Thơ văn miền Bắc - Thời kỳ kháng chiến
chống Pháp và thời kỳ trăm hoa đua nở
Nói về thơ văn Miền Bắc phải nhận định khách quan rằng có một đóng góp có giá trị cho nền văn học Việt Nam: đó là thơ văn thời kỳ kháng chiến chống Pháp và thời kỳ trăm hoa đua nở.
Nhắc lại một giai đoạn lịch sử, từ năm 1945. Khi Việt Minh cướp chính quyền, mà họ gọi là "cuộc cách mạng tháng tám", thì trên toàn cõi Việt Nam dấy lên một bầu không khí thật sôi nổi. Dân chúng cảm thấy được hưởng một nền độc lập thật sự của xứ sở, sau hơn 60 năm Pháp thuộc và Nhật thuộc. Tất cả công sức và nhiệt tình của nhân dân đã đóng góp cho một nước Việt Nam mới.
Riêng giới văn nghệ sĩ đã đem hết khả năng và tâm hồn trong công cuộc sáng tác để xây dựng một nền văn hóa mới. Họ nêu khẩu hiệu: "Dân tộc, Khoa học, Đại chúng" trên tờ tạp chí tiêu biểu là tờ Tiền Phong, xuất bản ở Hà Nội. Say sưa với hào khí cách mạng ban đầu, họ đã có những vần thơ khá rung cảm trước sự đổi thay của đất nước, vươn lên từ mảnh đất cằn:
Chiều về mái tóc chờ sương
Gió xuân đượm nhớ mùa hương thuở nào
Đất cằn ý nhỏ xôn xao
Lệ rưng khóe mắt dạt dào đường tơ
(Những Mảnh Đất Cằn - Nguyễn Xuân Sanh)
Hay cái không khí tươi mát của một mùa thu độc lập:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội...
Tháng tám về rồi đây
Hôm nay nghìn năm gió thổi...
(Gặp Mùa Thu - Nguyễn Đình Thi)
Và họ mạnh dạn từ bỏ đời sống cũ:
Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma
Đôi dãy hồng lâu mở cửa phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục...
(Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc - Văn Cao)
Và tập "Thơ Tố Hữu", sáng tác trong thời kỳ Tố Hữu hoạt động chống Pháp vào thập niên 30, được xuất bản, trong đó có một số bài được nhiều người ưa thích, vì đó là những vần thơ có tính chất cách mạng, hoặc chan chứa tình nhân loại:
Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối
Và dại khờ là những lũ người câm
Trên đường đi như những bóng âm thầm
Nhận đau khổ mà gửi vào im lặng...
(Liên Hiệp Lại)
Tung ngục tù ra, tung ngục tù ra
Ai đâu giam cấm được hồn ta...
(14-7)
Đây một mùa xuân tới tới gần
Đây mùa bất tuyệt của muôn xuân
Hương tình nhân loại bay man mác
Gió bốn phương truyền vang ý dân...
(Xuân Nhân Loại)
"- Ai ăn bánh bột lọc không?"
Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng
Không phải giọng của một hầu đứng tuổi
Cao thảnh thót hay rồ khan gió bụi
Đây âm thanh của một cổ non tơ
Mà dây ngân còn vương vấn dại khờ
Trên môi mỏng còn thơm mùi sữa mẹ
Tiếng rao nhỏ của một em gái bé
Không vang lâu chỉ vừa đủ rao mời
Nhưng giọng còn non quá yếu dần hơi
Nên cái "bánh" nửa chừng ra cái "bén"...
(Tiếng Rao Đêm)
Trăng lên trăng đứng trăng tàn
Đời em như chiếc thuyền nan xuôi dòng
... Biết không cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa dòng...
(Cô Gái Sông Hương)
Thế rồi cái không khí phấn khởi của cách mạng tháng tám tan biến với cuộc chiến tranh bùng nổ ở Nam Bộ vào cuối năm 1945. Thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu cho đến khi Việt Minh thất trận, rút vào các vùng rải rác trên toàn cõi Việt Nam. Và giải pháp Bảo Đại do Pháp an bài đã hình thành một vùng gọi là Quốc Gia. Nhân dân Việt Nam trong vùng này được sống một cuộc sống ổn định tạm thời, có thể gọi là thanh bình, trong thời kỳ 1947-1954.
Các văn nghệ sĩ tên tuổi phần lớn tập kết theo Việt Minh. Họ hết lòng tin tưởng vào chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, hăng say sáng tác, cũng như lớp trẻ, phần đông vừa là chiến sĩ vừa là văn nghệ sĩ, đã tạo nên được một nền văn nghệ khởi sắc, đó là văn nghệ kháng chiến.
Thực tế thì nhân dân Việt Nam ở hai miền Quốc, Cộng hồi đó vẫn tin rằng công cuộc kháng chiến chống Pháp là chính nghĩa. Các tầng lớp già trẻ ở vùng Việt Minh kiểm soát đã sử dụng văn nghệ như một lợi khí để cổ võ kháng chiến.
Khoảng năm 1949, họ cho ra đời "Tập Thơ Kháng Chiến", xuất bản ở Liên Khu IV. Cần đánh giá khách quan rằng tập thơ này có những bài thật giá trị, vì các tác giả đã sáng tác với tất cả niềm tin và lòng chân thành trong cuộc đời chiến đấu vì quốc gia dân tộc.
Họ đã vui với cuộc sống đó và đây là một sáng tác tiêu biểu nhất:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi "một hai"
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm đao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Ba năm rồi
Gửi lại quê hương
Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya...
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau
Ngang bờ cát trắng
Quờ chân nhau tìm hơi ấm đêm mưa
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu...
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Trong cuộc đời chiến đấu, ngoài nỗi gian lao ở chiến trường, họ còn vất vả ở chốn núi rừng với công tác lao động, những vẫn dậy niềm phấn khởi:
Chúng tôi đoàn áo vải
Sống cuộc đời rừng núi bấy nay
Đồng xanh ta thiếu đất cày
Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng
Tháng ngày ta góp sức chung
Vun từng luống đất cuốc từng gốc cây
Rừng xanh ta tới đây
Trên đồi cây cháy nắng
Giữa đôi dòng suối vắng
Đoàn ta vui cấy cầy...
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
Ta vui mùa lúa thơm
Ta mừng ngày quả chín
Lúa ta cấy xanh rừng
Hết khoai ta lại gieo vừng
Không cho đất nghỉ không ngừng tay ta...
(Bài Ca Vỡ Đất - Hoàng Trung Thông)
Và từ đây, văn nghệ sĩ giã từ cuộc sống thơ mộng để lên đường đấu tranh chống giặc:
Từ ngai cao Người hãy xuống
Hỡi Người ơi Hoàng đế Thi nhân
Giấc mơ tan vẻ đẹp cũng phai tàn
Vua trong mộng ôi thôi cũng mộng
Hãy lắng nghe dồn vang tiếng trống
Tiếng reo hò dấy động cả thôn quê
Du kích quân lặn lội đi giữa trời khuya
Lựu đạn nổ và liên thanh cũng nổ
Và cờ bay và máu đổ
Nỗi oan cừu giãy dụa giữa đau thương...
Ôi Thi nhân, Người hãy lên đường...
(Lên Đường - Lưu Trọng Lưu)
Trong "Tập Thơ Kháng Chiến" còn có một số khá nhiều bài gợi cảm người đọc với lời thơ chân thực của những con người chiến sĩ, vừa chiến đấu, lao động, vừa cầm bút, như: "Tình Mi Tau" của Vinh Mai, khóc người bạn đồng đội tử trận; "Con Đò Kháng Chiến" của Lương An, mô tả chuyến đò tải quân vào vùng chiến khu; "Nỗi Đau Xum Họp" của Lưu Trọng Lư, nói về cuộc họp giữa rừng sâu của các chiến binh từ mọi nơi về; "Thăm Lúa" của Trần Hữu Thung, ghi mối quan tâm của nông binh trong công tác đồng áng...
Sau đó, một số thi ca kháng chiến tiếp tục xuất hiện và rất được nhiều người, nhất là giới trẻ, hoan nghênh, yêu thích vì thích hợp với hoàn cảnh tâm lý của họ: tình cảm và chiến đấu.
Hữu Loan, đã làm cho họ khóc theo khi viết về người vợ của nhà thơ sớm qua đời:
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội lâu rồi
Nàng có đôi người em
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng còn xanh
Tôi người chiến binh
Xa gia đình
Đi chiến đấu
Tôi yêu nàng như em gái tôi yêu
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ hành quân
Nàng cười vui bên anh chồng bộ đội
Thời loạn ly chẳng ai cần áo cưới
Cưới nhau xong là tôi đi
Từ chốn xa xôi
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng chiến binh
Mấy người trở lại
Nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Hỡi ơi
Tôi về không gặp nàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh...
Tôi ngồi bên mộ nàng
Cỏ vàng chân mộ chí...
Nhớ xưa em hiền hòa
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu màu tím
Nhớ người yêu màu sim
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nhìn nhau lần cuối
Chẳng được nghe nói một lời...
Ôi một chiều mưa rừng
Nơi chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng...
Những chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt...
Rồi mùa thu
Trên những dòng sông
Gió Thu sang
Gờn gợn trên mộ nàng
Có lời nào ru hời
À ơi
"Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu"...
(Màu Tím Hoa Sim)
Bài thơ này Phạm Duy đã phổ nhạc với ít nhiều thay đổi trong lời ca, dưới nhan đề "Áo Anh Sứt chỉ Đường Tà".
Yên Thao, dù lao mình trong khói súng vẫn không quên mang theo hình ảnh người yêu:
Năm xưa em nữ sinh
Mắt huyền lung linh
Đu đưa mái tóc
Tiếng guốc thanh bình
Ta mơ ta hát hề nhan sắc
Ta gọi thầm em gọi một mình
Em là hương ngọt vườn trinh
Gió trăng kết bạn đa tình là ta...
Năm năm ta chiến binh
Say niềm viễn chinh
Ngang tàng áo lính
Khao khát men tình...
Hay khi ở tiền tuyến, nhà thơ hướng lòng về ngôi nhà ở quê cũ:
Nhà tôi đấy xạm đen mầu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ ướt mưa sương
Màu trắng vôi lồm lộp mấy khung tường...
Tôi là anh lính chiến
Giã quê hương từ độ mới khơi dòng
Buông tay gàu vui lại thuở bình Mông
Ghì nấc súng...
(Nhà Tôi)
Hoặc về người mẹ thân yêu:
Tôi có người mẹ già
Tóc ngả màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng gầy uốn nặng
Kiếp long đong
Hoàng Cầm, mô tả không khí tưng bừng của một đêm liên hoan giữa những chiến binh Vệ Quốc Đoàn:
Đêm liên hoan đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tan lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn
Đêm nay say tiệc liên hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù...
(Đêm Liên Hoan)
Nhà thơ say sưa với cuộc đời chiến đấu, có lúc nhớ về quê hương:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp...
(Bên Kia Sông Đuống)
Hay nhớ về người vợ nghèo:
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng ra lính
Nhà tranh bóng hắt hiu
Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
Ngực lép thân gầy quán vắng teo...
(Tâm Sự Đêm Giao Thừa)
Một số nhà thơ, xuất thân từ quân ngũ, nổi tiếng với những vần thơ hào hùng, đượm tính chất lãng mạn, như Quang Dũng trong bài "Đôi Mắt Người Sơn Tây":
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy núi Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương...
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây...
(Phạm Đình Chương đã phổ nhạc bài thơ này cùng nhan đề)
Hay bài Đôi Bờ:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm thu về một sớm mai...
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em xưa áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào
(Cung Tiến đã phổ nhạc)
Quang Dũng còn mô tả hình ảnh kiêu hùng của "Đoàn Quân Không Mọc Tóc", ở nơi rừng xanh heo hút vẫn mơ một hình bóng diễm kiều:
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi
Người đi heo hút lưng chừng trời
Ngoái nhìn Hà Nội mây che khuất
Một mảnh tình riêng một đoạn đời...
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm...
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...
(Tây Tiến)
Chính Hữu, cũng là một chiến binh, trong những cuộc hành quân đã ghi lại tình quân nhân thắm thiết:
Các anh đi
Ngày ấy đã lâu rồi
Các anh đi
Đến bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong
Làng tôi nghèo
Nho nhỏ ven sông
Gió bấc lạnh lùng thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo
Gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh về
Mái ấm nhà êm
Câu hát tiếng cười rộn ràng trong xóm nhỏ...
Các anh về
Không chê làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu đỗ
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình xa xôi...
(Các Anh Đi)
(Bài này Văn Phụng đã phổ nhạc)
Và họ vẫn sống vui với cuộc "kháng chiến trường kỳ" trong rừng núi:
Suối tự nghìn năm reo nhạc đá
Người không biết tuổi tháng ngày trôi...
(Khuyết Danh)
Dù có những người đã hy sinh, vì họ tin vào ngày vinh quang của Tổ Quốc:
Những người đã chết vì Tổ Quốc
Gươm súng là tay giết giặc thù
Trang sử rạng ngời gương chiến sĩ
Lòng son hồng mãi với thiên thu
Những người đã chết vì Tổ Quốc
Cho bốn nghìn năm nước Việt bền
Là chết vinh quang là sống thật
Con đường số kiếp mãi đi lên...
(Những Người Đã Chết - Tế Hanh)
Xuân Diệu cũng có những vần thơ đẹp, đậm đà tình đất nước dân tộc, khi chưa lộ mặt "văn nô", xu phụ quyền thế vào thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất và chống nhóm Nhân Văn Giai Phẩm:
Chúng ta là cây kim
Chúng ta là sợi chỉ
Quyết may lại cuộc đời
Cho liền trong vạn kỷ...
(Kim Chỉ)
Hay:
Mỗi năm hoa về đây
Hoa nói gì với người
Lòng đời chắc nặng lắm
Hoa nói hoài không thôi
(Hoa Nói)
Cũng như Huy Cận, nồng nàn với tình yêu đồng ruộng, quê hương:
Đồng quê bát ngát xôn xao
Xanh xao thơm mát vàng sao mặn nồng
Êm sao gió thở bên sông
Ấm sao hỡi bạn đất hồng bên chân
Đời lên không chút phân vân
Đời lên tuần tự từ nhân ngọt ngào
(Đồng Quê)
Ngoài thi ca, có một số tác phẩm văn được xuất bản trong thời kỳ kháng chiến, như tập "Xuống Làng" của Tô Hoài, mô tả cuộc chiến đấu chống Pháp của nhân dân miền thượng du Bắc Việt, trong đó có sự đóng góp của dân tộc thiểu số.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã tạo nguồn cảm hứng dồi dào cho văn nghệ sĩ ở bên này cũng như ở bên kia chiến tuyến.
Thực vậy, khoảng đầu thập niên 50, ở vùng Quốc Gia một số nhà văn, nhà thơ có khuynh hướng sáng tác thiên về "kháng chiến". Nhận định một cách khách quan thì vùng Quốc Gia hồi đó chưa phải là mảnh đất lý tưởng cho những người Việt có ý thức và tinh thần yêu nước. Họ cho rằng chế độ chính trị ở vùng này vẫn còn thuộc quyền kiểm soát của người Pháp và đó là mục tiêu tranh đấu hợp lý cho những người đối lập.
Văn nghệ sĩ là thành phần nhậy cảm nhất, và một số đã thừa nhận cuộc kháng chiến chống Pháp của phía "bên kia" là cuộc đấu tranh có ý nghĩa cao đẹp. Họ đã lý tưởng hóa cuộc đấu tranh đó qua những tác phẩm tiểu thuyết như: "Nắng Bên Kia Làng" (Lý Văn Sâm), "Vó Ngựa Cầu Thu" (Thẩm Lệ Hà), "Nửa Bồ Xương Khô" (Vũ Anh Khanh)...
Một số nhà thơ, tự cho mình bị trói buộc ở vùng "chiếm đóng" (theo từ ngữ của người kháng chiến), mà họ gọi là "nội thành" và mơ một vùng trời "giải phóng". Sáng tác tiêu biểu của họ là tập "Thơ Mùa Giải Phóng", xuất bản vào đầu thập niên 1950. Tác phẩm này gồm những bài của các thi sĩ Miền Nam hồi bấy giờ như Vũ Anh Khanh, Bân Bân Nữ Sĩ, Thẩm Lệ Hà, Chim Xanh, Khổng Dương... xen lẫn các nhà thơ ở vùng kháng chiến như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Tố Hữu... Các nhà thơ "nội thành" đã bóng gió đề cập đến cuộc kháng chiến chống Pháp, qua những vần thơ:
Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh
Ngậm ngùi Tha La bảo
Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng
Khói đùn quanh nóc tranh
Và lửa loạn xây thành
(Hận Tha La - Vũ Anh Khanh)
Tuổi thơ dệt mộng trong thành cũ
Nhớ vạn người đi dạ sắt son...
Nghe chăng cô gái đô thành nội
Chinh chiến ba năm trống dập dồn...
Bóng ai múa giáo ngoài sương gió
Nhắn hỏi giùm xem biết mất còn
Chàng trai phong nhã ngày xưa ấy
Đã bỏ tình riêng theo nước non...
Quê hương lạnh rượi mùa binh lửa
Muôn vạn người đi dạ sắt son
Nghe chăng cô gái đô thành nội
- Ai điểm trang mà em phấn son?
(Phấn Son - Vũ Anh Khanh)
Và họ ca ngợi những bàn tay đẹp, không phải là những bàn tay chau chuốt hàng ngày của các nàng khuê nữ, mà là những bàn tay đã xoa dịu vết thương chiến tranh:
Bao nỗi niềm riêng đành phủi bỏ
Những bàn tay ấy quyết đeo mang
Đem bao êm dịu cho đau đớn
Hàn vá lành cho những vết thương...
Đây một trời thương phủ chiến công
Nơi đây ve vuốt chí anh hùng
Nơi đây an ủi hờn chinh khách
Trên cánh tay in chữ thập hồng
(Chữ Thập Hồng - Bân Bân Nữ Sĩ)
Những nhà thơ này không phải là những kẻ "nằm vùng", dùng văn nghệ để tuyên truyền cho Cộng Sản, họ chỉ ngưỡng mộ lý tưởng đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà, khi người Pháp còn hiện diện trên đất Việt. Ngoại trừ Vũ Anh Khanh đã vào bưng theo "kháng chiến", sau đó chết trong bưng, có lẽ cũng vì mơ theo lý tưởng đó (chống Pháp). Các nhà thơ nhà văn trên, cho đến ngày nay, vẫn không đứng trong hàng ngũ Cộng Sản. Hình ảnh người chiến sĩ trong thơ văn họ có những nét đẹp như những hình ảnh mà những văn nghệ sĩ "kháng chiến" đã mô tả. Chính dòng thơ văn kháng chiến này đã có sức thu hút mãnh liệt đối với lớp tuổi trẻ "nội thành" và đã có những người rời bỏ các đô thành đi vào vùng kháng chiến.
Vào thập niên 50, do sự khinh suất trong công tác thông tin tuyên truyền và sự lỏng lẻo của chế độ kiểm duyệt sách báo ở vùng Quốc Gia, một số thơ văn kháng chiến đã được đưa vào vùng này, để rồi được truyền tay đến những cảm tình viên. Các tuần báo, tạp chí ở Miền Nam, vì muốn thỏa mãn nhu cầu của độc giả yêu thích thơ văn tranh đấu, đã công khai đăng tải những sáng tác của các văn nghệ sĩ kháng chiến, sau khi bỏ bớt một số câu, hoặc sửa chữa một số từ để tránh lưỡi kéo kiểm duyệt cắt bỏ. Cho nên giới trẻ ở vùng Quốc Gia, phần đông là sinh viên học sinh, được biết nhiều về thơ văn kháng chiến và có lòng yêu thích. Mà họ không yêu thích sao được khi thưởng thức những vần thơ nóng bỏng, đầy nhiệt tình được làm ra bởi những con người yêu nước, theo lòng tin của họ, ra đi vì lý tưởng phụng sự Tổ Quốc. Hơn nữa, thi ca kháng chiến lại đượm nồng tính chất lãng mạn, lấy nguồn cảm hứng trong khói lửa chiến tranh và tình yêu. Và tình yêu muôn thuở vẫn được con người nhắc nhở, dù trong hoàn cảnh nào, hoà bình hay chiến tranh. Và những nhà thơ kháng chiến đã mạnh dạn đưa hình ảnh người yêu vào thơ mình, mang hình ảnh họ theo cuộc đời lưu động khắp núi rừng, đồng nội, xóm làng, thôn bản,... trong cuộc chiến trải ra từ Nam chí Bắc nước Việt.
Thơ văn kháng chiến quả thật có giá trị do tính cách nhân bản của nó, đánh dấu một thời đại thi ca Việt Nam, được kết thành trong khói lửa và cái giá trị này sẽ còn có ảnh hưởng lâu dài. Nhưng đối với người Cộng Sản, thơ văn kháng chiến như là công cụ phục vụ giai đoạn. Cho nên, về sau, khi đánh giá nền thi ca đó, những phê bình gia Mac-xít đã gọi là "văn học lãng mạn cách mạng". Dưới con mắt người Mác-xít, họ chỉ công nhận giá trị của một nền văn học gọi là "hiện thực xã hội chủ nghĩa", mà họ luôn đề cao ở thời kỳ "chống Mỹ cứu nước".
Cũng vì lý do đó, khi Cộng Sản tiếp thu Miền Bắc, sau Hiệp Định Genève 1954, loại thơ văn "lãng mạn cách mạng" nói trên đã không được phổ biến. Người ta thường được đọc những tác phẩm cố gắng sáng tác theo đường lối hiện thực XHCN của các nhà thơ, văn đã "lột xác" như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư,... hay những cây bút mới như Anh Đức, Nguyên Ngọc...
Có lẽ để làm vừa lòng chính quyền Cộng Sản, khỏi bị phê bình là sáng tác thi ca "lãng mạn cách mạng", Nguyễn Đình Thi đã tái tạo bài "Đất Nước" (có tính chất hiện thực" để thay thế bài "Gặp Mùa Thu" (có tính chất lãng mạn), có cấu trúc ý tưởng tương tự, đã được phổ biến khắp từ trước. Ta hãy so sánh hai bài ấy sau đây:
Gặp Mùa Thu
Sáng mát trong như sáng mắt xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Bụi phơi ngõ vắng
Thềm cũ lá rơi đầy
Ôi nắng dội chan hòa
Nao nao trời biếc
Gió thổi hương đồng nội
Hương rừng chiến khu
Tháp Rùa lim dim nhìn nắng
Những cánh chim non
Trông vời nghìn nẻo
Mây trắng nổi tơi bời
Mấy đứa giết người
Hung hăng một buổi
Tháng tám về rồi đây
Hôm nay nghìn năm gió thổi
Trời muôn xưa
Đàn con hè phố
Ngày hẹn đến rồi
Các anh ngậm cười bãi núi ven sông
Hà Nội
Ơi núi rừng!
Đất Nước
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ta đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng đây vui giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phất phới
Rừng thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngã đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm nghe tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Thơ văn thời kỳ chống Pháp tất nhiên chấm dứt vào thời kỳ phân chia hai miền Nam Bắc và không còn dư âm ở thời kỳ "chống Mỹ cứu nước". Thời kỳ này, chỉ có loài thơ văn đấu tố, phục vụ cho chương trình Cải Cách Ruộng Đất, dưới sự lãnh đạo của Tố Hữu, làm thơ văn chửi rủa, lên án "trí, phú, địa, hào", hoặc ca ngợi lãnh tụ hay tuyên truyền cho cuộc chiến tranh chống Mỹ như Xuân Diệu, Lưu trọng Lư, Hoài Thanh... Chẳng cần bình luận, ai cũng rõ giá trị của loại thơ văn này như thế nào. Nhưng không phải toàn thể văn nghệ sĩ Miền Bắc vào thời kỳ này đều là "văn công", "văn nô" như hạng trên. Còn có những con người văn nghệ đích thực, dám nói dám làm, dùng văn nghệ phục vụ cho một lý tưởng cao quý là chống đối bất công, áp bức làm cho nhân dân nghèo đói, tranh đấu cho tự do dân chủ về quyền làm người trong một xã hội tốt đẹp. Đó là những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm vào thời kỳ "Trăm Hoa Đua Nở". Gọi nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, là những người đã chủ trương tạp chí Nhân Văn (do Phan Khôi làm chủ nhiệm) và đặc san Giai Phẩm, xuất bản từng thời kỳ như Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Xuân... (do Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức chịu trách nhiệm xuất bản). Những văn nghệ sĩ viết bài cho NV-GP gồm có: Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Trần Duy, Tử Phác, Văn Cao, Sỹ Ngọc, Chu Ngọc... và một số cây bút trẻ khác.
Gọi "Trăm Hoa Đua Nở" là do tiếng Trung Hoa "Bách Hoa Tề Phóng". Nguyên đó là nửa vế của một khẩu hiệu của chính quyền Trung Quốc, dưới thời Mao Trạch Đông, tung ra: "Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh" (Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng), cho phép văn nghệ sĩ được có nhiều khuynh hướng sáng tác để làm phong phú nền văn nghệ nước nhà (nhưng không được ra ngoài khuôn khổ một chương trình chung). Sở dĩ chính quyền Mao đã nới lỏng ngôn luận cho giới trí thức vì muốn xoa dịu họ, sau khi thanh trừng mọi phần tử đối lập, tiêu biểu là nhóm Hồ Phong.
Phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" xẩy ra ở Miền Bắc vào đầu năm 1956 có hai nguyên nhân từ ngoài nước và trong nước. Ở Nga, Khruschev hạ bệ uy tín Stalin để đưa ra tân chính sách là dân chủ hóa chế độ và mở một thời kỳ mới cho văn học, thường gọi là "thời kỳ băng rã". Sau đó, cử sứ giả sang Hà Nội giải thích về tân chính sách của Khruschev. Hồi đó, ở Việt Nam vừa thực hiện xong chương trình Cải Cách Ruộng Đất, một cuộc cải cách với nhiều vụ đấu tố và giết chóc, rồi kết cuộc chính quyền tuyên bố "sửa sai", theo khuyến cáo của Liên Xô.
Các văn nghệ sĩ đã lợi dụng thời cơ đó để nổi dậy chống đối chế độ thiếu tự do dân chủ và gây nên cơ cực cho mọi tầng lớp dân chúng. Họ đã xuất bản tạp chí" Nhân Văn và đặc san Giai Phẩm làm diễn đàn đấu tranh. Ngoài NV-GP, còn có một số báo khác đã hưởng ứng chống đối theo như: Đất Mới (của sinh viên đại học), Trăm Hoa (của nhà thơ Nguyễn Bính), Văn (trước là báo Đảng, sau lại chống Đảng).
Nhiều độc giả ở Miền Nam Việt Nam, trước năm 1975, đã có dịp đọc một số bài viết của các nhà văn, nhà thơ trên, qua tập "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc", do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa xuất bản năm 1959, tại Sàigòn. Các bài viết này, hoặc ngụ ý chống đối, hoặc vạch trần những cái xấu của chế độ Miền Bắc, đại khái như sau:
- Phê bình
lãnh tụ và các thuộc hạ: Càng già càng tồi (Ông Bình Vôi - Thơ Lê Đạt, Văn Phan
Khôi); kém khả năng sau một thời gian phục vụ (Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh -
Phùng Cung); nịnh hót, xu phụ quyền thế (Cũng những thằng nịnh hót - Hữu Loan).
- Nhận định về
giai cấp thống trị: thối nát hoặc gian ngoan, đểu giả (Ông Năm Chuột - Phan
Khôi).
- Mô tả hình ảnh
xã hội không tốt đẹp: đói rét, buồn khổ (Nhất Định Thắng - Trần Dần).
- Nhận xét đặc
tính của chế độ Cộng sản: đào tạo nên những người máy, không có tâm hồn (Những
Người Khổng Lồ - Trần Duy); nghệ sĩ sáng tác theo mẫu đặt hàng của Đảng
(Thi Sĩ Máy - Hoàng Tích Linh).
- Phê bình
lãnh đạo văn nghệ: làm mất tự do của văn nghệ sĩ; làm mất giá trị của sáng tác
phẩm, do chỉ đạo; bênh vực phe nhóm, dìm tài năng (Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ -
Phan Khôi).
- Nói về sứ mệnh
của nhà văn; vai trò của chuyên môn: Phải chân thực, không khuất phục trước bạo
lực cường quyền (Lời Mẹ Dặn - Phùng Quán); cần được tách rời khỏi chính trị
(Ông Năm Chuột - Phan Khôi).
- Nhận định về
cuộc Cải Cách Ruộng Đất: có nhiều sai lầm, không có căn bản pháp lý (Qua Những
Sai Lầm Trong CCRĐ... - Nguyễn Mạnh Tường).
- Mô tả thảm cảnh đấu tố trong CCRĐ: gây đau khổ, chết chóc cho nhân dân (Cơm Mới - Hoàng Tích Linh; Em Bé Lên Sáu Tuổi - Hoàng Cầm).
Trên đây là nội dung một số bài viết tiêu biểu đã được giới thiệu ở tập "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc".
Quả thật nhóm Nhân Văn Giai Phẩm và một số văn nghệ sĩ ngoài nhóm, đã tạo nên được một bầu không khí sinh hoạt văn nghệ sinh động ở Miền Bắc thời bấy giờ, một mặt đấu tranh chống Đảng, một mặt dấy lên một tư trào phóng khoáng tự do, làm nức lòng dân chúng.
Ngoài ra, còn có một số bài khác được viết trong thời điểm NV-GP hoạt động, không kém giá trị về mặt chống đảng. Chẳng hạn bài "Lá Diêu Bông" của Hoàng cầm:
Đứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay tao sẽ gọi là chồng
Hai hôm sau em tìm thấy lá
Chị chau mày, đâu phải lá diêu bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu, nhìn nắng vãn bên sông
Chị đã ba con em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn
Từ thuở ấy em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể gió thu vi vút gọi
Diêu bông ơi hỡi diêu bông
Em đi trăm núi ngàn sông
Nào tìm thấy lá diêu bông bao giờ
Diêu bông là loại lá mọc ở Đình Bảng, người dân nông thôn thường hái lá về giã nát đắp lên mặt để làm tốt da.
Nội dung bài Lá Diêu Bông có ý nghĩa nói về Đảng, qua hình ảnh một người con gái khó tính, hứa hẹn sẽ lấy làm chồng những ai làm vừa lòng mình. Ở đây, những người đi tìm lá diêu bông chính là văn nghệ sĩ. Đảng đã nêu lên đường lối chỉ đạo trong văn nghệ để họ thực hiện. Nhưng những sáng tác mà họ cung hiến không làm vừa lòng Đảng, vì Đảng chỉ công nhận là giá trị những gì được Đảng chỉ đạo. Vậy thì người văn nghệ sĩ chân chính không bao giờ làm được như vậy, họ không thể viết trái với lòng mình những gì mà họ không muốn để làm vừa lòng kẻ khác, dù đó là Đảng, có nhiều quyền lực.
Một bài khác cũng cũng của Hoàng Cầm:
Qua Vườn Ổi
Cách xa ba bước qua vườn ổi
Chị xoạc cành ngang em đứng trông
Xin chị một quả non
- Quả non còn
xanh chát
Xin chị của quả ươn
- Quả ươn chim
khoét thủng
Xin chị một quả chín
- Quả chín quá
tầm tay
Lẽo đẽo em đi đường, may sao
Cúi nhặt chiều sương dăm quả rụng
Ý nghĩa của bài này cũng bóng gió nói về Đảng và chính quyền Cộng Sản, là những kẻ không có lòng cầu mưu phúc lợi cho nhân dân, làm ngơ trước cả nguyện vọng tối thiểu của dân nghèo như miếng cơm, manh áo. Họ viện cớ này cớ khác để từ chối, chẳng hạn vin vào lý do chiến tranh để bắt dân thắt lưng buộc bụng, hoặc kêu gọi nhân dân lao động sản xuất để có cái ăn cái mặc. Cho nên, ở đây, người dân phải tự lo lấy thân phận mình, trong cảnh cùng khổ, cho đến mãn đời, may chăng có được chút ít lợi tức nhỏ.
Không thể chịu đựng được với những bài viết chống Đảng như đã nêu trên, đầu năm 1958, chính quyền Cộng sản đã cử Tố Hữu đứng ra chỉ huy cuộc đánh dẹp "phiến loạn văn nghệ" đó. Lần lượt, các "văn nô" đã viết bài trên các báo Nhân Dân, tạp chí Văn Nghệ, hoặc sách "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận", để công kích, lên án kết tội các văn nghệ sĩ phản kháng chế độ. Hoài Thanh viết về Trương Tửu, Thế Lữ viết về Phan Khôi, Phạm Huy Thông viết về Trần Đức Thảo, Xuân Ba viết về Trần Thiếu Bảo, Hồng Vân viết về Nguyễn Hữu đang... Vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, ngoài sự cáo buộc văn nghệ sĩ làm văn nghệ phản động để công khai khai trừ họ ra khỏi Hội Văn Học Nghệ Thuật, ngấm ngầm sa thải ra khỏi các cơ quan công quyền, trường học, bắt giữ... chính quyền Cộng Sản còn biến vụ này thành một vụ án gián điệp để xét xử và kết tội năm người: Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Phan Tài, Lê Nguyên Chi với bằng chứng bịa đặt (như Thụy An đã giao thiệp với người ngoại quốc), để có bản án dành cho mỗi người từ 5 fđến 15 năm tù. Mục đích của chính quyền Cộng Sản khi tạo nên vụ án điển hình này là để dằn mặt lớp trí thức tư sản, trước khi đưa Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nói đến văn nghệ Miền Bắc, từ lúc Việt Minh cướp chính quyền cho đến năm 1975, có thể nói là một nền văn nghệ không có văn nghệ. Bởi vì, với người Cộng Sản, văn nghệ chỉ là một lợi khí để phục vụ cho những chủ trương, sách lược của Đảng từng bước thực hiện chế độ theo đường lối Mácxít-Lêninnít. Cho nên văn nghệ ở vùng Cộng Sản chỉ có tính cách phục vụ giai đoạn. Dưới chế độ Dân Chủ Cộng Hòa, văn nghệ phục vụ cho công tác xóa nạn mù chữ, kêu gọi đầu quân, thần tượng hóa lãnh tụ... Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, văn nghệ phục vụ chiến tranh, cổ động đi dân công đào hố đắp đường, xẻ núi băng rừng (lập đường mòn Hồ Chí Minh). Thời kỳ tiếp thu Miền Bắc, phục vụ cho chương trình Cải Cách Ruộng Đất, thời kỳ chống Mỹ, văn nghệ lại phục vụ chiến tranh:
Cô du kích nhỏ dương cao súng
Thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu
Ra thế to gan hơn béo bụng
Anh hùng há phải chỉ mày râu
(Tố Hữu)
Tuy nhiên, vẫn có biệt lệ dành cho văn nghệ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và thời kỳ Trăm Hoa Đua Nở. Văn nghệ thời kỳ kháng chiến chống Pháp là nền văn nghệ tự phát, do các thành phần yêu nước trẻ tuổi, trưởng thành trong khói lửa chiến tranh dành độc lập đất nước, nên những sáng tác của họ có một giá trị chân thực. Là thơ văn mà đó cũng là tiếng nói của những con tim đã rung động trước nạn lớn của tổ quốc. Và tiếng nói, tiếng gọi kêu, gào thét nào của người dân mất nước, cũng như đứa con mất mẹ, lại không làm rung động con tim kẻ khác? Thơ văn của họ bừng bừng như khí thế đấu tranh chống giặc mà cũng nồng nàn tình yêu chân chính của tuổi trẻ.
Đảng Cộng sản đã lợi dụng phong trào văn nghệ đó để ngỏ cho thế giới biết rằng họ có chính nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Pháp, và làm ngơ trước những sáng tác có ít nhiều tính chất lãng mạn (về sau mới chỉ trích, phê bình vì hết thời gian tác dụng).
Sáng tác thơ văn trong thời kỳ đó là phản ảnh cuộc sống chiến đấu của văn nghệ sĩ và do cảm xúc chân thành của họ tạo nên, chứ không do đảng chỉ đạo như trong thời kỳ chống Mỹ về sau.
Trong cái bát nháo của loại văn nghệ nhằm phục vụ tuyên truyền cho cuộc kháng chiến "chống Mỹ cứu nước", nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm đã xuất hiện và trong cuộc đấu tranh chống Đảng bằng ngôn luận, họ đã thay mặt nhân dân cất lên tiếng nói thiết tha về nguyện vọng tự do dân chủ, và đã để lại cho đời tấm gương đấu tranh trong sáng với những sáng tác có giá trị về lòng sôi nổi chân thành của những con người biết yêu đồng bào và Tổ Quốc.
Về mặt sáng tác văn nghệ, chỉ có những tác phẩm được viết ra với tâm hồn chân thật, với cuộc sống thật, với những cảm hứng thật, mới gợi được xúc cảm sâu xa và lâu dài trong lòng người đọc. Thơ văn Miền Bắc Thời Kháng Chiến Chống Pháp và Thời Kỳ Trăm Hoa Đua Nở đã đáp ứng được điều kiện đó, nên có giá trị đáng lưu truyền trong nền văn học Việt Nam.
- Ghi chú: Phần thơ trong bài này, một số ghi theo trí nhớ người viết, hẳn không khỏi có điều sơ sót hoặc nhầm lẫn, xin độc giả bổ sung.
Bao Lần Cúc Nở
Linh Thảo
Tôi cư ngụ
nơi thường gọi là miền cao xứ tuyết
có đường phân ranh lục địa
xuyên bang với rặng Thạch Cơ Sơn
quanh năm bốn mùa gió lộng
vùng tôi ở thuộc miền đồi
có dốc cao nẻo thấp
đường dài lối rộng
vắng khu phố bán buôn
chỉ toàn nhà dân chúng
tôi ở đây
làm lưu dân trên đất khách
lòng không buồn không vui
vẫn trôi theo dòng đời năm tháng
nhớ quê hương vời vợi
thương về người thân xa xôi
láng giềng quanh quất
là người bản địa lẫn người tứ xứ
đến từ châu Á Phi Âu
đồng hương là bạn hữu
nhà tôi ở
chái bên phía nam trông về thủ phủ
tầng tầng cao ốc vượt lưng trời
ngày nhìn cảnh tượng
thành phố chìm trong sương mờ ảo
đêm nhìn đèn sáng khắp nơi
như một trời sao rực
tôi ngồi bên hiên trải bốn mùa
đông trắng tuyết rơi
mênh mông thu vàng lá
nắng hạ tỏa ấm nồng
xuân hồng hoa thắm
mỗi mùa một hứng thú riêng
ngước trông mây lơ lửng lưng trời
từng đám lang thang đây đó
mà nghĩ đến tấm thân phiêu lãng
mà hồn mình không ràng buộc vào đâu
mà cảm ơn
xứ sở tự do dân chủ
dung dưỡng mình bao lâu
mà đêm vẫn hằng mơ về đất mẹ
ngày bâng khuâng ngắm cảnh xứ người
mà ngậm ngùi như thơ Đỗ Phủ:
"một chiếc thuyền neo quê cũ nhớ
bao lần cúc nở lệ tha hương".
Linh Thảo
Hàm Thạch
Theo http://www.daiviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét