Nhà thơ Nguyên Sa đã yên nghỉ
mười năm ở California. Mọi vui buồn và được mất cũng đã lắng dịu đi, đủ để những
người bây giờ bình tâm phác thảo một chân dung thơ Nguyên Sa. Ông đã đến với
chúng ta, đã sống với chúng ta, đã rời xa chúng ta, và đã gửi lại những câu thơ
dâng hiến cả cuộc đời.
Thi sĩ Nguyên Sa (tên thật
Trần Bích Lan) sinh ngày 1/3/1932 tại Hà Nội, mất ngày 18/4/1998 tại Mỹ. Trong
cuốn hồi ký của mình, ông viết: "Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc
lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô
thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã
có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại bản
ngã khác biệt…". Vì vậy, để hiểu Nguyên Sa không có phương pháp nào đáng
tin cậy bằng sự nghiêm túc đọc lại thơ Nguyên Sa.
Xuất thân từ một gia đình
không liên quan gì đến văn chương nghệ thuật. Năm 17 tuổi, Nguyên Sa sang Pháp
du học. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông ghi danh vào khoa Triết, ĐH Sorbonne. Và
cuộc hạnh ngộ với bà Trịnh Thị Nga đã biến ông thành thi sĩ. Bài thơ nổi tiếng
đầu tiên của Nguyên Sa cũng là bài thơ đính hôn. Bài thơ có tên Nga được
in vào thiệp cưới của họ năm 1955: "Em đừng buồn như những chiếc lá tre
khô. Em đừng buồn như những nóc nhà thờ không có tuổi". Năm 1956, ông bà
đưa nhau về Sài Gòn sống bằng nghề dạy học. Không chỉ giảng dạy môn Triết cho
các trường trung học, họ còn mở ra hai trường tư thục Văn Học và Văn Khôi. Với
quan niệm bản thân "vốn dĩ chỉ là hạt cát", Trần Bích Lan lấy bút danh
Nguyên Sa và ngay lập tức lừng lẫy trên thi đàn.
Có thể do sự tình cờ hữu
duyên, những bài thơ phổ nhạc của Nguyên Sa lan tỏa rất nhanh vào đời sống, và
cho đến tận hôm nay, nhắc Nguyên Sa là người ta nghe vang lên trên môi Anh
vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn. Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh (Áo lụa Hà
Đông), hoặc Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh tôi mến lá sân
trường (Tuổi mười ba); hoặc Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm. Chả biết
tay ai làm lá sen (Paris có gì lạ không em) và Hãy biến cuộc đời
thành những tối tân hôn. Nếu em sợ thời gian dài vô tận (Tháng sáu trời
mưa).
Những bài thơ được phổ nhạc ấy
cứ bồng bềnh từ thế hệ này sang thế hệ kia, khiến nhiều bài thơ khác của Nguyên
Sa ít nhiều bị che khuất, kể cả những câu thơ độc đáo miêu tả chiếc áo dài dân
tộc Có phải em mang trên áo bay. Hai phần gió thổi, một phần mây. Hay là
em gói mây trong áo. Rồi thở cho làn áo trắng bay. Tuy nhiên, nếu đọc thơ
Nguyên Sa viết sau năm 1975 ở hải ngoại, vẫn nhận ra nét hào hoa riêng biệt. Trong
tập Hoa sen và hoa đào được sáng tác khoảng thời gian 1982-1988, có
những câu thơ mang đậm phong cách Nguyên Sa như Anh nhớ em ngồi áo trắng
thon. Ngàn năm còn mãi lúc gần quen. Em gầy như liễu trong thơ cổ. Anh bỏ trường
thi lúc Thịnh Đường hay Phương Đông vào chỗ hồng lên má. Chiều xuống
lưng chừng mái tóc thưa.
Nguyên Sa từng xuất bản cuốn
sách biên khảo triết học Descartes nhìn từ phương Đông, nhưng trả lời phỏng
vấn của nhà văn Vũ Bằng vào năm 1972, thì ông vẫn khẳng định: "Nói triết
lý sa sả, e rằng sẽ là người tự kiêu. Nhất là trong thơ, càng nhiều triết lý
càng mất tính cách của thơ. Theo tôi, thực chất của thơ là cái linh hồn, là sự
sống của những chữ ta dùng".
Suy nghiệm đó được Nguyên Sa
thể hiện rất rõ trong những bài lục bát. Thơ Việt Nam đã từng tự hào về lục bát
Nguyễn Du, lục bát Nguyễn Bính, lục bát Huy Cận thì có lẽ những ai yêu thể thơ
truyền thống cũng cần lưu ý lục bát Nguyên Sa. Sáu chữ và tám chữ được Nguyên
Sa vận hành khá tự nhiên và nhịp nhàng đến mức phẩm chất thi ca tuôn chảy vào
lòng độc giả một cách bất ngờ. Khi gặp Mây hồng bâng khuâng Những
chiều sương kín đầu non. Hỏi nhau nhè nhẹ sao buồn chi em, khi muốn Tháo
gỡ giăng mắc ngậm ngùi Ta nằm tháo gỡ cơn mưa. Cầu vồng tràn núi cũng
vừa bắc ngang. Trong thơ ta gọi là nàng. Nói năng lẫm liệt, tình càng thâm sâu.
Trời cao có núi bắc cầu. Trong ta vực thẳm cúi đầu nghe mưa, hoặc khi đăm
đắm Hiu quạnh thân phận Bỏ tay vào túi buổi chiều. Lấy ra hiu quạnh
với nhiều bản thân. Còn hiu quạnh chỗ mộ phần. Tấm bia màu trắng mấy lần quạnh
hiu, và khi hân hoan Ngày khỏi bệnh nhận ra: Thương ghê màu
áo hoa cà. Mộng mơ bật sáng trên da thịt người.
Những câu thơ mềm mại, linh
hoạt và ấm áp theo suốt cả cuộc đời Nguyên Sa, và lúc đến chặng đường hoàng hôn
số kiếp thi sĩ thì ông chợt ngộ Hiện tượng toàn diện để thả hồn tràn
theo nghĩ suy không kịp kết nối vần điệu: Lau khô một bông hoa không phải
chỉ là động tác của tay. Công việc đòi hỏi sự chú ý của thị giác, sự nhịp nhàng
của hô hấp và cả sự di chuyển trong một không gian. Đối mặt với căn bệnh
ung thư dạ dày hành hạ từng ngày, Nguyên Sa vẫn không rời bỏ thơ. Bài thơ Hóa
học trị liệu có thể xem như một cột mốc để đánh dấu những sáng tác tạ từ
nhân gian của ông.
"Tôi biết cây phong đứng
ở trước cửa bệnh viện nghĩ gì
Khi những chiếc lá phong buông tay ra
Làm thành những vòng tròn nhỏ
Những chiếc lá phong màu rượu chát rơi xuống một vị trí tên là mặt đất
Gió đưa những chiếc lá phong sang một vị trí khác cũng tên là mặt đất
Như thể vật nào cuối cùng cũng chỉ có cùng một tên"
Khi những chiếc lá phong buông tay ra
Làm thành những vòng tròn nhỏ
Những chiếc lá phong màu rượu chát rơi xuống một vị trí tên là mặt đất
Gió đưa những chiếc lá phong sang một vị trí khác cũng tên là mặt đất
Như thể vật nào cuối cùng cũng chỉ có cùng một tên"
Không thể nói khác hơn rằng,
22 bài thơ viết từ đầu năm 1998 đến lúc chia tay vĩnh viễn với Nàng thơ, đã cho
hậu thế thấy được một dòng chảy khác của thơ Nguyên Sa. Những câu thơ ngổn
ngang và giàu chất trí tuệ, không phải đến thình lình, mà có mạch nguồn trong
thao thức Nguyên Sa. Trên giường bệnh, có lẽ hơn một lần ông ưu tư về những bài
thơ mình viết đã được phổ nhạc truyền tụng khắp nơi: "Tôi đã làm xong bài
thơ để phổ nhạc. Nhưng bài nhạc chưa tới. Đến khi nó tới. Bài thơ nhất định bỏ
đi". Thật vậy, những bài thơ sau chót của Nguyên Sa hầu như không dành cho
âm nhạc, chỉ dành cho những chột dạ.
Nguyên Sa chột dạ về Mật
khẩu đời mình:
"Mỗi lần Thượng đế mở
toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Vì tôi cũng không nhớ"
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Vì tôi cũng không nhớ"
Nguyên Sa chột dạ về Ký
ức người vợ sắt son đi cùng ông suốt hành trình long đong duyên nợ:
"Em làm cho tà áo lượn
bay màu trắng ở quê hương xưa
trở thành màu hồng
Em làm thắp lên ngọn bạch lạp vào buổi sáng
ở trong lớp học
trong những giờ khắc yêu đương"
trở thành màu hồng
Em làm thắp lên ngọn bạch lạp vào buổi sáng
ở trong lớp học
trong những giờ khắc yêu đương"
Nguyên Sa chột dạ về những Mặt
nạ chập chờn lẩn khuất
"Chiếc mặt nạ ngay sát
lần da mặt, gắn vào hay tháo gỡ
đều đòi hỏi nhiều thời gian
Làn da mặt dính vào thịt xương gắn vào hay tháo gỡ càng lâu hơn
Không thể đo được thời gian tìm kiếm những chiếc mặt nạ
Ở dưới làn da mặt dính vào thịt xương"
Nguyên Sa chột dạ về Con sông ngược xuôi bất tận miền khát vọng
đều đòi hỏi nhiều thời gian
Làn da mặt dính vào thịt xương gắn vào hay tháo gỡ càng lâu hơn
Không thể đo được thời gian tìm kiếm những chiếc mặt nạ
Ở dưới làn da mặt dính vào thịt xương"
Nguyên Sa chột dạ về Con sông ngược xuôi bất tận miền khát vọng
"Suối cạn là nghĩa
trang biết thở dài của dòng sông
Sa mạc là nghĩa trang khác, nghĩa trang biết khóc của dòng sông
Vật nào cũng có hai nghĩa trang
Một vật bao giờ cũng có hai tên
Tên nó và tên ước mơ của nó
Nghĩa trang của nó và nghĩa trang của ước mơ
Có lúc tôi thích được gọi bằng tên tôi
Có lúc tôi thích được gọi bằng tên ước mơ của tôi
Đó là lý do tôi ký tên em khi làm thơ"
Sa mạc là nghĩa trang khác, nghĩa trang biết khóc của dòng sông
Vật nào cũng có hai nghĩa trang
Một vật bao giờ cũng có hai tên
Tên nó và tên ước mơ của nó
Nghĩa trang của nó và nghĩa trang của ước mơ
Có lúc tôi thích được gọi bằng tên tôi
Có lúc tôi thích được gọi bằng tên ước mơ của tôi
Đó là lý do tôi ký tên em khi làm thơ"
Thế nhưng, niềm riêng day dứt
nhất, đau đáu nhất của Nguyên sa trong những bài thơ cuối cùng là nỗi mong
ngóng thăm thẳm cố hương. Như "bài thơ" Nguyên Sa đón Tết ở Wichita
Falls giữa cơ hồ run rủi: Nửa khuya nàng đánh thức tôi dậy, nói dậy đi, dậy
đi, giao thừa rồi. Tôi ngồi dậy. Chúng tôi mặc quần áo mới. Chúng tôi thắp
nhang. Chúng tôi ngồi uống trà với nhau, ngồi tựa lưng vào nhau, hát cho nhau
nghe bằng ánh sáng của những ngày mới gặp nhau. Khi nàng quay đầu lại, tôi thấy
mắt nàng đỏ hoe. Mắt nàng ngơ ngác giống như mắt con vành khuyên một mình, để định
hướng, bay theo những màu vàng của một rừng mai. Dường như, Nguyên Sa không còn
muốn ngắt dòng hay ngắt câu, ông cứ để cảm xúc lênh loang cho kịp nhịp điệu hối
hả từ trái tim mình. Và ông nghĩ về một sự Thủy chung giản dị khi hóa
thân vào tro bụi: anh chỉ xin em ném dùm anh xuống những mảnh đất đầu đời,
chỗ bãi phù sa anh tắm mỗi chiều, con lộ mỗi ngày chúng mình cùng nhau đi học. Riêng
với quê nhà thơ ấu, Nguyên Sa tỉ mỉ viết sáu câu chia biệt:
"Ngọn đèn chiếu xuống bức
tranh
Cầm lên Hà Nội thấy đình miếu xưa
Tiễn nhau nhớ Tháng Giêng, mưa
Sông Hồng nước động bóng chưa nhập hình
Tiễn anh linh hiển u linh
Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi"
Cầm lên Hà Nội thấy đình miếu xưa
Tiễn nhau nhớ Tháng Giêng, mưa
Sông Hồng nước động bóng chưa nhập hình
Tiễn anh linh hiển u linh
Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi"
Vậy là Nguyên Sa đã yên nghỉ
mười năm ở California. Mọi vui buồn và được mất cũng đã lắng dịu đi, đủ để những
người bây giờ bình tâm phác thảo một chân dung thơ Nguyên Sa. Ông đã đến với
chúng ta, đã sống với chúng ta, đã rời xa chúng ta, và đã gửi lại những câu thơ
dâng hiến cả cuộc đời. Gần nửa thế kỷ miệt mài với thơ, Nguyên Sa canh cánh
"luôn luôn làm sao để không giống mình, để trở thành một người khác mình,
thì đó chính là cách thức, cách thế để trở thành chính mình".
Tuy Hòa
Nguồn: eVan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét