Sao lại gọi thi ca đương đại mà không gọi Thi ca Tư tưởng tức Đi Vào Cõi Thơ của
Bùi Giáng do nhà xuất bản Ca Dao (1969) và An Tiêm tái bản vào năm (1998)? Đó
là; nói lên cái độc sản của thơ qua mỗi thi nhân mà tác giả gọi chung là thi ca
tư tưởng; xét ra một tom góm đặc biệt qua từng vai trò của thơ và khơi dậy bề mặt
những gì về thi tứ với nhiều đối tượng khác nhau giữa Đông và Tây; phơi mở những
trạng huống tâm lý của thơ; giữa thơ và người, giữa người và thơ. Có rứa mới gọi
là tư tưởng thơ. Thực ra hai nghĩa khác nhau rõ rệt. Thi ca tư tưởng trở nên một
cụm từ bao quát về ý niệm và cảm thức sống dậy bằng một tư tưởng hiện đại trong
một tri thức giáo khoa / modern thought in education. Một suy nghĩ chín chắn, để
tâm tới của một ý nghĩ nhứt thời / give it a moment’s thought. Một thần trí chiếm
cứ sâu lắng trong tư tưởng / deep in thought. Một mảy may, tiết độ của thời
gian và không gian, dù là thể thức nhỏ nhen đi nữa đã tác động vào hồn bằng cảm
thức một cách cẩn thận có chủ tâm / to be a thought more careful. Những dữ kiện
trên đồng nghĩa với quan điểm (idea). Tư duy (thought) là danh từ (n) tỏ rõ
hành động tiến trình của suy tư: phản ảnh, trầm tư, suy ngẫm. Một lý do khác
thuộc sở năng lý trí hoặc hình thành qua trí tuệ: tinh thần, ý niệm và cảm thức.
Nó không còn là động từ (v) cho một ‘suy’ và ‘nghĩ’ trong dạng động từ của não
bộ mà phát tiết bằng biểu lộ (appearance) tri thức. Rứa cho nên chi gọi cho đại
sự văn chương là Thi ca Tư tưởng. Còn Thi ca Đương đại lại là khiá cạnh khác của
thơ. Đương đại là thời gian tính (temper/tempus) là sống cùng thời gian hoặc xẩy
ra cùng thời kỳ của thời gian, về tuổi tác, về những mẫu thức đặc thù (thơ) hiện
diện hoặc mới hình thành. Có đôi khi người ta gọi đương đại (contemporary) hay
đương thời (contemporaneous) xẩy ra như hiện tượng. Cả hai cùng nghĩa là hiện hữu
tồn lưu, tồn lại nhân thế một sự kiện xẩy ra giữa lúc chưa xẩy ra. Răng rứa?
Đương đại thường hướng tới hiện tại là gợi lên nhân vật hay tác phẩm. Đương thời
như là biến cố, sự kiện cùng thời, cùng tuổi, cùng lúc vượt cả thời gian và
không gian là khoảng thời gian xẩy ra điều gì là bao trùm toàn diện; đồng thời
như một định giá có chuẩn mực cho một chuyển động trào lưu gần giống như dẫn tới
của thời gian / the same brief interval of time. Thi ca tư tưởng hay thi ca
đương đại đều nói lên cái tạng thể về thời gian lưu truyền, một cái gì thuộc tồn
lưu nhân thế và một tồn loạt thế gian.
Ở đây như một cảm thức riêng hoặc ở đó như là tư thế đối với những ai chưa đạt
tới. Đã gọi là đương đại là đặc thù còn những gì ‘ta bà’ chướng khí hay đứng
ngoài vòng cương tỏa của thi ca đều là tồn loạt một thứ bí tỉ tư tưởng cho nên
đã làm suy thoái, sa đọa thi ca. Bởi; thi ca là thanh cao diệu vợi dù một chữ
thơ là cả một ý nghĩa đẹp còn dùng một chữ tục (như Đ.. hoặc C.. hoặc L..) nghe
đã không thanh tao mà phàm tục dục giới của một số nhà thơ hiện nay. Hay do cuồng
trí mà sanh động tư duy sinh lý? Ai cho đó là đương đại hay là thi ca tư tưởng?
Hủ hóa, lạc hậu thiếu văn minh của ngữ ngôn. Chán gì chữ nghiã để dùng. Tục mà
thanh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương là tiếng nói để đời, là thi ca đương đại nghĩa là
thơ đi vào hành trình của ánh sáng. Quả vậy; danh sĩ họ Hồ ‘dòm’ lui thấy đám
thi sĩ ngày nay già trước tuổi, lụ khụ, trì trệ, lẫm cẩm. Có học; nhưng miệng mồm
thuộc hàng cá, mực. Rứa có đáng gọi là đương đại? Hay là chơi chữ để trở nên hiện
tượng? Không hẳn thế! Bởi; chưa biết vận dụng ngữ ngôn để thánh hóa (deify)
ngôn ngữ thơ mà đó là ngôn ngữ chết (dead language) không phép tắc
(disobedience) không tuân thủ, phẩm trật, vô luật lệ (unruliness) thì đâu còn
chất thơ.Vì rứa mà thi ca tư tưởng và thi ca đương đại khó tìm thấy giữa lúc
này. Có; nhưng ít. Mà có đi chăng thì cả thơ và người thơ ùm lên, ồn ào phá
phách làm cho thơ không đi vào đương đại vì tư tưởng tự hào, háo sắc, háo danh
làm cho thi ca ô nhiễm, mai một là ở chỗ đó. Thế nhưng đời vẫn cho đó là hiện
tượng của những người chưa một lần hội nhập vào thơ. Nhất cử nhất động đều là
thơ. Đúng! Nhưng phải chứa cái thức tỉnh và sinh động trong đó.Đã gọi là đương
đại tất là thời gian, là nhận thức lãnh hội thích hợp với mực độ của nó, tạo
nên hợp lý, ước muốn hoặc khoái cảm từ những gì vượt qua được bởi những trộn lẫn
vào nhau với những hình thức khác nhau, những hình tượng đối thể của ngôn ngữ:
chất lượng, mức độ, chuyển hóa và chủ đề…
- Hiện hữu thời gian / For the Time Being: Gần như đây là đặc chất của thi ca
đương đại –Most of the characteristics of contemporary poetry. Đặc chất của thứ
thi ca này là vực sâu xa lià những hình tượng của hữu hình (tangible) và không
sáng tỏ trong trí (intangible) mà đụng phải cảm thức ngữ ngôn một thể loại có
giá trị về kịch tính trong tư thế đối kháng giữa thơ và ca (Fugal-Chorus) mà
đòi hỏi của thi ca là trầm mặc vào những gì thanh cao diệu vợi của thơ. Cảm thức
trong suốt và suy thoái nằm trong kinh nghiệm vật lý là một thông đạt hầu như
linh động vi diệu và trong phương ngữ thứ ba của nhận thức trực giác –The sense
of transparency and decay in physical experience is communicated most vividly
in the third speech of intuition. Răng lại cho là thi ca suy thoái?
Vì nó nói lên cái tự nó, đến cái đích của nó, cái sự tái diễn nhiều lần như phổ biến khắp nơi biết đến âm vang của nó. Sự thể như thế không còn chi để gọi là thi ca mà chỉ thấy ở đó một thể thơ ngã vị cho một tự kỹ, không còn hoà đồng hay hòa nhập vào quần chúng và thiên nhiên: giữa hữu thể thơ và vô thể thơ. Thi là thơ, kệ là kinh chớ không ai đem chuyện tào-lao, chuyện cúng tế, chuyện ma chay cưới hỏi, chuyện kể, chuyện ghi chép gọi là thơ... Đối xử của thi ca có tính lịch sử bởi lịch sử là thời gian mà trong đó có một cái gì ngấm ngầm phủ nhận về siêu tưởng của mình hoặc ngấm ngầm thừa nhận cái tư duy hợp lý của mình là đồng nhất. Kiểu thức của
Vì nó nói lên cái tự nó, đến cái đích của nó, cái sự tái diễn nhiều lần như phổ biến khắp nơi biết đến âm vang của nó. Sự thể như thế không còn chi để gọi là thi ca mà chỉ thấy ở đó một thể thơ ngã vị cho một tự kỹ, không còn hoà đồng hay hòa nhập vào quần chúng và thiên nhiên: giữa hữu thể thơ và vô thể thơ. Thi là thơ, kệ là kinh chớ không ai đem chuyện tào-lao, chuyện cúng tế, chuyện ma chay cưới hỏi, chuyện kể, chuyện ghi chép gọi là thơ... Đối xử của thi ca có tính lịch sử bởi lịch sử là thời gian mà trong đó có một cái gì ngấm ngầm phủ nhận về siêu tưởng của mình hoặc ngấm ngầm thừa nhận cái tư duy hợp lý của mình là đồng nhất. Kiểu thức của
thi sĩ loại ấy là đứng trong vai trò chủ thể quên mất đối tượng khách thể cho
nên chi lạc hướng thi ca đâu còn tư tưởng với đương đại. Cảnh tượng đó đi tới
suy đồi, suy vong, suy thoái của thi ca đương đại.Thi ca đương đại là truyền thừa
(the Vehicle) đã thực nghiệm một vài đặc tính qua nhiều thể tài khác nhau; đặc
thù của ngữ ngôn, đặc thù cách xử dụng con-chữ; một hình thức mới của thi ca vừa
hiện thực vừa thời đại đó là thời thượng của thi ca đương đại. Sự cớ này hình
như là vấn đề thường xuyên qua từng thế hệ thi ca (age of poetry) đã tìm thấy
sáng tạo qua cung cách dụng ngữ của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên hoặc một chối
bỏ hiện hữu phù du đầy tinh vi phức tạp của con người, một tuyệt vọng tận cùng
của Quách Thoại, Trần Dần hay Phùng Quán, một phù hư nhân thế của Nguyễn Tất
Nhiên một trí năng thức tỉnh và hài hòa của Phạm Hầu. Đi qua mấy thập niên
trong những gì thi ca đương đại vẫn là cái sự đưa vào cái mới mẻ mà vẫn tìm thấy
nó như một cách mạng chữ nghĩa nhất là về thi ca, nảy sinh ý nghĩ như nghệ thuật
làm thơ, chọn lựa con-chữ thích nghi với hình ảnh đầy sắc màu. Đương đại là thời
gian của thế kỷ và trải dài cho mai sau, một trường kỳ của những gì là thơ mới,
thơ tự do, thơ không vần và thơ siêu thực là thể hiện cụ thể còn những thứ thơ
khác: thơ đúc, thơ chạm, thơ rờ, thơ trình diễn ngay cả thể tân hình thức hay
thơ hậu hiện đại ngày nay là những vở kịch mới màu mè tự chủ chớ không đi sâu
vào vũ trụ thi ca, nói ngay những loại như vậy vẫn còn đứng sau thơ vô nghĩa.
Răng rứa? trong thơ vô nghĩa vẫn có cái nghĩa của vô nghĩa. Nghĩa là nó vẫn giữ
trọn vẹn chất thơ, tìm thấy cái siêu thoát vô nghĩa thơ. Dẫn ở đây một bài thơ
vô nghĩa (nonsence poetry) của Paul Verlain trong bài thơ: ‘Pantoum Négligé’với
16 câu toàn là vô nghĩa pha vào cái bâng quơ, vụng về, xềnh xoàng và vô nghĩa
nhưng không ai thấy được ý bên trong. Trong thơ vô nghĩa vẫn chứa một sắc thái
riêng biệt ở hàng ngũ thi ca:
“Ba cái bánh pa-tê nhỏ
Chiếc áo sơ mi của tôi cháy
Cha sở không thích ăn xương
Cô em bạn dì tôi tóc vàng . tên là Ursule
Sao ta lại di cư sang Les Palaiseaux”.
Nói chung thơ là cả kỹ thuật xử lý từ ý niệm của não thức, một khơi dậy của trí
tuệ và tiềm thức; những thứ đó cô đọng thành thơ. Nhưng thơ phải đặc thù và
sáng tạo mới xếp vào thi ca tư tưởng hay thi ca đương đại. Thơ ngó dễ nhưng
khó-dễ vô cùng. Cho nên chi nói đến thơ là trí tuệ, một trí tuệ có trường lớp
khác với người làm thơ theo dạng sở thích. Sự ngẫu hứng có trình độ của tri thức,
chớ không phải đột xuất (spontaneous) để thành thơ như lớp dưới. Đấy là cái
khó-dễ của thơ. Một thí dụ khác: Xuất hiện vào thời kỳ thơ mới (1932). Có bài
thơ của Đoàn Phú Thứ là lối dụng chữ có kiểu cách, ngũ ngôn thơ nhưng vẫn giữ
được phong vị bằng, trắc đề huề.Một chất thơ nói lên thời gian, thiên nhiên và
con người:
“Duyên trăm năm đứt đoạn (t)Tình muôn thuở còn hương (b)
Hương thời gian thanh thanh (b)
Màu thời gian tím ngắt” (t)
- Nghệ thuật làm thơ (versification): khởi từ khi có phong trào thơ mới ở nước
ta (1930/1935) bung phá như cơn lũ ở Âu châu vào thế kỷ thứ mười chín của thể
thơ vận âm tiết, một ngắn một dài (iamb) và giữa thập niên 50/60 thơ một chữ
(Nguyễn Vỹ) đã gây chấn động hoặc thơ nhảy vọt từ một hai chữ như một biến thể
(thơ mới) chế ngự thơ vần điệu –vì rứa mà có nhiều thi nhân có vẻ như là thừa
nhận để noi theo. Nói cách khác cái thứ dụng thơ hay biến thể là nghệ thuật làm
thơ, là cấu tạo thơ vừa hình thức vừa ý nghĩa cho thơ được nới rộng để dễ bề phổ
cập, nhưng lấy mới nới cũ không chừng tụt hậu. Để rồi truyền thừa cho tới ngày
nay biến dạng theo nhiều hình thức khác nhau: như thể là một câu văn xuôi trong
truyện cực ngắn cắt khúc ra từng chi (đầu cánh cổ, tim gan lòng phổi) tạp-pí-lù
thành thơ cháo lòng. Rứa mà có một vài thi sĩ thu tập và rập khuôn như thơ hình
thức mới. Thế rồi cũng không khôi phục vào đường thơ. Cho nên chi thi ca đương
đại có một khiá cạnh đặc biệt trong đó biết xử dụng thơ một cách độc đáo, đa dạng
nghệ thuật của thi ca (The Art of Poetry) như họa phái và biết dụng ngữ để tìm
thấy con-chữ hoạt động theo ý thơ; tất cả những yêu cầu đó là yếu tính cho con
đường đi vào xã hội chủ nghĩa thơ đương đại. Tránh giẫm vào và nhầm lẫn của thơ
văn-học-nghệ-thuật và thơ-chợ.
- Con-chữ (diction) là ‘chơi chữ’ bằng cách chọn từ để diễn tả tình ý của thơ;
một thể thức có khuynh hướng quan trọng trong dạng thơ diễn đạt (poetic
diction) bằng một sáng tạo con-chữ trong hầu hết bài thơ vừa kịch tính, giễu cợt
vừa tự nhiên; một ngôn ngữ tự thức, tức ý thức không có mình trong đó
(unself-conscious) đưa ra một cách nói riêng và thông thường. Hình thức và nội
dung thơ là tạo được sự hòa điệu trong ngôn ngữ thơ. Đấy là đặc thù của thơ
đương đại. Một thể loại thông thường như muôn ngàn thể loại khác, nhưng; vận dụng
được con-chữ ‘luyến láy’ và ‘âm điệu’ có nhạc tính. Đó là sự khéo léo, tài
tình, trí tuệ, cảm thức mới thành thơ. Thông thường nhưng không thông thường
(regularity and irregularity). Con-chữ của thơ là đánh dấu thời gian, bởi; nó
hiện hữu với thời gian. Thứ thời gian vô biên sống mãi và tồn lưu. Dù đã qua
hơn hai thế kỹ nhưng lời thơ của Nguyễn Du vượt thời gian không đứng lại giữa
cõi đời. Thi nhân đã vận dụng con-chữ để tỏ bày. Đó là thi ca đương đại muôn đời:
“Ngại ngùng dín gió e sương” (Nguyễn Du)
Và; một thi nhân cận đại đã đưa con-chữ đi vào với thời gian để không còn là
hoang phế hay suy tàn. Sống thực giữa đời, giọng thơ mang tính triết lý siêu
hình, một ẩn chứa vừa tàng hình vừa hiện thực:
“Tin xuân lã chã xanh giọt liễu
Rứa thì chức năng của thi ca đương đại làm gì? Là biết dụng ngữ và dụng ngôn.
Có nghĩa là tìm cách vượt ra ngoài cái thực tại mà mình nhận ra. Nhà thơ vượt
được là giải thoát được chỉ để lại cái siêu lý vô biên với thời gian. Đương thời
nhưng là đương đại tồn lưu, tồn lại và tồn thể; một tác động của con người qua
nhiều quan điểm khác nhau nhưng tựu chung vẫn là có nhau, vì xử dụng đúng
phương thức, cách kiểu (modes) vừa ngụ ý của biểu lộ (indicatif) vừa giả định
(subjonctif) nghĩa là nói lên lời đả thông về sự ao ước của mình, những gì chế
tài ngoài quyền hạn của mình nhưng thuộc quyền hạn của tha nhân hay là của tự
nhiên sinh ra. Thi ca đương đại không những chỉ suông là thơ mà hàm chứa một đặc
chất cứng nhắc (concreted) vào trong thi ca, biến thể hay đồng chất đều nằm
trong qui trình đó dù là đương thời nhưng đã đi vào của những gì là đương đại.
Cho nên nghệ thuật của thi ca và con-chữ không thể thiếu trong thi ca đương đại,
thời không nhận ra sự vận hành hay điều hòa vào sự vật. Thi ca đương đại là vượt
lên cái đa tạp của cảm giác chủ quan để đi tới cùng với khách quan. Đối với thi
ca đương đại là một gián tiếp thông đồng để tư tưởng thi ca độc lập ở vị trí
chính đáng nghĩa là không đụng tới cái tạp nham, hồ lốn. Răng rứa? đã gọi là đa
tạp tất nó ở thể loại của tồn loạt, tồn lùi, tồn tờ lờ mờ thì ai gọi là đương đại.
Đương đại phải hiện thực cuộc đời và thời gian. Không một ai xác quyết thế nào
là bắt đầu của thi ca, nhưng chúng ta biết chắc rằng điều đã gọi là tồn lưu
(existed) tức xác quyết thi ca bắt đầu từ đó và nhìn vào đó như một tiếng nói bắt
đầu giữa những gì trước khi viết thành thơ. Nói về thi ca đương đại không những
nhấn mạnh vào thơ mà phớt lờ những gì là hình thức thơ (formal-poetry) hoặc là
chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngữ ngôn nọ; ở vai trò này nó cũng có nhiệm vụ
nói lên thi ca như một thông điệp diễn tả cảm thức của thơ một cách tự nhiên và
gần gũi. Chuyển dịch từ thơ ‘ta’ sang thơ ‘tây’ liệu có lạc hồn thơ với hồn thi
sĩ? hay đây là chức năng hòa hợp dành cho một sự phổ cập rộng lớn? Truyên Kiều
của Nguyễn Du cũng đã đưa ra chuyển dịch nhưng mỗi bản mỗi khác (kể cả chữ và
câu) không hòa điệu mà làm lung lạc ý và hồn thơ, không khoáng đạt chất thơ. Bởi;
con-chữ và nghệ-thuật thơ là cá tính đặc biệt (characteristically) của nó; nhất
là thơ. Nói thế có tính võ đoán cho thơ và không chừng không đả thông mà vòng
vo tam quốc. Thành ra thơ ngó dễ (dịch) nhưng mà khó-dễ vô cùng. Dẫn ở đây một
lối chuyển dịch khác mà cảm thấy như ‘thơ ta’ không còn là thơ tây hay thơ tàu.
Do đó thi ca đương đại không chuyên đề cho thơ mới gọi là đương đại. Đương đại
là thời gian thời thượng. Vì rứa; dịch là cả siêu lý trí tuệ mới thành thơ để từ
đó xếp vào giòng thi ca đương đại. Đọc thơ dịch dưới đây để thấy hai ngả thơ là
một, không còn cách biệt nhau mà sát với ngữ ngôn thơ; cái đó mới tài tình cho
một tri thức biết vận dụng trí tuệ khi đứng trước một bài thơ ngoại ngữ hay ngược
lại:
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân”.
(Vương Duy/ Vị Thành Khúc)
Dịch sang Việt:
‘Vị Thành mưa sớm mù tăm
Cõi miền bụi ướt thấm đầm ngõ thuôn
Quán mờ liễu thắm xanh buông
Mời anh cạn chén rượu buồn tiễn chân
Tiền Trình quan ải tây phân
Đèo truông ra khỏi cố nhân không còn’.
(Bùi Giáng-Mùa Xuân trong Thi ca)
Theo lời người dịch với sáu câu dịch là: ‘cõi đạo vô ngần của ngôn ngữ Vương
Duy’. Rứa thì dịch không so con-chữ để dịch mà phóng vào đó một nghệ-thuật-ngữ-ngôn.
Quả là đương đại cho thi dịch!
Nói về nghệ-thuật và con-chữ trong thơ; đọc lại một vài câu thơ xưa để thấy ở
đó là đương đại theo thời gian.Đương đại nghĩa là tồn lưu, tồn lại, tồn tới là
để đời với thế gian, thi sĩ ngày nay muốn đạt tới thi ca đương đại là quên mình
để cho thơ đi vào miên viễn với thi ca. Không đòi phải có nhiều sản phẩm, sản
xuất cho nhiều thơ những thứ đó đều là trôi sông lạc chợ.Vô bổ! Rút ra cái ‘hậu
bổ’ để thấy tì vị của nó:cũng chừng đó chữ nghĩa, cũng nhảy vọt, lên xuống đề
huề, vô ra đằm thắm, dịu dàng mà nghe sướng vô cùng. Cái sướng đó là thi ca
đương đại vượt thời gian và không gian, vượt luôn tiếng động để đi tới ánh
sáng. Răng lại có tiếng động và ánh sáng lọt vô đây? Đương đại ngày nay phải có
chất liệu đó để gọi là thi ca kỹ nguyên (epoch of poetry) là đi trước của siêu
thanh = ánh sáng+tiếng động (trường hợp này có thể ví thơ hiện thực của Hồ Xuân
Hương) cái đó gọi là siêu lý vọng động của thi ca (sound of poetry); đôi khi chỉ
có dzăm ba chữ thôi so ra trội hơn cả một trời thế kỷ. Mấy thể thơ thời sự hiện
nay: tân hình thức, thơ hiện đại, thơ kể chuyện, thơ ghi chép, thơ cháo lòng,
thơ tình lổm chổm, thơ nhớ, thơ thương thời không thể liệt kê vào thi ca đương
đại. Mà chờ xét! Răng lại chờ xét? –Xét là sửa sai, coi đáng hay không đáng vì
ba cái thứ hùm-bà-lằn là thứ ‘biệt-kích’ trù dập, là thi ca ‘thích khách’ một
thứ khủng bố thời đại, bắn xối xả vào cái chất hiền lành, trầm mặc của thi
nhân. Thành ra phải đề phòng cái đám vô loại này. Đọc lại bài thơ cũ đã một thời
là thời thượng; pha chất thơ tự do và hình thức mới, cùng một thể mà tác giả diễn
tả đa dạng có vần điệu dưới nhiều thể loại khác nhau mà vẫn đả thông tư tưởng:
“Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiển oanh đưa luống ngậm ngùi
nửa năm tiên cảnh
một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
đá mòn rêu nhạt
nước chảy huê trôi
Cái hạt bay lên vút tận trời!
cửa động
đầu non
đường lối cũ
Trời đất từ nay xa cách mãi
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng trôi”.
(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
Đố họa sĩ nào vẽ nổi bức tranh này, dịch giả nào biểu diễn cái siêu thoát đó hoặc
tài tình họa một câu thơ tương đương như thế; chắc chắn không còn gọi là thi ca
đương đại mà gọi đại-siêu-nhiên (supernatural).
Có lẽ; thi ca bắt nguồn từ chỗ nghi lễ xa xưa (qua lời ca tiếng hát bộc phát) và
từ đó người ta dùng nó
như âm vang có nhịp điệu (rhythmical), lời hò là lời cầu xin thượng đế ban ơn.Vần
điệu thuở đó gần như sức mạnh phù chú để làm tan đi sợ hãi. Ngay như bây giờ;
thi ca vẫn còn tiếp tục đánh động và bày tỏ trong cảm thức về tôn giáo, vì; nó
đã nổi bật trong việc thờ cúng đấng thiên liêng qua từ vần điệu nhịp nhàng của
tôn giáo mà ra. Cũng chính cái sự đơn sơ, vô tình của vần điệu đã trở thành thi
ca đương đại (tức những gì xẩy ra cùng thời) cho tới bây giờ đi vào thi ca
không còn ngẫu nhiên; biến nhịp điệu để trở thành thi ca. Thi ca đương đại là
chấp nhận mọi tình huống, mọi hoàn cảnh biết thức tỉnh và sáng tạo, xẩy ra như
chưa xẩy ra. Thi ca phục vụ qua nhiều mục đích khác nhau. Bởi một chữ trong thơ
là đưa vào đó ý nghĩa ngữ ngôn và cảm thức trong cường độ phát tiết có chiều
sâu để thi ca có một hào phóng cho ngữ ngôn và tiết điệu. Thi ca đương đại phản
ảnh chiều sâu đó. Không đòi hỏi thiết kế hay cấu trúc công phu cho thơ thêm mới
lạ. Thơ là cảm thức, một cảm thức tràn đầy và siêu thoát cho một hiện hữu tồn
lưu. Trong thi ca khước từ mọi tư duy tạm bợ mà sáng tạo nghệ thuật (thơ). Có
nhiều nhà thơ ngày nay làm thơ có chiều hướng thời sự (gặp cái chi ‘ngộ’ là biến
thành thơ làm mất tính nghệ thuật của thơ và con-chữ dành cho thơ). Do từ sự bí
tỉ của trí tuệ không thoát tục làm thơ cạn cợt ý tứ. Nhờ đó mà ta thấy được cá
tính, trình độ, thứ hạng của con người, kể cả mọi trường phái khác đều hiện ra
như thế cả.
Để rốt ráo một thứ triết lý thi ca (Philosophy of Poetry) là nói lên cảm thức,
nghệ thuật và chất liệu (con-chữ) để minh định đường lối thi tứ có trước và
sau, cái gì xứng và không xứng để thừa nhận nó là đương đại. Chớ đừng vơ đũa cả
nắm nghĩa là nghe rầm lên một cái cho là thi ca thời thượng, thi ca tư tưởng
hay thi ca đương đại; mỗi một thứ có chỗ đứng của nó, nghĩa là nó sắm đúng vai
trò trên sân khấu thi ca.
Răng rứa? Xin đừng răng rứa. Vì răng rứa tức là ngã vị không còn nhập hồn vào
thơ mà phải nhận ở nó như một chủ thể đối với khách thể; có rứa mới thấy được
giá trị của nó. Chớ không phải thơ là thoát tục nhân thế, thơ là cõi phi, thơ
là bất khả tư nghị, thơ không lý giải –Poetry without consolation cho nên chi
thi sĩ ngày nay mạnh miệng, mạnh tư duy đem ra xổ óa với thơ hay nói theo triết
học thi ca là một sự hóa thân sáng tạo –Poetry is a metaphor of creation. Vì rứa
mà ‘sáng tạo’ dễ dàng. Còn nói theo phép nhà Phật ‘Prãjna’ thì thơ nó nằm trong
tứ đại cảnh của Bát Nhã gọi là thơ siêu thoát là không vướng tục, bởi; thực tại
của thi ca nhất là thi ca đương đại là có cái chất ‘realité physique’ nói cái
ít ai thực hiện hay bộc bạch một hình thái bên ngoài nhưng tàn ẩn bên trong
(như thể thơ siêu thực và vô nghĩa). Kiểu thức đó là ám thị tư tưởng (vision
impaired) trong thơ mà hầu như thơ đều có trạng thái tâm lý đó. Rứa thì thi ca
nói cái gì đây? Vì nó là ngôi thứ ba, đại diện ta và tha nhân. Ngôi ba của tinh
thần (Holy Ghost) là một bày tỏ mơ mộng, viễn vông, ảo tưởng thể thức của nghệ
thuật mà ra –For the third and most spiritual expression of the romantic form
of art. Chúng ta phải quán sát nơi thi ca. Đặc chất khác thường của nó nằm
trong cái lực của những gì gọi là giả định có từ trí tuệ và đó cũng là quan điểm,
ý niệm, duy thức của thi ca, một dính dáng vào yếu tố dục giới bao gồm tất cả mọi
thứ nghệ thuật. Thơ lại càng biểu hiện rõ nét dục giới đó (xưa một nhưng nay mười)
nghĩa là hụych toẹt bằng ngữ ngôn văn chương thi ca chớ không bằng ngữ ngôn phường
chèo. Âm vang của thi tứ là có lợi ích và hay ho ở tự nó (avails itself) chớ cần
chi mà xử dụng ngữ ngôn đầu đường xó chợ. Cái thứ ngôn ngữ không còn là cảm thức
thơ nhưng đó là dấu hiệu lẻ loi, tự nó, vô nghĩa (meaningless). Đấy là dấu hiệu
đưa tới ‘tự sát’ không thể chấp chứa, chỉ chấp chứa một thể loại thi ca có năng
lực, sâu sắc, ý nhị, một thể đông cứng thời không phải là hiếm của một tư duy về
những gì định rõ nó là thơ hay không phải là thơ và những gì gọi là sắc tố và tầng
lớp ‘nuance’ của con nhà tông không giống lông thì giống cánh. Nghĩa là âm sắc
trợ cho con chữ (word) là lời nói mật thể của ý thơ. Hợp lại thành tư duy và tư
tưởng. Đối với thơ; mềm nhưng cứng như tinh thần cứng nhắc hay du di theo từng
đối tượng một tự thức qua từng vai trò và đặc tính của nó, những gì trong đó đều
có một sự xuất thần (spontaneously) liên kết trong một không gian vô tận của tư
duy là cái của nó với yếu tố thời gian (time-element) để lại trong thơ, bởi vì
thi ca là xác quyết từ trí tuệ.
Và; từ đó tất cả thể loại thuộc về nghệ thuật nói chung, riêng thi ca nó hòa hợp
và trong đó một trạng thái lắng đọng để khai mở từ đó, độc lập ở chính nó dù
cho bất cứ trường phái nào trong thi ca.
Thơ còn được gọi là vũ trụ thi ca (universal poetry) bao la và hào phóng, nói
như rứa không phải là tùy vào những gì nhận thức của nó như vấn đề thỏa mãn
giác quan nhưng cái sự đạt tới chỉ ở bên trong không gian và bên trong thời
gian là cái sự đáng để tâm. Đương đại định mức ở tọa độ đó.
Nói tóm lại; thi ca đương đại đòi hỏi cái gì chứa đựng trong đó: nói lên cái gì
cao điểm nhất, nghệ thuật của thi ca phải là vô biên và cách riêng, cũng cần có
một chút phóng đãng để hài hòa nhân thế, vi vu tiết điệu vần xoay trong một cảm
thức thỏa mãn của tri giác và giác quan; một phương thức hợp lý thời thượng thuộc
về tinh thần và những gì đã qua nhưng còn sống thực. Thi ca đương đại có từ khả
năng sáng tạo, một trí tưởng linh động cũng là một thể thức theo lối viết xuôi
của tư duy.Thi ca được xem là cơ bản cần thiết và đem lại thỏa mãn, một phương
thức dùng để bày tỏ, bởi vì thi ca là thuận buồm xuôi gió cho mọi cái gì đẹp để
dựa vào đó mà nói lên điều ao ước (khi nhà thơ yêu ai thì thơ dành cho tình yêu
không ngoài thứ khác); đó là yếu tố dành cho thẩm mỹ quan. Nói thế không nhất
thiết là lạc quan trước cái nhìn của người làm thơ. Yếu tính của thi ca đương đại
là khám phá cái siêu lý tư tưởng để xây dựng cho kỳ quan thi ca: đặc thù ở chỗ
sáng tạo, mang tính chất nghệ thuật, biết vận dụng con chữ để làm sao đi vào tọa
độ của thời gian và không gian, chiếm cứ để tất cả trở thành thuộc điạ thi
ca.Có một không hai. Đấy là tư tưởng phát tiết dù một chữ của thơ cũng đủ sấm động
cho mọi trường phái thi ca.
VÕ CÔNG LIÊM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét