Quá trình cảm thụ thế giới:
Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca.
Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ. Những yếu
tố đó bao giờ cũng có nguồn gốc từ hiện thực khách quan bên ngoài, nó khởi đầu
từ thế giới khách quan bên ngoài tức là cuộc sống bên ngoài của nhà thơ. Môi
trường đó bao gồm cả thiên nhiên và xã hội: Ta thấy tất cả những yếu tố thơ
ca thường là xuất hiện do cuộc sống bên ngoài chứ không phải do một yếu tố thần
linh và nhà thơ như một con ong phải làm mật từ những bông hoa có thật mà nó
đã hút nhụy. Nhà thơ đã nhặt nhạnh những yếu tố đó trước hết là bằng những
giác quan tinh nhạy của mình đó là sự quan sát cuộc sống - Như vậy là những
chất liệu của thế giới mà sự quan sát cung cấp cho nhà thơ thường hiện ra dưới
dạng hình ảnh, màu sắc, hương vị, âm thanh và có thể có muôn cái không nhìn
thấy được bằng mắt nhưng vẫn cảm thấy sự có mặt của nó. Ví dụ: Tiếng vang nào
đó của một thế giới xa thẳm chợt hiện đến trong lúc nhà thơ nghe nhìn, do vậy
nhà thơ chỉ có thể xây dựng lâu đài của mình bằng nguồn vật tư từ thế giới
bên ngoài, không có một thần linh nào mang những thức ăn tinh thần làm quà tặng
siêu trần gian cho nhà thơ.
Toàn bộ thế giới đã tiếp nhận bằng chính cửa ngõ của giác quan để đi vào tâm
hồn nhà thơ (có thể có giác quan thứ 6 - sự linh cảm - nhưng cũng chỉ là giác
quan thôi). Nhưng sự quan sát của nhà thơ khác với sự quan sát của một nhà
khoa học, hoặc là một người thường. Bởi vì sự quan sát của nhà thơ lựa chọn
và thanh lọc để ghi nhận những cái gì thực sự có ý nghĩa của thế giới xung
quanh. Điều đó giống như một người quan sát một cái phòng với tất cả những đồ
đạc bày biện ở quanh mình nhưng những đồ đạc có ý nghĩa thực dụng thì không
thể có cái gì lạ đối với nhà thơ, mà có khi chỉ một bông hoa trên bàn có thể
làm cho nhà thơ bắt gặp ở đó một cái gì có ý nghĩa, mang ý nghĩa cuộc đời,
sau này sẽ ảnh hưởng đến tâm hồn nhà thơ, cái nhìn của nhà thơ - Đó là cái
nhìn của một họa sĩ vẽ tranh tĩnh vật, anh ta chỉ nhặt được trong căn phòng bề
bộn của mình những trái cây và những cánh hoa yên lặng. Từ quan sát đến thu
nhận, tư liệu của thế giới khách quan được chọn lựa hoàn toàn phụ thuộc vào
tính cách của nhà thơ. Vì vậy, để là một nhà thơ trước hết phải là một người
có khả năng nhìn và nắm bắt những hiện tượng, có ý nghĩa của môi trường sống
(của thiên nhiên, xã hội, con người và nói rộng ra là toàn bộ thời đại của
anh ta).
Ví dụ: Họa sĩ ấn tượng nổi tiếng Pháp là Mô-nê đã nhìn thấy sương mù Luân Đôn
màu đỏ (trong bức tranh của ông ta), trong lúc đó thì tất cả những người dân
Luân Đôn từ bao túi vẫn nhìn thấy sương mù của thành phố mình là màu xám.
Nhưng sau bức tranh của Mô-nê, hầu hết những người dân Luân Đôn đều nhìn thấy
có một màu đỏ bí ẩn trong đáy của sương mù thành phố xưa cũ đó.
Cũng vì vậy mà sự quan sát của nhà thơ đồng thời mang tính chất cảm thụ rất mạnh
mẽ - Cảm thụ ở đây nghĩa là thu hoạch thế giới đang hiện ra dưới tầm nhìn của
mình để chiếm lấy cho riêng mình những gì có sức vang động vào tâm hồi. Ví dụ:
Một buổi sáng trên cánh đồng, thì Van Gốc vẽ một cánh đồng lúa chín và trên
đó có những con quạ đang bay và đó chính là những bóng đen mãi mãi vẫn ám ảnh
tâm hồn Van Gốc. Bản thân tôi, tôi cũng đã đứng trước một cánh đồng như vậy
và khi tôi nghe những tiếng chim thì tiếng chim nó vang đến bên tai tôi như một
dòng chữ viết trên nền trời và tôi nghĩ đến những dòng thư của một tình bạn
thời thơ ấu:
Ôi dòng chữ tiếng chim
Hiện lên rồi lại xóa
Như dòng thư vội vã
Viết từ một chân trời
Quá trình đưa thế giới vào bên trong:
Với những người thường thì những sự kiện và sự việc được ghi nhận hoặc dừng lại
ở cửa ngõ các giác quan hoặc là đi vào trong tâm trí của mình, nhưng chỉ một
thời gian sau, do sự hững hờ của cái nhìn, của tâm hồn họ, những sự kiện ghi
nhận dần dần mất hết ý nghĩa hoặc là tự nó tan biến đi. Riêng với một nhà thơ
thì có khả năng tồn giữ những mảnh đời sống, những hình ảnh của thế giới đó ở
tận trong sâu thẳm của tâm hồn - và có thể có nhiều lúc người ta không hề
nghĩ đến và tưởng như đã quên đi, nhưng mà những hình ảnh phía sau võng mô vẫn
tồn tại ở đâu đó trong vô thức tối tăm của mình, giống như những vật quý của
cuộc đời bỏ vào một tủ riêng và khóa lại - Đây bắt đầu quá trình nội tâm hóa
thế giới khách quan ở tâm hồn một nhà thơ. Quá trình làm việc của vô thức là
khó nắm bắt được, nhưng tôi nghĩ rằng quá trình ấy vẫn tiếp tục hoạt động
mãnh liệt ngay cả khi người ta ngủ. Và những mẫu quặng của cuộc sống vẫn được
nung nấu và tôi luyện không ngừng, và những tứ thơ bắt đầu hình thành giống
như những mẫu kim loại lấp lánh. Như vậy qua quá trình nội tâm hóa những vật
liệu thô của cuộc sống đã được nhào nặn, tinh lọc, kết hợp để trở thành tư liệu
riêng của tâm hồn và đó chính là những dạng đầu tiên của tứ thơ. Như nụ hoa tầm
xuân đã tàn theo mùa của nó, nhưng khi nó được nhìn vào và được hái bởi một
thi sĩ đồng quê nào đó, bông hoa ấy vẫn còn mãi trong nội tâm của nhà thơ
không bao giờ tàn héo, và sau một thời gian lắng sâu nào đó không ai biết thì
bông hoa kia lại vụt hiện ra trong ánh sáng ý thức thành ra một bông hoa xanh
biếc lạ lùng:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay
Quá trình sống lại của thế giới đã cảm thụ:
Đánh thức: tôi muốn trở lại với câu chuyện hoa tầm xuân. Nó nằm trong đáy sâu
của tâm hồn nhà thơ, hầu như đã quên lãng trong cuộc sống hàng ngày của anh
ta có khi đến vài chục năm, và đột nhiên nó lại hiện ra. Một biến cố nào đó ở
thế giới bên ngoài xảy ra và gây cho tâm hồn nhà thơ một nỗi xúc động cao độ
để làm sống lại cái hình tượng của bông hoa tầm xuân kia, và chắc chắn biến cố
ấy là sự kiện người bạn gái yêu thương của anh ta đã đi lấy chồng. Như vậy rõ
ràng là phải có một biến động, một yếu tố tác động nào đó của cuộc sống để
đánh thức cả một tâm trạng đang lắng ngủ, giống như hòn sỏi ném vào mặt hồ
đang yên tĩnh. Theo tôi nghĩ cái yếu tố tác động để đánh thức là hết sức quan
trọng và cũng mang đầy tính chất ngẫu nhiên trong quá trình sáng tạo của nhà
thơ. Có thể là một biến cố trong đời sống tình cảm của con người hoặc thường
khi chỉ là một vật tình cờ, nhỏ bé, lẻ loi, rất có thể nhìn lướt qua rồi bỏ
đi dưới con mắt người khác, ví dụ như một chiếc lá khô mùa thu rơi dưới bước
chân. Nhưng đối với nhà thơ thì chiếc lá vàng rơi nhẹ ấy lại mang tất cả sức
nặng của vũ trụ. Nó đến với nhà thơ như một âm thanh mang tất cả nỗi xao xuyến
của tâm hồn, và một khi đã rơi vào lòng người thì nó trở thành ngón tay thần
kỳ của một người nghệ sĩ nào không biết đang nhấn lên một phím ngà của chiếc
dương cầm tâm hồn, và lập tức như một chủ âm, âm thanh ấy làm dấy lên giai điệu
của một bản xô-nát: Sự ngân rung của nội tâm nhà thơ vào khoảnh khắc ấy mang
đầy nhạc tính và ta có thể gọi đó là giai điệu của tâm trạng thi ca, từ đó sẽ
xuất hiện mô-típ chính của bài thơ.
Xin dẫn chứng bằng một kinh nghiệm sáng tác của riêng tôi. Một buổi sáng, tôi
nghe một người bạn đọc một bài thơ thiếu nhi có hai từ “màu ngà”, từ đó hai
từ ấy cứ vướng vít trong tâm trí tôi, không lúc nào dứt. Âm thanh có tính chất
nội dung của hai từ ấy gợi cho tôi nghĩ đến vẻ đẹp tuổi thơ - sự trong sáng
của tâm hồn - cái nguyên vẹn, tinh khôi của trời đất thuở ban đầu và tự nhiên
tôi nghĩ đến cái trứng chim và tôi không bao giờ rời khỏi hình ảnh quả trứng,
quả trứng ấy luôn đè nặng lên tâm trí tôi cho đến lúc tôi làm xong bài “Cái tổ
chim”. Bài thơ có đoạn:
Một quả trứng màu ngà
Như sự sống ngân nga
Dâng lên trong chiếc tổ…
Thế giới hiện ra:
Tâm trạng thi ca một khi đã dấy lên nó làm nặng trĩu tâm hồn như một tình yêu
chưa đạt tới. Nó luôn luôn kêu gọi, thúc giục, quấn quít. Từ đó, nhà thơ cảm
thấy cái nhu cầu cấp thiết phải giải phóng nội tâm của mình bằng cách thúc đẩy
cho xuất hiện toàn bộ bản xô-nát đã dấy lên. Đây là quá trình hoạt động căng
thẳng của “bộ máy bên trong”, trong đó, hình như ngoài ý muốn của nhà thơ nó
tập trung tất cả năng lực của hồi ức, trí tưởng tượng và sức nhập thân vào đối
tượng. Ở đây phải nói đến sức mạnh kỳ lạ của hồi ức: có thể từ một hình ảnh
xa xôi và hầu như không đáng kể, và cứ thế nhiều nét khác được lôi cuốn xuất
hiện, từng tí một cho đến lúc hồi ức dựng lên được cả một bức tranh toàn vẹn.
Tuy nhiên hồi ức không phải là sự đồ lại nguyên bản những ghi chép của trí nhớ;
hoạt động của hồi ức mang đầy tính sáng tạo bằng cách cải biên, cách điệu hóa
trí nhớ, bằng cách tổ hợp các yếu tố rời rạc của trí nhớ để thành ra một cấu
trúc toàn vẹn mang một ý nghĩa mới. Và người ta hiểu rằng: Cùng với trí nhớ,
đấy là công lao của trí tưởng tượng.
Như ta đã biết, từ một bông hoa dại, thoáng gặp ngoài đồng, hồi ức và trí tưởng
tượng của nhà thơ đã xây dựng nên một bức tranh toàn vẹn của thế giới tình cảm
mang tính nhân loại; bằng năng lực sáng tạo tổng hợp này, nhà thơ ca dao đã nối
kết biết bao nhiêu kinh nghiệm sống riêng lẽ và hình như nằm rời rạc ở đâu đó
trong những góc tối của tâm hồn, trong đó có mùi hương hoa bưởi của những đêm
hẹn hò, luống cà đầy kỷ niệm, nỗi đau của tình yêu đã mất, và tất cả đó được
cấu trúc chặt chẽ vây quanh màu xanh biếc đến quặn lòng của nụ hoa tầm xuân
mới nở.
Không chỉ riêng một kỷ niệm đời người, mà nhiều khi còn là một bức tranh lớn
lao của lịch sử, của những người cùng thời cũng có thể xuất hiện từ một đơn
vị nhỏ của hồi ức như vậy. Tuổi nhỏ tôi thường hay gõ lên những mặt trống, bất
kể là trống gì - ngày ấy tôi chỉ thấy rộn ràng trong lòng những tình cảm tươi
vui. Sau này lớn lên, khi đến đền Hùng, tôi được vào trong bảo tàng - và gặp
cái trống đồng - khi tay tôi chạm đến mặt trống, tiếng ngân của trống đồng
làm tôi rung động, xao xuyến. Tôi có cảm giác như mình thành người của thời
xa xưa đang đứng gõ trống đồng. Và lúc đó có một mô-típ chính của bài thơ đã
đến:
Khi tay chạm, trống đồng ngân
Sững sờ tôi ngỡ mình thành người xưa
Và hai câu thơ ấy theo đuổi tôi suốt ba năm trời, cho đến lúc trái cây đã
chín trong nội tâm, thì toàn bộ lịch sử của đất nước bốn nghìn năm vụt hiện
ra trong tôi, bài thơ như một thực thể tự sinh dưới ngòi bút của tôi:
… Từ đây đến đấy xa thay
Đầu kia ai đứng cuối này là tôi
Bao nhiêu thời đại qua rồi
Chỉ còn vọng giữa đất trời tiếng ngân v.v…
Điều cần nhấn mạnh sau cùng là cả hồi ức và tưởng tượng, cả cảm tính và lý
tính, cả âm điệu và ngôn từ v.v…,tất cả đó vẫn sẽ không bao giờ đưa người
ta đến thi ca chân thực, nếu ở nhà thơ không có cái khả năng tổng hợp và linh
mẫn nhất của tâm hồn, mà người ta vẫn thường gọi là “trái tim”. Một nhà thơ
chân chính trước tiên và sau cùng, phải có một trái tim chân chính, trái tim
nhạy cảm trước nỗi đau và hạnh phúc, trái tim biết căm ghét và khát vọng
trong sáng, và luôn luôn mang trong nó nỗi yêu thương vô tận đối với con người
và cuộc sống. Về cả đạo đức và thẩm mỹ học chúng ta gọi đấy chính nhân sinh
quan mang tính chất nhân đạo chủ nghĩa của nhà thơ.
Có người bạn hỏi tôi: Bài hay nhất của chị là bài thơ nào? Tôi không thể trả
lời được. Bởi vì thơ cũng như tình yêu, thật khó nói. Và những tứ thơ bao giờ
cũng đòi hỏi ta dâng cho nó mối tình đầu thiết tha, trong sáng, day dứt, xao
xuyến, trăn trở, nồng cháy…
Lâm Thị Mỹ Dạ
Nguồn: Lethieunhon.com
Theo http://www.bichkhe.org/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét