Đồng quê ngân khúc hát Đọc tập thơ Khúc sơn ca của Mai Thìn, Con người rất công bằng khi tặng chim sơn ca mỹ danh: ca sĩ của
đồng quê. Trong vô vàn thanh âm tuyệt diệu của các loài chim hót, chim gáy, sau
lớp vỏ khiêm tốn về hình thể và sắc màu, sau những hòa lẫn chân phác với đất
cày đồng bãi, bất ngờ sơn ca vút lên mênh mông trời mênh mông đồng rồi thả xuống
từng chuỗi từng chuỗi thanh âm lộng lẫy đến khi cái chấm nhỏ nhoi đã hòa vào nắng
xanh xa thẳm, vẫn còn vòng vọng không dứt tiếng chim hư thực.Tôi đã nghĩ về thơ và thơ Mai Thìn từ chim sơn ca.Sau các tập Cổ tích tình yêu, Hai mảnh yêu thương (in chung với Quang Vĩnh Khương) và Đồng quê, Khúc sơn ca đã thể
hiện một sự lựa chọn và bản lĩnh thơ. Lựa chọn đề tài và kỹ thuật phù hợp với tạng
tư duy, cảm xúc khi đối diện khách thể sẽ tạo ra chất thơ riêng từng người khó
trộn lẫn. Về căn bản, Mai Thìn là nhà thơ của đồng quê. Cái chất này
đã bộc lộ nhiều trong những tập thơ trước. Khúc sơn ca là sự tập
trung có chủ ý qua một biểu tượng trữ tình xuyên suốt: chim sơn ca. Hai phần rạch
ròi của tập thơ: Nơi sơn ca làm tổ và Khúc sơn ca diễn nôm
là quê hương và tình yêu, thực ra cũng không hề rạch ròi, chim sơn ca là tinh
túy của hồn làng, đồng bãi, là cái tôi của tác giả nói với quê hương, với đối
tượng, là chứng nhân là cầu nối của tình yêu nam nữ - chim sơn ca lúc ẩn lúc hiện
giúp nhà thơ làm tròn nhiệm vụ khám phá chính bản thân mình trong các mối quan
hệ và do vậy, chim sơn ca là cái đẹp, là khát vọng vươn tới cái đẹp, cả nỗi đau
và hạnh phúc.Nơi nhà thơ gieo trồng cái đẹp có địa chỉ hẳn hoi, vùng đất
này trở đi trở lại trong tập thơ những địa danh, những di tích, phế tích, huyền
tích của quê hương Bình Định: thành Hoàng đế, chợ Gò Găng, núi Mò O, sông Quai
Vạc, những Văn miếu, Trường Thi, Bến Gỗ… cả những sản vật địa phương: lá trầu
không, rượu Bàu Đá, nón Gò Găng, nhà lá mái, hát bội… cả món ăn dân dã nữa:
bánh ít lá gai gói trong tàu chuối, bột mì nhứt, tán đường đen, thạp
cải muối chua… Như đã nói trên, đây là sự lựa chọn và bản lĩnh thơ, bởi vì viết
về một vùng đất đã có các cuốn dư địa chí. Tác giả xác định rõ mục đích của
mình:“Nếu thực tình có một kiếp sau,
tôi không làm thơ, không viết báo, không họp hành… mà xin trở về làm một nông
phu chăm bón ruộng vườn đuề huề trăng gió.Những nàng thiếu nữ nông quê
tóc thề bết áo lúng liếng tròn theo tiếng sơn ca từng giọt đậu từng giọt bay
thon thả, tiếng hót rơi vung vãi trên đồng”.(Khúc
1)Có lúc thái độ khá quyết liệt: “Rời thành phố đi em/ những
căn nhà trống rỗng tâm linh/ ngột ngạt lo toan dâu bể/ mình trở về nơi đã sinh
ra.” (Rời thành phố đi em). Để thuyết phục, chàng mô tả ngôi nhà:“Chiếc
lư thờ đầy ắp tàn trohàng
cột cái tựa mòn vai áobậc
thềm nhà mình những ngày mưa bãogiọt
nước mái tranh róc rách cá rô nằmcau
cũng tốt mà trầu cũng tốtmẹ hái
đầy mấy giỏ hồi dâu(Trong
ngôi nhà lá mái)Và cả không gian này nữa:Tiếng
chim mùa này ríu rít đã đông hơndồng
dộc treo những chiếc giày lơ lửngbện
bằng rơmbằng cỏbằng tóc em xanhMăng
mùa mưa giờ đã đâm cànhanh
hái lá giang nấu canh chua cácho
thêm me, thêm khế, thêm hànhngày
xưa mẹ thường đi chợmua
tán đường đen ăn bánh tráng mè đen…(Rừng trúc)Nếu nàng chịu về thì sẽ có cảnh: “Anh chặt cây em hái lá
dựng lại ngôi nhà nghìn năm trước của ông cha. Trên mỗi cột kèo xiên trính đòn
tay anh chạm nổi chạm chìm tiếng chim reo hót thanh bình tỏa ngập non xanh.” (Rời thành phố đi em).Không biết chất lãng mạn này có làm xiêu lòng cô gái tân kỳ
nào không, nhưng dựa vào vùng đất, ngôi nhà của ông cha ngàn năm thì chàng đã tạo
cho mình không gian thơ riêng. Không gian này là những vỉa tầng văn hóa đôi khi
xa khuất trong trong nhạt nhòa ký ức và tâm tưởng. Như Bến Gỗ. Bến nước từng sầm
uất thuyền xe thương khách xuôi ngược, có anh Hai Trầu Nguyễn Nhạc và những hảo
hán cùng thời dựng nghiệp Tây Sơn, Bến Gỗ của một thời ngựa hí gươm khua, một
thời sống động huyền sử dìm chuông… Kết thúc những hồi tưởng ngược thời gian,
tác giả viết:“Bến
Gỗ giờ đâuđâu
còn Bến Gỗmột
cái tênlàng
không nhớkhông
quên…”Rất mạch lạc, dung dị mà cũng rất gợi: đây là độ chín thực sự
trong thơ.Trên nền chung làng quê cạnh thành Hoàng Đế đầy biến động
ngàn năm qua của mình, Mai Thìn, như bao nhà thơ khác, cũng viết về ngôi nhà, về
những người thân. Điều không cũ không mới này vẫn cứ riêng khi gắn với ngôi nhà
lá mái, kiến trúc cổ độc đáo của quê anh, của Bình Định:“Bóng
cha già bao mùa giỗ trên đồihương
vẫn ấm trong căn nhà lá máitội
cột kèo, giường đôi, phên giạichòng
chành thêm thềm bếp khói chiều.”(Mùa
chim làm tổ)Hoặc:“Các
con rong ruổi đường đờikhông
mang theo được góc trời quê hương mái
nhà tranh, gốc trầu vườncột
kèo xiên trính khói hương bàn thờ…bây
giờ dáng mẹ hao mònvào
ra thơ thẩn nhớ con, nhớ làng.”(Nhớ
quê)Đã thấy một Mai Thìn cực đoan trong việc tìm không gian
cho sơn ca làm tổ, một không gian sống anh cho là lý tưởng, tất nhiên cả những
khổ đau và hạnh phúc. Có lúc anh reo lên: “Em đã cho tôi dòng sữa ngọt từ
chiếc cốc xinh ứ tràn hạnh phúc”; có lúc mong đến cháy lòng: “Cả chiều nay
anh mong một đám mây xanh, mong một tia nắng lành, mong ngọn gió nồm tuổi nhỏ
đưa em về trên con đường đầy lá tre rơi của quê hương anh đó”. (Đường quê
hương) Rồi sơn ca cũng về. Khát vọng kiếm tìm cũng thành hiện
thực. Điều quan trọng là cả sự chấp nhận này nữa:“Em
đến như thế nào thì hãy cứ thế mà đichậm
cũng được mà nhanh cũng đượcđời
muôn màu hà cớ phải buồn đautrái
tim nhỏ nát nhàu bên cửabầm
dập xơ dừa cọ miết bàn chân”.(Em
đến như thế nào thì hãy cứ thế mà đi)Trái tim được ví như tấm thảm dừa
chùi chân thì chấp nhận trả giá quá lớn cho không gian sống mà anh dày công xây
dựng!Chắc là thế, chim sơn ca của cái đẹp, cái khát vọng trở về với
uyên nguyên thuần khiết không dễ dàng gì. Đây là ẩn ngữ của tập thơ, cái lõi
triết lý của tập thơ.Tới đây thì cái điều ngờ ngợ khi đọc rằng, ngoài nhiều bài
thơ hay, chặt chẽ, có cảm giác một số bài thơ như còn dang dở, như bỏ lửng là
đúng, là có chủ ý. Những bài thơ hiện dần theo trục cảm xúc quanh biểu tượng
sơn ca như những mảnh chất liệu xây tổ dựng nhà, nỗi đau và hạnh phúc. Cấu trúc
dọc của tập thơ luôn tạo cảm giác còn điều gì đó chưa thỏa mãn, còn những bí ẩn
cần khám phá và do vậy tự nó, những bài thơ có vẻ còn dang dở kia dẫn người đọc
dần đến cuối tập. Cấu trúc này không hẳn không có mặt hạn chế trong tiếp nhận
và thưởng thức, nhưng phù hợp với lựa chọn chung để đạt được chủ đích toàn tập
thơ.Con chim khiêm tốn về hình thể và sắc màu đã vút lên, đã trỗi
giọng. Vỏ ngôn ngữ và vẻ đẹp thơ. Đồng quê và khúc hát, chốn yên bình nuôi dưỡng
hồn người, một đồng quê của ngàn năm trầm tích nhưng lãng mạn và hiện đại trong
cách thể hiện. Quan niệm sống cũng là quan niệm thơ đã hòa quyện… Tôi nghĩ về
những điều này khi đọc xong Khúc sơn ca, tập thơ chắc tay, tạo được dấu ấn
riêng của Mai Thìn. 19/5/2006
Lê Hoài Lương
Theo https://www.vanchuongviet.org/
x
Lê Hoài Lương
Theo https://www.vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét