Tiếng chuông nhà thờ trong
ca khúc Việt Nam
Tháp
chuông cao vút và tiếng chuông nhà thờ ẩn chứa nhiều thông điệp cất lên sớm sớm,
chiều chiều theo nhịp quay đều đặn của thời gian đã trở thành đối tượng để các
nhạc sĩ nắm bắt, cảm nhận, mô tả trong tác phẩm âm nhạc của mình.
Chuông là nhạc khí, đồng thời
là một bộ phận cấu thành kiến trúc của nhiều tín ngưỡng, tôn giáo; trong đó có
đạo Thiên chúa. Đạo Thiên chúa là tôn giáo phổ quát toàn thế giới, được truyền
vào Việt Nam từ thế kỷ XVI và nhanh chóng trở thành thành tố văn hóa của Việt
Nam, với những đặc trưng riêng, như kiến trúc nhà thờ, kinh thánh, lễ hội,...Nhà thờ Thiên chúa giáo, với đặc trưng là một tháp cao vút, trên đỉnh có cây
Thánh giá. Quả chuông được treo trong tháp này, nên gọi là tháp chuông. Nhà thờ
nào có 2 tháp chuông, cũng có nghĩa là nhà thờ đó có 2 quả chuông.
Có lẽ, không một người Việt
Nam nào lại không một lần được nghe tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông ngân
nga, quấn quýt trong những khóm tre làng, ngân rung trên những nóc phố rêu
phong. Tiếng chuông nhà thờ không chỉ là những nốt nhạc thánh thiện, mà còn là
tiếng lòng, là nỗi niềm của những con chiên - những con người đủ mọi tầng lớp
trong xã hội vút qua tầng không trung bao la để tới Thiên Chúa. Tháp chuông cao
vút và thứ âm thanh thiêng liêng, thanh bình, ẩn chứa nhiều thông điệp cất lên
sớm sớm, chiều chiều theo nhịp quay đều đặn của thời gian ấy đã trở thành đối
tượng để các nhạc sĩ nắm bắt, cảm nhận, mô tả trong tác phẩm âm nhạc của mình.
Kho tàng âm nhạc hiện đại Việt Nam (mảng ca khúc) cho tới nay, tuy chưa có ai
thống kê hết, nhưng cũng có thể khẳng định là có tới vài chục ngàn ca khúc đã
đi vào đời sống của đất nước song, mới chỉ có 2 bài hát viết về/có “tiếng
chuông nhà thờ”. Đó là bài hát: “Tiếng chuông nhà thờ” - nhạc và lời của Nguyễn
Xuân Khoát và bài “Làng tôi” - nhạc và lời của Văn Cao.
Nếu chỉ nghe/ căn cứ vào
tên gọi của 2 ca khúc, ta dễ dàng thấy/ biết ngay, chỉ có bài hát “Tiếng
chuông nhà thờ” là viết trực tiếp về “tiếng chuông nhà thờ”. Song, khi nghe/ đọc
ca từ, ta mới thấy là trong bài “Làng tôi” của Văn Cao cũng có “tiếng chuông
nhà thờ”.
Nói văn học nghệ thuật là
“thư ký của thời đại”, phản ánh chân thực, sinh động muôn mặt của đời sống con
người, quả rất đúng với hai tác phẩm/ bài hát “Tiếng chuông nhà thờ” và “Làng
tôi”. “Tiếng chuông nhà thờ” được Nguyễn Xuân Khoát sáng tác năm 1946, “Làng
tôi” được Văn Cao sáng tác năm 1947. Vào thời điểm này, nhân dân ta đang tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, theo Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến
ngày 19/12/1946 của Hồ Chủ tịch. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ
hai này, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn dã man nào, giết hại nhân dân
ta, đốt phá bệnh viện, trường học và cả các chốn linh thiêng, trong đó có các
nhà thờ Thiên chúa giáo. Là những người yêu nước, tham gia cách mạng từ những
ngày đầu giành chính quyền, thời gian này, hai nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và Văn
Cao đều trong đoàn quân kháng chiến (trên mặt trận văn hóa văn nghệ), đều tận mắt
chứng kiến tội ác dã man của giặc Pháp, tận mắt nhìn thấy những làng mạc tuy
còn nghèo khó, nhưng bình yên của những vùng thôn quê của những người lao động
chân chất, hiền lành, cần cù chịu khó, nay bị giặc Pháp đốt tan hoang. Bằng xúc
cảm nghệ thuật, bằng tài năng của mình, hai nhạc sĩ đã phản ánh thực tế ấy, đã
tố cáo tội ác dã man ấy của thực dân Pháp trong sáng tác của mình. Và, cũng bằng
xúc cảm nghệ thuật của một chiến sĩ cách mạng với niềm tin vào sự toàn thắng của
cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân ta, tin vào ngày mai tươi sáng của đất nước,
của xóm làng, họ cũng thể hiện niềm tin chiến thắng ấy trong tác phẩm. Tất cả
những điều đó, được cả hai nhạc sĩ thể hiện qua một hình tượng trung tâm là “tiếng
chuông nhà thờ”. Mỗi khi tiếng chuông nhà thờ rung/ ngân/ buông thể hiện/
đem lại sự thanh bình, yên vui của làng mạc, của đất nước, nhắc nhở cầu Chúa
ban phước ơn lành cho nhân loại. Nhưng trong những buổi chiều vắng tiếng chuông
nhà thờ ngân, bởi quân Pháp đã phá tan nhà thờ, đã đem súng đặt thay chuông
trên các gác cao đền thánh, tàn phá làng mạc, giết hại dân lành, trong đó có những
con chiên ngoan đạo của Chúa, đưa đến cảnh tượng đau xót “ngập bao xương máu
tơi bời”, “đồng không nhà trống tàn hoang”. Không ôm đồm kể lể nhiều, cũng
không xa vào miêu tả chi tiết sự hy sinh, những mất mát đau thương không giấy
bút nào có thể tả hết mà giặc Pháp đã gây cho nhân dân ta, mà chỉ thông qua một
“Tiếng chuông nhà thờ” thôi, người nghe cũng có thể cảm nhận hết những gì cuộc
chiến đang diễn ra, những gì mà giặc Pháp đã gây ra cho nhân dân ta, những đau
thương, mất mát mà nhân dân ta đã trải qua.
Đó là cái tài chọn sự kiện trung
tâm, chọn tình tiết mang tính đặc trưng nhất làm hình tượng nghệ thuật của những
nhạc sĩ tài năng như Nguyễn Xuân Khoát và Văn Cao.
Xin đi vào hai ca khúc này để
thấy rõ những điều đó.
Trong ca khúc Tiếng chuông
nhà thờ, ngay những ca từ mở đầu bài hát, Nguyễn Xuân Khoát đã cho người nghe
biết tội ác của quân Pháp (âm nhạc nhịp rất chậm):
Tiếng chuông nhà thờ - Quang Thọ
Tiếng chuông nhà thờ
“Thánh đường tôn nghiêm
Giặc sàm tới chiếm
Gác cao đền Thánh
Đặt súng thay chuông
Hung ác bạo cuồng
Tàn sát dân lành
Giê - su Ma – ri - a lạy Chúa tôi”
Giặc sàm tới chiếm
Gác cao đền Thánh
Đặt súng thay chuông
Hung ác bạo cuồng
Tàn sát dân lành
Giê - su Ma – ri - a lạy Chúa tôi”
Tiếp theo, Nguyễn Xuân Khoát
đi vào mô tả cuộc sống của giáo dân trước khi giặc Pháp tới xâm lăng, lao động
và sinh hoạt tôn giáo, trong/ theo một nghi thức đã thống nhất là tiếng chuông
nhà thờ. Ý nghĩa của tiếng chuông nhà thờ; nói cách khác, tiếng chuông nhà thờ
có tác dụng/ báo hiệu/ “nói gì”/ chuyển tải thông tin gì với bà con giáo
dân? Điều này được Nguyễn Xuân Khoát nói rất rõ, đó là:
- “Tiếng buông hồi chuông nhắc
nhở cầu Chúa ban phước ơn lành cho nhân loại”,
- “Tiếng buông hồi chuông
tươi cười nối duyên đôi lứa uyên ương lập gia đình”,
- “Tiếng buông hồi chuông
nhân từ vui đón rửa tội tổ tông trẻ sơ sinh”,
- “Tiếng buông hồi chuông rĩ
rền đưa cất linh hồn kẻ chết về thiên đường”.
Nhưng Nguyễn Xuân Khoát
không kể liền tù tì 4 ý nghĩa / 4 “lời nói”ấy / 4 thông điệp ấy của tiếng
chuông nhà thờ mà, mở đầu mỗi “tiếng buông hồi chuông” ấy là hai câu điệp ngữ:
“Đây xưa nay ngày nhặt ngày
những hồi chuông
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông”
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông”
hoặc:
“Đây xưa nay ngày nhặt ngày
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông”
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông”
Ca từ của cả đoạn này trong
bài hát như sau:
“Đây xưa nay ngày nhặt ngày
những hồi chuông
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông nhắc nhở cầu Chúa ban phước ơn lành cho nhân loại.
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông nhắc nhở cầu Chúa ban phước ơn lành cho nhân loại.
Đây xưa nay ngày nhặt ngày
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông tươi cười nối duyên đôi lứa uyên ương lập gia đình.
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông tươi cười nối duyên đôi lứa uyên ương lập gia đình.
Đây xưa nay ngày nhặt ngày
những hồi chuông
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông nhân từ vui đón rửa tội tổ tông trẻ sơ sinh.
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông nhân từ vui đón rửa tội tổ tông trẻ sơ sinh.
Đây xưa nay ngày nhặt ngày
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông rĩ rền đưa cất linh hồn kẻ chết về thiên đường”
Đây xưa nay ngày lại ngày tiếng tiếng buông
Tiếng buông hồi chuông rĩ rền đưa cất linh hồn kẻ chết về thiên đường”
Với cách kết cấu này, Nguyễn
Xuân Khoát đã làm dầy/ phong phú cảnh tượng sinh hoạt rất đỗi thanh bình của
giáo dân trước khi giặc Pháp đến. Và, khi giặc Pháp đến, tất cả những sinh hoạt
trên, cảnh tượng thanh bình trên không còn, thì tội ác của giặc Pháp càng đầy,
càng khủng khiếp, càng đáng lên án hơn:
“Thế mà giờ đây thánh đường
tôn nghiêm
Giặc sàm tới chiếm gác cao tòa thánh
Đặt súng thay chuông
hung ác bạo cuồng tàn sát dân lành
Tàn sát dân lành”
Giặc sàm tới chiếm gác cao tòa thánh
Đặt súng thay chuông
hung ác bạo cuồng tàn sát dân lành
Tàn sát dân lành”
Tội ác của giặc Pháp không
làm cho nhân dân ta/ giáo dân ta run sợ, đầu hàng. Trái lại, nhân dân ta/
giáo dân ta đã vùng lên đấu tranh để bảo vệ xóm làng, bảo vệ thánh đường, để
cho tiếng chuông nhà thờ lại ngân lên mỗi sớm, mỗi chiều. Với niềm tin mãnh liệt
vào cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc, Nguyễn Xuân Khoát đã khẳng định
cuộc kháng chiến sẽ thành công, tiếng chuông nhà thờ - nhạc thánh lại buông, lại
rung trong cuộc sống bình yên:
(âm nhạc nhịp đi)
“Nhưng rồi đây rồi đây kháng chiến thành công,
nhưng rồi đây rồi đây kháng chiến thành công
“Nhưng rồi đây rồi đây kháng chiến thành công,
nhưng rồi đây rồi đây kháng chiến thành công
(âm nhạc chậm - say mê)
Nhạc thánh buông lơi đổ tiếng vàng,
đời đời ấm đọng gác nghiêm trang”.
Nhạc thánh buông lơi đổ tiếng vàng,
đời đời ấm đọng gác nghiêm trang”.
Qua bài hát “Tiếng chuông
nhà thờ”, với những mô tả rất chi tiết từng cung bậc khác nhau của tiếng chuông
nhà thờ trong đời sống giáo dân đạo Thiên chúa, cho thấy Nguyễn Xuân Khoát là
người am hiểu rất sâu về tôn giáo này.
Đối với nhạc sĩ Văn Cao, ông
sáng tác bài Làng tôi sau bài “Tiếng chuông nhà thờ” của Nguyễn Xuân Khoát 1
năm. (trước đó, ông đã có “Tiến quân ca” (hiện là Quốc ca Việt Nam) sáng tác
năm 1944, “Bắc Sơn” sáng tác năm 1945). Hầu như mỗi người Việt đều sinh ra từ
làng, đều có một ngôi làng thân thiết của riêng mình. Làng là một không gian
sinh tồn - một không gian văn hóa đặc trưng của cư dân nông nghiệp - nông thôn
Việt Nam, với hình tượng thân thương, quen thuộc: cây đa - giếng nước - sân
đình. “Làng tôi” - ngôi làng của Văn Cao không có những hình tượng ấy. Ngôi
làng của ông/ mà ông mô tả trong bài hát là một miền “đồng quê yêu dấu”, rất đỗi
thân thương, bình dị, với “xanh bóng tre”, với “bóng cau”, với “con thuyền” và
“một dòng sông”, và “từng tiếng chuông ban chiều/ tiếng chuông nhà thờ rung”.
Hình ảnh này được Văn Cao mô tả trong Đoạn I (của bài hát có 3 đoạn):
“Làng tôi xanh bóng tre từng
tiếng chuông ban chiều,
tiếng chuông nhà thờ rung.
Đời đang vui đồng quê yêu dấu,
bóng cau với con thuyền một dòng sông”.
tiếng chuông nhà thờ rung.
Đời đang vui đồng quê yêu dấu,
bóng cau với con thuyền một dòng sông”.
Làng tôi - Ánh Tuyết
Nhưng rồi, cũng như tình cảnh
những ngôi làng mà nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát mô tả trong bài hát “Tiếng chuông
nhà thờ”
khiến cho “Đường ngập bao xương máu tơi bời, đồng không nhà trống tàn hoang”,
“chiều vắng tiếng chuông ngân”.
Không cam chịu làm nô lệ,
căm thù giặc Pháp đốt phá làng quê, người dân làng Văn Cao (tất nhiên là có cả
các giáo dân) đã vùng lên đánh Pháp (Đoạn II):
“Làng tôi theo đoàn quân du
kích, cướp ngay súng quân thù trả thù xưa.
Bao căm hờn từ xa quê nhà
Rừng chiều nhớ cánh đồng chiều xưa
Từ xa quê trong lớp cây già, lòng quê còn thấy buồn đau”.
Bao căm hờn từ xa quê nhà
Rừng chiều nhớ cánh đồng chiều xưa
Từ xa quê trong lớp cây già, lòng quê còn thấy buồn đau”.
Và ngày chiến thắng đã đến,
nói đúng hơn, Văn Cao đã hình dung cái ngày ấy nhất định sẽ đến, quê hương nhạc
sĩ được giải phóng (Đoạn III):
“Ngày diệt quân Pháp tan là
lúc tiếng chuông ngân, tiếng chuông nhà thờ rung.
Làng tôi cùng đoàn quân chiến thắng đánh tan lũ quân thù về làng xưa.
Dân tưng bừng chặt tre phá cầu
Cùng lập chiến lũy đào hầm sâu
Giặc chưa tan chiến đấu chưa thôi, đồng quê chào đón ngày mai”. Làng tôi cùng đoàn quân chiến thắng đánh tan lũ quân thù về làng xưa.
Dân tưng bừng chặt tre phá cầu
Cùng lập chiến lũy đào hầm sâu
Đúng như mong đợi/ niềm
tin/ cũng là dự đoán thiên tài của hai nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và Văn Cao, sau
9 năm kháng chiến gian khổ, với không ít hy sinh, với chiến thắng Điện Biên Phủ
ngày 7/5/1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ngôi làng của Văn Cao được giải phóng, ngôi
nhà thờ mà Nguyễn Xuân Khoát đề cập đến, tháp chuông không phải là chỗ để súng
liên thanh, chuông nhà thờ lại treo trên chỗ cũ của nó và tiếng chuông nhà thờ
lại rung/ngân/buông theo những nghi thức thường hằng của nó. Song, ở miền Nam,
từ năm 1954, và sau đó từ ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ đã gây chiến tranh xâm lược,
tái diễn lại cảnh tàn phá làng quê và giết hại dân lành như thời thuộc Pháp, và
có phần dã man hơn. Không biết bao nhiêu nhà thờ bị bom đạn Mỹ phá hủy. Không
biết bao nhiêu tháp chuông nhà thờ đổ nát vụn. Tiếng chuông nhà thờ tắt lịm.
Nhưng rồi, phát huy truyền thống chống Pháp, nhân dân hai miền Nam Bắc đã đoàn
kết chiến đấu trường kỳ, đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 1975. Nhiều nhà thờ Thiên chúa giáo được khôi phục, nhiều tháp chuông được
dựng lên. Tiếng chuông nhà thờ lại làm xứ mệnh thiêng liêng, cao cả của nó.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ấy, cũng đã có hàng vài ngàn ca khúc ra đời,
song ca khúc viết về “Tiếng chuông nhà thờ” không hiểu vì sao, không được các
nhạc sĩ sáng tác? Phải chăng, hai ca khúc “Tiếng chuông nhà thờ” và “Làng tôi”
của Nguyễn Xuân Khoát và Văn Cao - hai nhạc sĩ bậc thầy trong làng nhạc Việt viết
quá hay rồi, không ai dám viết nữa?
Có thể lắm chứ!
Riêng tôi, tôi không tin và,
hy vọng sẽ có thêm những bài hát hay nữa về “Tiếng chuông nhà thờ”.
Ny San
Nguồn: http://vanhien.vn
Theo http://hoinhacsi.com.vn
eva air của hãng nào
ve may bay eva di houston
dai ly korean air
vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch