"Thi đàn mới" - Nơi hội tụ
của những tâm hồn thơ!
Tôi đã vào "Thi đàn mới" đọc thơ rất nhiều lần,
nhưng lần nào cũng vậy tôi đều bị cuốn hút bởi những bài thơ hay, giàu tính
nhân văn của những tác giả yêu thơ của CLB thơ Trung tâm VHTT huyện Thủy
Nguyên. Những bài thơ trữ tình thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước, con người
như bài "Quê ngoại" của Nguyễn Dung, bài "Nợ em" của Huy Tưởng
và nhiều bài khác nữa. Tôi rất ngưỡng mộ "Thi đàn mới". Tôi mơ ước
có một ngày được gặp mặt và cùng đàm luận về Thơ - lĩnh vực mà tôi và các bạn
cùng yêu thích!
Chúc các bạn mạnh khỏe, và thành công trong cuộc sống!
Chúc "THI ĐÀN MỚI" ngày càng phát triển!
Phượng Kỳ, ngày 7/10/2015
Hải Thê
CẢM NHẬN BẤT NGỜ!
Tôi lang thang trên mạng tình cờ gặp trang THI ĐÀN MỚI của
câu lạc bộ thơ huyện Thủy Nguyên; trông cũng lộng lẫy và hoành tráng! Với trang
chủ khá đẹp về hình thức, phong phú về nội dung tôi không khỏi ngỡ ngàng! Câu lạc
bộ của một huyện mà có được trang thơ như vậy quả là đặc sắc và hiếm, mấy huyện
đã có được ở Hải Phòng! Với nhiều danh mục độc đáo và tên các nhà thơ tôi thực
sự bị choáng ngợp, bị thu hút không thể không thưởng thức thơ của các nhà thơ
Thủy Nguyên được.
Đây rồi thơ chị Bích Thạo, thơ anh Đình Lâm, thơ anh Lưu Bán,
thơ chị Minh Bảy, Minh Luyện, thơ anh Minh Túy, Văn Hưởng, Nguyễn Dung, Nguyễn
Hẹn, Phương Mâu, Quang Tiếp, Trọng Hòa… mấy chục bài thơ phong phú và đa dạng
mỗi bài mỗi vẻ làm cho người đọc bâng khuâng xao xuyến về quá khứ, về hiện tại,
về tương lai, về Thủy Nguyên quê hương của các nhà thơ.
Đọc những bài thơ của Anh Lê Khoảnh tôi sững sờ trước những nỗi
niềm trăn trở, day dứt riêng tư về tình yêu, về cuộc sống về bè bạn mà Anh đã gửi
gắm vào những vần thơ hay làm rung động lòng người:
Một mảnh trăng nghiêng dán giữa trời
Sắc vàng nhàn nhạt quán nghèo ơi
Khi đầy khi khuyết theo ngày tháng
Hết bão lại giông cả cuộc đời
Gió táp phên thưa thương mái rạ
Mưa sa quán lạnh chợ thưa người
Quê nghèo buôn bán thường như thế
Một mảnh trăng nghiêng một cuộc đời.
Bài thơ gợi cho ta về sắc cảnh quán chợ một vùng quê nghèo và
những mảng đời heo hắt buôn bán kiếm sống ở nơi đây thật chật vật, gian truân;
hàng hoá đơn sơ, lều quán tạm bợ, mưa gió dập vùi; chợ người thưa thớt lờ lãi
có được là bao cũng chỉ khi đầy, khi vơi xoay vần theo ngày tháng mà thôi. Tác
giả khéo sử dụng hình ảnh một mảnh trăng nghiêng dán giữa trời để chỉ cuộc sống
của những mảnh đời nơi đây nó mới mờ nhạt làm sao, tạm bợ làm sao, mong manh yếu
ớt trước bão táp mưa sa giông tố của trời đất, của cuộc đời. Thật xót sa, thật
thương cảm nhà thơ đã không kìm nổi lòng mình đã thốt lên day dứt khi người bạn
cũ của mình cũng trong cảnh chợ nghèo đó: “Một mảnh trăng nghiêng dán giữa trời,
sắc vàng nhàn nhạt quán nghèo ơi”! Nhưng biết làm sao được nhà thơ cũng chỉ biết
bùi ngùi chia sẻ cảm thông với bạn mình mà thôi: “Quê nghèo buôn bán thường như
thế, một mảnh trăng nghiêng một cuộc đời”. Với những câu thơ giàu hình tượng gợi
cảm nhà thơ dể lại cho người đọc một nỗi niềm thương cảm bâng khuâng. Bài thơ: “Mắt Em” - cũng là bài thơ hay dí dỏm; là bài thơ tương tư ngắn gọn sắc nét
làm cho ngưòi đọc cũng khổ sở, cũng sững sờ luyến tiếc như nhà thơ:
Khổ vì em thả câu thơ
Chết vì con mắt hững hờ nhìn nghiêng
Phũ phàng trái cấm vườn tiên
Sao băng vời vợi sáng trên thiên hà
Rộng dài rừng thẳm biển xa
Sông sâu cũng lội rừng già cũng leo
Soi đường nhờ mấy vì sao
Vẫn không tìm được lối vào mắt em
Nhà thơ tả người đẹp mà tuyệt nhiên không có từ đẹp trong bài
thơ, thế mới hay mới tuyệt làm sao: “Phũ phàng trái cấm vườn tiên, sao băng vời
vợi sáng trên thiên hà”. Đẹp như vậy làm sao chả khổ sở chả tìm mọi cách đẻ
chinh phục nhưng nào có được đâu, đến lối vào còn không tìm thấy thì sao lọt
vào mắt em được, ôi thật là phũ phàng phải không nhà thơ? Năm bài thơ của Anh
Lê Khoảnh đều hay, sâu thẳm tâm hồn. Bài: “Em và đường đời” hay bài: “Em và Biển”
mang nặng dấu xưa đầy ắp nỗi niềm riêng tư như muốn chia sẻ cùng ai! Và đây nữa
bài: “Lều canh dưa” đọc xong bài thơ ai cũng phải bật cười, nếu không cũng phải
tủm tỉm vì cái hay cái tinh túy cái ý nhị của những việc đời thường mà nhà thơ
đã khéo miêu tả:
Cánh diều tựa chiếc thuyền thoi
Lênh đênh neo đậu giữa trời xanh non
Đồng dưa như chợ lợn con
Mơn man dưới ánh trăng tròn vàng tơ
Lều canh chiếu hẹp phên thưa
Bữa cơm muộn chợ em vừa mang ra.
Tóc buông hương bưởi vườn nhà
Ao nâu gió động hai tà thắt lưng
Gạt tay bối rối anh đừng
Ơ nhà nồi cám khéo chừng lại khê
Thì thầm anh để em về
Khéo mà sao ở trên kia đang cười
Tác giả đã phác hoạ một buổi tối thanh bình trên cánh đồng
dưa rất thanh vắng yên ả thơ mộng; trên trời một cánh diều nhỏ đung đưa qua lại
tưạ như con thuyền đang neo đậu giữa trời xanh, dưới đất đồng dưa được mùa đang
độ thu hoạch, những quả dưa to mỡ màng ngổn ngang dưới ánh trăng tròn mơn man
trước gió làm người canh dưa cũng phơi phới trong lòng.
Canh dưa cũng là công việc rất bình thường như bao công việc
khác của nhà nông; Trông cả ngày đêm phải dựng tạm một cái lều con nho nhỏ để
che mưa che nắng cho người canh, nếu như vậy có gì để mà nói nữa? Có đấy! lều
canh có lúc không phải là lều canh, đó là điều mà nhà thơ muốn nói đến. Lúc đó
chính là lúc người vợ mang cơm chiều ra hơi muộn, một ngày bận rộn chợ búa đã
qua, phút giây thanh thản đã trở lại, nét đoan trang dịu hiền của người vợ đang
ở trước lều canh: “Tóc buông hương bưởi vườn nhà, áo nâu gió động hai tà thắt
lưng”. Trong không gian tĩnh mịch thơ mộng như vậy, có ai mà lại không rung động,
không khát khao, không yêu thương vợ mình ngay được, và điều gì sảy ra cũng đã
sảy ra:
Gạt tay bối rối anh đừng
Ở nhà nồi cám khéo chừng lại khê
Thật là một câu thơ hay, ý nghĩa thâm thuý, ngắn gọn nhưng
bao hàm đầy đủ nội dung cần diễn tả, rất chân thực mà không thô, trừu tượng mà
cụ thể vui vẻ và hài ước, hai chữ “lại khê” mới thú vị làm sao! thật là: “Cám
khê thì mặc cám khê, xong việc em về anh ở lại canh”. Đây là điều khác bình thường,
chuyện tình cảm chăn gối vợ chồng là bình thường, sảy ra ở trong nhà càng bình
thường với phòng the đầy đủ chăn bông gối đệm thì nói mà làm gì. Nhưng chuyện
đó lại sảy ra trong lều thưa chiếu hẹp, trong trời đêm gió mát giữa đồng dưa, vừa
như chân chính vừa như vụng trộm, cái cảm giác đó nghe mới khoái làm sao mấy ai
đã có được, không biết nhà thơ có đi canh dưa bao giờ chưa mà phát hiện ra điều
mới lạ thế?
Tôi không biết nhà thơ Lê Khoảnh ra sao, làm nghề gì, già hay
trẻ (vì lúc này tác giả chưa đăng ảnh) nhưng tôi thực sự yêu thích thơ anh, cảm
phục tài làm thơ của anh, ước mong có ngày giao lưu hội ngộ. Mong cho trang thơ
của Thuỷ Nguyên ngày càng phát triển và trường tồn cùng năm tháng.
Hải Phòng, 10.02.2011
Hạ Vũ
Lửa chiều - Một nỗi niềm sâu thẳm
Lẽ thường khi nói đến tình yêu đôi lứa ai cũng nghĩ rằng: đó
là lĩnh vực tình cảm của tuổi thanh xuân trai trẻ, cái thời mà “Hoa thơm phong
nhụy, trăng vòng tròn gương” trong trắng ngây thơ, vô tư say đắm dại khờ. Mấy
ai nói đến khi tuổi đã xế chiều, càng không dám nói đến khi đã là người “xưa
nay hiếm”; Bởi nhiều lý do khiến người ta ngại nói ra hoặc không dám nói ra.
Nhưng tình yêu giữa con người với con người, giữa nam và nữ dường như không phụ
thuộc vào tuổi tác thấp cao, mà bản chất của tình yêu thì bao giờ cũng trẻ
trung và thánh thiện. Tác giả Lê Đình Lâm đã gửi gắm lòng mình vào bài thơ “Lửa
Chiều” đầy khát vọng yêu thương.
Cái tên của bài thơ là nỗi niềm sâu thẳm tâm hồn mà tác giả
muốn giãi bày; Ta còn nhớ truyện Kiều có câu: “Sự đời đã tắt lửa lòng, còn
chen vào chốn bụi hồng làm chi”, nếu tắt thật thì còn gì để nói nữa? Nhưng lửa
lòng của nhà thơ vẫn còn âm ỉ, rạo rực đâu đây, có lúc như muốn bùng lên dữ dội,
nhưng rồi lại lắng xuống da diết, bâng khuâng; Bởi vậy viết cả trăm bài thơ
tình hết cầm lên lại đặt xuống mà chưa dám gửi tặng cho người mình yêu bởi vì:
Hai ta có thực mà mơ
Biết rằng em chẳng bao giờ của tôi
Tình em khó nói lên lời
Tình tôi nửa đứng nửa ngồi khác đâu
Tác giả bộc bạch lòng mình rất chân thực, một mối tình có thực
nhưng lại là mơ, một mối tình đã biết chẳng bao giờ đi đến đích mà âm thầm day
dứt khôn nguôi; Một câu thơ đa cảm, một ánh mắt dịu hiền, một nỗi niềm chia sẻ,
một nụ cười đôn hậu, duyên dáng hồn quê… đã làm lửa chiều bùng cháy đam mê
trong lòng nhà thơ chăng? Nhưng tác giả cũng rất trăn trở suy tư vì mối tình đó
có điều khó nói lên lời của cả “hai ta”, bởi sự ngăn cách vô hình nào đó, tác
giả ví sự ngăn cách ấy như một dòng sông sâu chảy siết nguy hiểm nào ai dám vượt
qua, đành ngậm ngùi thương cảm đau xót nhìn nhau như bờ đê lở bồi mà thôi:
Hai ta như giải sông sâu
Giữa dòng nước xoáy bờ đau lở bồi
Chính dòng nước xoáy vô hình đó càng làm cho tình cảm đôi bờ
khát khao cháy bỏng trong lòng, âm thầm thương nhớ đầy vơi, khi xa nhau thì
mong đợi thắc thỏm tưởng như một ngày dài bằng ba thu, như hai ta không thể thiếu
nhau trên cõi đời này. Lúc gặp nhau hạnh phúc tràn ngập qua ánh mắt nụ cười,
nhưng một lời nói thương yêu nhau vẫn dấu kín ngại ngùng chẳng dám thổ lộ cùng
nhau:
Khi xa mong nhớ đầy vơi
Lúc gần không dám nói thương yêu
Đây là đặc trưng của “Lửa Chiều”, tình cảm của những người
khi không còn trẻ trung nữa không bồng bột không phô trương mà ngọt ngào sâu lắng
hơn, yêu nhau bằng tâm hồn bằng kỷ niệm bằng ký ức riêng tư, một chút vương vấn
yêu thương đọng lại cũng đủ thỏa lòng mơ mộng bấy lâu:
Mong Em giữ lấy lửa chiều
Cháy trong kỷ niệm bấy nhiêu cũng là…
Bài thơ kết thúc nhẹ nhàng thoải mái để lại nỗi cảm thông sâu
sắc cho bao ngọn “Lửa Chiều” cũng đang âm ỷ trong lòng mà chẳng bao giờ dám nói
ra. Đây là bài thơ tự tình, tác giả chia sẻ lòng mình tự nhiên khéo léo, ý thơ
cô đọng chặt chẽ, từ ngữ mang màu sắc âm hưởng của “Lửa Chiều” khá rõ nét phản
ảnh một tâm hồn hiện thực lãng mạn của những người cao tuổi. Hình tượng giải
sông sâu ngăn cách trong bài thơ thật hay, thật ý nhị!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét