Thử nghĩ về những yếu tố làm nên thơ hay
Chứng chỉ cho danh hiệu nhà thơ là những bài thơ
hay. Nhưng thế nào là thơ hay? Trả lời câu hỏi này không đơn giản và khó mà có
được sự nhất trí.
Trước hết là do sự phân hóa về thị hiếu, quan điểm thẩm mỹ. Lưu Hiệp - nhà thi
học cổ Trung Hoa đã nói về điều này trong tác phẩm nổi tiếng Văn tâm điêu
long: “Người khảng khái gặp được âm điệu kích ngang thì vỗ nhịp. Người hàm súc
gặp bài văn chặt chẽ cứ theo đi. Người hời hợt thấy văn chương màu mè đã rung động.
Người ưa tân kỳ được câu thơ lạ cứ thích nghe. Hợp mình thì ngợi khen, khác
mình thì bỏ mặc”.
Hơn nữa,
quan niệm về thơ và thơ hay có tính lịch sử. Mỗi thời đại quan niệm thơ mỗi
khác. Hàng ngàn năm Trung đại, chịu ảnh hưởng của mỹ học cổ Trung Hoa ông cha
ta yên tâm làm thơ bằng chữ Hán, rồi sau đó bằng chữ Nôm với hình thức thơ Đường
khuôn mẫu, niêm luật chặt chẽ, đăng đối. Tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Phong
trào Thơ mới 1932-1945 đã làm một cuộc cách mạng thi ca, đưa thơ Việt Nam vào
thời kỳ hiện đại. Tính sáng tạo được đặt lên hàng đầu:
–
Lòng rộng quá chẳng chịu khung nào hết
Chân tự
do đạp phăng cả hàng rào
–
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
(Xuân Diệu)
Thời
chúng ta đang sống sự phân hóa về thị hiếu, quan điểm thẩm mỹ càng trở nên vô
cùng phức tạp. Bên cạnh đó khi cánh cửa rộng mở, các quan điểm, trường phái thơ
thế giới cũng theo đó mà ảnh hưởng vào Việt Nam. Những tranh luận quyết liệt
xung quanh các xu hướng thơ “hiện đại”, “hậu hiện đại”, “tân hình thức… trong
những năm qua cho thấy điều đó.
Tuy vậy,
cũng lại phải thừa nhận rằng, thơ dù có hàng ngàn vạn nhánh phát triển thì vẫn
có chung bản chất là nghệ thuật ngôn từ. Trên cơ sở chung ấy có khoảng tự do
mênh mông cho sáng tạo. Có bao nhiêu nhà thơ chân chính thì cũng có bấy nhiêu
cách cảm nhận thế giới, cảm nhận con người và cách thể hiện nghệ thuật khác
nhau, tạo nên sự đa dạng, phong phú muôn mặt của thơ. Nhưng sự đa dạng đó không
loại trừ cái chung trong quan niệm về thơ hay. Có người đã nói rất thú vị rằng
người đẹp ở đâu cũng lấy được chồng, đã là thơ hay thì thế nào cũng sẽ được tiếp
nhận. Các hiện tượng phức tạp như thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê từ sự tri âm của
Hoài Thanh, Chế Lan Viên dần dần đã được đông đảo người đọc tán thưởng.
Điểm gặp
gỡ trong quan niệm về thơ hay, theo chúng tôi là xuất phát từ nguyên lý tính
nhân bản: nghệ thuật thuộc về con người, nghệ thuật sáng tạo theo quy luật của
cái đẹp. Thơ hay dù cao siêu, tân kỳ đến mấy cũng sẽ đến được với độc giả nhờ
khả năng đồng cảm kỳ diệu của con người, trước hết là của những người có cảm
quan tinh tế và am hiểu thơ ca hàng đầu.
Thơ vô
cùng phong phú, đa dạng. Có thơ hay một cách giản dị, trong sáng. Lại có thơ
hay trong sự phức tạp, không dễ hiểu. Thật là thiên hình, vạn trạng. Nhưng tôi
cho rằng thơ hay là thơ giàu chất nhân bản, có những ý tưởng minh triết về đời
sống, và có sáng tạo về thi pháp. Bài thơ hay là khi “đọc thì xúc động, nghĩ
thì sâu xa” với những dư âm, dư vị không cùng.
Bài
thơ hay là một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn. Mỗi bài thơ hay có một vẻ riêng, độc
đáo, không lặp lại. Có thể nói đến những yếu tố chính làm nên thơ hay như sau.
Thơ hay là khi có nội dung trữ tình giàu tính nhân bản và mới
lạ
Những
gì xuất phát từ trái tim mới đến được với trái tim. Các thời đại đi qua nhưng
trái tim con người có những hằng số, trong đó có sự xúc động trước tình người.
Đức lớn
của trời đất là lòng hiếu sinh. Niềm hạnh phúc, tình yêu của con người với con
người, của con người với thiên nhiên tất yếu là nội dung trữ tình của thơ ca.
Nhưng đó mới là một nửa sự thật đời sống. Nhìn một phía khác thì chiến tranh,
nghèo khổ, bệnh tật, tai ương, tử biệt sinh ly… luôn rình rập, vây bủa kiếp người.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói đời là bể khổ. Con người xứng đáng là đối
tượng ngợi ca đồng thời cũng là đối tượng để cảm thông, thương xót, nâng đỡ.
Thi hào Pháp Alfred De Musset đã viết:
Không
gì làm ta lớn lên bằng những nỗi đau
Vần
thơ đau thương là vần thơ đẹp nhất
Những
tác phẩm như Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du
là những tiếng kêu đứt ruột thương xót cho những kiếp người “trong trường dạ tối
tăm trời đất”.
Có những
hiện tượng thơ nhất thời được đề cao, tán tụng nhưng về lâu dài không tác phẩm
nào được gọi là lớn, là hay mà lại xa rời tính nhân bản.
Thơ
hay được sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, nhưng đó là cái đẹp mới. Chế Lan
Viên đã viết: “Phân chia bờ cõi thơ bằng hai chữ mới, cũ chẳng có ý nghĩa gì”.
Nhà thơ Nga A.Voznesensky cũng cho rằng: “Không có mới và cũ, chỉ có tài và bất
tài mà thôi. Ai có tài thì người đó mới”. Theo chúng tôi, vấn đề không đơn giản
như vậy. Cùng một cô gái đẹp nhưng vận áo tứ thân, nón thúng, quai thao và diện
mốt 2018 cho ta hai vẻ đẹp khác nhau: Một cái đẹp đã thuộc về quá khứ và một
cái đẹp của hôm nay. Thơ cũng vậy. Có nội dung thời đại thì cũng có hình thức của
thời đại.
Nhà
thơ là người không chịu nhìn cuộc sống theo “lẽ phải thông thường” đã trở nên
quen thuộc, sáo mòn. Đối tượng công phá thường trực của thơ là sự rập khuôn,
máy móc của tư duy, của cách cảm, cách nghĩ, cách viết mà người ta sa vào một
cách tự động, nhiều khi không tự biết. Thơ phải gây được hiệu ứng tâm lý ngạc
nhiên, thú vị và khâm phục ở người tiếp nhận: Ngạc nhiên ở khả năng nhìn ra cái
mới nơi thế giới quen thuộc, ngạc nhiên ở khả năng nới rộng tính nhân bản của
con người. Bài thơ Tôi yêu em của A.Pushkine là một ví dụ. Vượt lên sự
thường tình, câu thơ “Cầu cho em được người tình như anh đã yêu em” của Thi hào
sẽ mãi mãi được ghi nhớ. Ấn tượng mới lạ cũng thật đậm nét với bài thơ Ngập
ngừng của Hồ Dzếnh: “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”. Mùa Xuân là mùa mở
đầu một năm nhưng với Xuân Diệu thì “Xuân không mùa”…Chế Lan Viên đã bàn về thơ
đầy ý vị tuyên ngôn: “Làm thơ là làm sự phi thường”.
Làm
thơ là vừa tự nói với mình, vừa gửi đến người nghe, người đọc một thông điệp.
Thông điệp ấy có thể là một cảm xúc, một tâm trạng, một suy nghĩ có tính minh
triết, một kinh nghiệm thẩm mỹ về cuộc sống, con người và về bản thân ngôn ngữ.
Vấn đề là những thông điệp ấy phải thực sự mới mẻ. Bài thơ dân gian “Con cóc”
là biếm họa điển hình về loại thơ dở, không có thông điệp gì đáng nói.
Bài thơ hay là khi có cấu trúc tứ thơ độc đáo
Về tầm
quan trọng của tứ thơ, Xuân Diệu đã viết: “Ngôn từ, lời chữ, vần rất quan trọng,
bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái quan trọng thứ hai. Mà
cái quan trọng thứ nhất làm rường cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả
bài. Làm thơ khó nhất là tìm tứ”.
Cấu
trúc tứ thơ là kết quả của tư duy sáng tạo, là mô hình nghệ thuật tổng quát làm
cho mọi thành phần, yếu tố đều tập trung cho ý đồ nghệ thuật, cho chủ đề của
bài thơ. Nhà thơ Anh S.Koleridgơ cho rằng: “Một bài thơ hay là những ngôn từ
sáng giá trong một cấu trúc hoàn hảo”. Tứ thơ cho thấy rất rõ tài năng sáng tạo
của nhà thơ. Tôi nhớ mãi bài thơ Đêm đến chống chiến tranh phát xít của
nhà thơ Đức Bertolt Brecht chỉ gồm 2 câu:
Hôm
nay những lứa đôi yêu nhau
Ngày
mai những đứa trẻ mồ côi ra đời.
Cái
găm vào trí nhớ ta là cấu trúc tứ thơ độc đáo của bài thơ.
Tứ thơ phong phú, đa dạng do sáng tạo là thuộc tính của thơ. Yêu cầu lý tưởng
là mỗi bài thơ phải có một cấu trúc tứ thơ độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên
trong thực tiễn sáng tạo thơ ta thường gặp một số kiểu cấu trúc tứ thơ như:
Cấu trúc tứ thơ quy nạp
Ở những
bài thơ có mục đích thuyết phục người đọc một ý tưởng nào đó, cấu trúc tứ thơ
thường có dạng vận động từ cụ thể đến khái quát. Bài thơ “Tiếng bom ở Seng
Phan” (Phạm Tiến Duật) là một thí dụ tiêu biểu.
Cấu trúc tứ thơ diễn dịch
Nhà
thơ đưa ra một nhận định khái quát về cuộc sống, con người rồi diễn dịch bằng
nhiều ý thơ như những luận điểm nhằm thuyết phục người đọc. Tiêu biểu là bài
thơ “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” của Chế Lan Viên.
Cấu trúc tứ thơ đối lập
Tứ thơ
dạng đối lập có tác dụng làm nổi bật tư tưởng chủ đề của bài thơ. Theo quan sát
của chúng tôi, tứ thơ dạng đối lập được rất nhiều nhà thơ sử dụng làm nên những
bài thơ hay. Ví dụ bài “Hai câu hỏi” (Chế Lan Viên):
Ta
là ai ? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi
hư vô thổi nghìn nến tắt.
Ta vì
ai? Sẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn
tay người thắp lại triệu chồi xanh.
Cấu trúc tứ thơ tương đồng
So
sánh tương đồng là một thao tác tư duy thường xuyên của con người nhằm làm nổi rõ
đối tượng nhận thức. Cấu trúc tứ thơ tương đồng đưa đến hiệu quả là làm nổi bật
chủ đề trữ tình. Bài thơ “Không đề” (Khuyết danh - Triều Tiên) là một ví dụ:
Khi
trên khung cửi chỉ đứt
Cần mẫn
em ngồi
Dùng
răng dùng môi
Hai đầu
nối lại.
Khi đứt
chỉ tình yêu, ơi cô gái
Em
cũng nên làm như thế đừng quên.
Cấu trúc tứ thơ ý tại ngôn ngoại
Đây là
loại cấu trúc tứ thơ đặc biệt tinh tế khiến ta đọc ra cái “vắng mặt” trong văn
bản. Các nhà thơ Việt Nam và Trung Quốc xưa thường sử dụng loại tứ thơ này làm
nên nét đặc trưng thơ Á Đông. Bài “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương có cấu
trúc tứ thơ dạng này.
Cấu trúc tứ thơ song song
Ở cấu
trúc tứ thơ song song, các khổ thơ trong bài đều có một thành phần điệp cú hoặc
điệp ngữ. Tính lặp lại như vậy làm nên cấu trúc độc đáo của bài thơ. Ví dụ bài
“Tự nhủ” của Bế Kiến Quốc:
Bàn
chân ơi, ta đưa ngươi đi
Mọi nẻo
đường dù có khi ngươi vấp
Có khi
dẫm vào gai và biết đâu có khi…
Ta phải
đi vì ta yêu mục đích.
Vành
tai ơi, ta đưa ngươi đi
Đến miệng
đời dù nghe lời đắng chát
Lời
thô bỉ và biết đâu có khi…
Ta phải
nghe vì ta yêu tiếng hát.
Tất
nhiên, trong thực tiễn sáng tạo, còn rất nhiều kiểu tứ thơ độc đáo, giàu tính
sáng tạo khác cần phải được tiếp tục tìm hiểu.
Bài thơ hay là khi có nhạc tính độc đáo
Quan
niệm thơ đã thay đổi rất nhiều theo thời gian, trường phái, cá tính sáng tạo của
nhà thơ… nhưng có một nguyên lý bất di bất dịch: Thơ phải có tính nhạc. Tính nhạc
không chỉ phân biệt thơ với các loại hình nghệ thuật ngôn từ khác mà còn làm
cho mỗi bài thơ là một sinh thể nghệ thuật. Có thể thấy mỗi bài thơ hay thật sự
có một cấu trúc nhạc tính riêng.
Bàn về
thơ, Mallarmé cho rằng: “Nhạc phải đi trước mọi sự”. Có thể dẫn ra rất nhiều
bài thơ hay có nhạc tính độc đáo như: Say (Vũ Hoàng Chương), Màu
thời gian (Đoàn Phú Tứ), Nguyệt cầm (Xuân Diệu)… Các bài thơ của
Bích Khê như Hoàng hoa, Tỳ bà có một chất nhạc rất lạ và rất hấp
dẫn.
Trong
thơ cổ, tính nhạc có tính chất khuôn mẫu và đã được đúc kết trong các thể thơ.
Lao động sáng tác của nhà thơ gợi người ta nghĩ đến công việc soạn lời cho các
làn điệu dân ca. Trong thơ hiện đại, mỗi bài thơ phải có tính nhạc độc đáo. Ở mỗi
bài thơ hay ta thấy lời thơ được linh cảm về nhạc của thi sĩ dẫn dắt, nhịp điệu
vừa tự do, vừa liên hệ với kết cấu nhạc tính toàn bài, cuốn hút người đọc. Thậm
chí nhạc có thể đi trước ngữ nghĩa, ta chưa kịp hiểu đã cảm thấy hay, như trong
thơ tượng trưng.
Bài thơ hay là khi có ngôn ngữ thơ mới lạ
Thơ là
nghệ thuật ngôn từ. Nhà thơ là nghệ sĩ ngôn từ. Một nguyên lí của thơ là ngôn
ngữ phải mới lạ. Thơ không chấp nhận thứ ngôn ngữ quen thuộc đến sờn mòn. Tuổi
trẻ hôm nay không ai tỏ tình bằng ca dao: “Đến đây mận mới hỏi đào/ Vườn hồng
có lối ai vào hay chưa”. Để diễn tả cảm xúc yêu đương thơ hôm nay sẽ có cách
nói khác, phù hợp với tâm lý cảm nhận của người đọc hiện đại.
Mới lạ là yếu tính của ngôn ngữ thơ. Đã có hàng triệu câu thơ về tình yêu,
Maiacovsky vẫn tìm được cách nói mới:
Anh
yêu em
Như
người thương binh yêu cái chân còn lại của mình.
Nhiều
câu thơ găm vào trí nhớ của ta do sự sáng tạo, mới lạ:
Từ trời
xanh rơi vài giọt tháp Chàm
(Văn Cao)
Tôi
già hơn em một cuộc chiến tranh
(Thu Bồn)
Tôi
khóc những chân trời không có người bay
Lại
khóc những người bay không có chân trời
(Trần Dần)
Ngôn
ngữ thơ đối lập với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ hàng ngày và ít khi là lời nói
thẳng. Có vô vàn thủ pháp nghệ thuật để lạ hóa ngôn ngữ như nhân hóa, ẩn dụ, so
sánh, cường điệu, nói giảm, nói vòng, động từ hóa tính từ…Lạ hoá trong thơ hiện
đại được đẩy lên một nấc mới khi tự do, táo bạo trong việc kết hợp từ. Nhiều
trường hợp dẫn đến phi giao tiếp nhưng cũng không ít khi có những sáng tạo mới
lạ như: “Biển pha lê”, “đêm thuỷ tinh”, “lệ ngân”…(Xuân Diệu). “Nắng thuỷ tinh”
trong thơ Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn ánh lên một vẻ đẹp mới lạ.
Bài thơ hay là khi có sáng tạo về nghệ thuật
Bài
thơ là một giá trị tổng hợp, nhưng trước hết là nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy các
thủ pháp nghệ thuật có một vai trò quan trọng. Chất thơ thể hiện không chỉ ở nội
dung trữ tình (nói điều gì?) mà còn ở chỗ nhà nghệ sĩ ngôn từ đã sáng tạo bằng
các thủ pháp nào.
Trên
hành trình phát triển thơ vừa tích luỹ các thủ pháp nghệ thuật truyền thống, vừa
không ngừng sáng tạo các thủ pháp mới. Nhận diện những bài thơ hay trong thơ hiện
đại là không đơn giản do sự sáng tạo đã nới rộng đường biên lãnh địa thơ. Sáng
tạo của nhà thơ thường vượt lên trước tầm đón nhận của công chúng bạn đọc. Nghĩ
về Bích Khê, Chế Lan Viên đã viết: “Có những người làm thơ. Lại có những người
vừa làm thơ vừa đẩy thơ về phía trước. Khê thuộc loại thứ hai”. Với phong trào
Thơ mới, ngoài những thủ pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…, thơ Việt
Nam đã giàu có thêm các thủ pháp mới như: miêu tả khách thể thẩm mỹ một cách cụ
thể, cảm tính (thơ “tả chân”), tương hợp cảm giác, đặt cạnh nhau những từ xa
nhau về ngữ nghĩa, kết cấu bài thơ bằng nhạc tính…
Tất cả
kinh nghiệm sáng tạo thi ca cổ, kim, đông, tây… đều có ích, nhưng điều quan trọng
là nhà thơ phải sáng tạo nên những thủ pháp nghệ thuật mới mẻ, mang dấu ấn
phong cách riêng. Tư duy thơ tương hợp gắn với tên tuổi của nhà thơ tượng trưng
Pháp Ch.Baudelaire. Hình thức thơ bậc thang gắn với Nhà thơ Nga V.Mayacovsky…
Như vậy,
mỗi tác phẩm thơ hay “là một phát minh về nội dung đồng thời là một phát minh về
hình thức” (Leonid Leonov).
29/12/2018
Phạm Quốc Ca
Theo http://vannghethainguyen.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét