Mùa thu trong thi ca
Mới trung tuần tháng 9, gió đã thổi mạnh hơn. Tiết thu hây hây lạnh khiến lòng người cũng se lại. Lá vàng bắt đầu rụng lác đác trên đường phố và những ánh nắng cũng nhạt dần theo từng ngày qua. Năm nay mùa thu về sớm. Mùa thu tới lặng lẽ, bình thường như chu kỳ sinh trưởng tận diệt của vạn vật đất trời (1), nhưng vẫn làm Chế Lan Viên ngạc nhiên, buột miệng thốt:
Chao ôi! Thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào!
Mới độ nào đây, hoa rạn vỡ,
Nắng
hồng choàng ấp dãy bàng cao.
Thời tiết chuyển mùa. Paris đổi sắc. Đi ngang vườn
Luxembourg, tưởng chừng như văng vẳng bên tai câu thơ của Cung Trầm Tưởng: Mùa
thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm
mưa
Phố cũ hè xưa
Cổng trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm
Mùa thu gợi nhớ:
Trời
không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ nhung
Em còn nhớ đến quê
không
Bãi dâu vẫn đợi, con sông vẫn chờ
(Sáng nay mùa thu - Hồ Dzếnh)
Mùa thu đưa ta về với kỷ niệm. Những nỗi buồn vu vơ. Những buổi chiều thu lang thang đạp xe dưới tàn cây đường Nguyễn Du. Tiếng gió xào xạc làm lòng ta thổn thức theo dòng thơ của Lưu Trọng Lư:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em
không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không
nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Mùa thu là mùa của thi ca, là nguồn cảm hứng của bao thi sĩ (Chế Lan Viên, Cung Trầm Tưởng, Hàn Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Hồ Xuân Hương, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Tất Nhiên, Tản Đà, TTKh, Xuân Diệu,...).
Màu sắc, âm thanh mùa thu là động lực đánh thức tâm hồn con người.
Chú thích:
(1) Chu kỳ bốn mùa “Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, đông tàn”
Chế Lan Viên
Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920 tại Cam An, Cam Lộ, Quảng Trị.
Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành Chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tay với tên "Điêu tàn" với bút danh Chế Lan Viên, mà lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn" (2) (tiêu biểu với Hàn Mặc Tử). Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi ñàn Việt Nam.
Năm 1939 ông ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942 ông cho ra ñời tập văn "Vàng Sao", tập thơ triết luận về ñời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, sau ra Huế tham gia đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh, viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập đảng lao động Việt Nam.
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo "Văn học". Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở Phòng Văn nghệ, Ban tuyên huấn Trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo "Văn học" (sau là báo "Văn nghệ"). Từ năm 1963 ông là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V, VI; Ủy viên Ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh.
Chế Lan Viên là bố của nữ nhà văn Phan Thị Vàng Anh.
Tác phẩm: Tập thơ Gửi các anh (1955), Ánh sáng và Phù sa (1960), Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Ðối thoại mới (1973), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984). Truyện ký: Thăm Trung Quốc (1963), Những ngày nổi giận (1967), Giờ của số thành (1967).
Viết phê bình: Phê bình văn học (1962), Suy nghĩ và bình luận (1970), Bay theo đường dân tộc đang bay (1976), Từ gác Khuê văn đến quán Trung Tân (1980), Nghĩ cạnh dòng thơ (1982).
Chú thích:
(2) "Trường Thơ Loạn" được sáng lập bởi nhớm thơ Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, còn được gọi là Bàn thành tứ hữu của Bình Định.
Thu
Chao ôi! Thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào!
Mới độ nào đây, hoa rạn vỡ,
Nắng
hồng choàng ấp dãy bàng cao.
Cũng mới độ nào trong gió lộng,
Nến lau bừng sáng
núi lau xanh.
Bướm vàng nhẹ nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rũ trước
thành.
Thu đến đây! Chừ, mới nói răng?
Chừ đây, buồn giận biết sao ngăn?
Tìm
cho những cánh hoa đang rụng,
Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn!
Trời ơi! Chán Nản đương vây phủ.
Ý tưởng hồn tôi giữa cõi Tang!
Trời đã lạnh rồi
Đổi
gió mùa thu trời lạnh chăng em?
Màu xanh khuất mà mây cũng vắng
Hiu hắt lòng
ta như thiếu nắng
Như căn nhà những tháng không em.
Roi trên cành chừng đã đi
qua
Chen lá lục quả bàng vàng đã chín
Cỏ có rễ mềm hơn vì sương bén
Cúc bên đường
nghiêng những giọt sương hoa...
Mùa thu chừng biết ta xa cách
Gió nửa đêm từng
lúc gọi ta hoài
Nhắc anh biết miền xa em chẳng ngủ
Nhớ những ngày chăn mỏng đắp
chung đôi.
Tên thật Cung Thúc Cần. Sinh năm 1932 tại Hà Nội. Vào Sài gòn năm 1949. Du học tại Pháp và Hoa Kỳ.Tốt nghiệp Kỹ sư, Phó Tiến Sĩ Khoa Học. Cựu trung tá không quân VNCH. Tù Cộng Sản 10 năm. Hiện sống tại Saint Paul, Minnesota, USA. Hội viên liên kết của Văn Bút Pháp.
Tác phẩm:
- Tình ca (Cùng
Phạm Duy, Nguyễn Cao Uyên)
- Lục bát Cung Trầm Tưởng (Con Ðuông)
- Thám hiểm
không gian (dịch, Dziên Hồng)
- Lời viết hai tay (thơ 1999)
Chiều thơ Cung Trầm Tưởng
Một buổi giới thiệu hai thi phẩm “Lời viết hai tay” và “Bài ca níu quan tài” của thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã được nhóm thân hữu của ông tổ chức tại nhà hàng Hoa Biển 2, Saint Paul, ngày 26 tháng 8 năm 2001, và đã hái gặt được kết quả mỹ mãn.
Khoảng trên 200 người tham dự đã vào ngồi chật phòng ăn của Hoa Biển 2, khiến vài chục người đến chậm đã phải bỏ về. Tổng cộng lại, theo một giới thông thạo, đây là một buổi ra mắt thơ có số người tham dự cao nhất ở Minnesota, thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ một cháu bé còn nằm nôi đến một lão phụ 75 tuổi.
Một đặc điểm khác là số các bạn thanh nam nữ đến tham dự là khoảng 60 người, một con số kỷ lục đối với một buổi ra mắt thơ tại Minnesota. Tuyệt đại đa số nhóm trẻ này, tuy đã được giáo dục, đào tạo, tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ, nhưng vẫn không quên cái nguồn gốc Việt tộc của mình, được như thế là nhờ sự dạy bảo của các bậc phụ huynh của họ và sự trân quý lẫn lòng yêu mến của bản thân họ đối với truyền thống và nền văn học nghệ thuật Việt Nam.
Họ cảm thấy, như thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã viết trong lời bạt của Bài ca níu quan tài, khi ông đề cập đến động cơ của phong trào làm thơ của người Việt Nam tại hải ngoại, “Làm thơ trong tình huống (lưu vong) này căn bản là để tái lập cho bản thân mình sự toàn vẹn tinh thần đã bị phá vỡ (vì mặc cảm lạ nước lạ cái của thân phận lưu vong), và cũng đồng thời là một phương thức về nguồn tuyệt diệu, vì với việc sử dụng ngôn ngữ thơ Việt Nam, ta có được một con đường về gần nhất với cái tinh hoa của tiếng Việt mà cũng là của hồn Việt Nam”.
Với cái tên “Chiều thơ Cung Trầm Tưởng và những khúc phổ nhạc thơ ông”, buổi thơ nhạc giao duyên này gồm một chương trình biểu diễn phong phú nhưng cô đọng, phản ánh những mốc điểm quan trọng của hành trình thơ ca Cung Trầm Tưởng, gồm khoảng 15.000 câu thơ trải suốt một chiều dài nửa thế kỷ đầy đảo động của lịch sử Việt Nam hiện đại.
Khởi đầu, thi sĩ Mạc Ly Hương, người phối hợp chương trình, nói đến sự chuyển biến từ Tình ca đến Bài ca níu quan tài của mạch thơ Cung Trầm Tưởng. Theo ông, đây là một chuyển cung bậc gắn liền với dòng chảy của lịch sử đất nước, ở đó tình yêu lứa đôi, nhuộm sắc dị chủng của những “Mùa thu Paris”, “Chưa bao giờ buồn thế” thuở nào, nay trở thành một thứ tụng ca dâng lên những người vợ - người tình Việt Nam tuyệt vời.
Tiếp đến, giáo sư Nguyễn Ngọc Diễm đưa ra những nhận xét tinh tế và độc đáo về hai thi phẩm “Lời viết hai tay” và “Bài ca níu quan tài”, đặc biệt là sự hòa quyện vào nhau của hai dòng ai vãn và nộ khí ca mà ông đã phát hiện ở hai thi phẩm trên. Theo ông, với sự lồng vào cho thơ mình một kích thước phẫn nộ ắt phải có trước một lịch sử đất nước đầy bạo lực và bất công, Cung Trầm Tưởng đã mở ra cho thi ca Việt Nam một chân trời mới rộng hơn, can dự hơn, quyết liệt hơn và tích cực hơn. Những nhận xét uyên bác này của giáo sư Diễm đã được cử tọa nhiệt liệt hoan nghênh.
Sau phần phát biểu lý thuyết về thơ Cung Trầm Tưởng, chương trình biểu diễn thơ nhạc bắt đầu với bản “Vạn vạn lý”, thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Bùi Kim Cương, được cô Hoàng Kim Chi, người điều khiển dàn nhạc Việt Nhạc, viết hòa âm cho năm bè (nam) và phối khí cho một violin, một piano, một guitar, một saxophone (tenor) và một flute. điệu nhạc được tấu lên trầm bổng, láy luyến, ngân nga, khi chậm khi nhanh, khi âm u huyền mặc, khi sôi bừng ngạo nghễ, phù điêu, hoành tráng, hành ca pha với ballad… Tất cả những chuyển động đa chiều này hòa quyện vào nhau và tỏ ra ứng hợp với cái khí hậu sử thi, bi hùng của nguyên tác thơ, đã được Cung Trầm Tưởng viết ra để vinh tụng những tù hữu đã tuẫn tử trong lao ngục cộng sản. Bản “Vạn vạn lý” đã gây xúc động mạnh cho giới cử tọa, được họ vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng và yêu cầu hát lại một lần nữa, trước khi bế mạc buổi ra mắt thơ Cung Trầm Tưởng.
Những bản phổ nhạc thơ Cung Trầm Tưởng khác được biểu diễn là những sáng tác nổi tiếng của Phạm Duy, như “Tiễn em” (thơ: “Chưa bao giờ buồn thế”), Mùa thu Paris, Chiều đông (thơ: “Khoác kín”), “Kiếp sau”, “Bên ni bên nớ” (thơ: “Tương phản”), và “Đường vào thiên thu” do Bùi Kim Cương phổ nhạc.
Đình Luân nam tính, tình tứ một cách vững vàng với “Tiễn em”. Phương Uyên sang quý với “Mùa thu Paris”, với sự hỗ âm kín đáo mà hữu hiệu của Nguyên Phố, khiến bài nhạc có thêm chiều sâu. Quỳnh Trâm biết ứng xử với những chuyển động tinh tế, khá kiêu kỳ và giàu ấn tượng của một “Kiếp sau” mà trước đây chỉ có Thái Thanh và Thái Hiền mới dám đụng tới. Triết Bình da diết, đa năng, gần gũi với cái khí hậu lãng mạn, vừa lý tưởng vừa man mác nhục cảm, khi lạnh như tha ma, khi ấm như căn phòng đôi vợ chồng trẻ của bài “Bên ni bên nớ”. Quang Danh (cũng là giọng giới thiệu rất ấm của toàn ban nhạc Việt Nhạc) tê tái, hoang vắng, trầm mặc, hoài cảm với một “Chiều đông” trên một vùng tuyết vắng bóng người yêu. Rồi Kiều Hữu Chiến nam trầm, ngân nga, sung thiệm, vương thoảng opera và nhạc nhà thờ, lung linh trữ tình với “Đường vào thiên thu”.
Về diễn ngâm, Ái Trinh tha thiết, truyền cảm với “Bóng mẹ chiều thu” và “Đường vào thiên thu”, được hỗ đệm bởi tiếng đàn tranh trong, giòn, linh hoạt của Hồng Châu. Trước khi trình tấu, mỗi bài nhạc đều có một lời mào đầu (chapeau) do anh Nguyễn Trọng Cảnh viết và do Quang Danh đọc, để tóm lược ý nghĩa và hoàn cảnh của bài thơ được phổ nhạc. Và tất cả những cầm thủ như Quỳnh Trâm (violin), Thủy Tú (piano), Lê Phú (saxophone tenor kiêm flute), Hồng Châu (tranh), Châu Dũng (Guitar) được đặt dưới sự phối khiển của đầu đàn Hoàng Kim Chi, ngoài viết hòa âm và phối khí còn thủ guitar. Trong tay cô, nhạc cụ này đã trở thành linh hồn của nhóm Việt Nhạc, quán xuyến, đa hiệu, vừa dây vừa gõ, điều nhịp cho toàn ban, và tạo thêm âm tầng, âm sắc cho bài nhạc.
Cuối cùng là phần phát biểu của
nhà thơ Cung Trầm Tưởng. Sau phần cám ơn cử tọa, ban tổ chức và nhóm Việt Nhạc đã làm cho buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng này được thành công mỹ mãn, ông đề
cập đến một mục đích chính của buổi sinh hoạt là vinh danh người phụ nữ Việt
Nam trong giai đoạn hiện đại của lịch sử đất nước. Ông nói, hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam hiện đại đã là một chủ đề quan trọng của hai thi phẩm “Lời viết hai
tay” và “Bài ca níu quan tài” của ông. Ngoài là một người vợ thủ tiết chờ chồng
(bị cộng sản cách ly trong những trại tù hẻo lánh), một người mẹ rất mực chăm
thương con cái, tần tảo để chúng có miếng cơm độ nhật, họ còn là một nàng dâu
hiếu thảo, như: Đứng thế làm cha nuôi con dại
Để nhà có nóc lúc chồng xa
Em đứng
thay nam tròn chữ hiếu
Thờ cha phải đạo, dưỡng mẹ già
Theo ông, họ còn là “một người tình trọn vẹn tuyệt vời”
Trải gió dầm mưa chưa hết hạ
Vai chồng em thử áo
ngừa đông
Cắn chỉ luồn kim may gấp gấp
Vuông khăn còn ấm lệ đưa chồng
Và đây là
“tác dụng mầu nhiệm của những lá thư (em) gửi cho chồng”: Mỗi chữ thư em gầy
nét liễu
Anh ôm trên núi, ấp trong khe
Em là lửa ấm đêm đông rét
Trận gió đem
mưa giữa hạn hè
Ông nói, “tình yêu lứa đôi thuở nào, với Người em mắt nâu/ Tóc vàng sợi nhỏ/ Mong em chín ñỏ trái sầu, nay khoác một kích thước trữ tình bao la như vũ trụ”:
(Em) Là nắng thu hanh, mây lững thững
Thông reo trầm vút đỉnh
trời cao
Em giăng mộc thảo xanh triền núi
Ly cách lòng anh khỏi lũ trào
Vẫn với chữ của ông, “Rồi tất cả âm dương kết tụ thành một hạt gạo trắng nõn, biểu tượng của một luyến ái quan tích cực, có khả năng bồi tổn và cứu rỗi thật là kỳ diệu”:
Biển động thuyền lay em vững lái
Anh thương hạt gạo xẻ làm đôi
Tình nghĩa em
như sau bão thổi
Bãi yên bể lặng, cát về bồi
“Bởi vì là đá của tượng, như nàng Tô Thị, em đã đi vào huyền sử ngay lúc sinh thời”:
Phố ấy Đồng Đăng trùng điệp
núi
Đá mòn thành tượng của tình chung
Em đứng ôm con, bồng mưa nắng
Sắt son,
dũng cảm đến Kỳ Cùng
Rồi ông kết thúc với một ước nguyện, “Để được mãi mãi ở với em, anh sẽ làm một hóa thân”:
Mai sau ngủ gốc cây sồi
Làm thiên thu chiếc miếu
ngồi thờ em
Bài phát biểu trên của nhà thơ Cung Trầm Tưởng ñược cử toạ nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng nhiều lần. Sau ñó họ yêu cầu ban Việt Nhạc biểu diễn lại các bản “Vạn vạn lý”, “Đường vào thiên thu”, “Tiễn em”, và “Mùa thu Paris”. Về truyền thông đại chúng, có sự tham dự của báo “Ngày Nay”, “Bút Việt”, của “Việt Minnesota Radio” và “Voice of America”.
Mùa thu Paris
Mùa thu Paris
Trời buốt
ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Cổng
trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục Xâm
Ngồi
quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc
vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Mùa thu Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em
gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì
Mùa thu không lời
Son nhạt đôi môi
Em buồn
trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời
Mùa thu! mùa thu
Mây trời âm u
Yêu người độ
lượng
Trông em tâm tưởng, giam tù
Mùa thu!... Trời ơi! Tình thu.
Suối dòng
mộng ảo
Chim hồng về khu rừng cũ,
Xuân ấy hai lòng mới yêu.
Cùng hoa, bướm trắng
sang nhiều,
Nắng thơm những chiều tình tự.
- Xin em ngồi trên nhung cỏ,
Nghe suối
ca vui nhịp nhàng.
Anh ru cho hồn em ngủ,
Bằng điệu ca sang dịu dàng.
Chim xanh
về khu rừng cũ,
Hè tới, hai lòng còn yêu.
Cỏ thơm mọc đã cao nhiều,
Cành mộng
bao nhiêu hoa đỏ!
- Nếu bước chân ngà có mỏi,
xin em dựa sát lòng anh.
Ta đi
vào tận rừng xanh,
Vớt cánh rong vàng bên suối.
Lá đỏ rơi trong rừng cũ,
Thu về,
hai lòng còn yêu.
Đường tình trải một làn rêu,
Ngơ ngẩn hồn chiều tư lự.
- Em
có lên sườn núi biếc,
Nhặt cánh hoa mơ gài đầu.
Này đôi nai vàng xa nhau,
Có tiếng
gọi sầu thảm thiết.
Chim buồn xa khu rừng cũ,
Đồi núi trập trùng cỏ rêu.
Hai
lòng nay đã thôi yêu,
Có tiếng suối chiều nức nở.
- Em không nghe mùa thu hết?
Em không xem nắng thu tàn?
Trời ơi! Giọt lệ này tan,
Là lúc linh hồn anh chết!
Thu ngây
Về đây tôi gặp lại mùa
Thu nghìn thu cũ về lùa nắng trong
Thu về bằng
lối rêu phong
Bánh xe diệu nghệ khép vòng thời niên
Trời nong chật nỗi thu phiền
Hồn cây hồng mộc ngợp miền thu Tây
Tôi về lạc lối thu ngây
Rừng thu tiếng sóc
nghe gầy tim hao
Ôi thông xanh ôi hồng đào
Phong rêu mấy thuở hồn nào không đau
Về đây tôi gặp lại mùa
Thu nghìn thu cũ về lùa nắng trong
Thu về bằng lối rêu phong
Bánh xe diệu nghệ khép vòng thời niên
Trời nong chật nỗi thu phiền
Hồn cây hồng mộc ngợp miền thu Tây
Tôi về lạc lối thu ngây
Rừng thu tiếng sóc nghe gầy tim hao
Ôi thông xanh ôi hồng đào
Phong rêu mấy thuở hồn nào không đau
Sáng ra vườn nhỏ
Nhặt chiếc lá khô
Để về trải giấy làm thơ
Nghìn thu cũng chỉ rụng tờ diệp phong…
Hàn Mặc Tử
1Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm. Là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạng hiện ñại Viêt Nam, là người khởi xướng ra Trương thơ loạn, Trường thơ điên. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông được một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định lên Sài Gòn lập nghiệp. Năm ñó ông 21 tuổi.
Lên Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
Ít lâu sau, ông mắc bệnh phong - một căn bệnh nan y thời đó. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn và mất khi mới 28 tuổi.
Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông ñã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Tên của ông được đặt cho ñường phố ở Huế và Phan Thiết. Có ít nhất hai bài hát được sáng tác để nói về cuộc đời ông: Hàn Mặc Tử của Trần Thiện Thanh và Trường ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy.
Năm 2004, Hãng phim truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) ñã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để kỷ niệm ông.
Đã đăng thơ: Phụ Nữ tân văn, Sài Gòn, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Người mới.
Đã xuất bản: Gái quê (1936), Thơ Hàn Mặc Tử (1959) gồm có: Thơ Đường luật, Gái quê, Đau thương, Xuân như ý.
Buồn Thu
Ấp
úng không ra được nửa lời,
Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt.
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi...
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ lúc buồn thôi.
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt,
Cảnh sắp
về đông mắt đã vơi.
Cuối Thu
Lụa trời ai dệt với ai
căng,
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.
Mây vẽ hằng hà sa số lệ,
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
Sao không tô điểm nên sương khói,
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn.
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ,
Với buồn phơn phớt, vắng trơ vơ.
Cây gì mảnh khảnh run cầm cập,
Điềm báo thu vàng gầy xác xơ.
Thu héo nấc thành những tiếng khô.
Một vì sao lạ mọc phương mô?
Người thơ chưa thấy ra
đời nhỉ?
Trinh bạch ai chôn tận
đáy mồ?
Tình thu Đêm qua ả
Chức với chàng Ngưu Nhắc chuyện yêu đương ở dưới cầu Kể lể một năm tình vắng vẻ Sao em buồn bã suốt canh thâu? Đêm ấy trăng thu vui vẻ lạ! Người ta cười nói đến
nhân duyên Sao ta không dám nhìn nhau rõ Gặp gỡ bên đường cũng thản nhiên? Đêm
trước ta ngồi dưới bãi trông Con trăng mắc cỡ sau cành thông Buồn buồn ta muốn
về, trăng hỏi: Thu đến lòng em có lạnh không? Đêm nay ta lại phát điên cuồng Quên cả hổ ngươi, cả thẹn thuồng Đứng rũ trước thềm nghe ngóng mãi Tiếng đàn
the thé ở bên song... Và được tin ai sắp bỏ đi Chẳng thèm trở lại với Tình Si Ta lau nước mắt, mắt không ráo Ta lẫy tình nương, rủa biệt ly! Hồ Dzếnh
Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh. Sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957). Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội.
Những tác phẩm đã xuất bản:
- Quê ngoại (thơ, gồm những thi bản góp nhặt từ năm 1935 đến 1942, xuất bản năm 1943)
- Hoa xuân đất Việt (thơ, gồm 15 thi bản)
- Chân trời cũ (tập Hồi ký, xuất bản năm 1942 và do nhà Hoa Tiên, Sài Gòn tái bản năm 1968)
- Một truyện tình 15 năm về trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu Thị Hạnh, do nhà Hoa Tiên, Sài Gòn tái bản năm 1968)
- Hai mối tình hay tiếng kêu trong máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu Thị Hạnh, do nhà Hợp Lực, Sài Gòn tái bản năm 1968)
- Dĩ vãng (đoản thiên tiểu thuyết)
- Những vành khăn trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu Thị Hạnh)
- Đường kẽ mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 187, 12-12-1943)
- Nhà nhiều con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944) - Và nhiều truyện ngắn đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản vào thời tiền chiến.
Vào thời tiền chiến, có một tập thơ ra đời: tập Quê ngoại của Hồ Dzếnh. Chừng ấy cái tên người cũng đủ làm người ta lưu tâm. Và nhà Á Châu ấn cục đã ưng ý tác phẩm khi giới thiệu cùng độc giả những lời sau đây: "Lần đầu tiên thi ca Việt Nam được tô điểm một cách trau chuốt bằng ngọn bút linh diệu của nhà thơ ngoại quốc".
Sự giới thiệu của nhà Á Châu ấn cục ta ngỡ là lối quảng cáo một ấn phẩm vừa xuất bản, nhưng thực chất của tập Quê ngoại không làm cho ñộc giả thất vọng khi báo Tri Tân viết như sau: "Tên tuổi người Minh-hương ấy, văn học quốc ngữ không nề hà gì mà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu nhà văn hữu tài".
Quê ngoại của Hồ Dzếnh ñã thử thách qua sự chấp nhận xuất bản của Á Châu ấn cục và lời phê bình của tuần báo Tri Tân, một tạp chí chuyên bình luận văn học lúc bấy giờ; và ta còn tìm gặp điển hình một độc giả trẻ tuổi ưa thích Hồ Dzếnh tức nhà văn Mai Thảo ngày nay, khi Mai Thảo ghi lại cảm nghĩ mình thuở vừa tiếp xúc tiếng thơ của họ Hồ, những dòng sau đây: "Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở ra của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh hơn cả Xuân Diệu, và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính ñầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng nhịp nắng trên mênh mông đài trán thanh niên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, 20 tuổi, tiếp nhận một tập thơ cốm mới đậm đà, một tập thơ mười tám cái xuân đầy, đọc mỗi câu tưởng như có mật có đường ngọt trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng thơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ, Quê ngoại không hằn một nếp nhăn. Với tôi, một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có cái khí thế vạm vỡ của sống như một lao vào, cái vóc dáng của yêu như một kín trùm dào dạt..."
Mùa thu năm ngoái
Trời không nắng cũng không
mưa,
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
Chiều buồn như mối sầu chung,
Lòng êm
nghe thoảng tơ chùng chốn xa.
Đâu hình tàu chậm quên ga,
Bâng khuâng, gió nhớ về
qua lá đầy.
Tôi đi lại mãi chốn này
Sầu yêu nối nhịp với ngày tôi sang.
Dưới
chân mỗi lối thu vàng
Tình xa xăm lắm, tôi càng muốn yêu
Sáng nay mùa
thu
Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ nhung
Em còn nhớ đến quê không
Bãi dâu vẫn đợi, con sông vẫn chờ.
Bâng khuâng câu chuyện tình o
Không mong nên hẹn, không ngờ thành thân.
Rất xa bỗng hóa rất gần
Dù chưa gặp mặt
một lần, lạ chưa!
Sáng nay Hà Nội giao mùa
Hồ thu Tóc liễu. Tháp Rùa lung linh.
Nước non đầy nghĩa đầy tình
Đọc thơ em sẽ thấy mình trong thơ.
Thu
Suốt trời
hôm ấy thê lương quá,
Tóc liễu bờm xơm, sóng vỗ hồ,
Mây rối trên trời, cây rối
lá,
Giường cô xuân nữ gối chăn xô...
Đây là tất cả một mùa thơ,
Tất cả lều
tranh, cả khói mờ,
Cả gió may đưa, buồn lắng xuống,
Cả lòng tôi với cả lòng cô.
Có một nghìn cây rũ rượi buồn,
Một nghìn sông rét, vạn hoàng hôn,
Dăm thân
thiếu nữ gầy như trúc
Đứng chịu tang trời đổ bóng đơn.
Thu xa bằng gió, bằng
mây,
Không gian thở nhẹ, buồn vây chìm chìm...
Lòng không ai cấm mà im,
Không
dưng bỗng nhớ, không tìm bỗng mong.
Nơi tôi còn ít lá lòng,
Chiều nay rơi nốt
vào trong lá rừng.
Trong nền văn học Việt Nam, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt, không chỉ trong nội dung và nghệ thuật sáng tác mà ngay cả các văn bản sáng tác của nữ sĩ họ Hồ vẫn còn là những vấn đề đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu. Riêng về cuộc đời riêng tư của nhà thơ, cho đến nay vẫn còn là những dấu hỏi, chưa có một công trình nghiên cứu nào đáng tin cậy cả.
Trong phần mở đầu bài thơ Hồ Xuân Hương - người đó là ai cố nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Trung Thông, nguyên Viện trưởng Viện Văn học vốn người xứ Nghệ, làng Quỳnh Đôi - Quỳnh Lưu đã viết:
Người ta nói nhiều về
Hồ Xuân Hương
Nhưng
người đó là ai
Thật mỉa mai
Không ai biết rõ
Như có như không như không như có
Nàng ở làng Quỳnh
Nàng lại ở phường Khán Xuân
Mờ mờ tỏ tỏ...
Qua đoạn thơ trên, đủ thấy việc nghiên cứu, giới thiệu tiểu sử nữ sĩ họ Hồ quả là một việc phức tạp. Đó phải chăng cũng là một hiện tượng đặc biệt của nữ sĩ? mà giới nghiên cứu văn học nước nhà luôn luôn quan tâm trong nhiều thập kỷ.
Việc dựng một tiểu sử đầy đủ, chân thực, chính xác về Hồ Xuân Hương vẫn là đề tài nghiên cứu nóng hổi đang chờ phía trước đối với các nhà nghiên cứu.
Cho đến nay, bằng những tư liệu văn học và qua những nguồn thư tịch (tuy chưa có cơ sở chắc chắn), nhưng các nhà nghiên cứu của nhiều thế hệ đã cố gắng vẽ nên hình dáng cuộc đời của nhà thơ, mặc dù giữa họ còn những dị biệt, nhưng cũng đã có nhiều điểm tương đồng: Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.
Trước khi nữ sĩ chào đời, gia đình thầy đồ Diễn dọn về ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (gần Hồ Tây - Hà Nội bây giờ). Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thôn Tiên Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). ở tuổi thành niên, nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt Đường. Nhiều tài liệu cho biết, Hồ Xuân Hương ở với mẹ, có đi học, sáng dạ, thông minh, nhưng không được học nhiều, thích làm thơ. Bà có một bạn thơ rất đỗi tri âm, tri kỷ là Chiêu Hổ. Nhưng Chiêu Hổ là ai? vẫn còn là một ẩn số?
Cuộc đời riêng tư của nữ sĩ chịu nhiều đau khổ. Bà lấy chồng muộn, xây dựng gia đình, nhưng chẳng mấy hạnh phúc - Cuộc hôn nhân (làm lẽ) với Tổng Cóc, một tên ác bá, ngu dốt, là một nỗi đau buồn của nhà thơ. Khi làm lẽ ông Phủ Vĩnh Tường cũng chẳng vui vẻ, hạnh phúc gì hơn!
Như vậy, qua nghiên cứu khác nhau, cho thấy đã có một sự đồng nhất về quê hương bản quán, nơi sinh, nơi ở và cuộc đời riêng tư của bà - Điểm dị đồng là người cha?
Còn về năm sinh tháng đẻ, có nhiều tài liệu rất chung chung: "Bà sống vào khoảng cuối Lê, đầu Nguyễn". Đây là một quãng thời gian hết sức co dãn, rất rộng, cốt để dung hòa nhiều giả thiết về thời điểm sống của nhà thơ, trước khi chưa có một tài liệu đủ cơ sở chắc chắn khẳng định thời điểm sống của bà. Trong gia phả của họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi có chép Hồ Xuân Hương ở đời thứ 12, là con của Hồ Phi Diễn, và sinh năm 1772, mất năm 1822.
Nhưng mới đây người ta đã phát hiện một tài liệu mới nhất Xuân Đường đàm thoại, có nhiều tư liệu để giải thích thời điểm sống của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Nếu căn cứ vào những chi tiết trong Xuân Đường đàm thoại thì Hồ Xuân Hương sinh ra vào đầu triều Nguyễn. Nếu đó là hiện thực, buộc chúng ta phải xếp nữ sĩ Hồ Xuân Hương vào "Chiếu văn học" của triều Nguyễn chứ không phải là triều Tây Sơn, lại càng không phải thời "cuối Lê". Việc sắp xếp này có một ảnh hưởng lớn đến văn học sử Việt Nam, cũng như những nhận định, bình giá thơ văn của nữ sĩ.
Và nếu như Xuân Đường đàm thoại là đúng, thì Hồ Xuân Hương cũng không thể qua đời trước 1842 một thời gian rất lâu, như ta đã biết qua Thương sơn thi tập của Nguyễn Phúc Miên Thẩm - tức Tùng Thiên vương - bởi năm 1842 Tùng Thiên vương hộ giá vua Thiệu Trị ra Bắc Hà tiếp sứ thần nhà Thanh, ông có tới vãng cảnh hồ Tây và đã viết một loạt 14 bài thơ, trong đó có bài tỏ lòng thương cảm nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã quá cố: "... Chớ có dẫm lên mộ Xuân Hương nhé. Vì ở dưới suối vàng, nàng còn đang ôm mối hận rút nhầm"
Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
Cảnh Thu Thánh thót
tầu tiêu mấy giọt mưa, Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ, Xanh om cổ thụ tròn xoe
tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, Túi
lưng phong nguyệt nặng vì thơ Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà
chẳng ngẩn ngơ.
Có sách gán bài này cho Bà huyện Thanh Quan. Ở văn bản Landes 1893, bài thơ này không có đầu đề. Câu thứ hai là 'Đố ai vẽ được cảnh tiêu sơ' và có lời dẫn: "Ngày xưa Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương vào chùa lạy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa. Ngửng lên xem thì cao ngút không biết tới đâu, cho nên làm bài thơ này (cây đa này đến nay còn)"
Ở bản Đông châu 1917, có lời dẫn: "Một ngày kia đang mùa quý thu, giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi cô hai ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu. Đương khi chén quỳnh đầu vơi, chiều thu hiu hắt, quan phủ liền bảo Xuân Hương vịnh bài tức cảnh. Thơ rằng..."
Bài thơ này hiện nay vẫn chưa rõ là của Bà huyện Thanh Quan hay là của Hồ Xuân Hương.
Thu nguyệt hữu ức Mai Sơn Phủ ký (i) Lá ngọc chiều thu giận hẳn
du Tuần trăng sẽ nhớ bữa đêm thu. Bên am Nhất Trụ trông còn đấy, Ngọn nước Tam
Kỳ chảy lại đâu (ii) Son phấn trộm mừng duyên để lại, Bèo mây thêm tủi phận về
sau. Trăm năm biết có duyên thừa nữa, Cũng đỏ tay tơ cũng trắng đầu.
(i) Đêm
thu, nhớ Mai Sơn Phủ, gởi bài này.
(ii) Nguyên chú: "Đã giải kết đưa
tình" Giải kết, theo Đào Duy Anh, là: "Cởi mối tình kết buộc với
nhau" Còn giải kết đưa tình là gì? Chưa rõ lắm.
Huy Cận
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Dương Sơn, Hà Tĩnh, mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội. Trước khi mất ông sống tại Hà Nội, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.
Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (Tú tài, Cao đẳng Nông Lâm...) và hoạt động Văn học. Từ đầu năm 1942, vừa học Nông Lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7 năm 1945, tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào và được bầu vào ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) và vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời. Từ ngày 5 tháng 11 năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông (12-1946 ñến 7-1947) rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế (1947-1949). Từ 1949 ñến 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội ñồng Chính phủ. Từ 1955 ñến 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa; Từ tháng 9 năm 1984: Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Tháng 6 năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế Giới.
Về đời tư, Huy Cận có hai người vợ. Người vợ đầu của ông là bà Hồ Xuân Như, em gái của nhà thơ Xuân Diệu. Ông là bạn “nối khố” của nhà thơ Xuân Diệu, cặp thi sĩ này hầu như luôn đồng hành với nhau suốt những chặng đường thơ, kể từ thời kỳ Thơ Mới.
Tác phẩm:
Thơ: Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ của đời (1963), Hai bàn tay em (1967), Phù Đổng Thiên Vương (1968), Những năm 60 (1968), Cô gái Mèo (1972), Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973), Chiến trường gần chiến trường xa (1973), Những người mẹ, những người vợ (1974), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Sơn Tinh, Thủy Tinh (1976), Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Tuyển tập Huy Cận tập I (1986), Chim làm ra gió (1991), Tào Phùng (1993), Thơ tình Huy Cận (1994), Marées de la Mer orientale (Paris 1994), Tuyển tập Huy Cận II (1995), Thiên việt lương việt lãng (Bắc Kinh, 1959), Messages stellaires et terrestres (Canada, 1996), Thơ Huy Cận (1996).
Văn: Tâm sự gái già (1940), Kinh cầu tự (1942), Suy nghĩ về nghệ thuật (1980-1982), Culture et politique république socialiste du Việt Nam (Paris 1985), Một cuộc cách mạng trong thi ca (chủ biên cùng Hà Minh ðức, 1993), Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (1994), Các vùng văn hóa Việt Nam (chủ biên cùng Đinh Gia Khán, 1995), Culture Vietnamienne traditionnelle et contemporaine (1997).
Thu rừng Bỗng dưng buồn bã không gian, Mây bay lũng thấp giăng màn
âm u. Nai cao gót lẫn trong mù Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về. Sắc trời
trôi nhạt dưới khe; Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng. Sầu thu lên vút,
song song Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu. Non xanh ngây cả buồn chiều - Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Lưu Trọng Lư
Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1912 - 10 tháng 8 năm 1991) là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch.
Lưu Trọng Lư quê làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Ông học đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế thì ra Hà Nội làm văn, làm báo để kiếm sống. Ông là một trong những nhà thơ khởi xướng Phong trào Thơ mới và rất tích cực diễn thuyết bênh vực "Thơ mới" ñả kích các nhà thơ "cũ". Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Sau năm 1954, ông tiếp tục hoạt động văn học, nghệ thuật: hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1957, đã từng làm Tổng thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Ông mất tại Hà Nội. Con trai thứ chín của ông, Lưu Trọng Ninh cũng là một đạo diễn phim có tiếng của Việt Nam.
Tác phẩm:
- Tiếng
Thu (thơ, 1939)
- Tỏa Sáng Ðôi Bờ (thơ 1959)
- Người Con Gái Sông Gianh
(thơ,1966)
- Từ Ðất Này (thơ,1971)
- Hồng Gấm Và Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973)
- Ngoài Sơn Nhân (truyện ngắn)
- Khói Lam Chiều (truyện)
- Chiếc Cáng Xanh (tự
truyện, 1941)
- Nửa Ðêm Sực Tỉnh.
Khi thu rụng lá Em có bao giờ nói với anh, Những câu tình tứ, thuở ngày xanh, Khi thu rụng lá, bên hè vắng, Tiếng sáo ngân
nga, vẳng trước mành. Em có bao giờ nghĩ tới anh, Khi tay vịn rủ lá trên cành? Cười chim, cợt gió, nào đâu biết: Chua chát lòng anh biết mấy tình? Lòng anh
như nước hồ thu lạnh, Quạnh quẽ đêm soi bóng nguyệt tà... Ngày tháng anh mong
chầm chậm lại, Hững hờ em mặc tháng ngày qua... Mùa đông đến đón ở bên sông, Vội
vã cô em đi lấy chồng, Em có nhớ chăng ngày hạ thắm: Tình anh lưu luyến một bên
lòng? Thu Hạ Long Đôi hài nhè nhẹ bước ra Màn đêm cuốn lại, mặt hoa
rạng dần Mừng sương tan, khướu hót gần Rừng xa thông vút điệu đàn hòa âm Hút
nhìn: Mặt nước lặng tăm Cánh buồm soi bóng, lướt thầm trên gương Em vừa khoác
nhiễu lam sương Đã vân tím nhạt, chuyển sang lụa đào Buồm bay hay cánh hải âu? Nắng vàng thu hay nắng đầu xuân tươi? Biển, trời: Hai gái sinh đôi Thuyền trôi
hay chính núi trôi bập bềnh? Cảnh sao thật, nét sao tranh? Nét oai dáng hổ, nét
thanh vẻ Kiều Mỗi thoáng nhìn, một nét yêu Một ngày xáo động biết bao tâm tình Cảnh ơi! Sao đó với mình Như chung chiếc võng một cành đung đưa Tiếng còi vừa động
"từng" xa Mây ùn lại cơn dông qua ào ào Lòng gương sóng dậy xôn xao Bão chưa tan đã ánh sao đỉnh trời
Tiếng thu Em không nghe mùa thu Dưới trăng
mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô
phụ? Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên
lá vàng khô?
Nguyễn Bính
Tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 tại làng Thiện Vinh, huyện Vụ Bảng, tỉnh Nam Định (nay là Hà Nam Ninh). Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, tự học ở nhà, bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi.
Nguyễn Bính được giải khuyến khích thơ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn năm 1937 với tập thơ Tâm Hồn Tôi.
Ông tham gia kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ, tập kết ra Bắc năm 1954, làm việc tại Hội văn nghệ Việt Nam, Ty văn hóa thông tin Nam Hà. Năm 1958, Nguyễn Bính làm chủ bút báo Trăm Hoa.
Ông mất ngày 20 tháng 1 năm 1966 tại Hà Nội.
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940), Hương cố nhân (1941), Mây tần (1942), Người Con gái ở lầu hoa (1942), Tình nghĩa đôi ta (1960), Tuyển Tập Nguyễn Bính (1984); kịch thơ Bóng giai nhân (1942); truyện thơ Truyện Tỳ Bà (1944)...
Thơ Nguyễn Bính "chân quê": giản dị, mộc mạc, nhẹ nhàng, trong sáng, và hồn nhiên như ca dao trữ tình. Ông viết về làng quê qua lăng kính tình cảm lãng mạn, biểu lộ một tình quê, một hồn quê chân tình và gần gũi. Giáo Sư Lê Đình Kỵ có nhận xét về thơ Nguyễn Bính: "Nổi bật lên ở Nguyễn Bính là ca dao, ở cảm xúc lẫn tư duy, ở cả ý, tình, và điệu..."
Cây bàng cuối thu Thu đi trên những cành bàng Chỉ còn hai chiếc lá
vàng mà thôi Hôm qua đã rụng một rồi Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn Hôm nay
lá thấy tôi buồn Lìa cành theo gió lá luồn qua song Hai tay ôm lá vào lòng Than
ôi chiếc lá cuối cùng là đây! Quạnh hiu như tấm thân này Lại âm thầm sống những
ngày gió mưa Quán lạnh Mùa thu đến chậm như chưa đến, Lá vội rơi theo
gió vội vàng, Sương đã dâng lên, chiều lắng xuống, Bến đò đã tắt chuyến sang
ngang. Đem theo cát bụi đường xa lại, Tráng sĩ dừng chân khẽ thở dài. Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh, Người ta đóng giở chiếc quan tài. Chậm chạp trăng liềm
nhô khỏi mông, Ánh ngà vắt sữa xuống ngàn sương. Đêm nay tráng sĩ không nơi trọ, Nằm tạm qua đêm quán dọc đường. Thu lá vàng Ngồi trên bến gió chờ
nàng Lá đưa thuyền lá vàng sang bến nào? Bờ sông thấp, nước sông cao Lá thuyền
này đã trôi vào bến anh Vớt lên, thả xuống sao đành Anh gửi cho mình giữ lấy
mình ơi! Nàng đẩy một chiếc lá rơi Không, không, không phải, giấy trời thư anh. Thu rơi từng cánh Mùa thu hoa cúc lại tàn, Thuyền ai buộc mãi bên làn cây
cong. Người về để lạnh phòng không, Thu rơi từng cánh cho lòng nhớ thương. Có
người cung nữ họ Vương, Lên lầu nhìn dải sông Hương nhớ nhà.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 mất năm 1585, tên húy là Văn Ðạt, tự là Hanh Phủ, đạo hiệu Bạch Vân cư sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Cha ông là Văn Ðịnh (Cù Xuyên tiên sinh), mẹ là con gái quan thượng thư Nhữ Văn Lan.
Lúc nhỏ, ông theo học bảng nhãn Lương Ðắc Bằng, nổi tiếng thông minh khác thường, được thầy yêu mến. Học giỏi nhưng lúc còn trẻ, ông không chịu ra thi làm quan, thích sống đời ẩn dật. Mãi đến năm 45 tuổi, ông đột ngột ra thi và đỗ ngay Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Ðại Chính thứ 6 (1535) đời Mạc Ðăng Doanh.
Ở triều được 8 năm, ông lại xin về ở ẩn nhưng vẫn theo giúp nhà Mạc khi có yêu cầu. Về Trung Am, ông cho xây dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân bên dòng sông Tuyết để dạy học trò nên người đời sau còn gọi ông là Tuyết giang phu tử. Học trò ông có nhiều người lỗi lạc như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan,..
Khi mất, ông được nhà Mạc truy phong Lại bộ thượng thư Trình quốc công, cho xây dựng miếu thờ.
Tác phẩm:
- Chữ Hán: Bạch Vân am tập, một bài tựa, Trung Tân bi quán ký, Thạch Khánh ký.
- Chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài thơ).
Mùa thu đi chơi thuyền Nước xuôi nước ngược, sóng dâng triều Thuyền khách chơi thu, nọ phải dìu Chèo vượt bóng trăng, nhân lúc hứng Buồm
giong ngọn gió mặc cơn siêu Phơ phơ đầu bạc ông câu cá Leo lẻo dòng xanh con mắt
mèo Le vịt cùng ta như có ý Ðến đâu thời cũng thấy đi theo.
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại. Ông quê ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh
gì với núi sông.
Năm 1820 khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca. Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú v.v… Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên. Ông đúng là một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước. Quân sự
Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1825 dẹp Khởi nghĩa Lê Văn Lương, 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nùng Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.
Kinh tế
Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông.
Thơ ca
Nguyễn Công Trứ là người có tài.
Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu
sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.
Thế thái nhân
tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy
Hay:
Tiền tài hai chữ son
khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
Hoặc:
Ra trường danh lợi vinh
liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng
giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:
Nào
nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.
Chán chường với chốn
quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với
ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế.
Trời đất cho ta một
cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê
hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng bò. Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời
cô dâu khi nàng hỏi tuổi:
Năm mươi năm trước, anh hai ba
Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông (3) đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét
thì trèo với thông
Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản
lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông
sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời
sống, lấy đời sống làm cốt lõi.
Chú thích:
(3) Cây thông trong cách hiểu Nho - Khổng giáo là
người quân tử.
Vịnh mùa thu Trời thu phảng phất gió chiều, Mây về Ngàn Hống
buồm treo ráng vàng. Sang thu tiết hơi may hiu hắt, Cụm sen già lã chã phai
hương. Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng, Son nhuộm non đào cành lá đỏ. Lãnh vũ
như ti trùng chức dạ, Tình thiên tác chỉ nhạn thư không. Phúc đâu đâu một trận
hảo phong, Trên cung Quảng xa đưa hương quế. Giời biếc biếc, nước xanh xanh một
vẻ, Khéo hóa công khéo vẽ nên đồ. Một năm được mấy mùa thu.
Nguyễn Khuyến
Nhà thơ Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông là làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là cụ Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạt. Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây. Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Lúc này Nam kỳ rơi vào tay Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã. Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ. Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng. Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện. Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.
Thu ẩm Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Lưng giậu phất
phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy. Độ năm ba chén đã say nhè.Thu điếu Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền
câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng
mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần
lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo.Thu vịnh Trời thu xanh
ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói
phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng
trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với
ông Đào. (i)Chú thích:
(i) Ông Đào: Đào Tiềm.
Thơ chữ Hán:
秋夜有感 山河寥落四無聲,
獨坐書堂看月明。
何處秋風吹一葉,
引來無限故園情。
Thu dạ hữu cảm
Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh,
Độc toạ thư Đường khán nguyệt minh.
Hà xứ thu phong xuy nhất diệp,
Dẫn lai vô hạn cố viên tình.
Mối cảm đêm thu
Bốn mặt non sông vắng lặng tờ,
Phòng văn tựa
ghế ngắm gương nga.
Lá thu một chiếc bay trong gió,
Khêu gợi bao nhiêu nỗi nhớ
nhà.
Hoàng Tạo dịch
Nguyễn Tất Nhiên
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa. Sau năm 1975, Nguyễn Tất Nhiên sang sống tại Hoa Kỳ và tiếp tục làm thơ. Ông mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại California. Lúc còn trẻ ông còn có biệt danh là Hải Khùng.
Theo lời nhà thơ Thái Thụy Vy (người cùng quê với ông) "Hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà anh ưa mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ hôi nhễ nhại, ưa đạp xe đạp đi cua cô em Bắc Kỳ nho nhỏ tên Duyên; anh nhỏ hơn tôi đúng một con giáp, tuổi Thìn; anh thường làm thơ in ronéo đi phát không cho nữ sinh, họ đều quăng vào thùng rác, đến lúc Vĩnh Phúc và Nguyễn Xuân Hoàng dạy trường Ngô Quyền gửi đăng ở tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, được Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ các bản Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá, Trúc đào, Vì tôi là linh mục, Em hiền như ma soeur, Kìa cô em Bắc kỳ nho nhỏ, Hai năm tình lận đận thì nữ sinh ùn ùn kiếm mua thơ anh; Nguyễn Tất Nhiên sau lấy Minh Thủy, xóm Cây Me, chú út tôi là Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam lấy chị thứ ba là Minh Vân...
Lúc Nguyễn Tất Nhiên quyên sinh trước cửa chùa Việt Nam, California, anh chưa được trông thấy tác phẩm Minh khúc của anh ra đời. Quyển thơ này đang bị tranh chấp giữa Minh Thủy và gia đình Nguyễn Ngọc (cha của Nguyễn Tất Nhiên) chưa ngã ngũ".
Tác
phẩm:
- Nàng thơ trong mắt (1966, cùng với Đinh Thiên Phương)
- Dấu mưa qua đất
(1968, cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình)
- Thiên tai (thơ, 1970)
- Thơ Nguyễn Tất
Nhiên (thơ góp nhặt từ 1969-1980, nhà xuất bản Nam Á - Paris in lần đầu tiên)
-
Những năm tình lận đận (tập nhạc 1977-1984, nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam)
-
Chuông mơ (thơ từ năm 1972-1987, nhà xuất bản Văn Nghệ - California)
- Thiên
tai (thơ, tái bản)
- Cũng cần cho hạnh phúc
- Tâm dung (thơ)
- Truyện ngắn Nguyễn
Tất Nhiên
Tàn Thu Ôi những hàng cây nhung nhớ nhung Có như ta đứng lạnh vô
cùng Có nghe sương tuyết làm hon héo Chút gì màng muộn thuở thanh xuân Ôi những
hàng cây ngơ ngẩn ngơ Có khổ đau nghe lá hững hờ Có như ta nửa đời hiu hắt Muốn
chết, sau đôi bận giã từ? Ôi những hàng cây im đứng im Ngùi tưởng bao nhiêu lá
phụ tình Có như ta đứng - tàn mơ mộng Máu vẫn loang từ vết nhân duyên? Này những
hàng cây đứng trơ xương Có đứng như ta đứng nát lòng Có như ta đứng chờ không hẹn Một người... không biết nhớ ta không?Trúc Đào Trời nào đã tạnh cơn
mưa Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn Nhà người tôi quyết không sang Thù người
tôi những đêm nằm nghiến răng Quên người - nhất quyết tôi quên Mà sao gặp lại
còn kiên nhẫn chào Chiều xưa có ngọn trúc đào Mùa thu lá rụng bay vào sân em Mùa thu lá rụng êm đềm Như cô với cậu cười duyên dại khờ Bởi vì hai đứa ngây
thơ Tình tôi dạo ấy là... ngơ ngẩn nhìn Thế rồi trăng sáng lung linh Em mười
sáu tuổi giận hờn vu vơ Sang năm mười bảy không ngờ Tình tôi nít nhỏ ngồi mơ
cũng thừa Tôi mười bảy tuổi buồn chưa Đầu niên học mới dầm mưa cả ngày Chiều
nay ngang cổng nhà ai Nhủ lòng tôi chỉ nhìn cây trúc Đào Nhưng mà không hiểu vì
sao Gặp người xưa lại nhìn nhau mỉm cười.
Tản Đà
Tản Đà (1888-1939) là một thi sĩ,
văn sĩ, kịch tác gia lãng mạn người Việt Nam. Trên văn đàn của văn học Việt Nam
trong hơn 3 thập niên đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tạo. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông
xáo trên nhiều lĩnh vực, đi khắp miền đất nước, ông để lại nhiều tác phẩm với
nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Ông được đánh giá là người mở đầu cho thơ mới của văn học Việt Nam, là "gạch nối
giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà
còn dịch thơ Đường và được biết đến như một người dịch thơ Đường sang thơ lục
bát hay nhất Việt Nam.
Ông tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5
năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt,
tỉnh Sơn Tây; nay là huyện Ba Vì (một thời thuộc ngoại thành Hà Nội, nay thuộc
tỉnh Hà Tây).
Ông xuất thân trong một gia đình phong kiến quan lại. Thân sinh
ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, làm đến Án sát và từng giữ chức Ngự sử trong
kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là Đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi
tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.
Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo
các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức
ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi hương ở Nam Định, bị hỏng. Năm 1912, đi thi
khoa Nhâm Tý, vẫn hỏng. Trở về Hà Nội, chứng kiến người yêu là cô Đỗ Thị đi lấy
chồng, ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng; rồi cùng bạn là nhà tư sản Bạch
Thái Bưởi lên chùa uống rượu, làm thơ và thưởng trăng, sống theo lối "tịch
cốc".
Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở
nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này
ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ
Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển. Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng,
trở về viết truyện "Thề non nước". Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh
tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà
thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục.
Năm 1925,
phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ
chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều
báo.
Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên),
nhưng bị quan lại địa phương gây khó dễ, phải xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội.
Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học
tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn.
Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông),
tham gia dịch thuật, viết báo. Sau vì bị viên quan Tổng đốc Hà Đông thù ghét,
phải chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả
xem lý số Hà lạc. Ông sống nghèo đói, không đủ ăn và trả tiền nhà, bị chủ nhà tịch
thu đồ đạc và đuổi đi, Tản Đà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu mới.
Trong hai
năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng trên báo Ngày nay, trong đó có bài
Hoàng Hạc lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu.
Ông qua đời vì bệnh vào ngày 17 tháng 6
năm 1939.
Văn:
- Giấc mộng con I (1917)
- Giấc mộng con II (1932)
- Giấc mộng
lớn (1932)
- Thề non nước (1922)
- Tản Đà văn tập (1932)
Thơ:
- Khối tình con
I (1916)
- Khối tình con II (1916)
- Tản Đà xuân sắc (1918)
- Khối tình con III
(1932)
Kịch:
- Tây Thi (1922)
- Tống biệt (1922)
Dịch thuật:
- Liêu Trai chí dị
(1934)
Nghiên cứu:
- Vương Thúy Kiều chú giải (1938)
- Một số bài báo...
Cảm
thu, tiễn thu
Tháng chín năm Canh Thân - 1920 (Trích)
Từ vào thu đến nay:
Gió
thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn
hót ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc
hoa.
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương. Nào người cố lý
tha hương, Cảm thu ai có tư lường, hỡi ai!Gió thu Trận gió thu phong
rụng lá vàng, Lá rơi hàng xóm lá bay sang. Vàng bay mấy lá năm già nửa, Hờ hững
ai xui thiếp phụ chàng. Trận gió thu phong rụng lá hồng, Lá bay tường bắc lá
sang đông. Hồng bay mấy lá năm hồ hết Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không. Thu
khuê hành (Thu khuê oán làm theo điệu hành) Gió thu lạnh lẽo mây trời quang Sân
thu đêm khuya rơi lá vàng, Trăng tà chim lặng, nhạn kêu sương Gối chiếc chăn đơn thiếp nhớ chàng. Chàng đi xa cách nhớ quê hương Quê hương đất khách người một
phương Mong chàng chẳng thấy lòng ngùi thương. Buồng không canh vắng bóng in tường Chỉ chỉ tơ tơ rối vẩn vương Nước mắt đầm đìa trôi quanh giường. Tháng cũ đã qua
tháng mới sang Tháng sau tuần nữa những tư lường Ngày tháng đi chóng năm canh
trường Lác đác sao tàn, lấp lánh gương. Trên trời Chức Nữ cùng Ngưu Lang Một dải
sông Ngân lệ mấy hàng.
T. T. Kh
T. T. Kh. là tên tắt của một nữ sĩ xuất hiện trên Tiểu
Thuyết Thứ Bảy xuất bản tại Hà Nội vào khoảng tháng 9 năm 1937, sau bài Hoa
ti-gôn chuyện ngắn của ký giả Thanh Châu.
Nữ sĩ gởi đến cho nhà báo trên một
bài thơ nhan đề là Bài thơ thứ nhất, kế một bài nữa là bài Hai sắc hoa tigôn. Cả
hai, đều ký bút hiệu là T. T. Kh.
Lời thơ rất nhẹ nhàng, rất lâm ly cảm động,
khiến có người đã không ngần ngại phê bình cho là những thi phẩm kiệt tác. Và
cũng vì T. T. Kh. là ai, không có nhà thơ văn nào biết được, nên có người đã tự
nhận là người yêu của mình, nhất là tác giả chuyện ngắn Hoa ti gôn.
Thế rồi, từ đó trở đi, người ta không còn được đọc bài nào của T. T. Kh. Nữ sĩ chỉ có hai
bài đã đăng trên báo, nhưng hai bài ấy cũng như tên tác giả, mỗi lần nhắc đến
không mấy ai không biết.
Nhưng thật T. T. Kh. chẳng phải là người yêu của ông
nào trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Nữ sĩ chính là Trần Thị Khánh, một nữ sinh nhà ở
phố Sinh Từ, Hà Nội, có tâm hồn thơ lắm. Nữ sĩ có yêu một thanh niên, hai người đã cùng đi lại, hứa sẽ thành hôn, nhưng nửa chừng vì sự ép buộc của gia đình, nữ
sĩ đành phải hát khúc chia ly, về làm vợ một người khác tên Nghiêm, làm công
cho một hãng buôn nọ.
Nữ sĩ không phải chỉ có hai bài ấy thôi mà còn hai bài nữa
là Bài thơ đan áo và Bài thơ cuối cùng, với một bài của người yêu trả lời chưa
hề công bố mà tôi sẽ trích dưới đây.
Một điều nữa, chúng ta cũng nên biết là
sau khi đem hết tâm hồn và nước mắt trút cả vào mấy bài ấy để khóc mối tình
ngang trái kia, T. T. Kh. không còn trở lại thi đàn nữa, và nay cũng như người đã thuộc về dĩ vãng.
Phạm Thanh (Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại - Quyển Thượng,
1932-1941)
Hồi septembre 1937, Tiểu Thuyết Thứ Bảy đăng một chuyện ngắn
của ông Thanh Châu: Hoa ti-gôn. Ít ngày sau tòa báo nhận được một bài thơ nhan đề Bài thơ thứ nhất, rồi lại nhận được bài nữa: Hai sắc hoa ti-gôn. Hai bài đều
ký T. T. Kh. và đều một nét chữ run run. Từ đấy tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bảy
không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T. T. Kh. ở đâu.
Nhưng sau khi
hai bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao. Có đến mấy người nhất quyết
T. T. Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt.
Có kẻ không ngần ngại cho hai bài ấy là những áng thơ kiệt tác.
Nói thế đã đành quá lời, nhưng trong hai bài ấy cũng có những câu thơ xứng với vẻ lâm ly của
câu chuyện. Cô bé T. T. Kh. yêu.
Người yêu của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á. Cô kể: những buổi chiều thu, đứng dưới dàn hoa
ti-gôn, Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui;
Bảo rằng:
"Hoa giống như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"
Cô bé ngây thơ
không tin. Ai ngờ lời nói văn hoa kia bỗng thành sự thực. Chàng đi...
Ở lại
vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió lạnh lúc tàn canh,
Yêu trăng lạnh lẽo rơi
trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng
tôi nữa, lúc đi theo
Những tà áo đỏ sang nhà khác!
- Gió hỡi, làm sao lạnh rất
nhiều?
Ngày ấy buồn nhất trong đời nàng:
Người xa xăm quá - Tôi buồn lắm
Trong
một ngày vui pháo nhuộm đường.
Từ đó mùa thu qua, rồi mùa thu qua, nàng vẫn
luôn luôn tưởng nhớ, nhưng tin buồn chàng nào có hay; cho nên nàng tự hỏi:
Nếu
biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Một nỗi đau đớn trần
truồng, không ẩn sau liễu Chương Đài như nỗi đau đớn của nàng Kiều ngày trước (4).
Cho đến hôm nay, xem chuyện, tình cờ lại thấy cánh hoa xưa. Nàng không sao cầm
lòng được:
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ, khóc chút duyên!
Bốn
năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết "con
người vườn Thanh" bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng
ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?
Hoài Thanh - Hoài Chân (Thi Nhân Việt
Nam, 1941)
T.T.Kh là ai?
T.T.Kh. với những câu thơ xót xa cảm động:
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Và từng thu chết, từng
thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người...
Vậy T.T.Kh. là ai? Nam hay nữ?
Bút danh này chỉ thấy ghi ở ba bài thơ đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy và một
bài trên báo Phụ nữ, rồi thôi, không thấy xuất hiện nữa.
Ông Hoài Thanh, năm
1941, có soạn cuốn Thi nhân Việt Nam cũng trích dẫn T.T.Kh. với lời ghi chú:
"Sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao, đến mấy người nhất
quyết T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt.
Có kẻ không ngần ngại cho những bài thơ ấy là những áng thơ kiệt tác...".
Hôm nay xin công bố với bạn đọc, một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh.
Người kể còn sống, mà T.T.Kh. cách đây bốn năm vẫn còn gặp. Chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc là văn học sử sau này.
Chú thích:
(4) Truyện Thúy Kiều: Khi xưa hỏi liễu Chương Đài, Cành
xuân đã bẻ cho người chuyên tay!
Số
là vào dịp hội đền Bà Tấm năm nay (Kỷ Tỵ, 1989), chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy
dự hội. Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp thơ trước Cách mạng tháng Tám,
năm nay đã 74 tuổi (tên thật là Phạm Quang Hòa), bạn thân với các nhà thơ Thâm
Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. Chính bài Tống biệt hành Thâm Tâm viết tặng
Phạm Quang Hòa khi đi hoạt động cách mạng. Nguyễn Bính cũng có bài thơ tặng Phạm
Quang Hòa mở đầu bằng hai câu:
Tôi và anh: Bính và Hòa
Ở đây xa chị, xa nhà, xa
em...
Và đây kết thúc bằng hai câu:
Đây là giọt lệ phân ly
Ngày mai tôi ở, anh đi, bao giờ...?
Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu, và tất nhiên ông
sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về họ tên tác giả Hai sắc hoa ti-gôn được công bố
dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Tú Sót.
T.T.Kh. tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau,
nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình
của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của
Thanh Châu (số tháng 9-1937) xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ
Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy.
Bài thơ in ra gây xôn xao
trong làng văn chương như ông Hoài Thanh ghi nhận. Tiếp đó để giải thích lý do
viết bài Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.Kh. gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với
tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết tặng riêng Thâm Tâm bài thơ đan áo.
Lại
càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận là người
yêu của mình, trong số này có nhà thơ Nguyễn Bính. Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với
tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ đan áo để minh
chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có
sự đồng ý của T.T.Kh.
Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề Bài
thơ cuối cùng gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương,
và cũng từ đấy T.T.Kh. "tắt lịm" trên thi đàn.
Sau này, Thâm Tâm có
viết một bài thơ dài để trả lời T.T.Kh. bài Các anh, (tập thơ mới của Thâm Tâm,
nhà xuất bản Văn học 1987, có in bài Các anh nhưng dây chỉ mới trích một phần).
Lời bàn: Có người viết hàng trăm bài thơ, in hơn chục tập thơ, mà không gây được
mộ vang hưởng nào trong nghệ thuật thơ. T.T.Kh. viết bốn bài, có bài đã gây được
vang hưởng.
Thơ hay đâu cần nhiều.
Phê-lích ác-ve (Félix Arvers, 1806-1850) chỉ
nhờ bài Tình tuyệt vọng mà tên tuổi được ghi trong văn học sử Pháp. Mới hay
trong "lãnh địa" nghệ thuật, số lượng chỉ là cái không đáng kể.
T.T.Kh. cần phải được xem xét và đáng giá như một tác giả của dòng thơ lãng mạn
trước Cách mạng tháng Tám. Điều đó không có gì là quá đáng.
Được biết T.T.Kh. về
sống ở Thanh Hóa đã bốn năm nay, không biết bây giờ bà còn hay mất, nhưng cứ
xin phép cho chúng tôi được công bố điều bí mật trên vì nghĩ rằng:
Thời gian đi đã dài, nhà thơ Thâm Tâm đã mất, ông nhà cũng quy tiên. Vả lại, cũng vì công việc
của văn sử học, nếu đã tìm ra tác giả của một tác phẩm nổi tiếng thì dù đắn đo đến đâu rồi cũng phải công bố.
Hoàng Tiến (Nhân dân Chủ nhật số 23 tháng
7-1989)
Hai sắc hoa Ti-gôn và các bài thơ khác
Vào khoảng 6/1937,
báo "Tiểu thuyết thứ bảy" xuất bản tại Hà Nội đăng truyện ngắn Hoa Ti
Gôn của ký giả Thanh Châu. Theo đó câu chuyện kể lại một mối tình giữa một
chàng nghệ sĩ và một thiếu nữ. Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được của một người thiếu
phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thùy mị, nét mặt u buồn, mang đến một bì thơ dán kín
gửi cho chủ bút, trong đó chỉ gọn một bài thơ Hai sắc hoa ty-gôn, dưới ký tên
T.T.Kh. Khi thiếu phụ đi rồi, tòa soạn xem thơ nhận thấy thi phẩm ghi lại cảnh
tình đáng thương tâm, nhưng người ta chỉ nhớ lờ mờ hình ảnh thiếu phụ kia. Đó là
lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ này xuất hiện.
Câu chuyện "Hoa
ti-gôn" đã khơi lại mối tình xưa mà người thiếu phụ (T.T.Kh.) đã từng yêu
một người và từng trao lời gắn bó dưới dàn hoa ti-gôn. Rồi chàng ra đi; nàng ở
lại và nhận một mối tình gượng ép. Nàng đã làm bài thơ để giải tỏa niềm tâm sự.
Trong "Hai sắc hoa ti-gôn", tác giả thuật lại câu chuyện tình giữa
nàng và chàng nghệ sĩ trót đã yêu nhau, song hoàn cảnh trái ngang, nàng phải gạt
nước mắt nên duyên cùng người khác - một ông chồng luống tuổi - để rồi tan nát
tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của một thời quá khứ.
Sau bài thơ này,
tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bảy lại nhận được bằng đường bưu cục 3 tác phẩm khác
cũng mang tên T.T.Kh. Đó là các bài Bài thơ thứ nhất, Bài thơ đan áo (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và Bài thơ cuối cùng.
Từ đó về sau, người ta không còn
gặp thơ của T.T.Kh nữa và không hiểu tại sao bài "Hai sắc hoa ti-gôn"
lại xuất hiện trước "Bài thơ thứ nhất".
Từ lúc T.T. Kh góp mặt vào
làng thi ca tiền chiến, người ta đã tốn biết bao công phu đi tìm hiểu về
T.T.Kh... Không ai biết được tên thật cũng như quê quán của nàng. Có người cho
nàng là Trần Thị Khánh, một nữ sinh phố Sinh Từ, Hà Nội. Có kẻ cho cô là người
yêu của thi sĩ Thâm Tâm, hay đây chỉ là một nhân vật trong tưởng tượng của ông
nhằm lâm ly hóa hay thi vị hóa một mối tình tưởng tượng. Rồi, ký giả Thanh
Châu, các thi sĩ Nguyễn Bính và J. Leiba cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của
mình! Kể từ đó, dù cho các nhà văn tốn không biết bao giấy mực nhưng họ vẫn
không biết gì hơn về nàng.
Về hoa ti-gôn (antigone in French): loại hoa dây đẹp,
không thơm, có hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu trắng và hồng; ở miền Nam Việt Nam gọi
là hoa nho vì lá giống lá nho. Tác giả mượn ý màu trắng là màu trinh bạch, ngây
thơ khi nàng còn nhỏ dại, và hồng là màu mà nàng phải trải qua những sự đau khổ
trong tình trường khi con tim nàng tan vỡ...
Như ta đã thấy "Bài thơ cuối
cùng", xuất hiện vào giữa năm 1938, trong đó T.T.Kh. giận trách người tình
cũ đã đem thơ của nàng lên mặt báo làm lộ chuyện thầm kín "cho khắp người đời thóc mách xem", thì không còn thấy xuất hiện bài thơ nào khác của nàng
nữa.
Mãi tới 2 năm sau, vào giữa 1940, mới thấy xuất hiện bài thơ Gửi T.T.Kh với
bút hiệu Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình,1917-1948), có lẽ là ông ở xa vừa mới về.
Ông tự nhận là người tình cũ của T.T.Kh, gọi nàng bằng tên "Khánh" và
nhắc tên này tổng cộng 4 lần. Bài thơ này là để trả lời cho 4 bài thơ của nàng,
nhưng với giọng điệu cay đắng, mỉa mai!
Ngoài ra Thâm Tâm còn 2 bài thơ khác viết
cho T.T.Kh như sau: Màu Máu Ty-gôn, Dang Dở.
Đây là những bài thơ tình hay nhất
của Thâm Tâm gởi cho T.T.Kh xuất hiện trong năm 1940. Bài thơ "Dang dở"
trên đã chấm dứt "mối tình bí mật" đó. Nhưng...
Sau đó, người ta lại được "biết chút ít" về T.T.Kh. qua bài thơ Dòng dư lệ của Nguyễn
Bính. Lúc bấy giờ ai chẳng nghĩ T.T.Kh chính là người tình vườn Thanh của Nguyễn
Bính. Nhưng đó chỉ là sự ngộ nhận của một kẻ si thơ T.T.Kh mà thôi.
Thi sĩ Nguyễn
Bính lúc còn trẻ có máu giang hồ, vào Nam ra Bắc mấy lần. Một lần dong ruổi, gặp đêm mưa lớn, ông ghé vào trọ tại một nhà ở vùng Thanh Hóa, được người lão bộc
tiếp đãi. Nhà có khu vườn đẹp, trong nhà có cô gái trẻ ngồi quay tơ - mà ông
gọi là "Người Vườn Thanh" - đã khiến ông rung động, thao thức bâng
quơ, nhưng nghĩ mình còn nặng kiếp giang hồ nên chưa dám tính đến chuyện tình
duyên.
Rồi mấy năm sau, ông lại có dịp qua vùng Thanh Hóa, bèn tìm đến chốn cũ,
thì được người lão bộc năm xưa kể cho nghe "một thiên hận tình". Thời
gian lại qua đi, ông gần như đã quên câu chuyện đó, thì đọc được những bài thơ
của T.T.Kh xuất hiện trên báo. Ông thấy những bài thơ đó giống hệt thiên hận
tình của "Người Vườn Thanh" năm nào, ông nghĩ rằng "Người Vườn
Thanh" chính là T.T.Kh., và viết bài thơ "Dòng dư lệ" để tặng
nàng.
Mặc dầu xôn xao bàn tán và tranh dành lấy mình và lấy thơ của mình.
T.T.KH đã biến mất. Cho đến mùa xuân năm 1938 ngày 30 tháng 10 thì trên tiểu
thuyết thứ bảy laị xuất hiện T.T.KH với Bài thơ cuối cùng. Đó là ba bài thơ mà
T.T.KH đã để lại trong lòng tất cả người yêu thơ của bà. Cho đến thập kỷ 80, vẫn
có người nói rằng bà còn sống và đã gặp bà, nhưng dù sao đó cũng chỉ là một lời
nói mà thôi.
Vậy T.T.KH nàng là ai??? và vì ai mà làm thơ??? Cái nghi vấn đã
kéo dài hơn 50 năm cho đến năm 1994. Bà Đ.T.L (tạm dấu tên) đã tiết lộ cái mà
thiên hạ cho là "Thiên cơ bất khả tiết lộ" cho nhà văn Thế Nhật, và đó cũng là cái chìa khóa để mở cái cửa nghi vấn cho làng văn học Việt Nam.
T.T.KH là gì?
T chữ thứ nhất là TRẦN
T chữ thứ hai là THANH
KH chữ thứ ba là
KHÓC
KHÓC ở đây là khóc cho mối tình có duyên không nợ, khóc cho cái éo le cuộc đời. Tạo hóa chớ trêu kiến cho họ gặp nhau rồi đem cho họ bao nhiêu là nước mắt
ngậm ngùi khi xa nhau.
THANH là Thanh Tâm. là tác giả của bài "Hoa Ti-gôn" mà tôi đã nhắc ở trên. Ông hiện cư ngụ tại Hà Nội, là
người đã tạo cho T.T.KH những cảm xúc để viết lên những giận hờn, thương xót,
và khóc thương. Người đã mang nặng chữ chung, thủy với chữ tình, đã gắn bó với
thơ T.T.KH, với cái hồn của nàng suốt hơn 50 năm trời đằng đẵng. Một người mà
hôm nay thân đã tàn sức đã tận, nhưng tâm hồn vẫn lâng lâng cái trẻ trung, cái
nhớ thương ray rứt về cố nhân. Một người có tâm hồn cao thương và sắc đá, trước
những thử thách trớ trêu của tạo hóa, nhưng lại mềm mại, đắng cay trong từng
ngòi bút ông buông lơi. TRẦN là Trần Thị Chung, (tên thường gọi là Trần Thị Vân
Chung). Sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919 tại thị xã Thanh Hóa, Hà Nội. Sinh trưởng
trong một gia đình quan lại thời bấy giờ, Vân Chung có một người anh cả, hai
người em gái và một người em trai út. Năm 1934, qua mối mai, gia đình nàng đã hứa
gả nàng cho một luật sư (Lê Ngọc Chấn, ông đã chết sau khi mãn tù cải tạo học tập).
Hiện nay bà cùng các con sinh sống ở miền Nam nước Pháp trong một thị xã nhỏ và
bà vẫn tiếp tục làm thơ, viết văn với nhiều bút hiệu khác khau như Vân Nương,
Tơ Sương v.v...
Tôi xin gửi đến bà Vân Chung lời cảm khích vô cùng về những cống
hiến của bà cho nền văn học Việt Nam, cảm ơn nhà văn Thế Nhật, bà Đ.T.L cùng những
người yêu T.T.KH. Rốt cuộc cái nghi án văn học nay đã được công bố.
Không biết
tác giả viết bài này...
Hai sắc hoa ti-gôn Một mùa thu trước mỗi hoàng
hôn Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc Tôi
chờ người ấy với yêu thương Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng Dải đường
xa vút bóng chiều phong, Và phương trời thẳm mờ sương cát, Tay vít dây hoa
trắng lạnh lòng. Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, Thở dài trong lúc thấy
tôi vui. Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ, Anh sợ tình ta cũng thế thôi. Thuở đó nào tôi có hiểu gì, Cánh hoa tan tác của sinh ly, Cho nên cười đáp: mầu
hoa trắng Là chút lòng trong chẳng biết suy. Đâu biết lần đi một lỡ làng Dưới trời đau khổ chết yêu đương. Người xa xăm quá, tôi buồn lắm Trong một
ngày vui, pháo nhuộm đường. Từ đấy thu rồi thu lại thu, Lòng tôi còn giá đến
bao gi ờ. Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ "Người ấy" cho nên vẫn
hững hờ. Tôi vẫn đi bên cạnh cu ộc đời, Ái ân lạt lẽo của chồng tôi, Mà
từng thu chết, từng thu chết, Vẫn giấu trong tâm bóng một người. Buồn
quá hôm nay xem tiểu thuyếtThấy ai cũng ví cánh hoa xưa Nhung hồng tựa
trái tim tan vỡ Và đỏ như màu máu thắm phai Tôi nhớ lời người đã bảo tôi, Một mùa thu cũ rất xa xôi. Đến nay tôi hiểu thì tôi đã Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi! Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ, Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều
thu... Gió về lạnh lẽo chân mây vắng, Người ấy ngang sông đứng ngóng đò. Nếu
biết rằng tôi đã có chồng, Trời ơi, người ấy có buồn không? Có thầm nghĩ
tới loài hoa vỡ, Tựa trái tim phai, tựa máu hồng.
Xuân Diệu
Tên thật là Ngô Xuân
Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại Tuy Phước, tỉnh Bình Định cũ, nơi cha là
Ngô Xuân Thọ vào dạy học và kết duyên với mẹ là Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu sau
ra Hà Nội học, 1938-1940 ông và Huy Cận ở gác 40 Hàng Than. Ông tốt nghiệp kỹ
sư canh nông năm 1943. Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 1985.
Xuân Diệu viết nhiều,
có khoảng 450 bài thơ. Một số lớn chưa được xuất bản. Tác phẩm tiêu biểu: các tập
thơ Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn quốc kỳ (1945), Một khối hồng
(1964), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983); truyện ngắn Phấn thông
vàng (1939); và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
Xuân Diệu là một
trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông mang ngọn gió rạo
rực, thiết tha, nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. Thơ Xuân Diệu
là "vườn mơn trớn", ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và
hương vị trong Thơ thơ, pha lẫn chút vị đắng cay trong Gửi hương cho gió. Nhiều
câu nhiều bài chịu ảnh hưởng từ thi ca lãng mạng Pháp.
Ngay từ buổi đầu bước
chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một tôn chỉ: sống để
yêu và phụng sự cho Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống
say mê và bằng việc hăm hở làm thơ tình! Xuân Diệu ví mình như một con chim bay
hay hát: "Tôi réo rắt, chẳng qua Trời bắt vậy".
Trước kia Nguyễn Công
Trứ nói:
Trời ban ta, đất trở ta
Trời đất sinh ta, nguyên có ý.
Thì quả vậy.
Trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này để ca hát về tình yêu
- cái đề tài mà từ ngàn xưa người Việt Nam chúng ta đã say mê, giống như nhà sư
nọ mê một cô nàng đội gạo:
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư chọc đầu
Vì Xuân Diệu sống hết mình cho tình yêu cộng với tài thơ thiên phú, lại gặp buổi
"Gió Âu mưa Mỹ", những khát vọng yêu đương của trai gái được tháo cũi
sổ lồng, cho nên trong thơ tình của Xuân Diệu có tiếng máu dồn mạnh trong huyết
quản, có dòng nhựa sống tràn trề mãnh liệt của cả thế hệ đang vươn dậy.
Có những
vần thơ được viết ra cách đây hơn nửa thế kỷ mà đến nay vẫn còn khiến chúng ta
bàng hoàng vì sự mới mẻ và táo bạo của nó: Với trăm ma, tôi hẹn những mười nguyền
Những Tây Thi, Lộng Ngọc, những điêu Thuyền...
Hồn đông thế, tôi sợ gì cô độc?
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau...
Cái "nhân bản yêu đương" trong
thơ tình Xuân Diệu thật là nồng cháy và bền bỉ cho đến tận lúc nhà thơ của
chúng ta nhắm mắt xuôi tay! Nửa thể kỷ thơ tình Xuân Diệu là một quá trình
khám phá không ngừng vào cái thế giới kỳ diệu của tình yêu.
Phát hiện đắt nhất
của Xuân Diệu chính là sự khẳng định rằng: cây tình yêu giữa cuộc đời thực, sẽ
mãi mãi xanh tươi, còn những thứ "tình" được nặn ra từ lý trí khô cứng
hoặc từ mộng mị sẽ tàn lụi, xám xịt!
Và quả là như vậy. Xuân Diệu không còn nữa
nhưng cây tình yêu trên mảnh đất này có hư hao đi chút nào màu xanh muôn thuở?
Trong khi nhà thơ, ở một cõi khác, có thể đang ôm ấp những hồn ma xinh đẹp nào đó, thì ở trên thế giới này, những chàng trai, những cô gái, những cặp tình
nhân, những cặp vợ chồng vẫn đang sống, đang cảm xúc, và hưởng thụ tình yêu sống động và bất tuyệt!.
Chiều đầu thu Chiều đầu thu ôi hương hoàng lan Ngạt ngào
nhào trộn cả không gian Mới còn nắng gắt hôm qua thế Mà bỗng trên trời mây nhẹ
tan... Chưa tàn cuối hạ đã sang thu Ngây ngất hôm nay một ánh mờ... Mai hẳn lại
về trong nắng hạ Ô hay bàng bạc thực cùng mơ... Chỉ biết di lăng hoa đã thơm Cánh vàng hương lại chín vàng hơn Cây cao lá thẫm đung đưa nhánh Nhịp điệu mùa
thu ngàn vạn năm... Đây mùa thu tới Rặng liễu đìu hiu đứng chịu
tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng: Đây mùa thu tới - mùa thu tới Với áo
mơ phai dệt lá vàng. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rữa mầu
xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá... Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Thỉnh
thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ... Non xa khởi sự nhạt sương mờ... Đã nghe rét mướt
luồn trong gió... Đã vắng người sang những chuyến đò... Mây vẩn từng không chim
bay đi, Khí trời u uất hận chia ly. Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa
nhìn xa, nghĩ ngợi gì. Thu Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu. Nắng nhỏ bâng
khuâng chiều lỡ thì. Hư vô bóng khói trên đầu hạnh; Cành biếc run run chân ý
nhi. Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa. Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà. Buồn ở
sông xanh nghe đã lại, Mơ hồ trong một tiếng chim qua. Bên cửa ngừng kim thêu bức
gấm, Hây hây thục nữ mắt như thuyền. Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu, Sắc mạnh
huy hoàng áo trạng nguyên.Ý thu Tặng Nguyễn Lương Ngọc Những chút hồ buồn
trong lá rụng Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân. Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng; Chẳng hái mà hoa cũng hết dần. Dưới gốc, nào đâu thấy xác ve, Thế mà ve đã tắt
theo hè. Chắc rằng gió cũng đau thương chứ; Gió vỡ ngoài kia ai có nghe? Hôm
nay tôi đã chết theo người Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi; Với bóng hình xưa,
tăm tiếng cũ, Cách xa chôn hết nhớ thương rồi Yêu vui xây dựng bởi nguôi quên. Muốn bước trong đời, phải dậm trên Muôn tiếng kêu than thầm lẳng lặng. Nhưng
hoa có thể cứ lâu bền. Ờ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi? Đã xa, sao lại hứa yêu
hoài? Thực là dị quá - Mà tôi nữa! Sao nghĩ làm chi chuyện nhạt phai?
Tài liệu trong tập thơ này được thu thập từ các websites và những tập “Thi ca Việt Nam chọn lọc” (do Kiều Văn tuyển soạn, nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét