Trịnh Công Sơn - Tiếng hát hòa bình
Tranh Bửu Chỉ
Báo Văn Học số 39, tháng
4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng
Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề:
"Nói về tác phẩm văn
nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn,
nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc
thôi". Anh còn khẳng định: "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà
văn Hoàng Khởi Phong vùa vào: "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có
đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).
Trong văn chương, ngoài đề
có khi là lời tâm huyết. Nhật Tiến nổi danh về lòng ngay thẳng và nghĩa khí.
Hoàng Khởi Phong là cựu đại úy quân cảnh, một binh chủng mà Trịnh Công Sơn thường
phải dè chừng ...
Cái thời làm nhạc phản chiến
... thời đại bác ru đêm ...
Dùng chữ nhạc phản chiến,
theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng
mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài
ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ
khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin
vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào
nhau. Hơn nữa một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến
tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời
phản chiến.
Vì vậy, gọi là nhạc "phản
chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là
ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.
Nói chung, những ca khúc
"phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài
theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời
cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một
cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là
điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của
Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh
Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại,
hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị
nào. Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn,
so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa
sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau
1975,
"Tắt một câu, trong
dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính
trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân
ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê
hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là
tự đáy lòng mình thì mình nói".(1)
Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong
Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn,
bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn
tại Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như
là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một
dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng
..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị
trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.
Và phải chăng vì chỉ viết
"theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác,
mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao
vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một
số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, v.v. Và những văn bia,
những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng
không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.
Ngoài ra, nếu nhạc thời thế
của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng
tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động
lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc,
dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.
Sau đệ nhị thế chiến, nhiều
tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài
Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm
1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng
Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát
phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh
Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc
qua điều này trong một bài trước đây (2) .
Có lẽ những suy nghĩ về dân
tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh
Công Sơn, và đã được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63,
mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự
cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không giao động. Sau những bản nhạc
tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơn đưa vào Lời Mẹ Ru một vài âm hưởng
xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau:
Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng
buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau,
còn đau
Ru con khôn lớn ...Con Rồng
cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu
phiền
Về thời điểm, tư liệu của
Hoàng Nguyên Nhuận, bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận "năm 1963, trong
lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh
Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt
Tình Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở thành một người mới".(Bài viết
tháng 10.1995, và tháng 8.2001).
Lối hát ru Việt Nam, như ru
con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả
buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.
Vết Lăn Trầm, 1965, là một
ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí:
Vết lăn trầm vết lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu
phiền
Như có lần chim muông hằn dấu
chân
Người đi phiêu du từ đó chưa
thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi
mòn
Ôi mắt thầm van xin lời
thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng,
nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng
vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút xuống đầu làng, cũng chỉ
là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã
tinh ý nhận xét:
"Vết Lăn Trầm bắt đầu
tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến,
và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn"
(3)
Chọn 1965 làm thời điểm cho
nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác: đó là cao điểm của chiến
tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người
Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền
Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.
Thời đó, ca khúc Trịnh Công
Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An
Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và
Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào
1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.
Cuối năm 1966 và sang 1967,
Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người
con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ...Tác giả
tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về
sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài : Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca
Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh
Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy
ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.
Gần đây Khánh Ly có hát và
phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III
(1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là
nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.
Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng
lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và
tin tức về hòa hội Paris ; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống
và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.
Năm 1970, dưới tên nhà xuất
bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như : Việt Nam
ơi Hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.
Năm 1972, sau Mùa Hè đỏ lửa,
anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài
: Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...
Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư
mục, đã ghi: "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được
sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học
sinh Huế" (bài đã dẫn).
Trong một tiểu luận Cao học
đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn, được Trịnh
Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài
làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965
đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian
sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều,
chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo
nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt
Nam vào những năm 1966-1972.
Thời điểm sáng tác hay in ấn
một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những
bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để
làm tư liệu về sau.
Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại
"nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của
Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính
là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc
lập và an lạc cho đồng bào đồng loại" (b.đ.d) tại các thành phố miền Nam từ
1963 đến 1966.
Từ 1965, theo trí nhớ Đinh
Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những
buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu từ khuôn viên trường Đại Học
Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời
Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967.
Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần
chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát
cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.
Nhiều người đã nhắc đến giai
đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những
bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một
trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không
khí quần chúng:
Trịnh Công Sơn hát: Người
Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày Dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi
Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.
Khánh Ly hát: Diễm Xưa, Mưa
Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca
Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.
Trịnh Công Sơn và Khánh Ly
song ca: Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.
Chúng ta lưu ý đến nội dung
xen kẽ của những ca khúc, được trình diễn trong các buổi hát công cộng, đông đảo
đến hàng trăm, hàng ngàn người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi giữa bạn
bè. Tình khúc được hát giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng mang tác
dụng "phản chiến". Đây là hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày nay lý
thuyết liên văn bản đã thừa nhận. Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc thương hạnh
phúc, những Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ đó
xác định được trong sự nghiệp Trịnh Công Sơn bài nào là nhạc "phản chiến",
không phải là việc đơn giản về mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta có thể đếm
được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69 bài như Michiko.
Làm sao em biết bia đá không
đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh
cao...
Tóc em như trời xưa đã qua
đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã
nghìn thu...
Rồi mùa xuân không về, mùa
thu cũng ra đi ...
Những câu hát, trích từ tiếng
hát Khánh Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất thiết là tình yêu trai
gái?
Gọn hơn nữa: tình yêu như
trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá?
Về ý nghĩa, âm hưởng của một
bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những
Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái
Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích: Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn
công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên
sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ
trong túi có mảnh giấy ghi bài hát:
"Huế dạo ấy đang độ vào
thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ
trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất
trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi tay trơn trên nền
nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những
hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm
ngày tháng bằng Nhìn Những Mùa Thu Đi .."
Và trong tù, sáng trưa, chiều
tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.
"Trong đời tôi, đã nghe
và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên
tiếp trong 3 tháng như thế (...)
Có thể nói hành trình ca
khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ Nhìn Những Mùa Thu Đi chứ không phải Ướt
mi dù Ướt Mi đã làm cho người ta biết đến Sơn" (4)
Chị nói vậy là chủ quan.
Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật : Nhìn Những Mùa Thu Đicó thể là
tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự
phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm
trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị
công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều
sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.
Về nội dung bài hát, không
phải chỉ một mình Thái Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi hát và
nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản thân tôi không tranh đấu, không tù tội gì,
cũng đã cảm nhận được tâm sự của một lứa tuổi:
Gió heo may đã về
Chiều tím loang vỉa hè...
Thương cho người rồi lạnh
lùng riêng
Nó không tình lụy như Chiều
tím chiều nhớ thương ai của thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc, mà là vết bầm tím
trong tâm tư một thời đại. Bây giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài hát, do
chính Sơn hát cùng với Khánh Ly:
Chuyện chúng mình ngày xưa
Anh ghi bằng nhiều thu vắng
Đến thu này thì mộng nhạt
phai
Tình và Mộng ở đây, không nhất
thiết phải dính dáng gì đến phụ nữ.
Thêm một liên văn bản khác:
Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến
khoảng 1966:
"Chưa để ý đến nhạc Trịnh
Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt
tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường
sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài ỏTình Nhớ,
gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng
nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết
địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới,
vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa
bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ
lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều: Miền Bắc
sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng
nói đó.
Tính phản chiến của nhạc
anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất" .(5)
Giữa một rừng than khóc ki
khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm.
Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn
Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề.Tình Nhớ thì can dự gì đến
phản chiến? Bài hát đại khái:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...
Nói về nhạc phản chiến, cứ
gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm?
Một ví dụ liên văn bản nữa,
bài Cõi Tạm, thường được nghe sau này,
Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng là những đôi môi
rất hồng
Là một câu hát nhẹ nhàng,
vui tươi, nhưng gợi đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân câu này:
Nhân gian về trọ nhiều nơi
Riêng đây là chốn chưa nguôi
máu đào
Tác phẩm được làm năm 1973,
hoà ước Paris đã được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi trên đất nước.
Nếu chỉ làm nhạc tình, thì
Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng ; nếu chỉ làm nhạc đấu
tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập; nếu pha pha tình
yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ
hơn Nguyễn văn Đông.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng
hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất
nước.
Rào nhạc phản chiến Trịnh
Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời
gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một
nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết
hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội
và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều
kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ,
từ băng cối chuyền sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại.
Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn!
Nghệ thuật Trịnh Công Sơn
xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện
khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công
Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc: "Tình khúc Trịnh
Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào
phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục
được tất cả người nghe..So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn
ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới" (6) .
Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc
tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác
giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần
tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ
rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.
Ngoài ra, hiện tượng Trịnh
Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ: dáng người mảnh khảnh, nho
nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc
kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang" một cách kín đáo, "thàng" khi
trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng
Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường
là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người : mình là người
thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy.
Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.
Lối sống đơn giản : cà kê bạn
bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn
bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc
lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần
dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng
Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.
Thêm vào hình ảnh Khánh Ly,
"Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất - nữ hoàng
chân đất, la comtesse aux pieds nus - của một thời - giọng hát rũ rượi, da diết,
diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp
người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một
đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên
trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình
yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nước, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời
vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa
cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).
Truyền thuyết uyên ương là một
ước mơ cao đẹp của Á Đông; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng,
tính dục. Chuyện Khánh Ly - Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh
Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những
tình cảm đời thường" (7). Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới,
đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ
thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam. Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những
mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn
Hữu Thiết.
Trong dư luận, họ cũng không
bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn
phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn"
ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả
yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị
tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng
sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao
mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".
Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công
Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể
xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài
hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp,
ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác - càng về sau càng già giặn
thêm - một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn
nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau; một giọng hát vừa
có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể
phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến"(8), như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn
Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.
Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và
Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao,
chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái
tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát - mang
theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác
hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho
đồng bào tôi nghe".
Trong một dư luận - và hoàn
cảnh xã hội - thuận lợi, nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại nhiều nhu cầu tâm
lý khác của Miền Nam, bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.
Tâm lý thời đó, chủ yếu là
chống chiến tranh.Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng phản chiến, cứ gì là Trịnh
Công Sơn?
Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu
gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công
Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược: tự quan điểm nhân
dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị
nhân danh trong những mưu đồ đen tối.
Ở Miền Nam, vào thời điểm
1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ
có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị.
Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt
Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ
trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965 ; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường
không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết
"tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng
chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì
không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía
"bên kia".
Sinh trưởng từ một gia đình
Phật giáo, Trịnh Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao trào chính trị do Phật
giáo chủ động, dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng định "phong trào đấu
tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ ra Trịnh
Công Sơn" (bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên
chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo: như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn
năn, cát bụi, địa đàng ... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung
cảm tôn giáo, gọi là khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa câu hát cho có vẻ
"hiện đại". Khi cần phải khẳng định một thái độ chính trị giữa những
biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh Công Sơn chọn lựa minh mẫn:
Đợi chờ yêu thương trên cây
thánh giá
Đợi xoá sân si dưới bóng bồ
đề
(Đợi có một ngày),
trong Phụ Khúc Da Vàng, 1972
Không theo giáo phái, Trịnh
Công Sơn không phải là người đảng phái. Không nghe anh nói, mà không nghe ai
nói là anh dây dưa với một chính đảng nào, cái đảng của Miền Nam đã để lại kỷ
niệm hãi hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng Cộng Sản thì không dễ gì tiếp
xúc, mà nói thực tình, nghe qua đã ớn.
Anh Nguyễn văn Trung, trong
nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các
"phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn, một tổ chức của Đảng Cộng Sản,
chỉ đạo, triển khai điều khiển" (9). Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học
Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm
kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn
văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn
nhà làm trụ sở (10).
Tuy nhiên, anh Trung không
nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được
là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Công Tác Hè, Lên Đường,
Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm
vùng" từ trước.
Và dĩ nhiên, chính sách của
người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội
các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội,
v.v.Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn
Trung. Ông Kỳ lại muốn dựa vào khối Phật giáo ấn Quang, và có cảm tình với đám
tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới
đây còn nhắc lại (11) .
Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng
Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông
còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến!
Dài dòng như vậy để người đọc
thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc
phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc:
gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.
Trịnh Công Sơn sống giữa những
tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo
phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.
Quần chúng biết ngay điều
đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để
tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô
tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.
Đây là lý do chính giải
thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành
hiện tượng.
Ví dụ bài Tình Ca Của Người
Mất Trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc:
Tôi có người yêu chết trận
Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù
Nằm chết như mơ ...
Quần chúng hiểu ra ngay biểu
tượng "mất trí", một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được
chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả
là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình,
của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy
chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết
mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ?
Người ta thường nói: đẹp như
mơ, chứ ai nói chết như mơ.
Tinh nghịch đổi vài chữ, câu
hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược:
Tôi có người yêu gặp tại Ba
Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm
qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng
hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh
phúc như mơ
Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh
trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.
Cũng như bài sau này: Hát
Trên Những Xác Người, làm sau Mậu Thân 1968:
Mẹ vỗ tay reo mừng chiến
tranh
Chị vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Không biết phải giải thích
ra sao, ngoài cơn điên loạn của một thời đại.
Nói về những oan khốc chiến
tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng:
Đại bác đêm đêm dội về thành
phố
Người phu quét đường ngừng
chổi lắng nghe
Nghe như là nghe nhạc, nghe
quen như câu dạo buồn. Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí:
đại bác như kinh không mang lời nguyện.
Đại bác như kinh?
Bài hát kết thúc bằng cụm từ
có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ: có mẹ có cha, có anh có em, có vợ có chồng,
có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt
bầy nhầy:
Từng vạn chuyến xe claymore
lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô
thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ
có em
Sơn có những lời tưng tửng
tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu ý.
Nguyên tác trong bài Đi Tìm Quê Hương (1967):
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ ...
Dĩ nhiên, trong văn cảnh,
câu hát có nghĩa: đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim:
đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ?
Nhẫn nhục trong những cơ cực
trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng:
Ví dầu đèn tắt, có trăng
Khổ thì em chịu, biết mần
răng đặng chừ?
Nhưng cũng không đoạn trường
bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người
bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là
cõi bắt con người phải sống.
Những ngọn đèn. Thắp
thì mờ...
Năm 1968 là khúc quành trong
thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh Công Sơn. Có thể
có những lý do riêng chung.
Trước hết, là sự kiện nổ
súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa.
Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp
micro; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe
Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương
mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như
thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng
hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.
Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968,
anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế. Phe cộng sản dường như có lùng
kiếm, dĩ nhiên, để yêu cầu tối thiểu là làm một bài hát ca ngợi "Ngôi sao
trên đỉnh Phu văn Lâu". Sơn đã không làm điều ấy, và ngược lại đã sáng tác
hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài
Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác: Chiều đi
qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài
Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường
lúc đó rất sôi nổi.
Hiệu quả chính trị của vụ Tổng
Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình
đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính
trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải
thấy Mặt Trời (1969).
Thời điểm này, họa sĩ Trịnh
Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng: Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con
chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là
khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn
đã vang vọng qua những tiêu đề: Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng
Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.
Cho đến ngày hoà hội Paris,
nhạc thời thế Trịnh Công Sơn chủ yếu là oán trách chiến tranh, một cách thụ động,
tố giác những oan khiên vừa tàn khốc vừa phi lý, cảnh một chiếc xe tang, trái
mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan (Ngụ Ngôn Mùa Đông). Hay than
vãn : ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh (Du Mục).
Trong Kinh Việt Nam, từ
1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải Sống, Dựng lại Người, Dựng lại Nhà, Hãy
đi cùng nhau, và cụ thể hơn nữa Nối Vòng Tay Lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn
Quê Hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay ? Sao mắt Mẹ chưa vui? Đấy
là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt
Nam:
Đoàn người đi miên man
Tìm ánh sáng cho Việt Nam
Tìm quê hương xưa
Giống Tiên Rồng, giống da
vàng ...
Nối cho liền, nối hai miền
...
Nói là "quốc ca hụt"
là đùa vui, nhưng cũng không sai bao nhiêu (giá dụ: nếu đám tranh đấu Miền
Trung thành công trong dự tính ly khai năm 1965, rồi từ đó nắm được chính quyền
Miền Nam, thì chúng ta e phải đứng nghiêm, nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi chào cờ.
Chuyện đã không xảy ra, nhưng không phải là không có khả năng xảy ra trong tuyệt
đối).
Thời điểm 1968, hội nghị
Paris thật sự đã tạo nên niềm hy vọng vô biên. Trịnh Công Sơn viết lời tựa Kinh
Việt Nam :
Kinh Việt Nam là những tiếng
kêu thương thống thiết, khởi sự tự một thực trạng máu xương... Những bài ca được
viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của
đám đông chờ mong ngày hồi sinh ...
Đã có điều gì không thật suốt
hai mươi năm nay (...) Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên
định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân
ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy
mòn tiềm lực sáng tạo (...)
Xin hãy dừng tay và cùng chờ
nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ đựoc khai sinh ở phương đông (...)
Xin hãy dừng tay để được
nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)
Một ước mơ vĩ đại, làm bằng
những đau thương nối dài vào hoang tưởng ịmột ngày mà lòng mình vui sướng hơn
muôn nghìn năm (Cánh Đồng Hoà Bình).
Bây giờ, nhớ lại mà thương
cho một thế hệ thanh niên đã dở sống dở chết trong hoang tưởng:
Hai mươi năm hận thù đã qua
Hôm nay thấy mặt người đổi mới
Ta yêu Trời, ta yêu ta, ta
yêu em
Ta yêu nắng hòa bình vừa đến
...
Hai mươi năm chờ đợi từng
phút giây
Hôm nay tiếng Hòa Bình đã thấy
Trên môi người trên môi ta,
trên môi em
Trên môi những người Việt
nghèo khốn
Hai mươi năm chờ đợi đã lâu
...
(Đồng Dao Hòa Bình)
Hai mươi năm là tính từ 1948,
hay trước đó nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định
Genève, dù sao cũng tạo được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà
bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc
chiến tranh khác, lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết
hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua
năm khác, dù có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến, nếu không có lý, cũng có cơ sở
tình cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hóa,
không bị giáo dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt,
mà không truy tầm đến căn nguyên phức tạp.
Có lúc anh bộc trực, chính
xác hơn:
Hai mươi năm là xác người Việt
nằm
Làm sao ta giết hết những đứa
con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu?
(Tuổi Trẻ Việt Nam) 1969
Không dễ dàng gì trả lời câu
hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có
cuộc chiến tranh nào mà lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam
Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt
nguồn từ những lý do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp.
Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm,
nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự
can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính cách nội chiến:
Triệu người đã chết, hãy mở
mắt ra
Lật xác quân thù, mặt người
Việt Nam trên đó
Đi trên những xác người :
bao năm thắng những ai?
(Những Ai còn là Việt Nam)
1969
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không
nghị luận chính trị, vì nghị luận sẽ không thành bài hát ; anh chỉ nói lên cảm
xúc:
Ôi bom đạn cày trên những
xác
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng
vô cùng
(Đêm Bây Giờ, Đêm Mai) 1967
Bây giờ lý luận rằng nguồn gốc
của chiến tranh Việt Nam không phải là nội chiến là việc của người làm chính trị,
phân tích "bản chất" theo chính kiến, "chính nghĩa" của
mình. Người nghệ sĩ chỉ nói lên hiện tượng.
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản
chiến; quần chúng có hai con đường đến với anh: một là đến với người nhạc sĩ,
hai là đến với người phản chiến; họ chọn con đường thứ nhất, nếu anh có tài ;
họ chọn con đường thứ hai, nếu anh đáp lại tâm tư của họ. Còn những người đi
tìm một đồng chí hay chiến hữu, thì dĩ nhiên là thất vọng rồi công phẫn.
Cả hai chính quyền Nam Bắc
đã trả công hậu hĩ, và trả ơn đầy đủ cho những cán bộ "hát cho dân tôi
nghe". Dân tôi không nghe, lỗi đâu phải tại "cánh vạc bay"?
Từ 1968, trong những gào gọi
hoà bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước.
Hoà bình là một ước vọng của
nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn
thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi: thống nhất bằng cách nào;
và ai chủ động thống nhất? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và
không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác: Phạm Đình
Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Con Đường Cái Quan, đều chia sẻ một
nguyện vọng.
Khát vọng thống nhất đã bàng
bạc trong những bản nhạc của Sơn trước đó:
Đêm sông Hương nhung nhớ
Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội
Trùng Dương
Đây quê hương trông ngóng và
mẹ chờ mong
(Lại Gần Với Nhau) (1966)
Nhưng phải đợi đến Kinh Việt
Nam (1968) yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác:
Chờ ngày Việt Nam thống nhất
(Chờ Nhìn Quê Hương Sáng
Chói)
Reo vui cờ thống nhất
Chân bước đi trên ba Miền
(Những Ai Còn Là Việt Nam)
Chính chúng ta phải có mọi
quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê
hương
(Chính Chúng Ta Phải Nói)
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một
miền
Thậm chí anh đã hát rất quyền
uy: Hỡi Ba Miền vùng lên Cách Mạng.
Nói Một Miền Rưỡi, thì không
sao; nói Ba Miền là đã có vấn đề; nói Hai Miền "vùng lên cách Mạng"
sẽ còn nặng tội hơn nữa! ôi! Sơn ơi là Sơn ơi!
Những bài hát rền vang khí
thế. Quan điểm chính trị rõ nét, dù là tự phát, cũng có thể thành hình qua những
thảo luận với bạn bè. Vì không dễ gì mà trong vài tháng, Sơn đã sáng tác được hằng
chục bài hát đồng quy về một nội dung chính trị nhất quán.
Mưu cầu hoà bình đi đôi với
ước mơ thống nhất là khát vọng chung. Và đến 1968, người dân thấy rõ không thể
có hoà bình mà không có thống nhất. Không cần am tường chính trị cũng thấy điều
ấy. Vài ba năm trước, những người thân thiết với Trịnh Công Sơn trong phong
trào tranh đấu Miền Trung còn mơ tưởng: "tạm thời Nam Bắc làm hoà, để có
lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam. Miền Nam Trung Lập trong vòng hai
mươi năm (...) Nam Bắc hiệp thương" (12 ) như Hoàng Nguyên Nhuận đã tuyên bố
trên báo Chuyển Luân.
Khi tại Paris hoà hội bốn
bên đang tiếp diễn, thì trên danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã biến
thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Rõ ràng là Nam Bắc thế vô lưỡng lập: muốn
có hoà bình thì phải thống nhất Nam Bắc bằng cách này hay cách khác.
Cách nào đi nữa thì cũng dưới
một màu cờ, do đó Trịnh Công Sơn đã hát: Ta thấy gì trong đêm nay? Cờ bay
trăm ngọn cờ bay... Anh mong sớm Dựng lại Người, Dựng lại Nhà: tình
ta bay theo sóng ngọn cờ ...
Không thể tránh được câu hỏi:
ngọn cờ gì? Thật tâm thì Trịnh Công Sơn cũng không biết là cờ gì. Trả lời câu
hỏi đó, là thêm một lần chia rẽ, đau thương.
Nhạc sĩ rất bén nhạy, từ
1968 đã linh cảm:
Đêm nay hoà bình, sao mắt mẹ
chưa vui
Nhìn quanh anh em không ai
còn lại
Anh thầm gọi tên ai. Gọi tên
ai ...
Anh đi trận về nghe lại chuyện
kể
Ngỡ giấc mơ ...
(Sao mắt Mẹ Chưa vui)
Năm ấy, bài hát thành công
nhất là Nối Vòng Tay Lớn:
Rừng núi dang tay nối lại biển
xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối
sơn hà (...)
Thành phố nối thôn xa vời vợi
Người chết nối linh thiêng
vào đời ...
Nhạc điệu phong phú, hào
hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với
nhau, với đất nước, thành phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với
tương lai. Nhà văn Nguyễn văn Thọ, một bộ đội "phía bên kia", kể lại
rằng khi tiến quân vào Sài Gòn ngày 30/4/1975, nghe bài này anh đã chùng tay
súng:
"Mặt đất bao la, anh em
ta về
Gặp nhau mừng như bão cát
quay cuồng trời rộng
Lời ca không phải là tiếng
thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến
cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học". (13)
Nhưng đây là chuyện về sau -
nói ra đây -để thấy tác dụng của một khúc nhạc phản chiến.
Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại:
"thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hoà
bình cho Việt Nam, rồi tại tắt ngấm... Phong trào đấu tranh hoà bình Việt Nam ở
các đô thị lại bùng lên mãnh liệt" (Bài đã dẫn), nhạc khúc Trịnh Công Sơn
gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới: chính chúng ta phải nói: chính người
dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở hoà
bình thống nhất:
Khi tim người rực lửa cầu
mong
Chính chúng ta phải có mọi
quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê
hương
Quyết chối từ chém giết anh
em
Chính chúng ta phải nói hoà
bình
Đất nước này chỉ còn lại người
điên
Tháng 8/1969, anh viết:
"Hai mươi năm qua con người Việt Nam khốn khổ đã hiểu được thấm thía rằng
không còn một nhân danh nào đủ ý nghĩa và xứng đáng để còn một chỗ đứng trên
cái điêu tàn to lớn phủ ngập đời sống nơi đây nữa" (14)
Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta Đi
Dựng Cờ, Đừng Mong Ai Đừng Nghi Ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại
ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta Quyết Phải Sống:
Còn sống xin các anh quyết
còn cách mạng
Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí
...
Quyết làm cách mạng và phải
xếp vũ khí: nguyện vọng thành khẩn và ngây thơ của một nghệ sĩ giữa những thế lực
vô minh, với hằng triệu tay súng mỗi bên, với pháo đài bay, xe tăng, hoả tiễn.
Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để, tự bóng tối ra
ánh sáng, từ xương máu ra hoà bình "một rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa
mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam" (14).
Trong Những Giọt Máu Trổ
Bông, sau khi tính sổ hằng tỷ tỷ giọt máu đã chảy thành suối thành sông hay đã
khô cằn trên đất nước, đã che khuất mặt trời, nhạc sĩ quyết định:
Những giọt máu đến ngày trổ
bông
Nở hoà bình cho đêm vắng xôn
xao tiếng người
Ngày dân ta đi dành lấy hoà
bình
Ta phải thấy mặt trời
Và Mặt Trời là biểu tượng
ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc:
"Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông". "Một mặt trời tươi
trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông". Sơn có lần giải thích: người phương
Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương
Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây.
Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin, là quê hương của hoà bình, hoà
giải và hoá giải.
Anh và bạn bè anh ở Huế,
trong giới Phật tử, đã tin như vậy, theo hồi ký gủa Giáo sư Erich Wulff khi ông
kể lại vụ xe thiết giáp đàn áp dân lành tại Huế tháng 5/1963 mà ông đã mục
kích. Ông nói về thanh niên Huế và chiến tranh: "Họ xem như là một cuộc
chiến tranh tôn giáo (...) càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hoá dân tộc mang
tính cách Phật giáo và một sách lược chính trị trung lập" (15).
Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn
nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hoá,
trong một thời điểm nhất định. Do đó, tâm hướng về nguồn, về phương Đông, về Đạo
trong nghĩa Phật giáo hay Lão Trang, ở Trịnh Công Sơn khác với Hơi Tàn Đông á
nơi Vũ Hoàng Chương ba mươi năm trước, và cách nhau hai cuộc chiến tranh; rồi
ý hướng về Đạo, vài ba năm sau, từ 1973, sẽ đơm hoa kết nụ thành những đoá hoa
vô thường trong nhiều ca khúc.
Phật tính là mạch nước ngầm
trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt Thấy Mặt Trời, và tuôn
trào thành Nguồn Thơ Suối Nhạc.
Phụ Khúc Da Vàng,xuất bản
1972, gồm 9 bài, với Người Mẹ Ô Lý, bài hát tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn
người từ Quảng Trị về Huế; và Mùa áo Quan, tặng những thành phố Việt Nam, có một
lần không còn bóng dáng con người, phản ánh chiến trường Trị Thiên khốc liệt những
năm 1971-1972, với mặt trận Nam Lào, Đường 9, Cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa. Xa
hơn nữa, trên khắp chiến trường miền Nam, đi đâu cũng thấy xác người Trị Thiên,
theo lời Phan Nhật Nam: Kontum thì dân dinh điền, An Lộc là dân cạo mủ cao su,
Bình Giả là dân Cam Lộ, Khe Sanh mới đến định cư. Những phận người nằm chết
cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không
manh áo. Phan Nhật Nam "nhìn tận mắt những thảm cảnh trên vùng đất quê
hương: một bộ xương trẻ con trong chiếc thau nhựa bạc màu ... Một người
đàn bà đưa bàn tay trước từng miếng thịt, xoa trên chiếc đầu lâu của người chồng
xấu số" (16)
Khi các phe phái hoà đàm tại
Paris thì bom đạn vẫn ác liệt. Chiến xa miền Bắc đã tràn qua sông Bến Hải, mục
tiêu vừa quân sự, vừa chính trị là bôi xoá tàn tích hiệp định Genève và vĩ tuyến
17, chứng tỏ chiến trường Việt Nam là một, trong khi chờ đợi nước Việt Nam là một.
Bề ngoài Trịnh Công Sơn vẫn
hô hào "Chưa mất niềm tin, vì quê hương sẽ có ngày hoà bình (...), trong
lòng nhau thấp thoáng bóng cờ chung". Nhưng ở thâm tâm anh đã bi quan
lắm khi "đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ":
Bao nhiêu năm chờ đợi
Oán thù là khí giới
Trong con tim lời nói yêu
thương
Đã mất rồi
(Đợi Có Một Ngày)
Trịnh Công Sơn gói ghém nỗi
hoang mang chán chường một thế hệ:
Mười lăm năm em có buồn
không?
...Đường anh em đi hoài
không tới
Đường văn minh xương cao
cùng với núi
Đường lương tâm mênh mang
hoài bóng tối
... Hãy nhìn lại anh em trên
chiến trường
Tìm đâu ra những nét mặt thù
Được hay thua những thắng bại
kia
Mặt quê hương tan nát từng
giờ
(Hãy Nhìn Lại)
Khúc hát ngắn đã quy chiếu mọi
góc cạnh, kích thước một cuộc chiến tranh, thuộc loại khốc liệt nhất mà dân tộc
phải trải qua. Nếu ai đó chê trách Trịnh Công Sơn lờ mờ về chính trị, thì phải
hiểu chính trị theo nghĩa lập trường, phe phái. Đứng trên lương tâm dân tộc mà
nói, ít có sử gia hay nhà bình luận chính trị nào, mà thu vén được cả bi kịch của
đất nước trong cả chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu bằng bấy nhiêu câu chữ,
được giai điệu của nhạc thuật xoáy sâu vào tâm khảm của thời đại.
Đã nhiều người nói Trịnh
Công Sơn là thiên tài. Sự đánh giá thành tâm, nhưng mơ hồ, sử dụng một khái niệm
khó định nghĩa và không có tiểu chuẩn. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chữ
thiên tài bao hàm một ngụ ý chính trị. Nhưng nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự
nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi
dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào, là của trời
cho; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn.
Và chính khối đau thương -
qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh
danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị; và sau này nữa, bên ngoài
những mê chấp sân si.
Song song với ca khúc hoà
bình làm trong một thời điểm đặc biệt, Trịnh Công Sơn vẫn sáng tác nhạc phẩm ca
ngợi tình yêu, tình bạn, thiên nhiên và cuộc đời. Tất cả tâm cảm ấy cùng chiếu
rọi về tình người, nổi bật trong khổ nạn.
Nhân đề tài Ca khúc đòi hỏi
Hoà Bình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhắc lại từng giai đoạn trong quá trình
nhạc phẩm và bối cảnh chính trị, xã hội của miền Nam chủ yếu từ 1965 đến 1972.
Trong những điều kiện tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, có yếu tố lớn lao với
kích thước lịch sử, có chi tiết bình thường như cách ăn mặc hay ăn nói. Trong
tâm tưởng người nghe khó đo lường được cái gì là chính, cái gì là phụ trong những
điều kiện làm nên danh phận một tác gia. Điều này bổ sung cho điều kia, chúng
tôi ghép lại như những mảnh vỡ của một thời đại.
Và cũng lưu ý dè dặt: bài
nào chính xác là phản chiến? Đối với những người từng nghe, từng sống những ca
khúc Trịnh Công Sơn thời thịnh hành, thì khó trả lời.
Với nhiều người, toàn bộ nhạc
Trịnh Công Sơn thời đó đều diễn tả khát vọng hoà bình. Những bản nhạc tình, dù
chỉ hoà tấu không lời, cũng vang vọng ít nhiều âm hưởng của niềm mong ước đó.
Nhưng có một cách phân biệt, nghịch lý nhưng thiết thực: bài nào mà ngày nay
không được in lại, đồng thời không được trình diễn trong nước, thì nó là nhạc
... phản chiến!
Đây lại là một cách gián tiếp
minh xác vị trí chính trị của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn anh làm khoảng 70
bài hát được gọi là phản chiến.
Và ca khúc duy nhất của Trịnh
Công Sơn mà chúng tôi có thể xác định thời điểm sáng tác là Ra Đồng Giữa Ngọ
làm tại Huế tháng 12 năm 1974, vào những ngày năm cùng tháng tận của một chế độ,
chế độ đã sinh trưởng ra anh. Bài hát tiên tri về nhiều mặt:
Thằng bé xinh xinh chơi diều
giữa Ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư
không
Sơn qua đời ngày 1 tháng Tư,
vào giờ Chính Ngọ, như con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo, con diều rơi cho vực thẳm
buồn theo ...
Đối với một số bạn bè, Sơn
bao giờ cũng như đứa bé, suốt đời buồn vui như một đứa bé. Và họ, ngày nay, còn
hát theo Sơn:
Thằng bé xinh xinh bay vờn
giữa Ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư
không
...Tan trong trời hồng làm
giọt mưa trong
Tan trên cuộc đời làm lời ru
êm
...Tan trong nụ cười gọi mời
yêu thương
Tan trong cội nguồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét