Đọc "Văn học Việt Nam hiện đại
Sáng tạo và tiếp nhận"
Tập tiểu luận phê bình “Văn học Việt Nam hiện đại -
Sáng tạo và tiếp nhận” (NXB Văn học, 2015) của PGS,TS Bích Thu vừa được trao
giải A tặng thưởng năm 2015 của Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật
Trung ương. Đây là một kết quả xứng đáng cho nỗ lực nghiên cứu văn học nước nhà
của nữ tác giả Bích Thu.
Tập tiểu luận phê bình, như lời thừa nhận của nhà nghiên cứu
Bích Thu, là bước tiếp theo của quá trình “theo dòng văn học” mình theo đuổi bấy
lâu nay, tập trung vào việc phân tích và nhận diện văn học Việt Nam hiện đại,
xoay quanh bình diện sáng tạo và tiếp nhận qua các hiện tượng văn học, các vấn
đề về thể loại, và sáng tác của một số nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận,
phê bình đã có những đóng góp đối với đời sống văn học dân tộc qua các giai đoạn.
Lần giở từng trang sách, đọc từng bài, chúng ta không khỏi
khâm phục sức đọc rộng và sức viết dồi dào của tác giả. Chỉ trong vẻn vẹn 600
trang sách, bằng sự đa dạng trong cách thể hiện (có tiểu luận nghiên cứu chuyên
sâu, có phê bình chân dung, phê bình hiện tượng, có điểm sách…) nhà nghiên cứu
Bích Thu đã trình bày vừa cô đọng, vừa khái quát hơn một thế kỷ văn học Việt
Nam với hàng chục nhà văn, hàng trăm tác phẩm tiêu biểu, với những thể loại,
trào lưu văn học trải dài qua những giai đoạn phân kỳ lịch sử phức tạp. Đặc biệt
với phần viết về tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ 21 và những tác phẩm
xuất hiện trong khoảng thời gian gần đây, tập tiểu luận phê bình còn bao gồm cả
phần văn học Việt Nam đương đại chứ không chỉ có phần hiện đại như cách nói khiêm
tốn của tác giả.
Trở lại với nội dung của tập tiểu luận phê bình, theo chúng
tôi, phần làm nên cái tầm của tác giả nằm ở loạt bài nghiên cứu mang tính liên
hoàn về tiểu thuyết và ký trong phần 1: Thể loại, đặc trưng và phát triển. Nhà
nghiên cứu Bích Thu dành đến 5 (trên tổng số 10 bài của phần này) bài viết bàn
về tiểu thuyết tương ứng với 5 giai đoạn phân kỳ của văn học Việt Nam là
1900-1932, 1932-1945, 1945-1975, 1986-2000, 2001-hiện tại. Các bài viết đều
tuân theo trục nghiên cứu thống nhất: Bối cảnh thời đại-những đặc điểm
chung-tác giả tiêu biểu-tác phẩm tiêu biểu. Đây là trục nghiên cứu có tính chất
“mô phạm”, “cổ điển” được các nhà nghiên cứu rất ưa thích vì nó vừa bao quát diện
mạo chung, vừa xoáy vào những điểm nhấn cốt yếu của cả giai đoạn. Điểm thú vị
trong cách nghiên cứu của tác giả nằm ở phần bàn về tác phẩm. Bất kỳ tác phẩm
nào cũng được nhà nghiên cứu Bích Thu khảo sát xoay quanh ba vấn đề: Cốt truyện-nhân
vật-ngôn ngữ. Hiện tại chúng ta có thể tiếp cận tiểu thuyết theo các hướng khác
nhau, bằng nhiều phương pháp khác nhau, từ tiếp cận không gian, thời gian bằng
thi pháp học và sinh thái học; tiếp cận yếu tố tâm linh, vô thức bằng phân tâm
học; tính nhân văn bằng nhân học; yếu tố trần thuật bằng tự sự học… nhưng việc
chọn ba vấn đề trên nghiên cứu tiểu thuyết theo chúng tôi vẫn là một cách tiếp
cận hợp lý. Đây là ba vấn đề trọng yếu nhất của tiểu thuyết. Bất cứ sự cách
tân, sáng tạo nào của tiểu thuyết cũng đều liên quan mật thiết đến ba vấn đề
trên. Mặt khác, để khảo sát ba vấn đề trên của tiểu thuyết đòi hỏi tác giả phải
sử dụng kiến thức mang tính chất tích hợp (nhiều phương pháp nghiên cứu văn học
với nhau) và liên ngành (văn học và ngôn ngữ học) nhằm đưa ra những kiến giải của
mình. Và có thể nói, nhà nghiên cứu Bích Thu đã hoàn thành “nhiệm vụ” khó khăn
này. Qua 5 bài viết của chị, người đọc sẽ hình dung ra diện mạo tiểu thuyết Việt
Nam trong hơn một thế kỷ và bắt gặp nhiều phát hiện về tiểu thuyết qua từng
giai đoạn như: “Các cây bút sau Đổi mới đã có ý thức đi sâu vào thế giới nội tâm
để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực…
Ngòi bút nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức của con người, khai thác
"con người ở bên trong con người” (trang 59); “Ngôn ngữ tiểu thuyết Việt
Nam từ sau 1986 đã nỗ lực hướng đến sự đa thanh, đến tính đa âm nhưng hầu như
đó là sự đa âm về sắc điệu cảm xúc, về sắc thái thẩm mỹ hơn là khuynh hướng tư
tưởng” (trang 111).
Trong loạt 3 bài bàn về ký, nhà nghiên cứu Bích Thu đã giải
quyết “dứt điểm” hàng loạt vấn đề quan trọng của thể loại như sự tương đồng và
khác biệt giữa các thể loại ký, truyện ký là một thể ký hay là “đứa con lai” giữa
truyện ngắn và ký, các chặng đường phát triển của ký, các tác giả ký tiêu biểu.
Đặc biệt, bằng nguồn tư liệu phong phú, tin cậy, cách lập luận có hệ thống, sắc
sảo, khoa học, nhà nghiên cứu Bích Thu đã lên tiếng ủng hộ, khẳng định: Ký có
quyền hư cấu. Đây là khẳng định cần thiết, chính xác, góp thêm một tiếng nói
“giải phóng” cho các nhà viết ký khỏi bức tường “sự thật” để đưa thể loại rất
quan trọng trong thời đại báo chí toàn cầu ngày nay phát triển lên một bước mới.
Nếu như loạt bài trong phần 1, Bích Thu đã chứng tỏ được những
phẩm chất cần thiết của một nhà nghiên cứu, thì ở phần 2 Nhà văn chân dung và lối
viết, chị lại cho người đọc thấy sự nhạy bén, tinh tế của mình qua những lời
bình. Đọc những bài viết của chị về thơ Ngân Giang, Bích Khê, Dương Kiều Minh,
truyện ngắn Lưu Quang Vũ… người đọc cảm nhận được tác giả dường như đang “đồng
sáng tác” với người cầm bút. Có vậy, chị mới viết nên những lời bình: "Còn
Ngân Giang với vẻ đẹp rất đàn bà và quý phái của mình thì trong đời và trong
thơ là một liên khúc buồn. Dường như hàng chuỗi những giọt buồn đã nhỏ xuống và
thẩm thấu trên các trang thơ của bà” (trang 42). Điểm đáng tiếc duy nhất ở phần
này và cũng là của cả tập tiểu luận phê bình là tác giả quá “ôm đồm” nhiều bài
viết lẻ theo kiểu viết được bao nhiêu thì đưa vào bấy nhiêu. Nếu “tinh tuyển”,
hệ thống lại để phần 2 “cân bằng” với phần 1, giá trị của cuốn sách sẽ được
nâng cao hơn. Nhưng dẫu sao "Văn học Việt Nam hiện đại-Sáng tạo và tiếp nhận"
cũng là một thành công của tác giả.
1/4/2016
Trang Anh
Theo https://www.qdnd.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét