Trăng suông 2
Yvette đón Xuân ở bến xe Ngã Sáu Sài Gòn. Bữa nay nàng diện một
cái áo dài vải mousseline trắng nõn. Tà áo bay nhè nhẹ trong ánh nắng chiều.
Nàng có bao giờ bận áo dài đâu. Là dân học ở trường Tây, nên cô nàng hiếm khi mặc
áo dài bó sát người. Nàng sợ nhứt là ngày nóng nực, mồ hôi tuôn ướt, áo dài làm
rộ rõ những đường cong mềm mại của con gái. Chiều ý mình một lần nầy thôi nhé.
Mình hông mặc nữa đâu á! Ừ thì chiều một lần thôi mình. Cũng như mình chìu mình
ăn miếng fromage Camenbert hôi mùi thui thúi.
– Mình có bao giờ mò đến những tiệm chuyên bán đồ ăn Tây đâu.
Mặc dù Tây đã về xứ từ lúc Ngô Đình Diệm còn làm Thủ Tướng,
nhưng sót lại một số dân Sài Gòn vẫn sính Tây. Cho con đi học trường Tây, tên
Tây, khoái đồ ăn Tây, sà bông Tây, son phấn Tây… Hông hề biết rằng Tây xuống
giá rồi và văn hóa Mỹ đang tuôn vào Việt Nam nhanh chóng. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ
nằm chình ình ở đường Nguyễn Huệ, còn Trung Tâm Văn Hóa Pháp ở mãi cuối đường
Gia Long, gần nhà thương Grall.
Phùng Xuân dẫn chiếc Vélo Solex. Hai người đi chầm chậm ra đường
Võ Tánh, quẹo trái về tiệm phở 79 rồi tà tà đến đường Bùi Chu. Tiệm Radio Bốn bể,
bán radio và những phụ tùng sửa máy thu thanh. Bà cô ba Son của Xuân có ba người
con gái. Người thứ hai là chủ tiệm Radio Bốn Bể. Người thứ tư có nhà in ở đường
Nguyễn An Ninh. Bà cô ba vướng víu chuyện tình duyên trắc trở phải bỏ làng ra
đi từ lâu.
– Mình đi đâu bây giờ? Em có thích ăn kem hôn?
– Có. Nhưng mà mình hông muốn đến Mai Hương và những tiệm kem
ở đường Lê Lợi và Tự Do đâu. Ở đó ồn ào lắm.
– Vậy thì mình đến Phi Điệp đi. Nơi đó yên tĩnh hơn.
Hai người ngồi đợi. Xuân nhìn nàng. Yvette hơi thẹn, lấy tay
vuốt những sợi tóc mai vào ven tai. Có điều gì nhè nhẹ len lén đi vào tâm hồn.
Xuân nhận thấy một niềm hạnh phúc tràn đầy. Niềm hạnh phúc mà từ lâu Xuân hông
có được. Đối với những người tình đã đi qua- có sự khác biệt mà Xuân nhận biết
được. Khanh có nét hồn nhiên, mộc mạc dân dã. Sự tươi trẻ như thời hoang sơ của
Vân làm chàng mê muội. Bồng bột và bất cần của Loan gây cho Xuân biết bao nhớ
nhung. Yvette là sự hoài niệm sâu xa từ trong tiềm thức sống lại như thuở đầu
tiên.
Yvette từ từ múc từng muỗng kem dâu màu hồng đưa vào miệng. Vị
ngọt tươi mát đang lần lần thấm vào cổ họng đi xuống bao tử. Buổi trưa Sài Gòn,
nắng hun hút, đầy đom đóm, nhưng ngồi trong đây nàng cảm thấy bình yên. Hình
như có một chỗ dựa vững chắc nơi người tình đến từ nơi nào xa vời vợi của tuổi
lên tám, lên chín.
– Ghê chưa! Em như tiên nữ đang tắm nơi dòng suối.
– Anh làm em mắc cỡ gần chết. Em ghét mưa SàiGòn.
– Ai biểu em hôm nay mặc đồ trắng mỏng te làm chi. Trời mưa
tháng năm mà em. Coi kìa. Người em lồ lộ như một bức tượng. Rõ màu trong
ngọc trắng ngà (Kiều). Để anh lấy áo của anh choàng cho em.
– Đồ quỉ anh nè! Tại anh bắt em bận áo dài. Còn xúi em tới
Thiết Lập để may áo cho đẹp. Bây giờ anh lại chối!
– Áo dài làm đẹp người con gái Việt Nam mà em!
Trời đầu tháng sáu. Mưa nắng Sài Gòn đột ngột, lạ lùng. Người
đứng bên kia đường ướt như chuột lột. Người bên nây đường khô queo, nóng như đứng
trong giàn xấy dừa. Mưa tuôn cái rào, rồi lại ngưng. Nắng hừng hực trở lại. Cầu
vồng hiện lưng chừng bầu trời. Móng dài thì nắng. Móng vắn thì mưa. Hông hiểu
có phải như vậy hông. Nóng bưng lên đầu. Mặt đường tỏa hơi. Đủ thứ mùi vị xông
lên. Mùi ống cống, mùi đống rác hôi thúi, mùi người, mùi xăng xe, mùi sình lầy,
mùi thức ăn, mùi đờm phun ra phèn phẹt vung vãi khắp đường xá. Tất cả pha lẫn lộn
làm cho không khí sau cơn mưa lại thêm khó chịu.
Sài Gòn oi bức. Sài Gòn thân mến đang ngột ngạt, khó thở vì ảnh
hưởng phong trào đấu tranh của Phật Giáo miền Trung do Thích Trí Quang cầm đầu.
– Trời ơi! Trông ghê quá các thầy ơi.
– Cái gì mà ghê dữ vậy, thầy hiệu trưởng?
– Ngày hôm qua 11 tháng 06, lúc từ Tây Ninh về Sài Gòn, gần đến
ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, xe đò bị chận lại. Đợi lâu quá, tôi hỏi
anh lơ xe. Có chuyện gì vậy? Hổng biết nữa. Mấy ông sư, đông lắm, vừa đi vừa gõ
mõ tụng kinh theo sau một chiếc xe hơi. Mấy ổng bít ở chỗ đó rồi, làm sao chạy
được.
Mình nghĩ chắc có chuyện gì đây. Xuống xe. Đi bộ. Chen qua
đám người đến ngã tư. Một ông sư đang ngồi im, hông động đậy. Một số đông sư
đang tụng kinh gõ mõ vang trời. Cảnh sát chung quanh cũng án binh bất động,
hông phản ứng gì cả.
Bất thình lình, có một nhà sư xách một can xăng nhanh nhẹn tưới
lên ông sư đang ngồi im. Thôi chết rồi, họ đốt ông sư nầy chắc, tôi tự nghĩ. Mà
thật, ông sư rưới xăng vừa ra khỏi là lửa bùng lên.
– Thầy nói sai. Tôi vừa đọc báo sáng nay. Ông sư tự thiêu mà.
Ổng tên là Thích Quảng Đức.
– Sao mầy biết ổng tự thiêu hả Thiệu? Tao cũng đọc nhựt trình
như mầy. Mà tao hỏi thiệt mầy nhen. Nếu ổng tự thiêu, sao ổng hông tự đứng lên,
bưng lấy can xăng đổ vào người ổng, rồi ngồi xuống đàng hoàng tự châm lửa, đốt.
Đàng nầy ổng ngồi im như chết, đợi người khác rưới xăng lên mình. Tức là ổng
làm sao đó?
– Ổng làm sao đó là làm sao hả Xuân?
– Mầy có cách suy luận khác?
– Thôi, các thầy đừng tranh luận nữa. Đến giờ dạy học rồi.
Vì ngày 11 tháng 06 năm 1963 là ngày thứ ba. Phùng Xuân kẹt
những giờ dạy. Cuối tuần, Phùng Xuân hối hả về Sài Gòn. Có cái gì liên quan giữa
Mỹ-Việt Cộng-Phật Giáo trong mấy tháng nay? Họ tung hứng nhịp nhàng lắm. Ông Diệm
hông cho Mỹ đổ bộ vào Miền Nam? Phật Giáo muốn khuynh đảo chính trường, đưa họ
trở lại như thời Lê, Lý,Trần? Việt Cộng muốn tấn công miền Nam? Mình hông hiểu
nổi. Báo chí thì đăng tùm lum. Họ đang hùa theo PhậtGiáo. Mấy ông sư độ rày có
giá.
– Mình có biết tin nhà sư tự thiêu hông, Yvette?
– Có, mình. Đọc nhựt trình. Báo nói theo báo. Ra đi ô nhà nước
nói theo nhà nước. Hông biết đâu mà lần?
– Sao lạ vậy? Anh hông hiểu có chuyện gì? Đi dạy ở tỉnh lẻ,
cuộc sống buồn tẻ lắm. Chuyện xảy ra ở Sài Gòn gần như hông ảnh hưởng đến đời sống
thường ngày của họ.
– Chỉ có nghe một tin duy nhứt, mà hổng biết đúng hay là sai.
– Tin gì vậy em? Có là tin giật gân hông?
– Cũng gần như vậy. Chắc là tin ngoài lề. Bêu xấu nhau. Người
ta đồn, có một chú tiểu tên Chấn nào đó, trốn quân dịch. Nói anh ta là người ngồi
chờ, cầm móc sắt để vít trái tim của nhà sư Thích Quảng Đức ra ngoài cho khỏi bị
cháy thành tro.
– Có như vậy sao? Chắc là tin chó cán xe. Hổng có ai mà tin
được đâu, trong tình thế như vầy nè. Em cẩn thận khi nói tin nầy cho người khác
biết. Tình hình đất nước mình lúc rày sao nghe nó ngột ngạt quá. Ngoài Trung tự
thiêu, trong Nam biểu tình. Hình như có nhóm sinh viên cũng rục rịch xuống đường.
Mấy ông sư làm dữ quá. Mà thấy, ông Diệm có đem lính đàn áp đâu? Anh nghe đài Mặt
Trận Giải Phóng chửi ra rả, riết rồi cũng phát chán. Cuối tuần mình đi đâu cho
khuây khoả đi. Ở trong nầy hoài ngộp thở lắm.
– Mình đi về Chợ Đệm ăn cháo lòng đi mình. Qua khỏi quán Ba
Râu ở cầu Bình Điền là tới chớ gì!
– Hơi xa đó. Hay là mình đi chỗ nầy…
Hai đứa qua ngã tư Hàng Xanh rồi đến Cầu Sơn. Họ dẫn xe lên cầu
Kinh, đứng nhìn dòng nước đục ngầu. Cầu Sài Gòn còn mới tinh, nằm vắt ngang qua
con sông rộng. Phía trước là Bình Quới. Đạp xe len lỏi qua những hàng dừa mát
rượi, hai đứa tới bờ sông.
– Cùn đường rồi mình. Bên kia là đâu?
– Đây là bến đò. Bên đó là Thủ Đức.
– Mình chưa bao giờ tới chỗ nầy? Sao mình biết ở đây?
– Lúc anh còn học Trung Học. Nhà lúc đó nghèo lắm. Vừa mới từ
Bến Tre dọn lên. Đâu có nhiều tiền để đi coi xi nê. Anh phải đi kèm trẻ như bây
giờ. Thỉnh thoảng chủ nhựt nào cũng đạp xe cùng một vài người bạn về những vùng
ngọai ô để vui chơi. Anh hay tới đây, ngồi ở dưới gốc dừa, đọc các cuốn sách
bán dọc vĩa hè. Và những lúc sau nầy nữa, trước khi đi dạy, để đọc những cuốn
em cho mượn:Le nouveau classe của Milovan Djilas, La guerre et la Paix (Chiến
Tranh và Hòa Bình), Anna Karenine,… của Léon Tolstoi, Le Crime et Châtiment (Tội
ác và Hình Phạt),…của Dostoiesky, La mère (Người mẹ) của Maxime Gorky. Và cả cuốn
Graziella (của Lamartine) mơ mộng, hồn nhiên, trong trắng. Riêng cuốn La Porte
étroite (Cánh cửa hẹp) của André Gide đã dẫn anh tới: Retour de l’URSS(Trở về từ
Liên Bang Sô Viết) làm anh miên man nghĩ đến chế độ Cọng Sản. Vốn liếng tiếng
Pháp của anh đâu bằng em. Anh cũng hiểu lỏm bỏm thôi em à!
Thế nào em? Có cái gì trường tồn được với thời gian.
Trãi qua từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, ước mơ về một cuộc sống công bằng, tự
do vẫn là một lý tưởng tuyệt vời. Anh thấy bao giờ lý tưởng đó cũng xa vời vợi.
Niết Bàn đâu ở đâu xa, hơn ngàn năm vẫn mù mút mắt. Cõi đời sau an bình nơi nước
Chúa xa tít mù xa hơn cả nghìn năm nay. Đừng hy vọng tìm thấy Thiên Đàng ở cõi đời
sau mà hãy cố gắng tìm kiếm Thiên Đàng ở cõi đời nầy.
Phùng Xuân ngồi tựa lưng vào gốc dừa, ngó ra dòng sông rộng
đang chảy cuồn cuộn, nói miên man. Yvette nằm gác đầu lên hai bắp vế người
tình, trìu mến nhìn người yêu dấu. A! Lại có người trai trẻ mơ mộng…..
– Lần sau mình về lại Mỹ Tho đi nghen mình!
– Ờ, hén, mình. Rồi mình chắc chắn sẽ trở lại MỹTho.
– Sao lại chỉ có mình mình. Còn con mình nữa chứ mình?
Chàng thanh niên hông quay lại nhìn người tình. Xuân thầm nghĩ: Có được như vậy hôn?
Ngọc Tiền là một cây te trong làng bum của nhóm bạn bè đang học
Văn Khoa. Gia đình nào có mở tiệc nhảy đầm là có bóng dáng xừ- lũy. Người hơi
cao cao, hông bô trai lắm nhưng lũy nhảy cha cha cha, bì bộp, pasodoble… coi
thanh thoát. Khi còn học Đệ Nhị, Đệ Nhứt ở PéTrus Ký, lũy đâu có thời giờ nhiều
để mà nhảy đầm, còn phải lo gạo nữa chớ. Nếu hông, làm bùi-kiệm thì lúa. Ông bà
già nhằn cho sói trán. Sau khi đậu bằng TúTài hai, nó nhảy nhiếc tỏ ra hăng say
hơn. Vậy mà năm nào cũng vớ được một cái chứng chỉ. Hông hiểu năm nay ra sao. Mặc
kệ. Lũy cứ tiếp tục te cho đả. Ông bà già hăm nó. Năm nay rớt thì cúp tiền. Gặp
Xuân và Yvette trong tiệc nhỏ cũng có xập xình kèn trống.
– Ê mầy. Nghe tụi nó nói lúc rày mầy trở về Tây Ninh, dạy ở
trển phải hông mậy? Có được nhiều địa hông?
– Làm gì nhiều? Dạy ít giờ để có tiền học thêm vậy mà. Làm
nghề bán cháo phổi cũng hông chắc được lâu đâu? Tình hình lúc rày đang hồi rối
ren lắm. Biểu tình chống đối tùm lum. Ba bốn thế lực chực lăm le giành giựt.
Chiến tranh đang sắp mở màn. Hổng khéo tụi mình sẽ bị động viên hết. Mầy chắc
hông có thời giờ để nhảy nhót nữa đâu.
– Tao cũng nghe nói có nhóm sinh viên cũng rục rịch xuống đường.
Tụi nó trong nầy cũng bắt chước đám ngoài Trung. Ở ngoải, sinh viên làm dữ lắm.
Có Bác sĩ Lê Khắc Quyến và các giáo sư khác cầm đầu.
– Tình hình như thế nầy, hông hiểu sao chính quyền lại cách
chức Linh Mục Cao Văn Luận làm gì nữa. Có khác gì chế dầu vào lửa.
– Rồi lại cái ông sư Thích Trí Quang tuyệt thực ở chùa Xá Lợi
hôm 18-8-1963 nữa. Lửa sẽ bùng lên.
Lửa sẽ bùng lên. Không khí chánh trị Sài Gòn ngột ngạt. Những
cuộc biểu tình và tuyệt thực xảy ra liên tục. Chánh quyền bắt đầu ra tay bắt bớ
những người Cọng Sản nằm vùng xúi dục Phật Giáo. Một vài người bạn gái nhỏ
học Gia Long, qua cửa sổ phòng học ngó sang chùa Xá Lợi, xầm xì bàn tán về chuyện
cảnh sát ập vào chùa bắt đi những ông sư. Những cô cậu học sinh, sinh viên một
lần kinh sợ khi một trái lựu đạn quăng vào đầu cô sinh viên Trần thị Ngọc Loan
rồi sau đó mới phát nổ năm 1963. Cô bị điếc và bị mất chơn. Và chắc là cô hông
bao giờ dám bén mảng đến rạp hát Vĩnh Lợi nữa. Bọn khủng bố thường dân vô tội
sao hông liệng vào rạp Lê Lợi có chết nhiều hơn hôn? Nổ ở rạp Lê Lợi, nằm khuất
trong nầy-đường Lê Thánh Tôn- đâu có gây sợ sệt và kinh hoàng bằng ngoài rạp
Vĩnh Lợi ?
Ngày mùng một tháng mười một năm 1963 là ngày thứ sáu nhằm
vào lễ Toussaint (Các Thánh). Trước đó nửa tháng, ông Hiệu Trưởng trường Tiến Đức
đã quyết định tổ chức một buổi du ngoạn núi Bà Đen bằng xe đạp. Cho nên chiều
thứ năm Xuân hông về được Sài Gòn. Sáng sớm, khoảng độ năm mươi em học
sinh cùng các thầy ra đi lúc chợ chưa nhóm. Hơi nước còn lượn lờ trên mặt sông.
Họ đạp xe theo con đường đất đỏ dẫn lên núi Bà.
Khi còn học trường Lê văn Trung, khoảng năm 1953( ?), thầy
Vương Mạnh Tuấn đã cùng các bạn đạp xe vòng quanh núi Bà. Khởi đi từ
TâyNinh, đến Kédol, vòng qua phía sau núi, đến Phan, trở về ngã ba Suối Đá, đi
ngang qua TòaThánh, qua Trảng Dài, rồi trở về trường trong vòng một ngày. Cả bọn
mệt nhoài, nhưng mà vui vẻ. Các cô bạn gái coi ra cũng khoẻ hông thua gì bọn
con trai. Có lẽ nhờ các thầy Âu Quang Nhứt, thầy Thuần, thầy Lê Minh Đạo, thầy
Hồ Thái Bạch… nên các em học trò được một ngày học hỏi rất nhiều thứ…
Mặt trời vừa chớm khỏi đầu núi hơn sào. Cả nhóm đã đến mộ
Trình Minh Thế. Cho xe đạp lủi hết vào đám tranh, họ ngồi nghỉ, rồi ăn để chuẩn
bị leo núi. Trong lúc đó, thầy Hiệu Trưởng mở rađiô transitor lên nghe tin tức.
Hông có gì hết, ngoài loạt tiếng nói : « sáng nay, Hội Đồng
Quân Nhân đã đảo chánh, truất phế Tổng Thống ». Nhóm thầy giáo bàng hoàng.
Ngay lập tức thầy Thanh Tâm ra lịnh cho mọi người quay trở về. Họ im lặng. Hông
nói với nhau một lời. Cố đạp rút về TâyNinh.
Dân tình ở đây vẫn rộn rịp ồn ào như thể hổng có chuyện gì xảy
ra. Chiều hôm đó, hông còn xe đò về Sài Gòn. Mua báo thì tin tức cũ của ngày thứ
năm. Xuân lại một đêm mất ngủ, thao thức. Cạn hai ba bình trà rồi mà các thầy
giáo vẫn còn băn khoăn. Đứa nào đứa nấy cũng đưa ra những lý do lật đổ chế độ:
gia đình trị, đàn áp đảng phái, đảng Cần Lao tự tung tự tác, Phật Giáo khuynh đảo,
thế lực Mỹ muốn thay người, Việt Cọng phá rối ?… Rồi mai đây lại xảy ra
chiến tranh ? Tình hình sẽ rối ren ? Chắc sẽ có lệnh tổng động
viên ? Thầy Tô Trần Nguyễn và thầy Trần Đình Thuyên bàn cãi hăng say nhứt.
Bàn ra tán vào thì đã gần hai giờ sáng. Một đêm hông ngủ.
Cả bọn ra bến xe đò để đi chuyến sớm. Có lịnh giới nghiêm. Xe hông tới được Sài Gòn. Đi xe chuyền về Gò Dầu, về Trảng Bàng, về Củ Chi, rồi tìm cách vào Sài Gòn thì cũng đã gần chiều tối. Thủ đô sao im ắng, bình thản lạ lùng. Hết giới nghiêm… Người ta đi lại vẫn như thường. Hình như hông có chuyện kinh thiên động địa xảy ra. Giết chết một Tổng Thống. Giết chết một chế độ Cọng Hòa còn non trẻ. Hy vọng một chế độ mới tốt đẹp hơn nằm trong tay sai khiến của kẻ khác. Miền Bắc sẽ sung sướng, sẽ có ngày chiếm trọn được miền Nam, thực hiện giấc mơ thế giới Cộng Sản đại đồng?
PHẦN 2
Một Thời chinh chiến
Nguyễn Ngọc Tiền đột ngột nộp đơn vào trường Võ Bị Đà Lạt. Có
phải vì lũy sợ bị động viên đến nơi hay là nó thích nhà binh? Phùng Xuân tìm gặp
nó để hỏi về tình hình đảo chánh đã qua. Nó cũng ngớ ra, hông dè xảy ra mau như
vậy: nghĩa là họ giết Ông Tổng Thống một cách chớp nhoáng, hông thương tiếc, cạn
tàu ráo máng. Ông Diệm đã có ý muốn điều đình rồi mà. Những ý tưởng giành giựt
quyền lực, thanh toán lẫn nhau vẫn còn đầy dẫy trong một xã hội phong kiến Việt
Nam nhiều hận thù. Trần ThủĐộ chôn sống dòng dõi nhà Lý. Nhà Tây Sơn và nhà
Nguyễn giết nhau, đào mộ lẫn nhau… Cải Cách Ruộng Đất miền Bắc của Cọng Sản: chặt
đầu, chôn sống, giết oan uổng biết bao nhiêu mạng người… Cọng Sản thanh toán Quốc
Gia, máu đổ biết là bao nhiêu!
– Thì tao cũng khoái như Nguyễn Công Trứ chứ mậy! Phen nầy
lại vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, nợ tang bồng vay trả trả vay một
chút coi.
– Tao tưởng mầy tối ngày chỉ biết nhông nhông trên chiếc
Vespa, hết chạy từ nhà nầy đến nhà khác để có bum mà te cho đả.
– Bây giờ đã đến lúc chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp
bút nghiên theo viêc đao cung như trong Chinh Phụ Ngâm. Loạn ly đến nơi rồi
mầy !
– Sao mầy biết ?
– Những thằng đi bum bộ mầy tưởng tụi nó chỉ có biết nhảy
nhót hông sao ? Tụi nó cũng thông hiểu thời sự lắm. Bàn ra tán vào tối
ngày. Còn mầy, Xuân ?
– Còn tao? Chàng tuổi trẻ vốn dòng nghèo kiết( !), xếp
bút nghiên theo việc đao cung. Nhà tao lúc nầy cũng nghèo lắm. Sau chiến tranh,
hông còn gì cả. Tao nghĩ tao đi dạy bây giờ có lương ba cọc ba đồng để tiếp tục
học nữa, nhưng có bằng cấp rồi thì cũng làm nghề bán cháo phổi. Tao hông thích
gõ đầu trẻ. Như mầy nói: đất nước loạn ly đến rồi. Rốt cuộc cũng bị động viên
vào nhà binh ráo trọi.
– Thì nộp đơn vào Võ Bị như tao đi.
– Để tao đi rủ thằng Nguyễn Bá Lai. Nó đang học bên khoa
học nhưng lại ráng kiếm thêm MG nữa. Cái thằng sao ôm đồm quá. Hông hiểu
nó có chịu đi hôn hay là đợi bị động viên ?
Những thằng trai trẻ sống một thời thanh bình như Ngọc Tiền, Bá Lai, Phùng Xuân… hông biết rằng người chỉ huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt-Đại Tá Nguyễn Ngọc Huyến- đã bị phe đảo chánh bắt ép về phía họ, góp phần xóa đi một thời tươi đẹp của nền Cộng Hoà còn non trẻ ?
Cuộc sống Ngọc Tiền đã biến đổi hoàn toàn sau hai tháng đầu
tiên ở quân trường. Mái tóc bồng bềnh kiểu bụi đời đã hông còn. Thay vào đó là
cái đầu bị húi cao lên, giống như đầu cá lóc. Lần đầu tiên, thoạt nhìn vào kiếng,
nó hơi ngỡ ngàng, cúi đầu nghĩ ngợi. Nhưng có thời giờ đâu để nghĩ tiếp. Tiếng
còi lại thổi. Lại phải chạy. Tập hợp, chạy. Đi ăn, chạy. Đi học, chạy. Đi ngủ,
chạy… Chạy rút về phòng để còn kịp leo lên giường.
Mầy ngày đầu tiên, tự nhiên nó ôm đầu khóc oà như đứa trẻ. Khóc
một mình. Khóc cho đã. Nuốc tiếc một thời ăn chơi vui vẻ, nhớ bồ, nhớ
nhà ? Bị cán bộ tân khóa sinh bắt gặp. Chạy hết ba vòng sân. Năm chục cái
hít đất và một trăm cái nhảy sổm. Mệt phờ râu. Chỉ kịp bung đôi giầy, nó ngã ỳ
ra sàn nằm thở khò. Rồi lại khóc. Rồi lại bị bắt gặp. Tiếp tục ba vòng sân,
trăm cái hít đất, năm chục cái nhảy xổm. Đêm nào, anh em sắp sửa đi ngủ, cũng
nhìn thấy một mình nó lệt bệt vừa chạy vừa la: Tôi hông nhớ nhà nữa !
Kỷ luật nhà binh làm cho nó khó chịu: ăn ngồi thẳng lưng, bưng
chén cơm vuông góc, đi đứng tỏ ra mạnh bạo, hùng dũng, hô lớn tiếng… Rồi mọi việc
sẽ qua đi. Thằng Nguyễn Bá Lai nói. Phùng Xuân cũng nghĩ vậy. Đã trôi theo dòng
nước thì cứ trôi theo đi. Đôi lúc bị tắp vào bờ rồi lại cũng phải xuôi theo con
nước. Chừng mươi hôm hông thấy nó chạy nữa. Chắc nó tởn rồi. Mấy tháng sau, nó
tỏ ra cứng cỏi.
– Mầy có còn muốn te nữa hôn ?
– Còn mẹ gì nữa đâu mà te với tét! Bị dợt te tua thì
có !
– Mầy chịu cơm nhà binh rồi đó nghen, Tiền.
Quân trường như là một không gian khép kín. Mấy tháng đầu
tiên, bọn Xuân mù tịt về tình hình xảy ra bên ngoài. Trong môi trường sống mới,
Phùng Xuân đã mất dần tin tức của những người bạn ngày xưa. Xa Sài Gòn là hông
còn biết được gì hết. Bây giờ Sao Trên Rừng ra sao rồi? Đỗ Bá Chúc,
Thắng, Thuyên, Vương Mạnh Tuấn, Nguyễn Niên(Thiệu) có còn dạy ở trường Tiến Đức
nữa hôn? Nhóm học trò ngày xưa nay đâu rồi?…Còn gia đình? Còn mấy em sống ra
sao rồi ?
Chỉ có còn những lá thư từng tháng của Yvette đầy những lời
âu yếm, nhớ nhung dày dằng dặc. Nàng trách móc sao chàng vội vàng nộp đơn vô Võ
Bị mà hông cho nàng và gia đình biết. Yvette kể không khí sôi sục ở Sài Gòn. Việt
Cộng khủng bố tùm lum. Mìn nổ, lưu đạn quăng tưới hột sen vào đám dân lành. Miễn
sao gây được tiếng thì thôi. Phe phái tranh giành quyền lợi. Chỉnh lý rồi Hiến
Chương Vũng Tàu. Học sinh, sinh viên xuống đường. Tướng NguyễnKhánh, đã có một
lần thăm trường Võ Bị, phải túm nắm đất sống lưu vong.
Hông còn gì để nhớ. Chỉ có những người bạn mặc cùng màu áo,
cùng giống nhau ở đôi giầy MAP, cùng giống nhau ở cái nón, cùng giống nhau ở
cây súng trường Garant M1, tập hợp cùng một lúc, chạy đi ăn cùng một lúc, cùng
ăn giống như nhau ở đôi đũa, cái chén, ly uống nước và cả nước uống…
Nguyễn Tâm Hồng là thằng lý lắc, nghịch ngợm nhứt. Nó là dân
ET, Thiếu Sinh Quân mà ! Cuối tuần khám xét: đánh giầy sơ sơ, quần áo
nhét, đút lung tung. Nó cào cọ cho có nếp khi xếp mền gối và quần áo. Cây súng
trường hông bao giờ lau chùi được sạch sẽ. Vậy mà khi khám xét cuối tuần lại hổng
có gì hết. Cái thằng hên thiệt. Rồi nó cũng dung dăng dung dẻ ra phố.
Thằng nào lại hông tán dóc với mấy cô bán hàng trong chợ Hòa
Bình, ăn phở Bằng… rồi la cà ở cà phê Tùng, nghe nhạc… trong khói thuốc mờ mịt.
Thời gian đầu là lân la nơi các hàng bán đồ đạc ở chợ Hòa Bình cho đến chiều,
rồi theo xe ChiLăng về trường. Có thằng về sớm hơn. Hai ba giờ đã thấy lót tót
tới cổng rồi. Có nhiều thằng cũng trời ơi lắm. Tụi nó dò đâu ra địa chỉ của Bà
Chín Thái ở đường Trần Hưng Đạo, rồi rỉ tai nhau. Thằng Lai biết thì thằng Xuân
cũng biết. Ở Sàigòn lâu năm, chắc thằng Lai là thổ địa. Nó biết những khu ở đường
Lý Thái Tổ, khu bến xe Pétrus Ký…. Giờ đây ở Đà Lạt hông hiểu sao nó mò đâu ra
chỗ đó. Rồi lại quen các cô nữ sinh Bùi Thị Xuân….
– Đi với tao tới chỗ đó chơi !
– Hông. Mầy dẫn tao tới nhà các cô học ở Bùi Thị Xuân như
Trang, Ngọc, Lệ An…. thì tao tới. Đến các cô còn có trà nước, ăn kẹo. Ngắm
các người đẹp rồi tán dóc chuyện trời mây đất nước, có thú vị hơn hông. Còn hơn
mầy tới đó, vừa tốn sức vừa tốn tiền.
– Tới đó đỡ hơn. Mầy cà kê hoài với các cô đó, mai mốt mầy sẽ
làm rể Đà Lạt.
– Có gì đâu ? Chỉ nghe Trang, Ngọc ca nhạc của Đòan Chuẩn,
Lệ An ngâm thơ của Lệ Khánh. Mở rađiô lên nghe tiếng hát cao vút của Thanh Tuyền.
Rồi lâu lâu rủ các em đi bát phố Đà Lạt, ăn phở Bằng, uống cà phê Tùng.
– Tập thơ: Em là con gái trời bắt xấu của Lệ Khánh ?
– Chắc cô ta yêu một chàng trai Võ Bị nào đó. Tao hông
biết nữa.
Nói vậy chớ Xuân hông dám lui tới hoài với các cô Trưng Vương. Hình bóng Yvette vẫn lẽo đẽo trong cơn ngủ…
Tháng mười hai. Trời trở lạnh. Hoa Pensée mọc ngoài vườn chen chúc trong lá xanh những màu đỏ thẩm, tím than, vàng tươi. Hoa đào đỏ thắm nở rộ theo những đường thông thủy. Các cô gái Đà Lạt lại càng đẹp thêm trong những cánh áo lạnh đủ màu. Họ nói bằng giọng ‘Huế Đàlạt’ nhẹ nhàng như chim hót.
Đã cầm giấy phép trong tay, Xuân còn ngỡ ngàng. Tại sao có sự
lạ lùng nầy ? Xuân hông kịp hỏi Trung Úy Phạm Xuân Thất lý do, chỉ biết rằng
có người đang chờ ở ngoài Câu Lạc Bộ Nhữ Văn Hải. Xuân có linh tính biết chắc
người ấy là Yvette.
Mở cửa nhìn quanh. Đâu rồi ? Ở đâu rồi ? Kìa kìa.
Đúng là Yvette. Nàng ngồi ở góc bàn, khuất sau bóng cửa sổ. Như một thiên thần
trong chuyện thần tiên. Em đây rồi. Đứng lên mừng rỡ. Anh như ngộp thở. Dừng lại.
Chỉ muốn nhào tới ôm trọn em vào lòng, hun một cái thật lâu trên má, trên môi.
Vùi mũi vô những tơ đen mun để hít hít mùi tóc. Mùi bông cau. Bộ quân phục bắt
dừng lại. Anh hông muốn ở đây lâu đâu em. Anh hông hun em được. Mình ra taxi đi
em. Chắc em neo xe lâu rồi. Mình đi mau ra cửa. Tới xe tắc xi. Tóc vẫn còn thơm
ngọt bông cau nhà Ngoại.
– Đúng là dân nhà binh. Mình ôm siết em quá, hun em lâu quá
làm em ngộp thở. Em chết bây giờ.
– Thì cho chết đi, để nhớ mãi mãi. Khỏi phải tương tư từ lúc
em còn tí xíu, tám chín tuổi.
– Chết đi để nhớ mãi mãi à mình? Còn mai sau, lỡ em xa mình,
mình có bao giờ nhớ em hôn ?
Tình yêu đầu đời nuôi dưỡng cuộc sống. Đời người có thể tàn tạ,
già nua héo hắt nhưng mối tình đó vẫn sống mãi. Hãy ấp ủ nó để bao giờ cũng thấy
cuộc đời tươi đẹp hơn.
Chiếc xe tắc xi đi vào cửa sau của tòa nhà đồ sộ nằm trên ngọn
đồi cao thoai thoải. Mặt trước khách sạn Palace nhìn về núi Liang Biang, núi
Voi, trường Yersin và hồ Xuân Hương…
– Trời nhiều sao quá hả mình ?
– Nhiều sao lắm. Sao nào là sao của mình, còn sao nào là sao
của anh trong thiên hà tít xa xa ? Mình nhìn về bên trái đỉnh
LangBiang kìa. Chòm Bắc Đẩu đã dẫn đôi sao mình tới đó để mình có ngày gặp nhau
đêm nay.
Chiếc giường rộng rãi, sang trọng vẫn còn chật chội cho
hai người. Những cái hun rất lâu, rất lâu đến ngộp thở. Mắt nhìn tận mắt khờ dại.
Môi cắn môi rướm máu. Có phải hơn năm rồi anh hông hun em? Những cái hun trả bằng
những chữ yêu đương em viết cho anh và anh viết cho em. Hun đến rã rời, đờ đẫn,
nghẹt thở đến chết thôi.
– Hai ông bà già hình như hông đồng ý chuyện chúng mình. Ba
có vẻ im lặng, hổng có ý kiến.
– Còn mẹ thì sao ?
– Bả hông phản đối. Chỉ nói: Mầy lấy dân nhà binh, rủi nó ra
trận, súng bắn cái đùng. Nó trúng đạn. Nó chết ngắc. Lúc đó mầy thành đàn bà
góa sớm.
– Thời buổi chiến tranh. Đâu biết được ngày mai. Nếu nghĩ như
hai ông bà chắc chẳng có cô gái nào dám lấy chồng lính đâu em.
– Tình hình Sài Gòn hai năm nay hông yên, mình à !Việt Cộng
đánh bom tùm lum. (Ngày 16-2-64 nổ bom rạp hát Kinh Đô, ngày 25-8-64 ở
khách sạn Caravelle, ngày30-3-65 đánh bom Toà Đại Sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi, ngày
25-6-65 ở nhà hàng Mỹ Cảnh)
Tệ hại nhứt là ở nhà Hàng Mỹ Cảnh. Dân chúng chết phần đông
là những người hay đi hóng mát vào buổi chiều ở bờ sông.
– Mình nên ít lui tới những chỗ đó đi. Việt Cộng bây giờ bắt
đầu khủng bố ở SàiGòn để gây tiếng vang. Hồi thời 50, họ giết dân làng như giết
cóc nhái, có ai biết đâu. Em có sợ hôn ?
– Mình hả? Mình hổng sợ đâu.
Xuân đợi chờ một câu nói tiếp của Yvette. Im lặng.Im lặng.
Xuân nghe tiếng vải sột soạt.
– Mình làm gì vậy?
– Còn mình đây nè. Mình hông sợ thành góa phụ đâu mình ơi. Em
yêu mình. Em yêu mình!
Phùng Xuân xoay người, ôm trọn cả thân mình, da thịt mượt mà
ngào ngọt hương thơm mật ong rùi bay vút về cõi không gian vô tận, thanh thoát
có tiếng đàn dìu dặt. Hông có không gian bốn chiều. Thế giới bây giờ là của Từ
Thức và Giáng Hương. Xuân chưa muốn về trần gian. Thinh không lặng tờ. Tiếng nhạc
cõi tiên réo rắt suốt đêm trường đầy ánh sao mơ màng trong sông Ngân …
Chiếc taxi rời hồ Than Thở, đi về hướng ấp Thái Phiên rồi đến
đồi Bắc. Chàng thanh niên hông vội xuống xe. Xuân nâng bàn tay Yvette lên ngắm
hồi lâu, rồi nhìn vào đôi mắt nàng say đắm. Đôi mắt hột nhãn đen lay láy của
ngày xưa vẫn còn sâu thăm thẳm. Đôi mắt ngây thơ của quá khứ vút xa vời vợi.
Còn ngày mai đôi mắt nầy sao đây em? Vẫn in mãi hình bóng anh. Hay vụt bay về
tương lai, đâu rõi nhìn lại quá khứ? Và đôi mắt em, đôi mắt anh cùng tan biến
vào cõi hư vô. Có còn nhìn tận mắt như ngày hôm nay hôn?
Người thanh niên tràn đầy sinh lực ôm ghì mái tóc người yêu.
Phùng Xuân vùi mũi hun thiệt lâu, thật sâu vào mái tóc để còn giữ mãi hương vị
của những sợi tơ huyền óng ánh. Ôi! Mùi bông cau nhà ngoại! Yvette nấc lên từng
cơn. Nước mắt mặn nồng chan chát như màu máu rỉ ra trong đôi mắt đỏ hoe….
– Em thích mùi áo lính của mình.
– Sao vậy mình?
– Nó hòa lẫn mùi người con trai, làm thành một thứ mùi đặc biệt.
Em chết vì cái mùi nầy mình ơi!
– Còn anh sẽ chết vì mùi tóc em. Mùi bông cau lẫn mùi hương của
những sợi tơ mun ngay ngáy những ngày biếng gội.
Yvette lại nấc lên từng cơn. Hai dòng nước mắt nàng ướt đẫm
đôi má, chảy dài xuống áo Jaspé màu nâu sậm. Giọt nước mắt biến thành màu máu đỏ
tươi, tan trong thớ vải. Nước miếng môi hôn của mình bào bọt ruột gan anh đau
đáu từng cơn, mình ơi !
Chàng thanh niên thẫn thờ dõi theo chiếc taxi chở Yvette khuất
sau chân đồi Bắc. Xuân chưa đi vào cổng vội, tần ngần đứng một hồi lâu. Còn gì
đâu mà đứng mà nhìn mà mong. Chỉ thông xanh, xanh dày thăm thẳm ngăn cách đôi
ta.Yvette đâu rồi? Em đi về đâu? Xa anh mãi mãi, có phải hông. Hàng thông chia
rẽ chúng ta rồi!
Ai có từng ngồi trên đồi thông thật cao, thật cao ở vùng Đà Lạt?
Ai có nghe tiếng thông reo vi vu trong gió ngàn? Núi trời lồng lộng, chỉ có
mình thông. Thông nghêu ngao. Thông dang tay cùng sương gió. Thông thơm ngào ngạt
cùng mùi hoa lan .. trên tận đỉnh LangBiang, Lapé Sud, Lapé Nord, Dambé, núi
Voi, Ankroet… Thông nằm dài bạt ngàn. Thông ơi là thông. Thông có rụng hết lá
làm trơ cành hôn? Hông, hông. Thông có bao giờ rơi hết lá đâu. Thông vẫn xanh
mướt, mượt mà. Lá thông gối đầu ta khi nằm ngòai bãi học. Thông rủ rỉ bên
tai như người tình đêm dài của những buổi thực tập địa hình đầy sao
trời. Ngồi dưới gốc thông mà ngắm sao Bắc Đẩu, sao Ngưu Lang, sao Vua…. Ôi sao
Vệ Nữ sao mà giống Yvette nằm vắt ngủ yên lành trên cõi trời sao xa xăm.
Sao trời là niềm an ủi vô tận của những đêm gác đồi Bắc. Sao
giăng giăng như những đom đóm ở những xẻo rạch đầy lục bình. Sao băng như những
lá thông rơi. Lá thông đầy mủi nhọn như kim nhỏ chích chích vào trái tim lòng
nhung nhớ Yvette vô hạn.
Đêm di hành. Đoàn người mệt mỏi dù có tiếng trống thôi thúc
tiễn đưa. Sao mà cứ đi đi mãi trong đêm tối thế. Đâu có được ngắm trăng. Đâu có
được nhìn sao trời Đà Lạt trong vắt như thủy tinh. Thằng nầy cứ đùn thằng kia
mà đi miết vào cõi vô tận trong cơn buồn ngủ nằm nơi ruột gan. Làm sao mà nhìn
lên bầu trời để thấy sao giăng vằng vặc mà nhớ tới em đây, hở Yvette ?
Chàng Sinh Viên Sĩ Quan hông buồn theo Nguyễn Bá Lai bát phố
trong những ngày Chủ nhựt nữa. Xuân cùng Nguyễn Thanh Liêm vùi đầu vào thư viện.
Thư viện của quân trường cũng có khá nhiều đầu sách, nhưng phần
đông bằng tiếng Anh và Pháp. Thanh Liêm chăm chú đọc những quyễn binh thư Đức của
Clausewitz, Ludendorff… Gặp nó là nó toàn nói về chiến thuật và chiến lược của
các binh gia đó. Còn lại thêm Machiavelli nữa chớ. Xuân nghe mà nhức cái đầu.
Chàng hông màng chú ý đến những chuyện đó. Cắm đầu vào chữ nghĩa để quên ngày
tháng qua mau. Miệt mài dịch từng trang sách cho Đa Hiệu…
Mới đó mà đã tới ngày mãn khóa rồi. Ngày mà thằng Ngọc Tiền
nao nức. Để làm gì? Để nó thoát khỏi cảnh tù túng của quân trường? Hay để nó cầm
súng xông pha ngòai chiến trận cho thỏa chí làm trai?
Nó hí hửng ngâm nga:
Không ngủ thì cũng Sĩ Quan,
Ngủ hoài thì cũng đàng hoàng gắn lon.
– Mầy coi chừng tụi nó giũa mầy.
– Thì cũng có thằng ngủ gục trong lớp học như tao chớ bộ. Có
thằng nào khỏe ở ngòai bãi suốt ngày mà về lớp hông ngủ hôn?
Sau lễ mãn khóa, Xuân bồn chồn lo lắng, hông hiểu Yvette có
chuyện gì hông mà đến bây giờ Xuân hổng được chút tin tức gì của Yvette. Thư mời
Xuân đã gởi từ lâu và Yvette cũng trả lời là sẽ đến dự. Em ở đâu bây giờ? Em ở
đâu bây giờ? Biết hỏi ai? Sao em hông đến? Nhiều câu hỏi đó trong đầu chàng mấy
hôm nay. Còn thì giờ đâu mà tìm được câu trả lời. Chọn đơn vị để phục vụ. Lo sắp
sếp hành trang lên đường ra Dục Mỹ học khóa 23 Rừng Núi Sình Lầy trong sáu tuần
lễ. Đêm đêm Xuân nằm mơ nghe tiếng Yvette gọi mình ơi, anh ơi! Có chuyện
gì? Bây giờ em ở đâu?
Ngọc Tiền thích Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến…nhưng với thân
hình nhỏ con ai mà chọn. Rút cuộc, nó đành chọn Bộ Binh.Một đơn vị xa lơ xa lắc
ngòai miền Trung: Trung Đoàn 51 Biệt Lập.
– Sao hông về Sư Đoàn10 như tao mậy? Cho gần nhà.
– Tao hông thích. Đi xa cho thỏa chí tang bồng.
– Con khỉ. Mầy mơ các o Huế thì có. Rồi mấy em hồi thời bum biếc với mầy, mầy cho rớt đài hết rồi chắc?
Căn cứ Sình vào tuần cuối ở đèo Rọ Tượng là hắc ám nhứt, sau căn cứ Rừng nhàn hạ, tắm suối nước nóng.Và căn cứ Núi trèo đèo lội suối, ngắm nhìn hòn Vọng Phu.
Đường hải lộ từ Nam ra Bắc,
Khỏi Ba Ngòi sắp tới Qui Nhơn.
Gập ghềnh đồi núi chập chùng,
Xa xa trông thấy một hòn núi xanh
Ngay giữa đỉnh hình nhân lộ vẻ,
Tay ẳm bồng một trẻ hài nhi
Đó là hòn núi Vọng Phu….
(Bài tập đọc)
Bão ở căn cứ Sình. Bão rớt của miền Trung cuối tháng mười
hai. Mưa dai dẳng. Mưa thúi đất. Mưa tối mày tối mặt. Bầu trời lúc nào cũng xám
xịt. Giảng viên đứng dưới nước. Đám học viên cũng bị ngập mặn ngang bụng. Có
nghe gì đâu! Chỉ lo vuốt mặt. Đứng run cằm cặp. Gà men cơm khỏi cần chan canh.
Mặc đồ ướt, cuộn tròn poncho ngủ. Vậy mà cũng ráng kết thúc bài tấn công đảo
ban đêm. Hông có sao trời thì có sao biển. Làm gì nhớ được, mơ được Yvette ở
đây? Ánh lân tinh lấp lánh từng đợt, từng đợt theo chiếc dầm bơi trong nước
muối mặn đắng chát nơi cổ họng.
Xuân hông nhớ mình đã chạy đọan đường từ Ninh Hoà về Dục Mỹ như thế nào. Cơn nóng sốt miên man. Ăn hông được. Nằm li bì. Nguyễn Bá Lai dìu Xuân lên C-130 từ lúc nào? Và tiếng rù rù của động cơ máy bay vật chàng thanh niên ngã ịch xuống sàn…
Tháng mười một. Yvette nghĩ mình sắp gặp lại người tình trong
ngày lễ ra trường. Nàng mơ đến cảm giác êm ấm được người yêu ôm trong vòng tay,
đến nụ hôn ngây ngất. Yêu là gì mà sao nó hành hạ trong nhớ nhung dài vật vã. Ở
đâu cũng nhìn thấy hình bóng người tình, cũng nghe lời nói chàng rủ rỉ bên tai.
Trong giấc mơ màng, bao giờ cũng thấy người tình hiện ra, khẽ chạm vào đôi môi
và hun một cái thiệt lâu dài. Nàng im lặng, tận hưởng đê mê, vội choàng tay ôm
thật chặt. Nhưng hông, giựt mình, hông có chàng. Chỉ có đôi tay quờ quạo vào
đêm tối im lặng. Nàng buồn rã rượi. Phải chi mình ở đây cùng em, rong xe
cùng phố. Cùng ngồi với em trên chiếc xe Solex để em được vòng tay ôm
mình như ngày hôm nay.
Đến ngã ba Hồng Thập Tự, trong cơn mơ ao ước, Yvette hông
nhìn thấy chiếc Citroen màu xám thù lù một đống đang trờ tới. Nàng hông kịp phản
ứng. Hoảng loạn. Một tiếng ầm vang lên. Nàng cảm thấy đau nhức dữ dội và chỉ kịp
kêu lên một tiếng: Mình ơi. Tỉnh lặng. Nàng ngất đi.
Yvette mở mắt. Nàng mơ hồ thấy mình nằm trong căn phòng rộng.
Trên trần, quạt máy đang chạy chầm chậm .Một lúc sau, nàng nhìn rõ mọi vật
chung quanh. Nàng đang nằm trên giường phủ toàn đầy vải trắng. Có chuyện gì?
Nàng đã chết rồi hả? Hông. Nàng vẫn còn nhúc nhích được hai chơn, nhưng sao có
một bên nặng hông dở lên được. Nàng định lên tiếng gọi ai đó. Và cánh cửa phòng
xịch mở. Một người mặc đồ trắng bước vào.
– Tui đang ở đâu đây?
– Trong nhà thương.
Ngay lúc đó, mẹ nàng đi vào hối hả
– Con làm má lo gần chết. Nằm bất tỉnh suốt hai ngày nay rồi.
– Sao vậy má?
– Con bị xe đụng, gãy hai chơn. Rồi có người chở con vào đây.
– Ai vậy má biết hôn?
– Tội nghiệp nó. Lẽ ra nó bỏ chạy luôn thì có ai mà biết.
Nhưng mà nó chở con vô đây, rồi báo cho nhà biết. Tội nghiệp. Thằng hiền ghê!
Thằng Christophe đó. Nó xin lỗi ríu rít. Con nhìn qua bàn. Ngày nào cũng có một
bó hoa mới nó mang vô cho con.
– Một ông Tây?
– Nó còn trẻ lắm, con.
Cuối cùng rồi nàng cũng gặp Christophe. Chàng thanh niên người
Pháp lịch sự, ân cần. Christophe hông ngờ gặp được cô gái nói trôi chảy tiếng
Pháp nên rất vui mừng. Họ nói chuyện với nhau, hiểu nhau rất dễ dàng. Từ đó,
ngày nào cũng có một bó bông, khi thì lay-ơn, khi thì hồng, khi thì cúc luôn
luôn ở trên bàn. Và cứ hai ba ngày, Christophe vào thăm và nói chuyện với
Yvette rất lâu, nên ít khi nàng có thì giờ nghĩ đến Xuân. Nhưng khi hông có ai,
nàng lại tự hỏi bây giờ Xuân làm gì? Đã ra trường và đi biền biệt nơi đâu? Làm
sao hai người liên lạc được với nhau? Nhờ ai trong gia đình? Hông có ai hết. Và
Xuân đang hành quân trong rừng sâu, bị thương hay sống chết rồi? Những giọt
nước mắt chảy dài xuống đôi má xanh xao. Nàng thở dài…
Nhiều tuần lễ trôi qua, Yvette hông nhận được tin tức gì của Xuân. Nàng càng ngày càng trở nên tiều tụy.Tìm anh nơi đâu bây giờ? Nhưng nhờ mẹ nàng luôn luôn ở bên cạnh, nàng cũng bớt đi phiền muộn. Sau khi ra khỏi nhà thương, gia đình định đưa nàng lên Đà Lạt để dưỡng bịnh. Yvette hông chịu. Nàng nghĩ rằng nếu đi xa khỏi Sài Gòn thì Xuân biết đường đâu mà tìm. Nàng trông ngóng ngày đêm tin tức người yêu. Sao mà như vậy kìa? Một lá thư cũng hông có là sao? Nàng hông đi lại được. Hai chơn còn bó bột. Ngày đêm nàng chỉ ngồi lỳ một chỗ trên giường. Người ngày càng xanh xao, gầy ốm. Cuối cùng, sau khi cắt băng bó bột được đôi ngày, Yvette vẫn chưa đi lại dễ dàng, nhưng gia đình đã quyết định đưa nàng lên vùng đất hoa Anh Đào để nghỉ ngơi…
Cơn bịnh thương hàn đã quật ngã người thiếu úy vừa mới ra trường.
Xuân phải nằm Cọng Hòa hơn một tháng trời.
– Thưa bác. Cho cháu hỏi thăm cô Yvette Đỗ.
– À! Cô Tư đó hả? Cổ hổng có ở đây. Cổ đi Đà Lạt dưỡng bịnh rồi.
Cổ bị đụng xe, bị gãy hai chơn. Gia đình đưa cổ lên trển khoảng hơn tuần nay.
Mà cậu là gì của cổ để tôi nói lại.
Biết người quản gia mới có nói lại hay hông? Xuân quay lưng
đi mà lòng nặng trĩu. Chỉ ghi lại người bạn hồi nhỏ ở Mỹ Tho. Ôi! Người bạn hồi
nhỏ của một thời ký ức xa vời vợi. Người nhà chắc chẳng thèm nói lại vì họ hông
thích Xuân?Một cái thằng bạn xa xưa mà ai thèm nhớ làm gì. Gia đình chắc nghe
qua rồi bỏ. Xuân buồn bã, đạp xe thửng thờ trên đường về. Làm sao gặp em đây, hở
Yvette? Chắc xa nhau vĩnh viễn rồi? Mình đành mất nhau rồi hả em? Làm sao em kiếm
được anh? Biết anh ở Sư Đòan nào? Vùng I, Vùng II … ? Em đâu có rành những
nơi đó.Em đâu có biết anh rời xa biền biệt SàiGòn đến một nơi hẻo
lánh nào hôn?
Hông hẻo lánh quá đâu em! Nơi đây, Xóm Cát, vùng ngọai ô của
Bà Rịa. Tiểu Đòan 3/43 đang ở đó.
Thượng sĩ nhứt Bậc Cẩm Hom tập họp trung đội 2 trình diện Thiếu
Úy mới ra trường. Xuân nhìn những người lính mới của mình. Có vẻ gì xơ
xác. Họ vừa nhìn Xuân vừa đưa tay so hàng. Họ có ý dò xét ông Thiếu úy trẻ Võ Bị
Đà Lạt mới tò te ra đơn vị. Chẳng có người nào mặc bộ đồ hơi hơi vừa vặn. Áo rộng
thùng thình, quần xúng xính. Quần áo Xuân cũng rộng như họ. Xuân cố gắng thay đổi
nhiều lần để tìm một bộ đồ đúng khổ người mình. Cũng khó lắm, trừ phi phải đi sửa
lại. Binh nhì Mừng, vừa mới làm ô đô cho chàng, nói Thiếu Úy ráng bận ít bữa,
em sẽ đem ra Bà Rịa sửa cho. Họ lộn trái vải rồi may, mặc đẹp hơn.
Trung đội trang bị lộn xộn. Hạ sĩ nhứt Độ mang Thompson. Ông
Hom đeo lủng lẳng cây Carbine M2 báng dài. À! sao lại còn cây súng phóng lựu cũ
xì nầy đây, cao quá tầm của binh nhứt Nga lùn tịt chưa tới 1 mét 50. Hạ sĩ Hiền,
người nhỏ con nhưng trông có vẻ rắn chắc, có lẽ là một nông dân, nhìn Xuân như
dò hỏi sao hông chú ý tới khẩu Trung liên BAR. Phùng Xuân chú tới
cây FM nầy lắm chớ. Linh hồn của trung đội mà. Và, đột nhiên, nhớ anh Năm Nhiên
của thời 1948. Tội nghiệp binh nhứt Tô, cao chưa đầy 1m50 mà đeo cây Garant M1
dài khoảng 1m 10. Xuân nhìn thấy báng súng gần chấm đất.Toàn là các loại súng
cũ kỹ của thời Đệ nhị thế chiến, cách nay ngót nghét 20 năm.
Ông Hom cho biết trung đội chỉ có 16 người. Hai người đi phép
thường niên. Còn 14 người. Quân số chỉ bằng một tiểu đội. Sao ít quá vậy? Ông
nói nhiều lần bổ sung, nhưng tụi nó đào ngũ hoài à Thiếu Úy.
– Hông có cách gì giữ họ được sao ?
– Giữ gì được, Thiếu Úy. Về hôm trước hôm sau là tụi nó bỏ
súng trốn mất. Ngoài Bà Rịa có trạm gác của Quân Cảnh mà hông biết tụi nó lòn
ngã nào. Nhứt là mấy thằng Tàu Chợ Lớn. Chắc tụi nó có đường dây ?
Hôm sau, Xuân đi một vòng nơi đóng quân. Mỗi người một miếng
poncho làm lều. Võng treo tòn teng từ hai đầu, đôi khi là hai nhánh cây,
đôi khi là môt cành cây và một cọc gỗ… Dưới đất bày lỏn chà lỏn chỏn nồi niêu,
soong chảo đầy lọ nghẹ. Một vài miếng khô kho nước mắm đặc sệt bạc màu muối.
Cái trách nhỏ buộc hờ nơi cọc đầu võng. Khô đã là mặn mà họ còn kho nữa.
Bữa cơm chẳng có gì để ăn thêm ? Ba cục gạch lượm lặt đâu đó để làm cái bếp,
méo mó đen thui. Cái chén, đôi đũa úp trên ba lô. Những người độc thân ở có vẻ
bừa bãi hơn người có gia đình.
Súng móc đại trên đầu võng, cũng có khi để bên gốc cây. Cây
súng phóng lựu của binh nhứt Nga cao quá khổ, dựng đứng ngoài cọc lều. Ngày hôm
qua Xuân hông thấy mấy cái máy truyền tin ANPRC-6. Hôm nay Xuân chú ý đến những
thứ ấy. Người tiểu đội trưởng mang Thompson: Hạ sĩ nhứt Độ.
– Cái thứ nầy còn nghe tốt hôn ?
– Khi được khi không.Thiếu Úy. Nghe ba trật ba duột lắm.
Đôi khi em giận em đá nó mấy đá. Vậy mà nghe được.
– Có vậy nữa sao? Ông Hom hổng biết à ?
– Biết chứ.Nhưng ổng nói đại đội kêu cứ giữ. Nhiều khi đụng
trận, kêu oang oang mà có nghe cái khỉ mốc gì. Mang nó theo càng thêm cồng kềnh.
Trung đội có 16 người mà lại có tới hai cái ANPRC-6. Có cần
hông? Sao lại xài quân dụng quá cũ để làm gì ?
Xuân đi đến nơi ở của Hạ sĩ Hiền. Hai vợ chồng đang ăn cơm, dợm
đứng dậy để chào. Xuân ra dấu hai người cứ ăn. Rồi Xuân ngồi xuống nơi cạnh của
hố đào cho trung liên.
– Mình đóng quân nơi đây lâu chưa ?
– Cũng gần ba tháng à, Thiếu Úy.
– Hèn chi cái hố anh đào rất công phu.
– Có vợ em phụ nữa. Mỗi ngày tụi em đào thêm một chút. Thành
ra cái hố mới được như vậy.
Hiền còn trẻ, như là nông dân. Hai bàn tay to, chai sạn. Tướng
lam lũ, chịu khó làm ăn. Nhà quê nghèo lắm sao mà vô lính? Hay là chiến tranh
hông làm lụng được ở vùng xôi đậu ? Chị Hiền trẻ hơn, chưa đầy đôi mươi,
còn kẹp tóc. Xuân thấy họ như là cặp vợ chồng mới cưới, quấn quít nhau
như đôi chim non. Cô vợ hơi e thẹn, rụt rè khi biết Xuân đang ngồi nhìn
hai vợ chồng ăn cơm. Xuân ngó lơ sang chỗ khác. Hai thùng đạn đại liên 30 cũ chứa
đầy nước, chắc để nấu ăn và rửa chén bát. Một vài cái tô đá trong rỗ lót lá chuối.
Một cái nồi nấu cơm. Một cái trách nhỏ để kho, chiên, xào hay để luộc rau? Tài
sản của những người vợ chồng lính của Phùng Xuân?
Xuân đi trở lại nơi võng của mình, lấy bản đồ gặp Trung Úy Phạm
Đức Tú, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2. Chắc ngày mai có lịnh đi đâu đây.
Hoà Long là một quận của tỉnh Phước Tuy, cách Bà Rịa độ 6 cây
số nằm về phía Bắc trên tỉnh lộ 2 nối liền Long Khánh-Bà Rịa. Đồn điền cao su bạt
ngàn từ Long Khánh về đến Xà Bang, đến gần Hoà Long. Có nhóm người Chư’ Rư sống
lang thang nơi đây. Tỉnh lộ nằm giữa hai mật khu Mây Tào và Hát Dịch. Có
haiTrung đoàn Việt Cộng 33 và 275 hoạt đông thường xuyên ở vùng nầy. Nghe nói
người Trung Đoàn Trưởng 33 là một ông già đầu bạc, rất dầy dạn chiến trường,
chuyên môn dùng du kích chiến. Chiến đòan Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan vừa mới
đóng ở núi Đất, cố ý ngăn chận họat động của hai trung đòan nầy?
Những nơi quen thuộc Bình Ba, Ngãi Giao… Và BìnhGiã nữa, nơi
mà thủ khoa khóa 19 VBĐL hy sinh ngay từ lúc đầu. Du kích quậy phá nhiều ở xã
Long Phước, sát bên quận và xa hơn nữa: xã Long Tân
Bà Rịa toàn đất cát. Trái lại Hoà Long đất đai rất mầu mỡ. Đất
đỏ từ vùng Long Khánh tràn xuống đến Hoà Long, Long Phước, Long Tân, Long Điền
và tận cuối quận Đất Đỏ đến xã Phước Lợi. Màu đỏ trộn với màu cát trắng
làm thành một lớp phân thích hợp cho giống lúa gạo Nanh Chồn thơm
ngon ở vùng nầy.
– Ông Hom. Ông nhắc chừng anh em là vùng nầy du kích nhiều lắm
đó. Mình đóng quân hai ngày nay sau lưng nhà bà Hai Nỉ. Bả có thằng con đi cà xẹo.
Chắc là nó bị tật từ hồi nhỏ. Nhưng tôi để ý thấy nó cứ xăm xoi đám lính mình
hoài.Hông tin nó được đâu.
– Thiếu úy để tui. Tui cũng có dặn anh em rồi. Nó mà cắc bùm
là mình lãnh một con đó nghe.
Bà Hai Nỉ vả lả với anh em lính. Mượn cái gì bà cũng cho.
Nhưng thằng con của bả- thằng Ba Xẹo, mấy người lính của Xuân đặt tên cho nó
như vậy- hay đổ quạu và nhăn nhó khi một vài người lính vào nhà, ngồi nói chuyện
với bả. Nó ngó mấy người lính chăm hẳm.
Trung đội rút đi khỏi nhà bà Hai Nỉ độ mười phút, vào sâu
trong xã Long Phước.Thằng Ba Xẹo rướn người lên mái nhà, rút soạt khẩu CKC rồi
băng mình qua đám chuối rậm. Nó tót xuống giao thông hào như con sóc, biến mất
trong địa đạo tối om.
Lục soát xong chừng hơn hai mươi căn nhà. Có lịnh tạm nghỉ. Bố
trí và canh gác kỹ lưỡng. Anh em sẳn sàng ăn trưa. Hạ sĩ Hiền để cây trung liên
trên bộ ván gõ trong căn nhà vách lá. Chung quanh chuối dày đặc. Độ chừng ba
mươi thước là hông nhìn thấy được. Anh em cùng ngồi bệt xuống đất mở gà mèn ra.
Khô cá cơm kho. Khô cá khoai. Khô cá hố, cá nóc… Toàn là khô cho buổi trưa đạm
bạc. Món ăn hành quân của đám lính!
– Hông có gì khác hơn là khô hả Mừng ?
– Gấp quá tụi em chỉ đem theo khô cho dễ ăn. Luộc bậy ba cái
rau lang hổng kịp, Thiếu úy.
-Còn cái lon gì nữa vậy ?
– Nước mắm kho quẹt. Thẩm quyền ăn hông ?
Xuân cười. Lấy mũ sắt làm ghế, Xuân ngồi xuống cầm gà men cơm
của mình. Chàng nghĩ: Cũng còn có mùi vị hơn những bữa ăn ở cánh đồng Mỹ Nhiên…
Ăn xong, Xuân mở bi đông uống chừng mươi hớp. Đứng dậy. Để
nón sắt trên ván. Bước ra ngoài hàng hiên. Vừa dừng lại quan sát. Chưa thấy rõ
những bụi chuối. Một tiếng bốp gọn nhẹ. Nghe hình như ở giữa trán Xuân. Một phản
xạ nhanh gọn. Hông nằm xuống. Xuân xoay người bước vào trong nhà. Hông đầy nửa
tích tắc.Một tiếng bốp nữa đuổi theo. Xuân hông nghe tiếng súng nổ ròn tan của
các anh em bắn trả. Và tiếng hô xung phong. Chỉ nhìn thấy Hiền nằm ngã vật xuống.
Máu từ ngực, từ ngực Hiền phun ra có vòi. Mà hông phải. Ngay tim trái. Xuân
nhào tới. Ngón tay cái bịt ngay lỗ sâu hoắm.Đâu có nhằm nhò gì. Máu vẫn tuôn.
Xuân kêu lên: Hiền ! Hiền…Vài tiếng kêu nữa. Kêu nữa. Kêu nữa. Hông !
Hông! Hiền. Hiền ặc ặc lên vài cái. Như con vịt bị cắt tiết. Như con gà bị cắt
cổ. Như con heo bị con dao nhọn đâm thẳng vô tim, ngoẻo đầu sang bên. Xuân kêu
nữa. Ấn tay mạnh vào cái lỗ sâu hun húc quái ác kia. Nhưng Hiền trợn trừng mắt.
Trợn trừng mắt nhìn Xuân. Hiền nhắm mắt. Máu hơi ngừng chảy. Rồi dứt hẳn. Xuân
rút ngón tay cái ra. Thẩn thờ nhìn Hiền nằm bất động. Nó chết rồi. Xuân
nghĩ chắc chắn như vậy.
Súng vẫn nổ. Giọng ông Hom oang oang. Tiếng súng nổ ròn
tan. Carbin, Garant, súng phóng lựu, Thompson bắn bất kể. Chỉ thiếu tiếng nổ
dòn của cây trung liên. Binh nhứt Hòa hét lên ở đầu máy. Đụ mẹ cái máy mắc dịch.
Hông chịu nghe. Nó đá mấy cái vô ANPRC-10. Có nghe được chưa ? Tiếng hô
xung phong vang rền. Xuân chạy ra khỏi nhà. Đáng lẽ ra, Xuân phải bình tỉnh chỉ
huy ngay lúc đầu tiên. Cái chết của Hiền làm chàng hoảng lọan. Có tiếng la hét.
– Kéo nó lên. Nó bị thương rồi.
– Cái gì vậy ?
– Thằng du kích Ba Xẹo, Thiếu úy. Tụi em bắn nó què giò mà nó
còn lết được xuống hố.
– Thằng Ba Xẹo? Có phải nó hôn ?
– Chớ gì nữa. Tụi em lấy được cây CKC nè.
Xuân đi đến nơi thằng Ba Xẹo nằm. Chắc nó bị xui xẻo. Hông kịp
nhào xuống giao thông hào. Có bao giờ bắn được mấy thằng du kích bắn sẻ đâu? Có
chỗ núp đàng hoàng và nhanh như sóc mà. Cặp mắt nó sui xị, hơi lưng tròng. Nó
ngó Xuân, hình như van xin điều gì đó? Nó sợ Xuân tức giận bắn nó chết? Xuân có
bao giờ cầm súng giết một mạng người hôn? Hông. Lòng nhân đạo vẫn còn ở người
sĩ quan mới ra trường. Mà Xuân đâu có quyền giết một thương binh địch. Mất thêm
một mạng người. Bà hai Nỉ sẽ khóc con.
Màu đỏ tươi tuôn ướt bắp đùi nó. Có vẻ mất máu nhiều. Y tá đại
đội sộc lên tới. Xé toạt quần ra. Quấn băng cứu thương. Cầm máu tạm thời. Nó
nhìn Xuân, nhìn trân trân. Nó liếc qua những người lính. Họ thản nhiên nhìn Ba
Xẹo và tự hỏi sao nó bắn họ? Có thù hận gì hôn? Họ chỉ lo cứu anh chớ hông có
giết anh đâu. Họ nhìn anh có vẻ thương cảm hơn là anh nhìn họ đầy thù hận.
Phùng Xuân ra lịnh anh em lấy poncho võng nó đến gần chỗ Hiền
đang nằm. Hai cái poncho. Một cái khép kín và một cái mở ra. Ba Xẹo có biết ai
đang nằm bên kia hôn? Chút nữa trong xe cứu thương chạy về tỉnh, kề bên cái
poncho đóng kín, nó nghĩ gì? Giết chết một sinh mạng? Giết chết một gia đình
son trẻ đang tràn đầy hạnh phúc. Rồi đây ra tới nhà thương, bà hai Nỉ sẽ gặp chị
Hiền. Con bà bắn chết chồng tôi. Nhưng Xuân nghĩ chị Hiền sẽ khóc ngất bên xác
chồng. Có thời giờ đâu mà nghĩ, mà thù hận người du kích V.C đã giết chết chồng
mình.
Hiền ơi! Chết rồi sao? Sao chết dễ dàng quá vậy? Thì mới vừa
ăn cơm trưa với mình đây mà. Sao chết dễ quá vậy? Baptême de feu của mình là
như vậy sao? Sao viên đạn hông trúng mình mà đi ngay vào tim Hiền? Người du
kích VC rõ ràng là nhắm ngay đầu mình. Sao viên đạn lại đi chệch như vậy? Có phải
tại số mình lớn, chưa đến lúc chết. Phải có người khác thế mạng.
Viên đạn đầu tiên- chắc nhắm ngay đầu Xuân- chệt xuống, xé
rách môt bên vạt áo.Viên đạn thứ hai bắn vói theo, nát các chân ghế. Hai viên đạn
ác nghiệt đã né mình. Thằng du kích khôn lanh, nghĩ là Xuân sẽ nằm xuống để
tránh đạn. Hông may cho Hiền, còn đang ngồi bệt dưới đất, ăn chưa xong bữa cơm.
Hiền ơi! Mình mắc Hiền một món nợ-món nợ thật to tát- mà có lẽ
suốt đời mình hông bao giờ trả được? Phùng Xuân vẫn nhớ đến đôi mắt Hiền
lúc sắp chết trừng mắt nhìn Xuân. Rồi Xuân sẽ gặp mặt chị Hiền. Trời ơi! Xuân sợ.
Xuân sợ dòng nước mắt chan hòa của người vợ trẻ khóc chồng. Giờ nầy chắc chị
đang hớt ha hớt hải chạy ra nhà thương Bà Rịa để nhìn xác Hiền.
Ôi! Nỗi đau đớn của người vợ trẻ mất chồng chắc là lớn hơn nỗi
đau của người chỉ huy mất người đồng đội đầu tiên trong trận đầu đời. Xuân thiếu
kinh nghiệm chiến trường? Một sĩ quan vừa mới tò te ra trường, đâu có bằng
một ông Thượng sĩ đánh trận lâu năm. Lẽ ra Xuân hông nên ló mặt ra như vậy.
Viên Thiếu Úy trẻ hận mình đã sơ suất gây thiệt mạng của người đồng đội. Lấy gì
đền bù lại được?
Sự sống và sự chết hông có lằn ranh phân biệt. Vừa mới ăn
cơm, vừa mới nói chuyện với nhau là mất tiêu rồi. Điều Xuân chú ý là hông thấy
các đồng đội khóc- dù chỉ hơi rươm rướm mắt-cho người bạn mình vừa chết. Họ thấy
cái chết nhiều quá nên họ trở nên chai lỳ với cái chết hay là họ coi cái chết ở
chiến trận thật là bình thường? Hoặc là họ xem nhẹ cái chết như là một điều tất
yếu phải xảy ra khi chấp nhận cuộc đời lính tráng? Hay là họ nghĩ cuộc đời nầy
vô thường như triết lý nhà Phật. Sống ở cuộc đời nầy quá khổ đau nên tìm một kiếp
sống khác tốt hơn. Xuân nhìn thấy những gương mặt buồn của họ mà hông biết
trong lòng họ như thế nào? Xuân nghe thoáng thoáng đâu đây giọng của một người
binh sĩ trả lời: thằng Hiền đi mua muối rồi hay là thằng Hiền nó lên bàn thờ rồi.
Quá dễ dàng cho một cái chết. Nhưng với Xuân thì hông. Chàng
ngồi thừ rất lâu, nghĩ đến người đồng đội vừa chết. Những nỗi thương cảm, đau đớn
mà gia đình phải gánh chịu. Cha mẹ khóc con. Vợ khóc chồng. Những giọt nước mắt
của anh em, của bà con chòm xóm. Một cái chết quá dễ làm cho chàng Thiếu úy mới
ra trường buồn ray rứt.
Yvette ơi! Em có biết anh vừa thoát chết hôn? May mắn đã giúp
anh còn sống để có ngày gặp em. Nhưng thần chết đã cướp đi sinh mạng, hạnh phúc
của người đồng đội có người vợ trẻ hơn em. Em ơi! Chúng mình hãy cám ơn Trời đã
ban cho chúng mình ân sủng đó. Nhưng anh hông hiểu sao Thượng Đế lại lấy cái của
người nầy để ban cho người kia. Có bất công hôn em ?
Chỉ cần một tiếng cắc bùm là giết lẫn nhau.Vũ khí tối tân giết
người quá dễ dàng. Một số ít người có thể dùng súng đạn giết chết một số thật lớn
người khác. Mà tại sao số đông người khác ngu ngốc như vậy? Đem thân thí mạng
cho người ta bắn mình? Thằng Ba Xẹo nó biết gì thù hận? Ai gieo vào đầu óc sự
giết chóc kia? Chỉ có những kẻ ăn không ngồi rồi, không tưởng trên tầng lớp
chóp bu tận ngoài xa kia tạo ra những sự thù hận để thỏa mãn sự ngông cuồng của
họ. Những người dưới họ chỉ là những con cưởng lập đi lập lại lời họ nói như
Xuân đã từng nghe khi đi theo Vân dự mít tinh ở Lương Hòa, Bến Tre thuở 1960…
Xã Phước Lợi, thuộc quận Đất Đỏ, là một giồng đất gò cát nằm
thoi loi. Chung quanh là đồng ruộng. Chỉ có một chút xíu về hướng Đông là giáp
với khu rừng chồi có nhiều thú nhỏ như nhím, sóc, thỏ… và trái cây rừng như
trái gùi, trái mây…
Tháng năm năm 1966. Nắng nổ đom đóm. Đại đội về đây khoảng một
tuần. Đây là xã xôi đậu. Ban ngày, dọc theo đường lộ, lính của Xuân rong cùng
khắp đầu trên ngõ dưới. Ban đêm, VC mò về xóm trong. Thằng Đực và con Sa
là hai đứa học trò ngoài chợ, hay lân la đến chơi, cho Xuân những trái gùi
chín, ăn chua lè; những trái mây rừng nhỏ bằng ngón tay út, ăn chát ngắc. Tụi
nó cũng cho Xuân những trái gùi muối chua. Món nầy chấm mắm ruốc của bà giáo Thảo
thì ngon. Rồi từ đó, Xuân lâu lâu cũng dò biết được một vài gia đình trong xóm.
Ai thân VC và ai thân Quốc Gia…
Trời nắng chang chang. Chàng sĩ quan Úc và Xuân cùng ngồi tựa
lưng vào bờ đất, uống từng ngụm nước đá lạnh. Chàng thanh niên người Úc nầy có
giọng nói khó nghe, âm hưởng của tiếng Anh xa dần mẫu quốc.
– Viết cho tôi đi.Tôi hông nghe được giọng Úc của ông.
À! Peter Maurice Arnie. Cấp bậc Trung úy( ?).Tốt nghiệp
Royal Military College Duntroon. Chà, cũng là dân nhà binh chuyên nghiệp như
mình đây. Có vậy mà Xuân chỉ thoáng nghe left-tenant. Rồi hai ba bữa sau, họ
cũng bắt đầu thân thiện nhau, đía nhau tía lia.
Trung đội Peter có khoảng 30, 40 người, ngày ngày cùng Trung
đội Xuân đóng cọc sắt từ phía cuối Quận Đất Đỏ băng qua đồng ruộng đến tận xã
Phước Lợi.
– Trung đội của anh ít, chỉ có 14 người thôi. Vậy hôm nay,
anh lấy phần đất gần đây. Còn đằng xa kia để cho tôi.
– Sao vậy? Cứ làm như cũ. Tôi đi xa có sao đâu?
– Vì anh ít người. Mang cọc sắt và kẽm gai đi xa nặng lắm.
Công việc sẽ chậm lại. Chúng ta cần làm xong phần việc nội trong tuần nầy.
– Cám ơn anh.
Xuân ra lịnh cho người mình dừng lại và chỉ cho họ phần hôm
nay mình phải làm.
– Hông phải đi xa nữa. Ráng cùng họ làm rút đọan cuối cho đến
xã PhướcLợi.
Nhưng một tiếng bùm vang lên cùng một cụm khói ở phần đất
trung đội Xuân làm ngày hôm qua. Khỏi nói, tất cả mọi người cùng thốt lên: Có
mìn !
– Đứng yên tại chỗ. Đừng chạy nhốn nháo. Ông Hom. Cho anh em
lần bước ra theo đường cũ.
Khổ thay cho trung đội của Peter. Một trái mìn nhảy. Ít nhứt
phải có hai, ba người chết và bị thương khoảng mươi người. Nếu người của Xuân
làm đúng chỗ ngày hôm qua là trung đội bị xóa sổ.
Chỉ hông đầy năm phút. Hai chiếc trực thăng cứu thương đã đáp
xuống. Xuân đứng nhìn bạn và đồng đội đang chật vật, hối hả đưa người bị thương
lên. Họ hông tỏ vẻ hoảng loạn, tuần tự làm việc. Xuân im lặng đứng nhìn bạn,
thương bạn mà hông làm gì được. Bạn từ đất nước xa xôi ở miền Nam Bán cầu đến
nơi nầy để đổ xương máu cho lý tưởng mà bạn yêu mến. Vợ của đồng đội bạn mất chồng,
gia đình mất người thân. Những giọt nước mắt làm sao cho vơi hết nỗi buồn. Xin
chia buồn cùng bạn, người bạn trẻ xa xôi.
Cuối cùng, rồi tất cả lên trực thăng. Peter quay lại. Hai
cánh tay cùng đưa lên. Vĩnh biệt. Chúng ta chắc chắn sẽ hông bao giờ gặp lại.
Có thể bạn với tôi, bọn mình sẽ thua cuộc trong trận chiến nầy. Và rồi, Phùng
Xuân đứng nhìn dòng chữ CBS mờ nhạt trên thân một trực thăng bay về Vũng Tàu…
Lại một sự may mắn đến với Xuân. Nó đến từ đâu? Hông hiểu
được. May mắn của người nầy là xui xẻo cho người kia. Các người lính Úc chết
thay cho binh sĩ của Xuân. Sao đến thời điểm đó Peter lại đổi ý. Có một nguyên
nhân nào, một động lực nào tác động vào ý định của Peter ?
Ai mà biết Thượng Đế? Ai mà hiểu được Thượng Đế? Thượng Đế là
đấng Tối Thượng, Toàn Năng… Hông hiểu được Ngài, nên con người giải thích mỗi
người mỗi khác. Có người tin vào quyền lực của thiên nhiên, của đạo Chúa, của đạo
Phật, của đạo Hồi, của mệnh trời. Có đúng là Chúa Jésus, Thái Tử Shidarta,
Thiên sứ Mohammed, Khổng Tử… cũng hông hiểu gì về Thượng Đế nên lý giải mỗi người
mỗi khác?Và thế hệ sau bám vào đó, đặt ra nhiều qui luật, vẽ ra những con đường
tìm lấy thanh bình ở cõi đời sau? Chỉ có Cọng Sản là hông cần hiểu Thượng Đế và
hông cần giải thích. Họ muốn biến đổi thế giới nầy bằng bạo lực để tìm lấy
Thiên Đàng Cọng Sản. Và, rốt cuộc, cũng hông chắc tìm ra được, chỉ thấy máu đổ
thịt rơi, thù hận chồng chất.
Nhưng có một điều chắc chắn là VC đã dò la biết được nơi Xuân và Peter đóng cọc sắt. Chỉ cần một vài ly rượu đế ở độ nhậu là các chú lính bật mí hết…
Đồn Mỹ Hội, quận Đất Đỏ, do một Trung Đội của Đại Đội 612 Điạ
Phương Quân trấn giữ. Đây là ngõ thông từ Mật Khu Mây Tào, Xuyên Mộc đi về Mật
Khu Minh Đạm.Từ đó, VC có thể dễ dàng qua Long Hải, cù lao Long Sơn, Rừng Sát
và xâm nhập vào SàiGòn.
Xuân vừa chợp giấc được một chút. Lúc đầu có nhiều tiếng nổ lớn,
sau đó là súng AK 47 nổ dòn. Rồi liền đó vang rền đều đủ các loại. Don Porter,
Xuân và ông Hom đứng dưới rặng dừa nhìn về phía đồn Mỹ Hội.
– Chết rồi. Nó đánh đồn Mỹ Hội. Súng của VC nổ nhiều hơn. Chắc
mộtTiểu Đoàn? Trong đồn bắn trả ra ít quá.
– Sao Thiếu Úy biết?
– D 445 VC hoạt đông thường xuyên ở Mật Khu Minh Đạm mà. Thì
chắc thằng Tiểu Đoàn nầy đánh chớ ai. Nó nhổ cái gai chận hộng nó qua lại Xuyên
Mộc về Sài gòn. Tui nghĩ chắc có thêm hai đại đội C 25 và C41(Châu Đức) ở cù
lao Long Sơn. Trong đồn chỉ có một trung đội à, ông Hom. Còn Đại Đội trừ đóng gần
mình đây, ở Bờ Đập.
– À, mà nầy, còn mấy bà vợ lính nữa. Đụng trận mấy bả cũng cầm
súng bắn như ai. Còn mấy thằng nhóc, con lính trong đồn. Tụi nó tiếp đạn. Đường
cùn thì phải liều chết để mà sống chớ, Thiếu Úy !
– Chắc ông nói đúng đó.Tui nghe bây giờ súng trong đồn
bắn ra nhiều hơn lúc nảy.
Chàng Trung Úy Don Porter cao lớn, đẹp trai, có bộ ria cá chốt
giống như Clark Gable. Don ít nói, chỉ lặng lẽ đi theo Xuân hơn tuần nay. Thỉnh
thoảng, Xuân có hỏi gì thì Don mới trả lời? Ban đêm, Xuân ngủ chỗ nào là Don và
người Trung sĩ mang máy C-25 nằm ngủ kế cận. Vì Don ít nói, nên thường ngày câu
chuyện qua lại chỉ là gia đình, con cái và quê hương của Don ở tận nước Mỹ xa
xôi. Hông hiểu sao, cách đây mấy hôm, Don đem tặng Xuân nhiều cuốn sách của
Clausewitz và Ludendorff. Don biết Xuân là lính nhà nghề hay là muốn Xuân biết
về chiến thuật của Tây Phương? Phùng Xuân đã chán ngấy khi nghe Nguyễn Thanh
Liêm nói về vấn đề nầy rồi mà? Don có hiểu gì về chiến tranh du kích ở Việt Nam
chưa ?
Pháo binh của Tiểu Khu rót xuống thưa thớt, hông đủ sức chận
sự tấn công dồn dập của VC. Đồn có lẽ sắp bứt. Trái sáng soi rọi chập chờn.
Trong đồn bắn ra càng quyết liệt hơn. Toàn là Garant, Carbine, Trung liên Bar,
chắc hông cự lại được với AK 47, B40…
– Rồi! rồi! Hoả Long lên kia rồi!
Những hỏa châu từ chiếc C- 47 bung ra, bay lững lơ như những
lồng đèn giấy to trong các ngày Vía của đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Bầu trời rực
sáng như ban ngày.
– Thiếu Úy, nó khạc đạn như vậy còn gì người và cây cỏ ở dưới.
– Chà ! Nó gầm như bò rống. Ục… Ục… Ông Hom có nghe hôn?
– Tia lửa đạn khạc có vồng giống như mình nhậu say mữa ụa ụa,
té ra có vòi.
– Đâu có. Giống như rồng phun lửa.
Chiếc C-47 bay rề rề vòng vòng quanh đồn, bắn xuống
liên tục. Từng vòi rồng lửa hiện ra. Hỏa lực quá mạnh. Chắc cây cỏ dưới đất
hông còn gì ?
Don Porter ngồi bệt dưới gốc dừa. Tiếng máy truyền tin C-25
chạy rè rè, lâu lâu vang lên một tiếng Roger. Xuân và ông Hom đứng trên đường
làng. Bóng họ đung đưa ngã dài theo những trái sáng trên bầu trời. Những người
dân làng tuôn ra đứng trước sân nhà xem chiến trận xảy ra như màn kịch. Tâm trạng
mỗi người mỗi khác. Phe thân VC tỏ ra bồi hồi lo lắng. Làm gì họ hông có người
thân trong đó. Phe Quốc Gia thì mong cho người trong đồn bình yên, hông bị VC
tràn ngập.
Ôi! Cuộc chiến ngộ nghĩnh, giống như tuồng cải lương. Don
Porter dửng dưng nhìn đám con nít chạy lăng quăng trên những đồng ruộng khô, la
lối om sòm, tranh nhau lượm dù trái sáng. Chắc nó mơ màng nghĩ đến pháo bông ở
nơi quê hương thanh bình của nó. Ôi! Cuộc chiến lạ lùng. Hai bên bắn nhau, người
người xúm coi!
Khoảng nửa giờ sau, tiếng súng của VC giảm thấy rõ. Súng
trong đồn bắn ra cũng thưa dần.
– Hòa! Tiểu Đoàn có gọi gì hôn ?
– Dạ hông. Họ cũng im lặng như mình.
Đúng rồi! Tất cả mọi người đều nín thinh xem hai bên đánh
nhau! Súng đạn cổ lỗ sĩ đệ nhị thế chiến của phe tư bản chọi lại với vũ khí tối
tân phe cộng sản. Than ôi! Đau khổ cho dân tộc tôi, đem những cái bị thịt làm
trò thí nghiệm, giống như những giác đấu thời La Mã, giống như những con thú động
đực điên cuồng cấu xé nhau. Xuân biết mình sẽ bị cuốn trôi theo mệnh nước. Mình
có thể cố gắng lội ngược dòng để bảo vệ tổ quốc yêu dấu nầy hôn ?
Những chiếc C- 47 thay phiên nhau bao vùng cho đến khi tiếng
súng hai bên ngưng hẳn. Dân làng biết trận chiến đã chấm dứt nên đã vào nhà từ
lúc nào. Xuân dựa lưng vào gốc dừa, thiu thiu ngủ.
Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn 3/43 của Đại Úy Lã Huy Bật chỉ huy lục
soát và giữ an ninh cho hồi kết cuộc. Lễ gắn lon và huy chương các binh sỹ
trong đồn. Các bà vợ lính, các chú nhóc con họ, được tưởng thưởng.
Khoảng trăm người nằm chết la liệt quanh đồn. Một bị thương
còn sống sót, tính quăng lựu đạn vào các ông Sỹ Quan Tiểu Khu, đi quan sát trận
địa, nhưng hông còn sức. Ai nấy chết điếng người. Hú hồn…. Nó mà liệng thì…
– Nó mà liệng thì chắc có mầy trong đó, đó Hách. Vì mầy là
trưởng ban Ba Tiểu Đoàn. Làm gì hông đi trong đám đó ?
Thiếu Úy Hà Công Hách–cùng khóa với Xuân- vui vẻ cười khì
khì.
Trong khoảng thời gian đó, vào một buổi sáng, khoảng tám giờ,
VC tấn công một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân ở Bắc quận Đất Đỏ, giáp Long Tân. Tiểu
Đoàn đóng trong nhà dân chúng, nơi vùng đầy nhóc VC ở lẫn trong dân. Buối sáng,
binh lính tuôn đi chợ, ra quận cà phê, cà pháo, hông mang theo súng đạn.VC đột
kích. Lính chạy về, ngơ ngơ trên đường, làm mồi cho những tràng đạn vô tình giết
người. Ở những nơi như vầy, dân là VC, VC là dân. Làm sao phân biệt được? Hông
lẽ giết hết dân khi mà VC dùng dân như cái bia đỡ đạn. Kinh nghiệm sống chết chỉ
trả bằng xương máu trong cuộc chiến nầy.
– Thiếu Úy. Ông Ba Tia, ở gần cuối bờ ruộng rià làng, mời Thiếu
Úy ngày mai tới nhà ổng.
– Chuyện gì vậy ông Hom? Mà ông tủm tỉm cười.
– Ông mời Thiếu Úy đến làm chủ hôn để ổng gả con gái ổng cho
thằng Ơ.
– Ủa! Sao lạ vậy. Tui đâu biết gì ?
– Thì ổng nói. Thiếu Úy là cấp chỉ huy trực tiếp nó, lớn nhứt
ở đây. Coi như Ba Má nó thì Thiếu Úy làm chủ hôn được rồi.
– Trời đất! Tui đâu biết gì ?
Mà Phùng Xuân hông biết thiệt. Nhưng đám lính trong đại đội
biết. Đêm đánh đồn Mỹ Hội, binh nhì Ơ, cái thằng lù khù ôm cái lu mà chạy, rù
rù được cô thôn nữ Tím ra cánh đồng. Nhờ ánh hỏa châu soi sáng, hạ sĩ Độ nhìn
thấy hai đứa xà nẹo, nhảy từng tưng ở bờ đê cho đến gần sáng. Mấy hôm nay, đám
lính đồn rùm lên. Ông Ba Tía nghe được. Ổng biết là hủ mắm của ông đã bị khui-
hay là nói như thằng Mừng, chậu cá lia thia của ổng bị thằn lằn đút đuôi vô quậy
rồi- nên ổng mau mau làm đám cưới cho xong. Mà thằng Ơ cũng giỏi lắm. Đóng quân
ở nhà ông Ba Tia nó làm đủ việc: quay giếng lấy nước, quét sân mỗi buổi sáng…
Lính Sư Đoàn có vậy mà ổng hổng gả sao được!
– Ông Hom. Ông dò hỏi coi nó có vợ con gì chưa? Để đến khi
làm đám cưới xong rồi, cô vợ lớn hay được đến đánh ghen là hư đường hư bột hết.
Tui với ông cũng có lỗi. Mà sao hổng nhắn hai ông bà già nó lên. Tui còn non chẹt
mà đúng ra sui gia với ai.
– Nó nói ông bà già nó ở xa lắm. Dân miệt vườn, quê mùa dốt
nát, hông biết đường đi.
Xuân biết nhiều ông lính cũng trời ơi đất hỡi lắm. Đi tới đâu
cũng hô chưa vợ. Rút cuộc tùm lum, hai ba bà xúm đánh ghen. Chàng thầm nghĩ,
mĩm cười trong bụng: chắc thằng nầy nó cũng giống mình lúc ở cánh đồng Mỹ
Nhiên? Đụng trận là bốc hốt liền!
Bảng vu qui treo sơ sài ngoài ngõ, chung quanh những chùm
bông vạn thọ đỏ, vàng. Căn nhà cũng đâu có gì, trống hoác từ trước ra sau. Đám
cưới chắc tổ chức vội vàng nên chỉ kiếm đâu được hai cái bàn tròn, hơn chục cái
ghế đẩu. Bàn thờ ông bà có một cái lư hương. Hai cây đèn cầy lớn màu đỏ để hai
bên. Khi Xuân và ba người trung đội trưởng đến đã có hơn bốn năm ông lớn tuổi
đang ngồi quanh những tách nước trà nói chuyện huyên thiên. Họ cùng đứng lên
chào bọn chàng, kéo ghế mời ngồi. Được hơn nửa chén trà, một ông già trọng tuổi
đứng lên nói vài lời về buổi lễ cưới hôm nay và nhờ Phùng Xuân đứng đại diện
đàng trai. Chàng sĩ quan mới ra trường, mặt còn búng ra sữa, cảm thấy mình quan
trọng cũng làm gan đứng lên nói vài lời. Sau đó, chàng tiến về bàn thờ cùng ông
Ba Tia lên đèn cầy bàn thờ ông bà. Cô dâu còn trẻ, chắc chừng16, 17 tuổi cùng
binh nhì Ơ chào mọi người…
– Cái kiểu nầy đóng quân ở đây lâu, nếu rút quân, chắc cả
làng sẽ đưa đám lính của mình đi quá! Có bao nhiêu thằng sẽ là rể của làng nầy
hả?
Ly rượu nhứt của nhà chú Mười Đỏ kháp gạo lứt ở đầu làng, cay
thắt họng, tuôn tới đâu là muốn xé đứt ruột gan tới đó. Mỗi người mời một ly
làm Xuân choáng váng. Một vài điếu thuốc rê nữa sắp sửa đốn ngã chàng. Xuân có
bao giờ biết uống rượu và hút thuốc đâu. Xuân xoay mòng mòng. Lần đầu tiên
chàng tiếp xúc với dân làng trong vai một sĩ quan quân đội…
Và cứ thế, sau đám cưới đó, nếu có đám giỗ, đám quảy nhà nhà trong làng cứ tiếp tục mời. Từ một ly, hai ly, đến bây giờ Xuân thành hủ hèm. Nhứt là từ khi có Thọ- Trưởng ban Xây Dựng Nông Thôn- về đóng ở làng, họ bày đặt ra rượu mật nhím.Uống vào đăng đắng, ngòn ngọt, cọng thêm gỏi cá biển, làm ngất ngư con tàu đi luôn. Từ đó, chàng sĩ quan trẻ trở nên hư đốn. Chàng biết thêm: uống rượu và hút thuốc lá.
Các quân trường đào tạo quân đội, hông bao giờ có được những
bài học phân tích có hệ thống về chiến tranh Việt Nam. Chỉ là những giờ“ Lãnh Đạo
Chỉ Huy” của Đơn vị trưởng. Cuộc chiến quái ác, kỳ hoặc. Quân trường hông phân
tích về quân sử. Học viên chỉ học chiến thuật cấp tiểu đội, trung đội, đại đội
và các môn học hổ trợ theo lý thuyết Tây Phương. Hông có một bài giảng hoặc
phân tích về chiến thuật, chiến lược của các danh tướng Việt như Ngô Quyền, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…Và cách ứng sử với dân chúng trong những
khu vực hành quân mà chính quyền hông kiểm soát được. Ở đó dân là VC và VC là
dân.
Số người chết về bị bắn sẻ, bị mìn bẫy của VC hông phải là
ít. Còn du kích chiến nữa chi. Cái gì cũng mù mờ hết. Rốt cục chỉ là kinh nghiệm
sống chết của mình trong chiến trường. Nhưng những chàng sĩ quan mới ra trường,
còn trẻ, còn hăng say như “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”( Hồ Xuân Hương) mạnh
còn hơn bò đá, dễ đổi lấy sinh mạng mình.
Mưa Long Khánh tầm tả, có khi dầm dề suốt ngày. Đất đỏ sền sệt.
Ở những con đường nhiều xe chạy, xe nhà binh tuôn ngang qua là sình văng tứ
tung. Nhà hai bên con đường từ quán Ba Tiều vào Sư Đoàn quết đầy màu bùn đỏ
loét, vẽ nên bức tranh kỳ hoặc.
Phùng Xuân cẩn thận lần bước theo con đường trơn trợt ở sâu
trong xóm vắng cuối chợ Xuân Lộc. Bùn nhão nha nhão nhoẹt quền quệt vào đôi giầy
càng làm khó đi. Chàng chầm chậm bước, vừa đi vừa suy nghĩ phải nói gì với chị
Kim Sa, người vợ vừa mới cưới của Nguyễn Thanh Liêm.
Căn nhà có vẻ im ắng. Cây ăn trái phủ kín trước sân. Sau khi
gạt bùn đôi giầy ở cây ngang, Xuân bước vào. Có bóng người thấp thoáng bên hè.
Chàng đứng bên chiếc bàn tròn có bình trà và bốn cái tách. Xuân và Liêm thường
ngồi uống trà ở đây. Người đàn bà trẻ hiện ra.
– Chào chị.
Chàng chưa nói hết câu. Nước mắt của Kim Sa tuôn ra theo dòng
nước trà màu đỏ sậm chị rót vào trong tách. Xuân sợ những giọt nước mắt đó, nước
mắt của những người vợ trẻ khóc chồng chết trận. Những giọt nước mắt đã mang
nhiều nỗi bất hạnh cho chị Hiền, cho những vợ chàng binh sĩ Úc, cho vợ những
người đã chết trong trận đồn Mỹ Hội…
– Sao lâu quá hông thấy anh tới ?
– Tiểu Đoàn bận ở tuốt BàRịa.
– Anh Liêm, ảnh chết rồi.
– Tui biết.
Chị Kim Sa gục mặt xuống bàn khóc rấm rứt. Mầy cũng như
tao vậy Liêm. Những thằng sĩ quan trẻ hăng tiết vịt, chịu húc càn mà hông nghĩ
gì. Mầy rành lắm mà! Clausewitz và Ludendorff của mầy đâu sao hông đem ra xài,
để đến nổi mầy bị phục kích trên đường đi phục kích về? Cũng như mầy, tao cũng
húc. Mà sao tao hông nghĩ là tao đâu có nhiệm vụ lấy trái mìn to tổ bố gần 20
kg đặt trên đường rầy ở Hưng Nghĩa-Dầu Giây.Vậy mà tao cũng ráng lấy. Tao cho mấy
người lính ra xa giữ an ninh. Tao và một hạ sĩ lò mò tìm đường giây bẫy. Tao cắt.
Rồi tao còn sợ nó chôn lựu đạn dưới trái mìn, tao lấy giây tao buộc trái mìn. Từ
xa, tao kéo được trái mìn lên khỏi mặt đất. Tao thở phào nhẹ nhỏm. Có ngu hôn?
Nhiệm vụ đó của Công Binh kia mà. Nhưng hổng hiểu sao tao may mắn hơn mầy, hả
Liêm? Để tao còn sống, lấy tiền thưởng 500 đồng-giá trị bằng hai thùng lade lớn
và hai ký thịt heo rừng- đãi lính tao một chầu nhậu chưa tới bến.
Những giờ phút đó hình như Yvette đã biến mất trong trí óc
Phùng Xuân. Xuân như người ngây dại hoang đàng trong một thế giới khác. Liêm
ơi! Có bao giờ một thằng sĩ quan đại đội trưởng như mầy, nghĩ đến người vợ
trẻ đẹp khi mầy dẫn toán đi phục kích đêm?
Xuân ngồi thừ một hồi lâu tìm câu nói an ủi người đàn bà còn son trẻ vừa mới mất chồng. Và chàng quên tới bàn thờ đốt cho thằng bạn một cây nhang. Nói gì với người đàn bà đang mang bụng bầu. Điều đó sẽ khêu lại nỗi đau buồn hông bao giờ xóa được, như một vết hằn sâu trong trái tim chị… Chàng cứ ngồi im lặng uống hết mấy chung trà. Chị Kim Sa cúi mặt. Nước mắt nhỏ từng giọt xuống bàn…
Khi Xuân trở về, cơn mưa đã dứt hột. Con đường trở nên lầy lội
hơn. Bùn trền trệt như đám trái lười ươi bị mắc mưa. Chàng bước đi nặng nề. Hai
chơn bang bang như đi hàng hai cho đỡ bị trợt té. Rút cuộc chàng cũng cà lê cà
lết về tới lều. Hậu cứ tiểu đoàn nhỏ xíu. Hổng có trại gia binh. Các đại đội
hông có chỗ trú quân. Họ chia nhau từng khu trong vườn cây cà phê, sầu riêng,
mít của dân chúng quanh Xuân Lộc. Vành đai ấp chiến lược vẫn còn, nên đóng quân
bên trong rất an toàn. Họ căn lều lụp xà lụp xụp dưới những tàng cây, che mưa
che nắng. Độc thân chỉ cần một cái poncho và một cái võng là đủ. Những người
lính có vợ phải che thêm những tấm ni lông cho rộng ra. Những ngày nắng ráo,
hai vợ chồng nằm dưới đất. Những hôm mưa, họ treo võng kè kè sát bên nhau trong
cái lều chật hẹp.
Bùn đỏ bám đầy đôi giầy. Xuân lấy một khúc cây nhỏ gạt bớt đất
đỏ. Chàng ngồi trên võng, chật vật tháo đôi giày ra mà hông để tay dính bùn.
Cái radio ấp chiến lược màu xanh vang lên tiếng hát buồn trong lúc mưa gió như
thế nầy. Mừng luôn luôn bắt đài Quân Đội từ 7 giờ đến 9 giờ tối. Nó mê giọng êm
thủ thỉ của cô Dạ Lan. Gần sáng, là gia đình Bác Tám của đài khác. Còn lại là
radio ra rả suốt ngày. Xuân nghe riết phát chán.
– Hao pin lắm. Sao hông tắt Mừng ?
– Tui xin pin tép của thằng Hòa. Đâu có hao, thẩm quyền.
Mừng hông biết cách ghép. Lúc thì hai tép, lúc thì ba tép,
làm cho cái radio kêu rè rè. Chắc nó bỏ đi đâu rồi.
– Cô Mận ! Tắt rađio đi. Cô vừa ca mà để máy như vậy ai
mà nghe được.
– Trung Úy tắt đi. Tui làm biếng đứng dậy quá hà !
Phùng Xuân đi đến chỗ Mừng. Chàng tắt rađio cho bớt ồn. Nghe cổ ca ơ ơ theo cái võng lắc lư, đong đưa còn đỡ buồn hơn.
– Mừng! Có phải em gái của mầy thiệt hông hay là bồ bịch đó mậy ?
– Dạ, em tui thiệt mà Trung Úy ?
– Sao cổ hông ở nhà mà đi theo mầy làm gì ?
– Gia đình có hai anh em. Mùa nầy ở quê hông có việc làm. Nó
nhớ tui. Nó buồn nó lên thăm tui. Hổm rày, tui kêu nó đi dìa đi mà nó chưa chịu
dìa. Hổng biết mắc chứng gì mà nó khoái ở đây hoài. Nó nói lúc rày ở dưới quê
chưa có việc, chờ gần Tết, lúa chín. Lúc đó họ mới kêu công gặt.
Cô Mận còn trẻ, khoảng dưới đôi mươi, bới tóc đuôi gà theo kiểu
con gái miệt vườn. Má bầu trắng, tròn trỉnh xinh xắn, có duyên con gái. Cổ vui
tươi và nói tía lia khi kể chuyện nhà quê. Khi nào tới bữa cơm, là cổ cũng có
chuyện để nói.
Hàng ngày Mừng nấu cơm cho Xuân và em nó. Ba người ăn cơm
chung. Xì xà xì xụp cho qua bữa: canh rau, cá khô, rau canh, khô cá, mì gói,
gói mì! Cô Mận múm mím cười, hơi ló hai cái răng nanh khi nghe Xuân nói như thế.
Ăn xong, nhiệm vụ của cô là rửa ba cái gà mên, treo lên đầu võng. Rồi cổ nằm
võng đong đưa qua lại, tiếp tục ca nữa. Mỗi lần ư, ư là gân cổ rung lên như gà
giò mới biết gáy.
– Ca hoài sao cô Mận? Hổng chán à?
– Tui đâu biết ca tân nhạc. Mà Trung Úy có mê vọng cổ hôn?
Tân cổ giao duyên cũng hay lắm à nghen!
– Ơ…ơ… Cũng biết thưởng thức chút chút. Tui nhớ hồi khoảng
năm 1958 hay 1959 gì đó, tui có đến rạp hát một lần. Cái rạp đó ở đâu trên đường
Nguyễn Trải. Tên là Thủ Đô thì phải.
– Để làm gì ?
– Thì để xem hát chớ làm gì. Thằng bạn học có người quen
trong đó. Nó dẫn vô hổng có tốn tiền. Bữa đó, tui hông nhớ gánh hát tuồng tích
gì, nhưng tui hổng quên được cô đào Bích Sơn và kép Hoàng Giang. Họ diễn hay lắm.
Khán giả vỗ tay muốn bể rạp luôn. Cô Bích Sơn, người Bắc, còn kẹp tóc, mà
ca cải lương mùi lắm.Tiếng nói kép Hoàng Giang cũng rổn rảng.
Tụi tui ở trong cánh gà thấy đủ thứ hết trơn. Xong tuồng, hạ
màn. Cô đào Bích Sơn và kép Hòang Giang lên xe hơi về nhà. Sân khấu ngổn
ngang. Họ lo dọn dẹp mọi thứ. Chừng đó, cũng đã gần hai giờ sáng rồi mà họ có ngủ
đâu. Tui thấy họ tụm ba tụm năm chia nhau đánh bài. Nào cát tê, bài cào, xập
xám, phé. Ối thôi, tùm lum. Tiếng cãi cọ vang rền. Đã đời, họ lăn đại
ra ngủ trên sàn. Trời nóng, nam trần trùi trụi, ngáy khò khò. Nữ, quần vén lên
cao, áo tốc lòi ngực ra, ngủ say như chết.
Gần trưa hôm sau họ mới dậy, rồi quây quần quanh chiếc bàn
hình chữ nhựt ăn cơm với chỉ độc nhứt có món mắm chưng hột vịt và những tô rau
trộn đủ thứ.
– Cái đó là Trung Úy coi cải lương. Nhưng mà trong cải lương
cũng có ca vọng cổ.
– Tui đâu phân biệt được.
– Vọng cổ là một bài hát có 32 nhịp, như hổm rày tui ca cho
Trung úy nghe đó. Mùi lắm à nhen! À, mà rồi, Trung Úy có ăn hôn?
– Có. Tụi tui cũng xáp vô ăn luôn. Tui thấy đào chánh, kép
chánh họ sung sướng. Chớ những người phụ coi bộ họ sống cũng chật vật lắm.
– Vậy là Trung Úy cũng mê mê vọng cổ rồi đó. Để hôm nào tui
ra chợ kiếm mấy bài tân cổ giao duyên thiệt mùi, tui ca cho Trung Úy nghe chơi
đỡ buồn.
Dưới võng của cô Mận có đủ thứ những cuốn tập nho nhỏ, chất
cho một đống. Buổi sáng, cô đi chợ với anh cô. Hôm nào Xuân làm biếng, hoặc đường
bùn lầy trơn trợt chàng hông đi, Xuân nhờ cổ mua một tờ báo. Ở đơn vị chỉ có
báo Tiền Tuyến. Đi chợ về, cô lo cơm nước. Ăn rồi, cô nằm ca ít bài. Xong, bỏ
võng treo tòn teng ở đó, đi tới chỗ mấy bà vợ lính, nói chuyện ba hồi ba đổi, rồi
đi rủ chị Hiền ra suối tắm.
Từ ngày anh Hiền chết đi, chị Hiền hông chịu về quê, ở lại
đây, sống cùng với đại đội. Chị đi chợ mua thức ăn nấu cho mấy người lính độc
thân. Vì thế, chị cũng có cái ăn cái uống sống đắp đổi qua ngày .Mỗi người lính
có một ca gạo (khoảng 600g) mỗi ngày. Họ ăn hông hết. Hai người là dư một phần
cơm cho chị. Về quê làm gì? Quê chị đâu miệt Phan Rang, nghèo lắm.
Dòng suối nhỏ, ở cuối đầu sân bay, chảy xuyên qua vườn cà phê
ông Đại Tướng Lê vănTỵ. Dòng suối nầy là nơi tắm giặt và cũng là nơi lấy nước
ăn uống cho cả đại đội khi về trú quân ở Long Khánh. Hình như có giờ giấc và
nơi ấn định sẳn đâu hổng biết. Đàn ông và đàn bà có khu riêng biệt. Đầu nguồn
là nơi lấy nước để ăn uống. Chính giữa là nơi tắm giặt của đàn bà, trẻ con. Dưới
cùng là của các ông. Vì hông có nhà tắm, các bà và các cô thường mặc nguyên quần
áo khi tắm. Có người bỏ áo, kéo quần lên tận ngực. Khi họ đến đó, trời còn nắng.
Một đám người đang tắm và giặt quần áo. Thêm mấy đứa con nít đùa giỡn bắn nước
tung tóe…
– Ê. Đừng vô chỗ lùm tre thay đồ nghe chị Hiền!
– Sao vậy?
– Chị hổng nghe hôm trước vợ Hạ sĩ Y Clip mang con ra suối đẻ
rồi chui vào lùm tre đó. Bả vạt nang tre cắt rún cho con sao? Ý, thấy mà ghê!
– Tội nghiệp. Ông đó người Thượng, ở đâu trên miệt KonTum-
PleiKu. Ổng đi lính lâu lắm rồi, trước anh Hiền của tui.
– Sao ổng hông chịu đem vợ vào nhà thương để đẻ?
– Mấy người Thượng họ theo tục lệ của họ. Họ hông đem vào nhà
thương đâu. Đẻ xong họ còn đem con xuống suối tắm nữa cà.
Y Clip, hơi lớn tuổi, nói tiếng Việt lơ lớ, thật thà, ít trò
chuyện với anh em trong đại đội. Ai có hỏi thì nó trả lời một vài tiếng, rồi mỉm
cười. Hai vợ chồng chiếm một góc xa ở cuối bìa vườn, quây lá chuối chung quanh
thành một căn lều nho nhỏ. Họ chứa đủ thứ: nồi niêu, xoong chảo, lon guigoz,
thùng đạn đựng nước…Cô vợ ở trong đó, ít khi ra ngoài. Thậm chí khi đẻ con rồi,
cô hông bao giờ bồng con ra.
Anh chàng người miền núi nầy đi rừng rất giỏi, biết nhiều loại
rau ăn được. Và đã nhiều lần đơn vị hông tìm được suối, Xuân quá khát. Y Clip
đã cắt dây chìu từng đoạn để lấy từng nắp bi đông nước cho Xuân uống.
– Chị Hiền! Chị có đem nước về hôn?
– Hông. Nhờ trời mưa, tui hứng được mấy thùng và hai ba ống đạn.
Chắc nấu cơm, rửa chén cũng được mấy bữa.
– Còn em phải đem hai thùng. Ba người thì cần nhiều hơn. Anh
hai em ảnh xài hao nước lắm.
– À. Mà còn cho ông Trung Úy. Ổng lấy nước tắm nữa chứ
gì?
– Hông. Ổng lấy nước rửa chưn hông hè.
– Sao hổng lấy nước nhiều nhiều cho ổng tắm?
– Thôi đi bà. Ổng muốn tắm thì đi ra suối tắm chứ. Tui đâu có
hầu ổng. Bà muốn gì vậy? Bộ bà cũng muốn hả? Ổng chưa có vợ đó nghen!
– Ê! Đừng gắp cá bỏ cho người khác nhen! Tui thấy có bữa, trước
lều của ổng có một ống nước.
– Hôm nào anh hai em siêng, ảnh vác về cho ổng tắm đó bà! Tui
hổng có siêng như vậy đâu!
Hai người vừa thay đồ vừa cười như nắc nẻ. Rồi họ ngắt nhéo,
la chí chóe trong lùm cây cà phê. Chị Hiền thầm nghĩ. Coi vậy chớ con nhỏ nầy
ghê lắm. Mấy hôm nay, chị thấy nó mắc võng gần ông Trung Úy hơn. Chị hỏi. Nó
nói bà chủ vườn kêu đừng cột võng vô góc cà phê. Đung đua hoài, lông gốc, chết
cây .Bây giờ nó xê lại gốc soài riêng càng sát ổng hơn. À, mà nó thấy diện hơn
lúc trước: chảy đầu bẽ ba gọn ghẻ và mặc áo bà ba bông coi đẹp đẽ. Và nghe nó
ca nhiều bài vọng cổ mùi lắm. Cái gì mà yêu anh lính chiến xa nhà… Chị tủm tỉm
cười.
– Bà cười cái gì đó bà? Ờ, mà Chị Hiền? Sao chị hông lên phụ
với bà Tư Thiệt bán có đỡ hơn hôn?
– Thằng Lưu Anh nó ở trên đó rồi. Nó đeo con Tươi như sam.
Hơn nữa con nhỏ sắp đẻ rồi còn gì.
Lưu Anh là người Tàu Chợ Lớn, đi quân dịch đã hai năm nay. Nó
hiền từ, tháo vát, cao lớn cũng khá đẹp trai. Hông hiểu sao nó chiếm được cảm
tình của bà Tư Thiệt. Chồng bà nầy đã chết trận hơn mấy năm nay. Bả hông chịu về
quê, bám theo đại đội mở cái quán nho nhỏ bán đủ thứ như gánh hàng xén. Lính đại
đội làm biếng ra chợ-hơn nữa từ chỗ đóng quân cuốc bộ ra chợ cũng xa hơn hai
cây số-nên thiếu chút đỉnh đến tiệm bả mua mau hơn. Đôi khi có những món như:
mì ăn liền, rượu đế, khô mực nhậu lai rai… rất tiện lợi cho mấy anh chàng lính
độc thân. Bả còn cho mua chịu- ghi sổ- đến kỳ lảnh lương thì trả lại.
Bà chỉ có độc một đứa con gái. Năm nay, cô bé cũng được khoảng
15 tuổi.Cô nầy có nước da trắng mượt mà, cặp mắt trong sáng và có nụ cười rất
tươi. Cô có da có thịt, cao ráo hơn mẹ. Nhiều chàng lính độc thân cũng ngấm
nghé .Bà mẹ, hơi lùn, ít khi cười, có lẽ vì bà hơi lé kim và một mắt bị cườm.
Nhưng, bà rất lanh lợi và nói chuyện có duyên.
Từ khi về đại đội, chỉ mươi ngày sau là thằng Lưu Anh đi gánh
nước, đi chợ chở nước đá, la de, rượu đế và các thứ lặt vặt… Lúc đó con bé Tươi
mới có 13 tuổi. Mới đầu thằng Lưu Anh còn về võng nó ngủ. Nhưng sau đó, nó ở lì
trên tiệm, hông về lều, trừ khi nào có phiên cắt gác. Lần lần nó thay bà Tư
cáng đáng mọi công việc. Và cuối cùng, cô bé Tươi có bầu lúc 14 tuổi. Trong đại
đội, hông ai nói gì vì bà Tư có thưa gởi gì đâu. Thằng Lưu Anh khôn, lăn chai
bám riết rồi cũng được. Còn mấy thằng Bình, thằng Thiện cứ đứng vòng ngoài đưa
mắt ngó thì được cơm cháo gì! Và con Tươi thản nhiên mang cái bụng bầu chang
bang cặp kè đi chợ với thằng Lưu Anh bổ đồ hàng bữa…
Chiếc GMC chở trung đội vũ khí nặng sắp sửa chuyển bánh. Lưu
Anh, mang súng đứng dựa vào thành xe nhìn Tươi vừa ẳm con ra đứng trước cửa
quán. Đứa con còn đỏ hỏn, chưa đầy tháng. Tiếng nói om sòm, tiếng la hét của những
người lính khác vang lên gần như lấn át tiếng máy nổ của bốn xe nhà binh. Kẻ dặn
vợ con, người dặn kẻ ở lại lo dùm công việc nầy, công việc nọ.
Đoàn xe chưa có lịnh di chuyển. Xuân và Chúc còn đứng dưới đất.
Hai đứa đang nói chuyện.
– Cuối cùng rồi tao cũng gặp mầy.
– Tớ đâu có ngờ cậu ở Sư Đoàn nầy.
– Ờ! Cái Sư Đoàn có số 10 nầy làm cho ông Hoàng Tử lưng gù mới
về khó chịu. Ông tin dị đoan. Số 10 là bù. Thế là đổi thành 18. Chín nút là nhứt
rồi. Hổng hiểu rồi đây chín nút có ngon lành hay hông hay là chúng nít???
Đỗ Bá Chúc hông thích đi sĩ quan. Nó hông khai bằng cấp. Để
khỏi bị động viên, nó lo nhảy trước. Nghỉ dạy, nó chạy chọt làm anh binh nhì
phòng hai của Tiểu khu Tây Ninh, tà tà ở văn phòng. Một ít sau, nó chán lính
bàn giấy. Hơn nữa bị các sĩ quan và thượng sĩ ít học hơn nó đì nó. Nó nản. Nó
đi lính biệt kích một thời gian. Cuối cùng, chàng ta bèn nộp đơn vào Thủ Đức.
Ra trường với cái quai chảo, nó phân vân chưa biết chọn nơi nào. À! Cái Sư Đoàn
18 có số tốt, lại ở gần Sài Gòn.Thế là hắn về đây. Phùng Xuân cho nó về làm
Trung đội trưởng Trung đội 3.
Hai đứa gặp nhau, bá vai chửi thề. Tổ cha mầy, sao lại ra tới
đây! Họ kịp chưa nhậu một bi đông rượu đế nào. Có lịnh hành quân.
– À. Cậu .Có cái nầy. Hồi tớ ở phòng nhì Tiểu khu Tây Ninh. Tớ
có đọc một hồ sơ về một cô gái ở BếnTre.Cô ta bị bắt vì đang cố tìm đường vào cục
R để làm gì đó?
– Tên cổ là gì mầy còn nhớ hôn?
– Không để ý. Nhưng có bí danh là Sáu Trân.
– Sáu Trân? Hông lẽ là Vân? Cái nầy phải liên lạc với Thiếu Úy Nguyễn Văn Rài ở phòng nhì Tiểu khu Tây Ninh thì mới có thể biết được.
Sông La Ngà là phụ lưu của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ Di
Linh. Khi đến bán bình nguyên Gia Rai, sông chảy ngoằn ngoèo, tạo nên những cái
hồ bán nguyệt rất đẹp mắt từ những khúc đoạt giang. Đồng xanh bát ngát, trù
phú. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những khu trù mật Vỏ Xu, Vỏ Đắt dành
cho những gia đình từ Trung Phần vào đây lập nghiệp. Nơi đây còn hoang dã. Có rất
nhiều thú để săn bắn như nai, min… Voi đôi khi còn đi từng đàn. Cá dưới sông suối
còn dẫy đầy. Gần quận Tánh Linh (tỉnh Bình Tuy), có Biển Lạc rộng khoảng 5km2,
có rất nhiều loại cá …
Xuân rít một hơi dài điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ lỏng le, rồi
búng tàn ra xa. Đòan xe bắt đầu đi về Tân Phong, qua Suối Cát. Đến ngã ba Ông Đồn,
quẹo trái. Ngọn núi Chứa Chan cao chễm chệ nằm sát đường. Bụi đỏ tung mịt trời.
Xe sau hông nhìn thấy xe trước. Gia Ray kia rồi. Hậu cứ của Trung Đoàn 52 trên
đồi Phượng Vĩ. Hàng năm Sư Đòan hành quân về vùng nầy khoảng đầu năm, lúc mùa gặt
sắp tới, để bảo vệ dân thu lúa, hông cho VC về lấy.
Đại đội đóng quân cuối xã Vỏ Xu, sát những cánh đồng lúa đang
ngã màu vàng. Chừng hai hôm sau, gia đình binh sĩ lục đục kéo tới. Họ lại căn lều,
làm thành những cái thum nho nhỏ trong những đám chuối. Xuân nhận thấy đó là điều
vô cùng nguy hiểm, nhưng làm sao bây giờ. Tiền lương của họ hông đủ để san ra
làm đôi cho gia đình, bắt buộc họ phải sống như vậy.
– Chà! Sao mà nhiều đồ ăn quá vậy? Lại có mấy con cá chép nướng
to tổ bố nữa.
– Bữa nay 30 rồi. Tất niên mà thẩm quyền hổng nhớ sao?
Thức ăn để một dọc dài trên những tàu lá chuối. Một góc tư nước
đá, ba kết lade con cọp lớn ngã nghiêng ở góc chuối. Mấy người vợ lính lên tiếng
mời Phùng Xuân. Mọi người bắt đầu. Lai rai ba sợi, tán dóc qua lại. Tiếng nói,
cười vang dội. Rồi đến độ ngà ngà, cụng ca cộp cộp. Anh em vui vẻ. Ở cuối đầu
kia, các bà lâu lâu cũng thêm vài câu nói tiếu lâm làm buổi tiệc thêm hào hứng.
Mận và chị Hiền cũng xúm xít cười nói huyên thiên với mấy bà vợ lính.
Các chàng lính nhà ta hơi mềm môi, bắt đầu gõ chén gõ đũa vô
gà men, ca hát vang trời. Đám quỷ sứ đó bắt đầu nói trây. Và rồi thì là rượu
nói “Má ơi! con muốn lấy anh thợ bào. Còm lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu. Má
ơi! Con muốn lấy chồng. Con ơi! Mẹ cũng một lòng như con” thì mấy bà la lên
rần rần. Hông hiểu mấy bà có có thích hông mà Phùng Xuân thấy mấy bả cũng phụ họa
thêm. Tội nghiệp, họ bị chê như vậy mà họ cũng ráng lết ra tới ngoài nầy để vui
vẻ cùng chồng ba ngày Tết.
Xuân cảm thấy trong mỗi bàn tiệc nhậu của đám đàn ông lúc nào
cũng nói đến chuyện trây trúa. Và bao giờ họ cũng lấy đề tài là mấy bà. Những
chuyện tiếu lâm luôn luôn chê các bà thậm tệ, coi họ như con cái lúc nào cũng ham
hố cái đó của con đực. Trong lúc đó, họ hông bao giờ nghĩ là họ xấu xa hơn, đụng
đâu là bốc hốt tới đó. Vậy mà mấy bả cũng vui vẻ phụ họa cùng cánh đàn ông.
Xuân ngồi xếp bằng dưới đất quá lâu. Chàng thấy ê hai chơn.
Chàng duỗi dài chơn trái. Vô tình, chơn này xé rách một vài miếng lá chuối khô. Một
chồng giấy báo cũ lộ ra. Phía trong chồng báo cũ là một mớ giấy tờ lộn
xộn. Chàng đưa mắt liếc coi. Có những thiệp đám cưới.” Sao thiệp báo tin đám cưới
Yvette có ở đây? Lại có đến hai ba cái?”
Phùng Xuân cầm lên một cái thiệp in rất trang nhã. Xuân lẩm
nhẩm đọc. Đầu óc chàng quay cuồng.
– Ai có mớ nhựt trình cũ nầy đây?
– Dạ. Của em Trung Úy.
– Làm sao chị có được những thiệp báo tin đám cưới nầy?
– Dạ. Nhà em vựa ve chai. Chắc mấy người mua lẻ họ đem đến.
Có gì hông, Trung Úy?
Xuân hông trả lời. Chàng ngồi im, ngồi im thật lâu, hổng biết
đến bao lâu. Cho đến khi Chúc nhắc đến phiên Xuân phải uống. Chàng cầm ca lên,
thò vào nón sắt múc cho thật đầy rồi đưa lên ực mạnh một hơi hết sạch.
– Hết tua chưa? Mau mau đến phiên tui.
– Sắp hết lade rồi còn đâu đến Trung Úy.
– Mới bây giờ mà hết mậy! Sanh! Lên bà Tư Thiệt kêu thằng Lưu
Anh xách một kết nữa.
– Bữa nay tất niên nên đại đội nào cũng lấy lade. Bả hết sạch
rồi. Còn có đế hông hè!
– Chơi đế luôn!
Chúc quay nhìn Xuân. Hông dè mới hơn năm nay thôi mà Xuân
thay đổi nhanh chóng. Thời thầy giáo hiền lành đạo mạo ở Tây Ninh đã qua rồi?
Nó liếc một lần nữa. Có gì vậy Xuân? Có gì cậu thay đổi dữ vậy? Đâu có lẽ là đời
lính tráng làm cậu khoác một cái áo khác?
Sanh xách hai xị đế về. Chỉ quay một vòng là muốn hết. Riêng
phần Xuân uống hơn nửa xị. Rồi lại thêm hai xị nữa. Nhóm người ăn uống lần lần
bớt đi. Chỉ còn lại Xuân, Thiếu Úy Thanh, Chúc. Cuối cùng là đế pha xá xị hông
đá, đầy một nón sắt. Thiếu Úy Thanh e dè hơn, uống cầm chừng. Ông Thượng sĩ
Danh Sơn, lúc đầu thì tố dữ lắm, bây giờ lẳng lặng rút lui đâu mất tiêu.
– Thanh! Mầy uống ít. Tối nay coi chừng đại đội dùm tao.
Trung đội Nghĩa trực đêm nay, dặn Nghĩa cẩn thận mấy toán tiền đồn.
– Bây giờ cũng sắp giao thừa rồi. Sau giao thừa thì hưu chiến
đó, Trung Úy.
– Tin VC là bán lúa giống .Nó phản thùng. Nó đột kích thì
mình chết mẹ hết.
Xuân cầm ca lên, tự động múc liền ba ca rồi nốc một hơi hết sạch,
hông còn một giọt nào. Cuối cùng, mọi người còn nghe một tiếng ót trơn tru.
Chàng lật ca ngược xuống, lắc lắc một vài cái. Nhưng sau đó, Xuân gục mặt xuống,
ụa ụa.
– Mừng! Coi chừng ổng say quá rồi mầy.
– Chưa say đâu anh Thanh! Tui say tui biết mà.
Nhưng rồi Xuân quay mặt qua bên, ụa lên một cái. Một vòi rồng
nước đục đồ ăn lẫn rượu bắn tràn qua sau. Sau đó, là thêm hai ba hơi rồi chàng
gục đầu xuống. Hông có một tiếng nói. Cõi không vắng lặng. Đầu óc quay cuồng.
Thời gian ở đâu? Không gian ở đâu?.. Đêm đã khuya. Xuân mơ màng nghe văng vẳng:
Yvette!Yvette!
Hình như có tiếng trách móc thì thầm bên tai.
– Uống gì mà uống dữ vậy hôn hè? Cho chó ăn chè. Í ẹ! Chua lè
chua lét! Tanh ói! Dơ quần dơ áo hết chơn hết chọi!
Một cái khăn ướt đắp lên mặt Xuân, xoa xoa nhiều lần. Mát rười
rượi. Đôi bàn tay mềm mại lật nghiêng Xuân qua lại, cổi áo dính đầy đồ ăn và rượu.
Và rồi, từ từ tháo đôi giày ra. Và rồi, cái quần dài…
– Chèng đét ơi! Sao mà cứng ngắc cứng ngơ như khúc củi
đước vậy nè chời!
Đôi tay đó khừng khựng, mần mân, về vê, tưng tiu…
Rồi cơn mưa dông bất ngờ ập xuống tới ta tới tấp. Nước tuôn
chảy dầm đề, đẩy khúc củi ra suối, ra sông. Khúc củi bắt đầu phiêu lưu, leo
lách trôi theo dòng suối nhỏ, va vào đá, đập vào cây. Rồi lên thác xuống ghềnh
tuôn ra dòng sông lớn, đổ ào ra biển khơi, bập bềnh theo sóng vỗ…
Mái tóc dài ngào ngạt mùi lúa thơm phủ trùm lên mặt Xuân.Và
hai tay mềm dịu trở nên cứng rắn nắm tóc chàng cà nghịt, cà nghịt như muốn bứt
ra từng sợi…Yvette!Yvette!
Đêm ba mươi Tết. Trời tối như bưng. Giao thừa đã qua. Gà gáy
canh hai…
Phùng Xuân mở bừng mắt ra. Trời đã bửng sáng. Đầu óc còn quay
mòng mòng. Chàng nằm im một lúc. Xong ráng chống hai tay ngồi dậy. Chàng ngó
qua ngó lại.Im lặng. Cái gì đã xảy ra đêm hôm qua? Thiệp báo tin mừng của
Yvette. Uống rượu. Uống thật nhiều la de. Rồi đế. Đế pha xá xị. Mữa. Mữa. Mữa tới
mật xanh luôn. Say hông còn biết trời trăng… Bộ quần áo dính đầy đồ ói tanh nằm
kia. Ai đã thay chúng? Ai đã làm gì mình đêm qua? Da thịt Xuân còn ướt rít trịt.
Ai? Ai? Xuân vụt đứng dậy. Chàng ngó quanh quất. Vắng teo. Đại đội đi đâu? Lều
võng còn kia mà!..
Mừng chợt hiện ra, nhìn chàng. Nó cười cười.
– Đêm qua thẩm quyền say quá. Uống dữ à nhen. Hết lade rồi đế.
– Tôi uống nhiều lắm hả? Ủa. Sao ở đây im lặng quá vậy?
– Anh em trong nhà dân chúng đang hô dô dô, vui vẻ ăn Tết. Bữa
nay mùng một mà Trung Úy.
– Đêm qua hổng có gì hả? Thằng Lanh có trực máy hay bỏ đi đâu
rồi. Thiếu Úy Thanh có cắt một trung đội ứng chiến hôn?
Chàng đứng lên, vươn vai, bẻ người qua lại cho tỉnh táo. Xong
xuôi đâu đó, chàng đi một vòng xem lại nơi đóng quân Đám nầy tụm ba tụm bảy
đang cười nói um sùm bên xị đế và mấy con khô cá khoai nướng. Họ mời Xuân.
Chàng lắc đầu từ chối. Đêm hôm qua xỉn quá rồi. Đám kia chùm nhum bên sòng bài
cát tê hay xập xám chướng. Chàng biết vui ba ngày Tết, nhưng có anh em ra giêng
sạch túi. Cấm cản cũng hông được. Mấy đại đội khác đều như vậy. Mấy bà vợ nhiều
khi cũng có máu đỏ đen như chồng. Qua mùng ba, hết Tết, hết hưu chiến. Tất cả
phải trở lại như cũ. Đêm đêm phải di chuyển chỗ ngủ, hết binh, hết tố. Hông còn
cù lủ, đồng hoa, suốt, ba tây, bù, chín nút gì ráo trọi…
Cái lều của cô Mận hổng còn ở góc bụi chuối gần sát bên Xuân.
Đồ đạc được tem tém. Buối ăn trưa chỉ còn hai thầy trò.
– Ủa! Cô Mận đâu rồi? Mừng.
– Nó với mấy bà vợ lính về quê ăn Tết. Họ theo xe đò đi từ
khuya.Nó nói đi sớm về đến Cần Thơ cho khỏe, với lại gởi lời chào Trung Úy. Ra
giêng, họ kêu công gặt rồi.
Xuân ngưng đũa, cầm chén cơm nghĩ đến chuyện đêm qua. Cô Mận
chớ hổng ai trồng khoai đất nầy. Cô gái miệt vườn nầy ghê thiệt! Hông hiểu cổ để
ý mình từ lúc nào. Cũng em em như Loan, Khanh, Vân. Các cô nầy nhiều khi vượt
ra ngoài lề lối.
Nhưng hông như Yvette, còn nhiều ràng buộc của gia đình. Mình
hông trách gì được Yvette. Cuộc tình giờ đây như hông còn nữa. Nàng đã lấy chồng
Pháp. Nàng về bên tận thành phố Arles xa xăm. Ở đó có vùng Camargue. Khoảng năm
1939-1941, những người lính thợ Việt Nam bị Pháp mang sang để trồng lúa và làm
muối. Yvette ơi! Em hãy ở đó đi, để em còn nhớ mùi thơm hương lúa và vị muối mặn
chát đắng của Việt Nam. Hương thơm của lúa vẫn còn mùi ViệtNam đó em. Yvette
ơi! Xa em rồi. Xa em mãi mãi. Chắc hông bao giờ gặp lại. Đúng thế. Chắc chắn
hông bao giờ gặp lại. Ngày qua ngày, hành quân rồi lại hành quân, có thể anh
thua trong cuộc chiến nầy và yên ngủ trong lòng đất lạnh mà em hông bao giờ hay
biết! Rồi có khi nào Mỵ Nương nhỏ giọt nước mắt trong chén ngọc khóc Trương Chi
hông em!
– Trung Úy! Ông ăn đi chớ. Xong rồi khoảng xế chiều qua bên
nhà bà Sáu kế bên.
– Để làm gì mậy?
– Ậy. Thẩm quyền qua bên đó rồi biết.
Đủ thức ăn bày lộn xộn trên bộ ván. Một tô lớn cà ri gà. Một
thau gỏi cây chuối hột trộn thịt gà. Một tô bún. Một dĩa bánh tét cắt khoanh
tròn. Con cá lóc nướng vàng ươm. Một tô thịt kho tàu… Nhiều quá làm Xuân choáng
ngộp. Ngày Tết sao mà ăn loạn xà ngầu vậy nè? Hoá ra sẳn dịp Tết nhứt, bà Sáu
nói đãi lính Sư Đoàn. Lính Sư Đoàn mà ngon vậy hả? Đi đến đâu là dân tình cảm mến.
Mới đóng quân mấy hôm, đứa con gái bả-Út Lâm-đã quấn quít bên chàng Trung sĩ
Hơn ở Trung Đội 2 của Thanh. Chàng nầy trắng trẻo, đẹp trai, ăn nói nhỏ nhẹ,
dáng vẻ thư sinh. Bà Sáu khen nó. Nó hiền lắm. Chàng lính học trò hớp hồn Út
Lâm. Cô bé 16 tuổi, đang học lớp đệ Tứ, mơ mộng làm người yêu anh chiến sĩ miền
xa!
– Tụi bây làm sao chớ kỳ nầy tao hông đứng ra làm chủ hôn nữa
đâu nghen. Uống rượu hoài mệt lắm.
Chàng tự trách mình đêm qua uống quá chén.Trách nhiệm của người
sĩ quan với gần một trăm sinh mạng hông phải là chuyện nhỏ. Còn gia đình họ,
con cái họ. Gia đình của chàng là những người lính thân yêu sống chết với
chàng. Chàng nên biết điều đó. Nên hôm nay Phùng Xuân chỉ đưa ly nhép môi cho
có lệ, lấy cớ đêm qua, chàng uống quá nhiều nên còn mệt. Hơn nữa, ngày mai, đến
phiên đại đội Xuân phải đi tuần tiểu đến những cánh đồng xa gần sông La Ngà…
Đại đội đi ven theo rừng chuối. Rồi dừng lại trong khu rừng
cây rậm rạp. Gió mơn man những ngọn lúa vàng uốn ỏng ẹo vút tận bờ sông. Gié
lúa rung rinh, lúc lắc vân vê hạt lúa. Những đàn chim lững lờ bay lượn về cuối
rặng núi xa.
Buổi ăn trưa đầu năm của lính cũng hông có gì hơn thường
ngày. Xuân nhìn đồ ăn đồng đội và nhìn lại của chàng. Hôm nay cũng cá khô nướng
và cơm gui-gô. Chỉ toàn là món ăn rẻ tiền và dễ làm. Đã có hai người lính Thượng
gốc ở Lộc Ninh chết vì khô cá nốc. Hông ai biết đây là loại cá có mật rất độc.
Họ ăn vô rồi nằm ngủ ly bì cho đến xế chiều. Trung sĩ Can gọi họ thức dậy,
nhưng đã trễ. Hai binh sĩ nghèo nàn, hông vợ con, chết trên đường tới nhà
thương. Mừng cũng đã nhiều lần khoe khi còn ở Phước Lợi: cá nốc tươi xào ăn rất
ngon. Hông hiểu chàng có ăn chưa và Mừng cũng hông bao giờ nói. Đóng quân ở những
nơi như thế nầy, lính tráng tìm cái ăn cái uống dễ hơn. Đôi khi, chàng thấy họ
bắt được những con cá chép lớn, con cá lóc có râu dài…
Còn ở Xuân Lộc hông được. Dân chúng nghèo nàn lắm, toàn là
dân làm rẫy. Mọi thứ đều phải ra chợ. Riêng chàng, chàng lại muốn trở về. Mỗi
buổi sáng đến quán Ba Tiều hay ra chợ ngồi nhâm nhi ly cà phê đen, hút vài điếu,
thả khói mơ màng nhìn người qua lại; và nếu có may, gặp được người bạn cùng
khóa để biết được thằng nào còn sống hay chết. Hoặc đến thăm chị Kim Sa, vợ của
Liêm.
Mua báo đọc để biết tin tức Sè Gòn giờ ra sao? Sè Gòn giờ ra
sao? Chỉ cách nhau có 90km mà sống ở đây chàng hông biết bây giờ nó thay đổi
như thế nào. Dân chúng ở tỉnh lẻ sống bình thản quá. Hình như đời sống ở thủ đô
hông ảnh hưởng tới họ? Ngày qua ngày, tiếng đại bác ầm ì, tiếng máy bay lên xuống
rền vang, tiếng súng ì xèo, tiếng xe nhà binh chạy rầm rầm trong bột cát đỏ mù
mịt như là nhịp thở của cư dân Xuân Lộc…
Đội trực thăng rời khỏi phi trường đầy bụi đỏ vần vũ, chập chờn
như đàn chim, đảo qua đảo lại, lượn lên lượn xuống trên những đồn điền cao su
bát ngát: Suối Tre, Dầu Giây, Cẩm Mỹ, Cẩm Đường… Những ngôi nhà ngói đỏ hiện ra
chen lẫn với hồ bơi nước trong xanh, sân tennis và sân bay nhỏ. Mỗi đồn điền là
một vương quốc khép kín. Các chủ nhơn liên lạc cả hai bên để sống yên lành. Tây
đã về từ lâu nhưng Tây vẫn có sâm banh, sữa bò, phô mai Roquefort, Camembert…,
Cognac, Whisky, Rhum… ăn uống phè phỡn đều đều giữa đám phu cạo mũ nghèo nàn.
Và hơn nữa, họ còn sản sinh ra những đứa con lai đẹp đẽ. Nổi tiếng nhứt là những
cô gái ở đồn điền Suối Tre.
Phùng Xuân ngồi bên hông trống trải, nhìn xuống những đám rẫy
chung quanh Xuân Lộc. Từng cụm khói đen, trắng lan tỏa lên, là đà trên những
đám chồi xanh. Trực thăng dần bổng lên cao, chen trong mây trắng,
trắng tơ bồng bềnh. Rồi những con chim sắt thình lình uốn vòng hướng thẳng về
Bình Tuy. Mịt mù nước biển trong xanh xa tít, tít mù mù. Chỉ còn tiếng ù ù của
hai cánh quạt. Có phải mình bay lên cõi tiên rồi hôn, bình bồng trong mây nước
vời vợi?… Rồi sau đó, phi đội quay ngắt trở lại, lần lần xuống thấp, bay gần
sát là là đầu ngọn cây rừng. Trảng trống vụt hiện ra. Đàn chim chơm chớp ầm ì
trên những đám cỏ tranh, sát cánh rừng của Mật khu Mây Tào. Binh sĩ ào tuôn ra,
chạy nhanh vô trong những chùm cây rậm…
Trở về Xuân Lộc, Tiểu Đoàn ứng trực hành quân trực thăng vận.
Thằng 1, 2, 3 thay phiên nhau nhảy môt ngày thì nghỉ hai ngày. Mục tiêu thường
là chung quanh thị xã, trong tầm đạn yểm trợ của pháo binh 105, 155. Đôi khi lục
soát được vài cái máy may, đôi khi vài chục bao gạo, thuốc tây… Đó là kết quả của
đám gian thương tuồn hàng cho VC. Đến gần xế chiều, cha con lục tục kéo ra quốc
lộ, lên GMC trở về…
Xuân cầm quyễn sách bỏ túi: Le Don paisible ( Sông Don êm đềm)
của Mikhail Cholokov lật tới lật lui. Chàng đọc hông biết bao nhiêu lần trong
những ngày ứng trực nhàn nhã. Thanh đã vù cái ù cho đúng 24 giờ phép. Nghĩa, bà
xã và hai người khác tối ngày lo điều binh khiển tướng dưới bụi chuối. Còn Chúc
cứ ngày nào trên cái bàn ọp ẹp của nó cũng có bình trà với một vài cái ly cũ
đóng đáy màu vàng khè, nhâm nhi trọn buổi. Gần xế chiều, thế nào cũng có một
chút đế hay rượu nếp than của Bà Tư Thiệt. Hông nhiều, chỉ một hai chung nhỏ.
Lương sĩ quan có năm, sáu ngàn một tháng, đừng nói chi đến
lính, hông đủ để mua Black& White, Jim Bean, Johnnie Walker nhản đỏ, nhản
đen… hay Martell, Courvoirsier đâu.(So ra Martell $600 hay $700 thì cũng hông mắc
lắm.Mà mấy ông thần nầy uống thứ rượu ngon uổng tiền. Khi mà mềm môi rồi thì
đâu có phân biệt được rượu ngon hay dở. Tới nước đó, ba cái đế nước nhì nước ba
lạt nhách lạt nhơ mà tụi nó cũng uống nghe tron trót. Đệ tử lưu linh thì một
hai chai Martell thấm tháp gì ).
Lương lính đâu phải xài có một mình. Thằng nào độc thân hoặc
gia đình khá giả, rủng rỉnh “địa” còn đỡ. Thằng nào có vợ con, một
cảnh hai quê thì mỗi tháng phải“ chai hia”. Có nhiều thằng còn khổ hơn, lớp
nuôi vợ, nuôi con, còn phải nuôi cha mẹ. Nên“đi lính” thì đâu phải lo cho lính.
Phần đông vợ ở nhà phải lo kiếm ăn thêm. Thành thử, nhiều khi đại đội như là một
gánh hát nho nhỏ. Vợ con lính lẻo tẻo đeo theo để có thể sống đủ với đồng
lương ít ỏi mấy ngàn một tháng.
Thằng Dẫu, ô đô của Chúc, là dân miền Tây, nên làm mồi giỏi lắm.
Một hai trái cóc, vài miếng khô cá sặc trộn với mấy cọng bạc hà là cũng đủ đưa
cay với một hai chiêu. Hai thầy trò khề khà rất lâu rồi mới tới cơm nước. Khi
nào có mồi ngon thì Xuân cũng tới, ngồi vào cái ghế thấp, cà sịt cà sọt đóng bằng
gỗ thông. Chúc, giờ đây coi bụi đời hơn Xuân nhiều. Nó ở gần thằng Dẫu riết rồi
giọng Bắc kỳ của nó cũng có nhiều chữ r. Đôi khi rượu vào, chàng cũng nghe một
vài tiếng địt mẹ và Chúc văng tục đủ thứ chuyện trời mây đất nước. Thời hai đứa
là học trò, sinh viên và thầy giáo đạo mạo đã qua rồi. Cuộc sống nhà binh biến
đổi Xuân và Chúc. Khi đụng trận, hai đứa cũng đụ mẹ, địt mẹ, đéo bà ỏm tỏi với
đám lính đơ dèm cùi bắp mới tò te. Nếu hông, tụi nó nằm ì ra đó thì chết cả
đám. Xong rồi, thầy trò vui vẻ cả làng.
Ngôn ngữ nhà binh là vậy. Có thằng nào lại hông chửi thề. Thằng
nào hiền lắm như cục bột, rồi nhiều lúc ra trận cũng trở thành thằng ba gai, ba
trợn, chửi thề tùm lum. Mà đâu phải ở lính mình đâu. Lâu lâu Xuân nghe mấy thằng
Mẽo tụi nó cũng “Damn, shit, f..k” như thường. Có phải hở đi lính là như vậy
hôn?
Thời làm trung đội trưởng, Xuân cảm thấy mình gần gủi với đám
binh sĩ thân thuộc hơn. Bây giờ lên làm đại đội trưởng, chàng thấy có vẻ gì hơi
xa cách, và thân tình cũng mất đi một chút. Đông con cái quá chàng hổng ngó
ngàng hết được.
Trung Úy Trần Công Điềm, khóa 19, đại đội trưởng đại đội 3,
mướn một căn nhà gần nơi đóng quân. Thỉnh thoảng anh Điềm và chị Liên mời Xuân
ăn cơm. Bữa cơm có tô canh củ cải trắng và tép chín đỏ ngọt ngào do chị nấu bao
giờ cũng ấm cúng tình thân gia đình. Chị Liên làm cho cơ quan Mỹ ở Xuân Lộc.
Người chị nhỏ, lanh lợi, giọng nói nhỏ nhẹ. Ngôi nhà gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ.
Những đôi giày MAP da đen bóng lưỡng do ô đô đánh bằng Kiwi nằm ngay ngắn bên
góc tường. Thật là một mái ấm gia đình lý tưởng cho người lính xa nhà. Anh Điềm
ít nói, ít cười, đạo mạo, có vẻ như kiểm soát ông thượng sĩ thường vụ đại đội
chặt chẽ. Còn Xuân, mỗi tháng chàng cũng biết số gạo dư ra của lính đào ngũ.
(Thượng sĩ thường vụ Dương Thông nghĩ Xuân hông biết?).Nhưng mà làm gì với số
dư đó? Chàng thích ngủ bờ ngủ bụi, lây lất cùng những binh sĩ thân yêu hơn là,
để hông được nhìn ánh trăng xuyên qua lá sầu riêng, lá cà phê hay tiếng mưa rơi
lộp độp trên poncho, để hông có đươc tiếng chào mời thân yêu khi đi ngang
qua độ nhậu đang xôm tụ: Lỳ lam ( Nói lái: Làm ly ) thẩm quyền! Đó có
phải là một sự thiệt thòi hôn?
– Dạ thưa Trung Úy có thư. Cái thư nầy tôi vừa lên Tiểu Đoàn
lấy về.
Bao thư đã cũ lắm rồi. Nhiều dòng chữ ghi nguệch ngoạc tùm
lum lên đó. Nó đã chuyền đi qua ấy trạm quân bưu, từ KBC 4027 đến KBC 4511. Chắc
Yvette hông biết Xuân ở nơi đâu nên gởi về trường. Nàng hy vọng là lá thơ sẽ đến
tay chàng trước ngày đám cưới. Màu mực trên bao thơ cũng phai mờ.
Trung sĩ Trương Xuân Thu, thư ký đại đội, cầm lá thư nhăn
nhúm, hơi ái ngại đưa cho Xuân. Tên người gởi vẫn chưa nhòa nhẹt. Hông phải
Yvette Đỗ mà là Đỗ thị Đ… Sao kỳ lạ? Bao nhiêu tháng rồi.Tưởng chừng như lá thư
hông bao giờ tới.Xuân cầm lá thư trên tay xoay qua xoay lại nhiều lần. Anh tìm
dấu vết gì của em quanh bao thư nầy, hả em? Hông vội vàng, chàng lấy lưỡi lê rọc
nhè nhẹ, rồi từ từ rút những tờ giấy ra…
Em ơi. Yvette Đỗ ơi!! Còn đâu nữa ngày chợt mưa chợt nắng làm ướt áo dài trắng em? Còn đâu nữa buổi trưa hè bên bến đò Bình Quới? Còn đâu nữa những ngày lang thang trên đường Tự Do? Còn đâu nữa những lúc hai đứa ở lỳ suốt ngày trong rạp Eden, chỉ xem có một phim? Còn đâu nữa những ly kem mát rượi? Còn đâu nữa? La vie en Rose? Mà em say mê giọng cao vút của Edith Piaf? Còn đâu nữa? Ngày hẹn sẽ trở về Mỹ Tho: Sao lại chỉ có mình mình? Còn con mình nữa chứ mình? Ôi! Còn đâu nữa? Còn đâu nữa?… Em ơi! Bây giờ thì chỉ còn có: Bóng hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao! (Kiều)…
– Thưa Trung Úy. Có Thiếu Úy Kha mới về trình diện Trung
Úy.
Xuân đang nằm trên võng, vụt ngồi dậy. Người thanh niên hơi lớn
tuổi hơn Xuân đang ở trước mặt chàng. Đầu đội nón sắt mới tinh, có lưới ngụy
trang; quần áo cáo cạnh ủi hồ thẳng nếp; hai bông mai vàng sáng giới; giây ba
chạc một bên có gắn đèn pin màu cứt ngựa, một bên có địa bàn Lensatic bỏ trong
bao; giây TAB đeo hơi lỏng, trễ tràng cây Colt 12 xề xệ hơi giống hình ảnh
chàng cao bồi mỹ mà Xuân đã coi từ lúc bé (chỉ khác là khẩu Rouleau), Thiếu
Úy Kha đứng nghiêm chào, trình diện rồi bỏ tay xuống. Xuân nhìn vào sự vụ lịnh:
Ngô Kha. Có phải Ngô Kha của vụ biến động miền Trung hông mà chàng đã từng biết
tên qua báo chí? Sao lại lưu lạc đến tận nơi nầy?
Ngô Kha cũng là một cây đánh tứ sắc. Hoằng, khạp, đôi, lúc
nào cũng có đều đều trên tay nó. Nó tới hoài. Hai vợ chồng Chuẩn Úy Nghĩa bứt từ
chến nầy đến chến khác. Anh chàng lại có món ớt xào kiểu huế cay điếc con ráy.
Mỗi lần ăn cơm là vít ra một miếng dèo dẽo hòa vô nước mắm. Trong đại đội hông
có người gốc Huế, nhưng lần hồi, Ngô Kha cũng sống vui vẻ với anh em.Cũng treo
võng tèng tèng dưới poncho.
Vậy chớ còn đỡ hơn Chuẩn úy Nghĩa. Hai vợ chồng luôn luôn ăn
chay nằm đất. Mà có nằm giường thì kiếm đâu ra. Còn nằm ghế bố xếp nhà binh nhỏ
tí tẹo, hẹp té làm sao đủ cho hai người. Phải bỏ tiền túi ra mua ghế bố chớ.
Thiếu úy Thanh ngạo: “ nè hai ông bà có ngủ ghế bố thì nhè nhẹ thôi nhen, mạnh
quá gãy chơn hết à nghen! ”. Tới phiên vợ Thiếu Úy Thanh ra thăm chồng nhơn dịp
bãi trường, ở mươi ngày, thì cũng phải hạ thổ. Bà vợ Chuẩn Úy Nghĩa ghẹo lại: “
Kỳ nầy bà thế nào cũng có bầu. Ra thăm chồng mà cứ ăn chay nằm đất, Trời Phật
chứng giám cho bà có con trai! ”
Ở một thời gian, thấm đời nhà binh, nụ cười Ngô Kha hông còn
có vẻ khinh khỉnh ngạo mạn nữa.Nhưng bộ dạng vẫn vậy: cà xàng cà xàng. Giọng huế
của Ngô Kha cũng giống các bạn thời 60 làm báo Thế kỷ Hai Mươi như Linh Vũ, Trường
Dzạ.
– Giọng nói khó nghe quá. Mới đầu tui cứ ư ư hả hả với ảnh
hoài. Cái gì mà ngụy chưa tề, ốt dột? Tui hổng hiểu gì ráo!
– Chị Nghĩa.Chị hông biết chớ giọng huế là giọng cổ xưa, còn
rặc ròi của tiếng Việt. Chớ giọng Bắc thì lai Tàu Quảng Đông và Nam như mình
đây thì lai Miên, lai Thái… một ít rồi. Giọng cô gái huế trầm bổng nghe ví von
lắm đó chị!
Chỉ có anh chàng Chúc Bắc kỳ là còn hầm hừ hậm hực như chó
giành xương. Rượu vào lời ra.Nó nói phang ngang bữa củi, “dọc ngang nào biết
trên đầu có ai” (Kiều).Nó cứ nói Ngô Kha là người đâm sau lưng chiến sĩ.Trong
lúc ở ngoài đơn vị lo chống giữ VC thì hậu phương kết bè kết đảng, nay ủng hộ
người nầy, mốt lo ủng hộ người khác tranh giành quyền lợi, địa vị cá nhân. Họ
làm cho hậu phưong rối tung lên. Tranh đấu cái gì? Tranh đấu để tiêu diệt lẫn
nhau thì đâu phải vì quyền lợi quốc gia, đâu phải để cho dân tộc được trường tồn.
Đó là những nhóm người ích kỷ, chỉ thỏa mãn tham vọng cá nhân. Trí thức cái gì?
Trí thức mà còn ngu muội, bị mấy thằng VC nó xí gạt. Rốt cuộc thì cũng tàn đời
luôn.
– Thôi mầy ơi. Chắc nó cũng bị đì dữ lắm rồi mới ra tới đây
đó.
– Mông sừ nầy chơi không được. Cho lủy đụng mấy trận để lủy
biết thế nào là gian khổ của lính.
– Sao hôm nay đột nhiên mầy sổ tiếng tây bồi vậy? Thì cũng sắp
sửa hành quân rồi đây. Chiều nay tao có lịnh lên Tiểu đoàn họp. Bây giờ, ba thằng
con có đầy đủ hết rồi, nên lủy làm đại đội phó, đi theo kè bên tao. Dù sao nó
cũng là từng là thầy giáo như tụi mình, còn cà ngơ cà ngáo trận mạc lắm, đẩy nó
ra tận cùng thì rủi nó chết cũng tội nghiệp. Mầy cũng nên chuẩn bị đi. Chắc kỳ
nầy lủi vô rừng lâu đó.
– Tớ cam đoan với cậu là lủy không ở với mình lâu đâu. Cái
phe Phật giáo lúc rày mạnh thế lắm đó, khuynh đảo đủ thứ chuyện. Ít hôm rồi họ
cũng móc xừ lủy về cho mà xem!
Vì là hành quân lớn, chuẩn bị rầm rầm rồ rộ, nên có thể kế hoạch
hành quân bị lộ hay bị nội tuyến(?). Cũng may là ngày hôm đó, hông hiểu sao
Trung đoàn 11 kỵ binh Hoa Kỳ (đóng quân ở Black Horse, Hàng Gòn) lại tiến lên
trước, chớ nếu hông thì hổng hiểu Tiểu Đoàn 3/43 đang di chuyển bằng xe có còn
nguyên vẹn hôn?
VC đã độn thổ phục kích trên một đoạn đường dài khoảng hơn một
cây số từ cuối ấp Bảo Vinh đến Suối Cát. Vài M113 và M41 bị đốt cháy. Thiệt hại
hai bên đều đáng kể. Sau nhiều giờ Cobra quần thảo, chiến trường tạm yên. Xuân
còn nhìn thấy những chiến binh VC ngụy trang đầy rơm bị chết cháy đen, có khi
xác hông còn nguyên vẹn, còn nằm rải rác hai bên đường, bên miệng hố, và những
người lính Mỹ còn gục trên pháo tháp M41 và bên hông M113. Có lẽ nhìn thấy lần
đầu nên Ngô Kha hơi nhăn mặt. Chiến tranh có tàn ác hôn? Tại sao những người
lính Mỹ bỏ mạng nơi xứ người xa lạ và những binh sĩ VC bị bùa mê thuốc lú
nằm bên nhau? Bạn cũng hên đó Ngô Kha! Nếu hông, Tiểu Đoàn đi đầu ngày hôm nay
thì có thể bạn đã phơi xác dưới tay các đồng chí của bạn?
– Tụi mình chui vào rừng mấy hôm rồi?
– Hôm nay là bảy ngày.
– Vậy mà không thấy bóng dáng VC nào hết. Lội trong rừng ba
ngày bị muỗi đốt, vắt cắn, khát nước.
– Cũng may cho mình. Có thể thằng 275 bị bể rồi khi đụng với
Trung đoàn 11 kỵ binh Hoa Kỳ. Chắc nó rút đi xa, ngoài tầm pháo binh. Mầy đừng
than. Còn tiếp tế dài dài, thêm nhiều đợt ba ngày nữa để lùng sục Mật Khu Mây
Tào nầy. Tội nghiệp Ngô Kha. Chắc lầu đầu tiên nó lội rừng nên hông biết gì hết.
Hôm trước có dặn phải đổi bông mai đen và đừng đeo ở hai bên cổ áo. Chỉ cần một
bông mai đen gắn ở trước ngực là đủ rồi.
– Cậu có dặn ô đô chỉ cho nó cách mắc võng, căng poncho, quét
sạch chung quanh chỗ ngủ để rắn rít không bò vô….
– Cái đó hông cần. Thằng tà lọt nầy lính cũ. Nó rành mấy vụ nầy.
Dạo nầy, lính đào ngũ khá nhiều. Về 10 thằng thì đào ngũ hết 5, 6. Riết rồi,
toàn thứ sút tay gãy cán, hổng đánh đấm gì được.
Thằng Ca, lính đơ dèm cùi bắp, hông trung đội nào chịu chứa.
Nó là thằng ghiền mà hông hiểu sao phòng tuyển mộ lại nhận. Mỗi lần nó lên cơn
là bày ống chích nhựa và kim cũ xì, dơ dáy ra. Nó lấy lon sữa bò rỉ sét, bỏ cục
gì màu đen vô, đổ chút xíu nước, hơ đèn cầy, nấu cho sôi lên. Xong nó lấy ống
chích hút vào độ 5cc. Rồi nó lấy ngón tay trỏ xoa xoa nơi cánh tay nổi u nần đầy
gân xanh. Chỉ cần một tay thôi, nó cầm ống chích lanh lẹ bơm vào mạch máu.Thế
là, a lê hấp, nó đứng dậy, vươn vai, lấy hai bàn tay chà chà cùng khắp mình mẫy
ra vẻ sảng khoái. Bây giờ ai kêu nó làm cái gì nó cũng làm. Khổ hơn nữa là bà vợ
lại cũng ghiền như nó. Mỗi ngày hai vợ chồng phải có đều hai cử như vậy, nếu
hông, bọn họ ngồi cú rủ như hai con gà nuốt dây thun. Như thế thì làm sao mà đi
đánh giặc được?
– Ngày hôm nay, tớ thấy nó “ngã bàn đèn” dọc đường. Ai đi qua
cũng mặc kệ. Chừng xong rồi, nó ôm súng, vọt lên trước, tuôn bờ tuôn bụi ào ào,
bất kể gai góc… Rủi đụng trận mà nó đang lên cơn như vậy thì chết cũng tội nghiệp.
– Tao biết làm sao bây giờ, hả Chúc? Mầy với tao thực ra còn
biết Cộng Sản một chút ít qua sự tìm tòi riêng ở sách vở. Nhà trường thì chỉ có
những giờ Công Dân Giáo Dục. Còn đám lính mình có hiểu rõ gì đâu? Khi mầy ở Thủ
Đức, có giờ học về chánh trị. Có ai trình bày cho mày rõ ràng về sự nguy hiểm của
chủ nghĩa Cọng Sản hôn?…
Chúc im lặng, lấy ra điếu thuốc quăn queo, ngửi ngửi. Trăng
đã lên gần khỏi ngọn cây. Ánh sáng nhợt nhờ xuyên qua kẽ lá chập chờn rung theo
cơn gió nhẹ. Nhiều cây cao nghều nghệu, thẳng tắp hình như những người khổng lồ
vươn tay nắm lấy mặt trăng. Những cây thấp nằm lũng la lũng lẵng im lìm như ngủ
say trong đêm ngà vắng lặng.
Đêm dần khuya. Hai đứa ngồi trên nón sắt gần bên nhau. Xuân
thò tay vào túi, lấy bao thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ xẹp lép ra, để vào lòng bàn
tay, phà một hơi dài cho ấm, đưa lên mũi, hít một hơi thật đầy lồng ngực. Mùi
thuốc thơm nhè nhẹ len rần rần vào phổi làm cho chàng tỉnh người. Đêm khuya. Rừng
âm u, bí hiểm say ngủ như chết. Thỉnh thoảng có tiếng tắc kè vang lên một
hồi gần nơi đóng quân. Rồi, sau đó, từ xa xa, tiếng vượn hú đêm một hơi dài.
– Mình ở trong rừng sâu lâu quá. Gần hai tuần rồi. Thằng
Nghĩa ngày hôm qua nó nói với tớ nó bắn máy bay ướt quần hết trơn.
– Nó có vợ đeo nó như đĩa mà còn vậy.
– Cậu đừng có cười. Khuya thức dậy, tớ đi đái xong rồi, mà nó
còn không chịu xìu, cứ ngổng lên hoài.
– Thôi đi cha nội, ráng mà chịu. Ai lại hông như vậy… Thôi đi
ngủ đi. Ngày mai, thằng Thanh đi đầu…
Đại đội đi khỏi nơi đóng quân khoảng ba tiếng. Có tiếng súng
nổ dồn dập và tiếng hô xung phong vang rền. Xuân cùng hai người lính mang máy
và Ni, Lang tuôn, vẹt cây đi nhanh lên trước, đến trung đội của Thanh. Tiếng
súng vẫn còn nổ dòn và tiếng la hét vang dội kêu các người dưới hầm lên mau.
– Còn mấy người dưới hầm hông chịu lên Trung Úy.Hình tiếng
đàn bà con gái hông hà. Lúc tụi tui chạm súng, họ có chống trả lại sơ sài, bắn
vài ba phát đạn rồi rút xuống hầm.
– Anh có cho lục soát và bố trí chung quanh đây hết chưa? Để
tui cho thằng Nghĩa lên phía bên trái phụ anh.
– Còn mấy người dưới hầm. Tôi nghe tiếng chí chóe, hình như
tiếng con gái nhiều hơn. Kêu mỏi miệng rồi mà họ hông chịu lên. Hình như có một
người bị thương.
– Dễ mà.Anh cho kêu ít lần nữa đi. Anh hăm hổng lên là ton lựu
đạn xuống. Mà khoan, mình hăm vậy thôi chớ ton lựu đạn xuống là họ chết hết.
Anh có lựu đạn khói hông? La hét cho dữ nó, rồi bắn ít phát bên ngoài. Hổng được
rồi anh hãy cho tụi nó ton lựu đạn khói xuống.
Làn khói phủ trùm miệng hầm. Nhóm người dưới hầm lần lượt
ngoi lên lóc nhóc như cá kèo trong bùn non. Ai nấy đều ho sặc sụa. Toàn là các
cô gái trẻ bân, mặc đồ bà ba. Thanh cho gom cả đám lại, bắt để hai tay lên đầu.
Mặt cô nào cô nấy xanh như tàu lá chuối. Một cô mạnh dạn la lên: còn một cô dưới
hầm bị thương nặng ở chơn. Thanh nghĩ chắc có thể là cô du kích, chống cự lúc
chạm súng đầu tiên.
Màn khói vừa tan. Cô gái cuối cùng lóc lách như cá rô, lên vừa
khỏi miệng hầm. Một người lính nhanh tay bước tới tước lấy khẩu AK. Cô bộ đội
áo quần sốc sết, đầu tóc rối nùi, hông bò nổi nữa, nằm bệt ngay ra đó. Hai người
lính kéo cô ta lên. Dòng máu đỏ tươi rỉ ra ướt bắp đùi. Xuân cho y tá đại đội
lên băng bó.
Các cô gái nhìn đồng đội của họ bị thương nằm im lìm. Họ tỏ vẻ
lo sợ. Đám binh sĩ đột nhiên đi qua đi lại nhìn chầm chập vào bầy con gái. Đầu
tiên, Xuân hông để ý, nhưng cuối cùng chàng nhận ra có một cô mặc áo bà ba đen
đứng trên hàng đầu. Áo cô ta bị bung ra, tuột ba nút. Cái vú hơi lớn có núm hồng
nhô ra nơi làn da ngực trắng ngà nõn nà. Hèn gì mà tụi nó…
– Tự nảy giờ anh hổng thấy gì hả anh Thanh?
– Hông. Tui đang lo cho cô gái bị thương.
– Đám lính của anh ngó chăm hẳm vô ngực cô gái bận bộ bà đen
kia kìa.
Chắc cô gái hổng biết. Xuân bước tới, kêu cô ta bỏ hai tay xuống,
gài ba nút áo lại.Và, chợt nhận ra, hai má cổ đỏ bừng bừng.
– Giống đực người khi nào thấy vú mớm cũng trở thành trẻ con
đòi mân mê và bú vú mẹ. Hơn nữa lính mình ở trong rừng gần hơn mười ngày rồi
Trung Úy.
– Cho nên tui sợ đám đực rựa mình làm ẩu. Mình ngừa vậy thôi,
chớ mấy thằng cốt đột đó biết chỗ tụi nó quậy. Có khám mấy cô đó chưa?
– Có đứa nào dám khám đâu thẩm quyền?Chỉ có Trung sĩ Nhẫn làm
bộ gan gan, tới sờ sờ sau lưng và bóp bóp bắp chuối mấy cái. Mấy cổ đã la oai
oái rồi. Tui nghĩ đây là mấy đứa con gái cạo mũ ở vùng đồn điền Cẩm Mỹ, Cẩm Đường.
Phải có nữ quân nhơn mới mò tới sú chiêng và xì líp mấy cổ coi có giấu gì trong
đó hông, chớ có thằng đực rựa nào rớ tới được!
– Thôi, cho tụi nó lấy mấy cuộn vải xé ra trói mấy cổ rồi
chút nữa giao cho Tiểu Đoàn. Có lịnh trên rồi. Tuôn mấy bao gạo đổ hết đi. Luôn
thuốc tây nữa. Toàn là đồ của mấy gian thương Long Khánh bán cho họ hông đó, chớ
ai đâu.
– Còn cô bị thương sao, thẩm quyền? Cô ta bị thương hơi nặng.
Có tải thương được hông?
– Tôi báo lên Tiểu Đòan rồi. Chỗ nầy là rừng già. Cây cao to
cồ. Trực thăng hông đáp được. Hông biết làm sao. Để lâu chắc hư chưn. Tiểu đoàn
có cho trợ y lên chăm sóc thêm. Bây giờ cổ nằm im hổng rên nữa.
Ít lâu sau, hai người cố vấn Mỹ lên đến chỗ Xuân. Tiểu đoàn
báo là họ sẽ cố gắng xin trực thăng tải thương. Khoảng một giờ sau, một chiếc
trực thăng bay đến, nhưng bay vòng vòng hoài gần mười phút. Rừng già, nhiều cây
cổ thụ quá rậm rạp. Họ đã thả mấy trái khói màu rồi mà trực thăng hông tìm ra
được. Cuối cùng, họ bắn một trái sáng. Trực thăng bù cắt ( bù cắt hay bồ cắt:
môt loại chim giống như ó, diều hâu… thường hay chớp chớp hai cánh bay một
chỗ rất lâu trên đồng ruộng ở miền Nam khi săn mồi.) trên ngọn cây, thòng xuống
một cái ghế ngồi. Người Mỹ ẳm cô gái đặt lên ghế, buộc dây cho chắc. Cô gái từ
từ được rút lên cao. Các bạn của cô ta ngạc nhiên nhìn hai chàng mũi lõ mắt
xanh. Họ có biết ơn và hiểu thế nào là lòng vị tha của những kẻ đang đối đầu với
họ hôn?
Ngô Kha lên vừa đúng lúc y tá băng bó cô bộ đội. Nó ngạc
nhiên đứng nhìn những cử chỉ lanh lẹ và sốt sắng của người lính cứu thương. Rồi,
nó quay lại nhìn những cô gái đang ngồi xổm hai tay trói thúc ké. Nó đưa mắt
nhìn Xuân như ngầm nói lên điều gì đó mà nó hông ngờ có thể xảy ra được. Khi
người Mỹ ân cần bồng ẳm cô gái để lên ghế, Ngô Kha càng ngạc nhiên hơn nữa.
Thang dây cuốn cô gái từ từ lên cao. Ngô Kha ngước nhìn theo. Gương mặt nó đăm
chiêu. Xuân hổng biết có một sự thay đổi nào hông về cách nhìn của nó đối với
người lính quốc gia và những người lính nước ngoài tham chiến ở Việt Nam hông?
Khi đại đội vừa giao xong các cô gái cho Tiểu đoàn thì trời bỗng
nhiên tối sầm lại. Sấm chớp nổi lên. Cơn mưa lớn bất thình lình đổ ập xuống. Mỗi
người trùm lên một cái poncho lầm lũi tuôn vẹt rừng cây đi âm thầm trong tiếng
mưa rơi lộp độp. Chẳng ai nói với ai một lời. Mưa vẫn rơi. Màu nước đục trắng
xóa xen trong lá cây. Tiếng mưa ào ào vang lên cùng tiếng gió lộng giống như tiếng
thác đổ.
Thanh nhìn những người lính trùm poncho mang trên lưng ba lô
nặng nề đi như những người gù. Trong những ba lô đó chứa đủ thứ vật dụng cho những
cuộc hành quân dài ngày. Lại còn cái ruột tượng đựng gạo vắt ngang trên vai. Ô
đô của chàng còn vất vả hơn với phần ăn hai người. Trong ba lô của Thanh chỉ có
một cái poncho, một cái võng nylon, một bộ quần áo và một đôi vớ sạch để thay
ngủ trong đêm (còn ban ngày bận lại bộ đồ dơ đi tiếp), một cuốn sổ nhỏ để ghi
chép, một lọ thuốc muối, một bình Calamin thoa cho khô chơn, một bình nhỏ thuốc
trừ muỗi và vắt. Đầu tiên, Thanh sợ những con vắt tí hon nầy. Chúng nhỏ hơn con
đỉa, sống vật vờ trên cành lá. Chúng búng vào lỗ tai, chui vào quần áo len lỏi
đến tận nách, háng mà mình hông biết. Cho đến khi cảm thấy ngứa, thò tay vào, đụng
một cục nhầy nhớt bằng ngón cái, bốc đem ra mới biết là con vắt hút đầy máu. Vết
cắn của con vắt cũng độc như con mòng, nhiều khi làm thành một lỗ sâu nhầy nhụa,
phải chữa trị một thời gian dài mới hết.
Mưa càng ngày càng lớn. Những người lính mang trên lưng ba lô
nặng nề và súng đạn cộc kệch. Họ di chuyển càng khó khăn và chậm lại. Đường
trơn trợt. Thanh cố gắng đi gần lên đầu để dễ quan sát và hướng dẫn đi đúng hướng.
Tiếng súng nổ dòn vang lên. Hình như AK nhiều hơn. Xuân giựt
mình chợt nghĩ chắc trung đội của Thanh đã lọt sâu vào căn cứ địch. Chắc do trời
mưa mù mịt, lính mình trùm kín poncho hông quan sát được rõ ràng.
– Báo cho thằng 2 biết là có thằng 3 đang lên ở phía trái của
nó. Anh Kha, anh đừng nằm xuống. Nằm xuống anh hổng thấy gì đâu, hơn nữa lính
nó chê anh nhát. Anh cứ đứng như tui đây. Đạn đang đi hơi thấp mà. Anh nằm, đạn
trúng đầu anh. Súng đạn ở chiến trận nó hông chừa ai đâu. Anh cứ từ từ theo
tôi. Anh hổng né được đạn đâu, chỉ có đạn nó né anh thôi.
– Trung Úy!
– Gì đó anh Kha? Anh đừng nằm nữa. Tiếng đạn kêu chíu chíu là
nó đi lên cao lắm đó. Còn chừng nào anh nghe nó sẹt sẹt là nó đi thấp trong rừng
cây. Mà anh đừng sợ. Gần 30 lính chết mới có một sĩ quan chết. Từ đầu năm tới
giờ mình chưa có người lính nào chết mà. Vậy là chưa tới phiên anh và tui đâu!
Xuân nói vậy chớ chàng thấy tay chơn Kha cũng rung bây bẩy
làm tấm bản đồ cũng rung theo, môi lập cà lập cập và mặt xanh lét như tàu lá.
Nó cố gắng đi càng sát Xuân càng tốt, làm như chàng là bùa hộ mệnh, có lá chắn
cho Kha.
Garant M1, carbin M1, Thompson và trung liên nổ cũng dòn tan,
nhưng hông bì được AK nổ chát chúa hơn. Lại thêm B40, B41 lấn át M79. Khói bay
mù mịt hoà lẫn trong màn mưa đục ngầu. Thằng 2 bữa nay cũng lì đòn, càng ngày
càng bắn rát và dữ dội. Nhiều tiếng lựu đạn M26 nổ đùng đùng. Thanh đang hò
hét, thúc anh em hung lắm. Hổng hiểu có chuyện gì đây. Xuân lên bên Thanh.
Chàng cho toán trinh sát của Ni, Lang tiến sát trung đội Thanh.
Đôi khi Xuân bực bội với trung đội vũ khí nặng. Cây đại liên
30 khó bề xoay trở. Một người mang nòng. Một người xách càng đi theo. Một nhóm
kè kè các thùng đạn lề mề, lúp xúp bám đít. Lắm lúc hay kẹt đạn. Có bắn được gì
nhiều để uy hiếp địch. Lại còn cối 60 ly. Nhiều khi hông làm được việc gì. Cũng
lại một người vác nòng, một người ôm chân đế, môt nhóm đeo khoảng chục trái đạn.
Trong rừng già nầy, đại liên 30 và cối 60 hông hữu dụng bằng trung liên gọn nhẹ.
Hạ sĩ A trẻ, to con cốt sì tô coi toán đại liên và ông hạ sĩ già Hanh điếc ù ù
cạc cạc coi toán cối 60. Họ làm cho Xuân bối rối. Rừng cây dày đặc. Súng cối bắn
đi đâu? Ôi! Súng đạn cổ lổ sĩ thời đệ nhị thế chiến, trang bị cho người lính
thân yêu của tôi, cũng như là trói tay họ trong cuộc chiến kỳ quái nầy!
Nhờ thằng 3, trung đội Thanh đã cố gắng tràn lên chiếm được
hai hầm, lấy được xác của Ơ và dìu trung sĩ Hơn rồi rút về. Mưa nhiều quá.Trời
chiều. Rừng già tối thui. Pháo binh bắt đầu TOT ( Time on Target ). Rừng
cây rung động, đổ cành lá ào ào…
Đại đội lui về, bố trí lại, cho canh gác cẩn thận, nghỉ qua
đêm. Thằng Ơ và trung sĩ Hơn nằm sát bên Xuân, chung quanh là những thân cây
ngã. Mọi người có vẻ mệt mỏi sau cơn mưa tầm tã vì hông ăn được cơm chiều .Quần
áo ai nấy cũng đều ướt nhèm nhẹp. Hông căn được lều. Hông mắc được võng. Hông củi
lửa. Thằng Sanh chuyền cho Xuân một ít mì vụn nhưng chàng trả lại, đổi lấy bịt
gạo xấy ta. Gạo xấy mỹ lạt nhách, ăn như bã mía. Hông có nước nên hông thể ăn
mì vụn mặn. Xuân lấy tay nhón một nhúm gạo xấy dòn rụm bỏ vô miệng. Chàng đợi một
lúc lâu cho gạo thấm nước miếng mềm đi rồi chắp chắp một vài cái và nuốt. Hổng
có mùi. Chỉ có vị hơi đăng đắng nơi cổ họng khô nước. Mình như vầy thì hông hiểu
mấy thằng lính của mình như thế nào? Chàng nhổm dậy, rón rén đi lần qua Nghĩa.
Tụi lính thằng nào thằng nấy nằm xui cò gối đầu lên ba lô, miệng nhóm nhép. Chắc
chúng cũng đang gậm gạo xấy. Đêm nay hông đèn đóm. Hông căng poncho. Hông võng.
Mặc sức cho muỗi cắn, cho vắt búng.
Ngô Kha cầm bịch gạo. Nó hông biết làm gì, trở qua trở lại.
Xuân thấy nó có vẻ thẩn thờ. Có sự chuyển biến trong đầu của nó? Từ hồi Kha về
đại đội đến giờ, anh em tránh hông bao giờ tranh luận với nó về vụ biến động miền
Trung, về cuộc chiến Quốc Cộng đang xảy ra, về lòng yêu nước. Xuân biết nếu có
tranh luận xảy ra thì thế nào cũng mất lòng anh em với nhau. Người Việt hay tự
ái, hay tranh hơn thua và ít khi chịu hòa đồng.
– Anh ăn đi. Đêm nay hông có củi lửa đâu. Nhai mấy nhúm cho đỡ
đói. Đừng ăn nhiều quá. Mình hông có nước. Ráng qua đêm.
Trái sáng pháo binh thỉnh thoảng nổ bụp. Vùng sáng lung linh
làm bóng cây rừng ngã nghiêng như bóng ma quỉ quái múa may nơi địa ngục. Rồi đột
nhiên màn đêm trở lại.
Người lính chiến chết nơi trận địa thật dễ dàng. Thằng Ơ và vợ
xin 48 giờ phép về Phước Lợi thăm gia đình. Chưa hết phép đã thấy hai vợ chồng
lót tót lên.
– Ơ, sao mầy lên sớm vậy? Chưa hết phép mà.
– Dạ. Ông già vợ ổng hối đi. Ở đây tụi bây cũng đâu có làm
gì. Đừng để trễ phép Trung Úy phạt. Con vợ tui nó khoái ở đây hơn, có chị em
trong đại đội nó được nói chuyện suốt ngày. Hơn nữa, ở đây gần nhà thương.
Con Tím mang cái bụng chình ình mà hông chịu về dưới chờ ngày
đẻ, cứ quấn quít bên thằng Ơ hoài. Tối ngày Tím xề qua xề lại với các bà vợ
lính để mặc thằng Ơ lo đi chợ, cơm nước cho nó. Hôm sắp sửa hành quân, Thiếu Úy
Thanh dặn thằng Ơ là phải ở nhà vì nó chưa hết hạn phép, nhưng nó cứ nằng nặc
đòi đi.
Đêm đã khuya lắm rồi. Hồi lúc chiều, rừng bị động. Thú hoảng
sợ, chắc chạy thẳng cẳng. Hông còn nghe tiếng nai tác, mễm chép… chỉ có nghe được
tiếng cành gãy rớt nhè nhẹ trong đêm. Thằng Ơ nằm im lặng bên Xuân. Con Tím chắc
chưa biết chồng chết. Cổ mà biết rồi thì hổng hiểu cổ khóc đến cỡ nào. Còn Hơn
lâu lâu rên khe khẽ.
Phùng Xuân hông ngủ được. Suốt đêm chàng nhìn lên bầu trời đầy
sao lẫn trong rừng lá cây. Có một tí xíu của chòm sao Cày. Thằng Ơ nằm im lặng,
như một giấc ngủ sâu ngon. Nó và Phùng Xuân giờ đây ai sung sướng hơn ai? Đâu
ai biết được vì hông có ai có kinh nghiệm về sự chết. Một người hông còn thở được
là chết. Có như thế mà Xuân lẩm cẩm. Nhưng thằng Ơ còn nằm bên chàng. Ơ ơi, mầy
có ngậm được gạo xấy hôn?
Bây giờ là mấy giờ rồi. Đêm sao dài quá. Những lá cây khô có
ánh sáng như lân tinh chập chờn như những bóng ma trơi. Thỉnh thoảng có tiếng
xù xì nho nhỏ. Xuân chắc là mấy người lính kêu đổi gác.
Sáng ngày hôm sau, trực thăng bỏ xuống một bao đựng xác. Thằng
nào cũng giành để thằng Ơ vô trong bao. Hổng thằng nào chịu kéo khóa lại. Tụi
nó đứng nhìn thằng Ơ một hồi lâu. Phùng Xuân hông hiểu tụi nó nghĩ gì? Mầy chết
là mầy thoát nợ nghen mậy. Tụi tao còn phải lội rừng dài dài?
– Mau lên đi. Còn phải khiêng lên Trung Đoàn mới có bãi đáp. Vừa đi vừa về cũng mất cả buổi. Anh Thanh cho bốn đứa. Hai đứa khiêng xác thằng Ơ, còn hai đứa võng thằng Hơn. Mình ở đây chắc trọn ngày hôm nay. Phi cơ oanh tạc cũng nửa buổi…
Phùng Xuân đi vòng quanh mấy lần chỗ ở của thằng Ơ và con
Tím. Hổng còn gì hết. Chắc vợ nó tóm sạch đồ đạc rồi gởi đâu đó. Giờ nầy chắc
con Tím đang ôm quan tài của thằng Ơ khóc ngất. Rồi nước mắt của những người vợ
trẻ khóc chồng cứ tiếp tục .Ôi chiến tranh! Nước mắt chiến tranh triền miên
đong đầy được bao nhiêu? Có làm được một dòng sông hông?
Tội nghiệp con Tím sắp sanh. Thằng Ơ hông kịp thấy mặt con. Lều
võng của Trung sĩ Hơn cũng mất tiêu. Có lẽ gia đình lên mang về. Hổng hiểu Út
Lâm có tới bịnh viện Cọng Hòa thăm nó hông. Hy vọng nó được phân loại hai để về
Vỏ Xu làm đám cưới.
– Buồn quá, Chúc. Xúi quảy tận mạng. Mấy thằng lính có vợ trẻ
sắp đẻ là bị ngủm củ tẻo hông à? Có gì lai rai chút cho đỡ buồn hôn mậy?
– Để tớ cho thằng Dẫu nướng con khô mực. Có rau càng cua
trong mấy bụi chuối. Hái rồi, trộn trộn thành gỏi cũng dô được vài xị.
Bữa ăn cũng đâu có gì. Và bàn ăn, bằng ván thông vụn nối lại
xập xệ, kê dưới bụi chuối. Ghế ngồi lặt lìa. Nắng chói chan. Thế mà bọn họ, năm
thằng sĩ quan, cũng cù cưa cù nhầy, đưa qua đưa lại cho hết hai bi đông rượu đế
đậu nành Gò Đen rồi tới nếp than. Mặt thằng nào thằng nấy buồn so. Nhứt là
Thanh, nó ngồi bí xị, chắc nó thương thằng Ơ lắm.
Mọi người xé khô mực nhai ngồm ngoàm với ba cái rau tiêu để
đưa cay. Lần đầu tiên Ngô Kha nhẩm món đế cay xè nầy. Nắp bi đông đầu tiên, nó
nhăn mặt, nhíu mày. Nhưng qua đến nắp thứ năm thứ sáu, có lẽ y hơi thấm. Anh
chàng uống vào rồi khà một tiếng nghe có vẻ điệu nghệ. Các “ông nội” uống rượu
lộ ra tính khí: có người mới nhậu vài ly là quậy phá; có trự móc colt ra chĩa
lên trời bắn pằng pằng; thằng thì đỏ mày đỏ mặt, tía tai; đứa thì ngồi gục gà gục
gặt như gà nuốt dây thun- gà chết-; có me sừ hừng chí nói tía lia, có chuyện gì
cũng phun ra hết; có chàng đía trên trời dưới đất, khoe ta đây đánh giặc giỏi…
Còn Kha ngồi im lặng. Rồi nó cũng tỏ ra dân nhà binh “chịu
chơi chớ hổng phải chơi chịu”, vói lấy điếu Ruby lỏng le vỗ vỗ xuống bàn cho chặt
lại. Ngô Kha trề môi ra, nhăn mặt, ngậm điếu thuốc một bên mép rồi thò tay lấy
Zippo, để ngón cái, búng một cái trốc. Một ngọn lửa xanh lóe lên. Nó bập bập một
vài cái rồi ngước mặt lên trời, phà một làn khói xám bạc dài. Gương mặt thoáng
suy tư. Có phải nó muốn nói điều gì? Và rồi, đúng như Chúc nói. Sau đó, khoảng
năm 1967, Ngô Kha ( Một vài người cho Phùng Xuân biết rằng sau năm 1975, ở
Huế, đã làm lễ truy điệu thiệt lớn cho Ngô Kha. Có phải Ngô Kha đã từng ở đại đội
2 Tiểu Đoàn 3/43 với Phùng Xuân? ) có sự vụ lịnh trở về Sư Đoàn.
Lính ở đại đội Xuân có ba thành phần. Đông nhứt là những nông
dân chất phác, hiền lành, ít học. Đến tuổi quân dịch, họ bỏ ruộng vườn, trình
diện vào quân ngũ. Và họ siêng năng, chăm chỉ, ít quậy phá, ráng cố gắng thi
hành nhiệm vụ cho hết hạn rồi trở về lại với miếng vườn của họ giống như binh
nhì Ơ, binh nhứt Mừng…
Thứ hai là những người lao động nghèo ở thành thị, có trình độ
học vấn kém. Họ biết xoay trở và lanh lợi, thích quậy phá, thường hay đào ngũ.
Có những chàng là dân Cầu Ông Lãnh hoặc là dân chơi cầu Ba Cẳng như Ni và
Lang.Còn nếu họ học khá, thường chạy chọt vào những nơi văn phòng – nơi ít va
chạm với súng đạn. Nếu họ có ra đến đơn vị tác chiến thì trước sau gì họ cũng
đào ngũ.
Còn lại là thỉnh thoảng có một ít lao công đào binh. Họ chiến
đấu giỏi, gan dạ, lì lợm, cũng thích quậy phá sau những cuộc hành quân. Và nếu
chán ngấy với đời sống ở đơn vị nầy, họ sẳn sàng đào ngũ đi qua đơn vị khác.
Còn một thành phần hơi ngoại lệ. Những người lính quân dịch gốc
Hoa. Họ siêng năng, chăm chỉ, hay đút lót, chạy chọt để về những chỗ an nhàn. Họ
ít khi trụ được lâu như Lưu Anh.
Đám trốn quân dịch rồi bị bắt đi lính thì mấy khi ở lâu nơi
tác chiến. Trước sau gì, họ cũng trốn. Chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt thì
có nhiều cách luồn lách để trốn quân dịch: lính ma, lính kiểng… Có những chàng
thanh niên cố huỷ hoại một phần thân thể để mong khỏi đi lính, nhưng vì nhu cầu
chiến trường, họ cũng bị bắt đi.
Hạ sĩ quan phần đông là học sinh thành thị. Có loại hông
thích đi sĩ quan, có loại học kém nên phải vào lính. Cũng có hạ sĩ quan ba gai
giống như một vài sĩ quan mới ra trường, thường gan lì, có vẻ như ta đây, coi
trời bằng vun. Nhưng nói chung, ba gai cách mấy cũng hông bằng những chàng lính
ở những đơn vị ” vào sinh ra tử ” dám chơi trò Russian roulette…
Tiếng súng trung liên nổ dòn tan trong đêm khuya ở khu Hoàng
Diệu. Khu nầy có nhiều quán ba. Lính thường hay nhậu nhẹt say sưa và đánh lộn
sau mỗi lần hành quân về. May là ở Xuân Lộc chỉ có lính của Sư Đoàn nên ít khi
đổ máu. Mấy chàng GI thường hay né trong những dịp nầy. Hơn nữa Xuân hông hề thấy
có sự đụng chạm nào xảy ra. Nói đúng ra, đó là khu quán ba yên lành.
– Trung Úy ơi! Trung úy xuống đó lôi đầu tụi thằng Ni, thằng
Lang về. Mau đi, chớ để Quân Cảnh hốt là sáng mai mình mắc công đi lảnh tụi nó.
Rồi còn bị ký củ nữa.
– Mấy thằng quỉ nầy. Lần nào cũng vậy. Hành quân lâu ngày về
là có phá làng phá xóm .Kỳ nầy, lôi tụi nó về là tui cắt cu mấy thằng quỉ sứ nầy
cho tụi bây hết quậy nữa.
Nói vậy chớ chàng cũng thấy thương và tội nghiệp cho lính của
mình. Họ lội trong rừng sâu, chịu đói, chịu khát, muỗi, mòng cắn chích, vắt
búng, trân mình giữa lằn tên mũi đạn, sống chết hông biết lúc nào, quanh năm suốt
tháng hông biết thế nào là bữa cơm ngon. Nhiều khi ăn được tô hủ tiếu nước lèo
lạt nhách, uống được ly lade, ly xá xị… bên quán xập xệ ven đường, sau cuộc
hành quân dài ngày trong rừng sâu là niềm sung sướng vô biên. Từ trong rừng
chui ra gặp được quán lèng xèng, uống được ly lade con cọp có đá, hút điếu nút
chuồn, Thiếu Úy Thanh nhiều khi phán bạt mạng xanh dờn: ”Trời ơi, con đĩ mẹ nó,
người nó tăng tăng rần rần, sương sướng và đa đã còn hơn thảy lỗ!”
Nhiều thằng lính hông có tiền, cầm ly đá lạnh, lắc leng keng,
thỉnh thoảng nhấp một chút cho đã thèm. Đôi khi, bọn họ ngậm cục đá lạnh trong
miệng cho khoái rồi nhai rôm rốp. Ni và Lang coi vậy chớ cũng dân bị gậy lắm.
Khi mậu lúi, tụi nó đi qua đi lại. Thấy tội nghiệp, Xuân kêu lại, cho hai thằng
một chai lớn, kêu tụi nó chai hia. Làm gì Xuân có đủ địa, chi cho mỗi thằng
lính của mình một chai con cọp!
Lính xa nhà thiếu thốn đủ thứ. Đơn vị hông có cái gì để giải
trí. Radio cũng hông. Báo chí cũng hông. Ti Vi cũng hông tuốt. Chỉ có báo Tiền
Tuyến nhưng hổng có thằng lính nào ngồi đọc. Tụi nó xài cho việc khác. Sức của
thanh niên biết xài đâu cho hết, thành thử tụi nó quậy là phải. Ăn thua là mấy
ông sĩ quan trung đội trưởng còn trẻ dặn dò tụi nó. Thỉnh thoảng cũng chịu chơi
với tụi nó. Đừng để tụi nó chơi chịu, mất mặt bầu cua rồi dân chúng hổng ưa.
– Sao mình hổng có văn nghệ văn gừng gì vậy hết, Trung Úy?
– Tụi bây ở gần Sài Gòn, ráng lết về dưới mà coi. Biệt đoàn
Văn Nghệ ưu tiên cho lính tiền đồn.
– Nói thiệt, hông có, còn khoẻ gà. Chớ có, nhiều khi, sau khi
xem trình diễn, tụi em còn nắng cực thêm.
– Giỡn mặt mầy Ni. Sao vậy tụi bây?
– Hồi tụi em có đứa ở Biệt Động Quân, “năm khi mười quạ” mới
có văn nghệ. Tới hồi cuối, có mấy cô trẻ bân bận xú cheng, xì líp, nhảy sexy cà
hẩy cà hẩy. Coi đã con mắt. Nhạc cà rậm cà rựt. Chơn tay cà giựt cà giựt. Vú mớm
cà tưng cà tưng. Phao câu cà xàng cà xịt. Đèn chớp lung tung loạn xà ngầu. Trống
đánh rậm rật điếc con ráy. Một lúc, bất thình lình, bốn năm đứa đồng loạt tháo
xú cheng một cái rụp. Chưa kịp thấy vú lớn vú nhỏ gì hết, có ngon lành hôn, đèn
phựt tắt. Xú cheng bay ù xuống. Tụi nó tranh nhau giành giựt, khoái chí la om
sòm. Tụi tui càng nóng máu thêm. Tụi nó la hét thiếu điều muốn bể hội trường.
Bis!… Bis!… Bis đâu nữa mà bis. Chỉ có mấy cái xú cheng mà thôi mà cũng la cho
rảng họng. Có thằng đứng ị ra đó, bần thần. Hổng biết nó làm cái mồ tổ cha gì
đó. Chắc ướt quần quá?
– Rồi tụi bây làm gì?
– Làm gì hả Trung Úy? Trung Úy muốn biết hả? Thằng nào độc
thân hổng có tiền, nhờ chị năm. Thằng nào có tiền thì đi gặp chị em ta. Mấy thằng
có vợ, về lều thả poncho xuống.
– Nè. Tụi bây cẩn thận hen. Tụi bây hút sái hông à nhen. Thằng
nào có gì lên Trợ Y Tiểu Đoàn xin thuốc liền nghen. Để đi xà bát xà bát khó coi
lắm đó.
– Thẩm quyền khỏi lo vụ đó. Tụi nó rành sáu câu.
– Tao nhớ mình hông có văn nghệ gì hết mà tụi bây cũng xin 24
giờ phép lia chia.
– Mấy thằng đó có vợ đó, thẩm quyền. Thẩm quyền mà cho nó đi
phép nhiều là dân số tăng đều đều.
Nhiều khi có đứa kèo nài xin 48 giờ phép. Hai mươi bốn giờ
hông đủ. Sao hổng đủ? Bài hát của Trúc Phương vừa đủ đó! Con vợ em nó đi buôn
nhiều khi về hổng kịp. Đủ thứ chuyện. Nhà ở tuốt trong làng xa, quê em trong đồng
sâu…
– Cho tụi bây đi lâu quá. Trở ra đơn vị hết xí quách rồi còn
đâu nữa mà đi hành quân.
Mà cơ khổ. Nói nào ngay, thầy trò ở đây đâu có xa xôi gì đâu,
mà nhiều khi như mấy thằng mán, mọi cà răng căng tai. Họ chẳng biết ở Sài Gòn
thay đổi như thế nào, văn nghệ văn gừng bây giờ ra sao, phòng trà, vũ trường…
ai hát hay, ai hay hát, ca sĩ nào ăn khách. Mai ông nầy lên, mốt ông nọ xuống.
Cả một nồi canh hẹ. Tranh ăn nhau từng ly từng tí. Họ mù tịt tất cả.
Giải trí của lính là gì?Cờ bạc là chính:Cát tê, bài
cào, tứ sắc, sập xám chướng, xì dách, đô mi nô…Ít khi có gió Đông, gió
Tây.Vì cái món đó lâu ăn thua, hông hồi hộp, hông xôm tụ, vì chỉ có bốn trự ăn
thua đủ thôi, rồi phải có bàn ghế đâu ra đó thì xoa mới đã.Chỉ có các ông nhàn
rổi mới thích ù.
Còn dân lính ngủ bờ ngủ bụi, hông à nghen! Đánh phé mới đã!
Phé là xôm tụ nhứt: cháy túi mau và đứng tim, toát mồ hôi hột. Chỉ cần banh
poncho là gầy sòng được. Thông thường thì bốn, năm tụ chính đặt tiền. Quanh đó
là một mớ tiền của nhiều tay con ăn ké cũng có máu đỏ đen, cờ cơm bạc gạo, hông
có gan làm giàu. Nặn phé là khoái chí tử nhứt. Mỗi lần bắt lên một con bài, tay
chủ nặn lên chầm chậm như rặn đẻ. Các tay ăn ké ghé mắt nhìn con bài lộ ra từng
tí. Xong cha con bỏ xuống. Thấy bài tốt thì tố.Hông tốt thì im re. Nhà cái biết,
nhiều khi cũng thấu cấy, xét bài trước. Cò con thì tố ké, nhí nhí. Nhiều tay chủ
tụ bạo gan, chơi mạnh, cầm nguyên xấp tiền vừa mới lãnh lương, hông cần đếm, đặt
cái cụp ra trước mặt. Mấy thằng đó ngon, dám ta pi.(Mà hông hiểu sao lần nào
lãnh lương cũng toàn là tiền mới gắt chỉ. Nhà nước in tiền lậu chắc!) Nhà
cái chưa vội coi bài, liếc sơ qua các tụ. Xong nhà cái nặn từng lá, rồi đánh xẹt
bài ra xuống poncho, trình làng. Nhiều tiếng chửi thề xì ra. Đụ mẹ, bị thấu cấy
rồi. Nó có cù lủ sất mà ăn bứt. Ba Tây mà hổng dám kéo nữa! Nhà nào ăn tiền mới,
nhà cái cứ chung nguyên xấp tiền mới đo đo cho bằng, hông cần đếm. Còn lại, a
lê hấp, vừa coi vừa vùa. Vậy mới đã. Coi vậy chớ đến vận xui, nhà cái cũng bứt
rả họng. Thế là xong một canh phé trong khói thuốc mù mịt: Ruby, Cotab,
Capstan, Basto, Nút chuồn, Salem, Malborow, Camel… Đám chầu rià được dịp bàn
tán um sùm. Canh bài nhiều khi thâu đêm suốt sáng mỗi kỳ đầu lương. Có thằng
cháy túi, đổ mồ hôi hột, mất trắng tháng lương, ăn cơm kho quẹt. Hông biết tiền
đâu gởi về cho vợ. Nói láo là thượng sách. Nhiều bà vợ biết mánh. Tới kỳ lương,
chận nơi chỗ phát… Có nhiều ông trự biết làm ăn, tổ chức một đêm đánh bài có
cháo gà, cháo vịt, thêm đồ nhấm rồi lấy xâu. Đêm đêm cũng kiếm bộn bạc..
Sau đó là toán thích nhậu nhẹt, quậy phá. Buồn lòng, nhớ em
út thì đi làm một quả. Mà ở Xuân Lộc đâu có nhiều chỗ, chỉ có hai nơi: khu
Hoàng Diệu ở dọc đường rầy và khu sau chợ. Có vậy thôi. Lính dễ thôi. Hành quân
đến chỗ nào có nhậu nhẹt, đĩ điếm là lính biết liền. Hình như lính đánh hơi được
“ cái mùi đó ”. Giống như ong rùi vậy. Hay thiệt. Xuân cũng phục mấy thằng tay
chơn bộ hạ của mình. Hỏi là tụi nó chỉ liền. Chỗ đó đó, ông thầy. Ngon hơn!
Ngon cái gì tụi bây? Ông thầy hổng biết thiệt hả? Lồn lạ bằng một tạ vàng đó
ông thầy! Trời ơi! Một câu xanh rờn!Phùng Xuân cười hả hả.“Mấy thằng bây, thằng
nào cũng có con lợn lòng bự tổ cha!”.
Ôi thôi! Mình hư quá rồi! Tụi nó dạy mình toàn những câu rượu
dạy hông hè!.“Cầm tay em như ăn bì nem gỏi cuốn. Dựa lưng nàng như uống chén rượu
ngon. Gái một con trông mòn con mắt. Gái hai chồng nắc nổ con ngươi!”…
Thằng học sinh, thằng sinh viên, thằng giáo sư rồi giờ là thằng
lính bụi đời, hoang đàng đĩ điếm trong thời chiến tranh, ăn tục nói tĩu, bạt mạng.
Mà mình hư đốn cho đến bao giờ, hả Chúc? Cho đến khi chiến tranh chấm dứt? Chiến
tranh nầy biết bao giờ mới hết? Miền Bắc điên cuồng cứ đánh cho thoã mãn tham vọng,
cứ nướng quân theo lệnh xúi quẩy của Tàu Cộng mưu mẹo. Miền Nam gồng mình chống
đỡ. Súng ống, bom đạn thời đệ nhị thế chiến trong kho tuôn cho hết thì cuộc chiến
tàn? Mình còn sống sót nỗi hông?
Phần đông lính đi phép đều phải đi xe đò Nam Thành, chạy đường
Long Khánh- Sài Gòn. Loại xe Renault tôn tư cũ kỹ, chạy cà rịt cà tang. Từ Xuân
Lộc qua Cua Heo, đèo Mẹ Bồng Con, Dầu Giây, Hưng Lộc, Hưng Nghĩa- Trại chăn
nuôi-, Ngã ba Sông Thao, Vườn Cam, Trảng Bom, Hố Nai…về đến Sài Gòn mà cũng mất
nửa ngày. Sĩ quan cấp nhỏ sợ bị bắt dọc đường nên thường thay đồ xi vin cho an
toàn. Còn lính trơn cứ để vậy mà đi.
Đời sống lính tráng là như vậy. Cấp nhỏ bay bướm quá nên nhiều khi bướm bay mất tiêu.
Khi thấy ánh đèn xe Jeep 606, đám lính biết có chuyện
nên tản đi mất hết. Ni và Lang chắc xách súng lủi ngõ nào về đại đội.
Ngày mai, biết thế nào Xuân cũng cho tụi nó vô chuồng cọp, nên có khi họ trốn
biệt đâu đó.
Phùng Xuân bước vào ba. Trống vắng. Một cái bàn ngã nghiêng nằm
đó. Vài cái ghế lăn lóc. Chàng tính hỏi xem có chuyện gì xảy ra. Chợt một người
đàn bà trẻ hiện ra.
– Trung Úy, muốn uống gì hôn?
– Mấy thằng quỉ hồi nảy quậy quán chị phải hôn? Có bị hư hao
gì hông?
– Thì mấy ông thần đó mà. Hành quân về là vô đây uống đã đời
rồi khích tướng, đập bàn đập ghế tính oánh lộn. Nghe tiếng xe, mấy ông nội đó vọt
mất rồi.
– Có phải Ni và Lang hôn?
– Ủa?Lính của Trung Úy à? Mấy người đó trời thần đất đỏ lắm
đó. Còn Trung Úy, sao coi hiền quá vậy?
– Sức mấy! Tui mà hiền hả? Chưa gì hết sao chị biết tui hiền?
Hồi mới ra trường, lon lá còn nhỏ, hông có hiền đâu! Cũng bán trời hông mời
thiên lôi. Ký củ hoài.
Một người thiếu nữ mang ra cho Xuân một chai lade và một ly
đá. Chàng ngước nhìn lên. Đôi mắt tròn, đen. Chợt một tia sét chớp trong đầu
chàng. Nhanh. Thật nhanh làm chàng choáng váng. Đúng rồi. Chắc chắn là phải.
Hông ai khác hơn. Nụ cười nầy. Gương mặt nầy. Đôi mắt nầy.
– Xin lỗi cô. Cho tui hỏi chút nhen? Cô tên là Loan?
– Tui… tui… tui…
– Cô ở Cái Bông, Giồng Tre, Bến Tre.
– Sao… sao Trung… Úy biết?
– Tư Én. Loan trào đờm. Anh Ba đây mà!
– Chèng ơi! Anh … Anh… Anh Ba!
Bà chủ quán ba lấy làm lạ. Con nhỏ nầy quen với chàng Trung
Úy như thế nào mà bá vai ôm cổ ổng khóc mùi mẫn. Loan lính quýnh láng quáng quơ
tay. Chai lade đổ. Nước rượu chảy tràn trên bàn, sủi bọt lan xuống đất.
Hai người đi bộ. Bóng họ mờ nhạt, chập chờn theo ánh đèn nhà
hai bên đường om lòm. Trời đêm hun hút cao đầy sao. Hông có trăng. Trăng đâu rồi,
hở Loan? Ánh trăng suông của đồng Mỹ Nhiên? Chút chút, Loan dừng lại, cứ ôm chặt
người thanh niên như sợ mất đi. Hàng mấy năm, Loan hông tin mình tìm lại được
anh Ba của mình. Nàng bắt chàng ngừng lại, đứng trước mặt chàng, nghiêng
đầu ngó qua ngó lại, coi có đúng là Anh Ba của nàng của mấy năm về trước. Anh
Ba của nàng giờ đây coi có vẻ khác hơn năm xưa. Hình như oai hùng hơn là phải?
Chàng bật cười rồi dang hai tay ôm lấy nàng, ôm thật chặt, hun một hồi lâu, làm
nàng muốn nghẹt thở, hụt hơi. Hông còn mùi nắng khét, mùi bồ bồ, mùi bùn sình của
cánh đồng Mỹ Nhiên nữa. Loan bây giờ trắng trẻo, xinh xắn. Mái tóc dài uốn quăn
bỏ lơi xuống bờ vai. Nét đẹp của nàng sắc sảo hơn, mặn mà hơn như trái vú sữa
trắng đã chín mùi. Vẻ ngây thơ hồn nhiên của đồng hoang ruộng vườn hông còn nữa.
Loan nói huyên thiên, về những ngày ở trong cánh đồng đầu tiên Loan gặp Xuân…
Họ về tới chỗ đóng quân. Thật khuya. Xuân banh poncho cho
thêm rộng. Hai người nằm xuống nhìn lên bầu trời đầy sao. Chỉ có một cái ba lô
anh làm gối. Em nằm lên cánh tay anh vậy. Họ chưa vội nói một lời nào. Loan muốn
Xuân mở lời nói trước. Nàng e ngại sợ anh Ba hông hiểu mình tại sao lại trở
thành gái bán ba như vậy? Còn Xuân, chàng đợi Loan, đợi một cử chỉ âu yếm của
nàng. Bây giờ Xuân cũng đã có gia đình rồi. Hai người hổng còn như thuở ở Mỹ
Nhiên nữa. Cái thời hăng say, bồng bột của tuổi trẻ đã đi qua. Có một khoảng gì
xa cách mà họ hông hiểu được. Họ hông còn tự nhiên như ở giữa đồng không mông
quạnh thuở xưa. Nàng choàng tay qua người Xuân trước tiên, rồi rúc đầu vào ngực
chàng, xong chồm người lên hun vào má. Ôi! Mùi thuốc lá ngây ngấy, một chút cay
nồng, một chút ngọt thơm nồng nàn như tiêu lốt ( tiêu lốt: khi chín màu
hơi đỏ, trái thon dài, hột chi chít ). Loan kề môi hun, say sưa thưởng thức
những gì nàng chưa tìm được ở người tình lúc thời còn nơi đồng hoang.Chàng xoay
người qua, đắm đuối ôm siết Loan. Má, môi, ngực chạm ngực. Nàng hiểu rõ phải
như thế nào. Loan chậm rải, hông còn mạnh bạo và ồ ạt như xưa. Qua bao năm,
Loan dày dặn hơn.
Trời sắp hừng đông. Ai cũng mệt rã rời… Loan vội vàng bận lại
quần áo, vuốt lại mái tóc cho suông sẽ. Nàng hối Xuân trời sắp sáng rồi đừng nằm
chần chờ nữa.
– Anh có mắc cỡ hôn, khi ngủ với gái bán ba hông? Anh có nhớ
em hôn? Em cố gắng tìm anh trong mấy năm nay mà hổng gặp.
Xuân hơi ngạc nhiên. Lời nói và thái độ của Loan rất chửng chạc.
Tư Én bây giờ đã trưởng thành. Nàng tỏ ra hiểu biết nhiều hơn và hông còn vẻ
quê trất của cô gái đồng ruộng chuyên chăn vịt chạy đồng.
– Hông có gì anh phải xấu hổ. Gái bán ba thì có gì đâu mà phải
dấu diếm. Em bán ba chớ có phải bán thân đâu mà em mắc cỡ? Mà dẫu em có bán
thân, gặp em trong tình cảnh nầy anh lại càng thương em. Vì anh mà em nên nỗi nầy!
Sao lại hông nhớ em. Anh tìm em ở nhà thương Bến Tre rồi Mỹ
Tho. Về sau, còn xuống tận Cái Bông. Thôi em đừng khóc nữa. Giờ mình gặp lại
nhau rồi. Sao lúc rời đồng về nhà em hông hú một tiếng cho anh biết. Nè em, còn
con của mình ra sao rồi?
– Sao anh biết? Bữa đó má vô rước, làm sao ghé chòi cho anh
và Vân biết. Chuyện còn dài lắm. Khi nào có dịp, em sẽ kể anh nghe.
Buổi khuya sau, Xuân đón Loan về rất trễ. Hai người nằm nghỉ
một chút thì trời đã sáng. Sau khi đi ăn, Loan dẫn Xuân đi vô con hẻm bùn sình.
Một xóm nhà “ ổ chuột ” ở đầu sân bay Xuân Lộc. Xuân biết khu xập xệ nầy. Chỉ
có những gia đình lính nghèo nàn mới ở đây, chung đụng với nhóm người buôn gánh
bán bưng ở chợ Xuân Lộc.
– Vào đây làm gì hở em?
– Thì đi với em đi. Em gởi con ở trong xóm nầy. Anh có muốn gặp
nó hông?
Xuân hy vọng gặp lại đứa con tính ra nay cũng đã sáu, bảy tuổi.
Xuân nghĩ đến đứa con chắc giống chàng từ gương mặt, cái càm, lỗ mũi. Còn hai mắt
chắc giống Loan. Người ta nói đứa con của những trai gái yêu nhau rồi xa nhau,
khi sinh con, đứa trẻ rất giống cha? Tới căn nhà ở cuối sân bay, hai người bước
vào.
– Sao mấy hôm nay cô Tư hổng tới.Thằng nhỏ nó nhớ cô, nó khóc
quá chời.
Người đàn bà bồng xốc nách thằng nhỏ bước tới. Xuân nhìn thấy,
hơi ngỡ ngàng. Một đứa trẻ lai: tóc màu bạc, mắt xanh, da trắng ngà. Loan đoán
biết Xuân đã hiểu gì rồi. Nàng xoay nhìn Xuân ngại ngùng. Nhưng đứa con đòi mẹ
nên Loan vội vàng đưa hai tay ra ẳm con. Đứa bé gặp mẹ, mừng rỡ. Hai tay, hai
chơn nó vung vẫy. Xuân lấy tay xoa xoa lên đầu, nó cười hắc hắc.
– Anh có khinh em hông? Em là con me Mỹ. Em thấy ai cũng coi
rẻ em. Em trốn tránh mọi người. Em hông cho ai biết em có con mỹ lai.
– Hổng có gì đâu. Tội nghiệp cho em. Anh hiểu rõ tình cảnh của
em.
– Anh có muốn thỉnh thoảng mình đến thăm thằng Ken hôn?
Hông có thời giờ cùng Loan đến thăm Ken. Hành quân lùng và diệt
địch lại tiếp tục. Vào sâu trong Mật Khu Hát Dịch. Cả bầu đoàn thê tử ì ạch kéo
vào cánh rừng âm u để kiếm bóng dáng của Trung Đoàn 33VC muốn đánh mình lúc nào
thì đánh. Cũng cảnh mưa rừng, cũng đói khát rã rời. Lần nầy chẳng thấy bóng ma
nào hết. Cuộc chiến du kích mưu mẹo, tinh quái. Chỉ có một cách thắng là bày thế
trận để VC chấp nhận giao tranh với mình. Như vậy chắc chắn là VC sẽ thua. Như
trận đánh Long Tân với Chiến Đoàn Úc ngày 18 tháng 8 năm 1966. VC dàn trận đánh
với đội quân thiện chiến, hoả lực mạnh, vũ khí tối tân thì kể như lượm xác…
Xuân mệt mỏi, ngã lưng nằm xuống ghế bố. Chàng ngạc nhiên thấy
đồ đạc được sắp xếp gọn gàng. Lại có thêm mấy gói Ruby xanh. Chưa kịp tháo đôi
giầy ra thì Trung sĩ Trương Xuân Thu đi đến, đưa cho chàng một bao thư dán kín.
– Của ai đó anh Thu?
– Của cô Loan đó Trung Úy. Mấy ngày thẩm quyền đi hành quân, cổ hay tới đây, nấu nướng ăn uống một mình và dọn dẹp đủ thứ. Cách đây hai ngày, cổ đưa cho tôi cái thư nầy nhờ tôi trao lại cho Trung Úy. Rồi hông thấy cổ tới nữa.
Anh thương mến,
Chắc anh hông ngờ là em viết được những dòng chữ nầy? Con Tư
Én hay con Lon trào đờm ngày nào bây giờ đã thoát xác rồi, phải hôn anh?
Lúc anh đi khỏi Cái Bông, chừng hai tháng sau là em thấy người
em lạ lùng. Em bù trất, ngu dốt lắm. Em đâu biết là mình đã có chửa. Tới chừng
Sáu em biết được, ổng nổi lôi đình, ổng đánh em một trận gần chết cha mồ tổ. Em
biết rồi đây em cũng hông thể sống ở làng được. Dân làng họ sẽ rêu bếu người
con gái chửa hoang. Đêm đó, em tóm gọn quần áo. Em bỏ nhà trốn đi như một con
điên.
Em lang thang ở chợ Bến Tre hơn nửa ngày. Em sợ lắm. Em biết
đi đâu bây giờ? Sực nhớ tới dì chín Mạo, bà con họ xa với Má em, ở Vang Quới.
Em đón xe về Bình Đại, xuống xe Vang Quới, em hỏi thăm lần nhà dỉ, tính xin dỉ ở
nhờ. Tới gần chiều tối, em mới tìm được nhà. May hồn, dỉ ở có mình ên. Con cái
đi làm xa. Mới đầu em hông dám nói cho dỉ biết là em có bầu. Sợ dỉ biết dỉ tống
em đi. Em chỉ nói là em gây lộn với Sáu em. Ổng giận ổng đuổi em đi. Em ở đó chừng
một tháng, em thấy dỉ coi bộ cũng thương em, cần em để hủ hỉ với dỉ. Tới chừng
đó em mới thú thiệt. Dỉ chỉ chửi em: “Tổ cha mầy, đồ con gái đĩ ngựa, mê
trai” rồi thôi.
Mang cái bụng bầu, em đi làm thuê làm mướn để sống qua ngày.
Lắm khi ngồi làm cỏ mướn trong vườn vắng lặng, em thầm khóc một mình. Bây giờ
anh ở đâu? Có biết tên anh đâu mà kiếm anh? Bụng mang dạ chửa em sống cu ki?
Sao em khổ thế nầy? Mai đây em sẽ sanh đẻ ra sao? Rồi làm sao nuôi con? Rắm rối
quá, em khóc và hỉ ướt cả cánh tay áo.
Tới ngày sanh, em đành bán sợi giây chuyền để có tiền trả cho
bà mụ vườn. Dì chín Mạo cũng tốt bụng, chăm lo cho mấy ngày đầu em đẻ. Rồi đầy
tháng, em cũng lết đi làm để có chút đỉnh tiền, mong ăn uống khá hơn để có sữa
cho con bú. Dì chín nhắc em ra làng để làm khai sinh cho đứa nhỏ. Vì là con
hông cha, nên làng bắt phải khai họ mẹ. Em đặt tên con là Trần Anh Thương, để
mãi nhớ tới anh. Anh có quên hôn? Lúc khuya đó, ở sau chòi, em nói là em sẽ đẻ
cho anh đám con và sẽ đặt tên là thằng hai Thương, thằng ba Anh, con tư
Quá, thằng năm Trời.
Bà mụ mát tay mà thằng nhỏ cũng dễ nuôi, mau sổ sữa. Những
khi em đi làm hơi xa nhà, hông về kịp cho nó bú. Dì chín quậy nước cơm với đường
tán cho nó uống, vậy mà nó cũng uống ừng ực. Gặp em là nó mừng quýnh và cười
hăng hắc.
Có cô bạn cùng làm cỏ mướn rủ em lên Sài Gòn làm thợ ở mấy
hãng xưởng có tiền hơn. Nhưng kẹt thằng Thương còn nhỏ quá em bỏ con đi hông
đành. Hơn nữa dì chín có chịu nuôi nó hôn. Em tính khi nào thằng Thương biết đi
lẩm đẩm, em dứt sữa nó, em sẽ năn nỉ dỉ chịu khó coi sóc thằng nhỏ. Em lên Sài
Gòn làm có tiền đem về cho dỉ nuôi con dùm em.
Có lẽ Trời Phật phù hộ cho em và con, anh à. Dì chín cũng
thương thằng Thương, tối ngày hai bà cháu quấn quít nhau. Ngày em bỏ con đi lên
Sài Gòn làm việc, hai mẹ con ôm nhau, em khóc ngất. Bỏ nó ở lại, em như đứt ruột
vì nó là máu mủ của anh. Anh ơi! Em thương nhớ con và nhớ anh lắm. Biết tìm anh
ở đâu? Em thầm vái có ngày Trời còn thương em, sẽ cho em gặp lại anh.
Những ngày đầu tiên ở Sài Gòn em lạ nước lạ cái, hông biết gì
hết. Con nhỏ bạn có người quen xin được việc làm trong hãng dệt ở Thị Nghè. Em
với nó mướn một chái nhà cũ, ọt ẹp gần trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây. Hai đứa nấu
cơm ăn chung nhau, cũng chỉ là rau muống chấm tương chao, trứng vịt, đôi khi là
cá mòi hộp, nhưng còn đỡ hơn ở dưới quê… Em dành dụm được chút ít. Hàng tháng
em về Vang Quới đưa tiền cho dì Chín và thăm con.
Lần hồi em mua chiếc xe đạp, tập chạy và đi được đây đó. Chời
ơi! Sài Gòn sao mà rộn rịp. Phố phường đông đúc. Thật là một đời sống an bình.
Biết kiếm anh ở đâu giữa rừng người ồn ào náo nhiệt, hở anh?
Phong trào văn hóa bình dân nở rộ. Tụi bạn rủ đi học lớp đêm
miễn phí ở bên Gia Định. Từ nào giờ Tư Én nầy có biết gì, một chữ cắn làm hai hổng
bể, nên nghe nói được đi học miễn phí, em liền theo các con nhỏ bạn ghi tên học.
Đêm nào cũng vậy, cả toán tụi em, bốn năm đứa, đạp xe từ Thị Nghè đến ngã ba
Hàng Xanh theo đường Ngô Quyền qua Gia Định. Đi học như vậy em thấy vui vẻ, đỡ
nhớ thằng Thương và anh.
Thầy giáo khen em sáng dạ. Học tới đâu nhớ tới đó. Mấy nhỏ bạn
thấy vậy súi em học nhảy. Kỳ đầu em học nhảy hai lớp: năm, tư. Năm sau ba lớp:
ba, nhì, nhứt. Đến bậc trung học em học một năm hai lớp: đệ thất và đệ lục, đệ
ngũ và đệ tứ. Em học kịp những đứa bạn đã học trước em hai năm. Có lần lớp
đêm phải nghỉ học vì đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sau đó, em có
ghi tên học tư thêm lớp đệ tứ để luyện thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp. Có bằng cấp
thì đi làm khá lương hơn, phải hôn anh? Nhưng có lẽ vì học nhảy quá nhiều, em
hông có căn bản nên bị trượt vỏ chuối. Mà cũng phải, chỉ lo học tủ và gạo
hông thì làm thế nào mà giỏi được, trở thành bùi kiệm thôi. Em buồn quá, bỏ học
luôn.
Khi khổng khi không đưa đẩy em làm sở mỹ ở Long Bình. Cũng là
do mấy đứa bạn rủ ren, cho là làm ở đó khá và nhàn nhạ hơn. Nóng lòng làm việc
có tiền nhiều để nuôi con sau nầy, em đi theo tụi nó. Sau những đợt làm giấy tờ
và kiểm soát lý lịch kỹ lưỡng, em được nhận. Buổi sáng và buổi chiều xe
buýt đưa đón ở Ngã ba Hàng Xanh. Công việc cũng hông có gì khó khăn và cực nhọc:
chỉ là quét dọn, làm sạch sẽ những căn phòng của các binh sĩ. Dãy trại làm bằng
gỗ, có nhiều phòng cho các người lính. Mỗi phòng nhỏ, vừa đủ cho một cái giường,
một cái bàn và những món đồ lặt vặt mà em hổng biết là những thứ gì.
Chàng sĩ quan Mỹ kỳ lạ, cứ đeo bám em như đỉa đói. Mới đầu
em tưởng ông ta chỉ giúp mình như mọi người khác, nhưng hông, ông ta lo cho em
mọi thứ thật đàng hoàng vậy đó. Đưa em từ chỗ làm ra đến cổng; rồi sáng, đứng
chờ từ cổng chở em đến chỗ làm. Hông hiểu làm sao ổng biết được ngày sanh của
em. Đến ngày đó ổng mua tặng em một phần quà. Và kết quả, sau những tháng đeo
đuổi em, em biết ra Biu cũng yêu em một cách tha thiết. Rồi tụi em đã sống
chung với nhau như vợ chồng.
Nhưng em đâu biết rằng mấy người bạn em từ đấy nhìn em với
con mắt khác. Tụi nó bắt đầu ít chơi thân với em. “Thứ đồ lấy Mỹ” là giọng nói
thường thường em nghe thấy. Xã hội đã ruồng bỏ, khinh khi em, cho em là hạng
gái vô học, chạy theo vì mê đồng đô la xanh, đô la đỏ. Họ cho những người lấy
chồng mỹ là hạng gái mạt rệp. Mà thực ra, cũng có những người lấy chồng mỹ cố
tình bòn rút, thậm thụt buôn bán chợ trời đủ thứ. Chiều nào ở chợ Tam Hiệp cũng
ồn ào náo nhiệt bán đủ các mặt hàng chui từ căn cứ Long Bình ra. Họ còn cố tình
tạo ra những tiếng ba rọi để khi dễ các bà me mỹ. “Ai đồng nai tổ bị chợt”( I
don’t like to be touched ) là thứ tiếng em thường nghe thấy khi họ trêu ghẹo
các cô gái bán ba.
Nhưng Biu rất thương em và càng chăm sóc em như một người chồng
tốt. Em nghĩ như vậy là cũng đủ cho em. Em là cô gái quê nghèo nàn mà giờ
đây được ấm no là hạnh phúc lắm. Cuộc sống em dư dã nhờ Biu cung cấp cho em mọi
thứ. Em đem về dì chín để nuôi Thương được đàng hoàng hơn.
Từ khi có bầu thằng Ken, em hông cho dì Chín biết là em có chồng
mỹ. Dỉ tin rằng em đã lấy chồng việt nam. Dỉ nói mai mốt mầy đừng bỏ thằng
Thương cũng đừng dẫn nó theo mầy. Dỉ sợ mất nó. Nhiều khi lâu quá em hông về,
thằng Thương nó nhìn em trân trân và còn làm mặt lạ. Anh ơi, biết làm sao bây
giờ? Con hông cha mà mẹ ít khi ở gần. Có thể lớn lên nó hổng nhìn em quá.
Sau khi đẻ thằng Ken, rất lâu em mới về Vang Quới một lần. Gởi
con lai rất khó. Ít có ai chịu giữ con lai. Họ lấy cớ là cái thứ đồ lai khó
nuôi, khó dạy, hay phá phách… Tìm được người coi chừng thằng Ken một ngày, chạy
về thăm thằng Thương rồi lên liền chớ đâu có dám ở lâu để nựng nịu nó, chơi giỡn
với nó.
Biu đươc đổi về Long Khánh. Biu muốn em phải bồng con theo.Tụi
em mướn môt căn nhà ở đầu sân bay gần chỗ Biu làm việc. Cách đây mấy tháng, chồng
em bất thình lình được chuyển về Bến Tre. Nghe thấy thế em sợ lắm. Em nói với ảnh
xin đi chỗ khác đi, đừng về đó. Ai cũng nói Bến Tre là cái ổ VC, anh cũng biết
mà! Nhưng Biu nói để anh về quê hương em cho biết. Thế là chồng em nhứt quyết
đi. Và còn dặn khi nào yên chỗ, Biu cho hay, em hãy bồng thằng Ken xuống.
Hai tháng trôi qua. Mất tin tức Biu. Em hết tiền. Biết mần gì
để mà có tiền nuôi hai mẹ con. Gái lấy chồng mỹ lại dốt trâng, đâu có nghề ngỗng
gì. Đường cùn, em xin đi bán ba. Những quán đó là nơi xô bồ xô bộn. Phần đông
khách vô ăn nhậu đều tưởng gái bán trong tiệm đều là gái đĩ điếm hay loại
hư hỏng. Họ giả bộ ngà ngà say bốc hốt sàm sỡ: xoa xoa lưng, sờ sờ đít,
bóp bóp vú, ngắt nhéo má… và ăn nói bộp chộp, lỗ mãng, trây trúa. Nhậu đã đời,
họ còn cà chớn hỏi có đi hôn? Nhứt là mấy tay ba sồn ba sựt, hay già khú
đế. Khi mềm môi, hổng hiểu có sướng ích gì mà hai tay họ bươi móc còn liều lĩnh
hơn, cứ tìm mấy chỗ hiểm hóc mà mò mà thọc riết tới? Em biết làm sao? Chỉ cười
nói vả lả và ngậm đắng nuốt cay để có tiền nuôi con. Hơn năm tháng rồi em chưa
về thăm thằng Thương. Tội nghiệp cho con em. Hai đứa bây giờ biết thương đứa
nào bỏ đứa nào.
Gặp lại anh, em vừa mừng vừa tủi. Mừng là gì mấy năm nay cố gắng tìm anh để cho anh biết là mình còn có đứa con. Tủi là gì em hông còn xứng đáng với anh nữa. Em đã có chồng khác: người chồng mỹ và một đứa con lai. Mấy hôm anh đi hành quân, một mình em ngồi ở lều trống vắng, em tủi thân em khóc và hông còn hy vọng gì ở mãi với anh. Anh còn có gia đình và em còn có Biu và Ken, nên em quyết định đi về Bến Tre tìm Biu. Chỉ xin anh một điều: anh ráng lo coi sóc thằng Ken dùm em độ mươi ngày. Khi tìm được Biu, em sẽ quay trở lại ẳm con đi theo.
Con Lon trào đờm thương anh hoài vậy đó.
Nhờ Trung sĩ Thu, nên em bây giờ mới biết tên anh. Anh Xuân của em. Anh có biết là anh mất cái áo sơ mi sọc rằn lúc ở Mỹ Nhiên hông. Tay em đã lấy đó. Nếu sau nầy, có dịp thăm con ở Vang Quới, anh hỏi dì Chín Mạo. Dỉ sẽ đưa cho anh cái áo đó.
Mấy ngày sau, ngày nào Xuân cũng tới thăm Ken. Thằng bé thấy
chàng cũng quấn quít. Nhưng chàng nghĩ hông thể kéo dài tình trạng như thế nầy
mãi. Rủi bất thình lình, Xuân bận hành quân xa, lâu ngày, người chủ nuôi họ sẽ
đem cho Ken vô cô nhi viện, hoặc bán hay cho ai đó. Nên sau khi năn nỉ chị Hiền
ráng trông coi Ken một thời gian, chỉ đồng ý. Chàng đón Ken về đại đội.
Ở đại đội kêu nó là thằng mỹ lai, chớ hổng kêu tên. Tối ngày nó lẩn quẩn bên mấy người vợ lính, chọc phá, bươi móc đồ đạc, nhứt là moi mấy cái vớ hôi rình trong mấy đôi giày thúi hoắc. Nhiều khi họ la om sòm nhưng hổng dám đánh nó. Một thời gian sau, chị Hiền tính trả nó lại cho Xuân. Chỉ sắp sửa lấy chồng ở trong rẫy xa. Còn Loan đi đâu tới giờ hông thấy trở lại? Chỉ còn có một cách là đem nó về sống với gia đình. Người thư ký đại đôi đã xuống quận Xuân Lộc làm khai sanh cho Ken, khai bớt đi hai tuổi…
Út Thèm đã 17 tuổi rồi. Từ ngày chị Tư Én nó bỏ nhà ra đi, nó
phải thay chị nó, mỗi năm một mùa, chăn vịt chạy đồng. Rồi còn làm đủ mọi công
việc nhà. Ông Sáu Lục đã bị bịnh dai dẳng một hai năm nay. Tối ngày ngồi một chỗ,
ổng ho sù sụ. Lúc ở trong đồng Út Thèm tụ tập đàn ca hát xướng với mấy thằng ở
những chòi kế bên. Lâu ngày hông hiểu bị dụ khị như thế nào, nó trở thành du
kích xã. Rồi mấy tháng sau được sung vào tỉnh đội. Nó cùng Út Nhạy, em của Ba Đẹn
ở Lương Quới, hoạt động rất hăng say. Đôi khi đấp mô ở đoạn đường Mỹ Lồng-
LươngQuới nhầm phá rối. Những hàng me xanh tốt hai bên đường lần lần bị cốt đi
hết. Có khi đặt mìn giữa lộ để giật nổ xe nhà binh của Quận chạy lẻ tẻ.
Khỏang từ năm 1966- 1967, các toán Thám Sát Tỉnh (PRU) được thành lập, hoạt
động từng nhóm nhỏ, khoảng từ 5 đến 10 người, thường hay đột kích lúc trời gần
sáng vào những căn cứ của tụi nó. Nhiều lần, Út Nhạy và Út Thèm chạy sất bất
xang bang, trối chết, trốn chui trốn nhủi mới hổng bị tóm được .
Bill về BếnTre để huấn luyện các toán PRU. Hôm nay nó có việc
đi xuống Giồng Trôm. Hông hiểu sao Bill hông muốn có đoàn xe hộ tống. Nó biết
vùng nầy có nhiều du kích mà? Nó muốn đi một mình để nhìn thấy quê hương của vợ?
Chiếc Jeep lùn A2 của Bill chạy ngon trớn trong bụi đỏ mù mịt đến Giồng Trôm. Vừa
qua khỏi cầu Bình Chánh, đến ngang Cát Lỡ, Bill thấy một đám khói lẫn cát đá
tung bay rồi nghe một nổ thật lớn. Chiếc xe bị nhấc bổng lên cao, nhào lộn, lật
qua bên kia đường. Hình như có tiếng hô lớn của một nhóm người. Bill bị văng ra
khỏi xe. Nó mơ hồ biết xe bị mìn. Súng đâu rồi? Văng đi đâu mất tiêu? Người tài
xế chắc chết? Cả một đám người lố nhố tràn lên.
Bill bị trói thúc ké dẫn đi trong những vườn cây ăn trái rậm
rập ra tới bờ sông Bến Tre. Hai chơn bị lột mất vớ nên bị trầy sướt tùm lum. Có
lúc nó phải đi cà nhắc. Bọn họ đẩy nó xuống xuồng, xong chèo qua bên Đông Ngô.
Trực thăng bắt đầu bay lượn vòng trên ngọn dừa và thỉnh thoảng bắn đạn rốc kết
xuống những lùm cây bần dọc theo bờ sông.
– Con mẹ họ, nó biết rồi. Làm sao đây?
– Chắc thằng đế quốc nầy có bỏ máy gì trong người nó nên con
chuồn chuồn nầy theo hoài. Bắt nó lột quần áo ra hết trơn đi Út Thèm.
Nhưng trực thăng vẫn vòng vòng trên trời. Bây giờ lại có thêm
hai chiếc võ trang bay đến yễm trợ. Bill đau chơn quá hông chạy mau được.
– Chết mẹ. Hai con cồng cộc tới rồi. Chắc tụi nó thả mấy thằng
rằn ri xuống ví tụi mình quá.
– Làm thịt thằng đế quốc đó đi, để rảnh nợ, chạy cho lẹ. Lè lẹ
đi.
Út Thèm đưa súng lên, bắn liền hai phát vào sau lưng Bill.
Bill đang chạy. Thân hình nó bay nhấc khỏi mặt đất rồi rớt xuống. Hai dòng máu
đỏ trào ra ở ngực. Nó chúi mũi ngã vô đám ô rô và mái dầm dày đặc bên sông, dẫy
dụa một vài cái rồi chìm lĩm vào nước sâu…
Loan lật đật xuống xe lôi, tìm đường đến bến về BaTri. Một
ngày nay nàng loang quanh ở BếnTre để hỏi thăm tin của Bill, nhưng hông có ai
trả lời rõ về Bill. Bên toán cố vấn Mỹ họ hông cho biết chi tiết. Chỉ biết là
chồng nàng mất tích. Người ta chỉ đại cho nàng qua Phòng Ba Tiểu Khu. Ông Trung
Úy Nguyễn Tấn Nghiệp trả lời có biết vụ nầy, nhưng cách đây hơn tháng rồi. Quận
Giồng Trôm có cho một đại đội Địa Phương Quân truy tìm nhưng hông tìm được gì hết.
Bên cố vấn Mỹ có thả mấy toán PRU để cố tìm Bill, nhưng hông có kết quả. Nàng
buồn xo, suôi xị ngồi xe về Cái Bông.
Con đường làng như xa lạ. Những cành cây de ra hai đường che
khuất lối đi. Nàng thấy như mình lạc đường về nhà. Sao lạ vậy? Mới có sáu bẩy
năm thôi mà? Cây cỏ khác đi. Và cảnh vật cũng khác đi. Cái gì cũng lạ quắc lạ
quơ. Nhà mình có lạ đi hông. Hàng cây bụp có còn hông. Bụi chuối sau nhà trổ được
bao nhiêu quày rồi?
Sáu nó lừ mắt nhìn nó. Chắc ổng còn tức giận, hông nói hông rằng.
Tưởng nó bỏ nhà đi theo trai tới bây giờ mới ló mặt về.
– Mồ tổ cha bây. Bỏ nhà đi biệt hé. Con bây bây lớn rồi. Sao
hổng dẫn nó về thăm tao.
– Nó mắc đi học má à. Ví lại ở Sài Gòn xa quá. Lúc nào rảnh
con dẫn nó về thăm ông bà ngoại. Mà Sáu ổng còn giận con hè má?
– Ổng nghe con nhỏ nào đó. Nó học với ổng là nó thấy bây đi
làm sở Mỹ đâu trên Long Bình, Long Biếc gì đó. Nên mấy tháng nay, ổng hầm hè
hoài quỉ. Nè con, đừng có đi làm sở Mỹ nữa nghen con. Đừng làm cho mấy thằng đế
quốc đó nữa. Nó đem quân qua đánh giết dân mình đó nghen con. Gia đình mình bây
giờ là gia đình cách mạng đó con. Thằng Út Thèm nó là bộ đội huyện. Còn chị ba
mầy nghe đâu cũng vô làm cái gì vận vận đó tao cũng hổng rành nữa.
– Sao nhà mình tối tối phải đốt đèn chong ve chai ở trước vậy
má?
– Ơ. Mấy bữa có lính đi kích đêm. Tao đốt đèn lên để mấy ông
du kích mình biết.
Loan ngán ngẩm cho cuộc sống của nhà mình: nàng lấy chồng mỹ, em mình là du kích VC… Khuya hôm sau, nàng đón xe đi Bến Tre, rồi định ghé Vang Quới thăm thằng Thương. Chiếc xe đò chạy sớm đầy nhóc bạn hàng, gióng gánh chồng chất. Tiếng người nói chuyện om sòm. Họ hông nghe một tiếng nổ ầm rất lớn. Sau đó im lặng. Đám cháy phựt lên. Tiếng la hét, rên rỉ trong đêm tối…
Ông Mười Năng là chủ trại cưa ở xã Phước Thiền, Long Thành,
Biên Hòa. Nhà có hơn bốn năm đứa con gái. Đám lính dân vệ, địa phương quân, ban
hội tề làng xã thường hay lui tới nhậu nhẹt hà rằm. Nhiều khi chén anh chén chú
cho đến khuya lơ khuya lắc. Đồ nhậu nhiều khi hông có gì. Mồi chỉ là khô mực,
khô cá hố, cá sặc, mấy trái cóc muối chua. Quan trọng là mấy chai xị đế. Cha
con đến độ là nói chuyện trên trời dưới đất, tào lao thiên đế, mà hay nhứt là
cái vụ nói trây, hông biết chừng nào mới hết. Chỉ có cái nói là hết rượu rồi,
khuya quá quán đóng cửa. Tới chừng đó, bợm nhậu mới nằm sóng soài trên bộ ván
gõ. Có tay vừa ngã lưng là ngáy khò khò, có trự cho chó ăn chè.
Ông chủ trại cưa đâu có vừa. Ổng là chủ xị nên chơi tới bến
luôn. Khi cả làng nhào xuống bộ ván, ổng còn tỉnh bơ. Ổng lật đật bước xuống
sau nhà, lấy hột quẹt đốt cây đèn bão treo trước cửa trại: đêm nay có lính với
lại cô hồn các đẳng ở đây nghen! Thế là mấy tay du kích VC biết rồi, hổng có lớ
quớ về nhen! Đâu đó cũng giống như nhà ông Sáu Lục ở Cái Bông, Bến Tre.
Cho nên, đại đội Xuân đóng đồn ở Bến Cam có bao giờ kích được
một tên VC nào đâu. Cũng như chàng Trung Úy Manas của Sư Đoàn Mãng Xà Thái Lan,
ở căn cứ Bear Cat-Long Thành, có bao giờ biết mặt được một móng VC nào ở
vùng nầy. Nhiều khi, họ bắn pháo binh ào ào vào vùng Phước Lai, rồi xua lính tấn
công cho phí sức, phí đạn; hoặc là lâu lâu hành quân vào Tam An kiếm thử
du kích. Trung Úy Manas nói sỏi tiếng Việt giọng Huế cho Xuân biết như vậy,
trong lúc họ chỉ làm sương sương một vài ly ở nhà ông Mười Năng. Quân đội Thái
hông rành về du kích VC. Họ chưa hành quân vô những vùng VC là dân mà dân cũng
là VC. VC mánh mung, xài cái mửng đưa dân đỡ đạn cho họ rồi khóc thét lên: má
ơi, tụi nó giết con.
Ấp chiến lược thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm ấy vậy mà hay. Chắt
VC ra khỏi dân như lấy nò, dùng sa bắt cá. Hông hay sao mà Ăng- Lê giúp Mã Lai
thành công? Con cá lớn Chin Peng sống khốn đốn vì nhà cầm quyền dồn dân vô ấp.
Đến nổi mua đồ hộp phải khui liền ngay tại chỗ. Bây giờ Chánh phủ thay bằng Cán
Bộ Xây Dưng Nông Thôn hông hiệu quả vì các chàng áo đen nầy đi tới đâu là phải
có lính yểm trợ. Hông hiểu họ tối ngày lân la ở Xóm Hố, Phú Hội ra sao, mà thỉnh
thoảng bị cắc bùm hoài. Một đại đội của Xuân đóng ở Nỗng Vang Lò bị cầm chân vì
các chàng áo đen. Lính Sư Đoàn mà đi yểm trợ Cán Bộ XDNT! Cũng như trước khi về
Phú Hội, đại đội đóng đồn ở Quán Chim, ngày ngày đi lên đi xuống, mở đường an
ninh QL 15 từ Quán Chim đến Phú Mỹ. Hông có gì. Chỉ có thấy con gầm gừ ( Con
gầm gừ là con chim cu xanh.Nó hông biết gáy chỉ cà rù cà rù nên dân vùng Quán
Chim-Phú Mỹ (Long Thành) gọi là con gầm gừ.) là nhiều nhứt.
– Chúc. Tao chán ba cái ông nội áo đen nầy quá. Tối thì chui
vô chính giữa đại đội mình ngủ. Ban ngày thả rong vô xóm, ghi chép cái gì đó mà
hơn tháng nay, tao thấy VC vẫn về hoài.
– Sao cậu biết?
– Tao quen mấy cô giáo dạy ở Phú Hội. Thỉnh thoảng lúc nói chuyện,
tao thấu cấy, mấy cô đó xì ra hết. Mấy tay du kích băng qua Hang Nai về Xóm Hố
hoài chớ gì. Nhà vườn ông Mười Năng cũng ở dưới đó.
– Sao mình hông cho kích ở dưới?
– Xóm Hố giống như cái màng nhện. Mình biết chỗ nào chắc chắn đâu mà kích. Ban ngày, mầy ruồng ở dưới đó, mầy biết rồi chớ gì?
– Ê, Nghiệp. Mày làm ở phòng ba Tiểu khu. Mầy chấm tọa đô bắn
pháo binh về Ba Châu hoài. Coi chừng tụi nó thịt mầy.
– Thịt gì? Tui hổng khoái VC. Phá quá mà! Nát làng xóm, gia
đình, nhà cửa. Hổng để dân yên mà!
– Mầy chấm tọa độ bắn vào vùng Ba Châu coi chừng chết bà con
của bác Ba mầy. Họ toàn theo VC hông đó? Năm Khuẩn, con Bác Ba mầy cùng học một
lớp với mầy, lúc Ba mầy là thầy giáo ở Châu Hoà, mầy hổng nhớ à! Ờ tao nhớ ra rồi,
còn có Sáu Y và Sáu Luốc nữa. À mà, Sáu Y đi lính Biệt kích, đi mua muối rồi,
đâu ở trên Đà Lạt năm 1964.
Vùng quê hứng chịu bom đạn quá trời. Hông như thời trước,
quan Tư Lầu chỉ có cây mọt chê nhỏ xíu, đặt trước chợ Lương Quới bắn ba xí ba
tú một vài trái vô xóm trong, hổng chết thằng Tây nào hết. Vậy mà dân làng cũng
sợ điếng hồn. Còn cà nông ở bên Bình Đại lâu lâu xọt qua Châu Bình làm dân sợ
té đái. Máy bay thì năm thuở mười thì mới xẹt qua, bắn đì đùng, thả ào bậy một
trái bom rồi dông mất.
Bây giờ thì khác rồi. Bom đạn quá nhiều. Lớp máy bay bắn phá,
lớp pháo binh diện địa 105 ly bao phủ cùng khắp, hay bắn bất tử nên hổng biết
chỗ nào mà tránh. Hổng có chỗ nào an toàn hết. Lại thêm nạn thuốc khai quang
làm trắng. Những toán PRU nhảy đột kích lúc khuya hoặc hừng sáng, làm cha con VC
chạy muốn sút quần luôn. VC mất ăn mất ngủ. VC và dân hết đường sống ở làng mạc
xa xôi. Hầm chông và súng ngựa trời đâu còn nghĩa lý gì.
Từ khi đứa con trai thứ ba –Ba Nữa- bị toán PRU giết chết, gia đình ông Sáu Xe tìm cách vọt về Sài Gòn. Họ hông dám ở Bến Tre, sợ cảnh sát điều tra sẽ biết được dễ dàng. Họ len lỏi, chạy chọt xin vào làm công chức nhà nước. Đó là những nghề hông ai để ý. Bắt chước người anh Năm Lân, Khanh và Ba Đẹn xin được làm giáo viên dạy tiểu học ở Quận 8. Bộ máy công quyền hông chú ý hay là họ hông điều tra kỷ nên VC và những thành phần có cảm tình với VC ở đầy nhóc. Hơn nữa nhà nước cho rằng ai làm nấy chịu, hông có cái kiểu đì cả gia đình, họ hàng… nên VC lợi dụng đào hang, kẽ ngách gần hết các quận đô thành. Họ rỉ tai, chuyền miệng, phao tin đồn… Họ làm “ giao liên” đưa đón những tay VC gộc vào trú ngụ ở những nơi họ đào hang trú ẩn sẳn. Phần đông là những người Phật Cộng và Giáo Cộng lợi dụng danh nghĩa tôn giáo giúp đỡ họ nhiều nhứt: cha lấy xe chở vũ khí dấu vào nội ô; chùa chiền chứa chấp sư và ni cô VC, các thanh niên trốn quân dịch… Nhiều khi họ cũng bị bắt, nhưng như cóc bỏ dĩa. Họ đút lút cho những thành phần hối lộ của chánh quyền, nên vừa mới bắt xong là ít hôm thấy họ ló mặt ra. Hoặc là, nay họ ở chỗ nầy mai ở chỗ khác, khó mà lần ra họ. Và có lẽ, VC cho thời cơ đã đến. Họ tin là có thể cướp được miền Nam nên ra lịnh tổng tấn công. Ngày 31 tháng giêng năm 1968 (Tết Mậu Thân) là một thảm họa cho dân miền Nam.
– Hải. Mầy xuống ngồi đàng sau với Chuẩn Úy Nghĩa. Để tao
lái. Hồi chiều, có đem theo hai Carbin hông?
– Dạ có. Trung Úy say chưa?
– Có thấm gì đâu mậy. Mới sương sương ba sợi từ chiều đến giờ.
Phải nói, bữa nay tất niên, ông Hiếu, ổng đào đâu ra được ba chai Johnnny đen,
nhậu đã hết cỡ thợ mộc. Trung Úy Tài nhím môi, chỉ ngồi phá mồi. Chúc, mầy ngồi
đằng trước thủ sẳn cây Carbine M2 báng cụt của tao. Có gì mầy chơi hết hai băng
là vừa đủ. Dẹp ba cái vụ Colt đuôi (12) đi. Tao chạy hổng có đèn nhen. Tắt hết đèn
mũi, đèn lái luôn.
– Có được không đó thẩm quyền. Bữa nay, cuối năm. Không có
trăng đâu đó.
– Mầy khỏi lo, Chúc. Gần giao thừa rồi, chắc mấy ông nội VC
cũng nghỉ ăn Tết chứ. Đường Phú Hội về tới Bến Cam, tao thuộc lòng như trong
bàn tay. Ví lại, hông có đèn, mấy ổng nghe tiếng xe ù ù thì mình biến rồi. Thêm
bụi bay mù mịt thì tổ cha nó cũng chịu thua luôn.
Pháo bắt đầu nổ râm ran. Nhưng súng đủ loại ngoài Long Thành
ì ục lấn át tiếng pháo.
– Chết mẹ! Mấy cha VC nầy phản phé rồi. Năm nào mình lại hông
có công điện đề phòng. Năm nay nó chơi thiệt.
– Tới đồn, pha đèn lên. Nếu không, cái xe không đèn lù lù chạy
vô, tụi nó tưởng là cái gì, nó phơ một băng đại liên là mình bỏ mẹ.
Thằng Hải sợ quá. Nó lật đật nhảy xuống xe hối trong đồn kéo
concertina.
– Tụi nó ra hầm hố hết chưa anh Thanh.
– Xong rồi. Tui cũng kêu toán tiền đồn rút về.
Ngồi gục gà gục gật. Chưa đầy sáng. Có công điện. Chuẩn bị trưc thăng vận, giải tỏa Định Quán. Có nếm được khoanh bánh tét, miếng thịt kho tàu nào đâu. Tội nghiệp mấy bà vợ lính. Chuẩn bị đồ ăn đùm đùm đề đề, dắt con lếch tha lếch thếch đem ra cho chồng ăn Tết. Bây giờ ba cái món đó làm sao bây giờ. Thiếu Úy Thanh bực bội chửi thề: “ Đụ mẹ! Ba cái thằng VC mắc dịch ”. Nó lo cho bà vợ ở lại đồn. Vợ Xuân cũng vậy. Đường sá bứt rồi. Làm sao về. Xuân giao thằng Hải: mầy liệu lo chở mấy bà vợ lính. Bỏ đồn. Bỏ tất cả ở lại. Xa rồi Phú Hội, Bến Cam, Phước Thiền…
Định Quán là một quận nhỏ nằm bên QL 20, có hòn đá chồng cao
lớn và những hòn đá lớn nhỏ rải rác, ngó cũng đẹp mắt. Dân cư sống dọc hai bên
đường, phần đông là người miền Bắc. Tiểu đoàn nhảy xuống ở sân banh, từ từ tiến
vào quận thì VC đã dông mất. Lại lùng sục. Tìm ra tận Tà Lài, bờ sông Đồng Nai;
mò vào những cánh rừng sâu từ quận đến rừng Giá Tỵ, Phương Lâm; vượt La Ngà
cũng chẳng thấy bóng ma nào hết. Sốt rét rừng ác tính quật đi mấy mạng. Họ ngu
gì ở những nơi sát quốc lộ trong tầm pháo binh…
– Nè, tụi bây sắp hàng ăn uống đàng hoàng nhen. Đừng để mấy
thằng Mẽo nó khi mình, nghen.
– Lần lượt rồi cũng đến phiên mình mà. Đồ ăn hổng thiếu đâu.
Mang từ Long Bình lên đó. Ngày nào cũng vậy, còn nóng hổi. Đúng là đánh giặc
theo kiểu nhà giàu.
– Dặn mấy ông thần của mình lấy ăn từ từ.Nếu còn đói có thể
đi thêm một vòng nữa.
– Thanh. Tao thấy trực thăng câu từng xì -tẹt nước, rồi móc
lên cao cho lính tắm. Sướng tổ mẹ. Còn mình xuống suối hằng bữa.
– Chưa đâu, mầy Nghĩa. Đóng quân giữa rừng, cũng có W.C. Lâu
lâu tụi nó đổ dầu đốt lên, hôi mùi cứt khô tổ mẹ. Còn tụi mình đi láng trong rừng,
mạnh thằng nào thằng nấy kiếm lá rừng thiệt bự để chùi. Ngày nào tao cũng thấy
họ thay đồ mới, giặt ủi phẳng phiu. Cứ cổi đồ dơ bỏ đống đó, rồi mặc đồ sạch
vô. Tụi mình chỉ có mỗi một bộ. Lâu ngày hông giặt được, đứng gần hôi rình. Nhiều
khi mùi vớ với quần áo tanh ói. Tao thấy họ còn lãnh lương nữa chứ. Tụi mình đến
kỳ lương, bận lội rừng thì còn lâu mới được lãnh.
– Mình còn tùng thiết với họ cho đến khi nào?
– Hổng biết nữa. Chỉ biết bây giờ tụi mình ngày nào cũng đi
chung với họ. Rồi chiều về, cơm nước xong, ngủ vòng ngoài, bảo vệ căn cứ pháo binh
của Lữ Đoàn BB 199 HK.
– Mấy anh chàng nầy đóng quân ở đâu là rình rang tới đó. Trực
thăng lên xuống hà rầm. Ban đêm, lát lát lại bắn trái sáng. Ngủ hổng được con mẹ
gì hết. Có khác gì lạy ông tui ở bụi nầy.VC nó biết, nó chạy mất mẹ nó rồi. Còn
nếu nó hổng chạy, nó lừa thế, nó đột kích là cũng lãnh đạn. Sao họ hổng rành du
kích hả? Đặt căn cứ pháo binh vào tuốt trong rừng sâu nầy làm cái gì?
– Mỗi nước có một lối đánh trận riêng. Cũng như Úc và Tân Tây
Lan có một Chiến Đoàn, họ đánh theo lối của họ làm cho VC vùng Bà Rịa xất bất
xang bang luôn. Còn mình đánh theo lối đánh của mình mà tiếp liệu của họ nên
nhiều khi bị cầm chơn hoài.
– Ê cậu. Chắc tư bản vũ khí đem xài cho hết rồi mới tính chuyện
khác.
– Mầy nói đúng đó Chúc. Tư bản nào cũng là tư bản, chuyên môn
bốc lũm. Vì thế Marx ghét tư bản thậm tệ, có đúng hôn?
– Nghỉ nói chuyện triết lý đó đi. Bây giờ tớ thèm ly lade có
đá.
Rút cục mấy thằng sĩ quan cũng được vừa lòng. Hết thời gian
tăng phái, Tiểu Đoàn về Định Quán đóng dọc QL 20 nghỉ dưỡng quân. Ngày ngày ngồi
quán cà phê chỉ nhìn mấy chiếc xe chạy đò chạy lên chạy xuống. Con đường nhựa
đen trưa đổ lửa, ngút nắng ngầy ngật bóng nước. Xe Peugeot 403 Minh Trung chạy
đường Sài Gòn -Đà Lạt, thường tấp vào đây để khách nghỉ. Hông hiểu khi đi thăm
Xuân, Yvette có đi xe Minh Trung hôn? Chàng thấy bác tài nhét khách đầy nhóc,
ngồi chật bó.Và, Yvette ơi, em đi lên đi xuống mấy lần để tìm anh?
Tiền đâu mà uống lade hoài. Giết ngày tháng của tuổi trẻ bằng
bài bạc, nhậu nhẹt, nói chuyện trây trua tầm phào, ba xí ba tú, từ đầu trên xuống
xóm dưới, ngoài ra thì lính đánh trận biết làm gì bi giờ ở cái quận nghèo nàn nầy?
Quán cà phê hông có Ti Vi. Mà làm sao có được? Ăng ten phải đưa cao nghều nghệu
chưa chắc gì bắt được. Chỉ có ra điô ra rả tối ngày các bài hát về lính.
Đêm tối, mấy thằng ra ngồi ngoài QL, ngắm trăng sao, tán dóc,
hút hết từ điếu nầy tới điếu khác cho đến khuya. Đường nhựa đen hun hút trong
đêm đầy sao trời. Đầu đêm sao Hôm, sao Bò Cạp, sao Cày, rồi sao Vệ Nữ. Cuối hôm
sao Mai. Sao Bắc Đẩu ở cuối đường chơn trời, xa vời vợi. Đường nhựa đen mơ màng
chập chờn ngà ngật mông lung theo từng đêm trăng.
– Mình nhong nhong ở cái quận nầy hoài sao? Tớ thấy ngày
tháng trôi chán chường. Nghe nhạc ca tụng lính tráng nhiều khi mà phát chán.
Toàn là đưa mình lên tận trời xanh. Mấy tay tổ nhạc sĩ toàn là mơ.
– Phải vậy thôi. Đó là món ăn tinh thần phải có. Vậy chớ nhiều
khi mầy nghêu ngao thì cũng thấy đỡ buồn, phải hôn?
Khi Chúc và Xuân đến thì thức ăn đã bày ra sẳn trên bàn dài.
Khách đã ngồi và sắp cầm đũa. Một chai rượu đế trong vắt cở chừng hai lít
nằm chình ình ngay giữa bàn. Ai nấy trông có vẻ háo hức với buổi tiệc sắp mở
màn. Hai người sĩ quan trẻ được mời ngồi vô hai ghế giữa. Xuân nhìn thấy ngay
trước mặt mình những miếng thịt nướng xỏ xâu dài thơm phức, một dĩa đựng những
khúc dồi dài màu hơi đen đen có những miếng đã cắt lát mỏng, và sau cùng một cuộn
thịt luộc trắng kế bên những lát riềng. Còn một chén mắm tôm với dĩa rau thơm.
Xuân chưa biết là món ăn gì. Tới lúc đó, anh chàng Chúc mới nói cho Xuân là thịt
chó. Và Chúc bắt đầu chỉ: chả chìa, thịt luộc, dồi, rựa mận, tiết canh và cuối
cùng là cháo. Mọi người nói chuyện rôm rã và khoảnh khắc chai rượu đã vơi đi một
nữa.
Một số ít người miền Bắc thường nuôi nhiều chó trong nhà. Và
họ đợi khi có đám tiệc là giết một con. Hông giống như mọi người Bắc, những
chàng hạ cờ tây nam kỳ là những tay bợm nhậu. Đàn bà con gái trong Nam hổng khi
nào rớ đến món “cây còn” đó.
Xuân chỉ ăn món chả chìa vì chưa bao giờ chàng ăn thịt chó.
Khi món ăn cuối cùng là cháo được mang ra, Xuân bắt chợt nhìn thấy cái đầu chó
dính những miếng da thui đen, vàng có hai lõm sâu trắng hếu nổi lên. Chúc lật đật
đứng dậy định múc cho chàng một chén, nhưng Phùng Xuân đưa tay khoát lấy cớ đi
ra ngoài. Xuân hông chịu nổi khi nhìn lõm sâu của hai con mắt…
Con chó mực một năm tuổi tối ngày lẩn quẩn bên mình Phùng
Xuân. Chàng xin nó khi nó chưa dứt sữa mẹ, nên tối nào nó nhớ mẹ nó cũng kêu
ăng ẳng. Đến chừng nó lớn thì nó khôn lắm. Xuân rút mác vắt bên vách là nó nhổm
dậy, chạy trước mở đường. Rắn rít đều sợ nó. Anh chàng Mực nầy săn chuột mới
tài. Chuột mà rớt tỏm xuống nước là thế nào trự cũng nhảy ùm theo, ráng bắt cho
được chú tí. Nó mà đánh hơi, quàu quàu hai chơn thì hông chuột cũng rắn hay
chim. Nó còn là bạn tắm sông của bọn anh em Xuân. Ê, Ê Mực. Nó nghễn tai. Môt
khúc cây quăng tuốt ra giữa rạch là Mực phóng theo bơi chó chủm chủm cắn khúc
cây đem vào bờ, nhả ra rồi kêu ăng ẳng ngồi đợi.
Việt Minh kỵ chó vì họ sợ tiếng chó sủa làm lộ tung tích của
họ nên vùng Việt Minh tự trị cấm chó. Hông hiểu sao con Mực khôn lắm. Khi Tây
ruồng bố, nó cùng chạy trốn với gia đình thì nó im thin thít, hông sủa hay kêu.
Nhưng mà nó gặp Việt Minh là nó sủa.Chắc Việt Minh có mùi lạ nên họ hông cho
nuôi chó.
Tội nghiệp. Con Mực khôn mà hông lanh nên bị anh Ba Thực dụ
nó rồi tròng cổ nó lôi đi sền sệt.Tới chừng nó biết, nó dẫy dụa nhìn Xuân với cặp
mắt van lơn và rươm rướm nước mắt thì đầu nó đã bị ấn vô cái bao bố tời rồi.
Lúc đó nó bắt đầu quậy rồn rột. Hai người thanh niên trẻ lôi bao bố quăng xuống
nước một cái ùm. Tới chừng đó, Xuân khóc ré lên, đòi trả lại con chó. Chắc con
Mực nghe được nên nó ực ực mấy cái.Một đống bọt nổi lên.Bao bố tời chìm nghĩm.
Hai ông già đã thủ sẳn hai ba nồi nước sôi. Vừa lúc đó, một
nhóm đàn ông khác cũng động dao động thớt bầm hành, xả, tỏi… và nạo dừa sồn soạt.
Họ thay phiên nhau cạo sạch lông, chớp nhoáng đã xong. Con Mực bây giờ trắng muốt.
Xuân nghe họ bàn tán con chó mực nầy ngon. Câu thiệu của bợm nhậu “ cờ tây ”:
Nhứt mực, nhì khoan, tam vàng , tứ đốm, cùng cực mới ăn chó cò.
Rồi cuối cùng con Mực của Xuân trở nên vàng rụm trong đống lửa
rơm. Đứng nhìn từ xa, Xuân chợt thấy hai hàm con mực banh ra như tức giận, trách
móc chàng tại sao hông cứu giúp nó. Hai cặp mắt lồi ra, nhe hàm răng như nhát
chàng. Xuân lật đật chạy đi chỗ khác. Chàng hông bao giờ quên được hình đầu con
Mực…
Tháng 05 năm 1968. Trời nắng chang chang muốn điên cái đầu.
Quây quần tối ngày ở cái vùng Định Quán có làm gì được đâu. Dẫn đại đội đi lên
đi xuống mở đường, an ninh trục lộ. Định Quán –Phương Lâm, Phương Lâm -Định
Quán. Xe đò đi lên đi xuống. Tối ngày chỉ thấy xe đò và rừng cây hai bên đường.
Ngày tháng trôi qua, chiến cuộc càng mù mịt. VC tấn công hôm Tết rồi rút lui đi
đâu hết. Chắc họ đang chuẩn bị cho một đợt mới?
– Ê, Chúc. Thằng Nghĩa đã đi rồi. Có Chuẩn Úy An mới ra.
Trung đội 3 có mấy que, để nó về kể như làm tiểu đội trưởng.
– Thì hồi đó tớ cũng vậy thôi.
Chuẩn Úy An và Trung sĩ Nhi lót tót ra theo xe tiếp tế Tiểu
Đoàn. Còn chơn ướt chơn ráo thì có lịnh hành quân.
Khuya phải nổi lửa nấu cơm để trưa mai có cơm ăn. Nhưng có được
ăn trưa đâu. Tiểu Đoàn bị Trung Đoàn 274(?) phục kích giữa đoạn đường Định
Quán-La Ngà. Mình đi lùng kiếm VC cả tháng nay mà hông thấy bóng dáng nó đâu.
Trái lại nó biết mình ở đâu, làm gì để đến giờ nó thừa cơ nó dếnh cho mình một
trận, nhưng VC hông ngờ Tiểu Đoàn vừa được cấp phát AR- 15 nên quật lại một đòn
chí tử. Tại sao lại hành quân mở đường Định Quán-La Ngà? Mấy ngày trước đã rụt
rịt có tin Tiểu Đoàn trở về Long Khánh bằng xe rồi mà? Chắc là có nội tuyến mới
biết rõ ràng như vậy?
Chuẩn Úy An mới ra trường, còn lạ nước lạ cái nên mất mạng.
Và Trung Sĩ Nhi cứ chằn chằn trở về cho đúng ngày phép. Để đến bây giờ hai người
vợ trẻ đầu phải quấn khăn tang. Tiểu Đoàn rối lên giống nồi canh hẹ. Mấy bà vợ
lính chạy đầu nầy đầu kia hỏi thăm tin tức chồng. Mặt ai nấy đều tỏ lo âu sợ hải.
Nhưng mà làm sao biết rõ được ở ngoài kia, có anh còn bị thương ngoắc ngoải,
chưa tản thương được, hông biết sống hay chết. Có người bị thương nhẹ, nhưng đợi
chờ hoài, hông được băng bó, máu ra nhiều, rốt cuộc rồi cũng chết. Bị phục kích
từ sáng mà đến gần chiều mới có đơn vị tiếp cứu và tản thương thì làm sao mà hổng
thiệt hại nhiều?
Hồi Tết Mậu Thân, VC thất bại nặng nề sau khi đánh chiếm tỉnh
lỵ Bến Tre. Để gây tiếng vang trở lại, họ khuấy động bằng khủng bố. Nhờ hoạt động
“tích cực”, Út Nhạy được “điều động” về Trúc Giang và “biên chế” vào đơn vị biệt
động dưới quyền chỉ huy của Năm Khuẩn. Cô ta có nhiệm vụ đặt mìn trong rạp hát,
chợ búa hoặc nơi đông người tụ họp. Ngày ngày, cổ giả người buôn gánh bán bưng
la cà các rạp hát Casino, Bờ Hồ, Cảnh Xuân, Cọng Hoà, Lạc Thành để tìm
cách len lỏi đem chất nổ vô trong rạp. Cuối cùng Út Nhạy cặp bồ với một anh
chàng trong rạp hát Lạc Thành nên ra vô dễ dàng. Hôm đó, ngày 21 tháng 07 năm
1968, rạp chiếu phim Rivière Sans Retour(???), có cô đào văm Marilyn Monroe và
Robert Mitchum đóng nên chàng Thiếu Úy Không Quân rủ người vợ sắp cưới của
mình đi coi. Nhằm ngày Chủ Nhựt, Ngọc Thiền và Bon tính coi xuất sáng, nhưng vì
phim hay, đông người, nên mua vé hông được. Hai người đành coi xuất hai giờ chiều.
Họ vô tình ngồi vào hai chỗ có giỏ xách của cô biệt động để dưới đít ghế,
vì Út Nhạy ngồi sau lưng họ. Cô ta nói láo với anh bồ là mua đồ đem về quê, sẳn
dịp coi hát xong xách về luôn. Nhưng mới vô phim chừng một chút, cổ bỏ giỏ
đó rồi lật đật đi ra. Khi Út Nhạy vừa ra khỏi rạp, một tiếng nổ thật lớn bùng
lên. Thiên hạ trong rạp tuôn chạy, dẫm đạp lên nhau.Cùng lúc nhiều tiếng
gào thét vang dội…
Thoạt đầu, người mẹ hông nhận ra xác con mình và chàng rể. Nhưng sực nhớ lại màu sắc của chiếc áo dài bông đỏ thắm mà Ngọc Thiền bận và đôi giày của thằng Bon mang trước khi đi, bà vụt té xỉu. Một lúc sau, bà tỉnh lại. Bà già khóc ngất bên hai thân thể nát bấy nhão nhoè nhão nhoẹt. Gương mặt Sáo Sậu hông còn nữa. Đôi mắt u buồn của em ở đâu rồi? Trong vũng máu và óc lền lền? Trái mìn tự chế bằng nhiều cục sắt chặt nhỏ đã băm cái đầu người con gái nát như tương bằm…
Rồi Thanh lại thuyên chuyển về Tiểu Khu Cần Thơ. Đại đội vắng
đi những người sĩ quan nhiều năm lặn lội trong rừng sâu cùng Phùng Xuân. Chuẩn
Úy Dồi ít nói, thật thà, chắc là một anh chàng học sinh miệt tỉnh. Trái lại Chuẩn
Úy Khang cao ráo, khoảng một thước bảy, còn trẻ bân, mặt còn búng ra sữa, có vẻ
thích thú đời lính tráng. Trên đầu nó luôn luôn là cái bê rê màu cứt ngựa, hay
cái nón đi rừng kiểu của binh sĩ Úc. Miệng hay hút gió những bản nhạc của
Trần Thiện Thanh và bản “24 giờ phép” của Trúc Phương.
Đi ra chợ Long Khánh cua các em thì trên đầu là cái nón đi rừng.
Miệng lúc nào cũng phì phà cái ống vố, khi thì to, khi thì nhỏ, lúc cong, lúc
thẳng. Đôi lúc nó tỏ ra điệu nghệ, lấy ống vố gõ đôm đốp vào đế giày cho tàn
thuốc Half and Half rớt ra. Thuốc hút bíp như No 79 hay Half and Half đâu có rẻ.
Thời buổi bây giờ, những loại hàng dù ra từ PX của Mỹ như thuốc lá,
lade lon, xà bông thơm… phần đông do các bà vợ Mỹ hoặc do những tay chuyên buôn
lậu tuồn ra, chớ ai mà có được đô la đỏ để mua. Người ta chuộng uống lade lon
sang hơn nhưng thiệt ra đâu có ngon bằng lade con cọp của Pháp ở Chợ Lớn.
Có hôm, nó gò đâu được môt đám nữ sinh, rủ rê nhau về đại đội
ca hát, tán dóc. Kể ra cũng vui với anh chàng Khang người Hố Nai nầy. Nhiều anh
em trong đại đội cũng vui lây.
– Khang, anh lớn con như vầy sao hông đi vô Nhảy Dù hay Thủy
Quân Lục Chiến cho nó oai hơn hôn?
– Thưa Trung Úy, nhà có ba anh em. Một người chết trận. Một
người là phế binh. Lẽ ra tôi được miễn. Nhưng tôi không thích, tôi muốn vô Nhảy
Dù. Ông Bố năn nỉ: thôi con đi lính Sư Đoàn nào ở gần nhà đi.
Còn trẻ, khoẻ, yêu đời, Khang như là hình ảnh của lớp trai trẻ
của miền Nam trong thời chiến tranh. Chính vì lẽ đó mà Phùng Xuân hông bao giờ
kềm giữ số hạ sĩ quan trẻ trong đại đội. Có dịp, Xuân sẳn sàng ký giấy cho họ
theo học các khoá sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mà thiệt vậy, khi họ ra trường, tròm
trèm ít năm, nếu súng đạn chê, lon lá họ cũng gần bằng Xuân.
Anh chàng Khang hông bao giờ chịu ngồi yên, xẹt chỗ nầy xẹt
chỗ kia, đía dóc vui cười hồn nhiên. Hể hô có lịnh di chuyển là a lê hấp tập họp
lính tráng đầy đủ, sẳn sàng lên đường. Hôm chuẩn bị hành quân xa tuốt tận Tây
Ninh, anh ta mừng ra mặt…
Hành quân Toàn Thắng 71 là cuộc hành quân rầm rộ và qui mô,
vượt qua biên giới Việt Nam, tiến sâu vô xứ Chùa Tháp, dọc QL 7 để truy sát
Trung Ương Cục Miền Nam của VC. Quân đội Việt Nam Cọng Hoà gồm nhiều binh chủng,
càn quét một vùng rộng từ Snoul, Mimot, Krek, Kandal Chrum, qua tận đồn điền
Chup, phía bắc lên tới Dambe, Chlong và định tiến vào Kratié… Trước đó Sư Đoàn
25 BB Mỹ cùng các đơn vị khác –Hành Quân Jonction City-đã cày nát mật khu Dương
Minh Châu, vùng Mõm Chó, Lò Gò… càn quét VC và đẩy Trung Ương Cục Miền Nam chạy
tuốt về bên đất Miên.
Sân bay đất đỏ Tây Ninh, nằm cạnh Bộ Tư lịnh Tiền Phương Quân
Đoàn III, rộn rịp hẳn lên. Máy bay lên xuống hà rằm. Bụi bay mù mịt. Phóng viên
chiến trường chầu chực để lấy tin tức. Bộ Tư Lịnh tiền phương của Sư Đoàn 18
đóng trong căn cứ Trảng Lớn có vẻ yên ắng hơn. Ngày ngày, vị Tướng Tư lịnh Lâm
Quang Thơ, sáng nghe thuyết trình về diễn tiến hành quân.Thỉnh thoảng, trưa thấy
ông ngồi im lìm, bên ly Martell, sau chuyến bay thị sát các đơn vị.
Hổng hiểu tìm và diệt được mấy tay tổ TƯC hông mà chỉ thấy
đoàn xe vận tải chạy nườm nượp ngày đêm từ Tây Ninh- Trà Vong- Mỏ Công- Trại
Bí- Cần Đăng- Bổ Túc- Xa Mát trên QL 22 để lo tiếp tế cho các đơn vị hành quân.
Chuyến đi cũng đầy mà chuyến về cũng đầy!
Tỉnh lỵ nhỏ bé trở nên ồn ào. Bình thường chỉ có lèo tèo các
anh lính của Tiểu khu. Bây giờ, đâu đâu cũng thấy bóng dáng đủ sắc màu áo lính.
Xe nhà binh tuôn ào ào tấp nập, bụi bay mịt trời, qua tỉnh lỵ, theo Quốc Lộ 22
lên Trà Vong, Thiện Ngôn qua bên Miên. Chiếc cầu hồi trước rộng thênh thang, giờ
hẹp té. Sinh hoạt bổng nhiên rộn rịp. Quán ăn uống tấp nập, toàn lính là lính.
Lính ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều. Tiếp theo đó là các cô tre trẻ ăn mặc lượt là
tự nhiên ở đâu tới nhiều hơn. Họ lượn qua lượn lại trong các quán ba mọc theo
ven đường.Và, họ ngã ngớn với nhóm quân nhơn từ chiến trường mới vừa về.Và, khiến
cho các nữ sinh tỉnh lỵ e thẹn cuối đầu khi vô tình đi ngang qua. Đời sống dân
chúng bị xáo trộn, thôi thúc theo nhịp sống nhà binh. Họ bàn tán về cái chết của
vị sĩ quan pháo binh Sư Đoàn: Xe jeep của Thiếu Tá Cường, bị bỏ lựu đạn trong
bình xăng, phát nổ khi chạy ngang qua Bàu Sen, Trảng Lớn…
Các đoàn văn nghệ liên tục tổ chức các buổi trình diễn cho
các đơn vị hành quân. Phần đông là các đơn vị tiền phương hưởng.Chớ mấy khi mà
các anh lính chiến đấu ngày đêm tuốt bên kia biên giới được nhìn thấy bóng dáng
các nàng ca sĩ. Chỗ người ta đang đánh trận rầm rầm, sáng ăn ở chỗ nầy, tối ngủ
ở chỗ khác. Ngày đêm cái chết rình rập sát bên, làm sao mà các đoàn văn nghệ
dám tới đó.
Nhưng trong khu Tòa Thánh Cao Đài vẫn im lặng. Mọi việc như
thường lệ. Chợ Long Hoa vẫn bán đồ chay. Tín đồ áo dài trắng ngày ngày vẫn ê a
theo nhịp song lan các bài kinh kệ điệu thơ song thất lục bát. Họ sùng đạo, tin
tưởng nơi Đáng Chí Tôn cao cả như trong quyễn Le CaoDaisme của Gabriel Gobron
mô tả. Và, Trung Úy Nguyễn văn Rài, ở phòng Hai Tiểu Khu, vẫn bình thản lái xe
Honda đi làm ngày hai buổi từ Cực Lạc đến Tây Ninh.
– Anh có còn nhớ hồ sơ một cô gái ở Bến Tre hôn? Khoảng
ba bốn năm về trước. Cổ có bí danh là Sáu Trân đó mà. Nhớ hôn?
– Lâu quá rồi. Đâu có nhớ nổi.
– Cổ lên đây tính đi vào mật khu Dương Minh Châu, đó mà.
- À. À. Nhớ rồi. Hình như có ai can thiệp, nói cổ hông có tội
tình gì nên thả mất rồi.
– Đúng là thả hổ về rừng!
Khu Toà Thánh của anh an lành, nhưng cọp dữ ngủ trong đó, anh
có biết hôn?…
Chiếc xe ngừng trước sân nhà. Bao năm qua ngôi nhà vẫn như
cũ. Hàng dừa cao lớn hơn trước, đầy trái. Nắng trưa xuyên qua kẽ lá cau, đong
đưa theo làn gió.
Cô học trò nhận ngay ra ông thầy dạy mình ngày xưa. Sau một
tiếng la lớn: “Thầy!” mừng rơn, rồi đứng nhìn ông thầy trân trân, hơi rươm rướm
nước mắt. Có điều gì nuối tiếc hả Bình Quang? Em bây giờ đã có một bầy con đang
đứng lóc nhóc khoanh tay chào ông thầy trong bộ đồ nhà binh đây nè. Thầy hông
còn là thầy khả kính, đạo mạo như ngày xưa nữa đâu Bình Quang. Dưới lớp áo nầy,
thầy đã biến thành nếp người ăn nói ba trợn, phang ngang bửa củi rồi.
Bình Quang hông nói, chỉ mỉm cười, nhìn chàng trai “thầy
giáo” có vẻ “phong trần hơn xưa” với ba bông mai đen gắn trước ngực. Được một
lúc, nàng bắt đầu kể huyên thiên về chuyện hay cúp cua giờ hoá học của bạn
nàng, của những người ở trường xưa mà quên kéo ghế mời ông thầy ngồi và rót nước
cho ông thầy uống. Lớp thầy ngày xưa và học trò trai lớn lên đều đã đi lính hết
rồi. Nàng kể có nhiều bạn trai trang lứa lần lần mất đi hết.
– Sao vậy?
– Tụi nó có thằng nào chịu đí lính Tiểu Khu hay lính Sư Đoàn
đâu thầy. Tụi nó chê. Hùa nhau đăng lính Biệt Cách, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến
hay cùng lắm là Biệt Động Quân. Tụi nó nói một là xanh cỏ hay là đỏ ngực.
– Em có còn nhớ Trung Tín hôn?
– Em còn nhớ. Hồi đó, tụi nó đồn rùm lên. Và mấy con nhỏ quỷ
cái đó ở đâu mà tụi nó cũng có cuốn tập đó. Rồi tụi em cũng chuyền nhau lén lút
coi.
– Em cũng có đọc?! Bây giờ mới khai ra! Hèn gì mà!… Thằng Tín
đâu có đi mấy binh chủng dữ dằn đó đâu. Có lần thầy đi hành quân với Thiết
Giáp. Nó ngồi trên xe đội bề rê đen, kêu “Thầy” một tiếng làm thầy giựt mình.
Lúc đó học trò cũng lon lá đâu thua gì thầy. Nó là Chi Đội phó rồi. Còn mấy thằng
khác đi chi binh chủng ngầu dữ vậy?
– Trời ơi! Tụi nó khoái đồ rằn ri, oai hơn, phong sương (?)
hơn, coi có vẻ người hùng hơn, thầy ơi. Ngồi ở quán nhậu, mặt thằng nào thằng nấy
còn búng ra sữa, mà miệng phì phà đầy khói. Áo trận toàn là đồ bông hông. Hùng
dũng hiên ngang lắm! Hùng đâu hổng thấy, mà lâu lâu em nghe tin thằng nầy chết ở
ngoài Trung, thằng kia mất tích ở Đồng Tháp. Bây giờ nếp sống nhà binh thay đổi
tụi nó nhiều lắm thầy ơi. Con nhỏ em bà con cũng vậy. Nó mê lính.Nó là lính rồi
thầy.
Một cô nữ quân nhơn từ dưới nhà sau bước lên. Chơn đi giày
cao gót, nhún nha nhún nhảy. Miệng cười chúm chím.Tay cầm ly nước dừa, mời
Xuân.
– Chào Đại Úy.
– Em bà con bạn dì của em đó thầy. Nó tên Ngọc Tuyết, đi lính
truyền tin của Tiểu Khu ở trong căn cứ Trảng Lớn. Nó đó, cũng khoái lính lắm.
Lúc trước, nó lấy một anh chàng Thiếu Úy Lực Lượng Đặc Biệt, bạn học. Rồi thằng
đó cũng đi bán muối. Nó buồn quá. Sau đó là một anh chàng Thiếu Úy Địa Phương
Quân. Cơ khổ, bị đánh đồn rồi cũng lên bàn thờ luôn.
– Rồi cô Tuyết định lấy lính nào cho hổng chết đây.Thời buổi
nầy sống chết biết đâu mà rờ. Gặp đó chết đó. Bom đạn nhiều quá. Biết đâu mà
tránh bây giờ. Súng đạn tránh mình chớ mình có tránh nó được đâu.
– Nó còn trẻ lắm. Chưa đầy hai mươi mà đã hai đời chồng. Hình
như mấy hôm rày có hành quân qua bên Miên lớn lắm hả thầy? Em thấy chồng em làm
ở nhà thương về kể có chết và bị thương nhiều lắm. Thầy ở đây có lâu hông?
– Hông. Thầy cũng hổng biết bao lâu. Đời lính tráng rày đây mai đó, có ở chỗ nào lâu đâu.
Buổi trưa. Nắng nóng đổ lửa. Đường trong căn cứ nhiều chỗ lồi
lõm. Ngọc Tuyết đạp xe len lỏi qua từng khu đóng quân mà Xuân đã chỉ cho nàng.
Ngọc Tuyết hông muốn Xuân đến rước cô ta hoài. Mấy con nhỏ quỷ cái đó hay xì
xào lắm!.. Cuối cùng cô ta cũng tìm ra được đúng bunker nơi chàng ở.
Nàng dựng chiếc xe đạp bên hông rồi tự nhiên chui vào. Ánh
sáng từ những lỗ châu mai soi rọi yếu ớt. Bên trong hơi tối nhưng đỡ nóng hơn
bên ngoài chút ít. Xuân đang ở trần trùng trục, nằm trên cái sạp đóng bằng những
miếng ván thông vụn ghép vụng về. Người ở trước chắc là cũng ở tạm bợ nên lượm
lặt ván đâu đó rồi gá ghép cho có chỗ nằm.
– Dữ hôn. Trưa nắng như vầy mà cũng ráng chạy tới đây. Mồ hôi
mồ kê chảy tùm lum tùm la.
– Biết anh cả mấy tuần nay mà hổng biết chỗ mới anh ở như thế
nào. Mấy chỗ cũ thấy anh nằm võng lắc lư sụt sà sụt sịt. Bữa nay xuống ca, chạy
tới coi thử anh ở “băng kơ” có đỡ hơn hông?
– Thì về đây đóng tạm. Có mấy cái hầm của đơn vị cũ thì chui
vào. Đâu như em vậy.Có doanh trại đàng hoàng.
Xuân lấy bi đông rót cho nàng một ly nước lạnh. Ngọc Tuyết uống
chừng nửa. Còn lại một ít, cô nàng ngưng lại, nhìn Xuân một lúc. Cổ rót nước
vào lòng bàn tay rồi bụm lại đưa lên rửa mặt. Nước bắn tung tóe, chảy xuống ướt
vạt áo trước. Ngọc Tuyết tự nhiên vói lấy cái khăn nhỏ vắt đầu sạp lau mặt.Và,
từ từ mở hai ba nút áo ra, rồi lau vào trong ngực.
– Áo em ướt hết rồi. Em muốn thay áo. Anh có áo khác hông?
Xuân lấy cái áo của mình đưa cho cổ. Ngọc Tuyết cầm lấy áo, rồi
làm như hông có ai, quay lưng lại cổi áo và luôn cái xú cheng ướt vứt xuống đầu
sạp. Xuân ngó thấy, chưng hửng. Gì lạ vậy? Mấy tuần nay, hai đứa chỉ đi tới lui
gặp nhau ở nhà Bình Quang và ở ngoài lều võng. Cô học trò cũ tinh quái, nhiều
khi cũng nói ra nói vào những lời bóng gió giữa Tuyết và ông thầy. Xuân
cà rỡn ỡm ờ cho qua câu chuyện. Thế mà hôm nay…
Sau khi mặc áo khô, gài sơ sịa hai nút dưới, nàng quay lại
đưa mắt nhìn Xuân, miệng chúm cha chúm chím, cười cười. Một sự mời mọc
đáng yêu? Xuân bước tới. Một cái hun thật lâu cho đến khi Ngọc Tuyết ngã dài
trên cái sạp hẹp té hông đủ cho hai người nằm…
Cô nầy thuộc làu làu câu Kiều: “Vành ngoài bảy chữ, vành
trong tám nghề”. Hông có trậm trầy trậm trật. Thiệt bài bản. Sít rịt. Mồ hôi họ
tràn như lỗ mội, thay phiên tắm cho nhau, chảy chèm nhẹp trên ván thông khô đến
hai ba lần. Bên ngoài nắng nổ đom đóm. Vắng lặng…
Ngọc Tuyết vẫn còn nằm trên mình Xuân. Nàng rướn lên, vói tay
lấy bao thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ màu xanh, nắm lắc mạnh một vài cái cho một
điếu thuốc ló ra. Xong nàng đưa bao thuốc lại gần miệng, mím môi ngậm lấy một
điếu.Nàng bỏ bao thuốc lại, lấy tay cầm điếu Ruby lỏng le vỗ vỗ tạch tạch xuống
ván một lát cho chặt. Hai ngón tay se se phần giấy còn dư trở nên giống như tim
đèn cầy. Ngọc Tuyết ngậm điếu thuốc rồi cầm lấy Zippo bung nhẹ một cái trốc. Ngọn
lửa xanh bùng lên. Nàng bập, bập, bập. Đầu điếu thuốc đỏ rực. Ngọc Tuyết rít
rít hai ba hơi, xong phà thiệt mạnh làn khói thuốc xám dài lan tỏa khắp căn hầm….
Nàng gục mặt xuống ngực Xuân, hun lấy hun để mồ hôi nhem
nhép. Rồi lại lần khân cà mấp cà máy, cà tưng cà tiu. Sau đó, nàng nằm im re.
Chắc cổ say thuốc hay…? Phùng Xuân chợt nhớ đến câu nói của mấy thằng lính quỉ
sứ: “Gái hai chồng n…c nổ con ngươi”. Chàng cười thầm.
– Em học ở đâu được cái mửng đó vậy?
– Ở ông chồng lính Biệt Cách của em, chứ ở đâu! Mỗi lần tụi
em ngủ với nhau xong, ảnh đều làm như vậy đối với em. Ảnh cũng hút Ruby Quân Tiếp
Vụ như anh. Nên lúc gặp anh ở nhà chị Quang, em nghe mùi thuốc Ruby nầy của
anh, em nhớ tới ảnh. Ảnh chết mất xác đâu đó, trong mật Khu Dương Minh Châu,
lúc nhảy toán. Lúc đó, em mới mười bảy tuối. Từ đó, em khoái đến phát ghiền mùi
thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ, và đôi khi cũng cụng vài ly lade để nhớ lại ông chồng
chịu chơi của em. Hình như ngày xưa, chị Bình Quang cũng yêu anh dữ lắm, phải
hôn?
– Ờ! Lúc đó chị em còn học trò, chắc cũng khoảng mười sáu, mười
bảy.Tình yêu thầy trò mơ mộng như tiểu thuyết. Chắc chị em nghĩ như vậy. Nhưng
anh đâu có quyền yêu Bình Quang được vì anh còn trách nhiệm của người thầy
giáo. Hơn nữa lúc đó, anh có người yêu rồi.
– Nhưng mà bây giờ anh cũng có vợ rồi. Sao anh còn ve em làm
gì?
-Xí! Thì em cũng cua anh chớ bộ. Nhưng mà dù sao, đây cũng là
sự phản bội của anh. Phản bội của thằng lính thời chiến tranh, có cái tội là sống
xa nhà, nay đây mai đó, thiếu vắng mùi đàn bà như chàng nhạc sĩ Trúc Phương ví
von. Biết làm sao bây giờ? Có một mớ ông lính hông chung tình? Họ luôn luôn tìm
cách “ăn chè Nhà Bè”. Và họ cũng hông dám nói với vợ là họ đã bồ bịch với các
cô gái khác hoặc đi chơi đĩ. Họ dấu biệt vợ nhà đang ngày đêm trông nom con
cái… Còn như em bây giờ, người nữ quân nhơn yêu mùi thuốc súng anh lính chiến
pha áo trận như các ông nhạc sĩ vẽ vời? Nhưng thực sự, có khi nào có mùi thuốc
súng đâu? Có mùi mồ hôi của áo quần, của vớ, của giày thì có. Em ghiền mùi thuốc
lá. Mai đây, anh đi rồi, em lại yêu một mùi thuốc lá khác, có phải vậy hôn?
– Mấy ông lính hay trở treo như bánh phồng. Anh có nước hôn?
– Ờ! Có. Ở bên ngoài. Mỗi ngày ô đô xách tới hai thùng đạn đủ
để tắm và đánh răng rửa mặt.
– Hổng có nhà tắm hở anh?
– Lính tráng như tụi anh làm gì có nhà tắm hả em. Đi trong rừng
hai ba bữa gặp được con suối là mừng. Còn về đây anh đứng tắm ngoài trời hông
à.Thôi em ráng đứng trong nầy tắm đi. Anh nhắm mắt lại, được hôn?
– Thôi khỏi đi. Ai mà tin lính được.
Nàng cứ tự nhiên lấy lon thịt hộp, dè xẻn múc từng lon, nhè
nhẹ đổ từ ngực xuống. Rỉ rả rọc rạch nước tuôn qua những làn cong cơ thể, len
qua khe, rồi nhễu lịch bịch xuống nền sàn thông khô. Ngọc Tuyết đã xài gần hết
một thùng nước để lau mình. Xong, nàng chưa chịu bận quần áo vô, lấy tờ báo quạt
lia lịa.
– Trời nóng quá. Em hổng muốn bận đồ nữa.
– Thôi đi cô. Tôi hết xí quách rồi!
– Mới có chút síu sìu siu. Anh sò rồi phải hôn?
– Sò hay là hổng sò gì chút nữa thì biết. Một, hai lần nữa là
hổng còn nước để lau mình đâu. Mà thôi để dành nước, vì em ở đây suốt đêm, phải
lau mình nhiều lần nữa. Còn anh, chắc anh phải tắm búng quá!
Thân thể lồ lộ của một người đàn bà trẻ trung ở tuổi đôi
mươi, đã hai đời chồng lính trong thời chinh chiến, đầy đủ sức khêu gợi, nhởn
nhơ trước mặt chàng hông chút thẹn thùng. Còn hơn “Dày dày sẳn đúc một
tòa thiên nhiên” của cô Kiều. Sao cô nữ quân nhơn nầy dạn quá vậy hay là cô ta
lẳng lơ? Hông có đâu? Ngọc Tuyết sống thực đó mà. Nhiều khi chàng hông hiểu
tình cảm của những cô gái ở miền quê lúc chiến tranh. Họ mất chồng thường
xuyên, nên sằn sàng yêu những người lính mà họ cảm thấy gần gủi với cái chết giống
như chồng họ? Cũng hông phải? Thế còn cô Mận thì sao?
Bom đạn quá nhiều, giết chết thanh niên ngoài chiến trường
làm cho các em hụt hẫng, hay là các bài ca mùi mẫn đã làm cho các em yêu lính xả
láng? Ai mà biết được? Ai mà biết được cô nữ sinh Xuân Lan yêu tha thiết chàng
sĩ quan trẻ đẹp Trần Công Điềm như thế nào?
Trăng sáng màu đất xám đỏ ngật ngờ. Ánh trăng núp lấp ló bên
những đống gò mối. Mút đằng kia là sân bay mập mờ trong màu sáng ngà ngà. Hai đứa
ngồi nhìn chân trời trăng khuất đằng xa. Những doanh trại cũ kỹ do Mỹ giao lại
nằm im lìm trong màu ngà đục đục. Ánh trăng gật gù óng ánh màu nâu đỏ trong
chung rượu nếp than. Sương trăng thơm thoang thoảng, tan nhè nhẹ, lập lờn theo
khói thuốc Ruby mờ mờ.
– Ngày mai, em sẽ đổi ca với con nhỏ bạn. Em sẽ làm ca ngày
suốt tuần. Tối tối, em tới với anh.
Đâu có được như ý của nàng. Ngọc Tuyết chỉ đến có ba đêm. Đơn vị Xuân phải vội vã đi thay thế cho đơn vị bạn. Chàng hông kịp nói một lời từ biệt.
Đại Úy Lê Th… Đ… ngày hôm đó cùng Tiểu Đoàn tiến vào đồn điền
Chup, hông thấy một bóng ma VC nào hết, chỉ thu được mười ngàn tấn gạo. Nấn ná
một thời gian rồi rút về, Tiểu Đoàn bị VC tấn công nên tổn thất nặng. Một tháng
sau, Trung Tướng Đỗ Cao Trí bất thình lình tử nạn trực thăng ngày 27 tháng 02
năm 1971. Sau đó, cuộc hành quân Toàn Thắng 71 hổng đạt được kết quả như mong
muốn. Các đơn vị lục tục rút quân về. Và VC thừa cơ đuổi theo chận đánh. Nhờ lực
lượng Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh với sự điều khiển đầy mưu trí của Đại Tá Trần Quang
Khôi, nên một số đơn vị rút lui bảo toàn được lực lượng, còn một số bị tổn thất
nặng.
Sĩ Quan quân đội Việt Nam Cọng Hoà tốt nghiệp ở các quân trường
trong hay ngoài nước thấm nhuần chiến thuật hành quân của Tây Phương. Ra trường,
noi theo những gì họ học được, họ thường áp dụng lối đánh như vậy. Hỏa lực,
quân số… quyết định chiến trận. Nhưng nhờ thêm tài thao lược un đúc từ lòng chống
ngoại xâm phương Bắc, lòng gan dạ và có khi may mắn, họ lập được nhiều chiến
công lẫy lừng.
Lịch sử nước Việt, trải qua ngàn năm Bắc Thuộc, là những thời
kỳ chống ngoại xâm. Vào những lúc đó, hông có những lực lượng bên ngoài giúp đỡ,
cha ông chúng ta đã tự mình nghĩ ra nhiều cách đánh mưu mẹo để tống kẻ cướp nước
Bắc Phương ra khỏi bờ cõi. Hiển hách nhứt là những trận đánh của Lý Thường Kiệt,
của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Quang Trung Nguyễn Huệ. Khi nghiên cứu những
trận đánh đó, chúng ta hông khỏi khâm phục những lối điều binh của các vị danh
tướng này.
Thời kỳ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, với chính sách Ấp Chiến Lược,
đã đẩy lùi VC trong Nam đến gần chỗ dãy chết. Chúng ta đã tách dân chúng ra khỏi
địa bàn họ sinh sống. Họ đã dãy dụa kêu la phao vu đủ mọi thứ nhằm phá hỏng
chính sách đó. Chúng ta hông cần nhiều bom đạn, hông cần nhiều nhân lực nhưng
đã đẩy họ vào thế bị động và dần dần bị tiêu diệt. Nếu cứ tiếp tục, những cán bộ
gộc lần lần bị sa lưới và lực lượng nòng cốt họ bị tan rã hoặc đầu hàng. Và họ
hông có cơ hội xâm nhập vào Sài Gòn để phá rối như hiện nay.
Vào năm 1970, Việt Nam tiếp nhận một số người Việt hồi hương
từ Kampuchia mà hông thanh lọc kỹ càng. Các cán bộ VC, trong đó có Trần Văn
Thành và Marin Pla (bây giờ với bí danh là Sáu Ngọc ) đã len lỏi cùng đám
người Việt hồi hương xâm nhập vào Sài Gòn, tạo nên nhiều sự rối ren cho thành
phố.
Nhưng vận mệnh nước đổi thay. Những kẻ bán nước lấy tiền đô, với sự tiếp tay của nước ngoài đã lật đổ vị nguyên thủ thời Đệ nhứt Cọng Hoà. Rồi sau đó lợi dụng sự rối ren của đất nước thời Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát, tháng 3 năm 1965, họ ào ào đổ quân vào mảnh đất Việt thân yêu mà hông có sự yêu cầu nào của nước chủ nhà. Họ sử dụng hoả lực tối đa để cày bừa, để xài cho hết ba cái thứ cổ lổ sỉ của thời Đệ Nhị Thế Chiến. Và Ấp Chiến lược bị dẹp bỏ, cũng như bờ đê bị vỡ. VC đã thừa cơ núp vào trong dân, dần dần xoá bỏ hạ tầng cơ sở làng xã và đẩy lùi chúng ta vào thế bị động. Và chúng ta bị động thật. Mai họ đánh chỗ nầy, mốt họ phá chỗ khác rồi dông mất. Chúng ta đem quân ùn ùn tới, nhưng biết họ ở chỗ nào mà tiêu diệt. Và càng ngày sức lực chúng ta hao mòn, co lại một chỗ để giữ chặt các vị trí quan trọng. Họ tung quân bao vây chúng ta… Chúng ta đã bị thua ở hiệp hai.
Bây giờ Xuân hông còn gần Chúc nữa. Ở vị trí mới, chàng xa rời thằng Bắc Kỳ dốn thân yêu. Đôi khi, ngồi một mình, bên ly cà phê đen nơi quán cốc nhỏ nào đó, dưới tàn cây, một buổi trưa hoặc ban đêm vắng lặng nhìn ánh trăng suông mờ, chàng bổng nhiên nhớ đến Chúc. Nhớ lần chia tay, hai đứa nắm chặt nhau một hồi lâu. Lần đầu tiên chàng thấy thằng Bắc Kỳ nầy rơm rớm nước mắt, khác những lúc bình thường đù má, địt mẹ liên tu bất tận. “Rán giữ gìn nghen mậy!”. Nói thì nói vậy, chớ biết đường đâu mà rờ hả Chúc. Miễn súng đạn nó chê mình là được. Rồi có ngày, tao và mầy nhìn thấy non sông nước Việt nầy rạng rỡ!
Lợi dụng thời cơ và sức lực chúng ta mệt mỏi sau những cuộc
hành quân Lam Sơn sang Nam Lào và Toàn Thắng sang Miên năm 1971 cộng với những
rối ren ở Thủ Đô; VC tổng tiến công. Mùa hè 1972: Quảng Trị, Kontum và Bình
Long.
Ngay từ ngày đầu tiên, ngày 12 tháng 04 năm 1972, VC dồn tất
cả lực lượng tấn công như vũ bão, quyết chiếm cho được An Lộc. Thành phố bị
pháo tan tành gần như bằng phẳng. Nhiều lần VC cố tấn công vào tỉnh lỵ bằng xe
tăng và bộ binh, nhưng hông được. Sư Đoàn 5BB và các đơn vị tăng phái chống trả
quyết liệt, tiêu diệt gần hết chiến xa VC.
Cuối cùng, sau gần một tháng mở nhiều đợt tấn công, quần thảo
với quân đội VNCH mà hông chiếm hoàn toàn được An Lộc, ngày 11 tháng 05 năm
1972, những đơn vị bộ binh VC hờm sẳn phía bắc Bình Long tiến vô, chực tràn ngập
tỉnh lỵ nhỏ bé trong lần cuối cùng. Nhưng thời may đã đến, B52 đã dọn sạch những
đơn vị nầy trước khi họ vui mừng chiến thắng. Tướng Lê Văn Hưng thở phào, nhẹ
nhõm người. Từ đó, mộng chiếm An Lộc của VC bể như bọt nước.
Ngày 22 tháng 06 năm 1972, Sư Đoàn 18 BB (-) gồm Trung Đoàn
43 và 48, trực thăng vận vô An Lộc, lúc cuộc chiến sắp tàn. VC đã lui quân ra
xa. Thỉnh thoảng đì đùng vài tiếng pháo của họ để thị uy. Trực thăng bắt đầu
ngày ngày bay đi bay lại từ Long Bình, Biên Hòa lên An Lộc.
Ngày 07 tháng 07 năm 1972, khi Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu
vào thăm An Lộc thì kể như VC đã thất bại hoàn toàn. Và Đại Tá Trần văn Nhựt,
Tiểu Khu Trưởng Bình Long cùng Trung Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung
Đoàn 43 ung dung nhâm nhi ly Martell lắc len ken đá cục dưới tầng hầm kiên cố của
Tiểu Khu.
Phùng Xuân thận trọng bước qua những con đường hông còn nhà,
những khu phố hông còn phố. Tất cả đều tan tành. VC hổng chú ý đến người dân đã
sống ở đây. Họ cố ý tiêu diệt hết thảy miễn sao chiếm được An Lộc. Toàn gạch vụn
và gạch vụn. Hổng biết có bao nhiêu xác chết của những người dân vô tội bị chôn
vùi dưới những đống gạch. Đại lộ Hoàng Hôn bây giờ hông còn nữa. Xe tăng VC nằm
la liệt.
Xuân mon men đến khu chợ đổ nát. Nhà dân chúng về phía bắc hổng
còn. Nhưng những nấm mồ nhỏ bé của các anh chiến sĩ Biệt Cách 81 Dù nằm uy nghi
trong cảnh đổ nát hoang tàn trước cửa chợ. Hổng còn ai ở đây. Xuân đứng
yên lặng một hồi lâu, bùi ngùi tiếc thương cho những người nằm xuống vì nước Việt
mến yêu. Ai có còn nhớ đến họ? Dân Việt sẽ mãi nhớ đến hai câu thơ viết bằng
sơn trắng trên hai miếng gỗ đơn sơ cắm trước nghĩa trang: “An Lộc địa sử ghi
chiến tích. Biệt Cách Dù vị quốc vong thân” ( Mấy chục năm sau Xuân
biết được, tác giả hai câu thơ trên là của cô giáo Pha, giáo viên trường Tiểu Học
Bình Long). Và, đột nhiên, Phùng Xuân nhớ đến bài ám đọc chàng đi thi tiểu
học từ lúc nhỏ, khoảng năm 1951, 52…: “Họ là những anh hùng không tên tuổi. Sống
âm thầm trong bóng tối mênh mông…”( Anh Hùng Vô Danh.Hùng Nguyên Nguyễn
ngọc Huy)
Đồng bào Thượng quyết chí hông đi. Mảnh đất nầy là của họ, rời
xa là họ chết. Họ lang thang lếch thếch ở trạm xe lửa cũ, ăn mặc tồi tàn, đôi mắt
u buồn, xin từng miếng ăn của binh sĩ. Xuân hông hiểu làm sao họ sống sót qua
trận chiến tàn khốc vừa rồi.
Trong những ngày tháng bị vây hãm, thức ăn của chiến sĩ ở An
Lộc hông có gì, ngoài thịt hộp, gạo sấy… và những loại lương khô khác được thả
từ những chiếc phi cơ vận tải liều mình bay vào vùng lửa đạn để cứu trợ cho bạn.
Có nhiều chiếc bị cháy và phi hành đoàn đều hy sinh. Sau này, C-130 bay cao mút
trời xanh. Những bành tiếp tế vừa ra khỏi máy bay nhỏ bằng đầu tăm, từ từ lớn dần.
Những kiện hàng bung dù cách mặt đất độ 500 m, lơ lững trên không trung, rơi
đúng vào sân banh Tiểu Khu. Khi hông bung dù, kiện hàng rít lên như tiếng máy
bay phản lực, xuyên thấu qua mấy từng hầm.
Ôi! Chiến tranh. Chiến tranh tàn phá đất nước thân yêu của
tôi cho đến khi nào mới chấm đứt. Vừa mới tuổi thơ, Phùng Xuân đã biết chiến
tranh. Nhưng ngày đó, vũ khí hông tối tân như bây giờ. Được mấy năm sống đời
thanh bình thời Đệ nhứt Cọng Hòa, rồi lại chiến tranh. Ôi chiến tranh!
Chỉ có nhóm người hiếu chiến ở miền Bắc quyết chiếm miền Nam
cho được bằng vũ lực. Mùa hè 1972, họ đã thất bại hoàn toàn. Quân đội Việt Nam
Cọng Hoà cũng chịu nhiều thiệt hại đáng kể. Và có thể kho vũ khí khổng lồ thời
Đệ nhị Thế Chiến đã hết? Nhóm tư bản tạo ra phong trào phản chiến rầm rộ, buộc
chính phủ phải chấm dứt chiến tranh??? Người Mỹ đã rục rịt rút quân từ năm 1970
với danh từ mỹ miều: Việt Nam hóa chiến tranh. Không quân Hoa Kỳ oanh tạc ồ ạt
miền Bắc vào dịp Giáng Sinh 1972. Miền Bắc thấm đòn. VC bắt bưộc phải ngồi vào
bàn hội nghị.
Trớ trêu và mĩa mai, Hiệp Định đình chiến Paris ký ngày 27
tháng 1 năm 1973 ở đâu đâu, người chủ nhà hông hề biết rõ đến nội dung. Kẻ nhảy
vào gây chiến tranh hông có ký một hiệp ước lộn lưng nào với nước chủ nhà. Và kẻ
hưởng lợi lại ngang nhiên đi đêm, tiêu lòn với nhau xé nát mảnh đất Việt thân
yêu, toa rập sắp xếp coi ai có quyền hưởng nhiều hay ít? Cọng Hoà Miền Nam
thoát thai từ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, được thành lập vào năm 1960 của các
dân trí thức mơ mộng ảo huyền thiên đàng Cộng Sản, con đẻ hoang của Hà Nội, là
cái đếch (sic) gì mà cũng được hưởng phần ngồi vào bàn hội nghị? Và kẻ mang
quân xâm chiếm miền Nam lại ngang nhiên hông chịu rút quân về, giữ nguyên trạng
những vùng đất đã chiếm được để cho hơn 150 ngàn quân BắcViệt tiếp tục trú
đóng.
Bất hạnh cho nước Việt mến yêu. Những người lãnh đạo Viêt Nam
Cọng Hoà, bị cuốn vào vòng xoáy quyền lực của các nước lớn, hông thể đương đầu
với tình thế. Cộng thêm tình hình rối ren trong nước do VC giựt dây khuấy phá.
Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn, những bản tình ca ủy mị, tham nhũng tràn lan,
sinh viên biểu tình, báo chí xách bị, gậy đi ăn mày… góp phần làm hao mòn sinh
lực người lính ngoài trận tuyến. Đủ thứ trò hề ngây ngô. Họ hông nghĩ đền quyền
lợi tổ quốc.
VC ma mãnh. Biết là Mỹ hông còn muốn dính líu vào Việt Nam,
nên họ ngang nhiên vi phạm Hiệp Định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 mà họ đã ký
kết. Họ coi Hiệp Định đó như tờ giấy lộn, muốn xé lúc nào thì xé. Và VC bắt đầu
mở những trận đánh nhỏ để thăm dò trong hai năm 1973 và 1974. Trung Cộng cũng
hùa theo: đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 năm 1974.
Và đúng như Bắc Việt tiên liệu, Mỹ có dấu hiệu bỏ rơi Việt
Nam Cọng Hòa thực sự. Họ bắt đầu “thử lửa” chúng ta với trận đánh đồn Đức Huệ
do Tiểu Đoàn 83 BĐQ trú đóng. Nhưng hông ngờ Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng
Trần Quang Khôi lợi dụng đêm tối, vượt qua biên giới Việt- Miên, đã “ bứng gốc
” nguyên cả Sư Đoàn 5 VC ngày 28 tháng 04 năm 1974 tại khu Mỏ Vẹt.
Nhưng sau đó viện trợ bị bớt dần. Biết được, VC thừa cơ tấn
công. Ngày 06 tháng 01 năm 1975 họ đánh chiếm Phước Long. Tiểu Đoàn của Thiếu
Tá Lưu văn Cầm nổ lực cầm cự, nhưng hông chống được, đã tìm cách thoát khỏi
vòng vây. Ngày 07 tháng 01 năm 1975, Bình Long thất thủ. Và ngày 08 tháng 01
năm 1975, họ bắt đầu xua quân tiến chiếm vùng I và II chiến thuật. Quân đội Việt
Nam Cộng Hoà bị bỏ rơi, hông còn đủ súng đạn để phản công, bắt đầu gom lại để đỡ
đòn. Nhưng than ôi! sức lực đã mòn. Thế trận bắt đầu vỡ tan. Cuối tháng 03 năm
1975, toàn bộ vùng I và II, rơi vào tay VC. Chúng ta bị nốc ao nhưng còn đợi trọng
tài đếm. Viễn ảnh mất nước ở trong tầm tay.
Lỗi tại ai? Lỗi tại tôi mọi đàng! Dựa vào thế lực kẻ xông vào
nhà mình, nói lời ngon tiếng ngọt mà mình cũng nghe theo, như gái thơ ngây bị Sở
Khanh dụ. Tới lúc mang cái bụng chửa, nó đá đít mình nó tháo chạy. Có phải
Chánh phủ Mỹ cố tình đổ xương máu để giúp Việt Nam Cọng Hòa chống Cộng Sản hay
nuôi dưỡng Cộng Sản? Vì trong trận chiến Bình Long, ít ra là có ba lần họ cố
tình từ chối hông đánh B52 vào Bộ Chỉ Huy Tiền Phương VC và Bộ chỉ Trung Ương Cục
Miền Nam. Hay là họ quá thực dụng, bỏ miếng mồi nầy bắt mồi khác ngon hơn? Ai
mà biết được?
Buổi sáng ngày 08 tháng 04 năm 1975. Trời còn mờ mờ. Phùng
Xuân vừa hút xong điếu thuốc, lấy tay búng mạnh, tàn thuốc văng ra xa. Chàng
miên man nghĩ ngợi. Bỗng có nhiều tiếng tum tum vang lên từ hướng Đông Bắc Xuân
Lộc. Binh lính quen chiến trận, biết có pháo kích, đồng loạt hô lên: “Pháo kí…ch”
rồi mạnh ai nấy chui xuống hầm hố.
Có lẽ VC nhắm vào Tư dinh của vị tướng Tư lệnh Sư Đoàn 18BB,
gần như đối diện với chợ Xuân Lộc. Chỉ có khỏang bốn trái là lọt vào Tư dinh,
còn bao nhiêu là rớt xuống chợ. Đêm hôm đó, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo hông có ở
trong dinh. Tiền sát viên nầy dở, chắc là mấy tay VC nằm vùng cở hạ sĩ quan, học
hành hông bao nhiêu. Chớ nếu lấy được tọa độ chính xác là YT 458092 thì điều chỉnh
giỏi, pháo sẽ dập nát dinh hông còn miếng gạch vụn! Hay là bọn họ hông có không
ảnh tỷ lệ 1/25.000? Chúng lần đâu ra được? Lập tức, Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư
Đoàn đã dọt về rừng cao su bên hông quận Xuân Lộc, ở Tân Phong, cách nơi cũ độ
5km!
Sau đó, đặc công VC xâm nhập vào thị trấn đốt cháy một chiếc
V-100 của Tiểu Khu Long Khánh ngay gần ngã ba vào Sư Đoàn, nhưng toán nầy bị
tiêu diệt. Cũng giống như An Lộc, VC pháo tối đa vào những khu dân cư, hòng gây
gánh nặng cho quân đội trong việc cứu giúp dân lành.
Tỉnh lỵ Xuân Lộc nhỏ bé, đầu trên xóm dưới khoảng hơn một cây
số. Nhưng lợi thế của Xuân Lộc là còn vòng đai Ấp Chiến Lược bao bọc được một
phần thành phố về phiá Đông, Đông Bắc, hướng Nam và một phần phía Tây. Bờ đất
cao khoảng 2m, dầy khoảng 3m, còn thêm hàng kẽm gai lên chừng 2m nên rất an
toàn cho đơn vị phòng thủ. Chiến xa VC tấn công rất nhiều lần ở hướng Đông
nhưng đều bị đẩy lui. Mặt Tây Nam, những đơn vị VC bị Tiểu đoàn 1/48 của Thiếu
Tá Trần Cẩm Tường và chiến xa của Thiết Đoàn 5 KB tiêu diệt trong rừng cao su.
Liên tiếp mấy ngày tấn công, nhiều đơn vị cấp Sư Đoàn VC hông
vô được tỉnh lỵ. VC chỉ còn có nước là pháo dữ dội vào các nơi đóng quân các
đơn vị của Sư Đoàn. Phùng Xuân ngờ rằng có nội tuyến nằm trong đơn vị. Có những
lần Xuân rảo bước kiểm soát trong đêm, chàng bắt được một người lính đang nghe
đài Hà Nội. Vị Tiểu Đoàn Trưởng trước- Đại Úy Đỗ Trung Chu- rời nhiệm sở mà
hông bàn giao cho Xuân những điều quan trọng đó. Vị sĩ quan ban hai- Thiếu Úy
Dư- còn quá trẻ, chắc cũng hông nắm vững hết tình trạng binh sĩ Tiểu Đoàn trong
lúc nầy.
Quân phòng thủ tỉnh lỵ gồm có các đơn vị Địa Phương Quân,
Nghĩa Quân và Trung Đoàn 43(-) với hai Tiểu Đoàn 1 và 3, được tăng phái thêm Tiểu
Đoàn 1/52 hình như của Đại Úy Nguyễn văn Út là phải(?) và sau nầy, thêm Tiểu
Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long, quân số còn được một số
ít. Anh chàng Long nầy lanh lợi. Đầu tiên là đơn vị đặt dưới quyền xài xể của
Tiểu Khu, phòng thủ khu vực hậu cứ Tiểu Đoàn 183 PB, hướng Đông Xuân Lộc. Nhưng
anh chàng thấy ở với Tiểu Khu hông ổn (tăng phái Tiểu Khu là bị xài tơi tả như
cái mềm rách?), nên xin nhập vào với Trung đoàn 43, về phòng thủ nơi đầu sân
bay.
Tiểu đoàn 2/43 do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế chỉ huy, ở ngoài tỉnh
lỵ, phòng thủ Núi Thị. Nơi đây, từ lâu đã có Pháo đội 150 và 155 ly sẳn sàng yểm
trợ cho Sư Đoàn. Ngọn núi nhỏ nầy có hình móng ngựa, có một dinh thự của Pháp rộng
rãi, khang trang và mát mẻ. Khu nầy từ trước, khoảng năm 1966, 67… là Trung Tâm
huấn Luyện của Sư Đoàn. Phùng Xuân đã dẫn Đại Đội về nơi đây để học cách bắn
súng M72 LAW chống chiến xa. Xuân còn nhớ đến Trung Úy Wanatabe, người Mỹ gốc
Nhựt. Sau khi đã dạy cho đại đội của Xuân xong, Wanatabé đã cùng chàng và ba thằng
trung đội trưởng uống hết hai chai đế “Ông già chống gậy”. Wanatabe hông về đơn
vị, lăn phè ra ngủ cho đến sáng hôm sau. Anh chàng chịu chơi thiệt. Bây giờ, những
người từng gặp mặt Xuân, ra sao rồi? Họ có còn sống sót trong cuộc chiến ác liệt
nầy hông, hở Manas, Don Porter, Wanatabe và Peter Maurice Arnie?
Ngày 12 tháng 04 năm 1975, Tiểu Đoàn 1/43 của Phùng Xuân vẫn
giữ vững phòng tuyến hướng Đông Bắc và lấy được một số súng cùng một phóng đồ
các đơn vị của Sư Đoàn 18. Vậy là có nhiều nội tuyến của VC đã nằm vùng trong
Sư Đoàn. Chàng di chuyển Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn liên tục. Buổi sáng ở gần quán Ba
Tiều, buổi chiều ở đầu chợ. Ban đêm ngủ trong tiệm chụp hình Xuân Sơn. Ban ngày
trở về nhà thờ Tin Lành…
So ra trận đánh Xuân Lộc hông có đẫm máu bằng trận An Lộc: cường
độ pháo kích, tấn công hông nhiều và VC hông chiếm được một góc nào của tỉnh lỵ.
Phi pháo đã dập nát những vị trí xuất phát của VC trước khi họ có ý định tấn
công vào Xuân Lộc. Hình như những vị chỉ huy của họ hơi kém cõi và binh sĩ hông
được huấn luyện kỹ càng?
Hơn nữa, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, ngay ngày đầu, đã di chuyển
toàn bộ Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn ra khỏi Xuân Lộc, trú đóng trong rừng cao su bên quận
Xuân lộc, ở ngã ba Tân Phong, đối diện vườn cây chôm chôm và soài riêng của bác
sỹ Sử.
Buổi chiều ngày 16 (?) tháng 04 năm 1975, Phùng Xuân cảm thấy
đất rung chuyển mạnh dữ dội. Đồng thời chàng nhìn thấy một chiếc C-130 vừa rời
khỏi vùng hướng Đông Đông Bắc Xuân Lộc. Bom CBU quái ác đã tiêu diệt hầu hết bộ
đội VC ở gần núi Chứa Chan. Họ hông còn khả năng tiến vào tỉnh lỵ. Thành phần
còn lại lần lần bị Lữ Đoàn 1 Dù thanh toán. Bắc Việt hông còn hy vọng chiếm lấy
Xuân Lộc nữa. Một phần cũng là nhờ Biệt Đội Kỹ Thuật Sư Đoàn của Đại Úy Phát đã
xác định được các vị trí đóng quân của VC, nhờ đó phi pháo hoạt động rất hữu hiệu.
Từ ngày 14 tháng 04 năm 1975, bên trong tỉnh lỵ hoàn toàn yên tỉnh. VC chỉ còn
quấy rối bằng pháo kích.
Đầu con trăng. Ánh sáng mờ nhạt vừa vươn lên khỏi ngọn cao
su, len len qua những đống đổ nát hoang tàn. Những ụ gạch vụn nhấp nhô trong
sương trăng như những ngôi mồ hoang đầy mùi chết chóc. Khói điếu thuốc sắp tàn
bay mông lung hoà lẫn hơi trăng lạnh. Xuân rùng mình. Hình như oan hồn những kẻ
vừa mới chết còn lãng vãng đâu đây, nương theo ánh trăng về thăm lại nơi chốn
cũ.
Hơn hai ngàn năm trước, Kinh Thánh cho đến nay vẫn là một.
Hơn hai ngàn năm trước, kinh sách nhà Phật cho đến nay vẫn là thế. Những giáo
điều trên được xem là bất di bất dịch. Nhưng, dòng thời gian trôi chảy. Từ thế
kỷ XVIII cho đến nay, nhiều phát minh khoa học được khám phá. Người ta giết
nhau càng nhiều hơn. Hưởng thụ vật chất càng sa đọa hơn. Thiên đàng Xã hội Cộng
Sản ma quái hơn, mê muội những con người mơ tưởng đến thế giới an bình.
Khoa học đã giúp xã hội tiến bộ hông ngừng. Và mọi người mong
muốn thay đổi. Niềm tin bị xoáy mòn. Liệu Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Hồi giáo,
Khổng Giáo có còn đứng vững mãi với thời gian? Một ngày nào đó, con người biến
thành ánh sáng để di chuyển trong không gian đi về một thế giới hiện hữu khác
thì cái gì sẽ xảy ra trong cuộc sống nầy? Phùng Xuân hông nghĩ đến được. Mấy
hôm nay chàng hút quá nhiều, từ điếu nầy châm đến điếu khác. Ngón tay cái và trỏ
trở nên vàng nghịt.
Nhà dân chúng dọc theo đường rầy xe lửa sập tan tành hết. Doanh
trại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 43 cũng ngã nghiêng. Nhiều căn phố ở chợ hông còn
nguyên vẹn. Rạp hát Đồng Tâm còn trơ bảng hiệu. Chắc ngay phút đầu tiên, dân
chúng khu vực chợ bị trúng đạn pháo bị thương và chết cũng khá nhiều. May là
ngày hôm đó, VC pháo kích vào tỉnh lỵ rất sớm. Chưa họp chợ đông. Nếu trễ chừng
một giờ nữa thì số dân chúng chắc chắn là chết rất nhiều.
Trung Úy Trần Văn Thân, Trưởng Ban ba Tiểu Đoàn hay lùng sục
từ những căn nhà đổ nát tìm người sống sót, nhưng dân chúng đã hoảng sợ bỏ chạy
từ những ngày đầu tiên. Một hôm, Trung Úy Thân đưa cho Phùng Xuân một xấp hình.
– Thẩm quyền xem cái nầy cho đỡ buồn!
Chàng cầm lấy. Một cọc dày hình 6×9 đen trắng in trên giấy
láng, chụp đủ kiểu. Hông có một miếng vải nào hết, truồng như những con
nhộng trắng bông bốc, lăng quăng trong nồi nước sôi ươm tơ. Tư thế rất khêu gợi:
ngồi ngữa, nằm nghiêng, chổng mông, chổng khu, hẩy người, banh hai chơn, khép
hai tay che đậy, giơ cao hai tay. Mình mẫy chè bè trơ trẽn. Chè hẻ đì đóc nhơ
nhớp.Thấy nguyên hết bộ sậu. Những gương mặt còn non choẹt chịu chơi mà lại
“chơi chịu” như thế nầy? Chắc có lẽ, có một nhóm nữ sinh yêu tinh đã lập cái hội
“CTY” ở cái tỉnh nhỏ bé nầy?
– Tôi đoán chắc là các cô ở Xuân Lộc đây, chớ hông có ai khác
hơn đâu. Xung quanh đây toàn ruộng rẫy, dân nhà quê. Làm gì họ có dư dã để “ ngựa”
như vầy.
– Còn một tấm nầy.Mê lắm Thiếu Tá ơi! Bà L…
Thân kêu anh chàng Hậu mang máy C-25 chìa ra cho Xuân một tấm
hình chụp khổ 9×12 đen trắng in trên giấy “soa” đã “rờ tuốt”. Một người đàn bà
còn trẻ, nằm dài trên nệm trắng, nuột nà như con đuông chà là. Thân thể cực kỳ
sung mãn, rất cân đối. Vẻ đẹp đang thời sắc sảo, mặn mà. Tất cả những gì trên
cơ thể đều lộ ra trong tư thế nằm nghiêng.
– Anh moi ra những thứ nầy ở đâu vậy?
– Mấy thằng nhỏ tụi nó lục lạo rồi đưa cho tôi. Sấp hình 6×9
là ở tiệm chụp hình Xuân Sơn. Còn cái hình người đàn bà nầy là bà L… ở tiệm thuốc
tây … cuối chợ.
– Vậy mà tự nảy giờ, hai thằng mang máy tụi bây cứ thậm thà
thậm thọt, như là quí lắm vậy? Tụi bây có quen cô nào trong sấp hình đó hông?
Tao thấy, tụi mình thằng nào thằng nấy, khi coi hình, trái cấm trồi lên tuột xuống,
nuốt nước miếng đã đời.
Phùng Xuân đưa hết hình cho Đại Úy Ngô văn Đấu, Tiểu Đoàn
Phó. Chàng thẩn thờ nhìn qua phía bên kia đường. Nắng tháng tư ngùn ngụt trong
không khí chiến tranh. Thoáng đâu đây tiếng người than khóc trong bom đạn. Họ,
những người được sống an bình nơi hậu phương lại bày trò ăn chơi như thế nầy à?
Ở cái tỉnh lẻ còn như vậy thì hông hiểu ở Sài Gòn như thế nào? Hổng lẽ, Sài Gòn
lại còn hơn như thế nữa? Chàng tin là chắc như thế. Phòng trà, ca nhạc đầy ấp
những bản tình ca ủy mị chìm trong khói thuốc, trong những ly cà phê. Chẳng có
ai nhớ tới hình bóng người lính, họa chăng thỉnh thoảng có một vài bài hát của
Chiến Tranh Chánh Trị.
Bấy lâu nay Xuân hông được về Sài Gòn thường, nhưng có những
tin tức phong phanh qua lời đồn: Sài Gòn bây giờ ăn chơi dữ lắm ông ơi, tham
nhũng tràn lan, hông những ở ngoài mà còn ở trong nhà binh nữa! Rồi còn nạn bè
phái nữa! Nhưng như thế nào là dữ? Mình chỉ đọc qua báo chí vụ còi hụ Long An
thôi mà!
Tội nghiệp cho những người lính thân yêu của tôi. Ngày đêm ở
tuyến đầu, liều mình sống chết, họ hông có biết về một lớp người phía sau họ hưởng
thụ, xa xỉ đàng điếm. Có phải tầng lớp ăn trên ngồi trước họ cho là họ có đặc
quyền đó hông? Lính ở đây bao nhiêu người chết và bị thương rồi? Gia đình của họ
có bình yên hôn? Chàng hông còn thấy bóng dáng một người vợ lính nào ở đây. Đường
sá vắng teo. Họ chạy đi mất rồi, mang theo nổi lo sợ cho tính mạng của người chồng
.Hông hiểu gia đình chị Hiền ở trong rẫy có bị gì hôn? Loan hông còn bán ba ở
khu đường rầy từ lâu. Hổng hiểu Loan đi đâu mất, hông thấy nàng trở lại để rước
thằng Ken?
Xuân tính đi vào khu xóm nhà phía sau chợ, tìm đến nhà chị
Kim Sa, vợ của Nguyễn Thanh Liêm, nhưng ngỗn ngang gạch vụn và la liệt cây ngã
bín kín tất cả mọi đường. Bao nhiêu người dân hông chạy thoát khỏi trong những
đợt pháo kích?
Cơn mưa đầu mùa chưa đến. Nắng nổ xé tóe mắt. Không khí bay
mùi tanh lợm giọng trong nắng chói chan. Phùng Xuân mơ màng nghĩ đến tuổi thanh
xuân của mình đã cống hiến cho nước Việt mến yêu sắp hông còn nữa. Và những thằng
bạn mình sẽ ra sao? Thằng Chúc ở bên Tiểu Đoàn 3/43 với Thiếu Tá Nguyễn văn Dư
trấn giữ hậu cứ Sư Đoàn có bị gì hôn? Thằng Nguyễn Bá Lai đã chết từ lâu rồi.
Và Sư Đoàn 18 chống giữ nơi nầy được bao lâu vì trọng tài trên võ đài đã đếm đến
gần số mười?
17:00H ngày 20 tháng 04 năm 1975, Phùng Xuân đi họp ở Trung
Đoàn. Lịnh rút lui là 20:00H. Bỏ lại mọi thứ. Mà lính có gì bỏ lại, ngoài ba lô
và súng đạn và gánh hàng xén của họ.
Hông hiểu dân chúng ở đâu và làm thế nào biết được quân đội
rút đi, họ ùn ùn kéo theo. Trên đường đông nghẹt Cảnh Sát và dân. Họ đùm túm
mang theo những thứ gì có thể mang được. Mẹ, tay xách nách mang. Cha, lưng đeo
con nhỏ, lóc nhóc dắt theo một đàn con. Họ hối hả bước theo những người lính Sư
Đoàn bỏ lại thành phố thân yêu. Những chiếc Lô Bồi của công binh nhóc nhách người
ngồi. Và họ cũng tự động leo lên mấy chiếc GMC khác. Nhiều ngàn dân sợ VC. Họ
đi theo lính Sư Đoàn rời bỏ Long Khánh trong ngày hôm đó. Tiểu đoàn 1/43 có một
GMC chất đủ mọi thứ -nhiều nhứt là gánh hàng xén của Đại Đội Chỉ Huy( Trung Úy
Nguyễn văn Thành) và của Ban Tư ( Trung Úy Nguyễn văn Phẩm)-nối đuôi theo đoàn
xe của những đơn vị yễm trợ chạy theo Liên Tỉnh Lộ 2 xuôi Nam về Bà Rịa.
Liên tỉnh lộ 2 nối liền Quốc Lộ 1 tại ngã ba Tân Phong và Quốc
Lộ 15 tại Bà Rịa, dài khoảng 50km ( từ Xuân Lộc đến Hậu cứ Trung đoàn 48
khoảng 12km. Từ Hậu cứ Trung Đoàn 48 đến Núi Đất khoảng 28km. Từ Núi Đất đến Bà
Rịa 12km ). Đoạn đường nằm trong địa phận tỉnh Long Khánh, chạy giữa Mật
Khu Mây Tào và Hát Dịch, có hai Trung Đoàn 275 và 33 của VC thường xuyên hoạt động.
Từ ngã ba Tân Phong đến Cẩm Mỹ tương đối an ninh, có nhiều đồn điền cao su, do
Tiểu Đoàn 323(?) Địa Phương Quân bảo vệ an ninh. Từ đồi Con Rắn, xã Cẩm Mỹ, xuống
đến ranh giới tỉnh Long Khánh và Bà Riạ, từ lâu hông có đơn vị nào của quân đội
VNCH kiểm soát, gần như bỏ ngõ cho VC hoạt động. Từ Bình Giã về Bà Riạ tương đối
an toàn vì nằm trong vùng trách nhiệm của chi khu Đức Thạnh do Thiếu Tá Giao
làm Quận Trưởng.
Rút lui về Bà Riạ ban đêm bằng Liên tỉnh lộ 2 là một hành động
bất ngờ, táo bạo và liều lĩnh. Và VC cũng hông ngờ là Sư Đoàn 18 thối lui về
ngã nầy. Cho nên đoàn xe các đơn vị yễm trợ Sư Đoàn vượt thoát một cách an
toàn. Khoảng hai, ba giờ sáng, Tiểu Đoàn 18 Công Binh của Thiếu Tá Nguyễn văn
Nên đã đến Bình Giã. Đại Úy Nguyễn Trí Dũng một mình lái chiếc Jeep A2 của
Phòng Ba Sư Đoàn chạy một mạch đến Chi Khu Đức Thạnh lúc một giờ sáng mà hông
có một người lính nào đi theo. Nếu tin tức lộ ra, chỉ cần một trung đoàn VC
khóa đầu khoá đuôi rồi tấn công vào giữa là Sư Đoàn 18 tan tác. Mà cũng khó lộ
ra. Vì Trung Tướng Nguyễn văn Toàn, Tư Lịnh Quân Đoàn III, đích thân đáp xuống
Tân Phong cho lịnh miệng rút quân. Và chính Đại Úy Nguyễn Trí Dũng ở P3/SĐ cầm
từng tờ công điện rút lui đến giao cho các đơn vị trưởng và các đơn vị trực thuộc
trong tiếng pháo đì đùng của VC.
Vị Tư Lịnh Sư Đoàn cũng cuốc bộ với anh em. Một bầu đoàn thê
tử đầy nhóc đi theo, máy truyền tin được lịnh im lặng vô tuyến, chạy lè xè. Và
tiếng nói chuyện của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo với Đại Tá Lê Xuân Hiếu râm ran
khi đi ngang qua chỗ Phùng Xuân. Một lời thăm hỏi và khích lệ. Xong rồi, tất cả
hối hả bước theo những bước đàng trước.
Rừng cây cao su bên trái bạt ngàn. Mỗi cây to lớn như những
hình nộm núp trong bóng đêm trăng suông mờ nhạt, chập chờn ma quái như hù dọa.
Bên phải là rừng già, cây cao to cồ nghều nghệu, chen lẫn dây rừng đan
cao thấp như những màn lưới sắp quăng một mẻ chụp cả đoàn người đi. Và đoàn người
đi và đi, và đi cắm cúi, đi lầm lũi trong đêm trăng non yên lặng. Họ bỏ lại đàng
sau những đồng đội đã chết, có khi chôn vùi sơ sài đâu đó, có khi hông kịp chôn
nằm vất vưởng bên đường và trong rừng…
Đoàn xe Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ di chuyển cùng Trung Tâm Hành
Quân, Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn đến Bình Giã khoảng bốn giờ sáng. Và khi Phùng Xuân
qua khỏi Nhượng Địa Xa Bang, bỏ lại sau lưng rừng cao su mờ mịt thì trời vừa hừng
sáng. Chàng nghe nhiều tiếng nổ của đủ loại súng. Chàng biết VC đang truy kích
những lực lượng đi sau cùng: Điạ Phương Quân và Liên Đoàn 1 Dù. Hông hiểu Tiểu
Đoàn 324 Điạ Phương Quân của Thiếu Tá Hà Công Hách đóng ở Bảo Định rút lui có
an toàn cùng với Nhảy Dù hôn? Và chắc chắn là dân chúng vùng Bảo Vinh, Bảo
Bình, Suối Cát thế nào cũng ùn ùn đi theo. Họ đã biết cái hoạ Cộng Sản từ năm
1954 rồi mà!
Riêng Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, hông thể đi
về Nam cùng rút lui theo Sư Đoàn, đành chọn một lộ trình gian nan và nguy hiểm:
băng rừng về hướng Tây đến Long Thành, Biên Hoà
Vào trong khu ấp Bình Giả, ngủ môt đêm, Xuân vẫn còn chập chờn
nhớ nhung những hình ảnh bỏ lại sau lưng. Tỉnh lỵ nhỏ bé hơn mười năm gắn bó có
nhiều kỷ niệm: nắng bụi và mưa sình. Những con đường lầy lội, bùn đỏ văng tóe
lên mình người đi một cách tàn bạo, lốm đốm như rẫy mực. Mùa hè bụi bay mù mịt
hông thấy người đi khi xe tuôn qua. Áo trắng biến thành áo màu đỏ. Nhiều khi khịt
mũi đầy màu đất đỏ.
Ai mà thích đất trời như thế? Vậy mà có người trả lời là em
hông muốn đi khỏi nơi đây. Cô Nguyễn thị Kiều, nữ sinh trường trung học Xuân Lộc,
nói hình như bụi và bùn đỏ đã tan vào chén cơm và tô canh của em. Hơn nữa ba em
đã hy sinh ở nơi đây. Em hông muốn đi đâu đâu. Thế mà bây giờ em ở đâu rồi hở
Kiều? Biết bao giờ nhìn thấy lại những người lính năm xưa. Có người chơn chất
thật thà, có người khôn lanh lém lĩnh, nhưng đều là những người hăm hở, gan dạ
đứng đầu trước tiếng súng.
Ngày 21 tháng 04 năm 1975, đoàn xe chở Tiểu Đoàn qua Bà Rịa
trở về Long Bình. Rồi lại được nghỉ một ngày. Ngày 23 tháng 04 năm 1975, Phùng
Xuân và Đấu gắn lon lên một cấp bực cho các anh em trong đơn vị.
Ngày 25 tháng 04 năm 1975, Tiểu Đoàn được lịnh phối trí lực
lượng từ vườn ươm cây Trảng Bom vào sâu đến tận đường rầy xe lửa. Sau mấy ngày
khao quân, cha con lại đùm túm dắt díu nhau vào vùng hành quân với một lô M72 đế
chống xe tăng. Bây giờ phía trước Phùng Xuân là Trung Đoàn 48 của TrungTá Trần
Minh Công và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nguyễn văn Nô, bố trí trong rừng
cao su ở cua chữ C, trên QL01, cách Trảng Bom khoảng 6km.
Buổi chiều ngày 27 tháng 04 năm 1975, hông hiểu từ đâu hai
chiếc Skyraider bay thật thấp, làm một loạt bom rồi dông mất. Người la và kẻ
khóc. Xuân hét lên với đề lô. Hông liên lạc được với ai. Khuya hôm đó, Trung
đoàn 48 và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh bị tấn công dữ dội. Lực lượng phòng thủ bị chọc
thủng. Trận tuyến tan vỡ. Còn lại một mình Phùng Xuân trên tuyến đầu. Ăng ten
kéo lên cao nghều nghều để cố nghe một tiếng trả lời của Trung Đoàn. Tất cả đều
im lặng. Chạy đi đâu mất tiêu hết. Chắc có lẽ xa lắm rồi, khỏi Biên Hoà, nên
ăng ten dài hông bắt được. Xuân nhìn nồi chuối nấu. Chàng nuốt mắc nghẹn! Mình
ăn như vầy thì người lính của mình ăn với cái gì?
Và rồi, buổi sáng ngày 28 tháng 04 năm 1975. Súng nổ và
đạn bay. Đâu ai còn biết mình đã can đảm như thế nào? Cho đến khi hông còn đạn
mới biết mình đã buông súng giơ hai tay đầu hàng trong ngỡ ngàng. Đại Úy Trần
văn Thân bị thương bể ngay đùi nằm im lặng. Máu đổ tràn lan. Hông một tiếng
rên. Đôi mắt Thân nhìn Xuân như có điều gì muốn nói, nhưng bộ đội VC hối thúc
Xuân đi mau. Xuân quay lại nói với người lính nầy xin cho chàng và Đấu võng
Thân đi. Người cán binh gầm mặt, quát lên một tiếng. Khi Xuân vừa đi khỏi chừng
hai phút, chàng nghe một loạt đạn nổ dòn. Vậy là họ giết Thân rồi. Thương binh
của họ, họ còn hông mang đi được. Họ kể sá gì đến thương binh của kẻ thù!
Phùng Xuân đi đầu trong toán tù binh. Hai tay bị trói ra sau,
bằng dây điện thoại, dính chùm với binh sĩ. Khi chàng bước lên đỉnh đồi, nhìn về
phía Trảng Bom, đoàn T54 ào ào tuôn vô Biên Hoà. Chàng nghẹn ngào. Nước mắt
lưng tròng.
Bỏ lại sân trường Đại Học, đem cuộc đời thanh xuân để chiến đấu
mong nhìn thấy non sông gấm vóc Việt Nam trở nên rạng rỡ, bây giờ tan thành mây
khói. Mình có tài cán gì? Đánh đấm có ra gì? Khoảng thời gian lính tráng chỉ có
từng ấy năm đã làm được những gì? Chỉ là mơ ước thôi. Việt Nam thân yêu giờ đây
hông còn nữa. Rồi đây, đất nước sẽ ra sao? Chàng chỉ biết cái họa Cộng Sản
trong sách vở, ở phim ảnh. Một tương lai mù mịt cho đất nước, cho gia đình.
Xuân cúi gầm mặt đi, đi, đi trong đau đớn tủi nhục của người
thua trận. Xuân cảm thấy mình hèn và nhát và bất tài hông xứng đáng là một cấp
chỉ huy, hông đủ sức bảo vệ cho hơn 400 người binh sĩ dưới quyền (Mà có khi nào
tiểu đoàn đầy đủ quân số 6, 700 đâu?Lính ma, lính kiểng ở đâu đâu, chìm
sâu trong cái xã hội thời ly loạn!! ). Sao mình hông rút đi từ chiều hôm
qua, theo chơn Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh có hơn hông? Nấn ná làm chi với số binh sĩ
bị thương sau đợt oanh kích của hai phi tuần khu trục? Chút nữa, nếu có ngừng lại,
quây quần bên đám lính của mình, mình có xứng đáng nhìn mặt họ hông? Sao mình
hông cầm súng bắn vào mình để tự sát đi cho rồi? Sao lại phải bị nhục nhã như
thế nầy?
Phùng Xuân ngồi riêng một mình trong đám rừng cây nhỏ. Chàng
đoán đây là khu rừng sâu sau ấp Bàu Hàm. Chỗ ngồi đã được dọn dẹp sạch sẽ. Một
người bộ đội mang ra một ly nước trà còn nóng và một phong lương khô bằng hai
ngón tay. Sau đó có hai người sĩ quan mang cấp bực Thiếu Tá(?) đến ngồi trước mặt
Xuân. Chắc có lẽ là sĩ quan Quân Báo. Họ lấy một điếu thuốc Ruby đỏ mời Phùng
Xuân. Xong họ trãi bản đồ tỷ lệ 1/250.000 và hỏi chàng bây giờ những đơn vị của
SưĐoàn 18 và những đơn vị khác ở đâu? ( Chắc họ vội vã quá nên hông có bản
đồ 1/100.000 hay 1/50.000? Bản đồ 1/250.000 đâu phải là bản đồ hành quân
chiến thuật? Chỉ có cấp Quân Đoàn trở lên mới xài bản đồ tỷ lệ 1/250.000. Vậy
đơn vị nào bắt được Xuân? Nếu Quân Đoàn còn ở đây thì Sư Đoàn và Trung Đoàn của
họ chắc đã tiến khỏi Biên Hoả rồi?)Thật ra cho đến giờ phút nầy Xuân cũng hông
biết đơn vị bạn mình ở đâu? Chạy mất tiêu hết rồi!!
– Có mấy đường vào thành phố Hồ Chí Minh(?). Đường nào đi vào
thành phố dễ dàng nhất?
– Có ba. Ngã cầu Xa lộ Đại Hàn ở nhà máy nước Hoá An.
Ngã Cầu Ghềnh xuyên qua thành phố Biên Hoà. Ngã xa lộ Cầu Đồng Nai. Tui hông hiểu
các anh hỏi dễ đi là như thế nào? Cho chiến xa hay cho bộ binh. Có lẽ Cầu xa lộ
Đồng Nai là dễ đi nhứt cho chiến xa.
Xuân biết họ hỏi để xác nhận điều chàng khai ra có đúng như
thế hông. Chứ thiệt ra khi chàng bị bắt, phòng tuyến Trảng Bom bị tan vỡ thì
chiến xa đã ào ào tuôn vô Biên Hòa. Giờ nầy có lẽ họ đã qua khỏi Biên Hoà. Và
chiến xa đâu có ngu dại gì đâm đầu vô con đường chật hẹp vào thành phố Biên
Hoà. Chắc chắn là họ thấy đường xa lộ rộng thênh thang thì họ tin chắc là đường
đến Sài Gòn.Và nếu Xuân có chỉ thì với bản đồ 1/250.000 cũ xì, hông có những
chi tiết mới, như đường Xa lộ Đại Hàn và Xa lộ Đồng Nai, họ cũng hông lần ra được.
( Lúc sau nầy khi đi ở tù, Phùng Xuân gặp lại Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ, Trưởng
Toán Trung Tâm Hành Quân SưĐoàn vào lúc cuối cùng và Thiếu Tá Nguyễn văn Nên,
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Công Binh SĐ.Hai người nầy cho biết đã có lịnh giựt
sập cầu Xa Lộ Đồng Nai để hông cho VC tiến vô SàiGòn.Nhưng Thiếu Tá Mỹ
nghĩ rằng làm sập cầu Xa lộ Đồng Nai thì các đơn vị bạn còn kẹt lại làm thế
nào để rút về và còn dân chúng nữa chi.Hơn nữa sập cầu rồi có thể xây lại tốt
như thế hôn??(sic).Nên chàng ta hông có truyền lịnh lại cho Thiếu Tá Nên.)
– May cho anh đó. Nếu để mấy Sư đánh Xuân Lộc bắt được anh
thì họ bắn anh rồi.
Với đơn vị hành quân cấp nhỏ Tiểu Đoàn như Phùng Xuân ( và mất
liên lạc với Trung Đoàn) nên hiện giờ Xuân cũng hông biết đơn vị VC nào đã bắt
chàng và những Sư Đoàn nào của họ bị thiệt hại nặng nề ở Xuân Lộc vừa rồi.
Buổi khuya, trăng sáng vằng vặc. Xuân nằm im trên miếng tôn,
nhìn thẳng vào mặt trăng. Vầng trăng xám xịt. Hông có hình chú Cuội ngồi trên
cung trăng:”Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối
mơ” của Lê Thương hông còn nữa. Hơi sương lạnh thấm qua lớp vải ướt. Xuân
rùng mình, đau nhức mình mẫy vì nằm trên miếng tôn bể nhăn nheo. Rừng cây lạnh
lùng ngủ trong trăng màu xám đục. Màn đêm im lặng.Tất cả thú rừng đều chạy trốn
mất. Kế bên là Đấu. Xuân đưa tay qua khều nhẹ nó, ra dấu chỉ vào rừng rậm. Tù
binh bị giặc bắt, nếu có cơ hội là phải trốn thoát. Miếng tôn cũ sét kêu rắc rắc.
Một tiếng hét vang lên. Và tiếng kéo cơ bẩm rôm rốp…
Đoàn tù binh cứ đi và tuôn qua rừng và băng qua suối, dọc
theo song Đồng Nai. Đói, mệt, chán chường rã rời. Chỉ ăn được mầy củ khoai mì
luộc.. Miệng đầy ke đắng nghe đắng nghét. Chiều chiều nghe tiếng ve chuông rừng
é è ẹ một hơi dài, buồn thúi ruột.
Sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975, toán tù binh đặt chơn lên QL
20 ở Kiệm Tân.Môt binh sỉ đưa cho Xuân một nắm cơm nhỏ hông biết nó lấy từ đâu.
Xuân cầm vắt cơm mà hông đưa vô miệng được. Hai bên hàm cứng ngắc và nước miếng
tuôn như khai đập và trào ra hai bên mép. Phải một hồi lâu, Xuân mới mở miệng
được để thưởng thức hương thơm ngọt ngào của cơm trắng.
Cho đến trưa, tiếng ra lịnh đầu hàng của vị Tổng Thống Dương văn Minh vang vang lên từ những máy thâu thanh của dân chúng. Phùng Xuân gục mặt, ứa nước mắt. Có cái gì chận ngay cổ họng. Còn đâu nữa “Đời thanh bình cửa thường bỏ ngõ”? ( Nguyễn Công Trứ ).
PHẦN
3
Một thời tù tội
Vào những ngày cuối tháng 04 năm 1975, Sài Gòn hổn lọan. Quần
áo lính quăng bỏ ngổn ngang cùng đường. Những người dính líu với chế độ cũ, giống
như cá ở trong nơm, hốt hoảng tìm đường chạy trốn. Không quân lo lấy máy bay vù
lên trời… Hải quân kéo cả đoàn ra khơi… Máy bay quân đội Hoa Kỳ liên tục chở số
người ra đi, nhưng hông thể đáp xuống được nữa vì VC bắt đầu pháo kích vô sân
bay Tân Sơn Nhứt. Và cuối cùng, họ chuyển về Toà Đại Sứ ở đường Thống Nhứt, di
tản một số ngưới còn lại bằng trực thăng. Cảnh chen lấn để vô được bên trong vô
cùng khổ sở và đau khổ. Hông đi được bằng máy bay, số còn lại chỉ có một con đường
duy nhứt là xuống tàu thoát ra biển.
Trưa ngày 30 tháng 04 năm 1975, Bộ Tư lịnh Sư Đoàn 18BB, chạy
tán loạn tan hàng. Thiếu Tá Đoàn Hữu Mỹ cùng anh em ở Trung Tâm Hành Quân hông
liên lạc được với ai, tự động bỏ súng đạn, xe cộ và máy móc tuyền tin ở trường
đua Phú Thọ. Đại Tá Lê Xuân Hiếu cùng Tướng Lê Minh Đảo thay thường phục ở cư
xá Thanh Đa rồi chia tay mạnh ai nấy về nhà.
Mặc đầu có lịnh đầu hàng của Đại Tướng Dương văn Minh nhưng
quân đội Bắc Việt khi tiến vào Sài Gòn cũng gặp một số chống cự quyết liệt của
các đơn vị Quân đội VNCH. Hổng thể giải quyết được tình trạng đã hầu như hông
còn cứu vãn được nữa, một số người quá tuyệt vọng đã tự sát. Làm gì được nữa?
VC đã phản bội Hiệp Định Paris năm 1973 cộng thêm sự tiếp tay của ngoại bang, họ
đã thừa cơ tiến công. Cũng còn một số trí thức mơ mộng, và một số người ngây
thơ tin tưởng VC. Ở đó mà mơ tưởng chính phủ Ba Thành Phần nên sẳn sàng mở cửa
Dinh Độc Lập toác hoác để đón xe tăng nghêng ngang vào. Đúng là cái vòng
danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi người mong muốn vào. Con cá trong nôm đỏ lừ
con mắt. Con cá ở ngoài ngúc ngắc muốn vô. Và VC lại lường gạt. Cắm cờ
Mặt Trận Giãi Phóng Miền Nam lên nóc dinh! Nhóm người trọng tuổi thân Việt Minh
(?) được dịp, lập tức ló đầu, vui mừng ra mặt, hoan hô đoàn quân “Giải
Phóng” tiến vào Sài Gòn. Nhóm thân Cộng, hoặc do Cộng Sản giật dây xuất đầu lộ
diện. Nhóm 30 tháng tư, trở cờ nhanh chóng, tay đeo băng đỏ hò hét vang
trời. Và từ ngôi nhà ở đường Ký Con của ông Tư Phước, Trần văn Thành và Sáu Ngọc
(Marin Pla), vội vàng tiếp xúc với thành phần nằm vùng bấy lâu nay, đón mừng
quân giải phóng vào Sài Gòn. Gia đình ông Sáu Xe cũng vậy. Họ vui mừng “cách mạng
thành công”, đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Nhứt là Vân (Sáu Trân), tỏ ra hăng say
hoạt động để “giành thắng lợi mới!”. Cả nhà “hồ hởi, phấn khởi”.
Bà Phùng Xuân sợ sệt, hông biết tìm đường trốn đi đâu vì chồng mình tới giờ phút cuối vẫn biệt tăm, hông biết sống hay chết như thế nào? Bà chỉ biết chở ba đứa con nhỏ lên chiếc Honda chạy vào nhà Ông Bà Ngoại…
Rốt cuộc rồi cũng lại trở về nơi chốn cũ: Long Giao, Long
Khánh. Nó còn có tục danh là Hàng Gòn, cách Xuân Lộc khoảng 12 km. Nơi đây đầu
tiên là căn cứ Black Horse của Trung Đoàn 11 Thiết Kỵ Hoa Kỳ (11th Armored
Cavalry Regiment) từ năm 1966 đến năm 1969. Sau đó giao lại cho Lữ Đoàn 199 Bộ
Binh Mỹ. Khi quân đội Mỹ rút đi vào năm 1971, giao lại cho Sư Đoàn 18 BB. Sau
khi bỏ bớt sân bay, Trung Đoàn 48 BB và Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn 18 đảm
trách phòng thủ căn cứ nầy ( tọa độ YS 450970) (Bây giờ, năm 2012,
là căn cứ của Sư Đoàn 302VC, thuộc Quân Khu 7 ). Rồi cuối cùng, khi Trung
Tâm Huấn Luyện dời về Long Hải (Bà Riạ) thì căn cứ trở nên quá rộng. Những kho
đạn do quân đội Mỹ để lại còn đầy dẫy trong những đám cỏ mọc hoang tàn…
Những ngày đầu tiên hai vệ binh dẫn đám tù vác cuốc xẻng đi
trồng khoai lang. Những thằng tù, từ hồi nào tới giờ chuyên môn giơ tay năm
ngón để chỉ huy thiên hạ, bây giờ bị hai người bộ đội trẻ bân ăn mặc bộ đồ kaki
lèng xèng màu cứt ngựa, đầu đội nón cối và hai chơn đi dép râu lẹp xà lẹp xẹp,
kèm theo hai cây AK ra lịnh, nên họ có vẻ quê độ, tỏ ra ngỡ ngàng. Nhưng là
thân phận tù binh thì họ có làm gì hơn được? Buổi tối, tù binh được một anh tổ
trưởng đưa cho tờ giấy để khai lý lịch trích ngang. Hông anh nào biết khai như
thế nào. Cán bộ kêu kê khai tới đời ông nội và tất cả bà con dòng họ nội ngoại.
Từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ chưa có cái vụ nầy. Đâu có ai mà nhớ hết dữ vậy.
Anh nào anh nấy mỗi anh kiếm một góc nhà dưới ánh đèn cầy mù mờ nặn óc viết ra.
Chừng nào nộp? Chưa biết. Cứ ráng mà viết cho đầy đủ “Thành khẩn mà khai báo,
cách mạng sẽ cứu xét cho về sớm”.
Ở trong doanh trại rộng mênh mông, bộ đội kiểm soát cũng hông
có gì nghiêm nhặt lắm. Buổi trưa, sau những bữa ăn no với tép cá đầy đủ, tù
binh còn ngồi tụm ba tụm bảy đấu láo với nhau. Xuân vẫn còn e dè, ngồi im lặng
nghe. Toàn là những người bạn tù lạ, hông quen biết. Làm sao mà dám nói rõ những
ý nghĩ của mình. Một vài người cho chàng biết. Khi chưa sập tiệm, còn là hạ sĩ
quan làm việc rất siêng năng. Sau khi bể dĩa, thì hỡi ôi, cái ông thượng úy VC
ngồi chình ình một đống tiếp nhận mình chính là anh chàng hạ sĩ quan trong đơn
vị mình lúc trước. Nó biết rõ mình nên nó hạch sách đủ điều.
Tù binh vẫn còn tin tưởng là sau khi “thành khẩn khai báo” đầy
đủ, nộp giấy trích ngang là họ được trở về sum họp gia đình. Ủy ban quân quản
đã có giấy tờ là đi học tập chỉ có một tháng mà! Một vài người nói với Xuân như
vậy. Chàng hông biết. Họ đưa cho chàng xem tờ kêu gọi đi “học tập cải tạo” của Ủy
Ban Quân Quản. Té ra VC ma giáo chơi chữ, nên tù binh miền Nam ngây thơ bị chữ
chơi! Người ta in rõ ràng trên giấy trắng mực đen là: “ đem lương thực và thực
phẩm( hiện vật hoặc tiền) đủ dùng trong một tháng ”. Đủ dùng trong một
tháng chớ nào phải đi học tập một tháng rồi về đâu! Nếu đi “học tập cải tạo
đúng một tháng” thì VC phải viết rõ ràng ngày đi và ngày về chớ. Xuân nhớ lại đến
những gì chàng đã đọc trong một vài cuốn sách của Hoàng văn Chí và phim :
“Chúng tôi muốn sống”, “Ánh sáng miền Nam” được coi lúc còn nhỏ. VC bao giờ
cũng lật lọng, mập mờ đánh bài ba lá.
Tờ khai lý lịch trích ngang được trả đi trả về mấy lần. Lý
do: các anh khai báo chưa thành khẩn. Thời gian một tháng sắp hết. Tù binh lại
còm lưng viết lại. Bây giờ thấy ai ngồi viết cũng trầm ngâm nghĩ ngợi, phải làm
sao viết cho đúng đây.
Xuân hông buồn viết chi cho nhiều. Tờ khai được trả đi trả về
mấy lượt, chàng cứ như thế viết y chang như lần trước, ngắn và gọn. Dài dòng
quá mình dễ quên. VC có biết gì về lý lịch của mình đâu mà viết chi cho nhiều.
Tụi nó bắt thóp mình đó. Hồ sơ đâu còn nữa. Họ hông có đủ nhân sự để lùng sục đọc
từng hồ sơ của mình đâu! Hơn nữa, Phùng Xuân để ý mấy anh chàng cán bộ nầy làm
trời làm đất chớ một chữ cắn làm hai hông bể! Có nhiều anh chàng cán binh cầm
giấy ngược thì làm sao đọc nổi, hở trời!
Còn dư thời gian, Xuân lấy cuốc vun giồng trồng khoai lang và
mấy cây cà tô mách lấy hột từ sau nhà bếp. Một vài người nhìn thấy, cho Xuân
làm chi cho mệt. Đúng một tháng là mình về rồi mà! Chàng mỉm cười: “ Tôi với mấy
anh sẽ có khoai và cà ăn đó”.
Hết khai lý lịch trích ngang. Bây giờ tới khai phần bản thân.
Mỗi người phải viết ra và đầy đủ “quá trình hoạt động” từ lúc nhỏ cho đến bây
giờ. Lại cắm cúi ngồi nghĩ ngợi, miệng cắn viết suy nghĩ mông lung. Làm sao mà
nhớ hết cho nỗi đây? Lại trả tới và trả lui. Lại viết đi và viết lại.
Nhiều tay biạ ra viết lẹ đi cho rồi. Còn dư thời giờ, hông biết
làm gì, có một vài nhóm buồn tình, dưới trưa nắng chan chan, xách cuốc xẻng đào
khoai mài (trong Đông Y tên là hoài sơn). Củ khoai mài đâu phải dễ đào. Nó thuộc
loại củ khoai rừng, mọc ở vùng đất cao. Củ của nó thường đi thẳng sâu xuống đất.
Đâu có phải như củ nừng đâu mà nằm khơi khơi trên mặt đất! Với một chút tinh ý,
nhìn vào giây leo, chúng ta biết rõ củ lâu hay ít năm. Củ lâu năm thường to dài
đâm thẳng xuống đất sâu chừng ba, bốn thước. Phần non ở cuối có nhiều bột, luộc
ăn rất ngon. Phần già trên ăn chai và cứng.
Trong thời gian nầy, tù binh chưa bị đói. Họ được cho ăn phủ
phê để còn dốc bụng ra khai nữa chứ. Cho nên họ đi đào khoai để ăn chơi thôi.
Gần đến hết hạn một tháng, nhiều người tù tỏ ra bồn chồn lo lắng.
Nhưng rồi, hết thời gian ban ngày được thoải mái. Buổi sáng vừa ăn xong là phải
lên họp tổ. Trưa nghỉ một chút rồi lại họp. Chiều cơm nước xong là đến họp. Họp
cho đến tối. Tù binh có thằng buồn ngủ tỏ ra hết kiên nhẫn. Bất cần, đây là lúc
con mồi sập bẫy, khai tầm bậy để cho yên thân.
Bắt đầu cuộc hành trình gian nan cho những người tù binh miền
Nam còn ngây thơ như cừu non. Trong lúc đó VC như những con sói. Những người
cán bộ VC dạn dày kinh nghiệm trong việc khai thác tim óc con người. Chỉ có cái
chén sỏ dây và đôi đũa buộc cứng, treo tòn teng bên quần kaki màu cứt ngựa và
hai chơn mang dép râu và túi sắc quàng vai và đầu đội nón cối, đôi khi có tăm xỉa
răng ngậm miệng, “cán bộ” đi đến đâu nghe lộc cà lộc cộc đến đó, nhưng trong đầu
chứa nhiều mưu mẹo quỉ khốc thần sầu. Trải qua Cải Cách Ruộng Đất kinh hồn, họ
biết thế nào là đấu tố và buộc tội kẻ thù. Toán tù binh lần lượt khai ra từ đời
cố hỉ cho đến bây giờ. Nhưng rồi cũng bị kiểm điểm. Chưa thành khẩn. Tù ngớ ra.
Thế nào mới là thành khẩn? Khai riết cho đến khi nào cách mạng buộc anh có tội
là thành khẩn chớ gì?
Khoai lang được đào lên và rồi nấu cho bạn tù ăn. Và cà chua
chia nhau mỗi người ít trái. Đám tù bây giờ buồn xo. Mặt mày bí xị. Họ hết bàn
tán một tháng là trở về nhà. Ai cũng có vẻ nôn nóng. Và vợ con ở nhà chờ mong,
yên chí chồng chỉ đi “học tập cải tạo có một tháng”
Những cơn mưa dông xối xả đến. Hông có đi ra ngoài trồng
khoai, dọn cỏ. Sau mỗi lần kiểm điểm, mỗi thằng đứng nhìn mưa rơi, trầm ngâm.
Mưa nổi bong bóng. Mưa dai dẳng và hoài hoài hông chịu dứt. Nước ngập láng sân.
Bong bóng trôi chảy về cuối dãy nhà. Mưa đến gần khuya, còn rỉ rả kêu tách tách
trên mái tôn. Trăng suông hiện ra. Ánh sáng mờ nhạt ôm dài trên luống khoai,
lan ra bụi chuối như sương sa. Phùng Xuân ngáp dài. Mấy tháng nay, hông có được
một điếu thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ…
Trong lúc đó, tháng 8 năm 1975(?), nhóm tù gồm toàn cấp úy
“ác ôn, có nợ máu với nhân dân”, đã âm thầm rời khỏi căn cứ Long Giao lúc đêm
đày đi Bắc. Nhóm tù còn lại hông hề hay biết(?)
Bài kiểm điểm cứ nhai đi nhai lại. Đêm nào cũng như đêm nào,
chỉ có những danh từ đó lập đi lập, như nước đổ lá môn. Có phải như thế hông?
Như đờn khải tai trâu thì đúng hơn. Nước đổ lá môn hông thấm, nhưng đờn gảy tai
trâu thì trâu nghe riết rồi cũng lập lờ yên lặng, thấm vào lỗ tai, trâu đành đứng
một chỗ. VC là học trò của Liên Xô nên họ rành thí nghiệm Palov. Nên cuối cùng
bọn tù cũng đành nói theo.
Hai ngày liền, tù được nghỉ xả hơi. Ai nấy cũng mừng. Chắc
xong rồi. Và hy vọng được về nhà. Đến đầu hôm ngày 10 tháng 11 năm 1975, trăng
đầu tháng vừa lặn, tù binh được lịnh thu dọn đồ đạc. Đám tù mừng rỡ. Tất
cả đều lên xe bít bùng, có vệ binh mang súng đi theo. Gương mặt họ hầm hầm.
Đoàn xe di chuyển trong đêm hông trăng, tối đen. Ngồi trong
xe, hông nhìn ra được bên ngoài, Xuân ước lượng đoàn xe đi như thế nào. Ra cổng,
quẹo trái. Đi về Xuân Lộc. Đến ngã ba Tân Phong, đi thẳng. Quẹo cua Heo.
Đi về hướng Tây. Đến ngã ba Dầu Giây. Lại đi thẳng. Về đâu? Về SàiGòn? Đi đâu
đây?
Đến khuya, đám tù bồn chồn lo sợ. Nhưng đoàn xe dừng lại. Mọi
người được lịnh xuống xe đứng yên tại chỗ. Có người nhận ra. Ôi thôi rồi! Trại
Suối Máu, Tân Hiệp.Trại giam tù binh Cộng sản hồi trước. Sao mình lại có duyên
vô đây? Trước năm 1975, Xuân đã bao lần mình đi qua đây. Và có bao giờ chàng
nghĩ mình sẽ là tù binh bị nhốt vào đây. Đúng là một giấc mơ. Giấc mơ đi tù một
tháng trở về của đám tù tan như bọt nước. Vào trại nầy biết bao giờ trở về? Trại
có 05 K nhốt từ bò nhứt, bò nhị, bò tam cho đến bò lục…
Mười bài mà đám tù phải học là mười bài viết của kẻ chiến thắng,
tự mình vỗ ngực cho mình là tài giỏi. Nào là “Ba dòng thác Cách Mạng”, “Ngụy
quân, ngụy quyền”, “Tội gì mà trời không dung, đất không tha”… Rồi sau đó mạt
sát người thua thậm tệ, gọi họ là Mỹ- Ngụy. Có phải Miền Nam là Ngụy hông?
– Đâu có anh Lượng! Đồng Minh của miền Bắc là Nga, Tàu, Bắc Hàn,
CuBa. Họ yêu cầu những nước “anh em xã hội chủ nghĩa” đến. Họ mới là Ngụy đó.
Còn miền Nam có yêu cầu “đồng minh của mình” tới giúp đâu? Hông.
– Sao anh biết?
– Chính phủ Ngô Đình Diệm hông có kêu gọi ai tới. Ổng nói để
nước tôi tự chiến đấu. Ông Mỹ phù phép giết Tổng Thống của Đệ nhứt Cọng Hòa rồi
a thần phù ngày 09 tháng 03 năm 1966 đổ bộ vô Cam Ranh kéo theo Úc, Tân Tây
Lan, Nam Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Đài Loan, Tây Ban Nha và réo lên giúp miền
Nam tự do chống miền Bắc Cộng Sản!
– Ôi thôi! Miền Bắc rêu rao đánh thắng ba đế quốc Nhựt, Pháp,
Mỹ đó.
– Nhưng họ có đánh thắng đế quốc Nhựt bao giờ đâu? Đó là công
của chính phủ Trần Trọng Kim mà! Họ cướp của người ta nói là của mình. Vừa ăn
cướp vừa la làng. Hông lẽ lịch sử viết sai sự thực?V à người viết cuốn: “Đem
tâm tình viết lịch sử” lại viết hông đúng à? Và có phải Mỹ cút hông anh Lượng?
– Nhưng cái độ lượng của Chánh Phủ Trần Trọng Kim là thả hết
tù chính trị. Trong số đó có nhiều “ông cố nội” VC lúc bây giờ, để đến nay họ
quậy nát tùm xèng cái nước Việt nhỏ bé nầy!
Thiếu Tá Nguyễn văn Lượng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/52 Sư
Đoàn 18 mấy hôm rày ăn trúng cái giống gì mà bị tiêu chảy re. Hắn ta cứ ngồi chực
chờ trước cầu tiêu. Người càng ngày càng ốm tong teo.
– Chắc ông bị kiết quá. Có đem theo thuốc uống hôn?
– Có con mẹ gì! Nói đi có một tháng rồi về mà. Ai đem thuốc
men nhiều làm gì!
– Ở trong nầy dễ gì mà kiếm được mấy viên thuốc than. Tìm ra
Ganidan lại càng khó. Tui thấy xung quanh đây có nhiều cỏ mực và rau sam, để
ngày nào tui cũng hái cho anh một mớ. Cỏ mực thì anh có thể nhai sống rồi nuốt,
nhưng rau sam thì anh phải luộc chín. Tui lấy than ở dưới nhà bếp tán nhuyễn
ra. Anh có dám uống hôn?
Trong tù, lúc đầu thằng nào cũng tưởng về sớm, thường tỏ ra
hào phóng cho thuốc men bạn tù. Từ khi hông biết được ngày về, tù thường thường
để dành lại một chút ít thủ thân. Từ đó, châm, cứu là phương pháp trị bịnh của
tù. Nhức đầu cũng châm, cảm sốt cũng cứu…
Thiệt ra, lên hội trường học xong bài nào, vừa phủi đít đứng
lên là tù binh quên hết bài đó. Đó là những điều hổng đáng phải cho mình nhớ.
Nhớ chi cho mệt. Họ đày đoạ, dầy vò tinh thần mình mà! Mà có gì đâu để phải nhớ
những lời lập đi lập lại như con cưỡng, con sáo. Điều đáng nhớ là tới giờ chia
cơm. Họ như đám ong bể ổ. Thằng nào tới phiên đi lãnh cơm cũng lo về mau, quăng
cái xẹt cuốn tập rồi lẹ lẹ xách thau nhôm xuống nhà bếp lấy cơm và đồ ăn. Mấy
thằng còn lại, bày tô chén để chia phần!
Học xong một bài, tù binh được chia thành từng tổ để thảo luận.
Có cán bộ ngồi nghe, đánh giá, phê bình. Có những người tù tinh ý. Mầy muốn vậy,
tao nói theo ý mầy, cho mầy chết luôn! Làm sao mà cải tạo được họ. Đầu thằng
nào thằng nấy đều có sạn. VC cũng biết vậy, nhưng họ tin vào Palov. Nói riết thế
nào cũng có thằng nghe. Nhưng cũng có cha nói nghe sao được, khi mà cán bộ nói
anh là công binh, anh cũng có tội với “cách mạng, với nhân dân”. “ Sao vậy cán
bộ?Anh xây nhà cho bọn ngụy nó ở cho ấm cúng, lắp đặt ống nước cho ngụy nó tắm
cho mát”. Anh tù binh “Nam Kỳ” ngẩn tò te, chửi thề trong bụng: “Đụ mẹ, xạo ke
tổ cha! Nói vậy mà cũng nói cho được”.
Buổi trưa nắng cháy da. Thiếu Tá Võ Long Tôn, Thiết Đoàn Phó
Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh/Sư Đoàn 18 BB, cứ mình trần trục, đi lên đi xuống mấy dãy
nhà. Mới có mấy tháng mà ốm cà tong cà teo như cò ma, lòi xương sườn. Thân mình
gần như bộ xương cách trí.
Phùng Xuân biết Tôn. Người quê Bến Tre, em Dân Biểu Võ Long
Triều. Tôn hở ra là toa toa moa moa với Xuân. Cho nên chàng nói chuyện với Tôn
mà hổng cần giữ mồm giữ miệng. Hơn nữa, hai người cũng đã ở lâu nơi Sư Đoàn nên
biết nhau.
– Thì anh cũng biết mà. Anh cũng như tui đều biết bài thơ ngụ
ngôn: “Con chó sói và con cừu” của La Fontaine. Lý kẻ mạnh bao giờ cũng phải. Họ
là kẻ chiến thắng thì họ nói sao cũng được.
Những ngày chủ nhựt, tù binh được nghỉ. Tù đói nên đi vòng
vòng quanh, kiếm được thứ gì ăn thì ăn thứ đó. Con cắc ké chạy cũng hông khỏi.
Cọng rau sam cũng trụi lủi. Con chuột cũng bị thui cháy. Thậm chí có thằng nói
trùn ăn được. Thằng Tuấn tây lai nói nấu cháo ăn ngon lắm! Xuân hông biết. Xuân
chỉ lo tom góm mấy cái nang mực. Phòng có ngày bị đày lên rừng, Xuân sẽ dùng nó
để vò lá sâm.
Buổi trưa ngày 07 tháng 04 năm 1976. Thứ Tư. Trại Suối Máu
ngùn ngụt hơi người tù binh, bốc lên trong nắng. Người tù nào cũng ở trần. Sau
buổi cơm trưa, ai nấy đều mệt mỏi. Họ lim dim mắt, ngái ngủ sau những giờ lên lớp
bị nhồi nhét bởi những con két biết nói tiếng người. Bổng nhiên, súng nổ. Tiếng
la hét. Chạy rần rần. Tù được lịnh vào nhà, đứng ngay chỗ mình ngủ, điểm danh.
Vậy là có người trốn rồi. Ai đây? Tại sao lại trốn vào lúc nầy? Bên ngoài dân
chúng trở cờ đang ùn ùn tiếp đón họ. Khí thế kẻ chiến thắng đang lên.
Hông còn ai bên ngoài hổ trợ mình thì làm sao trốn cho thoát? Đành rằng tù binh
được dịp là trốn. Nhưng lúc nầy hông phải là lúc để trốn.
Chừng một giờ sau, anh em biết được Thiếu Tá Trần văn Bé và
Thiếu Tá Phạm văn Tư ở K3 đã vượt ngục. Hai người đều là Khóa 19 VBĐL. Nhưng
súng đã nổ, chắc có người hông thoát được rồi. Anh Bé là Trưởng Phòng 2 Tiểu
Khu Định Tường. Chắc họ hông tha đâu. Và sau đó, một người chết và một người bị
bắt lại. Tin tức sốt dẽo ai cho biết? Làm gì trong tù hông có anh Ba?
Buổi sáng sớm ngày 10 tháng 04 năm 1976, anh Hòa, nhà trưởng
nhà 08, cùng với các nhà trưởng khác ở K3, được lịnh đi ra ngoài họp. Lối khoảng
gần trưa, có những tràng AK nổ dòn dã. Khi anh Hoà trở về, gom anh em lại, cho
biết họ đã xử bắn anh Bé. Gương mặt mọi người thẩn thờ, buồn bã. Con cọp nhe
răng đầy máu, dờn móng vuốt hù dọa trước khi ăn thịt con mồi. Tội nghiệp, hai
người tù bị điều về Quân Đoàn V quá tàn nhẫn và sớm sủa. Họ hông còn có dịp học
xong hết mười bài, để kịp biết mình có tội như thế nào, hòng mong “cách mạng”
khoan hồng được mau về sớm!? Mà nếu họ còn sống chắc cũng hông về được. Tội gì
mà “trời không dung, đất không tha” thì ở tù cho biết chừng nào ra, hở trời!
Ở trong tù riết rồi cũng muốn điên cái đầu. Tối ngày cái “ô bạc
lưa” (haut parleur) ré ré bài hát: “Bóng cây K’nia” với hai giọng hát miền
Trung và miền Bắc.Tiếng hát “opera” cao ngất ngưỡng, nhanh và mất lời của cô ca
sĩ “Cô gái vót chông” lần lần trở nên chát chúa. Dân miền Nam quen thưởng thức
giọng hát rõ lời, luyến láy.Nên hở ra khi nghe “cấy cớ nía, ớ lá cấy cớ nía”,
tù đều ré lên như tiếng gà lôi trống: “cà lốc cốc”. Cây K’Nia là cây gì mà xưng
tụng dữ vậy? Phùng Xuân hổng biết cây gì. Té ra rồi Xuân cũng biết. Cây K’Nia
là cây cầy. Trái giống như trái cốc, cũng chua nhưng xơ hông hè! Có rất nhiều ở
khu rừng Thiên nhiên trong Thánh Thất Cao Đài và trong rừng TâyNinh ( Mãi
về sau, hơn ba chục năm, Phùng Xuân biết hai giọng ca đó là của ca sỹ Tường Vi
và Măng thị Hội ).
Buổi sáng ngày 02 tháng 07 năm 1976, tù binh nhìn lên cột cờ
hàng ngày ở K3.Ủa! Đâu mất lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam rồi. Mọi ngày nó
vẫn vỗ phành phạch kia mà. Hôm nay nó mất tiêu rồi. Cờ đỏ sao vàng ngạo nghễ.
Giờ nầy chắc lá cờ Mặt Trận Giải Phóng ở nóc dinh Độc Lập cũng bay mất rồi. Và
cái tên Sài Gòn cũng hông còn nữa. Thôi thôi, tiêu vong đứa con hoang rồi. Bây
giờ, mầy đâu được ngồi cùng chiếu với bọn tao để giành phần. Tao bóp mũi cho mầy
chết hông kịp ngáp. Mấy người trí thức miền Nam ngu ngơ, khù khờ (?), háo danh
và mấy chàng sinh viên, học sinh… trốn vô “bưng”, tưởng VC là VM(?), đánh cho
“Mỹ cút, Ngụy nhào” để giành độc lập cho đất nước. Đâu biết rồi đây cái họa Cộng
Sản, cái họa kẻ thù phương Bắc, Tàu cộng siết cổ dân mình!
“Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma”(Kiều). Kỳ nầy bọn họ đi đứt,
hộc máu, tức cành hông ra mà chết. Mai mốt đây, chỉ ngồi chầu rìa thôi. Cho những
người dân Tây, chữ nghĩa cùng mình, hết còn mơ thiên đàng Cộng Sản. André Gide
cũng còn chào thua! Mà thiệt, VC còn xí gạt dân miền Tây nữa mà! Có người bạn
tù nói với Phùng Xuân: Ngày “giải phóng” thành phố CầnThơ, VC cho mở nhạc thời
kháng chiến chống Pháp: “Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta ra đi sơn hà nguy biến….”
“Và,Tiểu Đoàn 307…” “Bên hàng dừa cao, dòng sông mờ soi bóng…” vang rân đầu
đường xóm chợ. Người miền Tây sướng như điên. Việt Minh trở về rồi! Được mấy
ngày, tiếng hát tắt tịt, đổi qua giọng khác. Họ tiu nghĩu, xìu yểu. Dân miền
Nam xét đoán người khác theo cảm tính nên dễ bị lường gạt!(?)
Phùng Xuân ngồi buồn thui thủi một mình. Có còn ai ở kề bên
mà chuyện trò như thời còn ở đơn vị với Chúc. Vào đây mình biết nói với ai đây?
Hổng hiểu lúc nầy thằng Chúc nó đang ở trại giam nào. Hay là nó dọt đi được rồi?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn. Màu ngà ngà loang dại cùng quanh
trại. Vướng hàng rào kẽm gai, màu trăng nhạt nhòe vàng nhợt hôi mùi nước đái
khai ngấy. Chị Hằng khờ khệt, chập chùng chúi xuống trên con đường cát nhòe nhoẹt
mùi cứt cầu tiêu của đám tù binh. Hơi tù bốc lên, làm màu trăng chập chờn trên
mái tôn, phảng phất hồn trăng trong hơi lạnh của hai người tù vừa bị xử bắn.
Những đêm tối đen. Bầu trời đầy sao. Sông Ngân nằm dài trên bầu
trời. Đầu hôm là sao Hôm, rồi sao Cày dần dần lên cao, nằm ngất ngưỡng giữa dãy
Ngân Hà, cùng với chòm sao Vua. Tháng tám Sao Bọ Cạp vương hai càng khều khệu.
Trời gần về sáng, chòm Vệ Nữ ngủ mơ màng trong hơi sương lạnh với hạt ngọc sao
Mai long lánh.
Ôi! Vũ trụ mến yêu. Vũ trụ vô hạn, vĩnh hằng. Vũ trụ là
muôn năm trước, là muôn năm sau. Người là một tấm lòng bao la mở rộng. Ai mà cảm
thấy nhiều lo lắng, đau buồn. Đêm đêm, ngó lên trời cao, vũ trụ sẽ gột rửa mọi
ưu phiền.
Phùng Xuân ngước nhìn bầu trời đầy sao. Lòng nhẹ nhàng lâng
lâng. Sao đi rồi sao lại về. Cuộc đi về của bầu trời đầy sao đêm như là một giấc
ngủ bình thản của cuộc đời. Và rồi mình lại trở về như lúc ban đầu thôi. Nhưng
mà là khi nào? Hãy để lòng ngủ miên man trong vũ trụ bao la thì sẽ cảm nhận được
điều đó sao? Hãy bình tâm, coi mọi việc như có như không, chắc chắn mình sẽ vượt
qua được giai đoạn khó khăn nầy.
Thời gian trôi qua bao lâu rồi? Bị khép kín bốn hàng rào kẽm gai chung quanh, chàng hông biết được thời gian trôi đi như thế nào. Đầu hôm chỉ ngó sao Hôm là biết một đêm đến. Ngày chỉ ngắm mặt trời lặn là biết một ngày qua. Nhìn thấy được trăng rằm sáng vằng vặc là biết một tháng qua. Hôm nay, trăng non yếu ớt e thẹn như cô gái mới lớn thơm mùi lúa bồng bồng, nằm ngữa mình tắm trong sông sao. Mùng một lưỡi trai, mùng hai lá lúa, mùng ba lưỡi liềm, mùng bốn câu liêm… cứ thế mà biết được ngày qua tháng lại. Văng vẳng âm thanh “Bài Thánh Ca Buồn” của Nguyên Vũ nương theo gió chướng đưa vô trại. Trời trở lạnh. Chắc là Noel rồi. Một năm sắp trôi qua!
Trại tù A20 Xuân Phước, Đồng Xuân, Phú Khánh, ở sâu trong Mật Khu Đồng Bò. Nó là một liên trại: A, B, C, D, E, nhốt nhiều loại tù khác nhau, chạy tuốt vào dãy Trường Sơn. Từ ga LaHai vào trại hông có đường xe đưa khách, dài khoảng 15 km. Vợ con tù “Cải Tạo” muốn đi thăm nuôi phải lội bộ, lần theo con đường đất. Trong phân trại B có nhốt một nhóm tù sĩ quan cấp tá và các loại tù khác.
Tội nghiệp cho hai ông Đại Tá già, bận hai cái áo tù màu xám
lợt có in hai chữ cải tạo bự ở sau lưng đi lụm khụm. Ngày nào cũng như ngày nấy,
Đại Tá Ông văn Nghĩa và Nguyễn văn Hiền phải lui cui thò đầu vào sâu trong các
hầm cầu tiêu lấy ra các thùng cứt. Gặp thùng phân đặc thì đỡ khổ. Bữa nào anh
em ăn món nước mắm thúi bị ỉa chảy thì thùng cứt lỏng le. Anh em tù hông có giấy
để đi cầu. Có những người cẩn thận, cắt từng miếng vải nhỏ để chùi. Riết rồi hết
vải, chỉ có cách là rửa bằng nước. Mỗi buổi sáng, anh em tù đứng sắp hàng trước
cửa cầu tiêu. Người nào trên tay cũng cầm một ly hay lon nước hông phải để đánh
răng xúc miệng mà để rửa đít (!).
Hai ông già phải đi nhè nhẹ và chậm chạp, nếu hông cứt văng đổ
ướt quần áo. Nhưng khổ nỗi, hai ông già rồi nên phải đi khòm khòm, nên thùng cứt
càng lắc lư. Cứt và nước đái bắn ra tung tóe. Mùa hè thì khoẻ re. Hai ông cứ bận
quần áo dính cứt đái, nhảy ùm xuống suối, mặc sức tắm giặt. Mùa lạnh thì giặt
sơ sịa rồi lật đật đi lên. Vậy mà hai ông cụ cũng run bây bẩy như thằn lằn đứt
đuôi.
Từ chỗ lấy cứt, hai ông già khệ nệ khiêng thùng cứt ra cổng.
Đến cổng để thùng xuống, hai ông Đại Tá già bỏ nón ra, đứng nghiêm, la lớn lên,
báo cáo xin ra khỏi trại. La nhỏ là hông được, phải la lại. Hai ông già thay
phiên nhau, mỗi người la một ngày. Chớ nếu để một người la hoài, rát cổ họng,
khan tiếng.
Sau đó, họ thủng tha thủng thẳng khiêng đến chỗ khu rau xanh.
Một ông đi xuống suối múc nước để đổ đầy thùng. Ông còn lại lấy tay bóp bóp cho
cứt nát vụn ra. Ngày đầu tiên, ông Nghĩa lấy khúc cây thò vô để quậy cho nhừ. Một
cán bộ công an râu mép còn lông măng đi qua.
– Anh kia. Làm gì thế?
– Dạ. Báo cáo cán bộ pha cứt để tưới rau.
– Anh không được làm vậy, nghe chưa? Lấy tay bóp cho nó nát
nhừ vào. Anh lấy cây trộn không có năng suất, nghe chưa?
– Dạ. Báo cáo cán bộ. Nghe rõ.
– Hai anh báo cáo lại.
Hai tiếng nói cùng vang lên
– Dạ. Báo cáo cán bộ. Nghe rõ.
Thế là ngày nào, hai ông già cũng phải thay phiên nhau lấy
tay bóp cứt cho nát nhừ. Gặp thùng nào lỏng le thì đỡ khổ. Trúng thùng nào có đầy
cứt su, hai ông già hôm đó trúng mối. Bóp thật lâu, cứt mới tan.
Thùng cứt nát nhừ. Hai ông già lụi hụi lấy thùng nhỏ múc cứt
lỏng đổ tràn lên những luống rau muống vừa mới cắt. Cứ thế mà từng đám rau muống
tưới toàn cứt tươi thúi rùm nuôi tù năm nầy sang năm khác. Vậy mà có năm, trời
bão lụt. Hông có rau muống ăn, tù phải ăn đọt khoai mì luộc. Đọt khoai mì phải
luộc cho thật kỹ. Luộc sơ sơ là ăn bị say. Có khi chết. Tội nghiệp có một vài
trự hình sự đói quá, đào trộm, phủi sạch, nhai ngấu nga ngấu nghiến. Trúng loại
khoai mì H34. Chết thẳng cẳng vì có quá nhiều arsenic.
Rau muống cắt về, hông cần lặt sạch. Tù nhà bếp đem xốc nước
ào ào, rồi bỏ vô chảo đụn, nấu cho sôi. Xong chia cho tù ăn hàng ngày với mấy
lát khoai mì phơi khô nấu chín đen thui đen thít như cục cứt su. Có hôm, một
người tù ăn trúng phải vỏ khoai mì ở trong phân cứt nằm trong nhúm rau muống
chín. Nó la lên. Nhưng mà đâu có bỏ rau muống được. Bỏ là đói. Thôi ráng nuốt
cho qua con trăng nầy. Ráng nuốt để đợi đến ngày thanh tra, ngày Tết có được một
tẻo thịt heo đầy mỡ bằng ngón tay út. Thằng tù nào gan lắm mới dám nuốt liền,
vì hông biết mùi vị miếng thịt mỡ ngon cỡ nào!
Tù tắm là rộn ràng nhứt. Ngày mùa hè, hôm nào có đi “lao động”
bên ngoài, nếu là cán bộ dễ dãi sẽ dẫn tù đến suối. Khi có lịnh của trưởng toán
báo hôm nay cán bộ cho tắm. Tù lập tức bỏ cuốc xẻng, cổi quần áo. Tù truồng như
nhộng, ào ào tuôn xuống suối như bầy vịt, vẫy vùng trong dòng nước suối trong,
mặc sức mà kỳ cọ. Hô lên về. Tất cả vọt nhanh lên, hông lau chùi, mặc nguyên quần
áo vô. Đầu cổ tóc tai còn nước ướt chảy nhỏ giọt. Chỉ có toán “rau xanh”
là mặc sức tắm, mặc sức mà vùng vẫy trong dòng suối tuôn chảy ào ào, hì hụp
mò những con chem chép trong khe đá, len lén mấp mấp từng miếng thịt mềm mùm mụp
ngon ngọt.
Mỗi nhà có một hồ nước. Nhưng ít khi đầy. Nước bôm từ suối.
Ngày nào hông có đi lao động, tù tắm nước trong hồ. Tù canh. Nghe tiếng máy bơm
nổ xình xịch, tù biết có nước. Hô lên cái rần. Thế là cha con ào ra, đứng sát
thành hồ. Đủ thứ để múc: lon, thùng, tô, chén… Tù xối ào ào, hông kịp chà xà
bông (Mà đâu phải thằng tù nào cũng có xà bông). Thằng nào thằng nấy truồng
dòng dõng, cu dái lòng thòng, la hét, cười nói, đùa giỡn đả đời. Cũng có thằng
sợ thấy cu, mặc quần xà lỏn. Nhưng phải cho mau. Có tù chưa kịp xối tan hết xà
bông. Hết nước. Trên mình còn bột bèo trắng xóa.
Bữa ăn tù rất đơn giản. Chỉ có ba thau nhỏ gồm thau nước muối
cá, thau rau muống, thau khoai mì khô đen thui đen thít như cục cứt su của trẻ
con rặn hoài hổng ra hay khoai lang, tùy theo mùa. Hông có thau nào đầy, chỉ
lưng lưng mà chia cho tám người. Nên tù đói triền miên. Vào những ngày lễ lớn
hay Tết, tù được nghỉ một ngày, có được khoảng lưng lưng chén cơm và một miếng
thịt heo bầy nhầy bạc nhạt chút síu sùi siu, chừng một ngón tay cái. Đó là những
lúc huy hoàng trong tù. Thằng nào thằng nấy chắp chắp, mút mút. Có những thằng
kín đáo hơn, đem miếng thịt heo vào trong góc khuất, bần thần nhìn hồi lâu, nhớ
ông nhớ cha gì hổng biết.
Ở trước cửa trại có một hầm xi măng xây nổi lên trên, có mấy
tấm tôn đậy sơ sài. Muối và cá đổ chung nhau, pha thêm nước suối. Lúc mùa mưa
bão, nước mưa tràn vô hầm ngập đầy. Bây giờ nước muối bị pha loãng, cá ươn sình
lên. Nước muối thúi hoắc. Anh em tù phàn nàn. Mới đầu, viên Trung Úy trưởng trại
Phân Khu B bảo các anh là tù, các anh phải ăn như vậy. Hông có ý kiến.Các nhà
trưởng “phản ánh” lên trên nhiều lần mới được ăn nước muối trở lại.
Xuân nằm giữa hai ông già. Bữa nay hai bàn tay của hai bố sao
mà nghe mùi thum thủm hoài. Hôm nay trúng cứt tụi bây ăn gì mà ỉa ra cứng ngắc,
tụi tao bóp hoài hông nhuyễn. Đâu có xà bông thơm để hai ổng rửa tay cho hết
thúi. Đêm tối, hai ba nằm im lặng, ngẫm số phận mình.“Khi sao phong gấm
rũ là? Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? Mặt sao dày gió dạn sương?Thân
sao bướm chán ong chường bấy thân?”.( Kiều )
Ông Hiền ít khi nào thổ lộ chuyện mình. Ông Nghĩa, người Huế,
có vẻ thích nói chuyện với Xuân. Hai người dặn nhau là ai về trước tới báo cho
nhà biết. Nhà ông ở đường Trần Bình Trọng, bên hông nhà thờ Chợ Quán. Nói vậy
chớ biết khi nào về. Ở trại giam nầy quá kiên cố, tường xây 220, song cửa sắt lớn
bằng ngón chơn cái thì làm sao ra được? Ở giữa rừng núi trùng trùng điệp điệp,
muốn vượt ngục, phải có ý chí mạnh mẽ và sức khoẻ dồi dào.
Hơn nữa, VC đầy đọa tù binh cả thể xác lẫn tinh thần thì dễ rục
xương nhanh. Cả ngày đi “lao động” thiếu điều muốn ngắc ngư rồi mà tối nào về
cũng phải họp tổ, phê bình, kiểm điểm, bình bầu anh hùng thi đua, học tập gương
tốt. Rồi lâu lâu lại có màn học tập chánh trị. Nỗi ám ảnh người tù vẫn còn: thỉnh
thoảng vẫn lại phải ngồi thức, cắn răng viết lại bản tự khai. Ai có còn nhớ gần
sáu, bẩy năm về trước, hồi mới vô tù mình đã khai những gì hôn?
Trong phân trại cũng có những nhóm anh em thân tín hoạt động
bí mật, chia sẻ nhau những tin tức bên ngoài, sinh hoạt văn nghệ,
ra báo chuyền tay. Nhưng thỉnh thoảng bị “ăng ten” tố giác. Họ bị bắt, cùm xà
lim, “kiên giam”…
Hai ổng cũng đói lắm vì chưa thăm nuôi được. Nằm bên, Xuân
nghe hai ổng nói thèm đủ thứ. Ổng gặp một củ khoai mì đẹt rơi rớt dọc đường,
đưa mắt nhìn tới nhìn lui, hổng có ai. Ông già nhanh nhẩu cúi xuống, lượm lấy rồi
đưa tay phủi phủi bỏ mau vô miệng. Nhưng hông nhai được, nước miếng trào ra làm
hai hàm ổng cứng ngắc. Đừng nói đến cục đường, miếng thịt mỡ. Đó chỉ là nằm mơ
thôi. Cho nên tù nằm gần nhau hay nói về các món ăn cho đả thèm. Như thế là ăn
hàm thụ.
Ở tù nghe được nhiều món ăn lạ. Vì tù có bao giờ ở chung với
nhau có lâu đâu. Mai trại nầy, mốt trại khác. Bữa nay nhà nầy, bữa kia nhà
khác. Mỗi người lạ là kể một món ăn. Mỗi lần thay đổi là mỗi lần tù phải bày đủ
thứ gánh hàng xén nhỏ của mình để khám xét. Đây là dịp để mấy ông cán bộ lấy cớ
cướp của tù. Một con dao nhỏ có cán đẽo giũa thật đẹp, có khắc rồng rắn cũng bị
lấy. Một lon lò nhỏ, đốt bằng vải tẩm đèn cầy, đủ để nấu một ly nước sôi uống
trà cũng bị tich thu. Cái gì ông cán bộ thích là ổng lấy. Lại thêm mấy ông thần
nước mặn hình sự giữ trật tự xía vô kiếm chác. Riết rồi, tù chỉ còn mấy cái
chén nhựa là an toàn nhứt.
Cũng có những lúc thoải mái vào dịp lễ lớn. Tù được sắp hàng
xem chiếu bóng. Đó là lúc trông thấy được bóng dáng các “cán bộ gái”. Phùng
Xuân nghe nói, nhưng hổng biết có hay hông: có một vài cô cán bộ mê tù cải tạo
rồi giúp cho vượt ngục an toàn và cũng có thằng tù đẹp trai, còn “phong độ” lớ
quớ chộp được một mối tình(!) “cho không biếu không”, ọt ẹt chớp nhoáng
nơi rẫy bắp, bìa rừng…? Chỉ biết là có những khi đi “lao động”, qua khu
các cô thì các cô cũng nhìn bọn tù dữ lắm. Và nghe được toàn giọng của Lệ
Thu, Thanh Thúy… , hát những bài lúc trước năm 1975, vang rân trong
phòng.
Có một lần, nhà tù tổ chức đánh bóng chuyền giữa đội tù và đội
công an trại. Đội tù lựa ra toàn là những kiện tướng. Đội công an tưởng bở, chừng
như dễ sơi tái tù ốm đói. Đội tù đánh cho đội công an thua siểng niểng. Một
trái banh đập thật mạnh của bác sĩ Nhứt ở trại A qua lưới, đội công an hông đỡ
được. Được dịp, anh em đứng bên ngoài hò hét: “Đập đi!Đập thật mạnh cho chết nó
đi!”. Trả thù bằng miệng!
Trăng rằm. Trời đã khuya. Mọi người tù đã ngủ. Phùng Xuân nằm
sấp, rụt cổ như con rùa, nhìn ra sân qua những song sắt. Hông thể ngồi ngắm
trăng được. Thỉnh thoảng công an đi rỏn, ngó vô thấy mình ngồi chong ngóc nhìn
ra ngoài thì có chuyện. Sáng ra thế nào cũng bị làm kiểm điểm.
Ánh trăng hông còn lung linh nữa, chỉ là một màu xám xịt. Ngó
ra tòan thấy kẽm gai bao bọc chung quanh và những dãy nhà giăng giăng. Làm sao
ngẩng đầu lên thấy ánh trăng như sương sa và cúi đầu xuống nhớ quê nhà?“Cử đầu
vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương” như Lý Bạch, trong tư thế nằm giống như
con rùa? Ánh trăng như đám mây mù bao phủ những người tù.
Trăng suông trên cánh đồng Mỹ Nhiên đâu còn nữa. Trăng rừng
lung linh huyền ảo trong những đêm hành quân đã xa rồi. Trăng bàng bạc ngủ dài
trong căn cứ Trảng Lớn đã mất tiêu. Tất cả trôi đi thực mau. Có bao giờ trở lại?
Mọi sự biến đổi hông lường được. Có một bàn tay của Thượng Đế
sắp sẳn hay là sự chuyển dịch của không-thời gian? Thời còn đi dạy học, đã có một
vài lần Phùng Xuân liếc sơ qua những cuốn sách viết về “Kinh Dịch”. Nhưng thực
ra họ viết về Bói Dịch. Xuân khó hiểu thấu đáo thế nào là “Dịch”?
Người Việt từ thuở xa xưa, nơi vùng sông Hoàng Hà, hông tin
có Thượng Đế, chỉ tin vào sự biến đổi vũ trụ ảnh hưởng đến con người. Hở ra là
kêu ông Trời, rủa Trời, trách Trời, chớ nào có tôn thờ ông Trời? Vậy thì những
quẻ bói Dịch có còn đúng hôn?T ừ sướng đến khổ rồi từ khổ đến sướng. Tất cả có
phải là một vòng lẩn quẩn? Thế thì mình đang bị giam cầm khổ sở trong tù, chừng
nào mình được thả ra?
Có một vài người tù, do sự mặc khải của Thiên Chúa, đã được
linh mục trong trại tù làm phép rửa tội. Và sau đó, họ có được một niềm tin vững
vàng dựa vào Chúa. Họ hy vọng đến ngày mai tươi sáng.
Phùng Xuân suy nghĩ miên man. Bất chợt, hai chơn người ngừng lại đứng chắn trước khung cửa sắt. Công an đi rỏn canh đêm. Bóng trăng tự nhiên bị chẻ ra làm hai. Một vừng khối đen che lấp song cửa như hai bóng đen ma quỉ. Xuân rụt cổ, úp mặt xuống, hi hí mắt ngó lên. Hai khối đen sì. Màu trăng hông còn nữa, bị biến thành màu xám nơi sân thềm, đọng lại ở hai ống quần vàng ngóe…
Nhơn dịp bãi trường, bà Phùng Xuân xin được giấy phép phường
cấp. Lần theo những lời viết ẩn ý của chồng, bà đoán được chồng đang ở nơi nào
và làm thế nào để đi tới trại Xuân Phước. Đường đi thật gian nan. Xe đò hông
còn như trước. Bây giờ mọi thứ đều phải vô quốc doanh. Chủ và lơ xe coi hành
khách hổng ra gì. Và nỗi chầu chực mua được một cái vé xe thật là khổ nhục. Phải
đứng sắp hàng từ đêm hôm trước mới mua được cái vé xe cho ngày hôm nay. Xuống
ga La Hai từ sáng sớm, đi bộ lần theo con đường mà người ta chỉ vào trại Xuân
Phước.
Bà dẫn theo ba đứa con, lếch thếch lội bộ, đùm túm mang theo
đủ thứ cho chồng. Hai đứa con gái nhỏ đi theo hông kịp mẹ, chạy lúp xúp. Đồ
mang theo tới hai ba giỏ đệm, hông xách một lần được, bà phải đi theo kiểu chân
chim. Thằng Ken cũng phải quảy một giỏ đựng quần áo. Đồ ăn tom góp lại trong những
lần đứa con gái lớn đứng xếp hàng cả buổi mới mua được. Khoai lang xấy khô, mắm
ruốc kho đặc… Và mấy bánh thuốc rê là quí lắm rồi. Gần đến chiều tối mới tới
nơi. Hết giờ làm việc. Bốn mẹ con quây quần ngủ trong nhà tiếp khách trống bốc.Gió
thổi hù hù. Cả bốn mẹ con đều run sợ.
Cán bộ trại nhìn thằng Ken, rồi nhìn vô giấy tờ, lật đi lật lại,
lật lên lật xuống, lật qua lật lại. Bà Phùng Xuân sốt ruột, hông hiểu “ông công
an” làm gì mà săm soi giấy tờ lâu quá vậy. Bà sợ sệt. Đã có những lần bà trông
thấy các “ông cán bộ” cầm giấy ngược. Họ hông biết đọc. Hiệu Trưởng của trường
bà dạy đã từng đọc nước I- Răng thành nước Một- Răng. Ai nấy ngồi nghe, cười bể
bụng.
Hông hiểu ông nầy có đọc được hay hông? Bộ họ hông tính cho
thăm nuôi? Vì bà đi ra đây là đi đại, chớ hông có giấy cho thăm nuôi của trại.
-Cái thằng Mỹ lai kia là con của bà?
– Dạ. Nó là con nuôi của tôi. Tôi nuôi nó từ hồi nhỏ.
– Bà nuôi làm gì thứ đồ con đế quốc đó. Tôi không cho nó thăm
nuôi. Bà dẫn nó ra tuốt ngoài đường lộ, bỏ nó ngoài đó.
Bà Phùng Xuân ái ngại nhìn Ken. Biết hông thể năn nỉ được, bà
nói nhỏ nhẹ với nó. Rồi dắt con đi.
Hông có giấy phép của trại. Cán bộ công an nói “nhờ sự khoan
hồng của cách mạng” nên cho Xuân được gặp mặt vợ con. Nên thời gian thăm nuôi
đâu có bao lâu. Chỉ vỏn vẹn có 20 phút, đủ để vợ chồng nói về cuộc sống gia
đình. Hơn nữa người công an ngồi sát đầu bàn ghi ghi chép chép. Làm sao nói được
cái gì? Xuân ôm hun hai đứa con gái, hỏi vài câu. Thằng Ken ngồi tuốt ngoài đường,
liếc mắt nhìn vô, khóc thút tha thút thít. Xuân đưa tay vẫy vẫy, chào nó. Tội
nghiệp, mấy năm nay rồi, hông thấy mặt con. Hổng biết Loan đi đâu mất rồi. Mà
giờ nầy, nếu nàng có trở lại cũng hông biết đường đâu mà tìm.
– Anh làm cái gì đó? Liên lạc với thằng con đế quốc Mỹ của
anh hả? Tôi tuyên bố lần sau anh không được thăm nuôi.
Phùng Xuân ngước nhìn người công an, hổng nói một lời. Mà thực
ra Xuân cũng hông muốn vợ chàng thăm nuôi một lần nào nữa hết. Mỗi lần đi là
các con phải nhịn ăn đủ thứ để cho ba. Xuân nhìn thấy những món đồ so ra ngày
trước hông có gì đáng giá, nhưng lúc rày phải chạy đôn chạy đáo để kiếm tiềm
mua những món đó. Thịt, cá… bây giờ là thứ xa xỉ. Ở ngoài chỉ ăn độn với khoai
mì, khoai lang.
Đã hết giờ. Bà Phùng Xuân lui cui thu dọn những thứ gì cần
đưa cho chồng, dồn nhét thành một bao nhỏ. Xong rồi đứng nhìn chồng lủi thủi đi
vô trại.
Con đường về ga LaHai hun hút nắng trưa. Gần hơn mấy năm trời
nàng mới có dịp gặp lại người chồng thân yêu mà nàng ngỡ đã bị chết mất ở đâu rồi.
Ngày 01 tháng 05 năm 1975, hông thấy chồng trở về. Nàng thấp tha thấp thỏm mong
đợi từng giờ. Bặt tin tức. Bà nghĩ rằng chồng mình đã chết. Bà cùng người em
gái đến từng xác người lính nằm khắp nơi trên đoạn đường xa lộ Sài Gòn- Biên
Hoà. Hy vọng được thấy mặt chồng, nhưng hông có. Chết mất xác ở nơi nào? Làm
sao biết được. Bà hông nghĩ những người đồng đội của chồng cũng còn sống.Nhưng mấy
hôm sau, nàng được tin chồng bị bắt. Và rồi, hông biết ở đâu?
Cho đến khi được thư chồng, nàng vui mừng. Hông ngại đường sá
xa xôi và đường đi nước bước như thế nào, nàng liều mình đi để thăm chồng. Đâu
ngờ đường đi gian nan như thế nầy. Nàng lại còn cả gan dẫn ba đứa con nhỏ theo.
Đầu tiên, xin giấy nghỉ phép của nhà trường để đi thăm nuôi
chồng. Sau đó, cầm giấy nghỉ phép và hộ khẩu đem ra phường để xin giấy chứng nhận
đi đường, đồng thời xin phường yêu cầu trại cho được thăm nuôi. Rồi tiếp đến, đứng
chờ chực để mua được vé xe lửa đi Nha Trang đến Chí Thạnh-La Hai. Mấy mẹ con ngủ
vật vờ vật vưởng trên xe lửa, bo bo giữ mấy giỏ đồ ăn sợ bị mất. Sau năm 1975,
xe lửa chạy tuyến đường Bắc Nam đông nghẹt người đi nên trộm cắp lộng hành hông
ai kiểm soát nổi.
Nàng cố gắng đi để được gặp chồng vì hông hiểu chừng nào chồng về. Nàng nghe người ta nói là khi nào “học tập tốt” thì được về. Mà biết thế nào là “học tập tốt”. Phùng Xuân cũng hông thể nói cho nàng chừng nào học tập tốt. Thời gian là bao lâu? Năm năm, mười năm, mười lăm năm ai mà biết được? Nhưng từ cuối năm 1981, 82 có một số người được thả về. Có người được về thì thế nào lần lượt cũng đến phiên mình. Có biến chuyển thì làm gì mà hông có thay đổi?
PHẦN CUỐI
Phùng Xuân đứng trước nhà. Chàng lấy tay đẩy mạnh cửa cổng.
Ván đóng xiêu vẹo, nhiều miếng mục sút ra. Lá mận rụng đầy sân. Cửa nhà bỏ trống.
Chàng bước vô nhà. Nền gạch bông hông còn nữa, bị cạy bung lên, trơ ra những dề
xi măng loang lỗ. Ghế ngồi gãy chơn, ngã chổng gộng. Cửa tủ sách sút bản lề
bung ra. Sách trong tủ nằm lọn chọn, mất bìa ngã tứ tung. Quần áo bày tùm lum
trên bàn, góc giường. Một con gà mái, đang chui rúc trong đống mùng mềm, thấy
bóng Xuân đi vô, vội vàng tung cánh bay lên, kêu quang quác rồi cục tát vang
nhà.
Đứa con gái chạy lên, trố mắt nhìn cha mình tưởng như người
xa lạ từ đâu tới với bộ quần áo xám.
– Em đâu rồi con?
Tới chừng đó, đứa con gái mới biết là Ba mình ở tù về, nhưng
hơi ngỡ ngàng với hai chữ “CẢI TẠO” ở sau lưng. Lối xóm hay được chạy tới hỏi
thăm. Và đứa con nhỏ từ đâu ù về nhìn người tù đã biệt tăm từ lúc nó còn bé. Nó
nhìn Ba nó, miệng cười chúm chím. Nó hông rõ mặt Ba nó vì lúc đi thăm nuôi, nó
còn nhỏ. Hơn nữa 20 phút gặp mặt làm sao nó nhớ nỗi ông tù đó…
Xuân đi xuống nhà dưới. Con heo đang ủn ỉn ủi từng miếng xi
măng bể bung lên. Nó quậy qua quậy lại rồi nằm ịch xuống trong đám bùn lầy lội.
Chén bát để xô bồ xô bộn, chưa kịp rửa. Vòng ra bên nhà, bầy gà nhảy nhót
trên cành cây táo, cục tát om sòm.
– Chừng nào mẹ và anh Ken về.
– Con hổng biết. Tối lắm mẹ mới về.
Sau giờ dạy học, bà Xuân còn phải chạy vạy đổi bán đủ thứ mới
bù đấp nuôi nổi ba người con. Đồng lương “dứt cháo” sau năm 1975 hông nuôi được
một người chớ đừng nói chi tới hai. Đã vậy lâu lâu còn phải bỏ dạy đi làm “công
tác thủy lợi”, xẻ kinh để “nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa” biến “sỏi
đá thành cơm”. Cơm đâu hổng thấy, chỉ thấy ăn độn, ăn bo bo. Mẹ con đói rã họng.
Tháng 04 năm 1975, Ken đang học lớp ba. Sau khi “giải phóng”,
nhà trường “xã hội chủ nghĩa” có nhiều thay đổi. Học trò được xếp theo nhiều
“diện”. Thành phần con “Mỹ-Ngụy” và thành phần “con lai đế quốc Mỹ” được
xếp hạng chót, hông có quyền lợi gì hết.
Học được một năm, thằng Ken hông muốn đi học nữa. Mới đầu, bà
Xuân đưa nó đến trường. Hiệu trưởng xếp nó vào “diện con lai đế quốc Mỹ”, hông
được ưu tiên, nhưng nhờ “cách mạng khoan hồng, chiếu cố” nên cũng tạm thời xét
nhận. Nhưng nó có học được đâu. Học trò trong trường lêu lêu nó là con “đế quốc”,
hông chơi với nó. Hồi trước năm 1975 đâu có cái trò đó. Cũng tại chế độ mới
nhìn nó với con mắt tội phạm nên xã hội ruồng bỏ nó.
Nó học cũng khá giỏi nhưng hông được giấy khen, hông được đeo
khăn quàng đỏ. Nó buồn, bỏ học. Bà Xuân năn nỉ hoài nó hông chịu tới trường.
Đâu muốn để con mình dốt, nhưng bà biết làm sao bây giờ. Con lai bao giờ cũng bị
“đối xử phân biệt” Hở miệng ra là: “ Ê!thằng con đế quốc”. Rồi cuối cùng, bà
Xuân cho nó đi học vá xe được hơn tháng. Xong bà tìm mua cho nó bộ đồ vá xe đạp.
Ngày ngày sáng ra, nó bày đồ nghề ở đầu ngõ, gõ lộc cộc được ít hôm. Đám con
nít ngày nào cũng tới phá, chọc ghẹo nó.Có hôm có đứa nghịch ngợm liệng một bịch
cứt vào chỗ nó làm. Nó nhịn hổng được nên xảy ra đánh lộn. Công an khu vực xử
ép nó, nó khóc. Biết cho nó làm cái gì bây giờ? Đi bán vé số? Nó sẽ lang thang
tối ngày đầu đường xó chợ cùng đám du thủ du thực bắt chước nhiều tính xấu. Bà
hông đành để con như vậy dù nó là con nuôi. Thằng Ken coi chớ hiền tánh, hông như
người ta tưởng. Bà nuôi dạy nó từ nhỏ, bà biết tánh nó nên bà rất thương nó. Nhờ
người quen, bà xin được cho nó chạy xe ba gác phụ giao xi măng, tôn… ở tiệm bán
đồ xây dựng.
Buổi cơm sum họp chỉ là trứng và rau lang luộc. Và là bữa ăn
ngon miệng nhứt của Xuân từ mấy năm nay. Có đủ mùi vị của nước mắm, của cơm dù
là cơm độn.“Gạo tổ” đầy bông cỏ được cấp phát hông đủ ăn phải mua thêm ở ngoài.
Lúc trước có khi độn thêm củ mì và khoai lang. Bây giờ vẫn còn “ngăn sông”.
Hàng hóa hông được đem đi từ tỉnh nầy sang tỉnh khác. Tệ nạn buôn bán chui đầy
dẫy. Quản lý thị trường mặc sức mà bắt bớ. Và lẽ tất nhiên, đút lót xảy ra. Lần
lần VC học được nhiều thói xấu của một xã hội quản lý kém hiệu quả.
– Anh Lang! Đi bán cá dạo hả?
– Ông thầy! Lâu rồi hông gặp. Ra tù hồi nào vậy ông thầy? Tui
ở tù lớn. Ông thầy ở tù nhỏ. Ông thầy thấy đó. Tui bị mất một chơn. Hồi trước
1975 có tiền phụ cấp. Tui sống cũng khoẻ. Sáng còn có cà phê cà pháo. Mấy “anh
ba giải phóng” vô. Tui mất hết trơn hết trọi, hông còn đồng ten nào. Buổi sáng,
thậm chí kiếm hổng được một ly xây chừng, chớ đừng nói đến một cái ca phé nại.
Lúc đầu, tui đi thồ than từ Bình Dương về bán lại. Cũng kiếm được chút cháo.
Nhưng mà bị bắt hoài, riết rồi mất vốn. Xoay qua thồ lu. Mỗi lần đi hai cái, lời
được một cái. Nhưng rồi cũng hông xong. Bị bắt quá. Bỏ nghề. Bây giờ đi bán cá
phụ bà xã mới nuôi được đám con. Tụi nó bị bắt đi làm thủy lợi hoài ông thầy
ơi. Hổng biết xẻ kinh làm cái giống cha gì mà mười năm nay vẫn cứ đói nhăn
răng.
– Còn Ni đâu?
– Nó với tui đánh trận Chà Rày, vùng Tam Giác Sắt. Hai thằng
hăng quá, bị mìn. Nó tan xác.Tui mất một chơn. Khi tỉnh dậy ở Cọng Hoà, biết nó
chết, tui khóc cả buổi. Tội nghiệp. Hai thằng sống chết có nhau. Lúc ông thầy
đi rồi, tụi tui lang bang. Thằng Ni nó nói ông thầy đi sao hổng kéo tụi mình
theo?
– Tui đi qua bên chỗ khác. Đâu kéo hai anh đi theo được. Nói
thiệt, thời tui làm trung đội trưởng và đại đội trưởng là cái thời tui thích nhứt.
Tụi mình được gần gủi sát bên nhau, chia sẽ ngọt bùi nhiều hơn. Sống gần được
anh em, tui biết tính tình từng thằng một.
– Biết tụi em quá nên ông thầy nhốt chuồng cọp hoài!
– Lúc đó mấy anh say xỉn quá thì phải nhốt cho đỡ quậy, chớ nếu
hông, mấy cha phá làng phá xóm ai mà chịu nổi.
– Nghĩ vậy chớ hồi còn trẻ, coi mà vui hén ông thầy! À, mà
ông thầy còn nhớ cô Xuân Hồng hôn?
– Cô Xuân Hồng nào?
– Ông thầy mau quên. Bồ của ông thầy ở quán ba cô Tư Hà đó.
Đêm mà tụi em quậy ở đó.Ông thầy xuống rồi ông thầy rước cổ dià đó.
– Ờ ờ. Cổ tên là Loan. Bạn cũ. Sao?
– Ủa. Vậy chớ ông thầy hổng biết hả? Cổ đi về BếnTre thăm ba
má cổ, bị mìn VC chết rồi.
– Sao anh biết? Chắc hôn? Hồi nào?
– Sau khi hành quân ở Hát Dịch về, tụi em tới quán nhậu, mấy
con nhỏ làm ở đó nói.
– Hôm nào tui với anh đi thăm vợ con anh Ni. Gia đình nó sống
có đỡ hôn?
– Đỡ gì ông thầy ơi. Bả sống dở chết dở với mấy “ông cách mạng”.Mới
đầu nghe lời ngon ngọt mấy ông nội đó, bả bỏ nhà ở Cầu Sơn, ngã ba Hàng Xanh,
đi vùng kinh tế mới. Ở một thời gian chịu hổng thấu, đói lên đói xuống xính
vính. Mẹ con đùm túm dắt nhau về. Nhà bị mấy anh ba vô chiếm. Thưa gởi lên phường
lình xình cả năm trời mới lấy lại được nhà. Bây giờ, bả bán cá ngoài chợ với đứa
con gái lớn như con vợ tui. Còn mấy thằng con trai, có đứa chạy ba gác, có đứa
vác đồ mướn ở chợ Bà Chiểu.
– Tội nghiệp. Con đông quá làm sao nuôi nổi. Tui nhớ hồi đó,
sau khi anh và Ni có hai con rồi, bà xã mấy anh hông còn đi theo nữa. Tui cũng
ít cho các anh đi phép mà sao bây giờ có cả bầy vậy?
– Thì tụi em dù. Ông thầy đâu có biết. Vừa hành quân về, bỏ
ba lô súng đạn, đeo xe đò Nam Thành về Sài Gòn rồi sáng lên sớm. Vợ lính mắn đẻ
lắm ông thầy ơi. Rờ đụng giường là nó có bầu rồi! Ở ngoài đơn vị, nhậu nhẹt say
sưa, phá làng phá xóm chớ cũng trung thành với bà xã tụi em lắm chớ bộ.
– Ủa? Chớ hồi đó mấy anh nói mấy anh rành mấy ổ đĩ lắm mà! Hổng
nhớ là tui hỏi mấy chỗ đó ở đâu, mấy anh nói ở chỗ đó đó. Mấy anh còn nói: L… lạ
bằng một tạ vàng, và dạy tui những câu rượu nói trời ơi đất hỡi!
– Tụi em xạo với ông thầy chơi vậy mà. Thằng Ni nó nói với em
ổng hỏi vậy chớ có đời nào ổng mò tới đó đâu. Tướng ổng hiền tổ mẹ! À, ông thầy
lấy ít cá về ăn. Ông thầy coi bộ còn te tua hơn em nữa. Đi ở tù có lâu hông? Có
mấy ông đi lâu, bà xã ở nhà đi lấy chồng khác.
– Lấy chồng khác lo làm ăn nuôi con cái thì có sao đâu. Chớ
đi tù VC biết chừng nào mà về. Tui hông lấy cá của anh đâu. Anh đã nghèo,
đông con tui lấy sao đành. Bà xã tui đi dạy học cũng có chút đỉnh.
– Nói như ông thầy nghe cũng được đi. Nhưng mà đàng nầy bả lấy
chồng cán bộ, bộ đội. Rồi ông đó đi tù về bị bả đì xất bất xang bang. Bả tố cáo
nào là ổng còn âm mưu “phản cách mạng”, lấy hình Hồ Chí Minh đem xuống xỏ đui
hai con mắt, đêm đêm nghe đài VOA, BBC… Ổng chạy xe ba gác bị làm khó làm dễ, bị
phạt liên miên. Rút cuộc bỏ xứ mà đi hay vượt biên, hổng biết nữa? Mà giáo chức
bây giờ là “dứt cháo”, có cái gì đâu mà ăn ông thầy.
– Thì cũng có.“Nhu yếu phẩm” chia ở trường phần nhiều là loại
hông tốt. Có người hổng ăn, bán rẻ lại, bả mua về ăn cũng được. Nếu coi đi coi
lại, có thể bán được thì đem bán kiếm lời.
Lúc mới về, vợ tui đã nuôi hai con heo. Ngày ngày bỏ mấy
cái thùng nhỏ ở chỗ bán hủ tiếu, phở. Họ đổ nước cặn thừa vô đó. Tui đem về nấu
với cám hoặc bí rợ vụn cho mấy con trư ăn.Nhờ đó tui có số tiền để xoay qua làm
nghề khác.
Xập tiệm rồi đâu có gì, chỉ còn hai bàn tay trắng. Thằng Bé,
công an khu vực, bước vào nhà tui, đi từ trước ra sau thấy trống bốc. Nó nhìn
lên mái tôn giống như cái rổ quảo. Nó nói nhà “ Thiếu Tá Ngụy” sao mà nghèo tổ
mẹ. Vậy mà nó còn hành tui. Cứ hai ba hôm, khoảng một hai giờ khuya, vợ chồng
con cái đang ngủ ngon giấc, nó cùng mấy thằng phường đội, gõ cửa rầm rầm, ào vô
xét nhà, tự do đi từ trên xuống dưới, vạch mùng, ngó kẹt tủ. Mình thì hông sao,
đã quen cái cảnh đó rồi. Chỉ tội mấy đứa con, đang ngủ mơ mơ màng màng, hoảng hốt
giựt mình thức dậy, ngó quanh ngó quất hổng biết chuyện gì.
Bây giờ, mình chưa phải là công dân nữa. Mình đâu có phải là
dân đá cá lăn dưa, đứng đầu cầu thổi ống tiêu đâu mà họ coi mình như là đồ rác
rưới trong cái xã hội nầy. Họ có quyền dày xéo, mạt sát mình thậm tệ. Đến nỗi,
một thằng công an còn con nít, mặt búng ra sữa, uống một vài chai lade Sài Gòn,
gặp tui, chỉ vào mặt, hét lên:“ Ê, mầy là thằng Thiếu Tá Ngụy hả mậy!”. Anh coi
có được hôn? Tui giận run lên. Xém chút xíu là tui ăn thua đủ với nó rồi. Nhưng
nghĩ lại còn vợ con tui, nên tui nắm chặt hai bàn tay, nén giận. Suy cho cùng
cũng hông phải tại nó. Tại cái chế độ VC thối tha sản sinh ra những con người
vô đạo đức.
Tui thương vợ tui. Vợ của một người lính chiến, luôn luôn sống
xa nhà, hông bao giờ biết được đời sống người lính ở đơn vị chiến đấu như thế
nào. Anh cũng đã thấy đó, thời gian tui ở đơn vị với các anh, ít có khi nào anh
gặp vợ tui ra thăm tui. Thảng hoặc chỉ có kỳ nghỉ hè, bả ra thăm tui một vài bữa,
rồi lại phải trở về lo dạy thêm.
Có khi gặp xui, vợ lính ra thăm chồng bị VC đột kích. Cô vợ bị
trúng đạn chết. Như vợ của thằng bạn tui tên Nguyễn Bá Lai.Vợ nó ra thăm nó ở
LongĐiền, Bà Rịa. Bị VC tấn công bất thình lình lúc gần sáng. Cô vợ đâu biết
nhào ra hố cá nhân, nên bị tử thương.Anh thấy mấy bà vợ lính khổ sở chưa?
Tui đi lính, hông biết việc nhà như thế nào, chỉ một mình bả
lo quán xuyến nhà cửa. Còn bả cũng chẳng biết việc nhà binh như thế nào? Cấp bậc
lính tráng ra sao, bả bù trất. Tối ngày, tui ở ngoài đơn vị chỉ lo hành quân.
Bù đắp vào chỗ trống là cùng mấy thằng làm sương sương vài ba chung đế hay rượu
nếp than với khô mực cho hết ngày. Đôi khi có mấy thằng phát chứng: đánh phé. Rồi
còn còn tệ hơn, có thằng phản bội vợ nhà: hoang đàng đĩ điếm hay cặp bồ cặp
bịch với các cô gái trẻ… mê lính chiến trận? Anh cũng như tui. Nghĩ lại mình
thương vợ mình trong thời gian đó quá, phải hôn anh? Thành thử, mình đi ở tù, vợ
nhà có bỏ mình đi lấy chồng khác thì cũng là đáng cái đời mình. Trách họ làm
chi!
– Ông thầy còn khổ hơn tui. Tui chỉ đi “học tập tại chỗ có ba
ngày” rồi về sống với vợ con. Lúc ông thầy đi ở tù, ở ngoài nầy, tui cũng có
nghe phong phanh mấy ổng tuyên bố là: “nhà chúng nó chúng ta ở, vợ chúng nó
chúng ta lấy, con cái chúng nó chúng ta sai, còn bản thân chúng nó chúng ta đày
lên rừng sâu nước độc cho chúng nó chết lần chết mòn.”
– Có thiệt vậy à? Sao anh biết nhiều dữ vậy?
– Nghe nói có chiến dịch “Hoa Hồng gì đó để dụ dỗ mấy bà vợ mấy
ông thầy bỏ chồng lấy cán bộ.” đó ông thầy. Ờ! Tui biết nhiều là nhờ lúc thồ
than và lu. Tui gặp mấy ông sĩ quan đi tù về cũng thồ lu và than như tui. Gặp
nhau, bàn tới bàn lui đủ thứ chuyện của mấy anh ba nầy, nên ai cũng biết ráo trọi.
– Tui hông biết chiến dịch đó. Nhưng trong số bạn bè của tui,
có nhiều người bị vợ bỏ lấy chồng cán bộ.
– Tui là lính trơn nên cũng đỡ hơn ông thầy, nhưng cũng hông
thoát cảnh đói meo. Mấy ổng làm cho đời sống dân chúng vô cùng khốn đốn.
– Anh đã vậy. Tui chắc vợ con tui ở nhà còn tệ hơn. Tui về thấy
bả cạy gạch bông bán, sợ tụi nó lấy nhà. Hông có tiền mua xăng, mua vỏ xe. Rồi
chiếc HonDa cũng bán. Ôi thôi, cái gì bả bán được là bán.
Lại thêm cái tệ nữa là tủ sách nhà tui. Hổng biết mấy thằng
ôn dịch “đả đảo văn hóa đồi trụy”có biết tiếng Anh tiếng U gì hổng biết mà tụi
nó vô nhà tui, tụi nó bươi mấy cuốn sách vạn vật có hình người trần trụi đem ra
đốt mẹ nó hết. Rút cuộc vợ tui hoảng quá đem sách nhúm lửa hết trơn.
– Nhà cửa ông thầy vậy. Chớ sau “giải phóng”, mấy thằng chả ở
trong rừng về ùn ùn kéo lên Sài Gòn lo chiếm mấy căn nhà của mấy người di tản
chạy bỏ lại. Nhiều nhà ngon lắm đó ông thầy! À, ông thầy, tui nghe nói có
chương trình Mỹ sẽ rước hết tù cải tạo, hông hiểu có vậy hôn ông thầy? Nếu có
đi qua Mỹ, ông thầy đừng quên em út nhen ông thầy!
Cái nhà lụp xụp của Ngô Ngọc Lang ở sâu tuốt trong hẽm của đường An Dương Vương. Từ đầu ngã ba Mũi Tàu, chạy xe đạp vô, gặp cái chợ chòm hổm đông đúc. Phùng Xuân hỏi thăm lần hồi, quanh đi quẹo lại hai ba cái “suỵt”, rồi tới một cái vũng đầy sình rác mới đến nhà sàn của “thằng lính quậy”. Nó đứng trước cửa đợi từ lúc nào. Xuân cẩn thận bước nhè nhẹ trên những miếng ván thông cũ. Cái nhà trống bốc, hông có vách ngăn. Quần áo, mùng mền, chiếu gối để bừa bãi, mỗi nơi một cái. Hai ba đứa còn nhỏ nheo nhóc ngồi trơ mắt ra nhìn Xuân. Bây giờ hông còn lade la diếc gì hết. Hai thầy trò ngồi nhâm nhi hai ly trà nước đỏ đậm lạt nhách lạt nhơ, mơ màng nghĩ ngợi…
Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 khoảng vài tháng, toàn bộ
gia đình ông Sáu Xe dời lên Sài Gòn. Năm Lân lúc trước là cán bộ nội thành, còn
bây giờ là ủy viên văn hóa của thành phố Hồ Chí Minh. Sáu Trân lúc trước hông
hiểu học y tá từ lúc nào, bây giờ đang “học chuyên tu” để trở thành y sĩ. Sau
khi trở thành y sĩ, nàng hy vọng học thêm một lớp “chuyên tu” khác thì sẽ được
cấp bằng bác sĩ? Năm Lân được cấp phát cho một “căn hộ” rộng ở đường Phan Thanh
Giản đủ chỗ ở cho cả gia đình. Sau khi “giải phóng”, nhà cửa bị bỏ trống rất
nhiều. Phần đông là nhà của những gia đình di tản, và sau nầy vượt biên hay đi
vùng kinh tế mới, nên Đảng và Nhà Nước “nghiệm thu” những căn nhà đó cho cán bộ
có công với “cách mạng”. Sáu Trân cũng vậy, nàng có một căn nhà ở đường Tô Hiến
Thành.
Phùng Xuân đang đạp xe lang thang ở khu chợ Trương Minh Giảng.
Mấy ngày hôm nay, chàng mong gặp được các thằng bạn cũ để hỏi có thêm việc gì
làm khá hơn hông?
– Vân! Em đang làm gì ở đây?
Vân đứng im lặng, đang tính quay xe HonDa, nhưng bị Phùng
Xuân chặn ngay đầu xe gắn máy, nên nàng hông lui được. Cũng giống như những người
cán bộ VC, họ hông muốn “liên hệ” những bạn bè, bà con có dính líu tới chế độ
“Mỹ-Ngụy”. Bây giờ họ là thành phần cách mạng tiến bộ nên hông muốn chơi và gặp
mặt bà con thân thuộc dính líu tới “Mỹ Ngụy”. “Mỹ Ngụy” bây giờ như bọn phong
cùi, ghẻ lỡ, nên tránh xa. Vợ Ngụy hông xài. Con Ngụy hông được đi nghĩa vụ
quân sự… Chị hai của Phùng Xuân đã nói với chàng rằng: “ Cơ khổ, Sáu Quảng và
Năm Khuỷnh hể thấy bóng dáng mình là tụi nó làm ngơ đi tuốt luốt hoặc ngó chỗ
khác. Còn giỗ quảy mình mời tụi nó. Mấy thằng mắc dịch đó có bao giờ tới đâu. Kẹt
con tao dính mác Mỹ-Ngụy hông được lên lớp 10, nên tao mới hạ mình cầu cạnh nó
để xin cho con nhỏ được đi học nữa. Sáu Quảng bây giờ làm lớn lắm. Trưởng
Ty Thông Tin Văn hoá ở Tỉnh Bến Tre đó mầy. Chỉ cần nó viết mấy chữ trên tờ giấy
nhỏ đưa tao cầm về cho ông Hiệu Trưởng trường huyện Giồng Trôm là con nhỏ được
lên lớp 10 liền”.
Phùng Xuân chưa bao giờ gặp mặt mấy người đó. Có đi ra khỏi
Sài Gòn được đâu. Từ lúc đi ở tù về, ba ngày Xuân phải cầm sổ ra trình diện phường
một lần. Mỗi tuần Xuân cùng toán dân phòng thay phiên nhau canh gác đêm trong khu
vực phường. “Anh chưa có quyền công dân. Anh ráng làm tốt.“ Cách mạng” sẽ cho
anh mau được phục hồi quyền công dân ”. Mình có bán nước đâu mà mất quyền
công dân?
– Tui đang đi chợ, tính mua vài thứ lặt vặt. Anh tránh cho
tui đi để người ta ngó coi kỳ lắm.
Xuân biết cô ta trả lời nhát gừng nên hông buồn hỏi thêm.
Xuân biết thân phận mình.Và chàng hông nhắc gì đến chuyện ngày xưa. Chuyện của
Xuân và Vân ở cánh đồng Mỹ Nhiên giờ đã xa lơ xa lắc rồi. Nhắc mà làm gì? Nhắc
để ăn bòn lại mối tình sôi nổi của một thời trai trẻ bồng bột mà người đối diện
hiện đang ở một giai cấp khác. Một giai cấp thắng cuộc chiến nầy. Xuân ráng xuống
nước vì chàng cần biết về Khanh.
– Em cho anh biết Khanh hiện giờ ở đâu?
– Hai vợ chồng chị Năm tui đang ở Mỹ Tho.
– Làm gì ở dưới? Sao hổng về trên nầy có việc tốt hơn hôn?
– Ở dưới làm trưởng phòng thương nghiệp, có sướng hơn hông?
Thôi tui đi nhen.
Vân vọt nhanh như chớp, sợ Xuân níu kéo lại, hỏi nơi Vân ở?
Xuân ngao ngán thở dài. Con người gì mà trở quẻ mau thế. Mới ngày nào, dưới
ánh trăng suông, toan tính nhiều thứ, vậy mà bây giờ quên mất hết.
Chỉ còn có Loan. Hông hiểu anh Lang nói vậy mà có đúng hôn? Bây giờ làm sao về
Bến Tre?Thế nào cũng phải dẫn thằng Ken về Cái Bông…
Con đường Sài Gòn- Bến Tre, khoảng 90 km.Từ Bến Tre về Cái
Bông độ 20 km. Tất cả là 110km. Phùng Xuân nhẩm tính làm thế nào đạp xe đi từ
khuya thì mình mới có hy vọng đến Cái Bông giữa trưa.
Từ bốn giờ sáng hai cha con đã đèo nhau đi.Trời còn tối. Sao
đầy như những viên ngọc trai. Chòm Venus nằm ngã nghiêng khêu gợi giữa bầu trời.
Thằng Ken còn trẻ, khỏe nên hai chơn nó đạp lia lịa. Xe đi
vùn vụt trong đêm tối. Thỉnh thoảng vài chiếc xe đò ngược chiều, pha đèn sáng
trưng. Ken hông thấy đường, vội tắp sát vô lề có đá lổm chổm. Hai cha con suýt té.
Đạp xe đường khuya thiệt nguy hiểm. Phùng Xuân cũng biết vậy. Nhưng, đi xe đò,
hai cha con đi về hông kịp trong hai ngày. Xuân lên xin phép về quê thăm gia
đình. Suy nghĩ như thế nào, chủ tịch phường Nguyễn văn Sương cho được từng ấy
ngày. Ráng mà đi cho kịp. Phùng Xuân còn tính lúc về ghé qua Vang Quới tìm gặp
dì chín Mạo và thăm thằng Thương.
Tiền đâu có nhiều để đi xe đò. Hơn nữa đi xe đò chầu chực mua
vé lâu lắm. Còn vé chợ đen thì hông mua nổi cho hai cha con. Thời gian mua vé
xe bằng thời gian mình đạp xe qua khỏi Long An.
Đoạn đường Bến Tre về Cái Bông là đoạn đường gian nan. Đã hơn
mười mấy năm rồi mà đường sá vẫn còn bệ rạc, chưa sửa được một đoạn nào hết. Chỉ
đổ toàn đất đỏ lên, vá víu tạm bợ, nên mỗi lần xe đò chạy qua là bụi hồng bay
mù mịt. Quần áo, đầu cổ của hai cha con như bị nhuộm phẩm đỏ. Phải mất một thời
gian để phủi, để khịt khẹt cho ra hết màu bột đỏ đóng đầy hai lỗ mũi. Mà đâu phải
chỉ có xe đò. Xe lôi, xe gắn máy cũng tạo nên vầng mây đỏ phủ kín con đường. Ở
những khu có vườn tược hay cây cối, hai cha con dễ núp hơn. Còn gặp đoạn đường
trống ngoài đồng ruộng thì hông thể tránh né vào đâu được. Cho nên đến gần trưa
khi họ đến Cái Bông, quần áo và mình mẫy giống như hai con gà xước vùi mình
trong cát.
Phùng Xuân đứng nhìn vào khoảng đồng không mông quạnh giữa
trưa nắng chang chang. Một thời yêu đương nông nỗi và bồng bột của tuổi trẻ đi
qua. Phùng Xuân nhớ lại từng cử chỉ, lời nói đối đáp của con Tư Én còn quê mùa,
cục mịch. Con Lon còn thơm mùi rơm rạ, nắng khét của đồng trũng ngập nước. Lời
đối đáp bốp chát lúc Xuân giúp cổ thay đồ khi cổ bị bịnh sau cây mưa dông trong
đêm khuya. Và những lời tình tự ngây thơ của cô gái đồng quê vừa mới lớn lên đã
thương bồng bột chàng trai học sinh thành thị. Loan đã cho Xuân thứ quí nhứt
trong đời mà hông nuối tiếc. Trong thời gian ở đồng Mỹ Nhiên, cả ba người con
gái phút chốc đi qua đời Xuân, có lẽ Loan yêu Xuân nhiều nhứt. Và có phải như vậy
hôn? Và nếu Loan hông có bầu, nếu Loan hông rời xa ngôi làng nầy, nàng cũng sẽ
bị cuốn hút vô vòng xoáy của chiến tranh. Nàng cũng sẽ trở thành một cô du kích
VC. Và nàng cũng sẽ quên Xuân như Khanh và Vân vậy thôi. Có phải hôn? Phùng
Xuân hông hiểu được?
Cái vòng xoay vần của thiên nhiên như là một điều bí ẩn hông
ai có thể cắt nghĩa được. Đâu có ai nhìn thấy được tương lai và đâu có ai kéo
ngược quá khứ. Và cũng hông có hiện tại. Hiện tại chỉ là một cột mốc con người
đặt ra. Khoảng không-thời gian trôi vùn vụt, hông giới hạn, đi vô một màn đen tối
kềm hãm sự hiểu biết của con người. Những lời giải thích chỉ là ý nghĩ vu vơ
làm cho sự tin tưởng sai lệch.
– Con có muốn tới nhà của mẹ con thăm ông bà ngoại hông?
Hỏi là hỏi vậy, chớ Xuân hông hiểu cha mẹ Loan là như thế
nào, biết hai ông bà có muốn gặp thằng cháu lai “đế quốc Mỹ” nầy hôn? Hơn nữa họ
sẽ truy ra Xuân là người đã ngủ với Loan, làm con gái họ mang bầu phải bỏ xứ mà
đi. Đó là điều nguy hiểm cho Xuân. Họ có thể làm khó dễ Xuân đủ mọi chuyện.
Nhưng Phùng Xuân chấp nhận để cho Ken biết mặt ông bà ngoại của nó một lần.
Tìm nhà của ông Sáu Lục rất dễ dàng, nhưng dân trong làng
chăm chú đến thằng nhỏ lai nhiều hơn. Khi họ đến nhà của Loan, ba con bốn con cờ
tây chạy ra sủa inh ỏi.
– Thằng lai nầy là thằng nào? Chú mầy nói nó là con của con
Tư Én. Nhà tui hông có ngữ “con lai đế quốc Mỹ” đó. Con Én nó hông phải dòng họ
nhà tui. Thứ đồ con gái hư, bỏ nhà đi lấy Mỹ.
– Còn anh là ai? Sao anh biết cái nhà nầy của chị Tư Én. Anh
quen với chỉ hồi nào? Chỉ chỉ cho anh quê chỉ ở dưới nầy hả? Chắc anh
thân thiết với chỉ lắm hả?
Phùng Xuân ậm ừ. Sau đó chàng cố gắng nói cho họ nghe mình
quen Loan ở tuốt ngoài Long Khánh. Cổ gởi gắm đứa con lai cho mình để về quê
thăm nhà. Và rồi hông trở lại để gặp thằng Ken.
– Mà sao tới bây giờ cậu mới dẫn nó dìa đây? Hơn mười năm rồi.
– Dạ thưa bác gái. Cháu hông có dịp dẫn nó về đây.
Đôi mắt ông Sáu Lục ngó Xuân săm soi. Còn người thanh niên,
mà Phùng Xuân biết chắc là Út Thèm ngày xưa, lừ hai con ngươi như muốn ăn tươi
nuốt sống chàng và Ken. Xuân biết họ hông bao giờ nhận thằng Ken là cháu họ.
Xuân chào họ rồi buồn bã xin ra về.
Phùng Xuân vừa ra đến đầu làng. Hai người mặc đồ công an đã
đúng chờ sẳn, mời Xuân và Ken về đồn. Họ cầm giấy tờ của Phùng Xuân, lật qua lật
lại, coi tới coi lui. Họ nhìn thằng Ken một hồi lâu.Sao họ thù ghét Ken đến như
vậy?
– Anh mới vừa đi cải tạo dià?Anh còn trong thời gian quản chế,
sao anh đi ra khỏi thành phố được. Còn thằng lai Đế quốc Mỹ sao hông có gì tờ
gì hết ráo trọi?
– Dạ. Nó chưa đúng tuổi lấy chứng minh nhân dân. Có giấy chủ
tịch phường cho cha con tui đi phép hai ngày.
– Thằng đó bự con vậy mà chưa có giấy tờ gì hết. Khai gian tuổi
hả?
Rồi, họ hông nói gì thêm, cứ lẳng lặng đút giấy tờ vô ngăn
kéo bàn. Mọi người đi ra ngoài. Xuân và Ken đứng đợi. Rất lâu. Một người công
an trở vô, báo cho Xuân biết là chàng bị tạm giữ đêm nay. Đến sáng mai sẽ có người
giải quyết. Xong họ đưa hai cha con qua một căn phòng trống bốc. Hông ai trở
vô. Hai cha con đành ngồi bệt xuống đất.
Nắng chiều tắt lần. Và trời đột nhiên tối sầm. Mây đen từ hướng
Tây Nam kéo đến. Một lát sau tiếng nổ rôm rốp từ trên máy tôn vang dội xuống.
Cây mưa ào ào như lấy gào tát nước. Mái nhà dột nát. Nước mưa tuôn xuống. Nền đất
lầy lội.
Tội nghiệp thằng Ken nôn náo. Nó có vẻ đói bụng và khát nước.
Họ đã lấy tất cả. Vắt cơm trộn muối đậu ăn trong ngày, mì gói, đồ phụ tùng vá
xe đạp và cái bi đông nhựa nhà binh. Bà Phùng Xuân chuẩn bị rất kỹ. Mọi thứ được
bỏ vô cái túi đeo lưng. Xuân hy vọng họ sẽ trở lại giao cho hai cha con những vắt
cơm. Và hông chắc gì họ đưa lại, vì đã xế chiều. Chắc họ bỏ đói hai cha con đêm
nay.
Trời tối lần. Đàn muỗi bắt đầu kéo đàn cò.Mới đầu, thằng Ken
giơ tay đập lia lịa, nhưng một lúc sau hông nghe nó đập nữa. Nó mệt mỏi, dựa đầu
vô gốc cột ngủ ngon lành. Xuân hông hiểu chừng nào hai cha con mới được thả.
Xuân nghĩ chắc là có lịnh từ gia đình ông Sáu Lục, vì lúc chiều, khi hỏi
thăm nhà của Tư Én, dân làng hỏi lại Xuân có phải muốn tìm nhà ông Bí Thư xã
hông? Nếu đúng như vậy thì hông biết bao giờ họ thả mình ra?
Mưa đã tạnh từ lâu. Căn phòng hông có đèn đuốc gì ráo. Trời tối
om. Muỗi e e như tiếng ong bầu kẹt dĩa ( Trò chơi con nít: bắt ong bầu bỏ
trên đít thùng thiếc, xong lấy dĩa nhỏ dằn lên. Ong bầu phát ra liên tục tiếng
kêu e e.). Hông biết đường đâu mà đập. Một ánh trăng đầu tháng yếu ớt lung linh
theo tàu lá dừa, lọt qua khe cửa, đong đưa qua lại trên nền đất ướt. Trăng
suông như ngày xưa ở đồng Mỹ Nhiên? Một ngày qua mệt mỏi. Phùng Xuân chán nản nằm
bệt xuống nền đất ướt. Qua khe ván chàng nhìn thấy những cây bần tỏa rực đom
đóm. Chàng nhớ lại căn nhà lá đơn sơ dọc bờ rạch. Những cây bần đầy đom đóm vào
những ngày hông trăng. Đom đóm thi nhau đốt đèn, lấp la lấp lánh cùng những vì
sao trên trời, sáng rực cả một khúc rạch.
– Cậu có quen biết con Tư Én phải hôn? Cậu nói thiệt đi. Hồi
nẫm, nó ở trong đồng với cậu phải hông? Vậy bây giờ cậu có biết thằng con đó ở đâu
hôn?
Bà Sáu Lục hạch hỏi Phùng Xuân. Bà vô phòng rất sớm, có lẽ đi
theo các người đi chợ. Nhìn vẻ mặt của bà hông có vẻ gì hung dữ, Phùng Xuân
đành thiệt lòng nói rõ mọi chi tiết của chàng và Loan. Bà ngó thằng Ken, cháu
ngoại lai mỹ, có vẻ hơi ái ngại. Bà đưa tay vuốt tóc nó. Bà trả lại cái túi đeo
lưng.
– Hai cha con bây đi rút, giờ tới sáng ra khỏi Giồng Trôm
nhen. Có gì để qua lo.
May là Ken còn sức. Hơn nữa nó sợ bị bắt lại. Nó đạp vùn vụt.
Trời hửng sáng. Họ đã tới Bình Chánh. Qua khỏi Lương Quới, đường lầy lội. Hôm
qua, trời mưa. Bùn đỏ bám vô bánh xe, hông chạy được. Thằng Ken vác chiếc xe đạp
trên vai đi một mạch tới Mỹ Lồng. Đến bến ghe, hai cha con xuống tắm và rửa sạch
bùn bám đầy nghẹt vè xe. Xong họ tìm một gốc cây me lớn, ngồi nghỉ. Lục lọi
trong túi còn lại chút cơm vắt, Phùng Xuân chia cho con một chút. Tội nghiệp
cho con. Về quê mẹ mà bị nhốt và trốn chạy. May nhờ có bà ngoại còn chút thương
tình, chớ nếu hông, hai cha con chắc hổng biết khi nào họ thả ra…
Tới ngã ba Thới Lai, họ quẹo con đường đến Vang Quới. Mặt trời
đứng bóng. Nắng chói chan. Ken bước xuống mương ruộng múc đầy bi đông nước rồi
tu ừng ực. Họ hông còn đồng xu dính túi. Số tiền ít ỏi mang theo đã bị lấy mất
sạch. Phùng Xuân hy vọng tìm được nhà dì chín Mạo. Chỉ còn cách đó mới có được
chút cơm dằn bao tử cho qua cơn đói.
– Cơ khổ! Tui đợi chờ cậu hơn chục năm nay rồi. Mấy lần về
đây, con Én nó cứ nhắc tới cậu hoài. Nó nói khi nào cậu tới thì đem cái áo sơ
mi sọc rằn đưa gởi lại cậu. Hồi trước nó nuôi thằng Thương, có lúc nó đem cái
áo nầy túm thằng nhỏ mấy bận, rồi ngồi khóc một mình.
– Rồi thằng Thương bây giờ ra sao rồi dì?
– Mấy năm sau nầy, con Én nó lấy chồng nên ít khi về thăm
con. Tao đâu coi chừng coi đổi nó nhiều được.Nó lớn lên cặp bè cặp bạn rồi vô
trong bưng theo mấy ổng. Nghe nói bây giờ nó làm “giáo dục” gì trong quận sáu ở
ChợLớn.
– Tính ra giờ nó cũng khoảng trên hai mươi.
– Chắc đâu đó. Lúc con Én qua tao ở, cái bụng còn nhỏ xíu. Nó
ốm nghén mà nó còn giấu tao. Hóa ra bây “lẹo tẹo” với nhau lúc ở trong đồng. Nó
nói với tao nó thương bây lắm nên mới trao thân gởi phận cho bây. Mà bây giờ
con Én ra sao rồi bây có biết hôn? Có lúc nó về thăm tao nó nói có chồng Mỹ. Nó
nói hông biết đời nào gặp được bây. Nó cho tao nhiều thứ lắm: quần áo, đồ hộp,
bánh kẹo ngon lắm. Còn đưa thêm tiền để nuôi thằng Thương nữa. Rồi nó bặt tin từ
dạo đó đến nay, cũng hơn chục năm. Tao nghĩ nó sau 1975 nó theo chồng về Mỹ.
– Dì hổng biết hả? Loan bị mìn VC ở gần Giồng Trôm chết lâu lắm
rồi, đâu năm 66 hay 67 gì đó. Còn đây là Ken, đứa con với người chồng Mỹ.
– Trời đất! Vậy tao nghi oan cho nó.
Dì chín Mạo khóc mùi mẫn. Bả bù lu bà la kể lể đủ thứ chuyện
về Loan trong thời gian nàng ở với bà. Nước mắt hoà với nước mũi chảy thấm ướt
cái khăn rằn bà vắt vai. Ken đứng gần bà Mạo. Bà lấy tay vuốt tóc nó. Những sợi
tóc quăn màu ngà ngà dài ra theo mỗi lần bà vuốt tóc Ken. Rồi bà nắm tay nó, nhắc
lại đủ điều về Loan. Thỉnh thoảng bà nhìn nó rồi ngó bộ dạng thằng con lai, bả
có vẻ ngạc nhiên sao mà nó giống Mỹ quá.
– Con Én nầy nó sao khổ vậy. Nó mà còn sống, hổng biết hai thằng
con nầy có hợp nhau hôn? Mà bây có về trên đó, tìm gặp được thằng Thương thì đừng
cho hai anh em nó biết nhau nghe chưa? Cách mạng hông ưa mấy thằng con lai nầy…
Con đường trở về thấy sao mà nặng nề và xa hun hút. Cây cối
hai bên đường tiêu điều. Cảnh vật khác xa khi trước. Cồn Phụng hông còn rộn rịp.
Đám nhà tu trốn quân dịch của ông tu sĩ kỹ sư Nguyễn Thành Nam đã bị giải tán.
Ông Đạo Dừa gầy gò ốm yếu, có lần ra tranh cử Tổng Thống vào năm 1967, ôm ấp mơ
mộng hão huyền đòi ra gặp Hồ Chí Minh để thương thuyết hoà bình!! Sau năm 1975,
bị VC cho đi tù rồi chết ở khám Cần Thơ (?).
Hông hiểu ông có lý thuyết gì mới lạ mà John Steinbeck đến
thăm cồn Phụng vào năm 1968. Bây giờ chiếc thuyền Bát Nhã của ông, lúc trước ổng
nói dùng nó để làm nơi gặp gỡ hai nhà lãnh tụ Nam Bắc, bị VC kéo về Bến Tre làm
nhà hàng nổi! Chớp mắt đấy mà đã hơn 20 năm. Cửa Đại bây giờ có thêm một cái cồn
nhỏ, nhỏ nhú nhú tít mù xa.
Phùng Xuân hông thấy thành phố MỹTho còn có một chút gì thân
thuộc với mình như khi xưa. Con đường chạy bên hông dinh Tỉnh Trưởng ngang nhà
Yvette hông còn nữa. Chắc trước sân ngôi nhà của Yvette giờ là những vồng khoai
mì, những luống rau muống, những đám rau lang. Chủ nhơn mới chắc có lẽ “tận
dụng” miếng đất để “cải thiện” đời sống trong thời buổi khó khăn hiện nay.
Đâu rồi những chùm bông đại rơi đầy sân cuốn tròn theo con trốt!
Người xưa giờ ở tận trời Tây, con đùm con mang, chắc hông còn nhớ đến vị nước
sông ở cầu tàu trước dinh tỉnh trưởng! “Ờ, hén, mình. Rồi mình chắc chắn sẽ trở
lại Mỹ Tho. Sao lại chỉ có mình mình? Còn con mình nữa chứ mình!”. Tiếng nói của
Yvette như ngân dài gần suốt hai mươi năm qua, vang vang trong lỗ tai Phùng
Xuân.
Chàng hối Ken chạy mau tránh khỏi những con đường mang nhiều
kỷ niệm. Mau mau về Sài Gòn đi con.Mình đi lâu lắm rồi.Chàng trình bày rõ ràng
lý do về trễ. Hông có chuyện đó đâu. Anh đào đường mương dài hơn 100 mét vòng
quanh chợ và một tuần canh gác dân phòng.
Phùng Xuân thầm nghĩ: Làm sao tìm gặp được Thương. Hông dễ gì
mò lên chỗ công an làm việc. Kiếm cớ để gặp nó, chàng cầm lá đơn xin đi dạy học
lên quận.
– Anh nộp xin đi dạy học? Anh vừa đi học tập cải tạo về hả?
– Thưa… anh…!
– Anh hông được quyền gọi tôi bằng anh. Anh nhờ ơn cách mạng
khoan hồng tha cho về sớm. Anh chưa phải là một công dân. Anh phải nói với tôi:
“Thưa cán bộ, nghe chưa”?
– Dạ. Thưa cán bộ. Tui đi học tập cải tạo về hông có việc
làm. Hồi trước tui có đi dạy học.
– Cách mạng hông có xài ngụy quân ngụy quyền. Tư tưởng anh
chưa “đã thông”. Anh chưa có quyền công dân. Chúng tôi hông có lịnh cho các anh
đi làm trong các cơ quan cách mạng.
– Dạ. Xin phép cán bộ cho tui hỏi. Cán bộ có phải người Bến
Tre hôn?
– Anh hỏi làm gì? Tính điều tra tui hả?
– Dạ. Hông. Tui thấy cán bộ hao hao giống người tui quen ở
Vang Quới. Nhà bà chín Mạo đó cán bộ. Bả có người cháu gọi bả bằng bà Chín, tên
là Trần Anh Thương. Và tui cũng biết cô Loan-Tư Én-, má của cháu Thương nầy nữa.
Người cán bộ ở phòng Giáo Dục quận 6 nhìn trân trân Phùng
Xuân một lúc.
– Hông. Tui hông có ở Bến Tre. Tui cũng hông biết bà chín Mạo
và bà tư Én nào nào hết. Anh nhận lầm rồi. Tui nhắc lại cho anh biết một lần nữa.
Tui hổng có quen biết các loại người ngụy quân như anh, làm tay sai đế quốc mỹ,
chống lại nhân dân, có tội trời hông dung đất hông tha… Anh đừng có nhận bá vơ
như vậy nghe chưa?
– !!!???
Phùng Xuân ngán ngẫm, lật đật đứng dậy chào người cán bộ(?
sic), cố ngăn giọt nước mắt ưá trào ra. Ôi! Sao chủ nghĩa Cộng Sản biến con người
đến mức độ tàn nhẫn như vậy? Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm đày đọa biết
bao nhiêu người ở miền Bắc. Bây giờ đến miền Nam phải chịu tai ương thù hận, cốt
nhục tương tàn. Sau cuộc chiến năm 1975, biết bao gia đình ly tán chia rẽ vì một
người bên nây, một người bên kia. Biết bao giờ hàn gắn được…???
Xuân mệt nhọc bước xuống cầu thang. Chắc hông bao giờ Ken và
Thương có thể gặp nhau và bắt tay chào hỏi mừng rỡ. Loan có sống lại thì cũng hổng
hàn gắn được tình thương của hai đứa con. Và nàng sẽ sống làm sao?
Buổi trưa bến xe Chợ Lớn đầy nhung nhúc người. Và xe tới bến.
Rồi xe đi. Hông bao giờ ngớt. Cuộc sống có nhiều cơ cực vì ngăn sông cấm chợ,
nhưng người ta cố tìm đủ mọi cách luồn lách để mà sống. Chỉ có cái là đi buôn lậu.Họ
tìm mọi cách qua mặt quản lý thị trường. Giấu hàng đủ mọi nơi trong xe chở
khách, mọi chỗ trong thân người. Đút lót, quà cáp khi qua mỗi trạm.
– Mừng! Mừng! Anh đi đâu đây?
– Trời ơi! Ông thầy còn sống hả?
– Chết hồi nào đâu? Còn sống nhăn răng đây.
– Vậy mà sau năm 1975, tui ở miền Tây, người ta đồn Sư Đoàn
18 bị banh ta lông ở trận Long Khánh hết rồi. Tui nghĩ chắc ông thầy cũng hông
chạy đâu khỏi. Rồi ông thầy đi cải tạo có lâu hông?
– Đủ nếm mùi tù VC. Bây giờ anh làm gì?
– Đang làm lơ xe đò. Xe lúc nầy vô quốc doanh ráo trọi thành
thử đói lắm. Xe tui chạy chui. Tui phải bán thêm thứ khác đủ nuôi mấy đứa nhỏ
và thằng cháu nầy.
– Thằng cháu nầy con của ai?
– Con của con Mận đó ông thầy!
– Cổ ra sao rồi. Chồng cổ chết rồi hả?
– Em tui có chồng con gì đâu! Đầu năm đó, Mận ở Long Khánh về.
Mấy tháng sau thì cái bụng nổi lên chình ình. Ở nhà hỏi: có chửa với ai. Em tui
hổng nói. Mặt mày buồn so. Tới kỳ sanh đẻ xong rồi ở vậy nuôi thằng nầy cho đến
trọng tuổi thì bị ban cua chết. May là lúc đó tui đổi về gần nhà nên mang thằng
nhỏ dìa nuôi cho đến bây giờ. Nó theo tui phụ lơ kiếm chút đỉnh sống qua ngày.
À, mà ông thầy, ngộ nghen! Lúc nghe tin đồn Sư Đoàn 18 bị thua trận, em tui buồn
rũ rượi. Ngày ngày, Mận nó đốt nhang khấn vái hoài.
Phùng Xuân giựt mình ngó qua thằng nhỏ cũng cở trạc tuổi hai
mươi. Từ năm 1966, 1967 đến giờ cũng tròn trèm hai mươi năm. Nó có vẻ cũng hao
hao giống mình. Mà biết có phải con mình trong cái đêm hôm mình say rượu hông?
Chàng bán tín bán nghi ngó nó một hồi lâu.
– Ông thầy làm cái gì nhìn thằng Phùng dữ vậy? Bộ nó giống
ông thầy lắm hả?
Phùng Xuân thót mình quay lại, ngó thấy Mừng chum chím cười.
Xuân đoán Mừng nghi ngờ điều gì. Cái gì cũng có thể được, nhưng có cái hông có
thể được? Sao cuộc đời nhà binh mình đa đoan nhiều quá vậy? Xuân gây buồn phiền
cho bao nhiêu người? Từ lúc mới ra đơn vị đã nhìn thấy Hiền chết ngay trước mặt
mình. Chuyện của Mận có phải tại mình hông? Cái hông thể biến thành cái có thể.
Thằng Phùng đang trờ trờ trước mặt mình đây mà! Xuân có nên nói thiệt câu chuyện
đã xảy ra cho Mừng nghe hôn? Mà chắc gì Mừng tin. Nó đâu có nghĩ là em mình dám
làm điều đó. Có khi nó còn nghĩ ngược lại. Ông thầy coi em tui như gái qua đường,
chơi rồi bỏ. Như thế lại càng khổ cho mình nữa. “Làm sao đây hở cô Mận? Tui
đành có lỗi với cô. Dù sao cũng cám ơn cô. Những ngày tháng nằm kế bên võng của
cô, nghe những bài ca vọng cổ mùi mẫn của cô cũng làm cho tui đỡ buồn. Tình yêu
thời chiến tranh của cô quá bồng bột, hông tính toán. Thiệt tình tui hông ngờ
được”.
Phùng Xuân theo Mừng đi vô sâu một ngõ hẽm. Quẹo tới quẹo lui
nhiều lần rồi họ vô một căn nhà rộng. Khoảng ba bốn người đang tuôn thuốc lá từ
trong người ra. Người mập ù bây giờ trở nên ốm tong teo.Một người cụt một chưn
đang ngồi trên ghế, lấy từng điếu thuốc lá dấu trong ống chưn giả, rồi vỗ vỗ và
vuốt lại cho ngay thẳng. Đầu kia, trong góc khuất, một cô gái còn trẻ, tự nhiên
cổi bỏ hai ba lớp áo.Sáu bảy cây thuốc Jet bó vòng quanh người tuôn xuống, lộ
thân mình trắng ngần dầm dề mồi hôi. Rồi sau đó cô bé thò tay vào sâu trong bụng,
lần xuống háng và bắp vế, lần lượt lấy thêm bốn năm cây thuốc nữa. Xong, cô gái
bận áo lại, lấy hai tay chẻ đôi mái tóc rối lại cho suông sẽ. Hông ai nói ai một
lời. Đầu nậu nhìn những cây thuốc lá mà họ tin chắc là những cây thuốc thiệt chứ
hông phải giả, chậm rải đếm tiền đưa cho những con buôn lậu. Thuốc điếu thì rẻ
hơn thuốc cây. Nhưng buôn thuốc cây thì cũng năm ăn năm thua. Rủi bị quản lý thị
trường bắt thì kể như mất vốn. Người cụt một chưn trên kia là anh thương binh
VNCH. Sau năm 1975, hông còn tiền phụ cấp nữa, nghèo đói, hông có nghề ngỗng,
hông biết làm gì. Bây giờ chỉ biết buôn lậu cò con, bỏ từng điếu thuốc vào ống
chưn giả, kiếm cơm sống qua ngày.
– Tui đạp xe cà tàng cà tàng từ Củ Chi xuống đây, ngày một bận,
chung lại cũng được 5 gói Jet. Làm sao mà để nguyên gói được, nên phải nhét từng
điếu vô ống chưn.
Còn cô gái buôn đường dài, từ Tây Ninh xuống đây. Mỗi ngày
theo chuyến xe, chủ ăn chịu với công an, quản lý thị trường.Gần tới trạm, chủ
ngừng xe, con buôn xuống, luồn vô trong xóm.Họ đi đường tắt ra lộ cái. Chủ xe
đón họ ở đầu kia. Cứ thế mà lần lượt đến ChợLớn.
Thuốc lá là chất bắt mùi nhanh chóng. Để lâu trong ống chưn
giả có mùi tanh. Dấu trong nách, háng, thuốc bắt nặng mùi mồ hôi. Dìm trong
thùng mắm ruốc, thuốc có mùi thum thủm. Thuốc bán mùi trở nên lạt nhách. Dân
sành hút luôn luôn cho là thuốc giả.
Những người Tàu Chợ Lớn là những người biết cách làm ăn trong
mọi trường hợp. Họ luồn lách qua đủ ngõ ngách để buôn bán trong cái xã hội chủ
nghĩa man rợ nầy. Từ những viên kẹo nhỏ đỏ đỏ xanh xanh cho đến những phụ tùng
xe hơi, xe Honda, xe đạp…, họ đều có. Những chuyến hàng to lớn lọt qua công an
đều là xuất xứ từ Chợ Lớn. Chợ Kim Biên là một thí dụ rõ ràng. Ai dẹp được nó?
Phùng Xuân lùng xục mọi nơi trong Chợ Lớn. Những điếu thuốc vấn
bằng tay làm bằng lá đu đủ hay lá khoai mì phơi khô tẩm hoá chất mua từ chợ Kim
Biên rồi thêm chất dẫn cháy bằng diêm sinh đến những lò sản xuất cà phê đủ loại
bằng bắp, đậu nành từ rẻ đến mắc. Thuốc Mai giả cũng có. Jet, Hero giả cũng có.
Cái gì họ cũng có. Tại sao vậy?
Những người VC hông phải là những nhà quản lý kinh tế giỏi,
nhưng họ tự kiêu, hông chịu sử dụng những nhân viên chế độ cũ. Xã hội miền Nam
rối ren như nồi canh hẹ. Thành phần trí thức lần lượt bỏ đi. Dân chúng bắt đầu
ra biển, đi đường bộ tìm đường trốn thoát. Nguyễn Ngọc Tiền và Nguyễn văn Nghiệp
vượt biển mấy lần đều hông thoát. Mỗi lần đi là mất mấy cây vàng và có khi bị
tù lại. Ngọc Tiền mấy lần thất bại về trốn ở nhà Phùng Xuân. Xong rồi lại vượt
biên nữa. Có nhiều người lần lần mất hết của cải. Và cũng có nhiều người làm mồi
cho cá hoặc bị hải tặc giết chết. Để cho bọn “Mỹ-Ngụy” tiêu vong hết, họ sẽ dễ
dàng chiếm dụng tài sản của bọn “bán nước” đó. Có phải đó là chánh sách của họ
hông?
Thiếu Tá Tuệ, bạn tù cũ, có hôm dẫn đến nhà Xuân một thanh
niên nói năng lưu loát. Biết Phùng Xuân hông có cây nào để vượt biên. Nếu Xuân
chịu vượt biên một mình, “Mật Trận” sẽ lo liệu hết, với điều kiện anh sẽ ở lại
làm việc cho “Mật Trận”. Xuân nghĩ đây là một tổ chức gì? Một tổ chức giả hiệu
của VC để gài người bắt cho hết những lực lượng đang nổi dậy chống đối có liên
lạc với Mặt Trận Liên Hiệp của Trần văn Bá. Tin tức thầy cũ Hồ Thái Bạch và Trần
văn Bá bị tuyên án tử hình ngày 08 tháng 01 năm 1985. Phùng Xuân ra đi một mình
bỏ vợ con lại trong nhà tù to lớn. Có đành lòng hông? Xuân từ chối. Ở lại để khổ
cực có nhau còn hơn vướng vào cái bẫy kia.
Tù cải tạo bây giờ rơi xuống tận cùng đáy xã hội nên trở nên
là thằng mạt rệp. Những thằng “tù cải tạo” nầy tìm mọi cách để sống còn trong
cái “nhị thiên đường” cộng sản. Họ làm đủ nghề. Thằng làm khí đá, thằng làm bột
mì, thằng làm bánh in, thằng giữ xe đạp, thằng làm yaourt, thằng chạy xích lô,
thằng chạy ba gác…
Gia đình Phùng Xuân cũng bị cuốn hút vô trong vòng xoáy đó,
quay cuồng ngày đêm để kiếm sống. May là nguời vợ đảm đang gánh vác, đỡ đần mọi
công việc để nuôi chồng cho đến ngày ra tù. Rồi bây giờ lại cùng chồng bươn chải
nhọc nhằn. Chỉ tội chị Sâm khi trước là một cô giáo, vợ anh Võ Long Tôn ở gần
nhà. Bây giờ cô giáo còn một thân một mình, như con cò mà đi ăn đêm. Anh Võ
Long Tôn chết trong tù ở ngoài Bắc. Phùng Xuân gặp chỉ luôn cò cò trên chiếc xe
đạp.
Thằng Ken cũng còn may mắn. Nếu khi trước Phùng Xuân hông đem
nó về nuôi thì biết đâu nó chết trong “Opération Baby lift” ngày 04-04-1975. Rồi
bây giờ, năm 1987, Phùng Xuân nghe tin ở đài VOA có chương trình Amérasian Home
Coming Act.
– Ken, có chương trình Mỹ rước mấy người con lai, để ba làm
giấy tờ cho con đi.
– Ba, mấy hôm nay cái bà ngoại gì ở Cái Bông gặp con mấy lần ở
chỗ con chạy xe ba gác.
– Bả làm gì?
– Bả hỏi con có muốn đi Mỹ hôn?
– Con coi chừng nghen. Lúc rày có những người đang lùng con
lai để đem bán cho những người muốn đi Mỹ.
Mà thực, chương trình ra đi với con lai rộ lên như núm mối
tháng bảy. Ai ai cũng hối hả tìm ra một đứa con lai. Lai đen hay lai trắng đều
được. Những đứa nhỏ có hình dáng giống người Âu da trắng đều được nhìn nhận là
đứa con lai. Làm ra đứa con lai đen có khi dễ dàng hơn đứa con lai trắng. Họ
lên miệt Kontum-Pleiku tìm trẻ em người Thượng hơi to con, da ngăm đen, tóc
quăn. Họ đem em bé đó về Sài Gòn phù phép với công an phường, quận. Tùy theo số
chi nhiều hay ít, hồ sơ sẽ hoàn tất mau hay lâu. Những trò ma quỉ đó qua mặt được
nhân viên toà Lãnh sự Mỹ. Trường hợp lai trắng cũng vậy.Trẻ em ở các đồn điền
cao su lai Pháp cũng được xem là con lai trong thời chiến tranh ViệtNam.Và có
những gia đình, dòng họ có con lai Pháp từ đời cố hỉ nào hông biết, cũng hô lên
là có con lai. Thế là ùn ùn làm hồ sơ. Nước Mỹ thật bao dung. Cứ nhắm mắt nhắm
mũi nhận con lai của ai cũng là con của mình. Và một số trẻ em lai đen, trắng
được qua Mỹ mà chẳng bao giờ tìm ra được cha của mình!
Anh chị năm bán bột ở chợ Bình Tây có bà chị câm đi làm cho Mỹ,
sinh ra đứa con gái lai trắng rất đẹp. Hồ sơ cháu ra đến tòa lãnh sự. Gia đình
trình bày chi tiết.Sau năm 1975, bà chị câm hông đi làm được, nên anh chị phải
mang cháu và bà chị về nuôi. Những anh chàng Yanke thương người phán một cái rụp.
Làm hồ sơ cho mọi người trong cả hai gia đình đi hết. Anh chị năm quýnh qua
quýnh quáng tìm gặp Phùng Xuân xin dạy gấp “Ăng- lê” để đi Mỹ. Trời ơi! tiếng
Anh tui còn chưa rành làm gì dạy nổi tiếng Mỹ cho cả nhà trong vòng hai ba tuần!
Số hồ sơ con lai thiệt thực ra nhiều hơn hồ sơ con lai giả nên ông Mỹ khó mò
ra.
– Ba. Con hông muốn đi một mình.
– Vậy là để ba làm hồ sơ cho cả nhà cùng đi.
Hồ sơ của Ken cũng hồ sơ thật, nhưng hông hiểu sao nằm ỳ trên
quận lâu lắm rồi. Dò tìm được đường dây chạy chọt cũng hông khó. Khổ một cái là
phải có “khoen”. Mỗi lần như vậy cũng mất vài khoen. Phùng Xuân cũng mất vài
“khoẻn” ở quận, nhưng sao hồ sơ cứ nằm ỳ ở đâu đó. Hai cha con mõi mòn trông
ngóng, hỏi thăm mà hông thấy tăm hơi. Hồ sơ người ta nộp sau mình mà họ lên máy
bay đi từ lâu rồi. Mòn mõi nhưng Xuân dò tìm đâu còn đường nào nữa. Một lần đưa
một khoen cho một ông công an là xong việc rồi họ biến, mình có gặp lại cũng
hông dám hỏi thêm…
– Anh có biết tui mời anh ra đây có việc gì hôn?
– Dạ thưa cán bộ, tui hổng biết. Chỉ nhận giấy mời của công
an khu vực đưa cho tui, biểu tui cầm giấy mời ra gặp công an thành phố.
Người công an cũng trạc tuổi Phùng Xuân, nước da hơi xạm đen,
tóc chẻ đôi đồng đều làm hai bên, ngước nhìn chàng một hồi lâu.
– Hỏi để kiểm tra anh lại một lần nữa, coi anh khai có đúng
hông?
– Bao nhiêu bản tự khai tui đều “thành khẩn khai báo” hết
trong thời gian tui đi “cải tạo” rồi cán bộ.
– Còn thiếu. Năm 195…, anh có đi Miên gặp một người con trai
tên là Trần văn Thành và một cô gái tên Marin Phla có đúng hông? Anh ngập ngừng
rồi. Chứng tỏ rằng anh chưa khai hết.
– Dạ có. Nhưng lúc đó còn nhỏ lắm. Chúng tôi biết nhau có lẽ
lúc khoảng 15 tuổi.
– Bây giờ anh biết họ ở đâu hôn?
– Dạ hông. Cách biệt nhau hơn ba mươi năm rồi. Hơn nữa tui
hông biết nhiều gì họ. Khi đó chỉ là trẻ con gặp nhau thôi rồi quên.
– Nhưng họ hổng quên anh. Tui chính là Trần văn Thành mà anh
đã gặp.
– Có thiệt vậy hôn cán bộ?
– Năm 1970, chúng tôi được lịnh trở về SàiGòn, lãnh nhiệm vụ
công tác nội thành. Em gái tui nó còn nhớ anh, mà hình như nó có cảm tình nhiều
với anh là phải. Nó sục sạo lần hồi mò ra được anh đi lính Sư Đoàn 18. Anh có
còn nhớ có lúc anh nhận được hai lá thư của một cô gái bán trong Câu Lạc Bộ Sư
Đoàn ở LongBình hông?
Phùng Xuân giựt mình. Có một dạo, Phùng Xuân làm Trưởng Ban
Hành Quân Phòng Ba Sư Đoàn. Thường ngày, chàng ăn cơm ở Câu Lạc Bộ. Cô gái tên
Ngọc ngồi quày thâu tiền thường mĩm cười nhìn chàng và hay nói giỡn: “ Cho anh
mắc nợ rồi khi nào trả cũng được nhen! ”. Và cô ta hông đưa biên lai tính tiền.Làm
sao chàng biết bao nhiêu để trả? Phùng Xuân sợ nợ cơm vướng nợ tình. Sau những
buổi cơm trưa vắng khách, chàng hay ngồi nán lại nhâm nhi ly trà cho hết thời
giờ. Cô Ngọc thường tới ngồi nói chuyện cùng chàng. Khoảng một thời gian sau,
chàng nhận được hai lá thư dầy viết bằng giấy học trò của cổ. Phùng Xuân phân
vân. Có nên trả lời hôn? Mắc phải thêm một cái nợ nữa thì làm sao? Nhưng may mắn,
chàng rời khỏi Phòng Ba.
– Anh hông trả lời gì cho nó hết phải hôn?
– Tôi còn đang lưỡng lự thì phải dời đi nơi khác. Sao cổ hông
nói cho tui biết cổ là Marin Pla?
– Đâu có được. Nó đâu được quyền để lộ tung tích. Có như vậy
mới khổ cho nó. Sau năm 1978, nó trở về Miên trong cuộc “chiến tranh biên giới
Tây Nam”. Rồi tới bây giờ nó chưa được quay trở lại. Nó kêu tui là cố gắng gặp
anh và cho nó biết tin tức về anh. Sau năm 1975, có rất nhiều chuyện tui phải
làm và quên mất anh. Anh có hồ sơ đi Mỹ theo diện con lai, nhưng công an quận đề
nghị giữ lại. Anh có biết gì sao hôn?
– Hông rõ lắm. Nộp đơn lâu rồi, nhưng hổng thấy trả lời.
– Lý do là anh hông chấp hành đúng nội quy. Anh bị bắt lúc
anh về Cái Bông, Bến Tre, có dẫn theo đứa con lai. Có đúng hông?
Theo lời kể của Ken, nó có gặp bà ngoại. Phùng Xuân nghĩ là
đúng rồi. Chuyện nầy chắc do Anh Thương theo lời xúi dục của gia đình giữ hồ sơ
lại. Họ muốn đem Ken đi bán để kiếm tiền hay làm công chuyện gì khác. Chớ chuyện
dẫn Ken về Cái Bông đâu có ảnh hưởng gì đến hồ sơ con lai của Ken.
– Anh đi “cải tạo có tốt” hôn?
– Thì anh cũng biết rồi đó. Khi nào học tập tốt thì về!
– Đó là chính sách của cách mạng. Anh hổng biết chớ tụi
tui đã “tiếp cận” với ba của anh. Ổng quen với ông Tư Phước ở đường Ký Con. Họ
cũng là “dân già kháng chiến” còn cảm tình với Việt Minh. Họ hoạt động
trong cụm lưới điệp báo kinh tài khi ở Miên.
– Còn bây giờ thì sao. Tui thấy họ chửi tùm lum.
– Đó là các ông già lẩm cẩm. Bây giờ, họ làm gì được nữa chớ?
Phùng Xuân nhớ lại. Quanh bàn ăn đám giỗ gồm có ông Sáu Trạch,
ông Bảy Mi, Tư Chà, Tám Khước và Phùng Xuân ở Lương Quới. Câu chuyện xoay quanh
mấy anh Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Ông Sáu Trạch và Tám Khước là dân tập kết.
Một người-Sáu Trạch- về hưu, một người-Tám Khước- đang làm Trưởng Phòng Thương
Nghiệp tỉnh.
– Mầy làm cái khỉ gì vậy Khước?Mua dưa hấu về cho cả đống, để
cho thúi rồi đem đổ.
– Trời ơi! Khổ lắm chú Bảy ơi. Dân trúng mùa. Cấp trên kêu xuất
tiền ra mua. Nhưng mà mình đâu có đem bán qua tỉnh khác được. Mình chỉ đổi
thôi. Họ cũng trúng mùa dưa hấu như mình. Họ đâu chịu đổi dưa hấu với mình. Bán
ra trong tỉnh thì hông hết. Trời ơi. Cái “cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa”
gì mà kỳ cục vầy mà hổng biết. Hồi ở ngoài Bắc tui đâu có học mấy cái thứ nầy!
– Khước! Mầy đi tập kết mấy chục năm học hành cái đách gì mà
về làm sao dân chúng kêu trời hổng thấu. Họ chưởi cha, chưởi mẹ tụi bây. Đụ mẹ,
tao có mấy con tôm càng xanh tát mương xong, mang lên cho con nhỏ trên tỉnh. Đi
ngang qua Cầu Kinh, xét cũng bị lấy. Tụi bây đi tập kết học hành cái con mẹ gì.
Ra ngoải tụi bây bị đì cho chết con mẹ hết chớ học đách gì. Tao gặp thằng Hai
Thẹo. Tao hỏi nó mầy tập kết ra Bắc có học hành được gì hông. Nó trả lời tỉnh
bơ:“ Có học được con mẹ gì, anh Tư. Tối ngày tui đi chăn nợn không à!”
Tám Khước biết ông anh của mình-Tư Chà- hay nói móc lò, xỏ
xiêng và phang ngang bửa củi, nên đành ngồi im, xoay qua xoay lại nhìn ông Sáu
Trạch và ông Bảy Mi. Nó thấy hai ông nầy cũng ngồi im nên lẳng lặng lấy đũa gắp
con tép luộc bỏ vô miệng nhai tóp tép, nhìn ra sân.
Ông Sáu Trạch ngồi im lìm, thỉnh thoảng ngó qua ông Bảy Mi.
Hình như hai ông cảm thấy mình bị phản bội. Thời trai trẻ theo Thanh Niên Tiền
Phong, theo Việt Minh chống Pháp, bây giờ hóa ra công cóc! Và họ cũng bắt đầu rủa
đám VC cắc ké. Rủa thì rủa vậy chớ họ làm gì được. Họ bị cho ra rìa hết rồi. Chỉ
ngồi đó mà mơ ước lại thời “Việt Minh huy hoàng”?
Phùng Xuân hông can dự vào câu chuyện. Chàng rời khỏi bàn ăn,
bước ra đứng trước sân nhà. Cây mai vàng có từ lúc Xuân còn nhỏ, bây giờ già cỗi,
nên ai đã đốn sát tận gốc. Những tược non đã vươn mạnh lên. Rồi đây, mai mốt
cây mai nầy sẽ tốt sum sê, đâm chồi cho nhiều bông. Trước sân nhà lại có cây
mai vàng mới.
Mỗi người có một lý tưởng. Đời người có thể tàn tạ, nhưng lý
tưởng tốt đẹp bao giờ cũng sống mãi với thời gian. Hai ông già đó nuôi dưỡng lý
tưởng của các ổng cũng tốt đẹp chớ đâu có xấu xa gì, chỉ vì bị VC dối gạt nên
đành hối tiếc…
Phùng Xuân nhìn Thành. Chàng hông muốn dây dưa với nó. Nhờ vả
làm gì? Biết đâu trong đầu người bạn chỉ quen sơ sơ hồi nhỏ đang tính toán điều
gì? Nhưng dù sao Xuân cũng biết được một điều là hồ sơ con lai của Ken khó lòng
đi trót lọt. Hồ sơ sẽ nằm vĩnh viễn ở quận hoặc có thể bị tiêu hủy.
Những người tù “cải tạo” như cá nằm trên thớt. Làm sao mình
có thể đối chọi lại được với họ. Mình phải tìm cách ra đi. Nhưng bằng cách nào?
Đường biển hay đường bộ? Đường biển thì có thể đi nhiều người. Có những gia
đình ra đi hông bao giờ được tin tức, mất xác trên biển cả vì giông bão hay vì
cướp biển giết sạch sau khi lấy hết của cải và hãm hiếp phụ nữ. Đường bộ băng
qua đất Cao Miên rồi đền Thái Lan cũng rất nguy hiểm, chỉ có thể đi một mình,
hông thể dẫn cả một gia đình đi được. Kim Lệ, con của ông Mười Năng ra đi đã từ
lâu mà vẫn bặt tăm, có thể bị bắt và bị hãm hiếp rồi vùi thây nơi rừng sâu. Chiến
tranh giữa VC và Khmer Đỏ sẳn sàng giết những người băng rừng. Chắc Thành và
Marin Phla cũng là những kẻ góp phần gây ra tội ác đó.
Phùng Xuân còn đang quần quật ngày đêm làm kiếm tiền để có dịp
đến cũng vọt thì chiến tranh Việt-Miên chấm dứt năm 1989. Tiếp theo bức tường
Bá Linh bị phá sập ngày 09 tháng 11 năm 1989 và rồi Cọng Hoà Dân chủ Đức sụp đổ
năm 1990. Người ta hông nghĩ là điều gì sẽ xảy ra nữa. Nhưng “thành trì” của Quốc
tế Vô Sản: Cọng Hoà Liên Bang Xô Viết cáo chung năm 1991 làm mọi người ngỡ
ngàng…
Rồi Vân cũng gặp Xuân nhiều lần. Cô nàng hông còn cố tránh né
chàng mà lại còn tỏ ra săn đón chàng. Tình cũ hông rủ cũng tới! Hay Vân đã nhìn
thấy những gì tệ hại của chế độ nàng tôn thờ bấy lâu nay? Hay là những
sự sụp đổ gần đây của thế giới Cộng Sản làm nàng thay đổi “lập trường”. Ở tuổi
sồn sồn năm mươi, cô nàng vẫn còn xuân sắc. Hơn nữa người chồng vừa mới chết.
Nhưng Phùng Xuân hông còn có gì để hối tiếc nữa. Lửa rơm thường cháy rụi và
hông bao giờ để lại chút than ủ ngấm ngầm nào hết…
“ Lần sau mình về lại Mỹ Tho đi nghen mình. Ờ hén, mình. Rồi
mình chắc chắn sẽ trở lại Mỹ Tho. Sao chỉ có mình mình? Còn con mình nữa chớ
mình!”. Tiếng nói Yvette vẫn còn ngân vọng và hương bông cau ngào ngọt vẫn còn
đượm nơi những sợi tóc hớt bum bê. Than đước nồng ủ có khi nào tắt ngúm được
đâu….
Con đường lên nhà Chúc vẫn như mọi ngày, nhưng hôm nay Xuân
thấy xa hơn vì đây là lần cuối chàng lên từ giã Chúc để đi Mỹ. Căn nhà cũng còn
xập xệ. Mùa hè mái tôn hắt nóng, nóng điên người. Mùa mưa tiếng mưa nổ, nổ rang
như tiếng pháo Tết.
Cô Huệ mang ly nước mía mời Xuân. Cổ bây giờ đã gần ngoài bốn
mươi. Tuổi xuân của cổ lớn lên là ăn đói triền miên và làm việc cực nhọc. Người
hơi già nhưng ngó cổ cũng còn đượm chút hương sắc.
– Cô Huệ có muốn đi Mỹ hôn?
– Có muốn cũng không được. Làm sao đi được anh?
– Có nhiều người bạn của tụi tui đi ở tù về bị vợ bỏ đi lấy
chồng khác hay cũng có đứa chưa vợ. Bây giờ tụi nó cũng rắp ranh tìm một người
đàn bà giỏi giang, cưới hỏi đàng hoàng rồi đi qua Mỹ. Chúc, trong đám bạn của
mình làm gì hông có người. Mầy ráng tìm cho cổ một người chồng đàng hoàng để bù
cho cổ những ngày khổ cực phụ vợ mầy để nuôi mầy.
– Cậu khỏi lo.Đã có mối mang đâu đó hết rồi. Nay mai gì đây rồi
cũng sẽ lên đường bây giờ.
– Mầy nhứt định hông nộp hồ sơ đi Mỹ hả Chúc?
– Không. Tớ còn cha mẹ già hai bên. Vợ tớ không chịu đi. Hơn
nữa tớ cũng muốn sống chết với cái xứ sở nghèo đói nầy.
Chúc lấy cái Lan, con bác Trần, lúc cô bé khoảng 18 tuổi nên
bây giờ có một bầy sáu đứa gái nheo nhóc. Mấy năm nó đi ở tù, gia đình bác Trần
đùm bọc đàn con nó. Cô Huệ bương chải giúp chị nuôi đàn cháu để chị có tiền đi
thăm nuôi chồng. Sau khi đi tù về, nó hông chịu về Bàu Sen ở Trảng Lớn, Tây
Ninh. Bên vợ ky cỏm mua cho căn nhà ván thông ộp ẹp lợp tôn. Khi Phùng Xuân lên
gặp nó thì thấy trước nhà có một xe nước mía. Cha con đang quay quần sống nhờ
cái xe đó.
– Mầy hổng sợ cọp Cọng Sản sao? Mầy còn nuốm níu làm gì?
– Liên xô sụp rồi chắc cũng sắp tới phiên nó.
– Còn tao hông nghĩ vậy. Cọng Sản Việt Nam ác độc, thâm hiểm
khôn lường hơn chắc nó sống dai. Nó giết đồng loại hông gớm tay thì nổi dậy chống
nó hơi khó.
– Nhưng có ngày rồi nó cũng chết.
– Biết chừng nào mậy?
– Mầy đi Mỹ thì sướng cái thân mầy. Mầy sẽ sống một đời ly
hương nơi xứ lạ quê người. Tớ nói thật với cậu nhen. Rút cuộc rồi cậu sẽ như Hồ
công Trừng hay Lý Long Tường thôi. Tớ ở đây, đói tớ có nồi canh rau đay, có cà
dầm tương tớ ăn. Có gì tớ sẽ nói bọn trẻ cái thời thanh bình đã qua. Nói mãi rồi
chúng nó cũng biết mà!
– Tao cũng chưa biết cái xứ Mỹ xa xôi đó như thế nào nữa.
Nhưng ra đi là chấp nhận vì ở đây con cái tao học hành hông được. Tụi nó học đến
tú tài rồi khựng lại, đâu có tiến lên được. Riêng thằng con lai thì bị đì còn dữ
hơn nữa.
“ Hà chính ư mãnh hổ” nên mỗi người phải liều mình ra
đi. Biển Đông sóng gió hung hiểm, giết chết biết bao nhiêu mạng mà người Việt vẫn
liều mình vượt biển cả.
Đành rằng tao sẽ nhớ xứ dừa của tao, nhớ Sài Gòn của tao.
Nhưng ở đâu an cư lạc nghiệp là quê hương mình ở đó. Mầy nói tao như Hồ Công Trừng
hay Lý Long Tường cũng phải, nhưng chỉ đời tao thôi. Con cháu tao ở thế hệ F2,
F3, F4… thì hông như tao. Tụi nó sẽ hông bao giờ nhớ về quá khứ xa xôi và chúng
nó sẽ coi nơi sinh ra, cưu mang tụi nó như là quê hương của tụi nó. Cái quê
hương mình học trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã xa lơ xa lắc rồi mầy ơi!
Mầy đừng bao giờ sống trong quá khứ, sống trong kỷ niệm. Những
thứ đó sẽ làm cho mầy sống dở chết dở trong đời sống. Mà có bao giờ có quá khứ,
hiện tại và tương lai đâu mậy? Đó là ý niệm thôi. Không-thời gian trôi vùn vụt.
Hãy nhìn về phía trước.Có cái gì tồn tại ở phía sau đâu mậy?
Bây giờ, Phùng Xuân cũng hông còn muốn đấu lý với thằng bạn
đã có một thời cùng sống chết với mình. Mấy lần trước hai thằng tranh cãi sôi nổi
về Chiêu Lỳ Phạm Thái. Sau một thời gian đi tù về, mỗi thằng có cái nhìn cuộc sống
hiện tại khác đi. Hai đứa ngồi im lìm một hồi lâu. Đột nhiên Chúc đứng lên, đến
cái bàn kế bên mang bát điếu ra.
– Mời bác!
Phùng Xuân nhìn Chúc, mĩm cười nghe giọng điệu Bắc Kỳ của nó.
Hồi ở tù, hông có thuốc, quá thèm, Xuân đã thử một điếu, say lăn quay mòng
mòng, chút nữa đút đầu vô bếp. Và còn bây giờ, Xuân đã bỏ hút từ lâu. Và nể
tình thằng bạn lâu năm và hơn nữa, có lẽ chẳng khi nào gặp lại nó, Xuân kéo bát
điếu về mình, ve ve viên thuốc… Và rồi vói lấy nang tre đốt cho cháy… Tiếng nước
trong bình kêu ro ro. Phùng Xuân chưa kịp thả hơi dài tuôn ra thì đã thấy trời
đất ngã nghiêng. Đâu đây văng vẳng tiếng Chúc ngâm nga(?)
Thế sự du du nại lão hà.
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận hãm anh hùng ẩm hận đa…
Đúng rồi… Đới nguyệt ma… Đặng Dung. Mài gươm dưới trăng sáng ngà! Đâu phải là trăng suông đâu! Mệnh nước nổi trôi, lúc thịnh lúc suy. Có một ngày, có người mài gươm vung lên giúp nước. Nước Việt gấm vóc sẽ huy hoàng.
Việt Nam năm 1966
Florida năm 2016
Lê Phùng Xuân
Lời cuối sách
– Bản thảo và tài liệu bị mất, môi trường sống bị xáo trộn mấy
bận, nên người viết phải viết đi viết lại nhiều lần. Vì thế thời gian kéo dài từ
năm 1966 đến năm 2016 mới có thể viết xong.
– Một vài tên người trong truyện nếu có trùng tên là ngoài ý
muốn của người viết.
– Phần viết về đời lính có nhiều chữ tục tĩu. Nếu bỏ, hông lột
trần được hết đời sống của họ, nên giữ lại. Xin bỏ qua cho.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét