Mở đầu Truyện Kiều có đoạn tả tài sắc hai thiếu nữ nhà họ
Vương, trong đó 4 câu, từ 19 đến 22 là để tả Thuý Vân; riêng câu 20 đã gây
nhiều tranh luận: “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở
nang” hay“khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang”?
“Khuôn lưng” hay “khuôn trăng”/ “nét
ngài” hay “nét người”? Câu hỏi làm tốn nhiều giấy mực. Hàng mấy chục năm
qua, người đọc thơ nêu nhiều thắc mắc xoay quanh những lí giải khác nhau giữa
các công trình biên soạn của các học giả đã chú thích, hiệu đính Truyện Kiều
bằng quốc ngữ. Bên cạnh những biên soạn của những người danh tiếng như
Trương Vĩnh Ký, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy
Anh, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn… lại xuất hiện
một số bài viết với các luận đoán sai vì chủ quan, vì chỉ biết Truyện Kiều
qua chữ quốc ngữ, không hiểu được cái phức tạp trong cấu trúc chữ nôm.
ĐIỂM MẤU CHỐT: VIỆC PHIÊN ÂM CÁC BẢN KIỀU NÔM
Truyện Kiều bao thế kỉ qua được mọi tầng lớp từ trí thức đến
bình dân ưa chuộng nên được khắc ván in nhiều lần bằng chữ nôm. Số lượng bản
Kiều nôm hiện sưu tầm được tương đối nhiều hơn so với các tác phẩm chữ nôm
khác. Ngoài các bản lưu trữ ở thư viện trong và ngoài nước, hiện nay tại kho
sách của ông Nguyễn Khắc Bảo, một thầy thuốc đông y ở Bắc Ninh có đến 52 bản
Kiều nôm cổ, trong đó có một bản chép tay được cho là cuốn đã được dùng làm mẫu
để khắc in bản Kiều nôm Liễu Văn Đường 1866. Tại đây cũng có một bản được sưu
tầm từ hậu duệ gia đình anh
trai thi hào Nguyễn Du là ông Nguyễn Trừ.
Nhiều bản Kiều nôm khác cũng đang được các học giả lưu giữ ở
thư viện riêng. Đây là những căn cứ giúp ta có thể phân biệt được đúng sai.
Để xác định được “khuôn lưng” hay “khuôn trăng”;
“nét ngài” hay “nét người” thì cần xem các
bản Kiều nôm cổ.
A- “KHUÔN LƯNG” hay
“KHUÔN TRĂNG”?
Trong chữ Hán, chữ nguyệt 月 và chữ nhục 肉
khác nhau - nhưng khi biến thành bộ(1), lại giống nhau, cùng viết là 月(2).
Ví dụ :
- Chữ lãng 朗 gồm bộ nguyệt 月 bên
phải và chữ lương 良 bên trái.
- Chữ hồ 胡 gồm bộ nhục 月bên
phải và chữ cổ 古 bên trái.
Tuy lãng và hồ có phần bên phải nhìn chẳng
có gì khác nhau cả nhưng phần giống nhau này lại là 2 bộ khác nhau.
Trong chữlãng là bộ nguyệt – còn trong chữ hồ là
bộ nhục. Chính vì vậy, có nhiều người nhầm. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay chữ
thế nhưng cũng nhầm! Cứ nghĩ họ hồ của mình được kết bởi 2 chữ cổ và nguyệt (胡
= 古+月), Hồ Xuân Hương đặt tên ngôi nhà ngâm vịnh thơ bên hồ Tây
là Cổ Nguyệt đường. Thật ra chữ hồ kết thành bởi 2 chữ
: cổ vànhục cho nên ngôi nhà này phải là Cổ Nhục đường mới
đúng.
Khi tạo hình chữ nôm, các nhà Nho nước ta cũng rơi vào tình
cảnh như vậy đối với 2 chữ:
Nhìn hai chữ thì tưởng hoàn toàn giống nhau đấy nhưng người
đọc văn nôm phải biết phân biệt theo ngữ cảnh, khi nào thì đọc là “lưng”, khi
nào lại đọc là “trăng”.
Nếu đọc là “lưng” thì phải biết bộ 月nằm phía trái là
bộ nhục (bởilưng thuộc thân thể, tất phải có thịt [nhục] trong
đó).
Nếu đọc là trăng thì bộ 月nằm phía trái lại là bộ nguyệt (trăng).
Điều oái oăm này đã xảy ra ở câu 20 của Truyện Kiều. Xin chứng
minh trong khuôn khổ 5 bản Kiều nôm:
(5). 4 chữ này được hầu hết các nhà nghiên cứu đọc là “khuôn
trăng đầy đặn”, chỉ có Trương Vĩnh Ký đã đọc là “khuôn lưng đầy đặn”. Gần đây
học giả Nguyễn Quảng Tuân cũng đã phiên âm 4 chữ này của bản Kinh 1870 là
“khuôn lưng đầy đặn”.
Một trang của bản Kiều nôm năm 1870 do học giả Nguyễn Quảng
Tuân trong chuyến đi Mỹ năm 2000 được GS. Đàm Quang Hưng tặng. Đây là bản viết
tay của Tiểu Tô Lâm – Noạ Phu chép tại kinh đô Huế năm 1870 khi đang làm quan
ở bộ Công dưới triều Tự Đức. (6)
(Trang chữ bắt đầu từ câu 15. Đọc theo hàng dọc, từ phải
sang.
Mỗi hàng dọc gồm 2 câu thơ.)
15. Đầu lòng hai ả tố nga.
16. Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
17. Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
18. Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
19. Vân xem
trang trọng khác vời,
20. Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang.
21. Hoa cười ngọc nói đoan trang,
22. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
23. Kiều càng sắc sảo mặn mà,
24. So bề tài sắc lại là phần hơn.
25. Nền thu thuỷ, thấp xuân sơn,
26. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
27. Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
28. Sắc đành có một, tài đành hoạ hai.
* Câu 18 và câu 20 có 2 chữ “người” được vòng mực đỏ.
Vấn đề đặt ra ở đây là: Vậy hiện nay, viết bằng quốc ngữ,
ta nên chép câu này là “Khuôn trăng đầy đặn” hay “khuôn lưng đầy
đặn”?
Nói nghe cũng kì nhưng quả thật chữ đọc
là trăng cũng được mà đọc là lưng cũng được. Nếu đọc
là trăng thì đây là câu thơ tả người thiếu nữ có khuôn mặt đầy đặn,
còn đọc là lưng thì lại hiểu ra là một nàng Thuý Vân mập mạp. Tuy vậy
nên đọc là “khuôn trăng” thì hơn.
Để giải thích lí do, xin trích sau đây lời kể của GS. Nguyễn
Huệ Chi:
“…Còn nhớ vào những năm gần giữa thập niên 60 thế kỷ XX, tại
Viện Văn học có những buổi tọa đàm sôi nổi nhằm góp ý cho bản Kiều khảo đính
và chú giải của Viện trước khi đem xuất bản trong dịp kỷ niệm 200 năm
năm sinh Nguyễn
Du (1965). Là một thành viên Tổ văn học Cổ cận đại của Viện lúc ấy, tuy mới
ra trường có mấy năm, tôi cũng được dự vào những cuộc thảo luận đó giữa các vị
học giả. Tôi nhớ đây là những buổi trao đổi, đối thoại rất cởi mở, người
trình bày và người góp ý đều có dịp bày tỏ hết chính kiến của mình. Vốn từng
bị định kiến bởi điển “mày tằm nằm” từ hồi còn học ở trường, khi bàn đến mấy
câu “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”, tôi
cứ thấy có điều gì đó chưa thật yên tâm.
Nghe các soạn giả cho biết còn có thể
phiên âm “Vân xem trang trọng khác vời/ tuy thế, chữ Nôm thường viết lẫn chứ không tách bạch rạch
ròi mà nghĩa vẫn thông với nhau - tôi hứng thú với cách phiên âm thứ hai và
giơ tay tỏ ý biểu đồng tình, nhất là khi nghe chính một nhà bác học như
Trương Vĩnh Ký từ lâu cũng đã từng phiên Khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang
(1875). Giữa lúc các soạn giả đang trầm ngâm cân nhắc ý kiến của tôi thì một
nhà nghiên cứu có mặt trong cuộc họp, ông Lại Ngọc Cang,
nay đã quá cố, bằng những lời sắc sảo, nêu câu hỏi chất vấn ngay. Theo ông,
trong việc lựa chọn dị bản của Truyện Kiều, bên cạnh các tiêu chí như tự dạng
chữ Nôm và ngữ âm học còn có tiêu chí cần hết sức chú trọng là quan niệm thẩm
mỹ của tác giả. Ca dao chúng ta thường nói đến “Những cô thắt
đáy lưng ong” để hình dung vẻ đẹp của phụ nữ. Thử tưởng tượng
một Thúy Vân “khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang” nghĩa là từ trên xuống dưới
thẳng đuột, không còn chỗ nào gọi là “eo” nữa thì trong mắt Nguyễn Du có còn
là “ả tố nga” (người đẹp) nữa hay không? Tất cả phòng họp chợt tỉnh ra và cười
ồ lên…”
Căn cứ vào mặt chữ không được, ta đành phải nhờ vào suy luận
dựa trên thực tế đời thường. Trước vấn đề này, An Chi cũng viết:“… Mới ở câu
thứ 17, Nguyễn Du còn tả hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân là "mai cốt
cách, (tuyết tinh thần)" thì có lẽ nào đến câu 20 ông lại "phản
phé" mà ''thổi'' Thúy Vân lên thành một người đẹp có thân hình nở nang?
Tiểu thuyết gia hạng xoàng còn chưa làm được như thế, huống hồ Nguyễn
Du!...” (7)
Vậy có lẽ không nên theo cách phiên âm của cụ Trương Vĩnh
Ký“khuôn lưng đầy đặn” được. Câu 20 nên đọc là “ khuôn trăng đầy đặn…”
B- “NÉT NGƯỜI” HAY “NÉT NGÀI” ?
Cái khó trong khi viết và đọc chữ nôm là thế. Đến “nét
ngài”- “nét người” cũng phức tạp không kém.
Cũng xem 5 câu nôm trích ở trên ta thấy:
Vậy nếu dùng bản Kinh đời Tự Đức 1870 chẳng hạn để phiên âm
thì câu 20 là “Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang”; còn nếu dùng
một số các bản Kiều nôm khác thì sẽ là “Khuôn trăng đầy đặn nétngài nở
nang”.
Hiện nay chưa ai biết được nguyên bản đầu tiên lúc cụ Nguyễn
Du viết ra sao. Bây giờ chỉ có những bản chép lại của người đời sau thì phải
tuân theo nguyên tắc là phiên âm trung thành với bản nôm có được. 2 bản nôm
khác nhau sẽ cho 2 bản quốc ngữ khác nhau.
- Đọc câu “Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang” ta
hình dung được một Thuý Vân có khuôn mặt đầy đặn với vẻ người tròn trịa,
khác với Thuý Kiều. Cách tả này có vẻ toàn diện hơn và ăn khớp hơn với câu
thơ trước đó : “Một người một vẻ mười phân vẹn mười”.
- Nếu là “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở
nang” thì câu thơ chỉ tả được mặt của Thuý Vân: giữa khuôn mặt đầy đặn
là nét mày ngài thanh tú đẹp đẽ(8). Cách tả này chỉ tập trung ở khuôn mặt,
không hay bằng cách tả trên. Vậy nhưng nghĩa cả hai câu đều có thể chấp nhận
được.
Đến đây ta khẳng định một điều ở câu 20: Tuỳ theo bản Kiều
nôm dùng để phiên âm mà bản quốc ngữ sẽ có chữ “ngài” hay “người”. Không thể
nào lí giải là vì thổ âm vùng Nghệ Tĩnh mà phát sinh ra bản Kiều viết
“người” thành “ngài” được bởi vì Nguyễn Du viết Kiều là viết bằng chữ
nôm chứ!
Ai lí giải là ở câu 20, Nguyễn Du viết chữ “người”
nhưng do thổ âm Nghệ Tĩnh mà viết lệch thành “ngài” là chứng tỏ không biết
gì về chữ nôm hoặc mơ hồ mà tưởng rằng thời Nguyễn Du đã dùng chữ quốc ngữ
(!).
CHÚ THÍCH:
(1) Tất cả chữ Hán tập hợp lại thành 214 bộ. Mỗi bộ gồm những
chữ cùng dùng chung một thành phần giống nhau. Thành phần dùng chung ấy được
gọi là bộ.
(2) Tình trạng này là đa số bên cạnh vài trường hợp đặc biệt
: trong vai trò bộ thủ nhục vẫn giữ nguyên tự dạng gốc; VD: chí 胾,
hủ 腐, luyến 臠, tí 胔
(3) http://www.nomna.org: Bản phiên âm của Nguyễn Quảng
Tuân.
(4) http://www.nomna.org: Bản phiên âm của Nguyễn Tài Cẩn.
(5) Chữ “đặn” nôm có thể viết nhiều cách:
(6) Sau khi nghiên cứu, khảo dị, học giả Nguyễn Quảng Tuân
đã có bài viết trên tạp chí Kiến thức Ngày nay số 368 ngày
1-11-2000 giới thiệu văn bản cổ này với các nhà nghiên cứu và các độc giả
trong nước. (An Introduction to Truyện Kiều - An electronic version;
http://nomfoundation.org/nom-project/Tale-of-Kieu).
(7) http://kienthucngaynay.info 07/06/2006.
(8) Theo An Chi thì “nét ngài nở nang” là chỉ là nét
lông mày rạng rỡ, tươi tắn. Cũng cùng ý này, Gs. Nguyễn Huệ Chi sau khi dẫn
chú thích của Nguyễn Thạch Giang: “nở nang: tươi tốt” đã nêu thêm chú thích của Đại
việt quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) : “nở nang ” có hai
nghĩa: 1. Nở ra tươi tốt; 2. Đẹp đẽ .
Vậy nét ngài nở nang nên hiểu là nét mày đẹp chứ
không nên hiểu là nét mày to, rậm.
Nguyễn Cẩm Xuyên
(KIẾN THỨC NGÀY NAY số 789 ngày 10/ 7/ 2012)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét