
Đông phương và Tây phương suốt từ nghìn xưa cho đến ngày nay.
Từ đỉnh ngàn cao tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn, thiền nghiêng cánh
xuống bay lượn khắp các tòng lâm, thiền viện, am cốc và thơ cũng tung lướt một
cách ngoạn mục từ bến sông Hằng, nơi Đức Phật đã khơi nguồn cảm hứng Chân Thiện
Mỹ.
Thi sĩ và thiền sư cùng gặp nhau giữa con đường phong quang
sáng tạo, thể hiện qua đạo và thơ.
Nhưng thi sĩ là ai?. Thiền sư là kẻ nào vậy?. Phải chăng đó
là những tâm hồn đốn ngộ lẽ đời sinh tử đọa đày, thống khổ điêu linh, đã vượt
qua chính mình để cất lên tiếng hát bất sinh bất diệt, thiên thu vĩnh cửu như
Chứng Đạo Ca của thiền sư Huyền Giác và truyện Thúy Kiều của thi sĩ Nguyễn Du?.
Truyện Kiều, không ai mà không biết, không ai mà không thuộc
lòng một vài câu, một vài đoạn trong toàn bộ tập trường ca dài 3254 câu lục
bát tuyệt hảo vô song của bậc thiên tài đại thi hào dân tộc.
Bồng bềnh giữa biển đời chập chùng ba đào bão táp, trải qua
nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, Nguyễn Du đã phiêu bạt giang hồ suốt 10
năm long đong ròng rã, từng ngao du sơn thủy khắp 99 ngọn núi cao đầy mây trắng
sương mù Hồng Lĩnh ở quê nhà và đã chứng kiến biết bao nỗi đời tang thương thảm
thiết, biết bao vô thường khổ lụy của bi đát sinh linh.
Trải qua quá trình lịch nghiệm, chlêm nghiệm tự thân rồi thấu
triệt, thông suốt và lãnh hội vô tự chân kinh ngay giữa lòng mình, nên Nguyễn
Du đã sáng tác tựu thành Đoạn Trường Tân Thanh một cách diễm lệ, diệu thường
như thế.
Thi phẩm độc đáo vô tiền khoáng hậu này là tiếng lòng của
Nguyễn Du vẫn còn ngân nga đồng vọng giữa vạn đại miên trường. Một tiếng lòng
yêu thương cõi người ta vô biên vô lượng. Thương cho nỗi đoạn trường dâu bể
xót xa:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lòng thi nhân vẫn rào rạt rung ngân bất tuyệt tận cõi nào
vô vi rực ngời lửa tâm thức, đốt cháy tập khí lâu đời và cặn bã của ngôn ngữ
loài người để mở rộng khai thông những tinh lực dữ dội đọng lại trong âm
thanh vũ trụ càn khôn lồng lộng. Tiếng lòng ấy đã ứng vào cõi hồn thục nữ
thùy mị Thúy Kiều giữa một chiều du xuân xuất thần phất phới:
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi
Bồi hồi lai láng tận đáy hồn vốn đã cưu mang, dung chứa sẵn
rồi bao nỗi niềm tha thiết bao dung. Chao ơi ! Chạnh lòng xót xa cho nỗi đời
dâu bể thê lương mà Thúy Kiều ( hay Nguyễn Du ) dạt dào vô lường thương cảm
trong da diết âm thầm :
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa
Những giọt lệ rưng rưng xúc động, cứ mãi long lanh, thánh
thót trong tâm hồn đa cảm ngân rung:
Rằng trong buổi mới lạ lùng
Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang
Đã lòng quân tử đa mang
Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung
Cầm lòng sao đặng, khi Thúy Kiều vào một chiều du xuân, bất
ngờ kỳ ngộ cùng Kim Trọng, trong một niềm chi tương ứng trọn vẹn, tràn đầy:
Vắng nhà được buổi hôm nay
Lắng lòng gọi chút sang đây tạ lòng
Tóc tơ căn dặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
Nhưng rồi: Ngày vui ngắn chẳng đầy gan. Chưa vui sum họp
đã ngàn chia phôi...
Ơi chao ! Đoạn trường chi hỡi Thúy Kiều suốt 15 năm trời
luân lạc tha phương, cũng hoa trôi bèo dạt, lạc loài theo suốt suối lòng lê
thê lệ đẫm:
Ngập ngừng thẹn lục e hồng
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen
Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm
Lối mòn cỏ lợt màu sương
Lòng quê đi một bước đường ruột đau
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm
Phải chăng, đó là tâm lượng thương yêu dồi dào vô hạn mà
thi sĩ muốn trao tặng, gởi gắm tấm chân tình linh diệu cho hậu thế phải không?:
Lỡ làng gạn đục khơi trong
Trăm năm để một tấm lòng từ đây
Tấm lòng thi nhân gởi lại cho trần gian cát bụi dường như
muốn nhắn nhủ điều chi hay trao một thông điệp tối thượng mà đơn sơ giản dị
khôn dè:
Tẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai ?
Ồ ! Thì ra chung quy hết thảy mọi sự trên cõi đời này xảy
ra cũng do tự nơi lòng mình, từ tâm mình đấy thôi.
Vâng, “Tất cả do tâm tạo” như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Tất cả
muôn loài vạn vật, đất trời, nhật nguyệt... đến những buồn vui, sướng khổ, được
mất, hơn thua, đúng sai, phải trái... của con người cũng đều khởi sinh từ
lòng sâu kín ruột rà của chính mình :
Sinh rằng : Phúc họa đạo trời
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra
Và nhà thơ nhấn mạnh, mạch nguồn cuộc sống của chúng ta là
tấm lòng thiên lương, thiện đức, là cõi Tâm Như thanh tịnh trinh tuyền:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài
Chữ tâm là chỉ cho tâm người, lòng người. Lòng người, tâm
người quả thật là bất khả tư nghì. Muốn nói về cái tâm cho đầy đủ ý nghĩa thì
không khác gì mình phải đọc lại toàn bộ Kinh Phật. Ở đây chúng ta có thể hiểu
sơ lược đại khái: Cái tâm có tác dụng ý niệm hóa, cái tâm chứa đựng kiến thức,
cái so sánh biện biệt, lý trí phán xét, cái trực giác nhận thức, sự tự lãnh hội,
cái tri nhận về bản thân, cái ý tưởng, vọng tưởng, tư tưởng, suy tưởng, những
cảm xúc, cảm giác, tư duy, tinh thần, tâm hồn, tâm linh, tâm trạng, những thần
thức, linh thức, thông minh, thông tuệ. Tất cả những gì mình có thể suy tư,
trầm tư, thấu suốt, thấu đạt, hiểu biết, ý thức, vô thức, tiềm thức. Tất cả
những điều vừa kể trên đều thuộc về tâm, hiểu theo nghĩa tục đế thông thường.
Còn hiểu theo nghĩa chân đế thì tâm là Diệu Tâm, Chân Tâm,
là Phật Tánh, Tánh Không, là Tánh Giác, Bát Nhã, là Chân Như, Tự Tánh vô sanh
bất diệt.
Cho nên, Thiền tông với chủ trương: “Tam giới duy tâm, vạn
pháp duy thức” phủ nhận mọi sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên ở bên
ngoài. Thiền quy định mọi khía cạnh, mọi giá trị cuộc đời về cho sức mạnh của
tự tâm. Như vậy, tâm có thể tạo ra Phật và chúng sinh, tâm tạo ra Niết Bàn và
sinh tử, thiên đường và địa ngục, hạnh phúc và khổ đau... Tâm tạo ra tất cả
vì tâm là chủ động của đời sống mỗi người trong chúng ta vậy.
Thấy tâm, trực tâm để lắng nghe lại tiếng lòng tha thiết
miên man vang dội
giữa thiên địa tuần hoàn, khiến chúng ta có nghe ra được tiếng gì vi diệu hay
trông thấy được điều chi kỳ tuyệt hiện hữu nhiệm mầu, ngay trong tâm hồn,
trong tận đáy lòng sâu thẳm của chính mình hay không ?
Trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh, thi sĩ cũng nhắc đi nhắc
lại nhiều lần chữ
lòng thuần nhiên, thuần phác mà suốt thấu sâu sắc đậm đà:
Chỉ một câu thơ đơn giản thôi, Nguyễn Du cũng đủ thần lực
gây chấn động, nhói buốt khắp ruột rà, xương xảu máu me của chúng ta. Quá
cùng xúc cảm, bàng hoàng trước cảnh phù sinh bèo bọt, có ai không muốn thoát
khỏi bọt bèo phù du ? Chỉ cần tỉnh thức, trực thấy ngay nơi lòng trong xanh
thanh tịnh của chính mình vốn là Phật đấy thôi:
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có câu rằng: Vạn cảnh giai không
Ai ai lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát ở trong luân hồi
Ơi chao ! Thanh âm trầm hùng, bùng vỡ từ lòng thi nhân vẫn
còn rung động sấm sét, vô cùng khủng khiếp như tuệ kiếm Kim Cang vung lên, chặt
đứt hết mọi xích xiềng, phiền não thê lương:
Mãn cảnh giai Không hà hữu tướng ?
Thử tâm thường định bất ly Thiền
( Khắp cõi là Không Tánh thì đâu có tướng ?
Tâm này thường định chẳng lìa Thiền )
Nguyễn Du đã viết hai vần thơ xuất thần nhập diệu trên
trong bài Đề Nhị Thanh Động ở Lạng Sơn, chứng tỏ cái thấy của thi sĩ không
khác gì của một thiền sư đã liễu ngộ đạo Thiền.
Tiếng Lòng, cõi Tâm hay Lòng Bồ Đề, Tâm Đại Bi vô lượng
thương yêu hết tất cả thập loại chúng sinh như trong bài Văn Tế Sống
Hai Cô Gái Trường Lưu đã được thi nhân viết từ khi còn rất trẻ, lúc tuổi
thanh xuân:
Tiếp đãi mấy đêm một mực
Lòng Bồ Đề hỷ xả từ bi
Xôn xao một khắc ngàn vàng
Đàn chẩn tế Ba La Bát Nhã
Bát Nhã Ba La là Trí Tuệ siêu việt. Như thế, bằng Trí Tuệ
siêu việt, bằng Tâm Đại Bi, Lòng Bồ Đề sâu rộng bao la mà nhà thơ đã thể hiện
thiết tha nhất quán đối với bao nhiêu thống khổ trầm kha của kiếp người qua
các tác phẩm thi ca bất hủ của bậc tài hoa vĩ đại Tố Như.
Chính “Lòng thơ lai láng bồi hồi” ấy đã chảy rạt rào trong
tư tưởng thượng thừa và cảm thức thấu thị tử sinh của thi nhân. Từ đó tuôn chảy
trong veo dào dạt vào tận đáy lòng trong trẻo tinh khôi của chúng ta, của
toàn thể dân tộc Việt, một dân tộc thi sĩ nhất trên mặt đất thân yêu này.
|
Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015
Nguyễn Du tiếng lòng thiên thu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Cái còn lại hóa cái không
Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét