Kể từ buổi khai thiên lập
địa tới bây giờ, trên mặt đất hoang vu mịt mù sương khói còn thấp thoáng những
bóng người đi giữa thiên thu vời vợi. Lớp lớp người đến rồi đi trong lặng lẽ
chập chùng qua bao thời đại âm thầm. Tuy âm thầm lặng lẽ nhưng vẫn còn đồng vọng
khôn nguôi tận đáy lòng sâu thẳm của mỗi một người trong chúng ta và thắp lên
ngọn lửa hào hùng bừng sáng rực ngời hồn thiêng sông núi miên trường.
Ngược dòng sử lịch Việt
Nam, vào đầu thế kỷ XIV nước ta còn gọi là Đại Việt, xuất hiện một con người như
vậy. Đó là Nguyễn Trãi (1380- 1442) biệt hiệu Ức Trai, một bậc kỳ tài về đủ
mọi mặt, văn võ song toàn đã đem hết năng lực, trí tuệ trác việt hiến dâng
cho dân tộc. Thiên tài Nguyễn Trãi thể hiện qua mọi lãnh vực chính trị, quân
sự, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa và đặc biệt là những kiệt tác thi ca, làm
rung động lòng người, khơi dậy ý thiền siêu thoát để vượt qua đôi bờ có
không, sống chết.
Trên những bước đường lịch
sử mênh mang, sau những rập rình biết bao hiểm họa tồn sinh bức bách, cuộc lữ
của thi nhân dẫn về thế giới nội tâm trầm hậu, đối mặt với niềm cô đơn bi
tráng của chính mình. Một con người đã từng đau lòng đứt ruột vì cha bị giặc
Tàu bắt đem đi, từng nằm gai nếm mật trong rừng sâu suốt mười năm trời kiên
trì nhẫn nhục, từng tung hoành ngang dọc khắp chiến trường máu lửa để chống
giặc ngoại xâm, từng bàn luận việc quốc gia đại sự với hoàng đế Lê Lợi, từng
viết Bình Ngô đại cáo, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt, từng
vào sinh ra tử như Nguyễn Trãi, khi treo ấn từ quan không phải vì chán đời mà
để cho chí khí, tâm huyết của mình hoà quyện vào tạo vật thiên nhiên.
Đó là thái độ của bậc đại
trượng phu đã chiêm nghiệm toàn cảnh cuộc đời danh lợi, vinh hoa phú quý đều
chỉ là huyễn ảo vô thường, nên quay về im lặng mỉm cười trong phong thái vô
ngại, buông xả thung dung. Hùng tâm tráng khí mà vẫn nhẹ mỉm cười lui về quy ẩn
nơi chốn miền hoang dã Côn Sơn, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay, chấp nhận sống
an bần lạc đạo, gác ngoài tai những chuyện thị phi, tị hiềm, những đố kỵ, đa
đoan của nhân tình thế thái quá chừng rắc rối rườm rà:
Am trúc hiên mai ngày
tháng qua
Thị phi nào đến cõi yên hà
Cơm ăn dầu có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh trì
thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải lảnh nương
hoa
Trong khi hứng động vừa
đêm tuyết
Ngâm được câu thần dặng dặng
ca
Thật là thi vị làm sao!
Nhà thơ của chúng ta thường chú tâm chăm sóc gìn giữ hồ ao cho nước mãi xanh
trong trẻo để những đêm rằm, ngắm trăng lên soi bóng dưới dòng nước biếc, rồi
có khi dạo gót quanh hàng rào xao động cỏ hoa mà xuất thần cảm hứng ngâm nga
giữa trời thơ đất mộng. Tiêu dao đến thế là thể hiện một tâm hồn thượng đạt
thong dong. Lòng thi nhân thanh bạch đã giũ sạch bụi phù trần, lâng lâng một
niềm thanh thản giữa rừng chiều hoang liêu tịch mịch. Thỉnh thoảng đến chốn
tùng lâm thưởng ngoạn xem hoa, uống trà đàm đạo. Chủ và khách, tăng và tục
cùng vô tâm đối ẩm nguồn thi cảm với thông với trúc, với rừng cao núi thẳm
ngát hương trầm:
Giữa bao nhiêu bụi bụi lầm
Xăn tay áo đến tùng lâm
Rừng nhiều cây hợp hoa chầy
động
Đường ít người đi cỏ kíp
xâm
Thơ đới tục hiềm câu đới tục
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm
Trúc thông hiên vắng trong
khi ấy
Năng mấy sơn tăng làm bạn
ngâm
Từ hữu tâm đến vô tâm là cả
một quá trình hành thiền miên mật, ở đây thiền sư và thi sĩ đều vô tâm thì quả
nhiên là quá tuyệt vời. Thường kết bạn, giao du với những thiền sư như Đạo
Khiêm, Đạo Tấn nên lòng thi nhân cũng không khác chi một vị thầy trên núi cao.
Chốn miền Côn Sơn, nơi nhà thơ đang lưu trú cũng tùng xanh trúc biếc, chẳng
khác chi cảnh am cốc, chùa chiền, thiền viện. Tuy không xuất gia nhưng thân
tâm chẳng hề bị lợi danh buộc ràng, lòng trong sáng như trăng thanh hằng đêm
cùng nhà thơ đối ẩm, thấm nhuần tỏa ngát hương hoa quanh vườn mà thường ngày
ra tay chăm bón. Hồn đất đai cây cỏ ngân nga hoà tấu khúc reo vui, dưới hồ ao
sen lao xao gió lá, trên cành chim bướm ca hót rộn rã líu lo. Thật là nên thơ
thú vị, một vẻ đẹp thiên nhiên thuần túy giữa ngày tháng nhàn nhã an lành:
Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa
thầy
Cứ thân chớ phải lợi danh
vây
Đêm thanh hớp nguyệt
nghiêng chén
Ngày nắng xem hoa bợ cây
Cây rợp chồi cành chim kết
tổ
Ao quan mấu ấu cá nên bầy
Ít nhiều tiêu sái lòng
ngoài thế
Biết một ông này đẹp thú
này
Đấy là tự tri theo thể điệu
tiêu sái, tiêu dao du Trang Tử. Tự biết mình là tỉnh thức trong từng giây
phút, là pháp thiền Hiện pháp lạc trú mà nhà thơ Ức Trai đang thực
tập, đang quán chiếu tự thân và đã nếm được hương vị thanh tịnh bình yên, lạc
phúc trên từng nhịp bước nhẹ nhàng thư thả ung dung.
Đúng là nhà thơ đã an lập,
an định vững vàng cái tâm của mình trong bất cứ trường hợp nào, dù giữa chốn
triều đình phức tạp, nhiều phe phái ganh ghét, tranh giành quyền lực, chức tước,
địa vị, thi nhân vẫn xem chốn đó như một quán khách bên đường, đến rồi đi,
không bị vướng mắc hệ lụy gì hết nên vẫn an nhiên an lạc như Bụt. Với Nguyễn
Trãi, tâm là Bụt, Bụt ở ngay chính nơi lòng của mình đây thôi, chớ vọng cầu
chạy tìm kiếm nơi nào xa lơ xa lắc tận đâu đâu:
Chân chẳng lọt đến cửa
công hầu
Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu
Liệu cửa nhà xem bằng quán
khách
Đem công danh đổi lấy cần
câu
Thân đà hết lụy thân nên
nhẹ
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu?
Tâm là Bụt, Bụt là tâm. Đức
Thế Tôn và chư vị Tổ sư đều công nhận như thế. Thiền sư Huyền Giác cũng từng
xuất thần ca lên khúc hát Chứng đạo ca bất hủ tuyệt trần:
Pháp thân giác rồi không một
vật
Vốn nguồn tự tánh thiên
chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn
mất
Khi giác ngộ Pháp thân Phật
tánh vốn là Tánh Không rỗng lặng thì mỉm cười vô sự. Tự tánh hay tâm vi diệu
là Phật, là nguyên lý đại đồng của nhân sinh vũ trụ. Vì đại đồng nên tánh
không trụ ở đâu hết mà không đâu là chẳng có, nó ứng hoá diệu dụng vào muôn sự
muôn vật như một nguồn năng lượng vô hình, luân lưu giữa trùng trùng pháp giới.
Cho nên tự tánh Không gắn liền với cuộc sống muôn đời vậy. Thiền nói thấy
tánh thành Phật và thành Phật là tựu thành ở chính mình cái nguyên lý Tánh
Không, cái thực tại Nhất Như tối hậu ấy của vũ trụ và nhân sinh. Năm ấm là sắc,
thọ, tưởng, hành, thức tạo nên thân tâm này. Ba độc là tham, sân, si, đều là ảo
hoá, chiêm bao do tâm hư vọng tạo ra mà thôi.
Nhà thơ vĩ đại Ức Trai
cũng thấy như vậy. Đó là cái thấy tuệ giác, cái thấy tâm thiền nên mọi sự ở đời
đều hòa âm đầm ấm, linh động, không còn phân biệt cao thấp, tốt xấu, dở hay,
sướng khổ... gì gì nữa, cứ tùy duyên, tùy thuận ra vào:
Có thân thì biết khá làm
sao
Lửng vửng công hư tuổi tác
nào
Người ảo hoá khoe thân ảo
hoá
Thuở chiêm bao thốt sự
chiêm bao
Rừng thiền ắt thấy nên đầm
ấm
Đường thế nào nơi chẳng thấp
cao
Hào khí dị thường, nhà thơ
mở đường lên rừng thiêng đỉnh núi, dựng túp lều tranh, ngồi thiền giữa
thâm sơn cùng cốc, chỉ có cọp beo gầm rú, vượn khỉ lượn vờn quanh. Lấy núi
non, chim chóc làm bạn láng giềng, lấy mây sớm trăng khuya làm chỗ trao
gởi nỗi niềm tâm sự anh em. Còn gì thanh cao tao nhã cho bằng, còn chi ý
nghĩa hơn nữa, phải không?
Bồng tênh giữa cảnh thanh
u cô tịch đó, thi nhân làm cuộc hành trình tâm linh đến tận nơi phát xuất
dòng suối Tào Khê, nơi mà Lục Tổ Huệ Năng đã chỉ rõ cái tự tánh thanh tịnh,
cái bản lai diện mục, tức cái mặt mũi xưa nay của con người muôn thuở muôn
nơi. Suối Tào Khê mầu nhiệm ấy đã chảy rạt rào về giữa lòng thi nhân và đã tẩy
sạch hết mọi phiền não của phàm phu tục tử phù trần:
Chụm tự nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc lẫn về Nam
Rừng thiền định hùm nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc
đem
Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh
tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút
phàm
Bụi phàm tục rơi sạch sành
sanh, hiển lộ ra cả bầu trời thơ lồng lộng, bồng tênh thi sĩ đi về qua khắp dặm
dài nhân thế, từ chốn cung đình vua chúa đến miền thôn dã mộc mạc bình dân vẫn
phong độ thong dong vô sự, thư thả hòa hài theo cách điệu khoan thai:
Lều nhàn vô sự ấy lâu dài
Đi ở chẳng từng khuấy nhiễu
ai
Tuyết đượm trà sương thơ dễ
động
Hồ in bóng nguyệt hứng
thêm dài
Tiêu dao vô sự như thiền
sư Lâm Tế: “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc
vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Người vô sự có tự
do, có khả năng sống hạnh phúc ngay giây phút hiện tại, ở đâu cũng làm chủ được
mình.”* Chúng ta hãy lắng nghe thiền sư Huyền Giác lại phát biểu hùng hồn
một lần nữa về cái thấy bằng tuệ nhãn sáng ngời thông suốt:
Suốt suốt thấy không một vật
Cũng không người cũng
không Phật
Thế giới ba ngàn bọt nước
xao
Mỗi mỗi thánh hiền như điện
phất
Dưới cái nhìn của tuệ giác
siêu việt thì thấy không đâu có vật, có người hay có Phật chi cả mà chỉ thấy
toàn là do nhiều nhân duyên kết hợp biểu hiện, thoạt còn thoạt mất như điện xẹt
như ánh chớp lòa. Cả đến ba ngàn thế giới vô lượng vô biên kia cũng chỉ là những
bọt nước nhấp nhô trên bối cảnh của Tánh Không mà thôi. Tự tánh đó hàm chứa
toàn thể càn khôn vũ trụ hư không, viên dung vô ngại tất cả. Vậy thì cứ như
thị như nhiên mà sống với bình thường tâm ấy, chứ đừng mong cầu, chạy tìm kiếm
tận đâu đâu những phương trời vọng tưởng xa xăm... là cũng đạt rồi, như
thi nhân đã từng thấy một cách diệu thường:
Lọ chi tiên Bụt lọ tầm
phương
Được thú an nhàn ngày
tháng trường
Song có hoa mai trì có
nguyệt
Án còn phiến sách triện
còn hương
Ngày tháng an cư, tự do
nhàn nhã ra vào với từng hơi thở nhẹ nhàng như nước chảy mây bay. Ngay đây là
Tịnh độ, Niết bàn, là Hoan hỷ địa thênh thang rồi. Kìa, ngoài song cửa hoa
mai hoa đào rộ nở, dưới ao rằm lấp lánh ánh trăng soi. Còn đòi hỏi gì thêm nữa,
hỡi những tâm hồn bé nhỏ, ngu ngơ, ngớ ngẩn, cứ mãi lận đận trong đêm dài
sinh tử tham si. Hãy lấy kinh sách thánh hiền ra mà soi lại lòng mình đi, cảo
thơm cổ lục còn nguyên vẹn nằm chờ mi xem đó. Có phải nhà thơ của chúng ta muốn
nhắn nhủ như thế chăng ? Có lẽ tự nhắc nhở chính mình thôi, vì tâm đắc với Tổ
sư thiền tối thượng thừa của Bồ Đề Đạt Ma trên đỉnh ngàn Thiếu Thất tuyệt mù
bên dòng sông Liêm Khê xanh biếc:
Thiêu hương đọc sách quét
con am
Chẳng Bụt chẳng tiên ắt chẳng
phàm
Ánh cửa trăng mai thấp thấp
Cài song gió trúc nàm nàm
Đầu non Thiếu Thất đen bằng
mực
Dòng nước Lam Khê lục nửa
lam
Tiêu sái mấy lòng đà mạc
được
Bảo chăng khứng mạc một
lòng thơm
Thường tình, người theo đạo
Phật thì tán thán Bụt, kẻ theo đạo Lão thì ca ngợi tiên, còn Nguyễn Trãi từ
ngày có duyên biết được ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hoá thân của Phật
thì đã thấy được đường đi chốn đến nên vui vẻ nhẹ hều. Hiểu được người sống
lâu như Bành Tổ hay kẻ chết yểu cũng như người đắc thắng hay thất bại trong
tuồng đời hư huyễn đều do nhân duyên, nghiệp báo theo lý nhân quả mà
thôi. Biết được lẽ tự nhiên cá thì lội, chim thì bay, thường xuyên tiếp xúc,
quan hệ thì thiếu gì bạn bè, siêng năng tinh tấn, chuyên chú đọc sách thì
nhanh chóng hiểu đạo thánh hiền. Tất cả đều do mình sáng tạo kiến lập ra, vậy
nên linh động, sống ở đâu thì sẵn sàng hoan hỷ vui vẻ ở đấy theo thể lệ
tùy duyên:
Kẻ thì nên Bụt kẻ nên tiên
Tưởng thấy ba thân đã có
duyên
Bành được thương thua con
tạo hoá
Chim bay cá lội đạo tự
nhiên
Có thân mựa lệ phạp bằng hữu
Đọc sách thì xem thấy
thánh hiền
Ta nếu ở đâu vui thú đấy
Người xưa ẩn cả nọ lâm tuyền
“Ta nếu ở đâu vui thú đấy” là
sống an nhiên với từng giây phút đang là. Chủ đích rốt ráo của đạo Thiền là mỗi
người chúng ta hãy tự thực hiện điều cốt yếu này ngay trong cuộc sống hàng
ngày của chính mình, ngay ở đây và bây giờ đó thôi.
Thi sĩ Ức Trai, phải chăng
đã thưởng thức được hương vị thực tại hiện tiền ấy nên chẳng cầu mong danh
thơm tiếng tốt, lợi lộc gì thêm nữa, chẳng còn mừng rỡ hay âu sầu, lo sợ trước
những được mất, hơn thua, phải trái của trò đối đãi thế gian. Buông xuống
danh lợi, bỏ chuyện thị phi, vì đeo mang chi cho mệt nhọc, khi mà về đây giữa
chốn lâm tuyền, sớm chiều có sông nước núi rừng xanh biếc ngoài song cửa, có
túi thơ bầu rượu phóng khoáng nghêu ngao hát khúc thiên địa vô ngôn. Bài ca
không lời hòa giai điệu hân hoan nhàn dật, cần chi đàn sáo xôn xao, vì bạn
tri âm hiếm hoi vắng mặt lâu ngày không thấy đến, nên cứ lặng lẽ vào ra nhàn
hạ, thung dung cùng hương vị cô liêu một mình độc ẩm. Lòng thi nhân mở rộng
niềm thương đến muôn loài vạn vật, đến tôm cá trong ao cũng ngại thả bắt
giăng câu:
Danh chẳng muốn lộc chẳng
cầu
Được ắt chẳng mừng mất chẳng
âu
Có nước nhiễu song non nhiễu
cửa
Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu
Người tri âm ít cầm nên lặng
Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại
câu
“Lòng hiếu sinh nhiều” là
biểu hiện đại bi tâm, thương yêu vô điều kiện. Một tấm lòng bao dung cùng tận
ẩn trong lòng một nhà thơ ở vùng núi rừng Côn Sơn cách đây gần 600 năm, có
làm cho chúng ta xúc động mà bỏ đi những cố chấp, tham si, tỵ hiềm, ganh ghét
để cùng yêu thương nhau giữa người với người trong cuộc sống hay chăng?
Tiếng thơ hào sảng, hạo
nhiên chi khí ngút trời, khơi dậy phong thái rất mực phiêu nhiên và truyền cảm
một niềm vui thanh tao cao khiết. Niềm vui ấy như muốn trào dâng lên đến những
phương trời lồng lộng, mênh mông bát ngát:
Láng giềng: Trùng trùng
mây bạc
Khách khứa: Hai ngàn núi
xanh
Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt
ba canh
Lòng thơ mở ra cánh cửa
bao la, hòa điệu cùng toàn thể vô tận đất trời. Lấy mây trắng nắng vàng làm bầu
bạn láng giềng tâm sự, xem trùng trùng non núi rừng xanh là khách lữ trong cuộc
giao tình tương đắc tương tri. Còn chi lý thú cho bằng, làm gợi nhớ đến thi
sĩ William Blake cũng từng thấy:
Thấy vũ trụ trong một hạt
cát
Thấy trời xanh trong đóa
hoa rừng
Nắm vô biên trong lòng bàn
tay
Và vĩnh cửu giữa giờ phút
trôi
Với lòng thơ sâu sắc, nhạy
cảm quá đặc biệt, thi nhân biết lắng nghe đến tận đáy hồn vạn vật, biết cảm
nhận sâu xa, dù chỉ là một đoá hoa dại vô danh bên hồ nước lung linh, giống
như Quách Thoại, khi thấy một bông thược dược đứng lẻ loi bên hàng rào thưa vắng,
bỗng phát hiện một điều gì vi diệu nên sửng sốt giật mình, vội quỳ xuống cúi
lạy thẳm sâu:
Lặng yên bên hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Sực nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu
Còn Nguyễn Trãi khi nhìn một
bụi cây bông bụt lồng bóng nước dưới bờ ao thì bất thần rúng động, khám phá
ra được lẽ sắc không:
Ánh nước hoa in một đoá hồng
Vết nhơ chẳng bén Bụt nơi
lòng
Sớm mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc
không
Phải chăng, lúc đó thi
nhân đang đi dạo chơi trên một con đường quê yên ả, chợt thấy cây bông bụt in
bóng dưới hồ nước ven đường, chợt dừng chân lại ngắm xem. Không ngờ trong một
sát na giữa bình sinh hy hữu, nhà thơ bỗng trực ngộ ra lý “sắc tức thị
không, không tức thị sắc” của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là lý Bất nhị, bình đẳng
không hai, bình đẳng đến chỗ Nhất Như, không còn một chút phân biệt nào giữa
sinh tử và Niết bàn, chợ búa và đạo trường, lầu xanh và thiền viện, phiền não
và Bồ đề, ngu si và trí tuệ, vô minh và Phật tánh.
Thành thử, khi trực thấy “vết
nhơ chẳng bén Bụt nơi lòng”và “sự lạ cho hay tuyệt sắc không” là
thi nhân đã thấu triệt được chân tướng của sắc không rồi vậy. Thấy cái thân
ngũ uẩn ảo hoá cũng tức là cái chơn thật của Pháp thân. Pháp thân và sắc thân
đều diệu dụng, ứng hoá từ một nguồn tự tánh thanh tịnh vốn “xưa nay
không hề có một vật” nào cả.
Thật là tuyệt diệu! Thấu
hiểu được vậy là nhà thơ Ức Trai đã thấy được thực tại vô ngã của nhân
sinh, thực tướng vô tướng của vạn hữu, nên mỉm cười niêm hoa vi tiếu, một nụ
cười vô sự giữa dòng đời luân lưu cuộn trào vô quái ngại.
Ngoài Quốc âm thi tập (thơ chữ Nôm) Nguyễn Trãi còn có Ức Trai thi tập (thơ chữ Hán) là tiếng thơ
chan chứa, hòa nhập cùng vũ trụ thiên nhiên của bậc tài hoa, tràn đầy hương vị
giải thoát, rực ngời tư tưởng thương yêu. Nguồn thơ tha thiết tiếng lòng chạnh
xót xa cho bao kiếp nhân sinh bèo bọt, nói lên niềm xúc động trong dạt dào cảm
thông, đồng thời thể hiện tinh thần Phật thiền tự do tự tại, trải lòng ra với
trời đất, vạn vật muôn loài bao la hoằng viễn.
Cung bậc thi ca bắt đầu
ngân nga trên phím đàn cuộc lữ ngao du qua những bến bờ hoang vắng, dọc ven
sông gờn gợn sóng nước lung linh. Nhà thơ neo thuyền lãng tử lại, buộc vào gốc
cây trong bóng nhạt chiều tà. Thả bước bồng tênh lên thăm viếng cảnh chùa
trên sườn núi tịch mịch hoang sơ, mờ ảo chập chờn sương mù và mây trắng lặng
lẽ bay về bao phủ quanh thiền đường rêu phong mát lạnh. Long lanh dòng suối
thanh lương, thoang thoảng ngát hương từ những cánh hoa rừng rơi rụng xuống.
Truông rừng sâu thẳm vọng lại tiếng vượn hú trong thấp thoáng hoàng hôn. Bóng
lá trúc đung đưa vươn dài quyện lẫn với bóng núi cô quạnh thanh trầm. Trong cảnh
đó, quả có hàm chứa bao tình ý mà thi sĩ muốn nói một điều gì nhưng rồi bỗng
quên lời. Đó là tâm trạng thoát tục, phiêu diêu của thi sĩ, khi đi du ngoạn
viếng cảnh chùa Tiên Du trên núi biếc xanh ngàn:
Đoản trạo hệ tà dương
Thông thống yết thượng
phương
Vân quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương
Dịch thơ:
Thuyền neo bến chiều xế
Vội lên viếng Phật ngời
Mây về giường sư lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Hoàng hôn vượn kêu rộn
Bóng trúc dài núi phơi
Cảnh này thật hữu ý
Muốn nói bỗng quên lời
Chừng như một mình trong
núi xanh ngần vắng vẻ, nhìn bóng trúc ngã dài theo bóng núi rừng chiều, nhà
thơ như chợt nhận ra một điều chi vi diệu mà hoát nhiên sực hiểu ý đạo, theo
phép trực chỉ của thiền đốn ngộ vô ngôn?
Cảnh này thật hữu ý
Muốn nói bỗng quên lời
Trời đất núi sông vốn tịch
nhiên, không có lời. Lời nói ngôn ngữ chỉ là phương tiện truyền đạt những cái
hữu hạn mà thôi, còn cái vô hạn tuyệt đối, cái Chân Như diệu lý thì bất
khả thuyết, bất khả tư nghì, chỉ cảm nhận bằng một tâm trực giác nhạy bén sâu
sắc. Cái đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói diễn tả ra được.
Chỉ diễn tả những sự việc
bình thường trong phạm vi tri thức mà ai cũng có thể hiểu cuộc đời giống như
một giấc mộng kê vàng. Tương truyền, đời Đường có chàng Lư Sinh lên kinh đô dự
thi. Trên đường đi ghé quán trọ nghỉ trưa, chủ quán đang nấu nồi kê bên bếp lửa.
Lư Sinh mệt quá ngủ thiếp đi một giấc, chợt mộng thấy mình thi đỗ trạng
nguyên, được nhà vua gả công chúa cho, nắm quyền một châu quận lớn, sinh con
đẻ cái và kẻ hầu người hạ đầy nhà, thật là tốt lành hạnh phúc. Rồi bỗng một
trận lũ lụt kinh khủng xảy ra, cuốn trôi hết sạch nhà cửa, vợ con, Lư Sinh hốt
hoảng la hét, bừng thức dậy, thấy nồi kê bên cạnh vẫn chưa chín. Ông bàng
hoàng mới hay rằng mình vừa nằm mơ, thấy chiêm bao mộng huyễn hư phù:
Thế thượng hoàng lương nhất
mộng dư
Giác lai vạn sự tổng thành
hư
Như kim chỉ ái sơn trung
trú
Kết ốc hoa biên độc cựu
thư
Dịch thơ:
Kê vàng một giấc mộng lồng
Nghìn muôn sự việc thành
không cả mà
Ưa vào hốc núi cùng hoa
Dựng lều đọc sách thưởng
trà ngâm thơ
Khi ý thức cuộc đời như
huyễn mộng phù du thì không còn chấp thật vào phải trái, hơn thua, được mất…
hay bất cứ gì gì nữa, thi nhân chỉ thích vào một hốc đá ven triền núi cô tịch
nào đó, nằm ngâm thơ, đọc sách bên mấy vồng hoa cỏ dại quanh đồi mây trắng lặng
im lìm.
Nếm được hương vị cô liêu
là niềm vui của bậc dật sĩ thanh cao như bài thơ Đề Nam Hoa thiền phòng đã
thể hiện. Nửa đời còn lại chỉ thích nương thân nơi chốn miền thanh u vắng vẻ.
Dạo quanh cảnh vật vườn thiền lắng nghe tiếng vượn hót chim kêu. Núi sông
muôn dặm từ phương Nam nghìn trùng xa thẳm tới. Một đời người dễ gì được may
mắn có dịp đến tận nguồn suối Tào Khê:
Bán sinh khâu hác tiện u
thê
Thiền tháp phân minh thính
điểu đề
Vạn lý Nam lai sơn thùy viễn
Nhất sinh năng kỷ quá Tào
Khê
Dịch thơ:
Nửa đời ẩn dật chốn hang
sâu
Tiếng nhạn quanh chùa văng
vẳng nghe
Muôn dặm từ Nam non nước
thẳm
Một đời hồ dễ tới Tào Khê
Vì sao Nguyễn Trãi lại hân
hoan vui mừng khi đến suối Tào Khê như vậy? Suối Tào Khê là nơi khơi mạch
nguồn thiền Vô niệm của Lục Tổ Huệ Năng. Dòng suối vi diệu ấy đã nuôi dưỡng sức
sống cho hai triều đại Lý Trần, hai triều đại được xem là đỉnh cao của văn
hóa dận tộc Việt Nam. Bài thơ Du Nam Hoa tự sau đây cho chúng ta biết
được vì sao nhà thơ lại hân hoan đến thế:
Thần tích phi lai kỷ bách
xuân
Bảo Lâm hương hỏa khế tiền
nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diệu
Vô thụ phi đài ngữ nhược
tân
Điện trắc khởi lâu tàng Phật
bát
Khám trung di tích thuế
chân thân
Môn tiền nhất phái Tào Khê
thủy
Tẩy tận nhân gian kiếp tận
trần
Dịch thơ:
Mấy trăm năm trước tích gậy
thần
Đến Bảo Lâm nay hợp tiền
nhân
Sai rồng bảo hổ cơ mầu nhiệm
Không thụ không đài chính
Pháp thân
Bên điện dựng lầu gìn Phật
bảo
Trong đèn còn vết thoát
chân nhân
Tào Khê trước cửa dòng
trong suốt
Chùa Nam Hoa ở Hoa Châu,
chốn đất thiêng liêng huyền diệu, khiến rồng, cọp phải phục hàng trước thần
uy của lẽ đạo nhiệm mầu. “Không cây cũng không đài” là ý từ bài kệ
của Lục Tổ:
Bồ đề bản vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Dịch thơ:
Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Thì bụi dính vào đâu?
“Xưa nay không một vật” là
tuyên bố độc đáo, vô tiền khoáng hậu của Huệ Năng, chỉ cái bản tâm xưa nay vốn
là thanh tịnh rỗng rang, tuyệt đối không có bất cứ gì làm cho ô nhiễm được.
Nói cách khác đó chính là Pháp thân, Phật tánh. Nhà thơ tâm đắc điều này nên
mỗi lần nghe là mỗi lần đều mới mẻ tinh khôi. Tinh khôi mầu nhiệm như dòng suối
Tào Khê chảy tuôn trước cửa chùa, cuốn trôi hết thảy mọi não phiền khổ lụy của
trần gian.
Ngoạn du phiêu lãng là những
chuyến hành hương sơn hà cẩm tú, viếng thăm các bậc ẩn sĩ hiền nhân, thiền sư
đạo sĩ trong tận chốn miền thâm sơn cùng cốc, nhà thơ Ức Trai thường giao du
với họ nên thỉnh thoảng họ cũng ghé lại am cốc Côn Sơn hoang vắng tịch liêu để
cùng nhau đàm đạo rồi chia tay như bài Tống tăng Đạo Khiêm quysơn đã
chứng tỏ tình tri kỷ bạn hiền:
Ký tằng giảng học thập dư
niên
Kim hựu tương phùng nhất dạ
miên
Thả hỷ mộng trung phao tục
sự
Tiện tầm thạch thượng thoại
tiền duyên
Minh triêu Linh Phố hoàn
phi tích
Hà nhật Côn Sơn cộng thính
tuyền?
Lão khứ cuồng ngôn hưu
quái ngã
Lâm kỳ ngã diệt thượng thừa
thiền
Dịch thơ:
Đã mười năm trước cùng dạy
học
Đêm nay gặp lại thỏa hàn
huyên
Đời hân hoan quá chừng như
mộng
Ngồi trên tảng đá nhắc tiền
duyên
Sớm mai Linh Phố về bên ấy
Nghe suối Côn Sơn biết thuở
nào?
Chớ lạ già rồi hay nói lẩn
Thượng thừa thiền kia sẽ dồi
trao
Thượng thừa thiền là một
pháp môn cao nhất mà thiền sư Đạo Khiêm đang hành trì. Bài thơ tiễn thiền sư
Đạo Khiêm về núi, kể lại cuộc gặp gỡ giữa hai người trong một đêm trùng phùng
cùng nhau tâm sự. Kể chuyện xưa cách đây hơn mười năm, tâm đầu ý hợp đến kỳ lạ.
Nhắc chuyện cùng nhau dạy học thời còn trẻ đến bàn việc trút bỏ sự đời, đi
sâu vào mọi lẽ nhân duyên mà tâm đắc hào hứng. Rồi hẹn một ngày đẹp trời nào
đó, về lại núi rừng Côn Sơn đây cùng nghe suối hát chim ca hòa điệu thanh trầm.
Lâu ngày mới gặp lại bạn tri âm, nhà thơ hân hoan quá nói đủ thứ chuyện huyên
thuyên như lẩn như cuồng, mong bạn hiểu cho. Thôi trước khi từ biệt, nhà thơ
phát nguyện, hứa sẽ thực tập theo đạo thiền thượng thừa cho rốt ráo.
Rồi tiếp tục, đường thơ
băng qua trăng đèo, qua gió bãi sông xa ngút vời theo mây ngàn vần vũ bay lên
trên tuyệt đỉnh núi rừng non thiêng Yên Tử. Nơi vẫn còn dấu chân Trần Nhân
Tông (1258 - 1308) vị Tổ sư khai sáng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tự thuở
nào. Khi thi nhân leo lên đến tận đỉnh cao hùng vĩ thì choáng ngợp trước
phong cảnh thiên nhiên đẹp dị thường nên xuất thần ngâm nga:
Yên Sơn sơn thượng tối cao
phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính
hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải
ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân
trung
Ủng muôn ngọc sóc sâm
thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc
bán không
Nhân miếu đương niên di
tích tại
Dịch thơ:
Non Yên trên đỉnh núi
trông
Đầu canh năm thấy vầng hồng
bừng ra
Vô cùng trời biển bao la
Núi mây cười ngát quanh ta
chờn vờn
Chập chùng trúc biếc xanh
rờn
Nhũ hương cao thấp bên cồn
đá rêu
Nhân Tông dấu cũ tiên triều
Trừng đôi mắt sáng tỏa nhiều
hào quang
Núi rừng Yên Tử thuộc tỉnh
Quảng Ninh ngày nay. Trên đó có chùa Hoa Yên cao chất ngất, mới tinh sương đã
thấy ánh bình minh rực chiếu, nhà thơ thức dậy sớm, phóng tầm mắt thưởng ngoạn
bát ngát trời mây, thấy cả biển trời thiên thanh vĩnh thúy, nghe đâu đó tiếng
người cười nói hòa lẫn trong mây trắng sương mù loang tỏa chung quanh. Rừng
tùng trúc trùng điệp bên khe suối đá và rêu biếc xanh rì. Di tích của vua Trần
Nhân Tông vẫn còn ngời sáng với thời gian, trơ gan cùng tuế nguyệt muôn đời
mãi mãi.
Bài thơ diễn tả cảnh trí
chập chùng, hùng tráng của núi rừng thiêng Yên Tử mà cũng là sự lẫm liệt kiên
cường của dòng thiền đặc biệt Việt Nam, do Sơ Tổ Trúc Lâm sáng lập từ năm
1304 đến nay cũng gần 7 thế kỷ trôi qua rồi. Ơi chao ! Hơn 600 năm dài đằng đẵng
mà tưởng chừng mới hôm nào như thi hào Nguyễn Du bàng hoàng bỡ ngỡ:
Tưởng bao giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ
chiêm bao
Rào rạt gió ngàn phương từ
vô lượng kiếp thổi về vi vu vi vút cuối nẻo phong trần cuộc lữ, nghe lạnh rờn
niềm cô đơn cực kỳ bi tráng của thi nhân. Niêm cô đơn ấy đã chuyển hóa qua ý
thiền siêu thoát phiêu nhiên bàng bạc trải rộng bồng tênh từ núi đồi Côn Sơn,
nơi quy ẩn của thi nhân đến tận chốn non cao rừng thiên nhiên hùng vĩ kỳ tuyệt
Yên Tử, miền chốn Như Như với nụ cười linh hiển thiên thu.
Từ đó, thi sĩ đi về thể hiện
sức sống mãnh liệt của một hồn thơ đã uống ngụm nước tận đầu nguồn suối thiền
uyên nguyên, nên không ngừng mang trọn tài hoa phong độ hào hùng của bậc đại
thi hào dân tộc.
Lồng lộng hồn thơ Ức Trai
Nguyễn Trãi tiêu sái, tiêu dao, ý thơ đạo vị thâm trầm thấm thía, lời thơ
lãng đãng như mây ngàn trong nắng sớm giữa trời thơ bát ngát mênh mông. Thi
nhân vẫn còn đó, vẫn mỉm nụ cười vô sự, song hành cùng chúng ta trên vạn nẻo
đường đời cát bụi phiêu du.
*Lâm Tế ngữ lục, Người vô
sự. Nhất Hạnh bình giảng. Lá Bối xuất bản 2000.
Nguyễn Trãi thơ và đời.
Văn Học xuất bản, Hà Nội 1997.
|
Tâm
Nhiên
|
Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016
Ý thiền trong thơ Nguyễn Trãi
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Nghề văn chương tiếng vậy chứ rất vui, rất kỳ thú
Nghề văn chương tiếng vậy chứ rất vui, rất kỳ thú Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn có trách nhiệm và có ham thú ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét