Trăng suông 1
PHẦN 1
Một thời trai trẻ
Chiếc xe đò Á Đông chạy vùn vụt trên đường Sài Gòn-Mỹ Tho.
Phùng Xuân ngồi ghế bìa. Gió thổi phần phật. Chàng đang sung sướng nhìn ra đồng
ruộng Tân An mênh mông cò bay thẳng cánh. Đã là tháng bảy rồi. Đồng lúa
xanh xanh mút mắt. Cuối chân trời, những đàn cò trắng bay thong thả và những
đám chim lá rụng rập rờn lên xuống. Có những đoạn đường xe đò chạy song song với
đường xe lửa. Đột nhiên Xuân nhớ lại những chuyến xe lửa thú vị. Ngồi chỗ bậc
thang lên xuống ở những toa hàng hóa, chàng mặc tình ngắm nhìn đồng ruộng, ca
hát và suy nghĩ vẩn vơ mà hông bị quấy rầy… Nhưng bây giờ, xe lửa hổng còn chạy
nữa. Năm ngoái (1958) là lần cuối cùng Xuân về Mỹ Tho bằng loại xe chạy cà xịch
cà xịch tuôn mù mịt khói đó…
Cách đây hai ba tuần vừa có kết quả kỳ thi Tú Tài I, Xuân đã
nhảy tưng tưng. Sau khi loang quanh ở SàiGòn thăm bè bạn cho đến hôm nay, Xuân
mới xin phép Má về quê chơi trong vòng một tháng.
Xuân xuống xe ở Ngã Ba Tháp, rồi băng qua đường, đi xuống hồ
Trúc Bạch. Nhà bà cô thứ Tám ẩn hiện sau lùm cây bên trái. Ông dượng, Sáu P…,
người con út của ông Hội Đồng M…, sau khi phung phí hết tài sản vào những canh ỏ
( hình như là một loại bài làm những miếng gỗ nhỏ như là bài đô mi nô. Chỉ
thấy lúc còn nhỏ. Hông sưu tầm được. ) thâu đêm suốt sáng, chỉ còn giữ lại
được mười mẫu vườn dừa hương hỏa ở Châu Thới (cầu Ông Hổ). Thời chiến tranh-
khoảng năm 1946-1954-, vùng Ba Châu còn là khu tự trị của Việt Minh. Sau khi
làm giáo làng một thời gian, ông chán nản. Ông bỏ làng lên tỉnh, làm thư ký Tòa
Án. Rồi bây giờ, quen nếp sống sáng xách xe đi chiều đạp xe về, ông ở lỳ lại tỉnh,
bỏ mặc bà vợ bươn chải coi vườn tược ở làng.
Xuân bước vào nhà. Ông dượng đang ngật ngù ngồi trên ghế đẩu.
Xị rượu đế với trái cốc còn độ nửa và mấy trái ớt hiểm để trên bàn. Ngày nào
cũng vậy, chỉ cần bao nhiêu đó là ông có thể nhịn ăn cơm suốt ngày.
– Chào dượng
– Sao mậy? Học hành ra sao rồi?
– Dạ, con đậu Tú Tài I rồi. Có kết quả hôm tháng rồi.
– Giờ đi đâu đây?
– Dạ, con dìa quê chơi
– Bao lâu?
– Dạ, một tháng
– Đã hé!
Nói xong, ông tiếp tục gật gù bên ly rượu đế. Chàng đi xuống
nhà dưới rộng thênh thang. Bà cô đang lui cui bên đống rau lang.
– Ngọc Thiền đâu rồi hả cô?
– Nó ở trong kia kìa, hổng biết đang làm gì ở trỏng.
Vừa lúc đó, Ngọc Thiền đi tới, mừng rỡ:
– Anh Ba. Anh vừa mới dìa hả? Thi đậu hông?
– Đậu rồi. Dìa quê chơi một tháng đây. Cha! Lúc rày Sáo Sậu
coi bộ trổ mã rồi nghe.
Cô em gái, con thứ sáu của bà cô, tên thân mật Sáo Sậu, vội
cười bẽn lẽn đỏ hồng đôi má. Ngọc Thiền, năm nay 15 tuổi, là con gái duy nhứt
trong gia đình toàn anh trai nên được cưng chiều. Ngọc Thiền có đôi mắt u buồn,
xa vời vợi. Chàng quay mặt đi chỗ khác.
– Thôi anh đi nghen.
– Đi đâu?
– Xuống cầu Cá Lóc, coi Khanh và Vân còn ở đó hông rồi dìa
Lương Quới chơi.
– Chà! Coi bộ anh mết cô nào đây. Nói em nghe đi!
Xuân mỉm cười, nheo mắt nhìn Ngọc Thiền, bước ra khỏi nhà.
Ánh nắng hơi nghiêng về chiều. Chàng đi dọc theo bờ hồ Trúc Bạch, băng qua mấy
con đường vắng vẻ rồi hướng về cầu Cá Lóc. Ngôi nhà to lớn hoang tàn bên trái vẫn
còn đó, nhắc chàng nhớ lại một thời học sinh ngắn ngủi ở Bến Tre và mối tình
ngây thơ đẹp đẽ…
– Ê, Xuân. Mầy thấy con Điệp hông? Nó ngó mầy dữ lắm đó!
– Thiệt hôn? Mầy nổi tiếng xạo, đó Trường.
– Sao mầy biết tao xạo?
– Thì tin lời mầy đó. Hôm kia, mới vừa tan trường, tao thót
lên xe dông theo nó. Qua khỏi cầu Cá Lóc, tao rề rề theo. Ban đầu, chắc nó tưởng
bạn cùng trường tan học dìa. Tới Rạch Chanh, nó thấy lạ, nó quay đầu lại, nhìn
thấy tao, nó đạp xe nước rút. Tao đeo theo, nhưng đường lổm chổm đá hông cặp
song song với nó được. Vừa lên dốc cầu Gò Đoàn, tao dọt lên. “ Điệp ơi, Xuân có
cái nầy”. Bất ngờ, nó xẹt qua trái. Tao lủi vào lề, may nhờ bụi lứt, nếu hông
té xuống sình nhào vô đám ô rô. Nó hổng thèm ngó lại, quẹo trái vào đường bờ dừa,
chạy miết. Mầy gạt tao hả? Đồ thằng quỉ sứ!
Bên trái dưới dốc cầu Gò Đoàn, dọc theo đường bờ dừa có những
hàng cây điệp ( phượng vĩ ) đang nở rộ bông đỏ ngất cả bầu trời chiều…..
Bông Điệp !!!……Và sau đó là những lá thư ngây ngô qua lại. Hồng Điệp rồi cũng
hông còn qua mùa hè. Những dòng chữ, những hình ảnh trong “Lưu Bút Ngày Xanh” rồi
cũng trôi vào không gian tít mù xa…
– Anh Ba. Anh dìa rồi hả?
– Thì dìa tới đây rồi, còn hỏi dìa rồi hả.Hai con nhỏ nầy!
– Em tưởng vậy mà?
– Em tưởng sao Khanh?
– Em sợ anh hông dìa.
– Bây giờ anh ở đây nè! Bộ nhớ anh sao?
– Đúng đó, anh Ba. Chị Sáu em hổm rày nhắc anh hoài. Anh thi
đậu hôn?
– Con nhỏ Vân nầy lãng xẹt. Tao nhắc hồi nào mậy? Có mầy nhắc
thì có.
– Anh thi đậu rồi. Khanh biết rồi mà! Thôi hai chị em đừng
cãi nữa. Còn mấy người kia đâu hết rồi?
– Vậy hả anh Ba? Vui quá hé! Tụi nó hẻ? Chưa kịp hết lớp hè
là lo dông trước rồi. Anh Tân, con Bích dọt lúc trưa. Còn Thủy, Ái, mới vừa
ra khỏi nhà chừng chút xíu thì anh dìa.
– Còn hai em? Sao chần chờ ở đây?
– Chỉ đợi anh đó, anh Ba. Cứ lo miết vụ anh đi thi. Hồi sáng
chỉ nói bữa nay thế nào anh cũng dìa. Em hối chỉ lo dọn đồ đạc. Chỉ nói thủng
thỉnh mà!
– Con nhỏ Vân nầy! Mầy lợi xạo nữa rồi.
Xuân trìu mến nhìn Khanh. Nàng đỏ má và đôi mắt long lanh.
Các cô gái miệt vườn kẹp tóc dài, làn da trắng, thon thả trong bộ áo bà ba, ăn
nói thật ngây thơ, hồn nhiên.
– Có gì cho anh ăn hông?
– Tụi em hết tép kho rồi. Chỉ còn gạo thôi!
Chàng biết nhóm học trò miệt vườn lên tỉnh học nầy. Mỗi tuần
họ về nhà cụ bị tép rang kho nước cốt dừa với dừa cứng cạy, mắm ruốc xào hoặc
thịt ba rọi kho khô… Buổi sáng, thức dậy nấu nồi cơm, ăn cho sáng, trưa, chiều
với chừng ấy thức ăn trong suốt tuần. Rau ráng thì mua ở chợ, nhưng ít khi có
món canh…
Sau năm 1954, khi Việt Minh( dân miền Nam vẫn còn gọi là Việt
Minh ) tập kết về miền Bắc, miền Nam trở nên thật yên bình. Nhà nhà lo vun đắp
lại mảnh vườn bị tàn phá và bắt đầu cho con cái đi học. Giống như các bạn cùng
trang lứa, hông được học hành đến nơi đến chốn trong thời chiến tranh, nên
Khanh và Vân đã 18 và 17 tuổi mà mới học đến lớp đệ lục và đệ ngũ. Những năm
đó, hông hiểu sao, làng Lương Quới chỉ có trường bậc Tiểu Học. Những làng lớn
hơn, nằm dọc theo tỉnh lộ nối liền Bến Tre và quận Ba Tri như Mỹ Lồng (Mỹ Thạnh)…,
đôi khi có đến lớp đệ thất, lục, ngũ. Ở Châu Thới cũng có một trường Trung Học
Đệ Nhứt Cấp tư, nên học sinh vùng Ba Châu ít khi lên tỉnh học. Phần nhiều do
giáo sư ở chiến khu về dạy. Họ hông giỏi, nên cha mẹ thường cố gắng cho con cái
lên tỉnh.
Bốn năm gia đình hoặc đông hơn mướn một miếng đất rồi cất một
căn nhà dài dọc theo bờ dừa để cho con cái có chỗ ở đi học, thường ở khu Lò Gạch.
Chung quanh nhà chỉ đóng ván sơ sài. Đám con trai ngủ trên bộ ván ngựa dài ở phần
trước, giăng mỗi đứa một cái mùng vào ban đêm. Phần sau, kê hai ba cái giường
dành cho đám con gái. Phần bên hông là bếp nấu ăn và một cái bàn. Sau căn nhà
là sàn nước. Cuối góc phải nhà là cái buồng tắm vừng sơ sịa bằng lá chầm. Đám
con trai có bao giờ tắm trong buồng tắm đâu. Tụi nó dùng gàu đan bằng lá dừa nước,
múc nước từ trong lu hoặc nước dưới mương dừa- khi nước lớn- xối ào ào…
– Hay là hai em đãi anh một bữa chè nghen! Được hôn anh Ba?
Nhưng em phải đi mua thêm đường, dừa, bột khoai. Chị Sáu ở nhà nấu đậu xanh cho
nhừ, chờ em dìa, nhen.
– Ờ hé!! Ngon à nghen, Vân. Chè đó ở thành phố họ gọi là chè
thưng, có phải hôn? Mà anh phải đi tắm cái đã.
– Nước đang lớn đó anh Ba. Nếu anh sợ tắm nước mương dừa thì
anh tắm nước trong lu đã lóng phèn sẳn. Chị Sáu biểu em lóng nước để cho anh
dìa tắm đó!
– Mầy nghen mậy. Con nhỏ lí lắc, xí xọn! Đi đi mầy….
Xuân quay lại nhìn Khanh. Cô nàng bẽn lẽn bỏ đi một nước vào
trong buồng. Xuân, Khanh, Vân quen nhau từ lúc nhỏ. Tụi nó thường cút bắt từ bờ
dừa nầy sang bờ dừa khác trong những đêm trăng rằm vào những ngày mùa hè, dưới
gốc xoài, ổi, mận, sa bô chê. Đám con nít trầm nghịch trong xẻo mương dừa từ
lúc nước nhửng lớn cho đến nước ròng. Môi đứa nào đứa đó đen thâm sì. Bờ môi
bám đầy bùn non như có râu. Chúng nó nắn tu na với đủ thứ con nhưng mà nhiều nhứt
là con trâu.Xong rồi đi bắt kiến dương ở những gốc ô môi đem về gắn vào bốn
chân trâu. Trâu đất, kiến dương đi nghễng nga nghễng ngãng. Cả bọn xúm xa xúm
xít. Có hôm Xuân dụ Khanh bắt ổ ong dúi ( loại ong nhỏ thường đóng ổ trong
hang bọng chung quanh nhà, hông cắn, chích nhưng hay bu kín người ). Cô
nàng ngây thơ nên bị ong bu đầy tóc. Mật ong dúi thơm nồng ngọt ngào. Rồi vào
những cơn mưa dầm tháng tám, lũ nhóc dầm mưa chơi rồng rắn cho đến tạnh ráo. Ai
nấy môi tím ngắt lạnh run cầm cập. Hồi đó cả bọn đều tắm truồng…
Cho đến một hôm, tự nhiên bọn con gái bận nguyên bộ đồ bà ba
nhảy ùm xuống sông. Đám con trai thấy mắc cỡ nên cũng mặc quần xà lỏn. Nhưng mà
bây giờ, tụi nó có vẻ dè chừng hơn thành ra hổng còn hứng thú nữa. Lúc trước hả?
Tạt nước, nhào vô, xáp lá cà, ôm nhau vật đả đời mà có gì đâu? Bây giờ Xuân a lát
sô đến con nhỏ nào, tụi nó đều né…
Một buổi trưa hè. Nước nhửng lớn. Cả bọn đang hò hét, móc bùn
táng nhau ở đầu con rạch nhỏ. Đột nhiên đám nhỏ la lên ….
– Anh Ba! Anh Ba! Ma da! Ma da! Con Khanh bị ma da níu!
Xuân bơi sải đến, nắm chùm tóc Khanh vật vờ trên mặt nước.
Khanh quíu tay ôm chặt vào người thằng con trai. Hai đứa chìm nghỉm, đụng đáy rạch.
Xuân đạp mạnh một cái, trồi lên. Nó may mắn quơ tay nắm được bụi dây chại, kéo
hai đứa vào bờ và lủi vào đám mái dầm. Xuân thở khì khò, còn Khanh cà ngáp.
Hông hiểu cô nàng đã uống bao nhiêu ngụm nước mà còn nằm im thin thít. Mặt xanh
như tàu lá chuối. Hàng nút bóp của áo bà ba trắng ngã phèn cũ kỹ bị bung toành
hoành từ trên xuống tới dưới gần bụng. Ngực trần trắng nuột lộ ra chập chờn!
Đôi vú như hai cái mộng dừa non nhu nhú nhỏ cứng ngắc căng tròn tròn nhòn nhọn,
có hai núm hồng hồng. Mái tóc dài cùng vạt áo lượn lờ trong đợt nước chập
chùng… Nó cảm thấy hơi ấm từ người Khanh hòa vào ngực nó. Một luồng hơi nóng rừng
rực chạy cùng khắp người. Nó ngạc nhiên, hơi ngơ ngơ ngác ngác. Lần đầu tiên,
nó nhìn thấy hai cái vú của người con gái… Nó đắm đuối nhìn vào đôi má bầu bĩnh
sũng nước… Tự nhiên nó cúi đầu xuống. Khanh mở mắt trân trân nhìn nó. Nó nhanh
chóng hun lên má cô ta một cái. Khanh hứ nhẹ một cái cóc, đẩy Xuân ra rồi lật đật
cài nút áo lại…
Và bây giờ Xuân hun một cái nữa, nhưng lần nầy lâu hơn như uống
một hơi nước dừa xiêm ngọt mát rượi.
– Hồi trước, nhờ ma da kéo, em hụt chưn nên anh mới hun được
em có chút xíu. Bây giờ hun lâu lâu hơn.
– Xí! Coi chừng Vân nó sắp dìa rồi đó anh!
Phùng Xuân chưa chịu buông Khanh ra, còn muốn tận hưởng mùi dầu
dừa bông chúa ( Ylang Ylang ) ngay ngáy ủ trong mái tóc óng ả dài thậm
thượt. Và mùi sả, bông bưởi hay bông chúa thoang thoảng lan ra khắp trong
người Khanh.
Con gái miệt vườn thường nấu nước sả, bông bưởi, để tắm hoặc
sang hơn tụi nó mua một xâu bông lài bỏ vào ấm nước sôi, xong rồi cất đó, khi
nào tắm pha vào nước lạnh. Bông lài thì ở chợ BếnTre ngày nào hổng có. Mỹ Lồng
có mấy mẫu trồng bông lài bán cho những người ướp trà ở BếnTre. Bông lài thường
hái vào buổi chiều, lúc còn búp và để sáng hôm sau thì nở ra thơm ngát. Hoặc
hông kiếm được bông, tụi nó liều bỏ tiền mua một cục xà bông Cô Ba. Sau năm
1954, có được cục xà bông Cô Ba của hãng xà bông Trương Văn Bền là nhứt. Bọn
con trai ít khi tắm được xà bông Cô Ba. Tụi nó chỉ được tắm với cục xà bông đá
nhỏ, cắt từ khúc xà bông lớn dài độ gang rưởi tay. Ở thành thị dân dùng xà bông
để giặt quần áo. Còn ở quê hả? Toàn xài nước tro bếp lóng trong diệm hoặc lu bể
để ở bên hông nhà… Xong xả lại bằng nước lóng phèn, có ngâm thêm vài miếng giấy
lơ ( Lơ có thể từ tiếng bleu của Pháp ) cho màu xanh dương để vải có
màu trắng đẹp.
REPORT THIS AD
– Em trông anh nhiều dữ lắm hả?
– Mấy hôm rày em ngủ chập chờn, nhớ anh nhiều. Hổng hiểu có
chuyện gì hôn mà Tía nhắn dìa gấp. Em còn nấn ná chờ anh.
– Thì mơi dìa cũng được mà. Mấy khi mình có được như vầy, hở
em? …
– Coi chừng Vân đó anh à! Con nhỏ quỉ đó hả, nó thóc mách lắm.
Sợ nó mét tía má là bị đòn tét đít luôn!!…
– Xí! Nhát như thỏ đế!
Trăng đầu tháng hông còn ở phía tây. Ánh sao mờ nhạt xuyên
qua những tàu lá dừa lắc lư theo cơn gió nhẹ. Khanh nằm gối đầu lên ngực Xuân.
Nàng đã dâng hiến trọn vẹn cho người tình. Tóc Khanh xõa dài chập chờn như dòng
suối đang chảy. Và hơi thở cô gái đều đặn trong niềm hoan lạc vừa qua. Xuân nếm
được mật ngọt trái cấm đầu đời của thằng con trai mới lớn lên, lâng lâng như
người say rượu, bồng bềnh như ở giữa dòng sông mông mênh… Ở cuối góc nhà, có tiếng
vạt giường kêu răng rắc, cót két… Vân đang trở mình?
Sáng hôm sau, ba người đạp xe về Lương Quới. Qua khỏi cầu Gò
Đàng là vùng đất giồng. Tỉnh lộ nối liền Bến Tre-Ba Tri ( Tỉnh Lộ 885), chạy
qua nhiều vùng nỗng đất cát kêu là giồng: như Giồng Khương (LươngQuới), Giồng
Trôm, Giồng Tre (Cái Bông)… Đám ruộng bên trái xanh rờn. Vài cây thốt nốt
lẻ loi vươn lên trong nắng sớm. Nhiều đám dúi xanh um tùm ở khuất tận ngõ vào
xóm. Có thể Lê Thương đã từng ở nơi đây để viết ca khúc Hòn Vọng Phu chớ không
phải phía bên kia cầu Chẹt Sậy về phía Mỹ Lồng, vì vùng đất giồng bên đây đầy vẻ
thơ mộng, có đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Vùng đất vườn bên kia âm u nhiều
muỗi mòng.
Cầu Chẹt Sậy- hay cầu Kinh- bắc ngang qua con kinh Chẹt
Sậy (Giao Hòa) nối liền sông Bến Tre và sông Ba Lai với những nhịp sắt yếu ớt.
Cầu bị phá nhiều lần trong thời chiến tranh chống Pháp. Việt Minh lợi dụng
lúc nước ròng xuống về đêm thả bè dừa làm sập cầu. Những lần như thế, người
ta phải dùng bắc để qua lại. Hồi nhỏ, Xuân sợ đi bộ ngang qua cầu vì cầu
cao trông có vẻ lêu khêu, chênh vênh, mà ván lót ngang quá mỏng và thưa. Nó bước
từng bước một, nhìn dòng nước kinh chảy xiết. Cầu yếu lắm. Hành khách phải xuống
xe đò, đi bộ qua cầu. Còn đi xe ngựa, cũng phải xuống đi bộ vì dốc cầu cao, ngựa
hông kéo lên nổi.
Ba đứa xuống xe đạp, lửng thửng bước qua cầu. Ánh nắng ban
mai rọi xuống dòng nước chảy cuồn cuộn ở ngã ba kinh chập chờn bàng bạc. Những
đám lục bình hông trôi được, xoay tròn như bông vụ nơi búng nước. Màu đỏ của lò
gạch nơi ngã ba sông hừng hực trong nắng ban mai. Gió thổi mạnh. Gió của tháng
bảy: gió nồm hướng tây nam bung hai mái tóc huyền. Từng sợi, từng sợi tóc lượn
lờ như những tơ nhện mờ ảo trong nắng sớm. Bốn ống quần đen của Khanh và Vân
kêu phành phạch. Bữa nay hai đứa hông mặc áo dài trắng, chớ hông thì bốn tà áo
thi nhau tung tăng trong gió. Hai cô nàng phải lấy nón lá xuống, úp ngang trên
ngực. Khanh bước đi vẻ chậm chạp, nhìn dòng nước đục ngầu tuôn ra ngã ba
kinh….. Xuân và Vân thả xe xuống dốc cầu trước, đúng đợi Khanh.
– Anh Ba. Mình có ghé Mỹ Lồng hông?
– Hông. Chắc mấy thằng bạn của anh giờ nầy hổng có ở nhà đâu.
Tụi nó dông đi chơi hết rồi. Có con Tuyết em thằng Thông là có ở nhà. Còn Trường
phải phụ ba nó sửa xe đạp. Tiệm ba nó có nhiều xe đạp cho mướn lắm: xe người lớn
và xe con nít. Nên nó phải sửa hoài. Còn thằng Đáng ở tuốt trong Phong Nẩm lận.
Ờ quên, tự nãy giờ nói chuyện mấy thằng bạn của anh mà quên hỏi thăm anh Năm
Lân của em.
– Anh Năm em hả? Hè nầy ảnh hổng có dìa.
– Sao vậy?
– Ảnh mắc dự lớp bổ túc cho giáo viên. Hơn nữa, ảnh dạy bên
Mõ Cày rồi cưới vợ ở bển, nên ở luôn bên vợ, ít khi về thăm Tía Má lắm.
Năm Lân học sau Xuân. Đậu bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp, Năm Lân
thi vào Giáo viên cộng đồng, học một năm ra làm giáo viên cấp Tiểu Học, về dạy ở
Mõ Cày.
Khanh chầm chậm bước xuống dốc cầu, nghĩ ngợi mông lung đến hạnh
phúc đầu tiên đêm hôm qua… Cảm giác nhiều lần ái ân còn ngần ngật.“ Hổng hiểu
Tía kêu về nhà gấp gáp có chuyện gì. Bình thường Tía đâu có làm như vậy?”
Mỹ Lồng – tên tục của làng Mỹ Thạnh- nằm kế bên dòng sông Bến
Tre, là vùng gò cát pha đất màu đo đỏ, có những vườn lài cung cấp bông cho những
nhà ướp trà ở Bến Tre và đôi khi ở Sài Gòn. Nhà lồng chợ rộng và đẹp đẽ, nằm
sát bờ sông. Hai bên là hai dãy phố gạch. Buôn bán nhộn nhịp.
Vào khoảng năm 1947- 48, cả đoàn ghe thoát khỏi vùng Tây ruồng
bố ở Lương Phú, bên kia bờ sông Bến Tre… Chợ Sữa là một địa danh mù mờ trong
trí nhớ của Xuân, ở đâu bên Tân Hưng hay Châu Hưng gì đó, bên bờ sông Hàm
Luông? Phải bơi ghe qua mấy vàm sông rộng mênh mông. Ở đó, buổi sáng người đông
nườm nượp. Lần đầu tiên, nó ăn tô hủ tiếu thơm ngào ngạt, có mấy lát thịt, hai
ba miếng gan và một khúc phèo sừng sựt, beo béo.
– Lấy tín phiếu hay lấy tiền ngoài, chú Năm?
– Tiền gì cũng được, chị Bảy. Mà chị có tiền ngoài hôn? Tiền
ngoài thì ba đồng, còn tín phiếu thì năm đồng. Đừng cho mấy ổng thấy.
Và đoàn ghe của nhóm người chạy trốn, trong đó có ghe gia
đình Xuân, đã tấp vào Mỹ Lồng.
– Con ăn cà rem hông?
– Cà rem là gì hở má?
– Cái thằng nầy! Cà rem là cà rem chớ cái gì mà phải hỏi. Con
lấy cây ba cắc, có đậu xanh.
– Í! Trời ơi! Sao nó bốc khói dữ quá vầy nè má?
– Con đừng có thổi. Con thổi nó tan hết bây giờ.
– Má ơi, ngon quá má. Khi dề Lương Quới, má mua cho con ít
cây, gói trong lá chuối, để dành ăn nghen má.
– Anh Ba! Làm gì đứng thừ người vậy?
– À! Nhớ chuyện cây cà rem và tô hủ tiếu.
Bọn họ đạp xe ra khỏi Mỹ Lồng là đến Mã Đá, rồi tới ngã ba
Lương Hòa. Trước mặt, hai bên đường, những cánh đồng lúa xanh có sao chơm chớp
trong nắng trưa. Vùng Đồng Gò, Đìa Đôi, Trường Gà- chạy dài đến cầu Đúc Lương
Quới. Hàng me tơ hai bên đường đang trổ bông…
– Khanh! Em còn nhớ hông?
– Nhớ chuyện gì anh?
– À! Cái vụ thằng Rong nó hái me cho tụi em mà hổng có đứa
nào dám tới lấy hết đó mà! Anh nhớ thằng Rong hôm đó nó mặc cái quần sọt rộng rinh.
– Ờ hé! Đồ quỉ anh à! Cứ nhắc chuyện đó hoài. Em nhớ chớ sao
hông. Con Lan rắn mắc. Nó tới lấy, bụm hai tay nhìn lên để hứng me. Bất ngờ nó
quay chạy ra còn la lớn: “ Tụi bây ơi, tới chỗ anh Rong lấy me. Ảnh có chùm
chùm vậy đó! ”Tụi em ùa tới. Cả đám ngước lên bụm tay. Đứa nào đứa nấy đỏ mặt ù
té chạy…
– Tụi em thấy gì, sợ mà bỏ chạy ghê vậy?
Khanh lấy tay đấm thùm thụp lên lưng Xuân… Đồ quỉ!… Hai tiếng:
Đồ quỉ vang vang trong buổi trưa vắng lặng…
Lúa xanh ngầy ngật trong ban trưa nổ đầy sao nắng. Từng đàn
cò trắng lập lờn trên đám ruộng. Hai bên đường những đàn chim áo dà nâu
tím, chim sắc ( cùng một loại với áo dà nhưng màu xám pha sọc đen )
tíu tít trong những bụi bông cỏ. Con bù cắt ( Chim săn mồi bay đứng một chỗ
rất lâu ) lẻ loi trong nắng chói chang, chăm hẳm tìm mồi. Và con đường chạy
dài tới Cầu Đúc Lương Quới ngun ngút, đượm ảo nước từ xa xa ngút ngoắt. Nắng nổ
đom đóm. Cánh đồng ruộng xanh với đám công cấy vang tiếng hò hông còn nữa. Ôi!
Cả khung trời kỷ niệm xa lắc xa lơ nay còn đâu?
Khi tụi nó còn học ở trường Trung học Tư Thục Mỹ Lồng, trưa
nào cũng tụm năm tụm bảy dưới những gốc cây me. Mùa me đơm lá non, xanh màu đọt
chuối, cả con đường trở nên dịu mát. Bầu trời cũng dường như bớt oi ả. Lá me
non chua lè nếu mình nhai ngốn ngáo trong miệng; nhưng vị chua trở nên ngọt
ngào hơn với nồi canh chua lươn, bắp chuối, lá me; hay canh chua cá chốt, lá
me… Bông me nho nhỏ, trăng trắng, tim tím ở đầu, phủ nhút nhít đầy cây, ít khi
trông thấy được lá, biến hàng me dọc đường như những giỏ bông treo lơ lửng trời
xanh. Bông me ăn cũng chua chua, chan chát. Tháng mười một là mùa me non, có
nhiều gió chướng ( gió mùa Đông Bắc ). Me non dễ bắt với cơm nguội và tép rang
nước dừa: béo, chua, mặn. Nhưng mùa nầy rủ bọn con gái hơi khó vì khi trở về,
gió bấc thổi mạnh, bật tung hai vạt áo dài ra sau và quần đen làm lồ lộ… Tụi nó
hông chịu đi, chỉ ới :“ Đem về cho tụi tui ăn ví ”. Thế là xong.
Tháng hai, tháng ba rủ là tụi nó đi liền: Mùa me dốt và chín.
Hơn nữa hông còn gió chướng, nhưng nắng nổ đom đóm. Me dốt chua chua ngòn
ngọt xôm xốp. Nếu nhai luôn nguyên hột có thêm vị chan chát đăng đắng. Vừa để
me dốt vào miệng là nước miếng trào ra. Nhai từ từ, sẽ thưởng thức được hương vị
tuyệt vời của me dốt trộn lẫn trong nước miếng. Ăn riết rồi phát ngây, ê răng hồi
nào hổng biết. Mà phải me dốt thực sự chớ còn dôn dốt thì hông bằng, vì me dôn
dốt còn chua nhiều và khó lột vỏ. Me chín thì ăn hông đã miệng vì cơm chín mềm
mụp, chua lét lại còn phải lừa bỏ hột. Ít khi tìm được me đậu phọng có cơm chín
ngọt…
Chợ Lương Quới- hồi xưa còn gọi là chợ Bàu Sấu- là một ngôi
chợ nhỏ, nằm sát đường Bến Tre-Ba Tri. Nhà lồng cao, chỉ có mái che còn hai bên
trống hoang hoác. Một vài ba cái sạp nhỏ xíu nằm rải rác.
Ông già mù ở cái sạp cuối nhà lồng. Mắt ổng mở trao tráo.
Tròng mắt hơi đo đỏ, hông đen. Vậy mà ổng hông thấy đường. Ổng mặc một cái áo
rách bươm, rệu rã, coi bộ xơ rơ xác rác, hông đủ che thân mình mà còn làm lộ rõ
cái quần xà lỏn sười lai cũ kỹ. Tóc tai bùm sùm vì lâu ngày hông hớt. Ngày hai
bữa, Xuân đem cơm cho ổng trong cái diệm nhỏ. Sáng sớm ổng lẩn đi đâu mất vì chợ
nhóm từ gà gáy. Chợ tan lúc mặt trời vừa ngang tầm là có ổng. Hể ổng cần đái ỉa
là kêu: Xuân ơi. Khi nào nước lớn ngoài đầu cống bên mặt chợ, nó dẫn ổng
đi tắm.
Hổng hiểu ổng từ đâu tới. Một buổi chiều, nó đi bắn chim về
thì ổng đã có ở nhà lồng chợ rồi. Mấy ngày đầu tiên, nó thấy ông già mù ăn toàn
là xôi. Vì ổng có mình ên, nên nó chạy vào xin với Má cho ổng ngày hai bữa cơm.
Mà cơm thì cũng hổng có gì ngoài cá kho, cá chiên, mắm kho, tép rang nước dừa đựng
trong cái diệm nhỏ… Thỉnh thoảng mới có một bữa cơm với thịt ba rọi kho dừa cứng
cạy.
Bọn Xuân thường ngày chơi tạc giấy, đánh trỏng, đánh cờ chó,
bắn bi ở nhà lồng chợ. Còn bọn con gái thì nhảy cò cò, đánh đũa. Đôi lúc cả bọn
chơi cút bắt hay rồng rắn, hay bắt con quít tàu, chuồn chuồn buộc miếng giấy nhỏ
thả lên làm máy bay. Trong đám có Tuyết, con của anh Mười Điển. Nó gọi Xuân bằng
chú mà bằng tuổi Xuân, hay nhõng nhẽo với chú dàng trời đất. Sau nầy nó mới biết
anh Mười Điển, to lớn dềnh dàng, bà con họ đâu xa lắm. Ba Má Xuân gặp ảnh ở Chợ
Sữa trong lúc chạy Tây ruồng…. Rồi còn có con Mận- con anh Tư Chúc- cháu nội của
bác Năm Học, cùng tuổi nó, lúc nào cũng kêu Xuân bằng chú Ba ngọt ngào. Lại còn
con Lan, con anh Hai Nhung, mắc bịnh Cam Tích, có cái bụng chong bóc, nổi gân
xanh lè. Rồi còn thằng Si ghẻ, mình mẫy nó lúc nào cũng đầy ghẻ hòm. Xuân thấy
má nó lấy trái mù u, nướng trên ngọn đèn cháy sèo sèo cho chảy dầu ra, xong lấy
dầu trét lên mấy mụt ghẻ. Mỗi lần bả làm như thế là nó khóc ré, té đái chết điếng
vì bả phải tắm nó rồi gở mấy cái mày ghẻ đầy mủ xanh nhầy nhụa trên khắp mình
nó.
Anh em Xuân tối ngày chơi ngoài nhà lồng chợ. Có thằng Bon Nhỏ
mới 14 tuổi mà đã lấy vợ 16 tuổi. Một hai năm về trước, khi gặp nó, còn thấy
hai lỗ mũi có hai cục cứt mũi xanh lè chảy dài lòng thòng lểnh thểnh. Ba nó
–ông Chín Kiến- chỉ có thằng con trai một, nên cần con dâu về nhà lo phụ công
việc. Cái thằng ghê thiệt! Bọn Xuân nói mầy còn chút xíu, biết cái gì mà lấy vợ.
Mầy có dám cổi truồng đi về nhà hông? Nó cổi thiệt, trùm quần lên đầu để hai sợi
lưng quần tòn teng, đi ngỗng nga ngỗng nghễn. Cu nó còn nằm nóp và mới có vài sợi
lông măng lơ thơ. Chắc thế nào về nhà vợ cũng nhằn cho một trận! Ấy vậy mà năm
sau nó có đứa con trai kháu khỉnh. Nó giúp Xuân rất nhiều việc: dẫn ông già mù
đi đái ỉa khi hông có Xuân, đội diệm mạch nha lên đầu lúc anh em nó đi bán. Mà
bán mạch nha khi nào cũng lỗ vì mỗi đứa chấm mút một ít hoặc đôi khi sút tay rớt
bể diệm. Bà Ba Đầm- má Xuân – làm mạch nha rất ngon. Nó hông ngọt nhiều, có vị
ngòn ngọt, thơm, dèo dẽo. Mạch nha làm từ mộng lúa và nếp. Mà tụi thằng Xuân đi
bán mạch nha có đi một đứa đâu; đi cả đàn cả lũ: anh em Xuân, thằng Bon Nhỏ, thằng
Sết, con Bi, con Mận… Khi bán, thằng Xuân vít mạch nha bằng chiếc đũa, quệt vào
bánh phồng nướng hoặc lá chuối, thế nào nó cũng chừa lại một ít; thế là cả bọn
thay phiên nhau chấm mút chùn chụt. Ôi! sao nó ngon làm sảo làm sao! Nhà thằng
Xuân có khi nào có đường ngon đâu. Đường thùng thì dùng ướp mắm lóc, mắm sặc
đem bán ngoài chợ. Bà Ba thỉnh thoảng mới mua một vài cục đường tán, hoặc vài
miếng đường thẻ. Đường cát vàng hoặc đường cát mỡ gà thì bà Ba Đầm dùng để làm
mứt. Bả cất rất kỹ hai loại đường nầy. Đứa nào lớ quớ thì ăn bánh tét nhưn mây
ngay. Xuân có nghe loáng thoáng Bà Ba Đầm nhắc đến đường phèn, đường phổi gì
đó. Bả nói ngọt và ngon như kẹo vậy, nhưng có bao giờ nó nhìn thấy…
REPORT THIS AD
Ở cái thời chiến tranh trước năm 1954, dân khu chợ là dân
hàng hai, cũng giống như ban hội tề. Ban ngày theo “Tây”, ban đêm theo Việt
Minh. Đồn đóng sau dãy nhà bên hông chợ, trên nền đất của ông Quan Năm. Về những
năm gần đình chiến sau nầy, đồn dời về ngay ngã ba Lương Quới, đối diện với nhà
chú Hai Đấu cho mướn xe đạp. Lính trong đồn mà có rục rịch gì là dân xóm trong
biết liền. Trái lại lâu lâu, dân xóm ngoài cũng có người bị Việt Minh giết, thả
trôi sông. Thằng chỏng có nhiều khi nằm chình ình bên rạch trước đồn ông Quan
Năm.
Thường thường, đêm nào mà sắp sửa có đánh đồn- nói là đánh chớ
ít khi nào Việt Minh đánh bứt đồn Lương Quới, chỉ là du kích về chọc phá
chơi- thì tối đêm hôm đó nhà Xuân biết trước. Má lo gom góp một ít đồ và gói đầu
máy may hiệu Brother vào bọc vải rồi âm thầm dắt đàn con chạy tuốt vào xóm
trong cho đến một hai hôm sau mới về. Có lần du kích về ban ngày. Xuân thấy họ
đi ngờ ngờ trong xóm. Anh Hai Thẹo cho nó đeo thử cây mút “Ăng-Lê”( ?) làm
nó khoái chí tử. Và Xuân cũng thấy anh Năm Nhiên đứng giữa ngã ba đường,
bên cây me còng, ôm cây FM, cười hể hả với những người qua lại. Người ta nói ảnh
là bộ đội của Ông Cống( ?)(Đồng Văn Cống)
Bà Ba Đầm được Bà Nội thằng Phùng Xuân giao cho căn nhà ngoài
chợ Lương Quới. Thời chiến tranh bả bán sạch trơn mấy mẫu vườn bên ngoại Xuân
chia cho, lo nuôi đàn con để ông chồng rảnh rang đi kháng chiến chống Pháp. Sau
năm 1954, Ông Ba hông trở về. Bà Ba Đầm với hai bàn tay trắng, buôn gánh bán
bưng đủ thứ: bán mắm, bán bánh bông lan, bánh men nước dừa, mạch nha… để nuôi
đàn con năm đứa. Xuân cũng hông hiểu từ đâu mà lâu lâu Bà Ba có được một thùng
bơ nước lỏng le, một thùng sữa bột hoặc một thùng dầu bông cải. Những ngày đó
là những ngày huy hoàng: cơm chiên bơ ăn với nước mắm… Hông hơn một năm, bà cô
sáu từ bưng trở về, lấy căn nhà ngoài chợ. Mẹ con lại đùm túm dọn về ở một mẫu
đất ruộng ngoài giồng. Từ đó thằng Xuân xa hẳn ông già mù …
Sau Hiệp định Geneve 1954, ở làng Lương Quới, một số người
theo kháng chiến chống Pháp tập kết ra Bắc, một số hông tập kết ở lại sinh sống
yên ổn: như chú Sáu Đâu, Mười Tương… May mà thằng Xuân hông đi theo anh Tám Khước,
con bác Tư Bơ đi tập kết vì bà nội hổng cho đi, lấy lý do thằng Phùng Xuân là
cháu lớn nhứt của tao. Ngay cả những gia đình có con, có chồng tập kết đều làm
ăn bình thường như thằng Khởi con anh Mười Điển; chồng chị Sáu Biên; chồng chị
Ba Kha… Làng xã chẳng thấy ai thắc mắc gì về họ. Họ hông bị bắt bớ, tra hỏi,
hay bị làm khó dễ trong mọi việc. Nói nào ngay, tất cả đều có dây mơ rễ má với
nhau cả: hông bà con xa thì cũng họ hàng gần, hay sui gia. Thì bây giờ tất cả đều
chí thú làm ăn có gì đâu???
Dân làng Lương Quới sống thật an lành sau năm 1954. Thỉnh thoảng
có gánh hát đến đóng tại chợ, đôi khi lâu nửa tháng. Mỗi buổi chiều tiếng trống
thì thùng vang lên làm ai cũng náo nức. Tuồng gì đêm nay? Hay hôn chị Ba? Đám
đàn bà, con gái, trẻ con thì có vẻ mê hơn. Đàn ông, thanh niên ít bàn tán: một
lớp lo giỗ quảy, tiệc tùng, nhậu nhẹt. Cánh đàn ông sồn sồn lo tán mấy bà lỡ thời
sau kháng chiến trở về…
Vào mùa hè, có đội chiếu bóng hông biết từ đâu về, căng màn
giữa chợ, bắc loa kêu gọi ầm trời. Hai phim thường chiếu là: Ánh Sáng Miền Nam
và Chúng Tôi Muốn Sống. Và sau đó là các phim về vệ sinh của gia đình bác Tám:
phải rửa tay trước khi ăn… ; phải đào lỗ chôn khi đi ỉa ngoài đồng, trong
rẫy bắp… ; vi trùng sốt rét chui vào trong người như thế nào: qua con muỗi nên
phải lắp cống rảnh … Chỉ có dân xóm chợ thường hay coi chiếu bóng, còn dân vườn
ở xóm trong ít khi coi, vì lúc nào cũng có bao nhiêu đó thôi, hông có gì mới lạ.
Những dịp chiếu bóng, gánh hát bội, đoàn hát cải lương đến là con nít đều
khoái: chạy nhảy vui chơi, năm mười, rồng rắn.
Đặc biệt là gánh Sơn Đông Mại Võ. Họ vừa bán các thứ thuốc
cao đơn hườn tán, cảm mạo thương hàn, thuốc trị đau nhức răng, thuốc sán lải……
Mỗi lần bán một thứ thuốc là một tràng trống tùng tùng nổi lên. Sau đó một người
đi vòng vòng giơ cao món thuốc mời mọi người mua. Bán xong thuốc là màn biểu diễn
võ thuật. Thường là những màn nội công như chém bể gạch, để mũi dao ấn vào bụng…
Đôi khi có những con khỉ giúp vui, làm những trò lạ mắt khiến đám con nít đúng
bên ngoài liên tục gọi: Mai! Mai! Dân làng nghèo bị bịnh thường uống ba thứ lá
cỏ cây. Cùng lắm mới đến chỗ bán thuốc Tây. Người bán thuốc là “dược sĩ kiêm
bác sĩ”. Bịnh gì đây? Nhức đầu nóng lạnh hả? Aspirine. Ỉa chảy hả? Elexir. Vân
vân và vân vân. Có tiền chút đỉnh thì bổ thuốc bắc. Nay gặp các loại thuốc nầy
thì họ bu lại coi, “trước mau vui sau làm nghĩa”chớ họ đâu biết thuốc sán lải của
đám Sơn Đông Mại Võ nầy còn thua thuốc sổ bằng lá muồng đầy dẫy trong vườn nhà
họ.
Gánh hát cải lương, đoàn hát bội là gây ồn ào nhứt. Họ ăn dầm
nằm dề ở chợ làng đôi khi cả tháng, hát những tuồng tích như Cánh Buồm Đen,
Phàn Lê Huê giải giá Thọ Châu…. Những dịp đó, khu chợ như ngày hội. Khoảng ba,
bốn giờ chiều, trống bắt đầu nổi lên, con nít chạy nhảy, la hét. Trước khu chợ,
những sạp bày bán đủ thứ: khô mực nướng, bắp nướng…
Sau khi họ rút đi, dân làng mất một ít cô con gái mê cải
lương. Những năm đó, ngoài gánh hát bội, cải lương, chớp bóng, dân làng hông có
gì để giải trí vui chơi. Gặp dịp có đám giỗ, đám cưới họ tụ họp đờn, ca vọng cổ
kéo dài hai ba ngày thâu đêm suốt sáng. Ngoài ra còn cúng đình cũng sập sình sập
sọe mất mấy ngày. Thằng Xuân biết cả làng chỉ có một người- Chú Bảy Nghiêm- có
máy hát hình ống loa hiệu con chó, lâu lâu phải lên dây thiều bằng tay, dĩa to
bằng cái rổ quảo, hát các tuồng cải lương, giọng nghe chan chát. Đâu có ai có
được cái radio để nghe tin tức và ca nhạc. Và Xuân tin rằng chẳng ai biết mặt
mũi cái máy thâu thanh nó như thế nào!
– Sao bây về trễ dậy?
– Dạ, nhà trường cho lớp chị Sáu ở lại làm cái gì đó. Con
cũng hông biết nữa, Tía.
Vân liếc mắt ngó Khanh thầm nói: chị phải cám ơn em nha.
– Còn thằng Xuân, mầy cũng mới dìa hả.
– Dạ, con mới dìa chú. Chú thím mạnh giỏi hả?
– Tụi bây cơm nước gì chưa?
– Chưa, Tía. Chị Sáu chỉ hối đi sớm nếu hông nắng lên. Nóng lắm
Tía à.
– Bà ơi! Coi còn cái gì hôn, cho tụi nó ăn ba hột.
Bà Sáu Xe dọn bữa cơm ra với cá bống dừa kho tiêu mằm mặm,
ngòn ngọt và béo, tô rau cải trời luộc và tộ nước dừa xiêm tươi. Chở Khanh từ
sáng đến giờ, Xuân đói bụng, thêm nước dừa váng cháo chua chua thay canh
nên nó ăn rất ngon… Cơm nước vừa xong. Khanh và Vân đem chén, tô ra rửa ngoài
mương và úp lên xống chén làm bằng sống dừa.
– Con Khanh vào đây tao biểu.
– Dạ, Tía
– Mầy với Má mầy lo chuẩn bị ngày mai đám hỏi.
– Đám hỏi ai vậy hả Tía?
– Đám hỏi mầy chớ ai nữa, mà còn hỏi. Tao đã hứa với gia đình
Tư Thép bên ấp bốn. Hổm rày còn đợi bây. Để chút, tao đi báo cho họ. Ngày mai họ
đem trầu cau qua.
– Tía! Sao Tía hổng hỏi con chút nào hết dzậy. Con còn đang
đi học mà Tía. Con chưa muốn lấy chồng.
– Học hành gì nữa con ơi. Mầy lớn chồng ngồng rồi. Mười tám
tuổi rồi chớ còn nhỏ nhen gì nữa. Tao cho bây đi học là chưa có ai hỏi. Bây giờ
có người hỏi thì tao gả. Gái vườn mà bước qua hai mươi là ế đó con. Coi! Chưa
gì hết mà bây bí xị, mặt mày xanh như tàu lá và khóc mếu máo dzậy.
– Tía. Cho chị Sáu học hết năm tới, chỉ đi thi Trung Học Đệ
Nhứt Cấp, rồi làm cô giáo như anh Năm dậy Tía.
– Tía! Con năn nỉ Tía. Như Vân nói, Tía cho con học thêm một
năm nữa đi Tía! Nghen Tía! Con mới mười tám tuổi mà.
Nói vậy chớ thực ra, Khanh có biết tuổi mình là bao nhiêu
đâu? Ở nhà quê, sanh ra trong thời chiến tranh, làng xã thường bị đốt đi đốt lại
tới ba bốn lần. Sổ bộ bị thất lạc. Cha mẹ hông nhớ ngày sinh chính thức của con
cái. Họ chỉ nhớ đại khái là, ờ con nhỏ nầy hình như nó tuổi con Gà, thằng kia
tuổi con Rồng, hoặc là tui sinh con Khanh ra năm Ba thằng Nhữ đi vào đâu trong
Khu Chín? Ngày tháng thì họ mù tịt. Hỏi bà Nội hay bà Ngoại thì may ra họ cũng
nhớ là hình như mày sanh ra lúc rằm tháng mười hay là, tao nhớ hình như lúc đó
là con nước rong tháng chín. Rồi sau năm 1954, lúc cho con cái đi học. Tụi nó cần
khai sinh thì mới ra làng gặp hương Bộ. Như hương Bộ Đời ở làng Lương Quới. Ổng
hỏi thì biết đâu mà lần: năm con Gà lớn hay con Gà nhỏ…. Ở cái thời quỷnh tẹt và
cái thời Bảo Đại còn làm trùm, ai có biết con Gà nào và con Rồng nào! Ổng nhẩm
tính trên bàn tay rồi ghi vào sổ. Tới khi đi học, ra làng xin giấy khai sinh,
tá hỏa tam tinh mới biết mình sinh ngày, tháng, năm nào! Đôi khi còn có
cái tréo cẳng ngỗng. Tên Mai nhiều khi biến thành tên Mơi, vì trong làng kiêng
cử tên Mai!
Khanh vẫn còn khóc thút thít.
– Tao đã hứa với người ta rồi. Thôi nín đi con. Lo phụ với má
mầy chuẩn bị đám hỏi.
Khanh hông dám nhìn Xuân, hông dám cải lại ông Sáu Xe, nhưng
nước mắt ràn rụa. Phùng Xuân đứng kế bên, hông nói được lời nào. Trong lòng
chàng đang rối rắm, tự hỏi có nên nói một vài tiếng với ông chú nầy hôn.
Thực ra gia đình Phùng Xuân hông có bà con họ hàng gì với chú
thím Sáu Xe, chỉ là quen biết nhau trong làng. Còn chuyện yêu thương giữa chàng
và Khanh là chuyện thầm kín giữa hai đứa từ bao lâu nay, hông có ai biết được.
Nếu chuyện lộ ra, có thể Khanh bị đòn. Ông Sáu Xe có khắt khe trong việc tiếp
xúc giữa trai và gái? Và hôn nhân con cái thường do cha mẹ Khanh định đoạt? Cũng
có chuyện yêu thương lăng nhăng trong lúc còn đi học, nhưng phải dấu diếm, vì mắc
cỡ, vì sợ người ta nói vô nói ra. Bọn Khanh, Vân lên tỉnh học thì tình cảm trai
gái hơi mới mẻ hơn chút xíu. Một số ít cũng cặp bồ, cũng tình tứ theo kiểu “tự
lực văn đoàn”. Nhưng ở tỉnh lẻ khó có thể hẹn hò ra một nơi vắng vẻ nào đó. Và
chuyện quan hệ xác thịt nếu có xảy ra thì bùng nổ một cách mãnh liệt; lỡ có bầu
bì với nhau thì rủ nhau bỏ trốn. Xuân có nên nói ra hông và nếu nói thiệt, liệu
ổng có gả Khanh cho chàng hông? Ổng có e ngại về gia đình mình hông?
Gia đình Xuân có tiếng chớ hông có miếng. Ông nội chàng là Hội
Đồng trong làng. Một chức việc phải mua mới có thì có gì là danh tiếng. Phùng
Xuân hông hiểu sao người ta lại trọng vọng gia đình chàng. Đó là hồi nẫm kìa! Hồi
thời năm 1940-1950… Bà nội cho các chú, các cô lên Sài Gòn học. Các cô học trường
Áo Tím. Nhưng mà nghe đâu các cô học hông nhiều, chỉ đến première année hay
deuxième année gì đó rồi về quê lấy chồng.
Còn ông Bảy Mi theo Cao Đẳng Sư Phạm (École normale
supérieure). Học được nửa chừng, gặp lúc phong trào Nguyễn An Ninh, cả trường
bãi khóa. Ông Bảy Mi bỏ học, theo kháng chiến chống Pháp khoảng năm 1946.
Từ đó gia đình dọn về Lương Quới, cất một căn nhà lá phía bên
kia đường đối diện nhà Bà Nội. Hai vợ chồng nhờ tiền của Nội, sắm một chiếc ghe
bầu. Hồi đó ghe bầu còn vô được rạch bên hông nhà, vào đậu ở cái búng to rộng
rình trước chùa. Họ mua trái cây như chuối, chanh, mận từ làng đem lên
Sài Gòn. Rồi bổ hàng bí rợ đem về bán cho chợ làng. Đâu có ai ăn bí rợ dữ vậy?
Bí rợ chất đầy cả nhà. Thầy cò mi làm sao có được mánh lới như con buôn?
Họ bị lỗ vốn rồi bỏ nghề.
Đêm đêm thằng Xuân có dịp nằm cạnh bà cô Năm, bên ngọn đèn
chong leo lét, nghe cái giọng ê a đọc đủ loại truyện Tàu của bà cô chưa học hết
lớp ba trường làng. Nhà Nội có đủ loại truyện: Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu,
Thuyết Đường, Tây Du, Tam Quốc, Đông Chu Liệt Quốc… do các cô, chú mua từ Sài
Gòn.
Xuân còn nhớ ngày chàng đi học. Buổi sáng hôm đó chàng khóc
sướt mướt, dùng dằng hông chịu đi. Bà Bảy Mi phải đứng đợi từng chặp. Đi học
thì còn thời giờ nữa đâu để mà đào trùng câu cá bống dừa, còn thời giờ
đâu nữa để mà tối ngày móc bùn nắn tu na, chim cò !
Ngôi trường làng Lương Quới sao mà nó bự vậy! Trường lợp
ngói, cất trên thềm cao. Bà Bảy Mi (Bà Bảy Mi và bà Ba Đầm cũng là một người. Ở
quê miền Nam, người ta gọi tên người tùy theo quen bên nội hay ngoại) nói
với ông Hiệu Trưởng: “Cho tôi gởi con anh Bảy đi học”. Đứng nói chuyện một lát
với vài người chung quanh rồi bà Bảy Mi bỏ ra về. Xuân chạy theo, nhưng ông Hiệu
Trưởng nắm tay Xuân dắt vào lớp và nói với thầy giáo: “Cháu bà Hội Đồng, con
anh Bảy Mi”. À ra, danh giá thời xưa còn lại là cháu bà Hội Đồng Nhượng và con
ông Bảy Cò Mi. Chớ bây giờ sau bao năm chiến tranh, các con ly tán. Nhà bà Nội
bị Tây đốt cháy mấy ngày sau mới tắt, ruộng vườn tan hoang thì còn gì nữa? Gia
đình Phùng Xuân bây giờ hông có một miếng đất để cặm dùi. Bà Bảy Mi phải đi
buôn gánh bán bưng, đôi khi phải may quần áo dối cho chợ, nuôi đàn con năm đứa
nhỏ nheo nhóc thì có gì là danh giá nữa?
Xuân đành đứng yên lặng nhìn người mình thương mà chẳng nói
được một lời nào. Khanh lấy tay quẹt nước mắt ràn rụa, nghẹn ngào; thỉnh thoảng
hỉ mũi một cái và nấc lên một tiếng như nấc cụt…
Nằm trên bộ ngựa gõ rộng, Xuân lăn qua lộn lại hông biết bao
nhiêu lần. Trăng đã lặn. Đêm chắc khuya lắm. Tiếng vạc sành sạt sạt sát bên hè.
Tiếng dế nhủi nhin nhít hòa với tiếng dế chó che che nghe rõ mồm một. Có tiếng
mũi hin hít. Hình như Khanh đang khóc. Làm sao bây giờ? Làm sao thoát khỏi tình
trạng nầy? Tiếng muỗi vo ve bên lỗ tai làm cho chàng hông ngủ được. Đêm nay ngủ
hông mùng cũng hông mềm, chỉ có chiếc chiếu lác mỏng. Chàng bị muỗi chích lia
chia nên quơ tay đập lia lịa. Xuân liền cuốn mình trong chiếu, mong muỗi hông
thể cắn được, nhưng chiếu quá thưa, muỗi vẫn đưa vòi được qua kẽ chiếu. Quá mệt
mỏi, Xuân ngồi dậy nhìn đống un. Lửa đã tắt từ lâu. Xuân khều khều thử, may còn
chút than miểng gáo nằm dưới đáy. Xuân bươi nhẹ ra, xé một miếng xơ dừa bỏ vào.
Than bắt đầu ngún. Xuân thêm xơ dừa, than phừng lên. Xuân vội vàng bỏ thêm vỏ dừa
vào. Khói bùng lên tràn ngập căn nhà.
Xuân ngồi im lặng nhìn khói trắng bao phủ quanh mình, nghĩ ngợi
mông lung. Rồi mối tình của Khanh và chàng cũng tan mau như những làn khói nầy?
Cảm giác nhiều lần ái ân ngất ngất đêm qua làm chàng đau khổ và hối tiếc thời
gian qua mau. Khói tan rồi còn lại đống than đỏ rực và vài ngọn lửa nhỏ. Muỗi
vo ve trở lại. Ngồi đây hoài suốt đêm đuổi muỗi? Ngồi đây hoài than thở cho mối
tình tan vỡ? Phải chi thời gian dừng lại ở đêm hôm qua? Làm gì để kéo níu trở lại?
Chỉ là hối tiếc thôi sao? Ôi thời gian! Thời gian quái ác! Sao hông dừng lại ở
đêm hôm qua cho mình tận hưởng trọn vẹn ân ái mặn nồng? Thời gian vẫn trôi và
có tiếng gà gáy canh hai xa xa từ bên nhà hàng xóm. Chàng gục đầu vào hai gối
nhìn đống than từ từ lụn mà quên đàn muỗi vo ve bu quanh hai mang tai.
Khanh vùi đầu vô cái gối mỏng còn lộm cộm hột vì dồn bằng
bông cây gòn. Từ đầu hôm đến giờ Khanh hông ngủ được, khóc rấm ra rấm rứt tức
tưởi. Sao mình hông lấy được anh Xuân? Con người mà mình yêu thương từ đó
đến giờ. Liệu mình chống lại được lịnh của Tía hông? Tía Má
chắc từ mình quá? Bỏ nhà trốn đi theo ảnh? Mà mình với ảnh đã có…với nhau rồi
mà! Làng xóm họ đàm tiếu hai ông bà già, hai ổng bả chịu sao nổi? Trời ơi! Sao
khổ quá vậy nè trời?…
Xuân uể oải đứng dậy. Cầm một miếng than nhỏ, bỏ vào miếng vỏ
dừa, chàng dời đống un đến gần võng. Võng đong đưa kẽo kẹt trong đám khói. Xuân
thiếp đi và ngủ quên được một lát rồi chàng giựt mình thức dậy. Ngoài vườn vừa
có tiếng dừa khô rụng đánh bịch và tiếp theo là tiếng tàu dừa rơi nghe xào một
cái. Đống un đã tắt ngúm. Xuân bước lại bộ ván, xoa xoa hai bàn chân phủi bụi rồi
nằm gối đầu lên trái dừa điếc. Sơ dừa làm chàng nhột nhạt nơi cổ. Và muỗi lại
vo ve bên tai. Xuân quơ đại cái áo thun dơ hồi lúc chiều chưa kịp giặt, còn nồng
nặc mùi mồ hôi, trùm kín mít lên đầu và thiếp đi cho đến khi chàng thức dậy vì
tiếng nói của chú Sáu Xe và tiếng động dao động thớt ở dưới nhà sau.
– Bây lựa hai con vịt nấu cháo, hai con gà giò nấu cà ri phụ
má mầy. Ra bắt sớm đi con, để chút nữa hừng đông là tụi nó đi mất, khó bắt lắm.
Còn con Vân lo đi mua bún, rồi về chuẩn bị nấu nước nôi pha trà đãi khách. Để
Tía lột dừa rồi nạo cho.
– Bộ họ qua sớm hả Tía?
– Ờ! Họ qua sớm. Nghe đâu về rồi phải đưa ông Tư Thép đi nhà
thương. Ổng bị bịnh gần cả tháng nay rồi.
– Ổng bị bịnh gì dzậy Tía?
– Bịnh gì cả nhà cũng hổng biết. Cứ nóng lạnh lên xuống hà rằm.
Ăn vô ói ra. Chút nữa, thằng chồng bây qua, rồi bây hỏi nó.
– Ảnh tên gì Tía?
– Thằng Ba Đẹn.
Xuân ngồi trên bộ ngựa, nhìn thấy Khanh xụ mặt qua ánh đèn dầu
leo lét. Xuân thấy tội nghiệp cho Khanh, tới bây giờ mà chưa biết tên tuổi và mặt
mũi người chồng sắp cưới của mình. Chàng liếc nhìn Khanh. Hình như có hai dòng
nước tuôn ra từ đôi mắt nàng.
– Xuân! Mầy uống với tao một chén trà cho tỉnh người, mậy.
Trà con Khỉ đó mầy!
Chàng biết trà xanh con Khỉ ướp bông lài Mỹ Lồng. Trà nầy thường
bán ở con đường giữa chợ Bến Tre. Nước màu xanh trong chén trà bốc hơi. Xuân nhấm
một hớp. Mùi bông lài ngào ngạt. Vị trà chan chát, đăng đắng. Nước trà nóng
trôi đến bao tử. Hơi ấm lan dần trong cơ thể. Xuân cảm thấy lâng lâng.
Ngồi nhìn ánh đèn chập chờn, chàng nghĩ ngợi mông lung. Mới
năm nào, ba đứa Antoine-( con anh Hai Huynh, lớn hơn Xuân đến ba tuổi mà kêu
Xuân bằng chú; quen nhau nhiều chỉ kêu tên thôi. Sau nầy, có bằng trữ dược
viên, mở nhà thuốc Tây ở Mỹ Lồng), Hai (con chú Bảy Nghiêm. Nhà bên hông vườn
Bà Nội)- và Xuân cứ mỗi buổi trưa hè mùa bãi trường hay ngồi uống trà xanh con
Khỉ ở nhà Antoine. Hết bình trà nầy đến bình khác, ba đứa nói đủ thứ chuyện:
chuyện làng xóm , chuyện học hành, truyện Tàu, chuyện văn chương Việt Nam……
– Anh Ba ngồi uống trà với Tía em. Bây giờ em còn phải đi chợ
mua bún
– Cho anh đi với.
– Đợi em đi bó đuốc.
– Để anh bó cho. Ba cây được hông?
– Nhiều lắm. Hai cây đủ rồi. Anh bẽ hai ngọn tàu lá dừa rồi
bó thành hai cây dài là mình đủ đi đến ngoải.
Xuân mồi lửa rồi giành cầm đuốc. Chàng quơ lên quơ xuống. Chập
chờn ánh sáng bóng đêm. Đuốc lửa trắc tréo men theo đường mòn . Chưa quen đường
đêm, Xuân dò dẫm theo bước chân của Vân. Đôi khi vấp mô đất cao, Xuân suýt té.
Những bụi lứt, bụi sậy, đám quao có trái cong vòng mọc lấn ra đường thù lù như
hình người làm chàng giựt mình. Hàng dừa tơ cao bằng đầu, lá dừa ngáng ra giữa,
chàng phải cúi mình chui qua. Phùng Xuân nhìn lên cao, qua những ngọn dừa lão
cao nghệu, sao đêm đang trôi chầm chậm về Tây. Trời sắp sáng. Có một vài tiếng
cu đất gáy từ xa xa.
Hai người ra đến đường làng. Vân đi lẹ. Xuân vung đuốc cao. Lửa
bập bùng. Phía trước và sau, xa xa có vài ánh đuốc lập lòe như ma trơi, nhìn tưởng
chừng như lăn tròn trên mặt đất.
– Vân nè?
– Gì anh Ba.
– Tại sao Khanh chịu lấy chồng sớm vậy?
– Sao anh hông hỏi chỉ. Lại hỏi em.
– Đêm qua hai đứa chui vô mùng sớm. Làm sao hỏi được.
– Tía sợ chị Sáu ế chồng. Anh nghĩ coi. Thời buổi nầy, con
trai ở nhà quê lớn lên đi học cho có chút chữ nghĩa rồi còn ở nhà lo chăm sóc
vườn tược nữa chứ. Thành thử tụi nó đâu có đi học bao nhiêu. Con gái học cao ở
quê, trai nào dám cưới.
– Vậy chớ chồng Khanh, Ba Đẹn, học đến lớp mấy rồi?
– Hồi hôm nghe má nói chồng chỉ học hết lớp ĐệThất rồi về nhà
lo coi khoảnh vườn của Tía ảnh. Thì anh coi, trai vườn tối ngày chỉ lo làm cỏ,
bồi mương và tới lứa lo giựt dừa.
– Rồi hổng làm gì cho có tiền nữa sao ?
– Có làm gì đâu ra tiền. Có đám nào giỏi, làm chông bắt cá
tép chút đỉnh để vợ đem ra chợ bán.
– Vậy là cũng nhàn nhã?
– Có đám tiệc, giỗ quảy thì lo phụ. Xong lại đờn ca hát xướng,
nhậu say be bét. Có đứa hiền về nhà im re; còn có đứa nhậu đã về nhà chửi vợ mắng
con.
– Có vậy mà con cái cũng đầy đàn đầy đống.
– Còn em?
– Sao anh hổng hỏi tới chuyện chỉ nữa đi ?
– Hỏi gì nữa em.Khanh đã chịu vậy. Thì anh biết làm
sao nữa.
– Đêm qua chỉ nằm kế bên em mà khóc thút tha thút thít hoài.
Em kêu chỉ nín đi mà chỉ hổng nín. Sáng nay bụp mắt mà Tía thấy là đố khỏi ổng
rầy cho coi.
– Sao Khanh khóc dữ vậy?
– Sướng chưa! Bây giờ mới hỏi vậy. Chắc tại chỉ thương ai đó.
– Lúc đi học ở BếnTre?
– Chắc vậy?
– Em biết người đó chứ?
– Em biết.
– Trong đám bạn Khanh?
– Hông phải.
– Anh đâu có ở Bến Tre thường. Một năm anh mới về một vài lần
mà. Em nói cho anh biết đi.
– Hổng có nói bây giờ. Bật mí hết. Để sau khi làm đám cưới hả.
Xuân im lặng. Chàng nghĩ: con nhỏ nầy chắc biết chuyện Khanh
và chàng thương nhau. Cũng có thể lắm? Nhiều khi Vân nói đon nói ren hoài…
Một hai nhà đã thức. Bếp đã đỏ lửa. Giờ nầy đám đờn ông nấu
nước pha trà vì có tiếng nói rổn rảng và tiếng cười ròn tan. Hai đứa đi qua một
vài nhà có chó. Tiếng sủa inh ỏi, vang rền cả một khu vườn. Đột nhiên, một con
chó từ trong nhà chạy sát ra đường sủa to liên hồi rồi hực một tiếng.
– Vân! Làm gì vậy?
– Anh! Em sợ chó.
– Thì em cứ đi đi. Nó sủa chớ hổng có cắn đâu. Đi đi. Làm gì
mà hoảng hồn dữ vậy?
– Em sợ chó mà!
– Sợ thì sợ chớ sao ôm anh cứng ngắc, hổng chịu buông ra vậy?
– Xí! Đồ thấy ghét. Lãng nhách! Ai thèm ôm anh hồi nào!
– Nó. Lại giận nữa rồi. Ở đằng trước tối thui. Coi chừng ma bắt
bây giờ đó nghe!
Vân ngoe nguẩy bỏ đi te te thật xa. Xuân nghĩ chắc con nhỏ nầy
muốn sanh sự…
Hai người tới đình Lương Quới thì cũng vừa tàn cây đuốc thứ
hai. Hồi nhỏ, thằng Xuân ít khi vô đền vì trong đền tối âm u, chỉ thấy gươm
giáo và mấy con hạc, con rùa. Nó đi vòng ở ngoài ra đến cây trôm. Nó chặt lấy
mũ đem về cho Bà Nội. Hồi đó cây trôm to lắm, gốc khoảng một người ôm và hông
biết mọc từ lúc nào. Muốn vào cây trôm, phải lách lau sậy. Thiên hạ đồn có nhiều
rắn thần để giữ đình, nhưng nó đâu có ngán! Cái thằng Xuân trời đánh, tung
hoành lục tặc, tối ngày mình trần trùng trục, hay phá làng phá xóm. Đi cả đám
ngang vườn mía tây vàng ươm là Xuân nhảy vào bẽ cái rụp rồi chia mỗi đứa một
khúc. Ổi thì khỏi nói, cho tụi bây ăn líp ba ga. Làm như ta đây là chúa đảng
hông ai bằng. Mỗi lần bị mắng vốn: “Chị Bảy: Thằng Xuân ….” là mỗi lần bị đòn
nhừ tử. Roi mây, roi tre bà Bảy quất túi bụi. Nó chỉ có dang tay đỡ rồi chạy trốn,
chui vào bụi cây lùm cỏ khóc thút thít cả buổi trời. Nghe bà Bảy, chị hai kêu về
ăn cơm nhưng nó cứ ngồi lì cho đến sẩm tối. Nói vậy chớ đánh đòn xong, lần nào
bà Bảy cũng lấy dầu cù là MacPhsu xức vào những lằn roi ngang dọc rồi hai mẹ
con ôm nhau khóc thút tha thút thít. Lần bị đòn đau nhứt là lần Xuân nhảy lên
thoi vào bụng Sếp Hết. Ổng nhậu say ngà ngà. Gặp hai anh em nó, ổng đưa hai tay
bóp cổ thằng Quang, em Xuân. Nó nhảy lên thoi ổng hai thoi rồi hai đứa bỏ chạy.
Ổng theo riết. Tao mét chị Bảy là mầy dám đánh tao. Bà Bảy đánh cho đã nư vì có
ổng đứng đó coi và bà Bảy sợ ổng trả thù. Ổng biết ông Bảy đi kháng chiến chống
Tây…
Gà gáy canh ba. Chợ Lương Quới bắt đầu nhóm. Mỗi một người
bán là một ngọn đèn chông. Có người có sạp. Người hông sạp thì lót lá chuối bày
hàng trên mặt đất. Một số người buôn sĩ để sẳn trong thúng như chanh, chuối,
cam, ổi, bưởi. Họ thường là dân xóm trong, ở ấp cô Xanh bên Lương Hòa, hay
Lương Phú ở bên kia sông Bến Tre. Họ bán mảo cho bạn hàng chợ quận và chợ tỉnh,
cho nên mỗi lần xe đò đến là người đông tấp nập. Xe đò Ba Tri lên sớm thường chở
cá và tôm thẻ. Cá thì có mùa, khi thì cá đuối, cá rựa, cá lù đù. Những loại cá
rẻ tiền mà Bà Bảy thường hay mua. Cá đuối thì nấu cà ri dừa, ăn béo ngậy. Cá rựa
thì ướp sả chiên, nhưng phải khứa khứa cho nhỏ ra vì nó rất nhiều xương. Cá lù
đù kho khô. Đặc điểm của món ăn Bến Tre là cái gì cũng có nước dừa tươi và nước
cốt dừa. Đến món cháo trắng cũng có nước cốt dừa: món mà ông Bảy thích nhứt.
Những năm đó chợ Lương Quới sung túc vì ở Ba Châu lên và
Lương Hòa, Lương Phú đổ ra. Thành thử khu chợ nhỏ mà đã đông từ khuya. Bạn hàng
nườm nượp đã đành mà người mua cũng nhiều. Họ tranh nhau đi sớm để mua được những
món hàng rẻ mà tươi. Hơn nữa còn hành khách đi xe cũng tụ về đây. Họ đi sớm lên
tỉnh có công việc hoặc lên Sài Gòn thăm bà con. Từ Châu Bình- vùng Ba Châu- phải
thức dậy từ gà gáy canh một thì canh ba đi bộ mới đến Lương Quới. Những năm đó
cũng có xe đò Bến Tre- Châu Bình, nhưng mỗi ngày có một hay hai chuyến. Còn muốn
đi đò máy qua MỹTho thì cũng phải thức dậy từ canh hai. Đò máy chạy sình sịt tới
trưa mới đến Mỹ Tho. Muốn đi mau, chỉ có cách là lên xe đò ở Lương Quới đến Bến
Tre thật sớm, ngồi xe Á Đông lên Sài Gòn.
Vân và Xuân đi ngay lại chỗ bác Năm Học bán bún và giá đậu
xanh.Vân mua được một cái củ hủ dừa. Trời còn quá sớm nên chưa có bún. Những
ánh đèn dầu mù mờ. Những cái đầu đội miếng khăn có khi trắng, có khi có sọc. Nếu
hông có tiếng ồn ào thì chợ về đêm toát lên vẻ âm u của một ngôi chợ ma…
Trời hửng sáng. Bận về Vân đi sát bên Xuân, thỉnh thoảng nhìn
chàng cười chúm chím và hai má ửng hồng trong sương sớm.
– Em có gì vui?
– Đâu có gì!
– Sao lại cười?
– Thì nhìn anh cười hổng được sao!
– Anh có gì lạ?
– Có chứ. Lạ là tại sao anh hổng buồn?
– Buồn chuyện gì?
– Buồn chuyện chị Sáu em đi lấy chồng
– Con nhỏ nầy hay hỏi cắc cớ quá. Thì cũng như em thôi. Mình
vắng đi môt người thân!
– Anh nói xạo hoài!
Đàng trai qua thật sớm. Hông đông, khoảng mười người. Ba Đẹn
mặc bộ đồ bà ba trắng, bên ngoài thêm áo dài đen lụa mỏng. Chú rể đi chân
không, đầu bịt khăn đống. Gương mặt người trai nhà quê đi cưới vợ lần đầu ngô
nghê, cặp mắt hơi ti hí và môi dưới trề ra, lộ hàm răng lộn xộn vàng khè. Nhà
trai đem qua có bốn mâm: mâm trầu cau, mâm trà, mâm rượu và mâm trái cây. Mùa nầy
hông phải là mùa trái cây và chắc vội vàng, nên trên mâm chỉ có vài trái mận đỏ
và trái mãng cầu xiêm.
Mở đầu là lời ông mai, nói lý do đám hỏi hơi gấp; rồi lời
chào hỏi hai bên đàng trai, gái. Sau đó, tất cả bốn mâm bọc vải đỏ được bày ra
để trên bàn ăn cơm giữa gian nhà. Nhà có được sáu cái ghế đẩu nên có một vài
người khách phải đứng, nhưng Xuân nhanh nhẹn mời họ ngồi qua bộ ván bên cạnh.
Vân lăng xăng lo tới lui bưng nước trà. Chú Sáu Xe thường hay nói nhiều, lanh lợi,
thăm hỏi bịnh tình của ông sui Tư Thép. Bà TưThép nhai trầu bỏm bẻm, xỉa cục
thuốc rê to tổ bố bên miệng, trả lời rất chậm. Thím Sáu Xe cũng là dân quê
nhưng hông ăn trầu, nói nhỏ nhẹ và rất hiền lành. Hông hiểu bên sui trai như thế
nào chớ Xuân thấy bên sui gái có vẻ như chưa hợp với nhau. Ba Đẹn ngồi bên bộ
ván, thỉnh thoảng lấy hai bàn chân chà chà nhau coi bộ nóng lòng vì chưa thấy
bóng dáng Khanh.
Được độ cạn ba chén trà, ông mai đứng lên xin phép về sớm vì
còn phải đưa Ông Tư Thép đi nhà thương. Đến bây giờ mới nghe chú Sáu Xe gọi
Khanh ra chào hỏi đàng trai. Lẽ ra, Khanh phải ra bưng trà đãi khách, nhưng
hông hiểu sao từ sớm đến giờ Khanh cứ ở miết trong buồng. Đến khi nghe tiếng
Tía gọi Khanh mới ló đầu ra. Cô dâu tương lai mặc chiếc áo dài trắng hổng
có gắn phù hiệu của trường Trung Học Tân Dân Bến Tre, đôi mắt hơi đỏ, bước
ra khỏi buồng cúi đầu e lệ chào mọi người. Bà Tư Thép lấy cục thuốc xỉa khỏi miệng,
cầm hờ trên tay, liếc nhìn cô dâu. Còn Ba Đẹn lật đật tuột xuống khỏi bộ ván, đứng
nhìn người vợ sắp cưới duyên dáng trong chiếc áo dài trắng, có vẻ hài lòng.
Xuân đứng cuối nhà bếp, loáng thoáng nghe ông mai xin định cưới trước Tết-
ngày hai mươi tháng chạp ta, sau khi gặt lúa xong- rồi chào hỏi ra về…
Dòng nước ròng đục ngầu cuồn cuộn, tuôn vào búng của con rạch
thành những xoáy tròn mang theo những bập dừa, những trái mù u còn xanh, trái vẹt
dài có đầu như cái nôm, trái quao cong vòng, chìm sâu vào đáy nước. Kỷ niệm ba
năm về trước vẫn còn đó. Bụi chại hơi lớn hơn. Đám mái dầm và ô rô lấn ra dòng
rạch. Nơi Xuân vớt được Khanh, rồi ôm vào lòng, bây giờ trơ ra gốc dừa nước.
Lúc đó là nước nhửng lớn. Bây giờ là nước ròng. Thời gian trôi đi, đảo lộn và
xóa nhòa mọi thứ. Con ma da có còn ở cái búng nầy hông? Xuân ngồi ở đầu bờ dừa,
hổng biết bao lâu, cảm thấy mình hèn hạ hông thể làm gì để có thể giúp cho hai
đứa có được một mối tình trọn vẹn. Chim chàng chài lẻ loi đậu im lìm trên gốc bập
dừa nước, nhìn dòng rạch tuôn chảy. Chim ơi, chim đợi chờ gì?
– Anh. Anh làm gì ngồi ở đây? Em đi kiếm anh cùng hết.
Phùng Xuân ngước nhìn lên. Gương mặt Khanh u buồn, nhưng vẫn
còn nét tươi sáng đẹp đẽ. Mái tóc kẹp lại gọn ghẽ. Đôi môi hồng hồng lồng trong
hai má bầu. Cặp mắt tròn nhìn nó đăm đăm như muốn nói điều gì. Chàng vụt đứng
lên, bước sát đến bên Khanh. Có tiếng sột soạt trong đám mía ở đầu bờ.
– Coi chừng con Vân nó đang đi tới!
– Hai người đang làm gì ở đây?
– Con nhỏ nầy! Tía kêu tao đi kiếm ảnh về ăn bánh xèo, chớ bộ!
– Ờ hé! Thôi đi về mau để Tía đợi.
Hai chị em bước đi. Xuân nhìn theo. Mông Khanh lúc lắc trong
chiếc quần đen. Chiếc mông giống y chang khi Khanh gánh dừa hoặc hai thúng ổi
và chuối từ vườn về nhà. Còn Vân thân hình hơi mảnh dẽ hơn và đi có vẻ gọn gàng
hơn Khanh. Khanh đúng là tướng con gái nhà quê, giỏi giang, chịu khó đủ điều.
Về tới nơi, Khanh bắt đầu đổ bánh xèo. Củ hủ dừa dòn tan và
ngòn ngọt, được xắt mỏng. (Ít khi có được củ hủ dừa, trừ trường hợp dừa bị
đuông ăn hoặc dừa quì ngã ra bờ rạch)… Những cái bánh còn nóng hổi, bốc
khói, vàng ươm óng ánh đầy những con tép bạc, tép đất, xếp thẳng hàng ngay ngắn
trên tấm lá chuối. Hai bên rìa bánh xèo dòn rụm. Bên kia là tấm lá chuối khác,
có lá cách xanh mùi hăng nồng đăng đắng, đọt xoài mũm mĩm chan chát, lá điều
( cây điều: Maya Apple, trái màu đỏ sậm, lá non chua ) non tim tím
chua chua, lá bông vạn thọ hương ngạt ngào nhân nhẫn, lá ngò gai thơm nồng hái ở
đầu bờ, rau răm cay cay, vấp cá tanh tanh mằm mặn. Mọi thứ được trộn chung với
lá đọt mọt chua chát, trắng ngần mỏng tanh mềm mại như lụa, làm cho đống rau ăn
bánh xèo dân dã thêm phong phú. Vân pha nước mắm chanh, tỏi, ớt với nước dừa
xiêm thiệt. Cuộn bánh xèo béo ngậy đầy đủ hương vị của nước cốt dừa, của nghệ
tươi, của bột gạo Tào Hương xay ở cối đá sau nhà, cuốn với đám rau sống, chấm
nước mắm chanh là món mà dân quê ưa thích, ăn no cành hông. Gặp những ngày cuối
tháng bảy trời mưa dầm, trúng được ổ nấm mối mà đổ bánh xèo thì còn gì bằng!
Sau buổi ăn, chú Sáu Xe ngồi ở bộ ván, vấn điếu thuốc rê to bằng
ngón trỏ, xong thọt tay vô túi áo bà ba cũ mèm nhuộm màu phèn, lấy ra cái hột
quẹt đá lửa, se se đầu tiêm cho bớt dầu. Sau ba bốn cái sẹt nháng đỏ, tiêm bùng
cháy. Chú Sáu đưa điếu thuốc bập bập hai ba cái, hít một hơi thật lâu, xong thở
ra. Luồng khói thuốc dài màu xám đục tuôn ra từ hai đầu mũi. Điếu thuốc hông
dính vào môi mà dính vào đầu lưỡi. Chú tiếp tục bập thêm ít cái nữa và hít vô.
Điếu thuốc bây giờ chỉ còn độ nửa. Chú hút thêm một vài hơi nữa, điếu thuốc gần
hết. Chú dụi tắt và lấy tàn dán vào cột hàng hiên bên hông nhà. Xuân nhìn những
tàn thuốc dán đầy từ trên xuống dưới. Để làm gì vậy? Chàng chưa bao giờ hỏi ổng.
– Khanh, Vân à! Tụi bây chuẩn bị ngày mai xuống thay cho thằng
Tám Trò. Hổm rày nó coi thế dùm tao mấy ngày để về lo đám hỏi cho con Khanh.
Khanh nháy mắt hai ba cái, liếc nhìn Xuân, im lặng. Còn Vân cứ
hỏi miết.
– Thế gì Tía?
– Thì chăn bầy vịt Tàu chớ gì nữa!
– Ở đâu Tía?
– Ở đồng Mỹ Nhiên, sâu trong Cái Bông, Giồng Tre.
– Vân nó hổng biết, chớ con biết rồi. Tía khỏi lo. Để con chuẩn
bị ngày mơi tụi con đi.
– Chú Sáu! Cho con đi theo tụi nó ví.
Ông Sáu Xe nhìn Xuân hơi ngạc nhiên. Còn bà Sáu Xe ngó Xuân đầy
cảm tình. Từ hồi nào đến giờ, hai ông bà hy vọng có sự ngỏ lời của má Xuân về
hai đứa con gái của mình, nhưng hông thấy má Xuân nói năng gì, nên họ cũng e ngại.
Mỗi lần Phùng Xuân về chơi, chú thím Sáu đều hỏi thăm má chàng. Nhưng ngoài những
câu Xuân trả lời về sức khỏe, về chuyện làm ăn của gia đình, hai ông bà hông nhận
được bất cứ điều gì nữa nên họ đành im lặng. Có thể họ là đàng gái, họ hông mở
lời trước. Còn Xuân và Khanh đều lo sợ nên hông dám hở môi. Bây giờ chuyện đã dỉ
lỡ rồi. Thím Sáu còn hy vọng ở Vân? Bà nhìn chồng như ngầm đồng ý. Chú Sáu liếc
nhìn vợ một cái rồi quay sang Xuân, hơi ngần ngại.
– Nắng nôi lắm mầy ơi. Còn sình lầy và đỉa nữa mầy có chịu nổi
hông. Đố hông rồi mầy bịnh hoạn chị Bảy rầy tao.
– Được mà chú Sáu. Con chưa biết mần như thế nào. Con
muốn chăn vịt cho biết. Chú Sáu cho con đi đi. Có gì con còn phụ cho Khanh và
Vân
– Mầy mà phụ cái gì. Tướng học trò Sài Gòn.Trắng bốc! Mầy mà
mần nổi cái nước nôi gì!
– Nổi mà chú!
Nói vậy chớ chú Sáu cũng phì cười. Chắc chú tin có hai đứa
con gái đi chung nhau thì hông có điều gì phải lo. Hơn nữa Khanh cũng đã đám hỏi
rồi!
– Bà kiếm cho nó hai bộ bà ba cũ của thằng Lân. Chớ nó mặc đồ
tây, xuống dưới phèn ăn hết!
Khanh đợi lúc vắng, nói với Xuân cứ mặc quần áo chàng mang
theo. Anh mà mặc bà ba đen coi nhà quê lắm. Nhớ bỏ đôi săng đan ở nhà!
Chưa tờ mờ sáng, ba đứa ra đến chợ Lương Quới, ngồi ở chỗ
quán bà Tám Khéo: vợ bé của ông Hương Quản Cây. Gần nửa tiếng sau mới có chiếc
xe đò Bến Tre-Ba Tri. Hành khách đông nghẹt, hổng còn một chỗ trống. Bọn họ phải
đeo sau xe. Xuân lựa khi xe sắp chạy, nhảy lên sau cùng, nắm càng, đeo sau lưng
Khanh. Xuân gần như ôm trọn Khanh vào lòng. Mùi thơm từ da thịt Khanh, thêm gió
đồng sớm tỏa khắp vào mũi chàng. Chàng ngây ngất.
Sau năm 1954, đường sá chưa tu bổ nhiều nên còn nhiều ổ gà. Mỗi
lần xe sốc là mỗi lần Xuân ôm lấy Khanh. Trời còn tối nên Vân hông thấy. Xe qua
cống Cát Lỡ. Cầu sắt Bình Chánh, cũng loại như cầu kinh Chẹt Sậy, nhưng hông
cao bằng và chắc hơn.Tiếng ván vỗ rầm rầm nghe điếc tai. Đến Giồng Trôm có vài
người khách xuống. Xe trống hai chỗ. Vân và Khanh chui vào trong. Băng cây dài
dọc hai bên. Chính giữa bạn hàng chất giỏ cần xé, gióng gánh. Xe chạy kêu ì ầm,
sình sịt, qua mấy ổ gà sâu còn nghe cót két. Đến TânThành xe ngừng lại đổ nước
vì máy xe bốc hơi dữ dội.
Cánh đồng Sơn Đốc mờ mờ trong sương sớm. Những địa danh quen
thuộc gợi lại cho Xuân thời còn bé đi cùng các frère lội bộ dọc bờ đê từ ngã ba
Sơn Đốc vô nhà thờ La Mã, nơi Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hiện ra.
Đến Cái Bông thì trời đã bửng sáng. Cái Bông là vùng Công
Giáo, có nhà thờ cũng khá lớn, nhưng đối với Xuân nhà thờ Ba Châu (GiồngKhương)
là có nhiều kỷ niệm hơn cả: có những bà dì Phước Dòng Mến Thánh Giá phạt học
trò quì xơ mít, bê thước bảng đỏ bàn tay; nhiều cây sao cao ngun ngút quanh nhà
thờ. Những trái sao xoay tròn bay trong bầu trời nắng hè gay gắt. Xuân lượm bỏ
đầy vào cái cặp lác, vào cái nón cối trắng tinh Bà Bảy mua cho lúc tựu trường…
Con đường cát ở Giồng Tre sâu hun hút, mập mờ tận cuối làng.
Những cây vú sữa sắp trổ bông phủ dầy đặc cả hai bên đường. Khanh nói vú sữa
vùng nầy là vú sữa tím, trái nhỏ và tròn. Có lẽ vì cây quá cỗi? Vú sữa nhà nội
Xuân có hai loại. Loại da bò thì trái thon và hơi dài, khi chín vỏ hơi cưng cứng,
hông láng bóng. Còn loại vú sữa trắng- bà ngoại gọi là vú sữa nếp- tròn mộng và
to trái. Khi chín trên cành, da chúng láng bóng và hơi vàng vàng dưới đít. Bóp,
vò cho mềm trong lòng hai bàn tay, rút cùi ra, rồi lấy lưỡi nút nút, độ ngọt và
cơm sữa tiết ra của vú sữa trắng làm mình ngây ngẩy, tăng tăng. Một vài cành
thanh long khẳng khiu, có một vài trái nhỏ chín đỏ, bò dài vút cao lên thân vú
sữa. Tiếng chó sủa rân từng hồi dọc con đường bọn Xuân đi qua.
Khi ba người ra đến cuối làng, giáp với cánh đồng thì mặt trời
mọc lên một sào. Ánh nắng thật chói chan. Đàn cò, đàn chim áo dà chập chờn cùng
khắp cánh đồng. Bắt đầu nóng vì hông có gió. Đợi thật lâu, Khanh mới nhắn được
với một người chống ghe đang đi vào trong, kêu Tám Trò ra.
Đồng Mỹ Nhiên-Mỹ Chánh là một cánh đồng trũng, nước nhiều vào
mùa mưa- từ tháng tư trở đi. Mùa khô vào khoảng đầu tháng giêng, cánh đồng vẫn
còn ngập nước, đầy phèn. Phía Bắc là Bình Tiên –Châu Bình, có món mắm còng lột
ngon thơm lừng. Ngày mùng năm tháng năm âm lịch, còng đỏ tụ vào vùng trũng nước,
nhứt là các lỗ chơn trâu rồi lột đồng loạt.( Còn còng quều càng xanh ở bặp dừa
vùng nước lợ ). Người ta chỉ cần thò tay vào các lỗ đó bắt còng lột và đem
về làm mắm. Đây là một món đặc biệt, hông phải ai cũng có mà ăn, vì số còng lột
hông nhiều. Thường thường gia đình làm để ăn và ít khi đem bán. Mắm còng đến độ,
đem trộn với mít chín xé nhỏ, hay khớm, thơm điếc mũi. Ăn nó với bún và rau sống
thì đả và no cành hông luôn.
Phía Đông Bắc là Bình Khương, có sân chim rộng lớn. Nổi tiếng
là rừng chà là, có rất nhiều đuông. Đuông chà là ngon và to hơn đuông dừa. Mỗi
đọt chà là chỉ có một lỗ, nghĩa là chỉ có một con đuông. Có hai lỗ là hông có
đuông: đuông thành kiến dương bay đi mất. Nhưng đốn được đọt chà là để bắt một
con đuông hông phải dễ vì rừng chà là rất nhiều gai, rắn và muỗi mòng vô kể.
Vùng Nhơn Trạch miệt Long Thành (Biên Hòa) cũng có đuông chà là nhưng hông nhiều
bằng ở đây. Phía Nam là miệt Tân Xuân và phía Tây là vùng Giồng Tre- Cái Bông.
Khanh bỏ sào dài xuống nước, nhún người đẩy nhẹ một cái, chiếc
ghe ba lá hai kèm khẵm khừ rướn mạnh theo dòng nước trong vắt. Hai bên là lác,
rán, sậy, quao, dứa gai. Từng đàn chim áo dà nâu tím, chim sắc màu xám điểm
chút đốm trắng bay lượn chập chờn vờn theo những bụi bông cỏ, kêu ríu rít. Nhiều
đám mây cò trắng rập rờn cùng khắp cánh đồng hoang. Thỉnh thoảng một vài con cò
ma, con trích giựt mình bay vụt lên. Một vài cây trâm bầu trơ trọi giữa cánh đồng
nơi gò đất cao.
Ở đây chỉ có thể làm một vụ lúa sạ bắt đầu từ tháng năm,
tháng sáu. Đến tháng bảy, cánh đồng trũng ngập đầy lúa xanh rờn. Nhiều nhà bắt
đầu nuôi vịt tàu bầy, thả ra đồng hoang ăn mọi thứ cào cào, châu chấu, cua còng
đang lớn. Và họ đợi lúa chín, cánh đồng trơ gốc rạ là lúc thả cho vịt ăn lúa
rơi rớt để cho mau mập.
Khanh chống xuồng một lát vừa đổ mồ hôi hai bên mang tai làm
ướt những sợi tóc mai thì lấy tay chỉ căn chòi lớn nằm bên trái. Xuồng rẽ vào
dòng nước nhỏ và tấp vào bờ.
Đàn vịt càm cạp ỏm tỏi vì bị nhốt từ sáng đến giờ. Hai chị em
và Xuân lật đật buông đồ đạc xuống.
– Chị Sáu lo cơm nước đi. Bây giờ cũng gần trưa rồi. Để em thả
vịt cho.
– Khoan đã. Cho nó ăn ba hột lúa đi. Bữa nay thằng Tám Trò bỏ
đói từ sáng.
Vân xách quần áo lủi vào sau đống rơm, thay đồ. Vân lật đật
bước ra khỏi cây rơm, chưa kịp gài hết bộ nút áo, lộ khỏang ngực màu cơm dừa.
Hai ống quần đen vo lên khỏi gối. Bây giờ là cô gái đồng ruộng, chớ hông còn là
cô gái miệt vườn nữa. Sau đó Vân múc nước vào diệm, đổ ít lúa. Đám vịt khoảng
chừng non hai tháng bu lại những cái diệm, kêu chít chít, rút rỉa chìn chịt. Độ
chừng hết lúa, nàng mở cà tăng. Đàn vịt tuôn ào ra kêu chíu chít, vẫy nước văng
tứ tung rồi tung tăng bơi vào đám ruộng. Vân đẩy xuồng ra, chống ghe theo bầy vịt.
Chòi chăn vịt nằm chơ vơ giữa đồng không mông quạnh, trên một
cái nỗng đất cao hơn mặt nước một chút xíu. Phía trước có hai cây rơm cao độ chừng
một tầm. Phía bên hông có một khoảng trống dừng cà tăng ví xung quanh làm chỗ
nhốt vịt. Trong chòi trống bốc, hông có được cái gì để nằm và ngồi. Có một cái
cà ròn, một cái nồi đồng sứt quai trong có vài đôi đũa nằm lỏn chỏn dưới đất.
Bên cạnh cà ròn là một cái khạp đựng gạo, kế bên là cái tỉn đầy muối hột. Hai
ba cái chén, một cái tô đá mẻ úp trên kệ tre. Và một cái hủ nhỏ dùng làm con mẻ.
Phía góc chòi một chiếc chiếu bung đầu nằm đè trên hai cái nóp đệm. Còn có thêm
cái cuốc, cái phảng, cái cù nèo, con dao yếm, con dao phay, cái chét và mấy cái
liềm bỏ tùm lum tà la ở cuối sau hè. Sát bên ngoài có hai cái lu chứa đầy nước
và một cái khạp bể miệng chứa nước tro lóng màu vàng nghệ, dùng để giặt đồ…
– Anh! Chắc em bỏ nhà trốn theo anh lên Sài Gòn. Anh đi để lại
mình em làm sao em sống nổi. Em nhớ anh lắm.
– Rồi làm sao anh nói với má anh.
– Em sẽ tự thú. Em năn nỉ Bác Bảy, má anh. Được mà anh. Anh đừng
lo.
– Tụi mình còn đi học, rồi lấy giống gì mà sống em? Mai mốt đẻ
con đầy đàn đầy đống để tụi nó đói sao em?
– Em rán đi mần gì đó nuôi anh đi học tiếp, để anh làm giáo
sư.
– Mần cái gì bây giờ em? Buôn gánh bán bưng? Nắng nôi cực lắm
em ơi! Gánh nước mướn? Cũng khổ lắm. Tối ngày em sếp thùng ở phông tên, chờ chực
lấy từng thùng nước. Còn nếu hông, em phải chờ đến khuya. Anh đâu để em cực khổ
như vậy!
– Cực gì em chịu cũng được hết, miễn em được gần anh. Nghĩ tới
em sống với người chồng em sắp cưới, chắc em chết mất quá. Nói gì thì nói em sẽ
trốn đi theo anh.
– Hổng sợ Chú Thím Sáu sao? Ổng Bả đã làm đám hỏi cho em rồi.
– Có con rồi hai đứa dẫn con về tự thú. Hổng lẽ ổng bả giết
chết em?
– Từ em luôn chớ giết chết gì?
– Ối hơi đâu mà lo anh. Ông bà nào hông thương cháu.
– Thiệt hông em? Em chắc đi theo hả?
– Chớ còn gì nữa? Bộ anh tưởng em nói giỡn với anh sao?
– Hay là để anh tính như vầy. Anh nói với chị hai, xin em vô
mần hãng dệt với chỉ. Rồi anh cố gắng năm tới đậu xong Tú Tài Hai. Anh sẽ thi
vào Đại Học Sư Phạm hai năm. Ra trường là giáo sư Đệ Nhứt Cấp. Lúc đó mình mần
đám cưới. Em sẽ sung sướng hơn.
– Thiệt vậy hả anh? Anh tính vậy hả? Anh cho em đi theo anh hả
anh?
– Còn Má anh. Anh lo hổng biết bả có chịu hông?
– Được mà anh! Em sẽ lạy xin má tha tội. Mình rán đẻ cho má một
đứa cháu nội là bả mừng lắm. Rồi bả sẽ xí xóa hết.
– Chưa gì hết mà em lo đẻ rồi. Em đừng để đụng giường là đẻ.
Kiểu mắn đẻ như gà dzậy là chết đó nghen em.
– Thì qua nay em thấy có cái gì hơi khan khác rồi.
– Hơi khan khác là sao?
– Thì hơi khan khác là vậy đó chớ ai biết nói sao đâu?
– Em nói giỡn? Em có bầu?
– Bầu bì gì mới qua nay. Nhưng em linh cảm là em có con. Em
thấy trong người khác lạ lắm.Chắc tại mới lần đầu nên em thấy vậy.
– Hay là, em thèm nữa ?
– Con Vân nó về bây giờ, nó thấy là chết à nghen !
– Nói chơi thôi em. Bộ em tưởng thiệt hả? Vậy là mình tính
sao đây em?
– Em tính sau khi mình chăn vịt dìa, em sẽ lấy cớ lên Bến Tre
dọn đồ, rồi sẳn đó, em trốn theo anh lên SàiGòn luôn. Tính vậy được hông anh?
– Em tính sao mau quá vậy? Chú Sáu có nghi hông? Nhưng coi chừng
con Vân. Anh thấy nó có vẻ đang soi mói cái gì đó.
– Hông có đâu. Nó vẫn binh em mà. Mà em nghĩ nó cũng mến anh
lắm. Nó hay nhắc tới anh hoài.
– Được vậy càng tốt! Có chị có em.
– Gì nữa đây ông! Bộ tính bứng hoa cả cụm hả? Coi chừng em đó
nghen. Thôi bây giờ anh ra trước, nhắc chông lên coi có con tép rong, cá bãi trầu
nào hông?
Xuân đi ra ngoài, vừa lúc Vân cũng hùi hùi quơ cây lùa
vịt vào chuồng. Đóng cà tăng xong, Vân đổ lúa vào diệm cho vịt ăn thêm. Cái nón
lá rách bươm của Vân che cái đầu đội khăn trùm kín mít nên Xuân chỉ còn
thấy được hai con mắt đen nhánh như hột nhãn nhấp nháy. Hai cánh tay áo dài sười
sợt, tươm những đường chỉ còn đang sũng nước. Nàng vo hai ống quần đen lên tới
bắp vế, lộ hai đùi trắng nuột vừa mới rửa. Và những giọt nước còn đọng lại nơi
chơn lông tơ mượt mà. Vân bỏ nón và khăn ra. Liếc nhìn chàng, Vân nhoẻn miệng
cười. Nàng hơi e thẹn. Cô ta vội lấy hai tay vắt ống quần cho rỏ nước rồi xổ
ra. Mặt nàng đỏ hồng lồng ráng chiều rực rỡ…
– Cho ăn gì đây chị Sáu?
– Có gì đâu mậy! Thì tép rang dừa cứng cạy ăn với cơm gạo mới,
hổng ngon sao? Anh Ba ảnh vừa xúc một mớ tép rong ngoài chông còn nhảy soi sói.
Tao rang với muối hột rồi cho ít trái ớt xanh hái bên chòi. Mầy với ảnh ăn thử
coi có ngon hơn hông.
– Ngon hông anh? Em thấy anh hít hà và đổ mồ hôi hột rồi đó.
– Ngon. Nhưng mặn đắng chát và cay quá. Muối hột nhai rào rạo
ghê răng dữ à nhen! Bới cho anh chén nữa đi!
Một chén nữa. Mặn. Cay. Răng nghiền muối hột rau ráu như cối
xay lúa. Ê răng lên tận óc.
Chiều đang xuống dần. Nhưng nóng vẫn còn hừng hực như trong
lò sấy dừa. Hông có một chút gió. Mồ hôi đổ ướt rinh rít cả áo. Hai áo trắng của
Vân và Khanh cũng vậy, ướt nhiều còn hơn áo chàng, giống như vừa tắm sông lên,
làm lộ hai cặp vú săng tròn như mộng dừa già. Cái chòi hình như nhỏ lại và
không khí ngột ngạt. Mái chòi lợp bằng lá cà đốp cũ, lủng nhiều nơi. Ánh nắng
tuôn xuống loang lỗ. Cả ba người, người nào toàn thân cũng có đốm đốm trắng giống
như những con chó mắc mưa đang nằm trong ổ. Khanh lấy tay vén những sợi tóc mai
đẫm mồ hôi hai bên má rồi thu dọn chén bỏ vào nồi đồng, bước ra ngoài. Nhai
xong một và cơm còn lại, Xuân vội đứng dậy. Một dòng nước từ trên cổ tuôn xuống
tận thắt lưng quần. Mặt trời vẫn còn cao. Nắng chói chan, ngùn ngụt. Mặt nước
toàn cánh đồng như đống un hắt nắng nổ lừng lừng con mắt…
Chiếc xuồng chưa kịp tấp vào bên đống rơm, người con gái đầu
quấn khăn rằn trùm bít để lộ hai con mắt đen nhánh và lanh lợi, vội nhảy lên bờ,
bỏ sào và đi nhanh vào chòi. Vân liếc mắt nhìn thấy trước tiên.
– Chị ở đâu vậy?
– Ở chòi bên. Thấy mấy người mới tới qua đây chơi được hôn?
– Thì được chớ sao hổng được. Mà chị tên gì dzậy?
– Tên Lon.
– Tên Lon hả?
– Ừa. Tên Lon. Lon là tên con chim gì gì đó. Má tui nói vậy.
Còn ở nhà kêu tui là Tư Én hông hè!
– À vậy, chị tên là Loan chớ hổng phải là Lon đâu!
– Ờ hé ! Ai biết đâu! Chữ nghĩa có nhiều đâu mà hiểu
Loan với hổng Lon!
Người con gái mới đến tên Loan có đôi mắt sáng và nụ cười dòn
dã, cổi nón lá bung niền cũ rích và cái khăn rằn trùm đầu, rồi quạt sành
sạch. Xuân đứng gần, ngửi mùi mồ hôi ngay ngáy và mùi nắng cháy từ mái tóc Loan
tỏa ra trong căn chòi chật chội.
– Ai đó vậy?
– Anh Ba tụi em.
– Anh ruột hay bà con?
– Hỏi kỷ quá vậy? Bà con được hông?
– Vân nó nói xạo đó cô Loan. Vân nó vừa nói vừa cười, cô hổng
thấy sao?
– Ai biết! Mấy người nói sao, tui tin vậy. À há! Mà anh sao
trắng trẻo, đẹp trai quá vậy? Chắc hổng phải ở đây?
– Ảnh ở Sài Gòn. Nghỉ hè về quê chơi.
– Tui có biết Sè Gòn ở đâu đâu. Tui chỉ biết Bến Tre có một lần.
Học trò hả?
– Ừa. Ảnh là học trò.
– Chắc học giỏi lắm hé. Ăn cơm chưa?
– Gì vậy? Ăn cơm rồi. Sao cô hỏi kỷ quá vậy?
– Ờ. Tại tui có con vịt què, thấy mấy người mới xuống, muốn
đem qua đây, nấu cháo, mời ăn chơi vậy mà. Mà ăn cơm rồi thì thôi, ngày mơi tui
đem qua. À, chị gì gì đó, đang rửa chén ngoài kia kìa, tên gì?
– Chị Sáu em hả? Chỉ tên Khanh.
– Mấy người cũng là học trò hả?
– Sao chị biết?
– Sao hổng biết! Mấy người, người nào người nấy trắng như
bông bưởi, đẹp hơn tui nhiều. Nắng ruộng cháy da nên tui đen thui đen thít, mùi
khét lẹt. Tui xấu hơn mấy người nhiều. Có phải vậy hông anh Ba? Thôi tui dề
nghen. Ngày mơi, tui đem vịt qua, nấu cháo ăn chơi. Tui dề nghen anh Ba !
– Sao cô hông ngồi chơi một chút. Có gì đâu mà gấp vậy?
– Tui phải lo cho vịt ăn, anh Ba.
Nói xong, Loan trùm khăn, đội nón lá, bước ra, nhìn Xuân ngoẻn
cười. Xuân cũng theo ra. Mặt trời vừa chấm chơn trời, to bằng cái rổ súc, rừng
rực. Một đàn cò bay ngang. Vài đốm trắng hiện ra trong khối lửa đỏ.
Cơm nước xong. Đàn vịt cũng nhốt kỹ càng. Trời nhá nhem. Vân
và Khanh đi chung quanh cà tăng ém rơm, sợ chuột và rắn ban đêm chui vào ăn vịt
con. Trăng đầu tháng còn trên ngọn trâm bầu ở hướng Tây. Mùa nầy là mùa mưa nên
trời nhiều mây. Thảng hoặc có hôm trời trong thì về khuya thấy được nhiều sao.
Ba đứa ngồi tựa vào đống rơm. Gió mát lai rai. Sao bắt đầu lấp lánh nhưng thỉnh
thoảng bị mây che khuất. Muỗi kêu vo ve, ẹ ẹ như tiếng đờn cò của người mới tập.
Khanh đem ra hai cái nóp và chiếc chiếu rách để gần đống rơm. Đời sống người
dân quê miền Nam giản dị. Ở miệt vườn và miệt đồng, vừa chạng vạng là lo đốt
đèn. (Nói là đèn cho nghe có vẻ sang, chớ thực sự là miếng vải se tròn lại luồn
qua cái nắp bằng thiếc của cái chai đựng dầu dừa thắng theo lối nhà quê. Họ nạo
một trái dừa khô, vắt lấy nước cốt, bắc lên bếp nấu cho đến khi nào cứt dừa hơi
cháy đen, chắt bỏ cặn thì lấy được dầu. Trẻ con thích ăn loại cứt dừa nầy, béo
ngậy và ngọt.)
Tối một chút là tắt đèn và chung vô mùng vì sợ bị muỗi cắn. Ở
đây cũng vậy, trời chạng vạng nên Khanh lo đi ngủ. Họ ngồi nhìn bầu trời tối đầy
mây sâu thăm thẳm, hông ai nói gì. Khanh luồn tay dưới rơm nắm chặt hai tay
Xuân. Muỗi chờn vờn bên tai, Xuân đành chịu trận, hông đập được. Ba người ngồi
sát bên nhau, nói chuyện vu vơ, nhưng Vân và Khanh cứ vung tay đập muỗi lia lịa.
– Anh với Vân ngủ mỗi người một cái nóp, còn để em ngủ chiếu
cho. Chiếu rách thấy mồ sao anh ngủ được!
– Anh ngủ chiếu. Ngủ nóp chật lắm anh hổng ngủ được đâu.
Xuân giành ngủ chiếu vì chàng biết ngủ nóp rất chật chội, khó
day trở. Cái nóp bề ngang độ hơn cánh tay, mình ngủ phải chui tọt vào trong đó,
ló đầu ra. Nếu muỗi nhiều, thụt đầu vô như rùa và bịt đầu lại, đôi khi nóng đổ
mồ hôi, khó thở. Vì thế, dân quê hay nói con cu còn nằm nóp là vậy. Đàn ông con
trai hay lăn lộn nên hổng khoái ngủ nóp. Còn mấy bà, mấy cô ngủ thì được, hông
tung đạp. Mà thực ra, cực chẳng đã mới ngủ nóp chớ có ai khoái đâu.
Xuân lấy rơm khô lót thêm dưới chiếu, rồi cuộn mình vo tròn,
nhìn lên bầu trời. Triều sao cuồn cuộn như dòng nước chảy từ Đông sang Tây khuất
trong bầu trời đầy mây. Tiếng cúm núm, tiếng chim trích, tiếng nhái bén, nhái bầu…
xa xa hòa lẫn với tiếng dế tí te tí te trong đống rơm như một bản đờn nhiều
cung bậc, dỗ Xuân ngủ mau chóng.
Xuân giựt mình thức giấc. Tối và im lặng. Khanh nằm sát bên
chàng từ hồi nào. Hai đứa rục rịch, rị mọ, một hồi lâu. Chàng nghe tiếng thì thầm
bên tai….
– Anh! Em… em… Đừng có cổi đồ nhen anh. Rơm sót lắm!
– Hổng sao đâu em!
Tiếng xột xoẹt của rơm và quần áo quyện lấy hơi thở dồn dập.
Mùi mật ngọt ong dúi, mùi thơm nước chanh, nước sả ngầy ngật. Cơn khao khát như
những làn sóng bạc đầu ở dòng sông Bến Tre cuốn chìm hai con người trẻ đầy sức
lực đang đi chòng chành trên con xuồng ba lá. Sao Hôm mất lút ở dưới chơn trời
và rồi sao Mai lấp ló ở hàng bần cửa sông Ba Lai. Chiếc thuyền chở Phùng Xuân
và Khanh trôi giạt ngoài biển khơi. Xuân đê mê sung sướng nhưng thân thể rã rời,
rệu rạo hơn chiếc chiếu rách chàng đang nằm. Xuân mặc cho sương đêm thấm lạnh
và những con muỗi è ẹ bên tai…
Cái vỗ nhẹ của Khanh
– Mặc đồ mau vô để Vân nó…
Xuân nhướng mắt. Trong chòi, lửa rơm đang phừng cháy….
– Em đang làm gì vậy?
– Nấu cơm.
– Nấu cơm gì giờ nầy?
– Coi vậy chớ gần sáng rồi anh. Ví lại, nấu cơm bằng rơm phải
canh chừng nếu hông nó sống. Lúc đầu anh phải đốt rơm thật nhiều, cho lửa phừng
lên để nước sôi bùng sùng sục, gạo mau nở. Sau đó anh chắt nước, đậy hùm nấp và
dần nồi cơm trong rơm nóng. Anh hổng dần nó trong rơm mà cứ hong trên bếp là nó
hổng chín đâu; nên phải coi chừng lâu lắm đó anh.
Có tiếng lịch kịch của cây sào chạm vào ghe.
– Chị Sáu ơi! Chị Sáu ơi!
– Gì đó mậy. Đi đâu sớm vậy? Mà sao mầy kêu như bị ma rượt vậy?
– Bác Sáu nói chị dề mau.
– Tám Trò! Làm gì mà mầy nói như líu lưỡi vậy? Dề là sao? Sao
dề?
– Bác Sáu nói. a… đàng trai hồi khuya qua nói ông sui trai bị
nhà thương chê rồi. A.a.a. họ lật đật chở dề. Aa.a..a. Họ qua xin đàng gái cho
cưới chạy tang. Bác Sáu đã thuận rồi. Ổng kêu chị dề mau đi, để họ qua rước dâu
cho kịp con nước.
– Anh ! Cưới chạy tang! Anh ơi! Chết em rồi! Anh ơi! Cưới chạy
tang! Trời ơi!
Nước mắt Khanh ràn rụa. Vân liếc nhìn chị rồi nhìn Xuân, thầm
đoán ra câu chuyện. Chỉ có Tám Trò là thò lỏ mắt nhìn mọi người mà hông hiểu tại
sao Khanh lại khóc dữ vậy. Tay chân Khanh lập cà lập cập, nàng vừa cuộn ba quần
áo bỏ vào trong giỏ bằng lác vừa thút tha thút thít, xong ngồi bệt xuống đất bắt
đầu khóc rấm ra rấm rức. Nước mắt, nước mũi tuôn ra cùng một lượt làm đẫm vạt
áo cô gái. Khanh chỉ nói được một câu như thất thần: Đám cưới chạy tang, chết
em rồi! Xuân chỉ biết đứng nhìn người yêu khóc mà lòng rối bời bời. Nói lời an ủi
cũng hông được mà ôm vào lòng vỗ về cũng hổng được. Khóc đã một hồi, hỉ mũi ướt
cả góc khăn rằn, Khanh vụt đứng lên, nhìn Vân, nhìn Xuân một lát rồi ngấp nga
ngấp ngứ..
– Anh! Em đi. Anh ở lại với Vân.
– Đợi anh. Anh lấy đồ đi dìa ví em.
– Hổng được đâu anh Ba. Hồi khuya em mượn xuồng của người ta,
họ để sẳn trên đó một hai giạ lúa rồi.Chị Sáu ngồi lên đã khẳm, thêm anh nữa là
ghe chìm luôn. Mà Bác Sáu nói anh ráng ở lại phụ chị Bảy một hai hôm rồi Bác
Sáu xuống.
Xuân thẩn thờ, bí xị. Khanh quay trở lại
– Em bỏ cái nón lá nầy lại cho anh đội, hông để nắng cháy da
anh. Vân! Mầy lo nấu cơm cho ảnh ăn nghen mậy!
– Khanh! Khanh! Khanh!
Khanh tuôn chạy ra khỏi chòi. Nàng bước xuống ghe, ngồi quay
mặt về phía Xuân. Nước ở đâu chảy ra nhiều và mãi mãi như nước tuôn ra từ hai mắt
sâu thăm thẳm?… Chiếc xuồng khuất dần trong đám sậy, lùm cây trâm bầu. Khanh có
quay lại thì cũng hông còn thấy nhau. Xuân chỉ thấy có một cây sào chống ghe
dài quơ qua quơ lại một lát rồi mất hẳn trong màng sương sớm mờ mờ trên mặt nước
đồng hoang.
Xuân ngồi thừ bên đống rơm một lúc lâu, nhìn về phía Khanh ra đi. Giồng Tre bây giờ là một nhúm cây nhỏ lờ mờ xanh rì. Thôi thế là hết. Những toan tính tốt đẹp chiều hôm qua như hoa Quỳnh Hoa, qua đi nhanh chóng. Mà chàng theo Khanh về thì có được cái gì?
Tám Trò đèo Khanh trên chiếc xe đòn dông ọp ẹp hông có cái bửng
nào hết. Khanh ngồi sau. Cái bọt- ba- ga lông ốc sụt sịt. Bùn đất văng lên tới
tóc. Nàng vẫn còn khóc thút thít. Thằng con trai còng lưng đạp, đổ mồ hôi ướt
áo như mắc mưa, về đến nhà thì cũng gần trưa.
Cổng đám cưới trước nhà làm bằng tàu dừa xé đôi, rọc bớt lá
còn chừa lại độ một gang tay dọc sát cọng rồi uốn cong, trang trí thêm những lá
và bông đủng đỉnh đốn ở cuối vườn, giây tơ hồng hái nơi những bụi lứt mọc hoang
trong vườn. Bảng Vu Quy mượn ở đâu đó, được gắn vội vã nên hông ngay ngắn. Một
bình bông vạn thọ, một dĩa trái cây trên bàn thờ ông bà. Đơn giản như thế nhưng
ông Sáu Xe vẫn lăng xăng chạy tới chạy lui mong ngóng Khanh về. Một vài người
bà con lui cui ở bếp lo nấu vài món ăn đãi khách.
Vừa thấy Khanh bước vào thềm nhà, ông Sáu Xe hối Khanh lo chuẩn
bị vì nhà trai trưa sẽ qua rước dâu cho kịp con nước. Ông hông để ý thấy đôi mắt
Khanh đỏ hoe. Khanh hông buồn tắm, ra sàn nước rửa mặt qua loa rồi vào buồng
tìm cái áo dài trắng mặc bữa đám hỏi còn vắt ở đâu đó. Hông kịp sắm một cái áo
cưới! Khanh ngồi xuống bên mép giường, thừ người nghĩ ngợi một lát rồi đứng dậy,
chải sơ mái tóc, kẹp cho hai bên đừng xệ xuống. Trời ơi! Đám cưới chạy tang!
Đúng là trời định. Mình toan tính nhiều thứ với ảnh chiều hôm qua giờ hông còn
gì nữa! Ái ân nóng bỏng đêm qua còn ngây ngất. Câu nói với Xuân về chuyện bầu
bì, giờ đây làm Khanh hơi lo sợ. Thôi kệ nó. Chuyện lỡ rồi, tới đâu hay tới đó.
Mình tính trước rồi cũng trớt quớt, hổng đi đến đâu!
Hàng dừa hơi ngã bóng. Con nước xế trưa vừa mấp mé đám mái dầm
ở ngoài rạch thì năm người bên đàng trai qua tới: chú rể, bà Tư Thép, ông mai
và chú thím của chú rể. Hông có những mâm trái cây, mâm trà. Ba Đẹn bận bà ba
trắng, ngoài khoác áo dài đen, đi chơn không, bưng mâm trầu cau… Họ có vẻ hối hả,
hấp tấp đi vào trong nhà, hông cần ông mai vào báo trước. Ông Sáu Xe rót nước mời,
nhưng ông mai chưa kịp uống, đứng lên nói vài lời trình bày lý do phải cưới gấp
vì bịnh tình ông sui trai. Khanh đứng kế bên ông Sáu Xe mà hông nghe được câu
nào cả. Hông có nhẫn cưới, hông có đôi bông tai, chỉ có chiếc kiềng vàng để
trong hộp… Xong ông mai xin cho hai cháu lạy bàn thờ ông bà để rước dâu về
sớm. Ông Sáu Xe khẩn khoản mời nhà trai ở lại ăn bữa cơm trưa, dù gì cũng qua tới
đây rồi. Ông mai đưa mắt hỏi ý kiến bà Tư Thép. Sau một phút ngần ngừ, bà gật đầu
ưng thuận. Ông Sáu Xe hối vợ cho dọn đồ ăn lên. Khanh cũng chạy tới chạy lui lo
bưng khi thì chén cơm, khi thì tô kiểm, nhưng mặt mày buồn so. Buổi ăn hông lâu
hơn thời gian một siêu nước sôi. Ai nấy im lặng, ngoài tiếng chó gầu gừ
giành giựt những cục xương thừa quăng xuống đất…
Khanh cùng Ba Đẹn lạy trước bàn thờ ông bà, lạy cha mẹ. Những
người bà con xí xóa những cái lạy của Khanh vì hông đủ thời giờ. Khanh vào buồng,
vội vàng nhét một vài ba bộ quần áo trong giỏ đệm lác (bà già chồng nhắc nhở đừng
mang nhiều. Hai ba bữa sau sẽ quay về lấy thêm cho đủ) rồi ra ngoài. Vừa bước đến
cửa hiên nhà, Khanh sụp khóc ồ ồ sướt mướt, có lẽ để được dịp sổ hết những nỗi
buồn khổ của mình mà hông ai có thể biết được. Giờ nầy đáng lý ra có Vân, có
Xuân, có dâu phụ, có rể phụ, có tiếng pháo nổ, có những trẻ em chạy lăng xăng
theo coi cô dâu mặc áo cưới, có tiếng khua lụp cụp của dao thớt, có tiếng lẻng
kẻng của tô chén, có tiếng chuyện trò rổn rảng của người thân quyến thuộc, có bếp
lửa bên hông nhà, dưới tàn cây lêkima, khói bay nghi ngút của đám trai trẻ
lo nấu nước pha trà. Hông có dựng rạp che lá dừa nước ở trên với những hàng cột
ôm đầy lá đủng đỉnh, giây tơ hồng, những nẹp ngang bó bằng bẹ chuối có bông đủng
đỉnh tua tua… Một chút hơi hướm đám cưới cũng hổng có: đúng là đám cưới chạy
tang!
Gia đình Khanh cùng nhà trai ra chỗ đậu ghe. Con nước ưỡn ẹo
lưng chừng rạch. Chiếc ghe năm lá hai kèm hông áp sát được bờ. Một vài người
trai trẻ đốn những tàu lá dừa nước lấp lên bùn làm lối đi cho đỡ lún…
Chiếc ghe chở đoàn đám cưới chạy tang khuất sau đám dừa nước,
nhưng gia đình Khanh vẫn còn đứng trên bờ ngó theo. Và nước chảy ngập ngừng, ứ
éo. Có tiếng bìm bịp kêu ngoài sông cái. Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi! Đợi một hồi
lâu, họ thẩn tha thẩn thờ lặng lẽ quay trở vào…
Chiếc ghe ra rạch Lương Quới. Hai bên đầy lá dừa nước chen ô
rô bông trắng và tím nhỏ nhin nhít hì hụp trong con nước lớn đục ngầu. Cặc bần
ngỏng lên khỏi mặt nước độ gang tay, ngủng ngẳng nhịp nhịp cà giựt, cà giựt
theo sóng nước. Thỉnh thoảng có những bụi bần chen lẫn, mang nhiều ổ chim dòng
dọc đực và cái có màu vàng cỏ úa. Ổ chim mái bao giờ cũng đẹp và ấm cúng, con
đường vào kín đáo như buồng các cô gái chưa chồng. Trong lúc đó chàng chim trống
đứng lơ lửng trong ổ đơn sơ, chịu đựng mưa nắng. Đừng có ham mà trèo lấy ổ dòng
dọc. Chúng khôn ngoan ở chung với ong bần, nên kẻ nào có ý xấu phá đám- nhứt là
đám trẻ con- sẽ bị ong bần đánh cho tơi bời, hông kịp leo xuống, chỉ có cách nhảy
ùm xuống nước để thoát mà thôi. Ít có ai lấy được ổ dòng dọc, trừ khi là ổ cũ,
chúng đã bỏ đi rồi. Mà lấy làm gì? Hãy để những ổ dòng dọc treo tòn teng trên
những hàng bần dài dọc bờ sông, bờ rạch, bờ xẻo- dưới tàng cây rợp bóng, giữa đồng
hoang mênh mông- sẽ tạo thành bức tranh ấm cúng, hạnh phúc như những gia
đình dân quê sông nước miền Nam.
Khanh ngước nhìn lên. Một con dòng dọc trống đang đứng lẻ loi
trong ổ. Bất giác dòng nước mắt Khanh tuôn chảy. Ba Đẹn ngồi bên, nhìn vợ khóc,
hông nói một lời, tưởng là những giọt nước mắt kia Khanh dành cho mình: cô dâu
về nhà chồng!
Bữa tiệc đón dâu hối hả và yên lặng. Bà Tư Thép hông muốn làm
rình rang trong lúc người chồng đang nằm chờ chết trong buồng ở căn nhà trên
nên cổng đón dâu cũng làm đơn sơ như bên nhà gái. Hổng có pháo. Có khoảng chục
người thân thuộc trong gia đình lo đám cưới. Không khí lặng trang. Ai nấy nhìn
cô dâu vừa vô nhà mà hông có tiếng cười nói rôm rả. Sau khi cùng chồng lạy bàn
thờ tổ tiên, lạy cha mẹ, Khanh vào buồng thay áo rồi xuống nhà bếp lo dọn dẹp
cùng những người gia đình bên chồng cho đến khuya mà quên rằng mình từ trưa đến
giờ chưa có cái gì nhét vào trong bụng. Trong khi đó, BaĐẹn đang gật gù ở bàn
nhậu với mấy người bạn bên ánh đèn dầu leo lét.
Trời tối thui. Đám cưới chạy tang nên bà già chồng hông cho đốt
đèn măng xông. Khanh lần mò đi vào căn buồng dành cho hai vợ chồng mới cưới. Một
mùi khác lạ hơn mùi căn buồng ở bên nhà. Và đột nhiên Khanh vừa cảm thấy mình mất
mát một thứ gì khó tả mà Khanh hông bao giờ tìm thấy lại được trong giờ phút cô
đơn nầy. Cây đèn dầu mù mờ hông đủ làm ấm cúng căn phòng đêm động phòng của đám
cưới chạy tang. Mềm gối mới cũng hông. Giường mới cũng hông. Khanh ngồi xuống
thở dài, nghĩ ngợi lung tung; được một lát, lục trong giỏ lác đem theo hồi
trưa, lấy một bộ đồ bà ba bông còn mới, rồi cầm đèn đi ra nhà tắm sau nhà…
Khanh nằm xuống trong chiếc giường mà nàng nghĩ là lạ lùng với
mình. Cuộc đời người con gái sao bị đưa đẩy nhanh chóng? Vừa mới đêm qua đây với
Xuân, đầy những dự tính, đầy những ân ái nóng bỏng mà bây giờ lại thế nầy đây?
Khanh suy nghĩ miên man, thiu thiu ngủ trong mưa đêm thì giựt
mình, vì có người ôm chặt và mùi rượu đế nồng nặc. Khanh định xô ra nhưng vừa kịp
nghĩ lại, mình mới làm đám cưới chạy tang ngày hôm nay và người ôm mình chắc là
Ba Đẹn, chồng mình, nên nằm im lặng. Ba Đẹn chồm lên mình Khanh, thở hổn hển
trong hơi rượu. Bàn tay sờ soạng lung tung và mạnh bạo nơi bụng vợ. Đôi bàn tay
to lớn, gồ ghề, nham nhám làm Khanh nổi da gà cùng mình. Nàng nằm trân mình chịu
trận. Qua những lần ân ái với Xuân, nàng biết là chồng mình muốn gì? Chồng mình
có biết mở dây lưng quần mình hông? Khanh tự hỏi? Vì bàn tay Ba Đẹn lây quây ở
bụng và thắt lưng vợ rất lâu mà hông mở được. Khi hông biết kéo, Ba Đẹn sẽ giựt
dây gút lại. Cô định thò tay gỡ mối, nhưng Ba Đẹn mạnh bạo đẩy tay vợ ra và giựt
mạnh một đầu dây. Lưng quần bị gút chặt. Người con trai bồng bột, háo hức, thiếu
kinh nghiệm trong đêm tân hôn, gồng người lên mình người vợ mới cưới một vài
cái. Vừa lúc đó, Khanh nghe một tiếng thở khè nồng nặc mùi rượu phà vào mặt mũi
nàng… rồi Ba Đẹn nằm sui cò…
Khanh lấy răng cắn môi lại, cố ngăn hai dòng nước mắt chảy
dài. Đêm tân hôn như thế nầy sao? Khanh chưa bao giờ nghe Má nhắc tới đêm tân
hôn như thế nào. Tiếng đó hông khi nào nghe cha mẹ ở đồng quê nói tới. Và Khanh
cũng chẳng bao giờ nghe bạn bè nói với nhau về chuyện nầy. Nó như thế nầy sao?…
Gà gáy canh hai. Khanh giựt mình thức giấc, đỡ nhẹ chồng mình
qua một bên, mầy mò trong bóng tối mù mù. Nàng lục giỏ mình, lấy ra một bộ bà
ba, lần mò đi xuống nhà tắm, giặt bộ quần áo nhầy nhụa và đầy mùi rượu.
Khi Khanh vừa bước lên nhà trên, nghe tiếng hốt hoảng của bà
già chồng: “Thằng Ba đâu rồi? Tía mầy chết rồi nè!” và tiếng khóc thất thanh của
bả. Khanh lật đật chạy vào buồng kêu chồng dậy…
Trời vừa tờ mờ sáng là bắt đầu một ngày bận rộn của cặp vợ chồng
mới cưới cho đám ma. Khanh bù đầu lo công việc dưới bếp: nào nấu cơm, thức ăn
cho gia đình và những người bà con, lối xóm phụ việc chôn cất. Mọi việc ai cũng
kêu vợ thằng Ba. Vì mới về nhà chồng chưa được một ngày nên Khanh hông biết mọi
thứ sắp xếp trong nhà như thế nào? Hổng lẽ chút gì cũng phải hỏi bà Tư Thép
trong lúc bả đang ngồi khóc rấm rức? Còn cô em chồng, Út Nhạy, mới mười lăm tuổi
nó chỉ biết chạy tới chạy lui. Vì thế Khanh hông lúc nào được hở tay.
Còn Ba Đẹn? Từ sáng sớm, lo tắm rửa cho Tía, thay một bộ đồ bà
ba trắng mới tinh, để người chết trên bộ ván giữa nhà. Nó dặn mẹ lo việc cúng
kiến, nhứt là đừng để cây đèn dưới bộ ván tắt. Xong qua nhà chú Hai Đời mượn xe
đạp dông xuống GiồngTrôm mua hòm.
Khoảng gần đứng bóng dừa, người ta nghe tiếng nổ bình bịch của
tiếng xe gắn máy motobécane cũ xì. Sau năm 1954, ở các tỉnh miền Nam, ngoài xe
ngựa, người ta còn thường xài chiếc xe lôi đạp để chuyên chở hàng và người
ở những đoạn đường ngắn khoảng từ mười hai cây số trở lại. Xe lôi đạp hông chở
được nhiều, chừng ba, bốn người và một số ít hàng. Nếu có được một chiếc
motobécane cũ thời Pháp thì chở được khoảng tám người với số hàng nhiều và đi
xa hơn. Về sau nầy, có một số xe lôi gắn máy Sachs, Goebel, Peugeot…. Hành
khách ngồi ở trong ba người- nếu có con nhỏ thì ôm vào lòng-, ở càng xe hai người,
ở phía sau hai hoặc ba người. Gióng gánh thì móc hai bên.
Chiếc xe lôi motobécane cũ mèm như con trâu già coi vậy mà
còn gân, ít khi nào chết máy. Hơn nữa, vì tài xế giỏi nên hông bao giờ thấy xe
lật. Đoạn đường Lương Quới- Mỹ Lồng bị Việt Minh đào đi bới lại trong chiến
tranh, nay chưa được sửa lại, nên lầy lội chèn nhẹt trong mùa mưa. Ấy vậy mà
chiếc xe lôi motobécane vẫn tuôn đi ào ào trên con đường trơn trợt đó. Ba Đẹn
mướn xe lôi chở hòm từ Giồng Trôm về, quẹo vô ngã ba Lương Hòa, ở gần Mã Đá. Xe
lôi vào sân nhà chú Hai Đời. Người ta phải bắc thêm hai cây cầu song song qua
hai cái mương mới khiêng được hòm về tới nhà.
Thầy chùa đã coi giờ liệm, khoảng đâu đầu giờ Mùi, tức là lúc
có tiếng gà gáy ban trưa. Trà xấu được gói bằng giấy súc thành những bọc to và
xơ dừa chèn hai bên hông; xong rồi phủ thêm những bộ quần áo mới. Bà TưThép và
cô con gái khóc vật vã khi khóa nắp hòm. Xong đâu đó là phần thầy chùa trong
làng lo tụng kinh.
Buổi chiều đầu tiên, một ít trai tráng thanh niên trong làng
tụ họp giúp đỡ gia đình người chết. Một đám lo tìm cây như so đũa, mù u, bình
linh… để dựng rạp. Nhóm nầy chặt lá dừa nước để lợp che nắng hoặc lo khiêng bàn
ghế để ngày mai cho khách ngồi. Đám kia lo phần nấu nước pha trà.
Khanh đầu tắt mặt tối, chạy lên chạy xuống lo đủ thứ chuyện,
từ chuyện cái chén, cái tô, đôi đũa đến chuyện bếp núc. Hở một chút là con vợ
thằng Đẹn, cô Ba, dì Ba. Khanh hổng biết đâu mà rờ. Khanh phải chạy đi kiếm chồng
hỏi cái nầy ở đâu, cái kia ở đâu anh?
Trời mới vừa mưa đêm qua, bùn dậy lên sền sệt vì nhiều người
dẫm tới dẫm lui. Đôi chơn của Khanh hông bao giờ sạch, quậy trong đám bùn nhão
nhoẹt, dính bết đầy bùn nên chè bè ra. Trên đầu thì đội khăn tang. Hai ống quần
phải xoắn lên gần khỏi bắp chuối. Cặp giò trắng ngần của cô nữ sinh ngày hôm
kia, bây giờ đã thành đôi cẳng của người vợ đảm đang. Khanh mần quần quật, hông
còn thời giờ để nghĩ đến Xuân, đến những giây phút ân ái cuồng nhiệt bên đóng
rơm mà giờ đây Khanh coi như đã xa, xa lắm.
Trời tối mờ tối mịt. Đèn đóm mù mờ ở dưới nhà bếp. Ở nhà trên
và ngoài sân rạp có được hai cây đèn măng xông. Tụng kinh đã xong. Giờ nầy có lẽ
đã khuya lắm rồi nhưng vẫn còn một đám đàn ông con trai tụ tập ở phía bên góc
trái rạp. Họ lót nhiều lớp lá dừa nước để cho đỡ dính bùn rồi ngồi lên trên đó.
Một người đờn cây guy-ta và một người ca những bài vọng cổ. Tiếng ca buồn não
nà não nuột tả cảnh chia ly của cặp vợ chồng, ơ ơ trong đêm khuya như nghẹn
trong tiếng nấc. Con chó nằm nghếch mỏ lim dim bên đống un mù khói.
Nồi cháo gà đã nhừ cho đám đờn ca hát xướng. Khanh bỏ thêm vài trái dừa điếc khô để giữ nóng, đi lại cái lu bên hè nhà rửa chơn rồi vào buồng. Khanh mệt mỏi thiếp đi. Trong giấc ngủ chập chờn, Khanh cảm thấy mùi rượu nồng nặc phà vào mặt và bàn tay mằn mò mải miết của chồng. Mơ mơ màng màng, Khanh đưa tay gỡ mối dây lưng quần… Men rượu làm Ba Đẹn quên người cha vừa mới chết còn nằm trong hòm! … Nó thỏa mãn nằm sụi lơ… Nước mắt Khanh tuôn chảy dầm dề. Nàng hổng có thấy một chút gì sung sướng.
Xuân cuộn tròn mình như con trúc, ngủ thiếp đi. Khi giựt mình
thức dậy, chàng cảm thấy chung quanh vắng lặng và trống trải. Ngoài đồng, chói
lòa. Pháo nắng nổ khắp nơi. Xuân lim dim và dụi mắt một ít lâu mới mở được. Ngồi
thừ, co rúm lại như chuột gặp phải rắn, bần thần nghĩ mông lung rồi Xuân gục đầu
vào hai gối. Chàng vẫn lặn hụp trong sung sướng xác thịt đêm qua. Hương vị nồng
nàn còn ở đây. Kỷ niệm hiện ra từng khúc, từng khúc như đám lục bình trôi. Làm
sao nối lại được. Bị sóng đánh tan tác. Xa rồi, xa rồi, dòng xoáy nước nhấn
chìm tất cả. Chỉ còn những mảng vỡ vụn hông chắp nối lại được. Mỗi mảnh trôi
theo mỗi hướng. Xuân ứa nước mắt.
– Anh Ba! Anh Ba! Thức dậy chớ.
– Thì anh cũng vừa dậy đây.
– Gần xế rồi. Em dề, nhốt vịt, cho vịt ăn mà vẫn thấy anh ngồi
bó rọ, gục mặt vô đầu gối. Anh buồn lắm hả?
– Sao em biết?
– Thì thấy sáng sớm nay chị Sáu khóc sướt mướt khi nghe đám
cưới chạy tang, rồi bây giờ anh ngồi cú rủ và rơm rớm nước mắt, là em đủ biết.
– Cái con nhỏ nầy cứ đoán mò hông hè!
– Ờ hé! Đoán mò hay hổng đoán mò thì có ai biết đó nhen?
Trúng bóc!
– Cái con nhỏ quỉ nầy!
– Sao anh kêu em con nhỏ nầy con nhỏ nọ hoài hông dzậy. Bộ em
còn con nít lắm hả? Có ngày em cho anh biết tay.
– Biết tay gì?
– Thì biết tay vậy vậy đó.
– Thôi đi cô em ơi! Đừng nói chuyện dần lân.
Như lời hứa, buổi chiều Loan xách con vịt què qua chòi. Nồi
cháo ngọt lịm nhưng còn hôi mùi lông thui. Xuân buồn bã húp từng ngụm cháo và uể
oải ăn miếng thịt vịt xé trộn muối ớt cay sè.
– Anh Ba nè!
– Gì Loan?
– Ngày nào tui cũng đem đồ ăn qua đây ăn với anh và Vân được
hông?
– Có được hông Vân?
– Anh Ba hỏi em hả?Ờ hé ! Chị Loan tốt quá hé! Vậy là em đỡ nấu
cơm rồi nhe.
– Sao em lại muốn ăn cơm chung với anh và Vân?
– Ở đây vắng teo. Ăn cơm tui ăn có một mình nhiều khi nuốt hổng
vô.
– Chớ mấy khi kia thì sao?
– Thì ngồi một mình ráng nuốt chớ sao!
– Sao hổng kiếm bạn nào chăn vịt gần gần chỗ Loan.
– Có ai đâu anh Ba? Anh hổng thấy đồng không mông quạnh hông
sao? Có trời và nước….
– Hổng có anh và Vân thì em cu ky một mình em hổng sợ à?
– Chèn đất ơi! Sợ gì anh Ba? Còn ai đâu mà sợ, thằng Tám Trò
nó còn con nít, khờ câm à! Cả tháng nay rồi. Từ hồi vịt còn chút xíu cho đến
bây giờ vịt sắp đôn lông rồi. Sáng sớm dậy nấu cơm ăn cho cả ngày. Trưa bới cơm
đựng trong mo cau đem ra ngoài đồng, ngồi coi chừng vịt rúc rỉa, hát nghêu ngao
ba câu vọng cổ, vừa nhai vừa nuốt, rồi vốc nước ruộng uống. Rảnh một chút, kiếm
thêm con cá, con tép, con lươn.
– Em có bắt được chim cò gì hông?
– Có chứ. Đôi khi tui cũng chộp được trích, cò, chàng nghịch,
cúm núm. Mà chuột và rắn là thường.
– Em dang nắng cả ngày à?
– Có chỗ nào đâu mà đụt mưa đụt nắng. Bộ tui đen lắm hả?
– Tui hổng đen mà tui như cục than!
– Đồ quỉ anh nè! Ngày mơi tui kiếm gì qua ăn, chớ ở dưới đây
ăn cực lắm.
– Thì có gì ăn nấy, cũng như tụi em thôi. Khanh và Vân cũng
còn chút đồ ăn đem từ Lương Quới xuống.
– Anh Ba nầy sướng quá hén, vừa mới đây mà có người lo rồi!
Hôm trước có chị Sáu, giờ đến chị Loan, em toàn ăn ké hông.
– Xí. Cái con nhỏ nầy lại ganh nữa rồi. Tao thấy ảnh học trò
sợ ảnh ăn cực hông nổi tao mới phụ với mầy chớ. Đừng có ba xàm bá láp nghen mậy.
– Ờ hé ! để rồi coi.
– Coi coi cái gì? Có coi mầy á. Thôi tao dìa đây. Trưa mơi
tao đem cơm qua ăn chung nhen.
Loan te te đi ra ngoài, nhảy xuống xuồng chống đi. Xuân mệt mỏi
ngã lưng trên đống rơm nhìn ra ngoài cánh đồng mút ngàn ngộp nắng chiều. Giờ nầy
em đang làm gì hở Khanh?
Ba người đựng cơm chung trong cái mo cau. Vân và Xuân mỗi đứa
có một cái muỗng cũ mèm. Còn Loan cắt một khúc lá dứa gai. Hai cô gái bày tép
kho dừa, thịt chàng nghịch và đọt rán luộc ra trong hai cái lá bông súng nhỏ.
Tép kho dừa của Khanh và Vân còn có chút màu mè và hơi hướm nước mắm thơm ngon.
Thịt chàng nghịch của Loan trắng bệch vì hông có nước màu và gia vị, kho với muối
hột nên nghe mùi tanh ói và mặm chát. May là có thêm mấy trái ớt tươi bán được
mùi lông, nhưng chàng vẫn hửi được mùi khen khét của chim thui qua lửa rơm.
Loan còn bày thêm được món canh chua rau dừa, bông súng nấu với con mẻ đựng
trong chén làm bằng gáo dừa.
– Ngon hông anh Ba?
– Ngon chớ!Thịt chàng nghịch lạ miệng ăn cũng được.
– Hứ! Tui biết anh khen cho lấy có, chớ thịt chàng nghịch kho
muối hột có gì là ngon.
– Thì anh phải khen để mai mốt em còn nấu cho anh ăn nữa chứ.
Chớ khen dở, em giận lẩy là hổng có cái gì ăn đâu nghen. Ờ mà sao em bẫy được
chàng nghịch vậy?
– Đâu có bẫy anh Ba. Tui vừa đi vừa cầm khúc cây. Nó bay lên,
tui phang, may trúng cánh, nó lủi xuống đám lác, tui phải quần hồi lâu mới tìm
được; nếu hông, bữa nay, có muối rang ớt hông hè.
– Em có gian thiệt. Hể quơ cây là trúng chim. Ờ, mà còn canh
chua con mẻ nữa mà. Ăn lạ miệng.Ngon lắm.
– Chà! Anh Ba nay coi bộ nịnh dữ à nghen!
– Con nhỏ nầy! Chọc tao hoài nghen mậy.
Hai gò má Loan hây hây đỏ trong nắng. Loan bỏ đi, đến vũng nước
trong, lấy tay khoát khoát rồi bụm uống. Có lẽ nước vũng ruộng ngon hơn nước
mưa trong lu bên hông chòi. Khi mới mở lu ra Xuân hông dám uống. Trước hết là
muỗi, rồi kế đó lăng quăng, khỏa cách mấy lăng quăng vừa chìm xuống là nổi lên
lại. Nước mưa mái lá và rơm hơi đo đỏ, có mùi nấm. Rút cuộc rồi ai cũng uống nước
ruộng, múc càng xa chòi càng tốt.
– Con Vân nó đi đâu rồi anh?
– Hổng biết. Chắc Vân ở tuốt ngoài đầu bờ. Có gì hôn?
– Con nhỏ hay thót thét. Nói tui với anh nầy nọ.
– Thì đâu có gì! Cũng như Vân vậy thôi!
– Chừng nào anh dìa trển. Dìa trên SèGòn đó.
– Hổng biết nữa. Chắc mươi ngày.
– Tui muốn anh ở đây chăn vịt hoài.
– Đâu phải vịt của anh. Với lại, anh còn phải về Sài Gòn đi học
nữa chớ.
– Vậy thì biết chừng nào tui gặp lại anh?
– Thì mùa hè năm sau. Anh trở về đây chăn vịt nữa.
– Ờ hé! Biết có còn gặp lại anh Ba hôn?
Nàng ngó mông ra cánh đồng. Hai cặp mắt đỏ hoe, rươm rướm nước
mắt. Hình như có cái gì làm cho tâm hồn nàng xao động. Nàng cảm thấy mình thiệt
gần gủi với người thanh niên nầy. Sao mới có mấy ngày mà mình cảm thấy hông thể
xa cách được ảnh. Mình có thương ảnh hông? Mai mốt ảnh về Sè Gòn thì mình mần
sao?
Bữa cơm trưa vừa xong. Từ cuối rặng dừa một đám mây đen như lọ
ghẹ dần dần lan rộng, hông mấy lúc phủ kín cả bầu trời hướng Tây Nam. Có gió nhẹ
và không khí dịu mát lại. Có tiếng sấm sét gầm gừ từ xa.
– Anh Ba dí Vân lùa vịt dìa đi. Mưa tới lớn lắm đó.
Vân, mầy lo hùi tụi nó dìa mau đi. Tấn cà tăng kỹ nghen mậy. Gió mạnh, thổi tốc
hết, vịt túa ra tùm lum, mầy hổng nhốt lại được đâu. Rồi mất vịt hết. Thôi tao
dìa đây, tao lo vịt của tao.
– Kệ. Để chỉ dề đi. Mình lo từ từ cũng xong. Bây giờ em dí
anh xuống xuồng, mình lùa tụi nó dìa, nhốt lợi thì chưa chắc mưa tới.
– Có chắc hông em? Loan nó nói mình làm mau mau đi mà. Anh thấy
bây giờ gió lớn quá mà. Trời tối đen rồi em. Sấm nhiều quá. Mau đi.
– Anh hổng nghe người ta nói sao. Mưa đằng Đông vừa trông vừa
chạy. Mưa đằng Nam vừa làm vừa chơi. Em cá ví anh là mình ví vịt xong xuôi thì
mới vừa mưa tới thôi.
Nhưng hai đứa làm cà rịt cà tang, phần Vân hông thạo việc bằng
Khanh. Còn Xuân thì i tờ rít, ù ù cạc cạc ba cái vụ nầy, nên mây phủ đen
trời mà việc chưa đến đâu. Cơn mưa ập đến như roi mây quất vào mình. Sấm sét nổ
như đạn lum đum nghe đinh tai nhức óc. Những giọt mưa như những viên sỏi nhỏ bắn
vào mặt, tát vào má, đau rát dữ dội. Nón lá bay mất. Xuân phải lấy khăn rằn phủ
kín mặt, phụ Vân đang lính qua lính quýnh chèn cà tăng thật kỹ. Mưa bắt đầu như
lấy gàu tát. Cánh đồng mù mịt. Hông còn thấy gì. Một màu trắng xóa.
– Vân ơi! Em đâu rồi? Em đâu rồi?
– Gì? Anh hét lớn quá vậy?
– Anh đâu thấy em đâu? Mưa lớn quá. Mù trời. Dông dữ tợn.
– Em đang đứng gần anh đây. Chạy vô chòi đi.
– Chòi hướng nào đâu? Anh đâu thấy đâu?
– Em thấy anh rồi!
Xuân chợt nhận ra một hình mờ mờ đi lần tới, rồi hướng về
phía chòi. Chàng bước lần theo. Vô chòi, hai đứa ướt như chuột lột, cùng tháo
khăn rằn ra, vắt ráo, rồi lấy lau mặt. Mưa vẫn còn nặng hột và gió càng lớn. Sấm
sét hông bớt. Vừa lúc Vân lủi vô góc sau chòi thay đồ, Xuân lật đật cổi quần áo
thật lẹ, vứt đại xuống đất rồi mặc đồ khô vào. Tiếng gió hú dữ tợn. Cơn dông có
lẽ sắp tới gần. Bờ mương gần nhà đầy bong bóng. Mới chút đó mà nước lé đé mí bờ.
Hông còn thấy hai cây rơm và bến ghe. Màn mưa che khuất đám vịt. Chắc chúng tụm
lại, rút đầu vào nhau, dồn vào một góc cà tăng, im thin thít. Mà nếu chúng có
kêu Xuân cũng hông thể nghe được vì gió quần dữ quá, chỉ nghe tiếng hú liên tục
mà hổng nghe được tiếng mưa rơi. Mưa giăng mùng khắp trời, nhìn ra hông còn thấy
gì hết. Chợt xoáy gió quặn một cái thật mạnh kèm theo tiếng rít rất dài. Dãy lá
cà đốp bị giựt mạnh nghe cái rốp rồi tung bay mất. Nước tát tung tóe.
– Chạy chỗ khác đi! Nóc chòi bay mất rồi!
– Anh hét lớn lên hơn nữa em mới nghe. Chạy đi đâu anh Ba?
– Lấy nóp trùm đầu rồi chạy ra đống rơm, lủi đầu vào trỏng,
anh kéo rơm phủ dầy tấp kín lên khắp mình em nghe!Nghe hôn? Nghe hôn?
– Nghe rồi!
– Chạy đi!
Vân tốc ra khỏi chòi, lủi vào đống rơm. Xuân nhào theo, rút từng
bó rơm phủ đầy một lớp thật dầy lên người Vân. Khi moi được một lỗ sâu và rộng
luồn vào giữa cây rơm, chàng đẩy Vân vào nóp rồi chui tọt vô luôn, lấy rơm phủ
kín bên ngoài. Mưa và gió vẫn còn quần nhau dữ tợn.
– Chừng nào mới tạnh hả anh?
– Chưa biết nữa!
– Chắc chòi bay nóc hết rồi?
– Chắc vậy!
– Anh!
– Gì?
– Hồi nảy anh đứng ở ngoài rút rơm. Anh ướt hết rồi. Chắc anh
lạnh lắm hả?
Một khoảnh khắc im lặng. Chàng hông trả lời .Vân hơi nhúc
nhích. Hơi ấm chiếc nóp của Vân từ từ xít lại gần hơn. Mùi tóc ngạt ngào mật ngọt
ong rùi và hơi thở thơm tho của cô gái đồng nội trinh trắng bay tỏa gần mũi
Xuân.
– Hồi đầu lạnh, bây giờ hết rồi!
– Nhờ nằm gần em nên có hơi ấm nhiều chớ gì? Phải hôn?
– Hổng phải đâu cô nương. Nhờ rơm đó. Ở giữa cây rơm nóng lắm.
Một chút nữa em sẽ thấy nực cho mà coi.
Im lặng một lúc lâu. Hơi thở của Vân phà sát vào mặt Xuân và
phần nóp ở ngực cô nàng phập phòng.
– Nực quá anh! Em muốn bỏ nóp ra!
– Sao được? Em cựa quậy hoài, rơm tuôn, nước mưa hắt vô, hai
đứa ướt hết bây giờ. Ráng chịu. Nằm im đi!
– Xí! Ghét anh quá hè!
Bên ngoài dông hông ngớt, càng lúc càng dữ dội. Tiếng hột mưa
đánh xình xịt lên mái cây rơm. Xuân nằm im, nghĩ đến Khanh. Mối tình thoáng qua
mau chóng như cơn mưa dông, gãy đổ thật nhanh như chiếc ghe nhỏ mong manh quay
mòng mòng rồi chìm trong búng nước ông Khả. Người ta có biết trước cái gì xảy
ra cho mình hôn? Mới vừa toan tính đó, rồi có gì hông? Khanh ơi!!
Bây giờ nằm sát bên Vân, mình nghĩ gì? Có nghĩ đến Vân hông?
Qua những lời nói mấy hôm rày của nàng, Xuân biết mình chỉ cần một cử chỉ hơi
đi xa một chút là Vân sẽ ngã trọn vào vòng tay của chàng. Hông. Hông. Xuân sẽ hổng
tính gì thêm nữa. Hãy để cho con thuyền trôi đi một cách tự nhiên và nó sẽ tấp
vào bờ bến nào kệ nó….. Khanh ơi! Khanh ơi! Giờ nầy em đang làm gì?
Xuân giựt mình thức đậy. Hơi nóng của rơm, hơi nóng của người
hừng hực. Mồ hôi ra ướt áo. Hai cái nóp bây giờ trở nên chật và nực nội nên
bung hết ra ngoài. Lỗ rơm đâu đủ rộng. Hai đứa phải nằm sát vào nhau. Xuân hơi
nhóm người dậy, nhận ra Vân cũng đã chui ra ngoài nóp. Áo Vân rinh rỉnh ướt và
nàng nằm sát bên mình chàng, hơi thở đều đặn trong giấc ngủ say. Xuân lắng tai
nghe. Hông còn tiếng mưa đập trên mái rơm. Sợ Vân thức giấc, Xuân nằm hông động
đậy, ngửi mùi thơm của tóc, mùi mồ hôi thơm ngọt của người Vân toả sang. Đột
nhiên, Vân choàng tay qua ngực Xuân. Xuân đợi một lúc lâu rồi nhẹ nhàng đỡ lấy
tay Vân bỏ ra khỏi ngực mình. Một lớp rơm mỏng te ngăn cách người chàng và Vân.
Xuân lặng lẽ xoay người về phía khác cố tránh mùi bông chanh, bông chuối của cô
gái vườn dừa. Có bao giờ một hình ảnh mới dễ dàng làm lu mờ cái cũ một cách mau
chóng hông? Vân cứ mãi quấn quít Xuân ngày đêm ở nơi khỉ ho cò gáy rồi thì cũng
có một ngày Vân sẽ làm Xuân quên mất hình bóng người chị. Cô em bây giờ như một
cái bóng to lớn muốn ôm trùm Xuân. Và Xuân cũng biết mình khó thoát khỏi cái
bóng cô gái nầy. Sống chung đụng nhau như thế nầy thì cũng có ngày. Trai với
gái vừa mới lớn mà ở giữa trời đất lồng lộng thì có chạy đằng trời? Lửa gần rơm
đố mà hông tròm thì trẹm. Mình đâu phải là thánh? Hơn nữa nàng cố tình khiêu
khích Xuân nhiều lắm. Và Xuân cố đem cô chị ra chống đỡ một cách yếu ớt. Xuân
cũng hông phải là thằng con trai hay ve vản các cô gái.
À, mà hông hiểu sao chú Sáu Xe hổng cho Tám Trò hoặc ổng xuống
thế cho tụi nầy? Ông Bà cũng biết chớ. Một thằng con trai mới lớn lên-19
tuổi- và đứa con gái út hơ hớ của ổng- 17 tuổi, tuổi con gái bẽ gãy sừng trâu- ở
chung nhau nơi chốn vắng vẻ chỉ một ngày là có chuyện rồi. Huống gì bây giờ là
hai ngày rồi. Ông Bà tin mình? Tin cái gì? Tin cái giống nhứt quỉ nhì ma thứ ba
học trò? Hay là hai người đó tính với nhau cái gì?
Tiếng dế nhủi chi chắt trong đống rơm. Và đâu đây có nhiều tiếng
chuột đồng chí chít. Xuân nghe văng vẳng có tiếng cúm núm, tiếng chim trích tắc
nhè nhẹ. Cánh đồng chắc mênh mông đầy nước. Nỗng đất nầy có bị ngập hông? Hông
nghe tiếng vịt con chiêm chiếp. Chúng nằm im vì bị ướt hay là cà tăng đã tốc hết?
Đàn vịt chạy tứ táng và lạc bầy mất rồi? Xuân nhỏm dậy, nhìn ra ngoài. Màn đêm
còn tối đen. Gió vẫn thổi mạnh. Chàng cảm thấy bao tử mình trống rỗng và cơn
đói làm sót ruột. Đầu cô gái vẫn còn nghiêng sát qua mình Xuân. Xuân hít một
hơi thật dài cho đầy bụng. Có đỡ đói hơn hông? Phùng Xuân nằm im lặng một lát rồi
thiếp đi trong giấc ngủ muộn màng.
Xuân choàng mở mắt. Trời sáng bửng. Vân đã chui ra ngoài từ
lúc nào. Xuân lật đật tốc rơm, đưa tay dụi mắt. Cả một vùng nước mênh mông. Những
bờ đê thấp hông còn nữa. Ngập láng te. Chỉ còn một vài cây trâm bầu đứng chơ vơ
giữa biển nước đục ngầu. Nước bao phủ toàn bộ nỗng đất. Đàn vịt con bơi lội
tung tăng, rúc rỉa trong vòng cà tăng. Vân đang lội bì bà bì bõm mò kiếm các đồ
đạc trong căn chòi mất nóc, còn trơ trọi các rui ngang. May là nước chỉ ngập đến
mắt cá nên tỉn muối, khạp gạo, hủ con mẻ hông bị trôi đi mất. Cà ròn, chén dĩa
bị chìm nơi nào? Xuân loay hoay một lúc lâu mới tìm được cái nồi đồng duy nhứt
dùng để nấu cơm và làm các món ăn khác ở tận ngoài gốc ớt. Nếu hông, hai đứa chắc
bị đói meo. Cuối cùng Vân cũng mò ra cái cà ròn và rút rơm lo nấu cơm.
– Ăn cơm với gì đây Vân?
– Em cũng hông biết nữa! Chắc với ít muối quá! Ngày hôm qua
còn chút tép kho đem ra ăn ví chị Loan hết rồi!
– Ờ hé! Để anh coi coi… À, anh biết rồi. Có một món ngon lắm
em có ăn hông?
– Món gì?
– Thịt chú tí!
– Ở đâu mà có?
– Ở trong hai cây rơm nầy nè! Nước nôi lênh láng như vầy, tụi
tí chỉ còn có nước rút vào trong cây rơm chớ có đi đâu được!
– Ờ hé! Vậy mà em cũng quên nữa.
– Bây giờ em và anh mỗi đứa cầm một khúc cây. Mình dậm cù cây
rơm đằng kia, thế nào mấy trự cũng nhào ra. Mình đập cho mau là mình cũng có mấy
con. Anh đem thui, lột da, móc ruột, bỏ đầu, lấy mấy cục máu tanh, ướp muối ớt,
rồi xỏ lụi nướng lửa rơm là ngon hết sảy đó nghe. Em thấy chảy nước miếng chưa?
– Anh đi học ở Sài Gòn mà sao anh rành quá vậy?
– Thì em cũng biết anh là dân nhà quê mà! Anh nghe má anh nói
anh sanh ở SàiGòn đâu năm 19…, ở nhà Bảo Sanh Hồng Ngọc, đối diện chợ Thái
Bình, lúc ba làm cho Tây ở Sạt Ne. Gia đình theo ổng về quê đâu năm 1945, 46,
lúc ổng bỏ trường theo Nguyễn An Ninh đi bán dầu cù là, rồi đi theo kháng chiến
luôn. Anh mới lên Sài Gòn đi học mấy năm nay chớ có lâu đâu. Hơn nữa, hè nào
anh cũng về quê mình, cùng các bạn dậm cù, đào hang bắt chuột. Nước rong đi
chĩa chuột. Kéo đăng bẫy chim trích, chàng nghịch, ốc cao, cò ma….; hớt cá lia
thia, làm giàn thung bắn chim, chèo ghe hái bần, tắm sông… Anh cũng biết
phân biệt tép rong, tép rêu, tép mòng, tép bạc, tép đất; cá lia thia với cá bãi
trầu, chớ bộ! Anh là dân xứ dừa mà! Anh có quên đâu?
– Ờ hé! Vậy là mai mốt anh dìa lại Bến Tre? Dìa lại Bến Tre
ví em nghen! Nghen anh! Em…
– Hổng biết được đâu à cô nương! Tui về trển còn phải đi học
nữa. Biết năm sau có về được hông? Đừng có mơ nhen!
Cô nàng xụ mặt. Buổii cơm trưa tưởng chừng là ăn thịt chuột
nướng chấm với con mẻ và muối ớt ngon hết sẩy, nhưng Vân nuốt hông vô, mắc nghẹn
nơi cổ họng. Vân tiu nghĩu. Cặp mắt đỏ hoe, rơm rớm. Xuân xé miếng đùi chuột nướng
vàng ươm, quết con mẻ, bỏ vào chén cơm cô gái rồi vã lã cười nói như thường.
Nàng gầm mặt lại, nhưng được một lát thôi.
– Đồ quỉ anh nà! Ghét anh quá!
– Coi nè! Sao lấy tay đấm lưng anh thùm thụp vậy? Coi chừng dập
ba sườn à nhen!
Xuân bỏ chạy ra sau chòi. Nước bây giờ đã rút bớt để lộ gò đất,
nhưng hai đứa hông dám thả vịt vì nước còn lễnh lãng như thế nầy làm sao chăn
đám đó, mà sâu quá tụi nó cũng hông rúc rỉa được. Chàng nhìn mút sang chòi
Loan. Hổng thấy mái đâu. Tệ hơn là chẳng còn riu mè gì hết, trơ ra mấy trụ lẻ
loi. Tiếng vịt cạp cạp dữ quá. Mần gì mà tới giờ nầy Loan chưa cho tụi nó ăn?
– Anh mần gì lo tới chỉ dữ vậy? Chỉ lớn rồi. Chỉ lo được mà!
Chỉ là dân miệt ruộng, chỉ rành sáu câu còn hơn anh nữa!
– Nhưng anh nghe vịt cạp cạp dữ quá. Chắc có gì lạ. Gần đứng
bóng rồi. Nhen! Để anh qua bển coi sao nhen!
– Em hổng cho anh đi! Sao anh hổng hú chỉ coi sao?
– Thôi mà! Cho anh đi đi, nhen! Chút xíu rồi anh dề rồi anh bắt
đền cho!
– Kỳ quá! Anh lo chuyện bao đồng hông hè!
Khi Xuân chống ghe gần tới chòi Loan, tiếng vịt cạp quang
quác càng dữ tợn, chứng tỏ chúng đang đói hoặc có điều gì bất thường. Chiếc ghe
chưa kịp tới bờ, Xuân bỏ sào, nhảy phóc lên. Đàn vịt thấy người càng cạp cạp rộ
lên. Chàng bỏ mặc, đi nhanh vào chòi.
Loan đang nằm mê man trên lớp rơm mỏng. Tóc tai bùi xùi. Quần
áo ướt nhem. Chàng lấy tay sờ trán cô gái. Nóng hổi. Và hai môi tím rịm. Xuân gọi
tên Loan nhiều lần, nhưng nàng vẫn nằm nín khe. Chàng vừa vỗ vào má nàng vừa gọi
tên. Loan vẫn hông nhúc nhích. Nắm tóc giựt mạnh một vài cái, nàng vẫn hông tỉnh.
Mình phải làm gì bây giờ? Quay về kêu Vân qua phụ? Lâu lắm! Hơn nữa Vân cũng
hông biết gì đâu? Chàng lật đật chạy ra ngoài rút nhiều ôm rơm khô, đem vào banh
một lớp dày rộng vừa đủ người nằm. Xong Xuân ẳm cô gái, để nhẹ nhàng vào chỗ
đó. Chàng chợt nhìn thấy một khạp đậy nấp. Xuân đi đến, dở nấp ra. May quá có một
bộ đồ bà ba, phong bánh in Bổn Lập, miếng cớm chùi, chai dầu cù là MacPhsu, lọ
Nhị Thiên Đường, và cái hột quẹt máy.
Một ý nghĩ thoáng qua nhanh chóng: phải thay đồ cho Loan ngay
lập tức rồi xoa dầu cho cô ta. Chàng hơi ngần ngại. Rủi mình đang làm thì cô ta
tỉnh rồi sao? Loan la lên là ể mặt. Mà chưa chắc gì cô ta la lên đâu! Cổ mắc cỡ,
cổ thụi, cổ đấm đá mình chưa biết chừng. Mà để cổ như vầy thì cảm lạnh càng lậm
hơn. Cổ cũng có vẻ ngổ ngáo lắm, nhưng Xuân nhận thấy Loan hơi thin thích mình.
Mình lạng quạng chưa kịp cổi quần áo, mới rờ đụng vào mình, cổ giựt mình
tỉnh lại, cổ hoảng sợ rồi đá mình một đá thì chết cha mồ tổ! Ở đây xa xóm xa
làng biết kêu cứu ai bây giờ? Thực ra Xuân cũng run lắm, nhưng chàng cũng phải
làm liều. Để lâu như vậy, hông hiểu Loan có chuyện gì hông? Cho chắc ăn, chàng
vừa kêu vừa lấy chơn đẩy nhè nhẹ vô người Loan. Nàng hơi nhướng mắt, hơi tỉnh lại.
Nhưng rồi sau đó Loan lại nhắm hai mắt, xụi lơ. Xuân vỗ nhè nhẹ vào hai má
Loan. Nàng lại hơi nhướng mắt.
– Em có thay đồ được hông? Quần áo ướt hết trơn rồi. Mau đi để
bị lậm là chết đó.
Loan vẫn nằm im. Hơi thở hơi chậm. Xuân rờ trán nàng. Vẫn còn
nóng hổi. Chàng giựt mạnh một núm tóc cố tình làm cho Loan tỉnh. Rồi nàng cũng
mở hai con mắt hơi lớn một chút nhướng lên nhướng xuống một vài cái.
– Em có thay quần áo được hông? Có bộ đồ khô trong cái khạp
cà. Em ráng đứng dậy. Anh đỡ cho. Rồi ráng thay đồ. Rồi… rồi lại nhắm mắt nữa rồi.
Nè, Loan. Để anh thay quần áo cho em. Em chịu hôn?
Nàng lại vẫn nằm im re. Cuối cùng chàng quyết định lấy hai
tay mở lẹ hàng nút áo. Bộ ngực thật đầy đặn. Làn da trắng ngà ngà như nước cốt
dừa và hai vú săn chắc to tròn như cặp vú sữa trắng chín mộng, có núm đỏ hồng.
Xuân một thoáng choáng voáng. Chàng hơi ngần ngừ, nhưng tiếp tục đẩy Loan
nghiêng qua nghiêng lại để cổi áo, rồi bỏ qua một bên. Còn cái quần? Chàng ngừng
tay một chút rồi mau lẹ giựt dây lưng quần sút ra. Hai tay tuột gọn gàng và
nhanh. Người Loan bây giờ nằm trên đống rơm hiện ra một cách tuyệt đẹp trước mắt
Xuân trong ánh nắng chói chan. Chàng ngây ngất. Trắng ngần ngần như miếng cơm dừa
nạo! Xuân nghĩ. Thân thể người đàn bà là một tuyệt tác của tạo hóa. Đúng.Chàng đã
đọc câu nói của Francisco de Goya. Và thấy hình La Maja, và thân thể người đàn
bà trần truồng trong những tác phẩm của Gustave Courbet in trong sách ở Thư Viện
Quốc Gia đường Gia Long Sài Gòn.
Và lần đầu tiên trong đời của thằng con trai 19 tuổi, Xuân được
thấy trọn vẹn thân hình lồ lộ của một thiếu nữ hiện trước mắt mình. Chàng hơi
xao động. Tự nhiên nước miếng chận nơi cổ họng. Xuân biết sự ham muốn ân ái nổi
dậy. Xuân cố kềm chế nên Xuân hông dám nhìn lâu. Chàng lật đật lấy bộ đồ khô mặc
vào. Hai bàn tay vẫn còn hơi rung. Đến khi mặc đồ cho Loan xong xuôi, chàng mới
thở phào nhẹ nhõm. Mồ hôi tuôn ra như tắm.
Và bây giờ làm sao cho Loan bớt nóng? Xuân lấy dầu Nhị Thiên
Đường xoa hai bên mang tai, sau ót. Chàng dùng nắp dầu cù là cạo gió ở lưng.
Sau đó, nhanh chóng cạo ở hai bên bả vai. Khó khăn nhứt là xoa dầu ở phần ngực.
Xuân ngần ngừ. Mình đúng là thằng ba trợn, dám làm chuyện nầy!
Xong, Xuân lấy bộ đồ ướt đầy mùi hôi tanh ói liệng vô ảng nước
tro, đem ra bến ghe đập lên đập xuống vài cái nghe bèm bẹp, rồi quăng dài lên đống
rơm phơi nắng. Cái áo in bông cũ nhèm thâm kim ở phần lưng. Cái quần lãnh đen
hàng Mỹ A cũ xì cũ xịt nhuộm mặc nưa, hai ống rách bươm.
Chàng lục lạo tìm lúa và cho đám vịt ăn. Tụi nó từ sáng giờ
đâu có hột nào trong bụng đâu, nên con nào con nấy chạy lẹt đẹt bu quanh các diệm
lúa, đua nhau rúc chèn chẹt.
Chàng trở vào thấy Loan hơi mở mắt, khép lại rồi trở mình rên
một vài tiếng. Xuân lại gọi tên cô gái nhưng nàng nằm im. Chàng bèn đi kiếm cái
nồi đất, nấu một ít nước sôi, bỏ miếng cớm chùi và một chút bánh in vô quậy cho
thành cháo. Chàng rờ trán Loan. Mát rượi. Như vậy là đỡ lắm rồi. Chàng lay lay
vai Loan mấy cái. Cô gái mở mắt thao láo nhìn Xuân, vẻ ngượng ngùng.
– Ăn chút cháo nhen. Cho khỏe.
– Anh mần gì tui vậy?
– Thì có mần gì đâu! Trưa rồi, tui nghe vịt cạp dữ quá, bơi
ghe qua coi thử sao. Ai dè thấy cô ướt chèm nhem, nóng hổi, nằm liệt dưới đất,
kêu hoài hổng nghe trả lời, lắc mấy cái cũng hổng tỉnh. May mà lục trong khạp
được bộ quần áo, lọ Nhị Thiên Đường, chai dầu cù là rồi mới thay đồ cho cô, rồi
cạo gió. Giờ cô thấy sao rồi?
– Chèn đất ơi! Anh thấy của tui hết rồi hả?
– Thấy gì đâu mà thấy! Ráng nhắm mắt nhắm mũi thấy mồ tổ, rồi
thay áo quần lẹ lẹ.
– Dóc tổ. Anh mà nhắm mắt dịt dật cho tui chết đi. Anh nhìn
tui mãn nhãn rồi phải hông?
– Thiệt mà! Hổng có đâu mà!
– Thiệt ví giả cái gì! Anh cổi hết đồ tui ra rồi bộ anh mặc lại
một cái rụp được hả? Nè anh coi đi. Đầu tiên là cái áo, anh phanh ngực tui, anh
nhìn đã thèm. Còn cổi quần tui nữa. Anh thấy hết trơn rồi còn gì đâu! Sao anh
gan dữ vậy? Anh hổng sợ tui tỉnh, tui dộng anh một cái, tui đá anh dập mật, lòi
bảng họng sao?
– Trời ơi! Cô nầy dữ hé. Chớ để cô vậy, cô bị cảm lạnh cô chết
ai mà chôn! Bị ướt từ đầu hôm đến giờ hả?
– Chà! Kệ cha tui! Coi bộ anh thương tui quá hé! Thương thấy
mồ thấy tổ người ta. Lột quần áo người ta ra hết rồi còn gì! Mần sao anh biết
tui bị cảm?
– Trời ơi! Tui cạo hai bên bả vai sau lưng cô, toàn là gió hột
hông hà ! Tức là cô trúng nước chớ gì nữa. Vậy là hổng phải cảm chớ là cái gì?
Hổng ấy, bây giờ tui ra ngoài lấy bộ quần áo ướt vô cho cô mặc trở lại, cô chịu
hôn? Xí! Người ta mần ơn mà còn bị mắc oán nữa. Giờ có chịu ăn cháo hông?
– Tui còn chóng mặt quá hè! Ngồi dậy hổng nổi. Mần sao ăn?
– Trời đất! Bộ tính bắt tui đút cháo cho cô sao?
– Bắt đền anh vụ hồi nảy đó. Thì đút có chén cháo mà mần gì dữ
vậy? Giờ có đút hông? Hổng đút tui la lên bây giờ!
– Nè! Nói cái gì mà phang ngang bửa củi hông vậy? Đừng có mần
nư nhen! Đồng không mông quạnh ai mà nghe cô!
– Ừa đó! Con Vân nó nghe chớ ai nghe. Nó nghe rồi cho anh ê mặt
luôn.
– Cô bắt bí tui hoài .Được rồi.Tui ngồi đâu lưng với cô để cô
dựa rồi múc cháo ăn nhen!
– Hông. Anh phải đút cho tui.
– Trời ơi! cô đày tui quá. Mần có chút xíu mà làm tình làm tội
người ta! Thôi, tui đút đây cô nương. Ngồi dậy đi.
– Hổng ngồi nổi. Anh phải đỡ tui dậy.
– Đỡ sao đây?
– Anh nói thiệt hay giỡn chơi đó. Anh mà hổng biết đỡ hả? Thì
luồn tay dưới cổ tui, nhắc đầu tui dậy, dựa vào đầu gối anh thì anh mới đút được
chứ!
– Cô nằm gọn trong lòng tôi như tôi ẳm em vậy hả?
– Ừa. Có vậy mà hổng biết nữa.
– Cô muốn gì đây?
– Muốn anh đút cháo cho tui chứ gì đâu?
– Khổ cho tui quá. Thinh không mắc cái nạn nầy. Nè! Vầy được
chưa?
– Được rồi. Xí! Có vậy mà bi giờ mới làm.
– Ăn hết chén cháo nầy hông?
– Hết chứ! Miễn anh ráng đút cho tui.
– Tui chưa bao giờ mần như vầy hết. Má tui bịnh mà tui chưa
bao giờ đút cháo kiểu nầy cho bả. Còn cô, chưa gì hết mà đày tui quá cỡ thợ mộc
rồi đó nhe.
– Anh có thương tui hông vậy?
– Hả?
– Anh có thương tui hôn? Thương hông?
– Ờ! Thì… Thì có thương chớ sao hổng thương. Có thương, tui
nghe tiếng vịt cạp dữ quá, tui biết cô có gì rồi mới chống ghe qua, chứ nếu
hông qua đây mần gì? Ai dè, có chuyện cắc cớ vậy. Lỡ thì mần tới luôn chứ để cô
chết thì sao? Thì lo cho cô cũng như Vân vậy thôi!
– Hổng phải. Thương khác kìa…
– Thương khác là thương mần sao?
– Thì thương như vợ chồng vậy đó!
– Tui chưa là chồng cô mà?
– Chắc hôn? Chỉ có chồng mới dám cổi đồ vợ trần trụi dậy chớ
có ai dám. Anh thương tui như vợ anh nên anh mới mần. Giờ tui hỏi lại anh, anh
có thương tui hông?
– Ơ! Ơ….
– Hổng có ơ nồi gì hết á. Chịu hông?
– Chịu sao?
– Thôi. Ghét anh quá đi. Nói chuyện gì đâu hông á. Người ta hỏi
một đằng nói một nẻo.
– Mà… bây giờ xong cháo rồi đó. Tui ra cho vịt ăn thêm, rồi
về kêu Vân qua đây sắp nóc chòi lại cho cô.
– Anh đánh trống lãng hông hà!
Chiếc ghe chưa kịp tắp vào bờ, Xuân buông sào, nhảy phốc lên
bụi cỏ. Chàng lật đật bước vô chòi. Ngó quanh ngó quất, Xuân hông thấy Vân đâu.
Chàng đi vòng ra phía sau chòi. Chợt Xuân khựng lại. Vân hông mặc áo, tự
nhiên ngồi xoay lưng lại, múc nước trong lu xối rỉ rả lên đôi vai trần.
– Anh đi lâu dữ hé! Bây giờ mới dìa? Đêm qua, mồ hôi ướt áo,
hôi rình. Em cổi ra để giặt.
– Thì qua bên Loan có chút siú, chớ đi đâu!
– Chỉ sao rồi, mà anh ở bển lâu quá dậy? Bộ dính nhau rồi hả?
– Đọ. Chưa gì hết mà nghi oan cho người ta rồi đó.
– Chớ sao bây giờ mới dìa?
– Loan nó bị cảm, nóng quá trời. Anh ở lại nấu cho nó một miếng
cháo.
– Rồi đút cho chỉ ăn chứ gì?
– Em sao hay ghen tầm bậy tầm bạ quá, đặt điều hông hè! Đút
cho nó ăn hồi nào?
– Thì nhìn cặp mắt láo liên của anh, em biết anh nói láo.
Chà! Hai người tình quá hé. Cái bà đó coi vậy mà dữ tợn à nghen. Mới đây mà
chài được anh học trò ở Sài Gòn rồi ta!
– Thôi đừng có nói bậy cô nương. Giờ em với anh qua bển, gom
lại mớ lá, sắp nóc cái chòi cho cổ.
– Còn của mình thì sao?
– Mình khỏe. Tối nay ráng ngủ ngoài trời đêm nữa, rồi ngày
mai lợp chòi lại.
– Ngủ như đêm hôm qua hén? Em với anh cùng chui vô lỗ rơm đó
nữa hẻ?
– Hông. Hết mưa rồi. Mỗi đứa ngủ một cây rơm.
– Xí! Thấy mà phát ghét!
Hai đứa qua chòi Loan. Họ gom lại được mớ lá xé cũ vương vãi
khắp nơi, nhưng rách nhiều quá hông đủ để lợp lại, đành dựng một cái thum nhỏ.
Vân giúp Loan cho vịt ăn và làm một vài công việc lặt vặt: sắp đặt lại cái cà
ròn, chỗ để hủ gạo, tỉn muối, khạp đựng quần áo và đồ ăn… Vân nhìn thấy những vết
bầm ở nơi gần cổ Loan.
– Chà! Chị bị cảm nặng lắm đó. Ai cạo gió cho chị vậy?
– Tao cạo chớ ai mà cạo mậy!
– Chị cạo đâu được ở lưng, để tui cạo gió lưng chị là chị hết
bịnh liền hà.
– Thôi tui hết bịnh rồi. Hổng cần cạo nữa.
– Chứ hổng phải hồi nảy anh Ba cạo gió cho chị hả? Chà! Cạo
sau lưng là tình rồi. Còn cạo trước ngực thì kể như mấm mộng rồi đó nhe!
– Con nhỏ nầy! Kệ tía tao. Hỏi đon hỏi ren hoài. Bộ mầy cũng
thương ảnh lắm hả?
– Tui hổng biết. Thế nào tui rình tui cũng bắt được hai ông
bà lẹo tẹo à nghen. Sao? Chị sợ chị hổng dám vạch lưng cho tui coi hả?
– Ờ đó. Mầy mần gì tao?
– Coi chơi vậy mà! Nếu có thì hai người hú hí nhau rồi. Hay quá
há!
– Kệ cha tao. Tao thương ảnh thì mắc mớ gì tới mầy.
– Thôi mà! Hai đứa đừng cãi lẫy nữa. Lo mần cho mau đi. Tối rồi!
Ngày hôm sau, hai đứa nhặt nhạnh những tấm lá cà đốp còn hơi tốt để lợp lại mái chòi. Nơi nào thiếu lá, Xuân lấy thêm rơm bện lại thành từng bó nhỏ chen vào chỗ hở. Mấy cây cột bể mộng, hông mấm vào ngàm, sút lặt lìa. Điệu nầy, mái lá cũng chỉ ngăn được chút nắng chớ hổng che được mưa. Suốt cả ngày hai đứa có ở trong chòi đâu. Sáng, lùa vịt ra ruộng; chiều thì sau khi cơm nước xong xui, hai đứa ngủ ngoài trời. Khanh dặn đừng ngủ trong chòi vì nhiều rắn rít hay bò vô kiếm đồ ăn…
Không khí buổi chiều mát rượi nhờ mưa dông đêm qua. Và bầu trời
ít mây, chắc vì đã trút gần hết nước. Sao Hôm mờ mờ ở chơn trời hướng Đông, được
một lúc thì mất hẳn. Chàng hiu, nhái bén, cúm núm, ốc cao thi nhau hòa một điệu
nhạc lạ lùng với nhiều nốt trầm bổng. Ánh trăng đầu tháng mờ nhạt, mông lung. Đầu
hôm có gió nhẹ lai rai, nên nhìn xuống mặt nước như thấy nhiều mặt trăng chạy
lao xao theo những đợt sóng lăn tăn. Những đám lau, sậy, lác, dứa gai dọc dài tạo
nên hình dáng kỳ dị, đôi khi giống con cọp, con heo nằm ngủ im lìm trong màng
sương trăng…
Loan cho đầu mũi ủi nhẹ vào đám lác sau chòi, chống mạnh sào
cặp xuồng vào bờ, nhảy lên, rồi đi về phía hai cây rơm. Trời tối đen. Hai người
ngủ hai cái nóp, thụt đầu vào trỏng thì mình làm sao biết được ảnh? Lớ quớ mò bậy
trúng con Vân thì bể mánh hết. Mà rủi đụng ảnh, ảnh la lên thì chết cha mồ tổ.
Từ hồi chiều tới giờ Tư Én cứ ngần ngừ hoài, nửa muốn qua mà nửa muốn hông.
Loan luôn luôn tự hỏi trong bụng hoài: Ảnh có thương mình hông? Hổng thương sao
ảnh cổi đồ mình hết vậy, lúc mình nóng mê man? Người gì đâu mà dị hợm? Sao cả
gan dám cổi đồ người ta? Mình hỏi có thương mình hông mà cứ ỡm a ỡm ờ, trả lời
trớt quớt. Mình thương ảnh quá đi chớ, ngay từ lúc đầu kìa. Nếu hông, sao lúc tỉnh
rồi mà còn giả bộ nằm im re để cho ảnh cạo gió mình. Mắc cỡ muốn chết, mình mẫy
sượng trân, nổi da gà mà cũng rán gồng mình để cho ảnh làm gì thì làm. Mà ảnh
cũng tử tế, chưa dám sờ mó gì? Với bao nhiêu câu hỏi đó làm Loan rạo rực trong
lòng. Hai hôm rồi, hình ảnh Xuân ôm nàng vào lòng để đút cháo, cứ chập chờn trước
mặt Loan. Nghĩ tới lúc Xuân cổi hết quần áo, nàng trần trụi, có cái gì cứ nóng
ran ran trong người nàng, chạy lên chạy xuống xốn xốn hoài. Loan xốn xang hông
chịu được, cứ ngó mong qua chòi Xuân. Chập chập lại muốn chống ghe qua nhưng sợ
cái con Vân, con nhỏ hay thót thét. Từ đầu hôm đến giờ Loan nằm trong cái thum
mà cứ lăn qua lộn lại hông ngủ được. Tiếng cúm núm hình như giục: Cứ đi đi. Tư
Én hông chịu được nên đẩy xuồng ra, hai tay ấn mạnh sào lao vụt trong đêm
tối.
Rồi bây giờ qua đến đây, Loan bắt đầu phân vân. Con gái gì mà
đi tìm con trai? Giống như cột tìm trâu. Ảnh có chê mình hông? Rủi ảnh hông ưng
mình thì sao? Nhưng coi bộ dạng ảnh trả lời thì chắc là ảnh thương mà! Con trai
gì mà còn thỏ đế? Thương mà hổng dám nói là thương, cứ trả lời vòng vo hoài. Và
Loan nhứt quyết phải gặp cho được Xuân, bởi vì Loan thấy có cái gì nong nóng
làm nàng khó chịu, nhớ ray rứt hoài từ lúc lần đầu tiên thấy Xuân đến giờ.
Loan đi rón rén, vòng qua cà tăng nhốt vịt, nếu hông đám vịt
con đánh hơi được, tụi nó sẽ kêu chí chít. Nàng đi tới cây rơm có cái nóp. Nàng
ngần ngừ một hồi lâu, bước tới gần, nghe hơi thở nhè nhẹ, nàng biết là hơi thở
của Vân. Nhưng để cho chắc ăn, Loan đứng lại, nghe ngóng một lần nữa, rồi bỏ đi
qua cây rơm ở đầu kia. Nhờ ánh sáng mờ nhạt của những ngôi sao dọi xuống nước;
và hơn nữa, ở ngoài đêm tối trong một thời gian lâu, nhìn được rõ hơn,
Loan thấy cái đầu đen của Xuân ló ra khỏi chiếc chiếu. Hơi thở của Xuân
dài và mạnh. Loan hồi hộp bước đến gần. Sau một lúc do dự, cô gái nhẹ nhàng nằm
xuống bên cạnh Xuân.
Trong giấc ngủ Xuân chập chờn ngửi được mùi bồ bồ và sả.
Chàng giựt mình, lấy tay hất chiếu ra, đụng phải thân hình mềm mại của Loan.
– Ai đây?
– Tui đây mà!
– Em đi đâu vậy Loan?
– Tui nhớ anh quá, tui qua đây hổng được sao?
– Nè. Đừng nói lớn. Vân nó nghe.
Xuân vội rút một ôm rơm thật chặt, nắm lấy tay Loan, dẫn tuốt
ra phía sau chòi, bươi rơm rộng ra, rồi hai đứa ngồi xuống.
– Em hổng sợ sao?
– Sợ gì? Có anh đây mà. Giờ tui hỏi thiệt anh nghe. Anh có
thương tui hông? Anh nói đi rồi tui dìa. Đêm hôm khuya khoắt mà tui bạo gan qua
đây gặp anh. Gái đi tìm trai, thì anh đủ biết bụng dạ tui rồi.
– Trời đất!
– Hổng có trời đất gì hết ráo á. Anh cứ dần lân hoài.
– Thì …thì…
– Thì sao nữa đây?
Nói chưa dứt câu, Loan ngã đầu vào ngực Xuân. Mùi bồ bồ, mùi
bùn tanh tanh và mùi con gái đồng nội ngây ngô chơn chất có cái ngay ngáy của
rơm, có cái chua chua của phèn, của bùn non, có cái khen khét của ánh nắng cháy
làm da đen dòn khiến Xuân rạo rực. Loan cứ rúng ra rúc đầu hửi hửi vào người
thanh niên mới lớn hực hực đầy sức trai, chờ dịp là bùng nổ. Và rồi, tròm trẹm,
trẹm tròm, phựt lửa đốt cháy rơm. Hai con mồi sẵn sàng lăn sả vào nhau. Và con
chuột đồng ú nu vàng hực, lăn qua lộn lại xèo xèo trong đám lửa phựt phừng…
– Mình mặc đồ vô đi để bị cảm.
– Hông. Tui hổng chịu.
– Dữ hôn! À nè. Sao em cứ xưng tui hoài vậy? Thương nhau thì
phải xưng em, anh chứ!
– Tui đâu biết. Cha sanh mẹ đẻ tới giờ tui có xưng em với ai
bao giờ đâu?
– Thì bây giờ mình thương nhau rồi mình phải xưng anh em chứ!
– Ờ hé! Vậy hả anh? Vậy là tự nảy giờ mình thương nhau rồi đó
hả anh. Kỳ ghê! Xưng em nghe lạ miệng, mắc cỡ chết mồ.
– Gì đâu mà kỳ. Người ta còn hun nhau nữa kìa. Em có biết hun
đâu, chỉ biết hửi hửi như con chó Mực đánh hơi chuột! Vừa thấy hang là hít rồi
bươi tới cùng luôn.
– Tui ….. Em nhà quê mà anh, tui… em có biết gì đâu. Em chỉ
có biết thương là vậy thôi à! Anh à! Vậy là mình chắc có con hả anh? Em sẽ đẻ
cho anh một dọc cho mà xem. Rồi anh sẽ mặc sức mà đặt tên cho tụi nó. Thằng hai
Thương, thằng ba Anh, con tư Quá, thằng năm Trời….
– Ngộ quá hé! Ông chú quen trong làng anh, ổng đặt tên con
gái một dọc là Mưng, Mửng, Mừng, Mứng, Mựng. Còn ông kia năm thằng con trai là
Khuân, Khuấn, Khuần, Khuận, Khuẩn. Còn em lại đặt tên hay hơn.
– Thì tui thương anh quá trời nên mới đặt tên mần vậy?
– Con đông quá mần sao nuôi nổi đây?
– Ối! Hơi sức đâu mà tính. Trời sanh voi trời sanh cỏ. Mắc
cuông lo bò trắng răng. Thì anh cứ tính đi. Anh ráng mần ít năm tụi nó lớn lên,
tụi nó mần phụ ví anh, lúc đó là anh khoẻ rồi, còn em nữa mà. Chồng cày vợ cấy
thì lúc nào cũng có ăn, hổng chết đói đâu mà sợ, má tui nói vậy. Ở xóm tui, ai
cũng biết nhà ba má tui- nhà ông Sáu Lục- nhiều con, tới sáu đứa lận. Mà đứa
nào đứa nấy cũng cùi cụi. Giờ ba má tui khoẻ re! Ruộng trong bưng nầy còn đầy
đàng đầy đống. Tới mùa mình mặc sức mà mần.
– Sao tự nảy giờ anh nghe em tính hông vậy. Ba mẹ em có chịu
hông? Nếu hông thì sao?
– Em thương anh thì ở đâu em cũng tới. Tía má em cấm thì em bỏ
nhà theo anh .Chị ba tui -chị Ba Lựa- chỉ đi bán, chỉ thương anh ba tui-Hai Rắc-
đâu bên Tân Hưng. Ba tui hổng chịu gả, nói tao đâu biết thằng cù bơ cù bấc đó.
Chỉ mần nư. Ba tui nói mầy mần gì thì mần đi, tao hông chịu gả. Chỉ bỏ nhà đi
theo ảnh biệt có về tới giờ.
– Trai tráng ở đây thiếu gì, sao mới thấy anh mà sáp vô vậy?
– Tụi nó ở đây hả. Thanh niên gì tối ngày tụ năm tụ ba, nhậu
nhẹt, ca vọng cổ, hút thuốc rê, hôi rình. Có lần, có thằng hơi đã đã, đêm hôm
mò mò tới tui, tui đá cho một cái muốn lòi bảng họng.
– Em ghê vậy! Bữa đó anh thay đồ cho em sao hông đá anh một
cái cho lòi bảng họng đi? Bây giờ biết anh sao mà theo anh?
– Nữa? Lúc đầu, tui thấy anh hợp nhãn thì tui… em thương chớ
bộ. Anh cứ nói quanh co hoài. Mình thương nhau sao mà cứ đắn đo. Hổng biết! Cứ
thương nhau cái đã!
– Trời đất!
Xuân chưa kịp nói hết câu đã bị Loan đè ngã xuống. Xuân bị
chìm nghĩm hổng biết đến mấy lần…
Buổi trưa hôm nay hông có gì ăn. Nước còn lễnh lãng. Tép rong
hổng có con nào chạy vào chông, nên Xuân và Vân lùng sục tùm lum, may mới bắt
được con rắn. Vân sợ hông dám làm. Phùng Xuân đành phải chống xuồng một mình về
chòi, bỏ lại cô ta ngồi ở gốc trâm bầu, và hẹn khi nào xong thì đem ra. Tất cả
mọi thứ ở đây chỉ làm có được hai món để ăn với muối: luộc và nướng. Chim chóc,
chuột … thì phải nướng, chớ luộc ăn tanh ói. Cũng có những món nướng ăn vẫn
tanh vì hông có một chút gia vị nào ngoài cây ớt hiểm mọc sau chòi.
Xuân đang lui cui lột da con rắn rằn ri cá thì Loan chống xuồng
tới.
– Bầy vịt em ở đâu?
– Bỏ ngoài ruộng gần chòi tui. Tui…. em để ý thấy anh chống
ghe về chòi có một mình, nên em lật đật qua. Con Vân nó ở ngoải một mình hả
anh?
– Ờ! Có chuyện gì vậy?
– Nè! Nói nầy nghe nầy!…
Loan cổi bỏ khăn rằn trùm đầu ra. Miệng cười chúm chím và đôi
mắt sáng ngời lồng trong mái tóc đen dài mượt mà. Cái áo bà ba bung hết nút.
Làn da trắng và cái cổ màu mật ngà vì nắng ăn. Xuân ngước nhìn, và bỗng nhiên
nghĩ tới thân hình lồ lộ của Loan ngày hôm kia dưới ánh trăng mờ mờ… Hơi nóng
trong người Xuân và hơi nóng ban trưa rừng rực lây lan sang người Loan. Khi họ
tỉnh lại, cỏ chung quanh đã bị nhầu nát…
– Em dữ lắm nhen! Như bị phong sù. Lại còn nhảy đồng đồng nữa
kìa!
– Ờ hé! Vậy đó, rồi thì sao?
– Thì em đúng là Loan trào đờm. Mặc đồ vô mau đi. Vân nó thấy
bây giờ.
– Ma dấu anh cho chết luôn đi! Xí! Đồ thấy ghét! Đồ dị hợm!
Nhưng nói thì nói vậy, chớ cô ta cũng nhào đến ôm Xuân hít,
hít ngấu nga ngấu nghiến một hồi lâu như muốn ăn tươi nuốt sống. Hai ánh mắt cứ
ngời ngời lên. Mình cổ nóng hừng hực còn hơn nắng trưa. Đúng là các cô gái quê
đồng nội. Lần nầy nữa cỏ bị quậy nát bấy như trâu dậm lúa, chắc hông lên được!
– Nè. Nói nầy nghe nầy. Anh hỏi thiệt em nghe.
– Chuyện gì anh?
– Có phải hôm đó em giả bộ bị cảm nặng, ngồi dậy hông nổi để
anh thay đồ cho em, phải hôn? Hổng phải hả? Ngập ngừng phải hông? Đúng rồi. Bị
lật tẩy rồi.
– Xí!
– Xí, xí cái gì cô nương. Đúng rồi. Em làm bộ. Em gan thiệt.
Rủi anh trở chứng là tiêu đời luôn.
– Xí! Thì bây giờ cũng tiêu tùng rồi đó!
Tư Én nhanh nhẹn đứng dậy, vuốt lại quần áo, rồi quay vô
chòi, trở ra chỗ ghe đậu. Khi đi ngang chòi, cô ta tỉnh bơ xớt lẹ cái áo sơ mi
rằn của Xuân, nhét vô bụng…
Loan đột ngột vắng bóng mấy ngày nay làm Xuân buồn rũ rượi.
Xuân hỏi thằng nhỏ chừng mười tuổi chăn vịt thế cho Loan. Nó nói nó ra thay chị
nó lúc khuya, để chỉ về chở Tía nó đi nhà thương. Hỏi bịnh gì? Nó trả lời ú ớ rồi
nín khe. Thằng nhỏ coi bộ còn khờ, có cái mặt ngơ ngơ ngác ngác và hai mắt thao
láo. Nó rất ít nói, cứ đưa mắt nhìn. Hông bao giờ có nụ cười. Hỏi tên gì? Một
lúc lâu, hình như nó đang tìm kiếm cái tên của nó ở tận miền xa xôi nào đó, nó
mới nhếch miệng: Út Thèm. Xuân chưng hửng. Có lẽ cho tai mình nghe hông rõ,
Xuân hỏi lại một lần nữa. Nó ngạc nhiên chắc thằng cha nầy điếc, nên lập lại hơi
lớn: Út Thèm. Tên gì kỳ vậy mậy? Út Thèm! Vân đứng kế bên cũng bật cười. Cái
tên lạ quá há? Có gì đâu, chắc lúc sanh thằng nhỏ nầy, ông già nó ổng đang thèm
cái gì đó nên ổng đặt tên cho nó như vậy mà! Chớ nếu nó “xấu hái” thì chắc tên
nó là Út Cu hay Út Cặ.. rồi! Đôi khi nó đứng trân trân ngó Xuân và Vân như hai
người khác lạ lùng mà nó chưa bao giờ gặp ở trong làng của nó. Nhứt là Vân, nó
thấy trắng trẻo hơn chị của nó nhiều, có đôi má núng đồng tiền và cái miệng có
cái răng khểnh, lúc nào cũng cười chúm cha chúm chím.
Xuân có linh tính là chẳng bao giờ gặp lại được Loan. Chàng
chỉ có hơi thắc mắc là tại sao Loan hông nói với mình một lời trước khi ra đi.
Có gì đâu, chỉ cần đi ngang là hú một tiếng thôi mà. Thế mà cũng hà tiện lời. Kể
ra cô ta cũng kỳ. Đến đột ngột, thương bồng bột, quầng nhau dữ dội, rồi ra đi
đường đột. Hình như là một áng mây che làm chàng u buồn ngẩn ngơ.
– Rồi a! Chị Loan hớp hồn anh nữa rồi phải hông?
Xuân hổng buồn trả lời.Vân thấy Xuân nhìn mình hổng cười
trong hai ngày liên tiếp như vậy, nhưng Vân vẫn tiếp tục săn đón.Có thể nàng hiểu
ra rằng bây giờ chỉ còn lại một mình.Và chắc chắn mình là kẻ chiến thắng sau
cùng thì mình vội vã làm gì. Hai đứa chung đụng hằng ngày giữa chốn đồng không.
Hông chóng thì chầy, lửa sẽ đốt cháy rơm tiêu tan hổng có cách gì ngăn cản được…
Sao ông Sáu Xe hứa bữa sau xuống mà tới bây giờ hổng thấy ổng?
Tháng bảy ít khi được những đêm trời trong, bao giờ cũng có
mây che, nên trăng hông bao giờ lộ nguyên hình, thỉnh thoảng hé miệng ra cười một
chút xíu rồi lại ẩn mình trong những đám mây. Và trời thường tối sớm hơn vì mây
đen. Hai đứa lúc nào cũng lùa vịt về lúc mặt trời còn ở trên cao. Trong lúc Vân
bận rộn với nồi cơm, Xuân lo nhốt vịt rồi cho ăn thêm chút ít lúa. Xong, chàng
ra thăm cái chông coi có được chút tép rong và cá bãi trầu nào hông. Bây giờ
thì đồ ăn hết rồi.Hai đứa chỉ trông cậy ba con tép cá có được hằng ngày của cái
chông. Trời mưa nhiều .Nước tràn bờ. Tép rong, cá bãi trầu, cá lia thia… lên ruộng.
Cá lóc cửng cũng đi đâu mất hết. Mong gì được bầy ròng ròng! Chông hông chạy
thì rán đi kiếm chuột, rắn… Những bữa hổng kiếm được gì thì Vân bỏ cho Xuân
chăn vịt. Cô ta lò dò đi kiếm đọt chại, đọt ráng, rau dừa, rau muống ruộng (rau
muống ruộng cọng màu hơi đỏ và cứng) về luộc chấm với nước muối ớt. Cay thắt họng.
Nước mũi, nước miếng chảy sụt sùi. Nhiều khi hai đứa nuốt hổng vô…
Hông biết thời gian trôi đi là bao lâu, nhưng Xuân đoán có thể
hôm nay là gần rằm. Chàng hy vọng có đêm sáng trăng. Nhưng tháng bảy và tháng
tám làm gì có được đêm trăng rằm sáng ngà. Tháng nào thì có hạn bà Chằn? Hỏi
Vân thì cô ta cũng bù trớt luôn. Và ngày rằm và ba mươi thường thì có mưa, vì
con nước rong, nước ngập tràn đồng.
– Chắc đêm nay có trăng đẹp.
– Hổng có đâu anh. Em thấy mấy đám mây đen đang kéo tới kìa!
Vân trông mong trời mưa. Mấy hôm rày trời hơi khô ráo, hai đứa
ngủ riêng ở hai cây rơm. Xuân biết Vân đợi trời mưa để được dịp chui vào lỗ rơm
Xuân làm mấy hôm trước, nhưng bây giờ phải gá thêm vào đống rơm một cái thum nhỏ
cho đủ rộng. Mỗi lần ước như thế là đôi mắt nàng rực sáng.
Và quả thiệt, mây đen kéo tới làm tối trời. Trăng bị mây che
mất. Ánh trăng suông mờ mờ. Chưa gì hết là Vân lật đật phóng vào cái lỗ rơm trước
tiên. Xuân còn chần chờ, nhưng cuối cùng mưa nặng hột rồi cũng phải chui tọt
vô, phủ rơm lấp lại.
– Anh!
– Gì Vân?
– Em…
Xuân ngộp người vì hơi thở của Vân dồn dập. Hơi nóng tuôn ra
ào ạt từ đôi vú lớn săn chắc, phập phò lồ lộ ra khỏi áo bị bung hết nút từ lúc
nào hông biết. Mùi thơm lạ lùng của mái tóc dài thườn thượt, của đôi gò má nắng
cháy đồng ruộng, mùi da của cô gái vườn dừa đang ở độ tuổi “bẽ gãy sừng trâu”
và làn da mềm mại của ngực trần, đã đánh bại sức chống cự của Xuân.
Trời mưa! Trời mưa dông. Và trời mưa thật lớn nung nóng sức bật
mãnh liệt của đôi trai gái đang sung độ. Cây rơm vừa gồng mình dưới cơn mưa vừa
oằn oại chịu đựng sự rung rinh của hai thân thể bất kể trời đất. Trận mưa dông
mặc tình tuôn đổ như xối nước lên cây rơm. Và tiếng xột xà xột xẹt của rơm liên
tu bất tận, càng lúc càng lẹ hơn tiếng mưa rơi…
– Nhè nhẹ thôi em. Coi chừng cây rơm sập là hai đứa chết ngộp
luôn à nghen.
– É! Anh biết gì! Tía bung rơm lên chặt lắm, hông có sụp đâu
mà anh sợ.
– Nhưng mà anh moi một lỗ sâu vô giữa thân cây rơm rồi. Mưa
đang như trút bên ngoài, thêm cây mưa của em; hai cây mưa lớn như thế nầy thế
nào nó cũng quị cho mà xem!
– Kệ nó! Chết em chịu.
– Dữ hôn! Còn hơn chị Sáu em.
– Thì em đã nói có ngày em sẽ cho anh biết tay em mà. Anh hổng
biết đâu. Chớ cái đêm ở Bến Tre, anh và chị Sáu mầy mò cái gì mà lục cà lục cục
làm em ngủ trắng mắt. Còn nữa. Anh với chị Loan như hai cây đèn cầy lúc la lúc
lắc hoài trong đêm tối. Chỉ đi tới đầu nóp em là em biết rồi. Em nín thở. Rồi
em rình theo. Em biết hết. Đống rơm đằng sau chòi còn sờ sờ đó. Bây giờ còn
mình em, em cho anh biết tay. Cho anh chết luôn!
– Trời đất! À. À. Anh còn nhớ đêm hôm đó, anh nghe tiếng giường
của em cứ cọt cà cọt kẹt hoài.
– Ờ hé! Hổng có trời đất gì hết ráo á! Cho anh biết tay em
mà! Đồ đàn ông gì mà tham lam!
– Có em á!
Và những trận mưa lại thêm nặng hột, ào ào, hông dứt. Ánh
trăng suông mờ mờ. Cho đến lúc nào hông biết, đôi trai gái buông ra. Họ thở ra
hông kịp hơi. Và họ mê mệt, tàn như tro rơm. Họ chết dần dần trong giấc ngủ. Chết
dần trong sự đam mê xác thịt giữa cơn mưa nơi đồng không mông quạnh.
Mặt trời mọc rồi lặn trôi đều đặn. Vân hả hê với cuộc sống có
Xuân bên cạnh. Bây giờ thì chỉ còn một mình, hông còn ai mà bắt xác ảnh nữa.
Nàng nghĩ như vậy. Và nàng có những toan tính cho riêng mình.
– Anh à! Nói nầy nghe nầy! Em tính mai mốt Tía Má sẽ
cho tụi mình miếng vườn ở ấp Cô Xanh. Mình có con có cái sống ở đó khoẻ lắm
anh.
– Sao khòe?
– Thì có huê lợi sẳn rồi. Nè, ổi nè, chuối nè, dừa nè. Bấy
nhiêu đó hai đứa mình xoay tối ngày đủ ngất ngư. Còn con nữa mà. Em thích có
năm sáu đứa.
– Năm sáu đứa thì còn thì giờ đâu mà lo vườn tược.
– Sao hổng được. Đẻ một tháng là làm được rồi.
– Rồi hai tháng sau ôm một cái bầu nữa hé?
– Em muốn vậy.
– Trời đất! Tư niên có chuyện đó thôi sao.
– Thì sao nữa. Gái vườn lớn lên, có chồng có con, lo vườn tược,
như vậy là êm ấm rồi.
– Còn anh. Anh muốn học nữa.
– Thì anh học đi. Dìa dưới nầy làm thầy giáo.
– Vậy là mình chưa tính làm đám cưới?
– Chưa. Cho anh đi học rồi làm thầy giáo như anh Năm em.
– Anh thấy em tính coi bộ hổng được rồi đó.
– Sao hổng được?
– Mấy hôm rày cứ xà nẹo ngày ba bốn lần thì đố khỏi có con tới
nơi. Ở đó mà tính với toán.
– Em hổng sợ. Mình có con là có chớ sao!
– Trời! Gái 17 bẽ gãy sừng trâu!
– Ờ hé! Cho anh biết tay em mà!
Buổi trưa, trời nắng chan chan. Sau khi ăn xong, hai đứa ngồi
dưới gốc trâm bầu, nhìn bầy vịt đang rút rỉa trong ruộng.
– Em khát nước quá! Em đang thèm nước dừa xiêm.
– Dừa xiêm gì?
– Dừa xiêm chớ dừa xiêm gì? Anh lại hỏi dần lân nữa rồi!
– Hổng có đâu đó cô. Có dừa xiêm thiệt và dừa xiêm lai. Dừa
xiêm thiệt nhỏ trái, hơi thon dài. Còn dừa xiêm lai trái hơi lớn một chút. Em
hông có biết, chớ nước dừa xiêm thiệt ở quê ngoại anh- Châu Bình- có vị thanh
và ngọt hơn Lương Quới .
– Sao vậy anh?
– Vì vùng Châu Bình là vùng đất còn ngập mặn- nước xạ hai. Qua mùa nắng gắt, lúc nước kém, nước mặn tràn vào, ban đêm, mình lấy tay khỏa sẽ thấy nước sáng lên, có lân tinh lấp lánh. Rễ cây dừa hút nước lờ lợ. Nước dừa sẽ ngọt thanh hơn…
Ngôi nhà của Ngoại, ở Châu Bình, lợp ngói âm dương, cũ kỹ, có
từ hồi nào Xuân hổng biết nữa. Lớn lên, Xuân đã thấy ngôi nhà đã có ở đó với
cái dạng hình bánh ít, giữa cái sân trước rộng rinh dùng để phơi dừa. Một dãy
lu vú da bò chứa đầy nước mưa bên hàng hiên nhà. Xuân, các em và tụi bạn thường
hay lủi vào kẹt lu chơi trốn bắt cút. Trước nhà là cái cầu đúc nhỏ bắc ngang
con rạch. Qua cái cầu đúc, phải đi trên những tảng đá ong, vòng vo ngoằn ngoèo
theo cái hàng rào quít tàu và trà được cắt xén cẩn thận cao khỏi đầu người,
rồi mới vô tới căn nhà ăn và nhà bếp rộng rãi.
Sau nhà bếp là một dãy nhà lớn rộng để chứa và sấy dừa vào
mùa mưa. Lúc nào bên hông dãy nhà nầy cũng có một hai đống dừa khô độ một hai
thiên. (Một thiên là một ngàn. Ở quê Xuân, người ta gọi một thiên dừa chớ
hông ai gọi là một ngàn dừa). Và những ổ tèn hen đùn lên cùng khắp sân. Có
bầy ngỗng dữ dằn, cổ dài ngoằn, luôn luôn lúc nào cũng rượt đuổi bọn Xuân.
Ông Ngoại của Xuân, Ông Ba Hạo, có đến bốn bà vợ. Ổng chết từ
lúc não lúc nao, chắc lúc còn trẻ nên ông cố Lê Phùng Xuân chia phần, cho
người vợ trẻ nhứt, bà ngoại của Xuân ba mẫu vườn dừa, năm mẫu ruộng ở ngoài lộ
ngang. Bà Ngọai, quê ở Giồng Trôm, đã một lần góa chồng, dốt đặc cán mai. Bà
hay nói những thứ chữ hơi lạ như “tư niên”(quanh năm), hồi nẫm(hồi xưa), đi hược(đi
học), vịt cồ (vịt trống), gà cồ, cua kình (cua lớn), sít rịt… Từ khi về với ông
Ngoại, bà quán xuyến công việc nhà rất giỏi. Xuân lớn lên đã thấy một mình Ngọai
tính nhẩm từ trăm cau, chục sa bô chê, chục mãng cầu xiêm… Đống dừa mấy thiên?
Ngoại đều biết răng rắc bằng cách bẽ từng đọan cọng lá dừa.
Ông Cậu Năm Kình hổng làm gì được hết. Tối ngày ổng chỉ ho sù
sụ vì chứng ho lao đã hành ổng từ khi ông Cố cho ổng lên Sài Gòn học. Ông Cậu
mãi mê thức đêm thức hôm đọc ba cái Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Tự Lực Văn Đoàn. Ổng
có rất nhiều sách- nhưng đặc biệt là hông có truyện Tàu- dấu trong các cái lu
vú bò. Khi nào hô có Tây ruồng là Bà Ngoại phải lo tuồn ba cuốn sách đó vào những
cái lu đã chôn sẳn sau vườn. Ổng lại còn có tật cà lăm nữa. Nói một tiếng, rặn
gần hồi lâu mới ra khỏi miệng.
Mới có tám, chín tuổi nhưng Xuân cũng đọc được: Tôi là
Mẹ, Chiếc Bóng Song The, Hồn Bướm Mơ Tiên, Tố Tâm và cuốn mà Xuân mê nhứt là Đồng
Tiền Vạn Lịch. Thằng nhỏ nầy hay lò dò đến gần mấy cái lu, đợi ổng lên cơn ho,
lén lén rút đại một cuốn rồi bỏ chạy. Ông Cậu có ngó thấy, chưa nói được một tiếng
là Xuân đã tuôn ra tới đầu bờ dừa, nằm gác chơn lên gốc bụi nhàu đọc ngấu nghiến
trong buổi trưa hè đầy nắng loang lỗ.
Nắng trong vườn dừa buổi trưa mát rượi. Hông có một ngọn
gió. Vắng lặng. Thoảng có tiếng cu kêu xa xa và tiếng gà cồ gáy. Thằng bé
đọc đã, nằm ngủ thiu thiu. Nước lớn dần dần len vào các bờ mương. Cá nóc nói bắt
đầu nhảy lên, nằm phơi mình trên mấy trái dừa điếc và mo nang đầy bùn sình.
( Cá nóc nói có hình dạng như cá thòi lòi nhưng nhỏ con hơn, chỉ bằng ngón
tay giữa là cùng. Nóc nói ở trong mương vườn, hông thấy ra ở vùng nước sâu. Háu
ăn nên trẻ con thường bắt để làm mồi câu cua biển )
Nhà Ngoại còn có hai cây me to bên hông sân, ngập bông khi
mùa gió chướng và đầy trái vào mùa quết bánh phồng mì, bánh phồng nếp. Bông me,
đọt me non nấu canh chua cá chốt ăn với tép bạc kho nước cốt dừa. Có bụi chuối
hột đầy trái chín. Đám con nít hông dám ăn, sợ ỉa hông ra. Bắp chuối và cây non
nấu canh chua lươn con mẻ. Khi ra giêng, còn có hoa ô môi nở màu tím rịm, từng
chùm phủ kín cây, đua sắc với bông vông nem đỏ choét ở ngõ vào nhà. Có chim
trao trảo kêu ‘ trao trao’ nhảy nhót đầy trong lùm cây sa bô chê, lê ki ma,
mãng cầu xiêm, vú sữa. Có chim chìa vôi hiền lành liệng qua lại trên cành ô
môi. Có con chim khách đen thẩm, đuôi dài kêu như có khách đến nhà. Có bầy chim
se sẻ và cu lửa, cu đất thỉnh thoảng sà xuống sân mổ những viên sạn nhỏ. Có những
com chim sâu ô đen tuyền im lặng chuyền qua chuyền lại tìm sâu trong lùm cây buổi
trưa hè nắng có sao…
Từng ấy ghi đậm trong trí óc non nớt của Xuân về vùng đất của
Ngoại ở Châu Bình. Nhưng còn nữa, còn nhiều nữa mà Xuân hông nhớ hết. Có cái
đáng nhớ hơn hết là Ngoại hông bao giờ quánh đòn, hông bao giờ trách mắng anh
em Xuân. Cùng lắm là: “ Ông bà cố tổ mầy, thằng chó đẻ nầy, mầy phá lắm à
nghen! ”, rồi Bà vừa cười vừa lấy tay xoa đầu Xuân.
Cái thằng mới có cở tuổi đó mà đã giúp Ngoại lượm dừa rụng từ
sáng sớm, hái sa bô chê, hái cau… Hông hiểu sao Xuân khoái nhứt là cái vụ hái
cau. Miệng nó ngậm con dao bầu nhỏ bén để bửa cau khi Ngoại ăn trầu. Bụng bó mo
cau. Nó có bao giờ mặc áo đâu, ở trần trùng trục tối ngày. Hai chơn kẹp vào
nài, Xuân leo thoăn thoắt, đến buồng cau, thử hai trái bìa rồi đến trái giữa. Một
tiếng hô: Dầy rồi Ngoại ơi! là nó cứa hai cái rẹt rẹt hai bên mép. Buồng cau rời
khỏi thân cây. Một tay giữ chặt buồng cau, một tay ôm thân cau, Xuân tuột một
cái rột là xuống tới đất. Bỏ đó, nó đi đến những cây cau khác. Cau hiểm hay là
cau lồng tôm, nó đều biết cách thử và hái được hết. Đôi khi nó hông biết tại
sao có những buồng cau rất nặng, nó hông xách nổi ở dưới đất mà lại ôm trọn được
buồng cau để tuột xuống. Hay là nó say mùi bông cau? À! À! À hén, nó biết rồi.
Ôm thân cau tuột thật lẹ làm cho nó thấy tê tê đầu con cu. Hèn chi nó mê cái mửng
đó!
Xuân ít khi nào thấy Ngoại bị bịnh, chỉ lâu lâu thấy bà nhai
một vài viên thuốc tể uống với nước đậu nành rang. Trà của Ngoại là bông đực
mãng cầu xiêm cắt nhỏ phơi khô, xong rang cho vàng ươm thơm lừng, đổ xuống nền
đất nạp thủy thổ. Trà của Ngoại còn là đậu ma hái ngoài bờ dừa rang với đậu đỏ,
đậu đen. Ngày nào cũng có ba bốn tô bự chảng nước trà loại nầy để Ngoại uống từ
sáng đến chiều. Mấy hôm nào bị trúng mưa, bà sụt sùi. Bà lấy một viên thuốc tể
hiệu Cữu Long Hoàn, nhai nhót nhét rồi uống một vài hớp nước hoặc hái mấy trái
nhàu chín màu trăng trắng chấm với muối, ăn một cách ngon lành. Xuân hông chịu
được mùi trái nhàu chín, nó khai ngấy, thum thủm như mùi nước đái con nít. Tụi
Xuân thích nhứt là những ngày nắng hè gay gắt Ngoại vò cho một diệm lá sâm hái
ngoài bờ dừa. Mỗi đứa ăn một tô với đường tán gọt nhỏ hay đường thùng. Có thế
mà ngon, vì hổng có đường thì ăn với muối kia mà!
Ngoại tom góp đủ thứ để nuôi anh em Xuân. Ngoại bán cơm dừa sấy
hay phơi khô có giá hơn dừa tươi. Từng lít nước màu nấu bằng nước dừa, từng
trăm cau, từng trăm sa bô chê (khi Sa bô chê tới lứa, Ngoại kêu anh em Xuân hái
xuống, phơi đầy sân một nắng, xong cho vô khạp da bò có lót lá chuối khô, đốt một
bó nhang để vô giữa, đậy hùm lại độ ba ngày là sa bô chê trở mình ) và chục
mãng cầu xiêm, từng bó lá dừa, từng nãi chuối tá quạ và từng ôm củi bẹ dừa, từng
trái ô môi chín khô quăng lên nóc nhà .
Những thứ đó Ngoại chứa sẳn theo mùa, đợi ngày con nước rằm.
Ghe bầu vào tới cầu ở rạch cái trước nhà. Ngoại đem đổi lấy gạo, nước mắm, muối,
đường… Đôi khi đổi được một miếng thịt ba rọi, thịt đầu heo thì đem đi kho với
dừa cứng cạy, với tép đổ nò. Cây mái dầm mọc đầy dẫy ven bờ rạch. Ngoại làm
cách nào hông biết để thành món dưa chua. Xuân hông bao giờ quên được cái mùi
thum thủm của món dưa chua mái dầm ăn dậm với nước mắm kho quẹt trong những
ngày mưa dầm rả rích tháng bảy. Còn có cả thịt nhái, thịt cóc xào với lá nhàu
hay lá cách. Và còn tô canh cải trời nữa chứ. Ờ hé!, những ngày tháng nầy có nấm
mối mọc ngoài vườn. Ngoại đổ bánh xèo với nấm mối, tép chạy nò. Bánh xèo cái
nào cái nấy vàng hực, ngầy ngậy mùi nước cốt dừa. Bọn Xuân ăn bánh xèo cuốn với
lá đọt mọt trắng muột, lá cách, với ngò gai thơm mọc tràn sau vườn nhà.
Ra giêng, mùa nắng gắt. Nước sông mặn. Ban đêm lấy tay khỏa,
nước lấp la lấp lánh như ma trơi. Bắt đầu có sam, rạm. Ngoại cho đấp đập mương
vườn ngăn nước mặn tràn vô. Bọn Xuân tắm nước mặn. Mắt cay xè. Họng đắng nghét.
Vậy mà cũng ráng dầm mình suốt buổi rồi chạy vào mương vườn múc nước xối ào ào.
Có hôm Ngoại buồn tình. Bà bẽ cây lá cách làm roi, vừa cười, rượt bọn Xuân. Tụi
bây phá nước ngọt của tao. Bọn trẻ, ở truồng dòng dỏng, tuôn chạy, rồi quay lại
cười. Coi vậy, chớ nhằm con nước rong rằm và ba mươi, nước sông trở nên măn mẳn
hay ngòn ngọt được một vài đêm.
Cái nò ở cái xẻo bên hông vườn nhà là nguồn cung cấp cá tép hằng
ngày cho gia đình. Mỗi ngày có hai con nước lớn, nước ròng theo con trăng. Tép
bạc, tép đất, bống dừa, bống cát… thì lúc nào cũng có. Còn cá kèo và những con
rạm, con sam, con lươn, con lịch… chạy theo mùa, theo con nước. Cá chốt thì nhiều,
nhưng dơ lắm, hay bám theo những dề cứt trôi lều bều lúc nước nhửng lớn ở ngoài
rạch cái. Gặp con nước ươn, con nước kém, hoặc là những dịp rái giỗ ngoài rạch
lớn thì hông có con gì. Đôi khi bọn anh em Xuân thèm quá, lén Ngoại đổ trộm để
bắt tép, cua… nướng ăn. Còn con rạm, con sam, và con lươn, con lịch với con cua
bọn nầy đi câu hay đi móc hang lúc nước ròng là những món ăn chơi của bọn Xuân.
Hay là nghịch ngợm hơn, đào miết để bắt tèn hen nướng ăn chơi. Tư niên chỉ có
mùi cá hông mà sao hổng thèm đến các thứ khác được?…
Gà chưa gáy sáng, Ngoại choàng mình thức dậy. Đâu phải tiếng
chim sấm bay trong mùa nầy? Chim sấm bay nhiều đợt từ Nam ra Bắc vào mùa gió
chướng mà? Tiếng gầm rú của tàu đổ bộ ngoài vàm sông Ba Lai? Chắc Tây ruồng rồi.
Trong khi mọi người lo gom góp quần áo cuộn lại trong khăn, Ngoại đã nấu được nồi
cơm nhão, dùng mo cau nhồi thành những cục cơm vắt, cuộn lá chuối rồi bỏ vào
bao lác.
Trời chưa hửng sáng, đã có tiếng súng gần lộ ngoài. Ngoại lật
đật hối Cậu Năm chui xuống lu đã chôn giữa bụi quít tàu sau nhà rồi dùng lá dừa
phủ lên. Kỳ nầy Ngoại hông kịp dẫn bọn Xuân trốn vào rừng cây bình linh có nhiều
bụi mây và lứt cao ngập đầu mà đẩy tụi nó chui vào đít bộ ván giữa nhà bếp.
Xong Ngọai lấy vỏ dừa khô chất kín chung quanh…
Hổng biết độ bao lâu. Đột nhiên có tiếng súng nổ ngoài sau vườn
và nhiều tiếng la hét bằng giọng mình và giọng gì lạ quắc mà Xuân nghĩ chắc là
Tây. Xuân có bao giờ thấy Tây đâu. Nghe mọi người nói là tụi nó ác dữ lắm, đi
ruồng tới đâu là bắn giết, chặt đầu người, còn bắt đàn bà con gái hãm hiếp. Nó
nghe nói mà ớn luôn. Họ lại còn nói Tây mặt gạch và Tây Sê nê ga le còn hung dữ
hơn nữa. Xuân nghe lén chị Năm Hơn ở xóm ngoài bị bốn năm thằng Tây mặt gạch tụi
nó hiếp tới chết luôn. Xuân nhớ có lần, Ba Má dẫn Xuân đi mít tinh chống Tây ở
đình Bình Khương, miệt dưới Châu Bình. Xuân còn nhớ đêm đó, nó trông thấy nhiều
cờ đỏ sao vàng của ViệtMinh quơ lên quơ xuống và tiếng hô đả đảo Tây vang
trời.
Bất thình lình, có những tiếng xí xô xí xào quanh chỗ Xuân và
tiếng lụp cụp quăng đồ vật lên mặt ván. Cả gia đình nằm im thin thít, chết điếng,
hông dám cựa quậy. Mẹ nói nếu để Tây bắt được thì nó bắt đem về bên Bình Đại; nếu
hông thì nó bắn giết cho chết luôn. Sợ nhứt là đứa em út. Rủi nó khóc lên thì
sao? May mà nó sợ quá, nó nín khe.
Có những thứ gì liệng len keng trên bộ ván và giọng nói của
đám người càng lớn càng nhiều. Cùng lúc có tiếng gà mái kêu quang quác và tiếng
la hét hô bắt nó, bắt nó. Xuân nghĩ chắc bọn lính tìm ra nơi gà mái đang ấp và
đã hốt trọn ổ trứng gà rồi.
– Mầy hỏi quan lớn có đốt nhà nầy hông mậy?
– Hông. Ổng thấy nhà nầy có tượng Đức Mẹ ẳm chúa DêSu,
có ông Thánh DuSe, lại còn có khung hình thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nữa nên ổng
hông cho đốt.
Ông Hương Cả Lê Phùng Xuân-người thường gọi ông Cả Non- đã đến
lập nghiệp ở vùng đất hoang vu Châu Bình từ lâu đời. Gia đình thờ cúng ông bà.
Khi gặp một linh mục ở Đà Lạt đã trị cho ông hết bịnh ban cua dai dẳng, ông tin
lời Chúa và theo đạo Thiên Chúa. Theo lời bà Ngoại kể lại, ông có rất nhiều
sách viết chữ Nho, ông biết kê đơn bốc thuốc và giỏi võ. Đến đời ông Ngoại- Lê
văn Hạo- con cái đều được đi học. Má Xuân học ở GiồngTrôm, còn Cậu Năm Kình “hược”
ở Sài Gòn. Gia đình rất sùng đạo. Chủ nhựt nào cũng phải thức dậy từ khuya để
đi lễ tận nhà thờ Giồng Khương, sát bên Lương Quới. Vùng Ba Châu có nhiều người
theo đạo, nhưng chỉ có một nhà thờ đó mà thôi.
Ông Cố cho lập bàn thờ Đức Mẹ ở gian giữa nhà. Gian nầy có bộ
tràng kỷ đen, cẩn xa cừ. Một bên là bộ ván gõ mun và bên kia là bộ bàn ghế dùng
để ngồi uống nước trà. Phần sau là buồng ngủ, có cái “giường xe” to lớn, đựng đầy
tô chén kiểu dùng vào dịp giỗ quãy. Phần sau nhà nầy là phần Xuân sợ nhứt vì
bao giờ cũng tối mò và đầy muỗi.
Nằm im lìm nín thở dưới đít bộ ván, Xuân nhớ lại Ngoại đã kể
với nó về Ông Tán Kế (Lê tấn Kế) bị Tây chém đầu ở Châu Thới(?), về Một On (Le
Roy) phục kích đánh tan tác bộ đội của Chín Tá, Việt Minh, ở gần cầu sắt Châu
Bình năm 1947(?), gần lộ giữa. Bà nói ông Ngoại kể chết nhiều lắm, chôn xác một
ngày hông hết .Xuân sợ quá, lỡ Tây mà nó bắt được là nó bắn chết. Xuân mắc đái
gần chết mà hông dám đái ra quần.
Cảnh vật chung quanh im ắng đã từ lâu. Cả nhà vẫn còn nằm nín
thinh. Đột nhiên có tiếng gáy của con gà cồ gần bên bộ ván. Bà Ngoại và Má biết
đám lính đã rút đi hết rồi nên tốc vỏ dừa hai bên. Tụi Xuân lật đật chui ra.
Trên mặt bộ ván bày la liệt những lon dẹp và tròn mà bọn nầy hông biết là
thứ gì. Mỗi đứa cầm lên một thứ, bắt đầu hửi. Có mùi thịt. Tụi nó liếm một cách
ngon lành. Nhưng có liếm mút được một cách trọn vẹn đâu vì tiếng hét của Bà Ngọai
và Má.
– Quăng đi. Mau. Có thuốc độc trong đó. Chết hết bây giờ!
Tư niên chỉ có mùi cá hông mà sao hổng thèm đến các thứ khác được? Cả bọn ngẩn ngơ. Xuân xách chét, kéo tụi em ra bờ dừa xiêm. Xuân trèo lên vặn một vài trái cho rớt rồi tuột xuống, vạt soèn soẹt ở đít dừa, chia nhau uống ừng ực. Mùi cá mòi và mùi thịt hộp vẫn còn dây dưa quanh miệng…
– Em muốn uống nước dừa xiêm thiệt Châu Bình!
– Đâu mà có?
– Có mà!
Đột nhiên Vân ngã người ôm siết Xuân. Gương mặt nàng đỏ rực
dưới mặt trời nóng cháy. Và hai thân thể bị nắng trưa thiêu đốt đỏ hừng hực.
Bùn non trây nhèm nhẹp, chẹp chẹp liên hồi và nước bị quậy chủm chà chủm choẹt,
rột rà rột rẹt. Mình mẫy hai đứa dính đầy bùn. Gió mạnh cũng hông làm khô nổi
những giọt mồ hôi tuôn rào rào như nước xổ đập… Nằm im lìm trên người Vân rất
lâu, Xuân thấy ngưa ngứa ở bắp chuối. Chàng giựt mình. Có hai con đỉa mén..
– Chết cha! Quần áo mình để ở nón lá trôi tuốt luốt đằng kia
rồi!
– Làm sao đây? Thôi mình lội đi lấy đi!
– Hả? Hông. Hổng đi đâu hết!
– Chứ làm sao mình lấy?
– Oánh tù tì. Đứa nào thua thì đi lấy.
– Thôi à nhen! Mình hổng chịu đi đâu à nhen. Rủi em thua thì
sao?
– Thì đi lấy chứ sao!
– Mình hổng dỡn đâu à nghen! Đàn ông con trai gì đâu mà hổng
biết nịnh. Như vầy, ai bắt con gái đi!
– Nịnh là hồi lúc trước cà! Chớ bây giờ ai thèm nịnh nữa. Em
thua thì em phải đi lấy. Như vậy đi cũng được vậy!
– Dị hợm hôn. Coi cái bản mặt kìa. Thấy mà ghét!
– Ghét hả? Xỉa xói vô mặt anh hả ? Anh mần một trận nữa
cho em chết luôn thì hết ghét nghen!
– A! A! A! Thôi… thôi mà…
Bờ bao ruộng nơi khác lại bị sạt lở. Nước lại đục ngầu
như nước quậy mương xúc tép. Dường như có trời mưa vì nước tuôn chảy dầm
dề trên lưng Xuân. Hai cơ thể rã rời nằm yên, một phần ở bờ bao đầy bùn sình, một
phần ở dưới nước. Nắng trưa hừng hực. Nước ruộng nóng hổi.
Cuối cùng thì chàng cũng phải đi lấy quần áo nằm trong nón lá
bị trôi mút tí tè ở đầu bờ ruộng. Hông lẽ mình để thân thể trắng duột như miếng
cơm dừa của cổ đi ngờ ngờ trên bờ đê hay lội vô đám bùn non? Chàng hông dám chạy
tồng ngồng theo bờ đê, coi chướng lắm, nên lội ột ệt dưới nước sâu đến ngang
háng. Đến khi trở về, hai con đỉa mén bám vào bắp đùi, Vân ngó thấy la hoảng
lên. Chàng lấy tay giựt mạnh ra. Hai dòng máu rỉ ra chạy xuống đến bắp chuối.
Ở đây có nhiều đỉa mén mà ít đỉa trâu. Hai đứa hông khi nào lội
tắm ở xẻo nước trước chòi. Xuân thì có thể ở trần, mặc quần xà lỏn, lặn ngụp một
hai cái, xong đi lên. Chớ còn Vân bao giờ cũng mặc nguyên quần áo nhảy ùm xuống,
rồi lật đật chạy lên- nếu ngày hôm đó bị dính bùn đất nhiều. Hai đứa đều sợ đỉa.
Nếu mình quậy đùng đùng một lúc lâu thì đỉa mén sẽ men tới liền, chui vào những
chỗ kín thì khó mà biết được. Khi mà thấy ngứa, mò tay đến thì con đỉa mém to bằng
ngón tay út đầy máu. Ai mà hổng hoảng!
Cho nên tắm nước trong lu là tốt nhứt, vì nước trong lu hông
bao giờ có đỉa. Có hai lu nước. Một lu dùng làm nước uống, còn một lu dùng làm
nước xài và tắm. Những ngày trời mưa, hai lu nước đầy, hai người tắm giặt thoải
mái. Và bây giờ, Vân luôn luôn mặc quần trong lúc tắm. Nàng vo tròn hai ống lên
tận bắp vế. Ở đây bao giờ có nhà tắm đâu. Ngực trần với đôi vú hồng, chắc, thon
thả của Vân có cái gì trìu mến đối với Xuân. Cả hai hông thấy mình thẹn thùng,
đứng tắm giữa đồng.
Chỉ có một cái đồ múc nước làm bằng gáo dừa. Hai đứa thay
phiên nhau múc, xối. Một vài ngày đầu tiên Vân còn ngại ngùng e thẹn rồi sau đó
nàng tỏ ra dạn dĩ, chà xà bông rồi kỳ lưng cho Xuân. Đổi lại Xuân cũng làm như
thế cho cô nàng. Cục xà bông Cô Ba Xuân đem theo cũng mau hết, vì Vân còn dùng
nó để gội đầu. Có thể đến một lúc hai đứa sẽ phải dùng tới bồ bồ hay là phải tắm
mà hông có chút xà bông nào cả. Cũng như bột đánh răng “Anh bảy Chà Và, Hynos”
Xuân đem theo đã hết từ lâu. Đâu có gì nhiều đâu. Đó là một hộp nhôm tròn nhỏ đựng
miếng bột ép cứng, khi xài dùng bàn chải ướt chà chà cho bột tan ra. Mấy ngày
hôm nay chàng cũng bắt chước Vân dùng xác cau chà răng mỗi buổi sáng và tối.
Vân cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Ngày ba buổi
nàng lo nấu cơm chăm sóc bữa ăn cho Xuân như một người vợ. Vân cứ để cho Xuân mặc
sức làm cái gì thì làm. Nàng cứ cắm cúi lo kiếm từng con tép, từng con cá nhỏ
nhít tới con cá bãi trầu lớn bắng ngón tay út, từng con ròng ròng, từng con cá
lóc cửng, từng đọt rán ở mọi ngõ ngách, từng cọng rau dừa, rau hẹ ở tận bờ ruộng
xa chỗ chăn vịt…. để chỉ làm một món ăn với muối ớt! Nàng hy vọng Xuân ăn ngon
miệng vì mấy hôm rày hông còn gì để ăn với cơm nữa.
Một buổi chiều, Vân lục lọi được trong góc chòi một lon chao
cũ, sét gần như lủng vào trong.Có vậy mà Vân cũng mừng húm như tìm được một món
ăn ngon. Vân kêu Xuân inh ỏi. Xuân lật đật chạy vô ngó Vân đưa lon chao sét với
vẻ mặt rạng rỡ.
– Làm sao mở đây anh?
– Để anh coi coi. Ở đây, làm gì có than bỏ lên ngay nắp cho
nó chảy chì hàn ra.Mình lấy mũi dao phay đục thì nó bể.
Cuối cùng Xuân cũng tìm được chỗ mỏng. Chàng từ từ lấy mũi
dao tách nhè nhẹ cho đến khi thành một lỗ lớn đủ đổ hết chao ra tộ.Những cục
chao hòa chung với một thứ nước hơi đen đen vàng vàng. Xuân đưa lên mũi, hửi. Vẫn
còn có mùi chao thum thủm pha lộn với mùi rượu. Nhưng để cho chắc ăn, chàng đổ
bỏ nước, chỉ lấy lại mấy cục chao. Mùi thơm lừng toát ra từ mấy viên vuông
vuông khiến nước miếng từ hai bên miệng Vân chảy ra. Tự nhiên nàng muốn nấu một
nồi cơm thật ngon, ăn ngấu nghiến với mấy viên tàu hủ lên men ngầy ngậy đó.
Phùng Xuân pha nước muối đổ vào chao, cho vô tô mới.
– Mình rán kiếm một con rắn hay con chuột, nướng cho thật
vàng, rồi dầm chao chấm với đọt ráng luộc là ăn cơm quên thôi đó, hén em!
Nàng nuốt nước miếng đánh ực một cái rồi nhìn Xuân mĩm miệng
cười. Những buổi chăn vịt sau đó hai đứa đã đập được con rắn bông súng nhỏ. Có
rau dừa, rau hẹ, kèo nèo, cóc kèn, lại thêm một chút rau muống. Và họ đã có một
bữa cơm chiều đả miệng, no cành hông.
Sau đó chúng nó bỏ đại chén đũa, hổng thèm rửa. Tụi nó ra ngồi
cặp kè dựa đống rơm, nhìn mặt trời từ từ gối đầu đỏ ối lên chiếc “giường dừa”
cuối chưn trời. Khi ở trên cao, mặt trời chỉ bằng cái rỗ súc, nhưng càng xuống
gần hàng dừa mặt trời từ từ lớn dần bằng cái nia, bị đốt cháy đỏ rực rồi chậm
rãi tiêu tan mất. Không khí hơi dịu lại và có gió thổi lai rai từ hướng Tây
Nam. Một vài vệt mây đen vắt ngang chơn trời
– Mình xuống đây được bao lâu rồi hả anh?
– Anh cũng hông biết nữa. Chỉ nhớ lúc đầu có trăng lưỡi liềm.
Chắc gần rằm vì mới đầu hôm, em thấy hôn, mà trăng đã lên gần một sào, lấp ló
trong đám mây cà. Ánh trăng suông chớ có bao giờ tỏ đâu. Em nhớ nhà hả?
– Hông. Còn anh?
– Cũng hông nữa. Có em bên cạnh là anh vui rồi.
– Dữ hôn nhen. Nói nghe đã chưa! Chớ mới lúc đầu anh ở đâu
đâu, biệt thèm ở gần em. Mất hết trơn rồi mới quay dìa em hả? Có phải vậy hôn?
– Đâu có. Khanh cũng cho anh biết chứ! Nhưng hổng lẽ anh bứng
hoa cả cụm?
– Cha! Tham quá há. Hai cụm rồi đó ông, còn đòi gì nữa!
– Em hổng ghen hả?
– Ghen chớ sao hổng ghen? Nhưng giờ đi mất tiêu hết rồi. Em
tha tàu cho anh đó. Từ rày về sau lạng quạng là chết ví em đó nhen. À, anh! Sao
hổng thấy Tía hay thằng Tám Trò xuống thế cho mình hết vậy. Hai đứa mình ở lâu
dưới nầy làng xóm họ dị nghị.
– Anh hổng biết nữa. Làng xóm đâu mà dị nghị. Ở đây đồng
không mông quạnh, hổng có một bóng người. Thằng nhỏ Út Thèm nó đem vịt chăn ở
đâu đâu. Có thấy nó đâu. Suốt ngày đêm có thấy ai đâu mà nói ra nói vô. Anh với
em sống giống như ông bà Adam và Eva.
– Ông bà nào? Em hổng biết?
– À. Đây là chuyện Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa. Sau khi mần
ra trời đất, Chúa tạo ra hai con người đầu tiên là ông Adam và bà Eva. Họ sống
sung sướng trong vườn địa đàng.
– Ủa? Có tới hai lận sao?
– Ừ hai. Có nam nữ mới có con cái chứ!
– Sao Tía nói với em ông Tổ loài người chỉ có ông Bành Tổ
thôi.
– Còn bà Nữ Oa nữa đó chứ em. Cổ tích mình kể lại họ là hai
anh em ruột. Chắc người lớn sợ kể thêm bà Nữ Oa là em ruột thì đó là sự vô
luân. Ai đời hai anh em ruột lại lấy nhau được. Chúng ta hông được quyền nghe
những chuyện như thế. Xã hội càng ngày càng văn minh mà em. Có những ràng buộc
về đạo đức để bảo vệ gia đình.
– Nhưng em học lịch sử nhà Trần mình. Bà con lấy nhau lộn xộn.
– Lịch sử Đông Tây đâu mà chẳng vậy. Một là bảo vệ vương triều,
hai là lòng tham tiền và quyền lực. Thiếu gì chuyện anh em ruột lấy nhau, mẹ lấy
con, con lấy mẹ, chú, dượng lấy cháu…… Ối thôi loạn xà ngầu, kể đâu cho hết.
– Còn anh thương em thì sao?
– Anh thương em hả? Anh thương em từ thuở mẹ về với cha.
– Xạo ke dữ he! Đó là câu ca dao: Sao Vua chín cái nằm kề.
Thương em từ thuở mẹ về với cha.
– Vậy chớ em thấy sao Vua chưa? Sao Vua ở xa tít tít ngoài
cõi trời xa xăm. Lúc đó em và anh chưa có. Thì hổng phải là lúc mẹ về với cha
sao?
– À! Anh. Sao Vua ở đâu? Em có bao giờ biết nó ở đâu đâu. Ở
vườn lúc nào cũng nhìn thấy lũm trời bé tí xíu trên đầu. Còn lại bốn bề chỉ có
dừa là dừa.
– Bữa nay trăng suông làm gì mà nhìn thấy được sao, em!
Cõi trời xa xăm nầy giống như nơi họ đang ở. Tối ngày hông thấy
một ai ngoài hai cái đầu đội nón lá và bịt khăn rằn. Xuân bây giờ như một dân
quê. Chàng đi chưn không. Móng chơn bám đầy phèn vàng khịt. Hai bắp chuối bị muỗi
chích sần sùi và cỏ lác cắt chằng chịt. Hai ống quần có hai khoảng cách riêng
biệt: vàng và đen.
Một hôm Phùng Xuân nhìn vào lu nước thấy tóc mình bùm xùm,
râu non mọc đen mươn mướt hai bên bờ mép, hai má hóp đi. Mình có ốm đi hôn?
Mình quên mất đi ngày tháng rồi. Ở đây chỉ có biết ngày đêm bằng mặt trời mọc
và lặn. Và ngày nào cũng như ngày nào với một công việc đều đặn: sáng sớm thức
dậy, ăn ba hột cho chắc bụng rồi cùng Vân lùa vịt đến những đám ruộng. Nhiều
khi để Vân một mình, Xuân lùng xục tới những nơi xa kiếm rau, bắt ốc, dặm chuột,
đập rắn. Những con rắn rằn ri cá hay rằn ri voi to và mập cũng hông khó kiếm
nơi chốn đầm lầy nầy. Nhưng có điều những con rắn nầy cắn nhanh quá tợn nên nhiều
khi bàn tay Xuân đầy vết răng của tụi nó.
Sau đó, trở về gốc trâm bầu nào đó mà Vân đã dọn sẳn làm cái ổ
cho hai đứa. Ăn ba hột dưới trời nắng chang chang. Nằm thiu thiu ngủ. Ngọ nguậy…
Rồi xớ rớ thế nào hai đứa cũng có một trận đổ lửa xảy ra. Nhiều khi nó xảy ra
còn hơn gấp hai ba lần ngày ba bữa cơm. Có phương tiện gì giải trí hơn là công
việc đó ở nơi nầy-nơi trời đụng đất, nước giáp mây- với sức trai gái đang độ rững
mỡ được dịp mà hùng hục buông thả? Nhứt là những ngày mưa dầm rả rích. Gió lộng
trời cho đến suốt đêm. Muỗi mòng hông có thì ở trong ổ rơm hai đứa cũng hì hà
hì hục nhừ tử, đua nhau cùng với trời đất. (Cái thằng con trai bây giờ quên nó
là đứa học trò học hành chăm chỉ bao năm qua ở Sài Gòn, phải lo học gạo dữ dằn
để lấy được mảnh bằng Tú Tài. Nó quên tuốt luốt mọi thứ. Cái thằng giống đực vô
trách nhiệm. Có khi nào nó sẽ có đàn con đầy đàn đầy đống và dính chặt vào đời
sống ở đây hôn?)
Có đêm, chàng giựt mình thức giấc. Chung quanh hoàn toàn im lặng.
Vân nằm bên cạnh, choàng tay qua ngực Xuân, thở đều đều nhẹ nhàng, bình yên.
Chàng lắng tai nghe. Thời gian như dừng lại. Chàng giựt mình nhớ lại Sài Gòn.
Nhớ những ngày tháng ngồi lê lết ở trường cùng bạn bè. Những ngày tháng thiệt
ngây thơ bình dị, hông có những lo toan về đời sống, từ miếng ăn cho đến manh
áo, chỉ ngày hai bữa cắp tập đến trường. Đôi khi, có mơ mộng đến một mối tình
vu vơ thoảng qua, nhưng chưa bao giờ chàng biết đến những vui sướng của
xác thịt.
Đột nhiên chỉ một kỳ nghỉ hè ở miền quê xa xăm, chàng đã tận
hưởng được những giờ phút ái ân mặn nồng. Một thoáng thôi của thời gian, ba người
con gái còn trinh trắng đã cho chàng nếm mùi vị yêu đương ngọt ngào. Hèn gì thằng
con trai 19 tuổi như dê đực chẳng đê mê ngây ngất quên hết ngày tháng qua đi.
Chàng hông còn nhớ những đoạn văn hay chàng đã đọc trong những cuốn sách nổi tiếng
viết về đồng quê, về những bức tranh thơ mộng cánh đồng ruộng. Bây giờ Xuân sống
như một người dân quê thực sự, quên hết mọi sự hiểu biết, lo ngày hai bữa ăn.
Nói tóm lại, có bốn nhu cầu thiết yếu của con người bình thường. À! Mà lạ. Mới
có mấy ngày thôi: cũng là cánh đồng, cũng thơ mộng, có trăng có nước giữa trời
đất bao la mà sao Xuân hông tìm thấy những điều giống như trong sách vở chàng đọc
được. Chàng đã biến thành con người khác mất rồi.
Còn Vân, lúc nào ra nắng cũng trùm kín mít đầu và hai tay.
Nàng sợ nắng ăn đen làm cô ta trở nên xấu xí? Tóc Vân hơi dài nên phải cuộn quấn
vào khăn rằn. Những buổi chiều, trong ngày nắng ráo, sau khi cơm nước, tắm rửa
xong xui, nàng mới xõa tóc rồi đứng hong cho khô trước hiên chòi gió thổi vù vù.
Nàng cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Có Xuân bên cạnh, Vân yên tâm
và nàng tin rằng đó là chỗ dựa duy nhứt trong cuộc sống bình yên hiện nay.
Mặc dầu với lối sống đơn sơ, mộc mạc: tắm nước ruộng, uống từng
bụm nước ruộng, nấu nướng bằng rơm và những món ăn bình thường: cá tép, chim
chuột, rắn rết, ốc… nhưng nàng tận tâm lo mọi việc cho Xuân như một người vợ, một
người vợ trẻ yêu chồng như bất kỳ người đàn bà trẻ nào khác. Trong mấy ngày
chung đụng nầy, hai đứa chưa bao giờ xa rời nhau. Họ khăng khít, vui vẻ bên
nhau như cặp chim bồ câu ríu rít liú lo. Và nàng chìu chuộng Xuân một cách tự
nguyện, hông đắn đo vì cho đó là bổn phận của người vợ; kể cả đến trường hợp nồi
cơm đang sôi sùng sục bên lửa rơm phừng phừng…
Kết quả là sau đó hai đứa ăn cơm sống. Hổng ai đổ lỗi cho ai,
còn vui vẻ cầm đũa chỉ cho nhau là tại anh, là tại em rồi cười nắc nẻ. Tự nhiên
Xuân phát chứng, bỏ đũa tiến đến bên Vân rồi nói: Nè nè, tại anh nè… Bỏ ngang bữa
cơm… Hai đứa nằm bệt dưới đất, bên bếp, thở muốn hụt hơi cho đến chiều tối. mặc
cho bầy vịt đói kêu ỏm tỏi. Đơn giản, Vân xem những điều đó là hạnh phúc mà
mình có được. Vân nghĩ mình sống như trong một thế giới nào đó, hông một bóng
người, chỉ có chim chóc muông thú, cây cỏ ở thời đại xa xưa. Nàng hông cảm thấy
thời gian trôi đi và ngày qua ngày hông có gì khác lạ.
Xuân tắm trần truồng trước mặt nàng trong cơn mưa dông gió lạnh
vì phải cổi quần áo để giặt. Nàng nhìn thân thể đó một cách âu yếm trìu mến mà
hông ngượng nghịu. Thân thể đó có một cái gì thân thiết, vững chãi khi nàng nằm
trong vòng tay Xuân. Còn nàng, trái lại hông bao giờ dám làm như Xuân. Nàng ở
trần khi tắm là quá lắm rồi. Nàng thẹn thùng hay sợ Xuân trông thấy mình mẫy
mình trắng muột mà dưới cơn mưa lạnh? Lúc nào cũng quần kín mít. Chỉ vén quần
lên đến bắp vế hoặc nới rộng lưng quần để kỳ cọ dưới cơn mưa, xong rồi che lại.
Chớ còn khi ân ái ban ngày ban mặt thì sao? Ở bờ đê, ở góc đống rơm, bên cạnh nồi
cơm đang sôi… sao Vân hổng mắc cỡ? Vân hông giải thích nổi. Hay là Vân sợ Xuân
trông thấy thân hình mình có nhiều biến đổi kể từ khi ở gần Xuân?
Mà có thiệt như thế. Gần hơn tuần nay Vân thấy người mình nẩy
nở ra. Hai đầu vú săn chắc, bầu vú lớn hơn và đôi mông hơi nặng nề đôi chút. Có
đúng là gái phải hơi trai? Đôi khi, nàng thấy Xuân nhìn nàng chằm chặp, hông hiểu
để làm gì; nhưng nàng đỏ mặt mắc cỡ trách nhẹ: Anh nầy! Tiếng trách đó hình như
khiêu khích Xuân. Hai đứa lại vồ lấy nhau, ngấu nghiến cho đến khi mệt nhoài… Rồi,
hổng thèm mặc quần áo, cùng nằm ngữa, nhìn lên trời cao sâu, xanh thăm thẳm.
Và cứ thế cuộc sống giữa đồng hoang của đôi trai gái hông có
nhu cầu gì khác hơn. Họ sống hoang sơ, mộc mạc, bình dị, quên mất đi ngày
tháng. Bây giờ chẳng ai nhắc đến thằng Tám Trò hoặc Tía hoặc Chú Sáu đến để
thay thế họ. Trong đầu mỗi đứa đều thầm mong hông ai đến để họ tận hưởng những
ngày tháng mặn nồng bên nhau. Cả hai bây giờ tỏ ra quấn quít, quyến luyến và
nghĩ rằng nếu vắng bóng người mình thương thì nổi nhớ nhung sẽ ray rứt biết chừng
nào!
Một buổi chiều, chúng nhận ra trong lu còn tí xíu gạo. Nhưng
mấy ngày nay mưa lên tiếp, đồng hoang mù mịt. Vịt được thả cho ăn loanh quanh
chòi chớ hông đi xa. Mấy lần hai đứa bàn nhau phải đi vào trong Cái Bông một
chuyến để mua thêm gạo và một chút thức ăn vì hổng biết chắc chắn ngày nào người
nhà trên Lương Quới xuống.
Buổi sáng hôm nay nhiều sương mù. Biết là trời hôm nay hông
mưa, Vân chống ghe đi chợ thật sớm. Có vậy mà Xuân cũng đi cùng Vân ra tận chiếc
tam bản và còn ráng nói vói theo là về sớm nghe mình! Khi chiếc xuồng khuất khỏi
bờ nước, mất vào đám sương dày, Xuân vẫn còn ngồi thừ một lúc lâu trên đám cỏ,
tưởng chừng như Vân đi vào chỗ nguy hiểm. Chàng mường tượng con đường nước từ
chòi đến Cái Bông có nhiều trắc trở, hổng hiểu Vân có qua được hông, có lạc đường
hông, mà quên rằng từ chòi đến đó chỉ có một dòng nước một mà thôi. Hơn nữa
Vân là gái vườn, tháo vát thì đâu có gì mà phải lo lắng. Sao hông lo cho mình
khi còn một mình ngồi chong ngóc giữa đồng hoang ?
Khi mặt trời lên độ một sải tay, Xuân cứ ngóng mãi về hướng
Cái Bông cho đến khi thấy cây sào dài quơ lên quơ xuống chàng mới yên lòng và đứng
chực sẵn ở bờ nước.
– Có mua được gì hông em?
– Có. Được mười lít gạo, một lít nước mắm, một chục bánh
cúng, bánh da lợn, bánh lỗ tai heo và một ít bánh rau mơ. Bây nhiêu đó là hết
phần tiền của em và của anh đưa.
– Làm sao em mang nhiều thứ như thế nầy từ chợ ra bến ghe?
– Thì dễ ợt chớ gì. Kiếm khúc cây làm đòn gánh rồi quảy nó.
Ráng mua một ít nước mắm để kho hay làm gì khác cho nó đỡ tanh. Chớ muối không
mà ướp thịt chuột nướng, ăn tanh ói. Em chịu hông nổi.
– Rồi đa! Hôi cơm tanh cá rồi phải hôn?
– Mắc dịch anh. Trù ẻo hông à! Có đâu? Em hổng thèm ngủ chung
với anh nữa à nghen!
– Thiệt hôn! Thiệt hôn!
– Đừng! Đừng anh…. Á! Á!…..
Cò cưa kéo nẹo ba cái vụ đó, mất gần hết thời giờ của buổi
sáng. Hông nấu được cơm. Vịt kêu ỏm tỏi. Hai đứa lật đật mang theo đòn bánh
tét, bánh tằm rồi hối hả lùa vịt ra đồng.
Đàn vịt mấy hôm nay thấy hơi trọng hơn một chút. Lông bắt đầu
trổ mầu hơi trăng trắng và tiếng kêu hổng còn ríu rít như trước nữa; có lẽ sắp
được ba tuần. Chắc vịt sắp đôn lông rồi. Bây giờ là đang vào tuần trăng rằm,
nhưng về đêm mây đen bao giờ cũng che kín mít bầu trời, hông thấy được trọn vẹn
con trăng. Dù sao trời cũng sáng hơn những ngày hông trăng. Hai đứa thường ngồi
bên cây rơm sau những bữa cơm chiều.
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,
Đèn ra trước gió được chăng hỡi đèn
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,
Sao trăng lại phải chịu luồn đám mây?
– Còn nhiều nữa em à. Người mình vốn sống nhiều với đồng ruộng
nên có nhiều thơ và ca dao về trăng.
– Đâu anh ngâm lên nghe coi.
– À. Như là:
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non…
Vầng trăng ai sẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.(Kiều)
Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng nầy nghỉ mát phương nao.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trên hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đâu (1).
Đêm khuya ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai.
Buồn trông chênh chếch sao mai.
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.(2)
(1) Chinh phụ Ngâm
(2) Vì buồn mà nhớ-Quốc Văn Giáo Khoa Thư
– Anh ăn gian quá hà. Chỉ có một vài câu đầu là nói về trăng,
còn phần sau là sao hông hà! Mà bài : Vì Buồn Mà Nhớ đó đâu phải là
ca dao. Hôm trước anh nói của ông Nguyễn Mộng Can mà !
– Thì sao với trăng cũng vậy. Em hông nghe người ta hay nói
trăng sao, sao? Tại vì bài thơ đó in vào Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Con nít đọc riết,
thuộc lòng rồi nó thành ra ca dao đó mà ! À. Mà còn một thi sĩ làm thơ về
trăng rất hay.
– Ai vậy?
– Hàn Mặc Tử. Ông ta bị bịnh cùi lúc còn trẻ nên thơ của ông viết về trăng như điên điên dại dại.
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy,
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.
Nhiều khi Xuân cũng ngâm vài đọan ca khúc của Chinh Phụ Ngâm,
của truyện Kiều, những bài thơ Màu Tím Hoa Sim, Hai Sắc Hoa Ti Gôn… hoặc kể câu
chuyện tình lãng mạn trong Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọ cPhách… Vân nằm trọn vẹn
trên người Xuân, gối đầu vào ngực, thở đều đặn và im lặng. Đó là những đêm tràn
đầy hạnh phúc. Thật sự có bao giờ hai đứa ra ngoài ngồi ngắm trời mây được lâu
đâu vì lúc nào muỗi cũng bu quanh kêu vo ve như bầy ong. Nhưng nhiều khi muỗi
cũng chui vào được ổ rơm, đến nổi Xuân phải phủ thật kín. Mà phủ kín thì nóng nực,
hai đứa lại ngọ nguậy rồi sanh chuyện cho đến mệt lã người. Họ ngủ mê man từ
lúc mới đầu hôm cho đến gần sáng. Lại tiếp tục màn cũ rồi ngủ cho đến
sáng bét, vịt kêu ỏm tỏi mới trờ dậy. Tình yêu trai gái ở đồng quê là tình nghĩa
của đôi giống trống mái. Có phải vậy hôn?
Cứ như thế, đều đặn hơn chục ngày trời rồi hai đứa cũng hông cần biết; nhưng Xuân cảm thấy sức lực gần cạn kiệt đến nổi Vân biết được. Thỉnh thoảng nàng tìm một con vịt què nấu một nồi cháo cho Xuân ăn lại sức …
– Chèn đất ơi! Thằng Xuân sao mầy ốm như cây tre miễu và đen
quá vậy? Cơ khổ! Chắc mầy dang nắng và ăn uống cực quá chớ gì?
– Hổng có đâu Thím Sáu. Con vẫn có thịt, cá ăn đều đều mà. Bộ
con ốm lắm hả thím?
– Cơ khổ! Mầy hổng biết sao? Ốm cà tong cà teo à con à! Vân !
Mầy hông lo cơm nước gì cho nó hết sao? Kìa coi kìa! Vân, coi bộ mầy phởn phơ
hơn nó, còn nó thì gió thổi muốn bay. Rồi đây chị Bảy thế nào cũng quở tao cho
mà coi! Tóc tai, đầu cổ xù ngù xục ngục, ngó mầy giống thằng bố quá mầy ơi! Mày
ra ông Hù Tốt, hớt tóc đi mầy rồi hả về Sài Gòn.Nhớ hớt ma ninh cua nhen. Coi
cho nó gọn.
– Được rồi! Để ngày mai con xuống tiệm chú Tư Hầu ở lộ dưới,
thím à.
Nói vậy, chớ chàng đâu có dám hớt kiểu ma ninh cua đâu. Cái đầu
cao nghệu giống như đầu cá lóc. Mà mình ốm lắm hả ? Như bộ xương cách
trí ? Xuân nằm xuống bộ ván ngựa đánh một giấc hông biết trời trăng đất nước
gì hết cho đến khi Vân khều khều chân chàng.
– Ngủ gì mà ngủ dữ vậy trời!
– Mấy hôm rày mệt quá, ngủ để lấy lại sức.
– Nói nhỏ nhỏ. Coi chừng Tía nghe được.
– Ủa? Chớ ổng ở đâu?
– Tía đang bịnh, nằm trong buồng. Anh về tới nằm xuống là ngủ
như chết. Em tính kêu anh dậy mấy lần, nhưng bả hổng cho, nói anh mệt thì để
anh ngủ. Hình như bả nghi nghi cái gì đó, bả cứ ngó cần cổ và ngực em hoài. Coi
mắc cỡ gần chết. Tụi mình ở dưới cả chục ngày nên bả sinh nghi là phải. Hổm rày
Tía bị cảm mạo sao đó, trúng đi trúng lại, hết cạo gió tới cạo gió lui, nên
hông xuống thế cho hai đứa mình được. Còn thằng Tám Trò nó lỡ mắc bồi mương cho
người ta, mới xuống thế cho mình trễ như vậy. Chớ em biết ổng bả cũng nóng ruột
lắm. Để em và anh ở dưới hoài, có ngày con gái ổng bả mang cái bụng chình ình
làm sao.
– Thì cũng sắp phồng lên rồi đó!
– Đồ quỉ anh hà. Nói nhỏ thôi, hông Tía nghe là chết cả đám.
– À, Vân! Còn Khanh, chị Sáu của em, từ hôm đám cưới có về
thăm nhà hông?
– Má nói chỉ về có một lần, ốm xanh xao.
– Chắc lo nhiều việc bên chồng quá chớ gì? Có đâu như em, phổng
phao!
– Mình hổng ghẹo anh à nghen! Đâu biết được. Chắc còn nhớ ai
đâu đó?
Câu nói vô tình của Vân làm Xuân đau nhói. Mối tình đong đầy
theo ngày tháng bỗng chốc tan vỡ, vẫn còn đeo đuổi trong tâm trí. Rồi Loan, sao
mà đến mà đi vội vàng thế, vụt như bóng mây bầu trời tháng bảy ở cánh đồng Mỹ
Nhiên. Cô gái đồng nội yêu nồng nhiệt, vội vàng làm Xuân ray rứt khôn nguôi.
Canh khoai mỡ tím của buổi cơm chiều giúp Xuân dễ dàng nuốt trôi những nỗi nhớ
nhung xuống tận đáy lòng mà Vân hông nhìn thấy được.
Xuân nằm trăn trở trên bộ ván. Hông ngủ. Đêm đã khuya. Không gian vắng lặng. Chàng ngước nhìn ra trước hiên. Chỉ có một khoảng bầu trời nhỏ với một vài ngôi sao. Xuân thấy lòng mình tự nhiên lắng đọng lại và dễ dàng tan biến vào cõi tĩnh mịch. Nhớ nhung tràn đầy và đàn muỗi lúc nào cũng kêu vo ve làm Xuân khó ngủ. Chàng cứ nhìn ra khoảng bầu trời nhỏ bé, hông đếm được bao nhiêu sao băng nhưng thỉnh thoảng thấy một lằn sao xẹt qua ngọn dừa. Một lằn xẹt: Khanh đã qua đi. Hai lần xẹt: Và Loan đâu rồi? Còn lần xẹt nào đến cho Vân? Ngày mai lại phải xa Vân trở về Sài Gòn cắm cúi vào bài học, vào những quyễn sách… Và chàng sợ những giọt nước mắt lúc tiễn đưa. Vân chắc sẽ bịn rịn, rươm rớm. Một năm trời xa cách. Những bức thư sẽ đi lên đi xuống. Và sau đó thì sao nữa? Có một lằn sao vừa xẹt ngang qua ngọn dừa!
Chiếc bắc chở đầy nhóc người và xe chậm chạp rời bến, quay đầu
hướng về cù lao Phụng. Phùng Xuân đứng bên lan can nhìn dòng nước ròng đục ngầu
chảy tuôn ra cửa Đại. Tiếng rao hàng, tiếng mời mọc của các em nhỏ bán mía
ghim, nem bưởi chay, đá chanh, xá xị vang inh ỏi…. từ mọi phía. Người ta đứng lộn
xộn, xen lẫn với gồng gánh của những người đi buôn. Ngoài cùng hai đầu chiếc bắc
là những hàng xe đạp, một vài chiếc Vespa… xếp chéo vào nhau. Người người
chen chúc hai bên hông của bốn chiếc xe- một chiếc xe đò Á Đông và ba chiếc xe
hàng chở gà vịt- nên đi từ đầu đến cuối bắc phải luồn lách rất khó khăn. Chiếc
bắc đã nhỏ, hông mui mà chuyến nào cũng đầy nghẹt người và xe, nên lúc nào cũng
hổn độn và nóng nực vô cùng.
Nước ròng. Dòng sông chảy siết, hối hả, vội vã. Từng giề lục
bình, từng giề dừa nước… giục giã chạy theo nước ròng đục ngầu. Bắc xuôi dòng
nước, cặp dọc cù lao. Những ngôi nhà lá hì hụp sau đám bần, dừa nước. Cặc bần
non rung bần bật, cà ngật cà ngật dọc theo mép bờ. Nước ròng bỏ bãi thật xa. Cặc
bần cao thấp, nhỏ lớn lô nhô chen nhau trong đám bùn ở đầu bãi. Bắc Rạch Miễu
đánh vòng ra xa tránh hai bãi bùn của cù lao Phụng và cù lao Thới Sơn, rồi ngược
cửa Tiểu, quay đầu hướng về Mỹ Tho. Bên phải, sát bên cù lao Rồng, chiếc tàu
Admiral Charner của Pháp bị Nhựt bỏ bom đánh chìm hồi 1945, trơ cột cờ cũ xì cũ
xịt vươn lên trong nắng trưa. Chiếc bắc ngược nước, chạy rất chậm, rù rì như
rùa bò, muốn ngừng tại chỗ. Xuân đứng sát lan can, nhìn nước đục ngầu tuôn
trôi. Sao cái gì qua rồi cũng mất đi, hông tìm lại được? Thú vui vừa thấy đó,
tình yêu nồng nàn vừa có đó, thoáng qua nhanh chóng. Chàng hông chộp lại đươc,
hông nắm giữ được. Thời gian trôi đi là mất tất cả. Còn giữ lại được những kỷ
niệm? Hông, tất cả đều mất đi, tan biến vào không thời gian vô hạn định.
Chàng nhìn về hướng Rạch Gầm. Một vài chiếc tàu nhả khói mù mịt
cuối chân trời, chạy lên Nam Vang…
Nam Vang, tháng 5 năm 195… Xuân gặp Trần Văn Thành, ngồi ở
băng đá, đang cầm cuốn Tái Sanh Duyên, bản in của Tín Đức Thư Xã, đường
Sabourain ở SàiGòn… NamVang 195… Những ngày một mình lang thang nơi đế đô
OulDong… Những ngày Phùng Xuân cùng Thành, Marin Phla bơi thuyền ở ngã ba sông
MéKong và Tonlésap. Sóng vỗ bập bà bập bùng. Gió lồng lộng. Tóc của Marin Phla
bay lượn lờ theo gió hú, hòa tiếng sóng vỗ vào mạn ghe. Cô bé 13 tuổi hồn
nhiên, tươi mát, cười nắc nẻ giữa trời mây nước. Ba đứa bơi thuyền ngược dòng.
Bãi bồi hiện ra với những đám bắp, đám dưa xanh um. Họ buộc ghe ở tuốt dưới
lòng sông, đi ngược lên bờ, rồi vào những ngôi làng đầy cây ăn trái: sabôchê,
cam, sầu riêng. Những người dân quê hiền lành, chơn chất, thiệt thà đãi họ những
ly nước thốt nốt thơm tho, tươi mát. Nước thốt nốt ngọt ngào giống như những giọt
nước mắt tiễn đưa của Marin Phla sau hơn 15 ngày chàng ở đất nước Chùa Tháp? Và
bây giờ, cũng giống như nước dòng sông trôi đi, trôi đi hun hút. Kỷ niệm có bao
giờ ngược thời gian quay trở lại? Ai cố bám víu nó, hông bao giờ nhìn được
tương lai?
Hình ảnh Loan chắc mất mãi. Xuân cố công tìm kiếm nàng ở nhà
thương Bến Tre và Mỹ Tho. Hổng bao giờ gặp lại! Sau khi ra khỏi nhà thương Mỹ
Tho, chàng lê bước qua đường Ariès, đi tới cầu Quay, rẽ trái. Xe Cosara đâu rồi?
Đã lâu hông còn! Nhưng tiệm sách Nam Cường vẫn ở đó?.. Những năm tháng ở trường
Taberd Mỹ Tho: frère Colomban ở lớp Enfantin, frère Ignac lớp Moyen, frère Niva
lớp Supérieur. Nhà thờ cũ kỹ ở con đường Hùng Vương dài hun hút. Ngôi biệt thự
của ông Jacques Lê Văn Đức rộng thênh thang. Bến đò Thạnh Trị ngang qua kinh Bảo
Định. Và thằng Tường, con ông bác sĩ Bá, có cái đầu chồ vồ, lúc nào cũng cà rem
đậu xanh nước cốt dừa, ba cắc một cây, nay có còn hông? Mùi vị của miếng bánh
mì bột gạo còn thơm lừng, dòn rụm vừa mới lấy từ trong bao bố tời và hương thơm
ngọt ngào của chén cháo gạo lứt, đậu đỏ, dưa mắm đều vắng mất rồi?
Yvette ĐỗThị Đ…Yến ơi! Yvette Đỗ với mái tóc hớt bum bê ngào ngọt bông cau, nụ cười rạng rỡ và nước da bánh ít chưa phai nhòa trong trí Xuân. Tại sao Xuân vẫn nhớ mãi Yvette Đỗ? Yvette Đỗ ơi! Bây giờ em ở đâu rồi? Chàng đi về hướng trường Nguyễn Đình Chiểu, tới bến xe về Sài Gòn. Lần trong túi, chỉ còn đủ tiền mua vé. Xuân nhịn khát, nhịn đói cho đến khi xe đò ngừng ở đường Nguyễn Hoàng, Sài Gòn…
Con đường Hồng Thập Tự là con đường đặc biệt. Từ ngã sáu đến
đường Lê Văn Duyệt, hai bên toàn là cây sao và cây dầu, nhưng thỉnh thoảng cũng
xen vài cây thau lau (bằng lăng) có chùm hoa tim tím vào mùa hè. Đến mùa, trái
sao và trái dầu tung bay theo gió như cánh bướm. Đoạn từ Lê văn Duyệt đến Huyền
Trân Công Chúa, một bên là cây giá ngự (bọn Xuân thường gọi là Dái ngựa) và một
bên là me. Đoạn Huyền Trân Công Chúa đến Hai Bà Trưng hai bên toàn là me. Những
cây me lão cao vút cặp bên trường Jean Jacques Rousseau và dọc theo Dinh Độc Lập.
Mùa hè trái rớt lộp độp sau mỗi cơn mưa dông. Rồi đoạn Hai Bà Trưng – Mạc Đĩnh
Chi, một bên là giá ngự, một bên là sao cao vun vút. Có ngôi nhà gỗ lâu đời nằm
ngay đầu đường Hai Bà. Từ Mạc Đĩnh Chi đến ngã ba Đinh Tiên Hoàng, bên hông
thành Cộng Hòa có hàng liêm sét nở vàng rực rỡ trong những ngày hè cùng tiếng
ve kêu ra rả. Rồi từ sân vận động Hoa Lư đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai bên lại là
me cổ thụ gốc to sần sùi. Từ đường ông Trạng Trình đến cầu Thị Nghè, hai bên là
giá ngự, có con dốc thoai thoải mà Xuân rất thích trên đường học trở về nhà.
Con đường thân yêu này hằng ngày in đều đều những vết bánh xe đạp, đi đi về về trong những ngày học ở trường Chu Văn An. Sao mà hôm nay nó dài thế?! Xuân lê đôi săng đan đầy nước lẹp xà lẹp xẹp, lầm lầm lũi lũi đi trong cơn mưa suốt chiều dài con đường Hồng Thập Tự. Có lúc, chàng đụt thật lâu dưới gốc me già. Tháng bảy, tháng tám thường là những trận mưa dai dẳng; chớ hông như tháng năm, tháng sáu, chợt mưa chợt nắng. Một vài chiếc xích lô đạp trùm kín mít lạnh lùng chạy qua. Phùng Xuân mơ màng ngó theo, rồi cắm cúi bước. Chàng về đến cầu Thị Nghè, rẽ trái vào ruộng dâu bên hông Ty Canh Nông thì trời cũng vừa sập tối…
Trường Chu Văn An, nằm phía sau trường Pétrus Ký, là ngôi trường
bé tí so với “ParắcKý” qui mô, đồ sộ. Nó chỉ có một sân chơi nhỏ xíu với vài
cây me còng gốc đen thui, sần sùi rụng lá tư niên, nhưng bù lại đầy bông nhỏ
hơi tim tím, trái dài cong cong và cho bóng mát quanh năm. Giờ ra chơi, trong
những ngày nắng ráo, học trò tụ tập quanh gốc me trong cái sân nhỏ; còn những
khi mưa, đứng đầy ở hành lang. Nghe nói khi xưa đây là khu chuồng ngựa, hông biết
có phải vậy hôn? Nhưng có những ông thầy “người Bắc kính mến và đáng yêu”: thầy
Bạch văn Ngà dạy Cơ Học, thầy Trần Bích Lan dạy Triết, thầy Nguyễn Xuân Vinh dạy
Thiên Văn Học… Ông Hiệu Trưởng Trần Văn Việt và ông Giám Thị Ngạc: quần áo hai ông
đó lúc nào cũng chỉnh tề, cả trong những ngày hè nóng bức. Ông Hiệu Trưởng thì
mặc veste. Còn thầy Giám Thị, ốm người, luôn luôn thắt cravate, mặc áo sơ mi
dài tay.
Những thằng bạn Bắc Kỳ dốn của Xuân đều là những thằng ngổ
ngáo như chàng nhưng rất đáng quí; nhất là giọng nói của chúng nó, trầm bỗng
nghe ca kiệu hơn là giọng nói của các thằng bạn giá sống, đơn điệu. Thằng Toản,
ở khu nhà thờ Ba Chuông, bao giờ mở miệng ra là có câu : địt mẹ. Còn thằng
Chúc, tận Xóm Mới thịt chó, luôn luôn là: chúng ông. Rồi còn Tiến Tấn nữa chi.
Ngồi bàn dưới mà lúc nào cũng thò viết chì cù lét Xuân. Lúc đầu, khi mà tụi nó
địt mẹ, chúng ông là tiếp theo một cái thoi của Xuân vào vai. Rồi đuổi bắt, la
hét… Về sau càng ngày càng thân thiện, cảm mến nhau.
Phần đông bọn họ đi học bằng xe đạp. Trong lớp đệ nhất A2
niên khóa 1959-1960 chỉ có thằng Tâm là con nhà giá sống giàu có. Nó đi chiếc
Solex đen. Lẫn lộn trong bãi xe của đám học trò, chiếc Solex đen bóng nổi bật
dưới trưa nắng làm dấy lên một chút ghen tị, nhưng hông vì thế làm cho bọn họ
hông chơi thân với nhau. Những buổi tan học về là cặp kè ba bốn đứa bên hông
chiếc Solex, giăng hàng ngang gần suốt con đường Hồng Thập Tự vắng teo, trò
chuyện oang oang- chuyện ngây thơ của tuổi học trò. Đến vườn Bồ Rô thì rã đám.
Chỉ còn Xuân và Chúc đi cho đến ngã ba Đinh Tiên Hoàng. Nhà thằng Chúc, Đỗ Bá
Chúc, ở xa lút đâu tận khu Xóm Mới. Nó kết thân với Xuân, nên hai đứa thường
hay đi chơi chung nhau. Ngày nào Xuân cũng đợi nó ở ngã ba Đinh Tiên Hoàng- Hồng
Thập Tự. Mãi về sau nầy, Xuân mới biết gia đình nó ở Bàu Sen, Trảng Lớn, Tây
Ninh.
Nhà ông Lý gần chợ Xóm Mới, sát bên con đường đá xanh lổm chổm
đi lên Tân Thới Hiệp. Căn nhà đóng ván thùng thông phế thải. Mái tôn hông có
pla-phông nên ngày hè rất nóng nực. Ông di cư vào Nam năm 1954, theo giáo
xứ Hà Nội, về ở tại khu nầy từ đó đến nay. Cả gia đình sống nhờ vào ao rau muống
khoảng một công đất, được chia thành nhiều khu nhỏ. Buổi chiều, cả vợ chồng con
cái cùng cắt rau, buộc thành từng bó nhỏ để sáng hôm sau đem ra chợ bán. Những ngày
nghỉ, Chúc cũng phụ xịt thuốc trừ sâu, cắt rau, rồi cùng hai cô con gái của ông
Lý: cái Lan và cái Huệ đem về nhà.
Sau khi phà một làn khói dài của điếu thuốc lào và hãm bằng một
ngụm nước trà đậm, ông Lý ngồi trầm ngâm một thời gian rất lâu, nghĩ ngợi về
tin của người bạn ông-bố của Chúc- ở TâyNinh. Tự nhiên, sáng nay ông cảm thấy
hông an tâm, có điều gì bất ổn sắp xảy ra. Bác Đỗ cho biết ngày 26 tháng giêng
năm1960 (ngày 28 tháng chạp năm Kỷ Hợi), bộ đội Bảy Môn của Bình Xuyên đã đột
kích giết chết rất nhiều binh sĩ của Trung Đoàn 32, Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồn trú ở
Trảng Sụp (TuaHai), nằm trên Quốc Lộ 22 (Tây Ninh). Vì là ngày 28 Tết, anh em
trong đồn lo chuẩn bị tất niên nên hông đề phòng. Hơn nữa, sau mấy năm dài được
hưởng cảnh thái bình, sung túc dưới thời Ngô Đình Diệm thì hổng ai nghĩ là sẽ
có chiến tranh. Trần duy Lâu-người cháu của ông Đỗ làm ở phòng nhì tiểu khu Tây
Ninh-cho biết tiểu đoàn 3 của Bảy Môn (Bình Xuyên) đã bị hai cán bộ tên là Bảy
Khánh và Chín Đạo dụ về với Việt Minh lúc tiểu đoàn thua trận ở Rừng Sác năm
1955. Hai tay Khánh và Đạo được Việt Minh cài lại sau Hiệp Định Genève năm
1954. Từ đó, bộ đội Bảy Môn bị Chánh Trị Viên Ba Thu lèo lái theo hướng có lợi
cho họ. Có nghĩa là trong trận Trảng Sụp, bộ đội Bảy Môn của Bình Xuyên đánh quân
đội của Ngô Đình Diệm để trả thù, chớ hông phải là của Việt Minh. Việt Minh đã
tuân thủ Hiệp Định Geneve, rút về Bắc hết rồi mà !!! Ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh-
Thiếu Tá Nhuận- chắc hông biết kẻ nào đã đứng đàng sau xúi giục đánh Tua
Hai ?
Cháu Lâu cũng còn cho biết có những vụ lộn xộn xảy ra trong mấy
ngày qua ở tỉnh Kiến Hòa. Ngày 17 tháng giêng năm 1960 có vụ gì mà nó gọi là Đồng
Khởi bị quân đội quốc gia ruồng bố càn quét; rồi tiếp sau đó ngày 26 tháng
giêng năm 1960, có đám đông đàn bà con nít từ các làng Định Thuỷ, Phước Hiệp,
Bình Khánh dọc sông Hàm Luông, kéo về tràn ngập quận Mỏ Cày kêu cứu là đã bị
quân lính Cọng Hoà cướp bóc, hãm hiếp…
Khi ở miền Bắc, Ông đã từng nghe về những đợt Cải Cách Ruộng
Đất và đấu tố kinh hồn xảy ra ở nông thôn nhưng hông hiểu một cách thấu đáo rằng
Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập với sự hổ trợ của Cộng Sản Tàu, Cộng
Sản Nga đã mang lại khốn cùng cho dân tộc Việt. Ông Hồ Chí Minh rất khôn khéo.
Một mặt ông chiêu dụ những thành phần yên nước-hông theo Cộng Sản- để chống
Pháp, rồi từ từ ông tìm cách tiêu diệt những người có ý chống đối ông. Một mặt
ông lập tức thay đổi đảng Cộng Sản thành đảng Lao Động. Những người trẻ, với
lòng yêu nước nồng nhiệt, đã bị sa vào rọ lúc nào hổng biết… Khi vô rọ rồi muốn
ra cũng hông được.
Ông Lý linh cảm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc sẽ xảy ra.
Quân đội Cộng sản miền Bắc chắc có lẽ sắp mở màn tấn công. Sau một thời gian
cài người ở lại chờ thời cơ, bây giờ là lúc họ sắp sửa bắt đầu lộ diện. Họ cũng
đoán biết có một số thành phần đang bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm như các đảng
phái chánh trị và giáo phái.
Chánh phủ Ngô Đình Diệm muốn thống nhứt quân đội thành một khối.
Quân đội Cao Đài Tây Ninh- trước năm 1954 là hai: phe Liên Minh của Trình Minh
Thế, hông theo Pháp, chống Việt Minh lập khu kháng chiến ở vùng núi Bà Đen và
phe Nguyễn Thành Phương hợp tác với Pháp. Nhưng sau đó, hai phe đều đã qui thuận
về với chánh phủ vào tháng hai năm 1955.
Chỉ có quân đội Bình Xuyên của Bảy Viễn là chống lại vì có
Pháp hổ trợ. Đêm 29 rạng 30 tháng ba năm 1955, bất thình lình họ nổ súng tấn
công vào Bộ Tổng Tham Mưu của quân đội Quốc Gia tại đường Trần Hưng Đạo. Nhưng
cuối cùng rồi cũng thua chạy vào Rừng Sác sau một vài ngày đụng độ ở khu Khánh
Hội. Và quân đội Quốc Gia sau đó dẹp tan được quân Hòa Hảo của Ba Cụt vào năm
1956 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Khoảng năm 1952, trận bão năm Thìn làm núi Bà Đen bị sạt lỡ,
nứt một đoạn dài từ chùa Bà đến chơn núi. Đứng ở Tây Ninh có thể nhìn thấy đường
lỡ đó. Thời nầy, ở chơn núi Bà Đen còn vắng teo. Tụi học trò quăng xe đạp, dấu
vô đám tranh. Đám khỉ khọt khẹt nhảy la chí chóe trên cây sấu, hái trái chọi
tùm lum. Sóc xòe hai chơn trước bay từ cây nầy qua cây khác. Hồng Hoàng, Cao
Các lượn qua lại kêu quang quác. Tụi nó đi cùng với một vài người bạn lên tận
chùa Bà, hái xoài, mít, mận. Rối sau đó, vòng qua chùa Hang.
Họ đã gặp quân đội Liên Minh mặc toàn đồ bà ba đen và còn có
một người tên là Nhị Lang. Lúc đó, còn rất nhỏ, nên họ hông biết Nhị Lang là ai
và hông hiểu Liên Minh là gì? Nhưng có thể Jumoir Vương Mạnh Tuấn biết rõ vì
Jumoir học ở Trường Trung học Lê Văn Trung.
Lúc mới thành lập, trường nầy có mười lớp Đệ Thất. Trường qui
tụ được nhiều giáo sư giỏi do ông Trần Văn Tuyên làm hiệu trưởng từ năm 1952 đến
năm 1954 rồi giao lại cho Chu Tử Chu Văn Bình. Đến năm 1958 ChuTử về SàiGòn.
Jumoir đâu có bao giờ quên các ông giáo sư già, trẻ kính mến:
Trương Bảo Sơn, Hồ Việt Điểu, Tạ Chí Diệp,Tạ Chí Đông Hải, Hồ Thái Bạch, Âu
Quang Nhứt… Ông Giáo sư Nhứt nầy còn trẻ, từ bên Pháp về, dạy Pháp Văn, nói tiếng
Việt ngọng nghịu. Ông Nguyễn Văn Thuần, giáo sư dạy Tóan, mặt búng ra sữa. Trưa
nào, trống đánh thùng thùng lúc hai giờ mà chẳng thấy thầy đâu? Té ra thầy ngủ
quên. Báo hại đám học trò phải chạy đi kêu thầy. Thầy đến lớp mà hai con mắt
còn đỏ ké… Và ông thầy Võ Văn Hợi, dạy chữ Hán, rất đáng yêu; mặc dầu đó là giờ
hay ngủ gục…
Xuân dắt chiếc xe đạp cà tàng ra khỏi căn nhà sang trọng ở đường
Hồ Xuân Hương.“ Vậy là mình kiếm được chỗ dạy kèm tốt rồi. Từ đây có thêm chút
đỉnh tiền, mình yên tâm đi học hơn. Nhưng hổng hiểu các cô cậu nhà giàu nầy có
hay quậy hông?”
Đang đạp xe tàng tàng, bất ngờ nó gặp Chúc ở ngã ba Bà Huyện
Thanh Quan và Hồng Thập Tự.
– Ê! Chúc, tao tìm được chỗ kèm trẻ ngon lành rồi?
– Ở đâu, cậu?
– Trong đường Hồ Xuân Hương nầy.
– Sao tốt thế?
– Thì tao cũng đăng báo như mầy. Bây giờ hai đứa mình đi kiếm
cái gì ăn đi. Tao đói bụng rồi. Tao đãi mầy một bữa.
– Nghĩa là không ăn ở quán cơm xã hội?
– Có gì mầy chê ở quán cơm đó? Một món mặn, một món canh, và
cơm ăn thả giàn mà chỉ có hai đồng rưởi. Vậy là tốt rồi. Thôi đi mầy!
Bọn họ chạy theo đường Trần Quang Khải, hổng ghé vào quán cơm
xã hội. Tụi nó ngược lên Tân Định, sà vào chỗ bán cơm bữa bên gần hông chợ. Bao
giờ cũng vậy, món ăn đầu tiên mà Chúc gọi đầu tiên là trứng vịt kho.
– Mầy phải bắt chước tao. Gọi là trứng dzịt thì người ta mới
biết. Chớ trứng vịt, trứng vịt giọng Bắc Kỳ của mầy làm cô bé bán cơm sẽ ngẫn tò
te ra.
– Ê! Xuân. Cậu có biết tin Việt Minh đánh đồn Trảng Sụp ở Tây
Ninh không?
– Việt Minh? Việt Minh nào mậy? Họ rút về Bắc hết rồi mà?
– Cậu không xem báo?
– Thì cũng như mầy. Lo gạo bù đầu bù cổ nếu hông năm nay rớt
thì kể như lúa. Có thời giờ đâu mà coi báo. Ờ! Ờ! Mà cũng có, nhưng coi mau lắm.
Coi báo cọp hay báo mướn hông hà. Tao đâu có thấy báo Dân Chúng đăng đâu.
– Tớ khác cậu. Tớ biết được vì bác Lý có báo. Có tin khác nữa
kìa.!
– Tin gì?
– Tin đàn bà con gái ở tỉnh cậu đi biểu tình rầm rộ chống
chánh quyền!
– Bến Tre? Mà ở chỗ nào?
– Hình như ở Mỏ Cày.
– Mỏ Cày hả?
Sau bữa cơm, Xuân đạp xe ra về. Vừa đi vừa nghĩ ngợi. Sao hông thấy Vân nhắc đến những việc đó? Hơn nữa, gần cả mấy tháng hổng được một cái thư nào của Vân. Chàng phân vân, hông hiểu có chuyện gì xảy ra ở quê nhà mà dân chúng phải biểu tình?… Nhưng thôi, kệ nó. Xuân thầm nghĩ, mình phải ráng lo học cái đã. Chắc Vân bận cái gì đó chớ gì? Hơn nữa bây giờ đâu có thời giờ và tiền để về Bến Tre ngó thấy Vân trong ngày rồi lại chạy lên. Hông kịp đâu! Hổng chắc là cô nàng có ở tại tỉnh ngày chủ nhựt hay là về Lương Quới thì kể như trớt quớt?
Những ngày đầu xa Xuân, Vân thấy bồn chồn, nhớ nhung mông
lung. Chiều nào Vân cũng ngó ra trước sân, có con đường qua lại trong xóm, mường
tượng hình bóng Xuân bỗng chốc hiện ra ở đầu đường vô nhà. Những ngày sống với
Xuân ở căn chòi nơi đồng không mông quạnh là những ngày Vân cảm thấy vô cùng
sung sướng. Bây giờ những khi ngồi một mình, nghĩ đến lúc hai đứa hì hục bên
trong đống rơm lúc cơn mưa dông đêm hay là tồng ngồng ở bờ đê buổi trưa khét nắng,
Vân nghe mình mẫy nóng ran. Rồi hai má tự nhiên bừng bừng rờn rợn như có con thằn
lằn chui vô ống quần. Những nụ hôn tới tấp nay còn đâu? Những vòng tay âu yếm
siết chặt nhau như hai con rắn rồng Vân thường thấy ở kèo nhà đã mất rồi! Hạnh
phúc! Sung sướng! Sao trôi đi nhanh quá vậy. Vân thở dài thẫn thờ…
Trong đêm tối, Vân mò mẫm với tay lấy cái khăn rằn móc ở vách
lá, quấn môt vòng quanh cổ, rồi bước vội vàng ra khỏi nhà. Đêm đen mờ mịt. Nàng
hông chịu bó đuốc, nên lúc đầu đi còn khó khăn. Được một lúc quen dần với bóng
đêm, Vân rảo nhanh hơn.
Đêm nay có buổi họp. Tía nói rất quan trọng và kêu Vân nên
đi. Hơn nữa, đây là dịp bãi trường Vân ở nhà nghỉ ăn Tết nên nàng cũng háo hức
đi cho biết. Nghe nói họ nói “chữ” rất hay. Mấy hôm nay, anh ba của Vân, đã dự
một vài cuộc mít tinh, nói họ từ khu 9 về. Họ mặc toàn đồ bà ba đen, quấn khăn
rằn, ăn ở cùng với dân chúng ở Lương Hoà. Anh ba của Vân còn cho biết là họ hay
nói u tê cu, sinh họat, công tác…. Vân thắc mắc hông hiểu u tê cu là gì? Chữ gì
lạ vậy? Vân chưa từng nghe bao giờ? Mãi suy nghĩ, Vân đã đi vô sân nhà chú Chín
Lê- em của Tía Vân- hồi nào mà nàng hông biết. Một cây đèn măng xông treo lủng
lẳng ở đòn ngang nhà, đốt sáng một góc vườn. Có một đám thanh niên, thiếu nữ
nhơn dịp kỳ nghỉ Tết cũng đi dự như Vân. Cả nhà Vân đêm nay cũng có mặt ở đây.
Hông có tiếng nói ồn ào. Chỉ có tiếng xù xì trong đám đông. Họ
trông đợi coi người ta nói cái gì, vì đây là lần đâu tiên sau sáu năm- từ hồi
đình chiến, tập kết- mới có cán bộ Việt Minh về làng nói chuyện. Đột nhiên mọi
người im phăng phắc. Từ trong tối mờ mờ ở giữa nhà bỗng hiện ra một người đàn
ông sồn sồn. Vì lâu ngày hông dùng lược, chỉ lấy hai tay vuốt từ trước ra sau,
nên mái tóc chẻ hai ngay giữa đỉnh đầu. Đôi mắt sâu và sáng. Chân mày rậm rịt.
Dáng đi nghiêm nghị khi bước ra vừa tới cửa.
Đầu tiên, người hay nói “chữ” gởi lời kính chào tất cả người
đến tụ họp đông đủ đêm nay. Sau đó nói đến tình hình những người tập kết chưa
được về là do chánh phủ Diệm đã phản bội bản ký kết đình chiến, hông chịu hiệp
thương. Rồi lại còn kết án chánh quyền Diệm kéo lê máy chém đi cùng khắp miền
Nam lùng giết những người Việt Minh còn ở lại. Những người nầy- theo lời người
hay nói “chữ”-là những người yêu nước chân chính. Họ chịu ở lại, hợp tác với
chánh quyền Diệm, yên ổn lo làm ăn, thế mà chánh quyền ác ôn bắt họ, đày ải họ,
chặt đầu họ. Thế là có phải một chánh quyền tàn ác, man rợ hông? Đám đông- nhứt
là những gia đình có người đi tập kết và những người từng có cảm tình với Việt
Minh- hoan hô và vỗ tay rầm rộ. Người hay nói “chữ” kế tiếp nói về tình hình miền
Bắc rất thịnh vượng sung túc đang tiến dần lên Xã hội Chủ Nghĩa, hông có cảnh
người bóc lột người như ở nông thôn của chế độ Diệm hiện nay. Ông ta lấy thí dụ
về những trường hợp nông dân bị bốc lột, áp bức ở một vài tỉnh tận miền Nam, xa
mút tí tè như Cà Mau, Rạch Giá mà dân hai xã Lương Quới và Lương Hòa có bao giờ
biết được?.
Rồi ông nói Miền Bắc đang được bè bạn bốn phương giúp đỡ, nhứt
là Liên Xô và Trung Quốc, hai quốc gia hùng mạnh của Xã Hội Chủ Nghĩa, thành
trì của giai cấp công nông toàn thế giới… Bác Hồ của chúng ta đang đưa đất nước
chúng ta, trong tương lai, sẽ giàu mạnh như Liên Xô và Trung Quốc. Ông “liên hệ”với
hai nước trên rồi vẽ ra cảnh là phải tiêu diệt chế độ Diệm. Phản đối chế độ Diệm
đã tàn ác với quần chúng!!!
Dân hai xã hả hê với lối diễn đạt của ông Việt Minh, hoan hô
rầm trời. Vân ra về, cảm thấy mình có cái gì đổi mới. Đầu óc cô gái nửa quê nửa
tỉnh hình như bừng bừng nóng. Cô trở nên bạo dạn, nói nhiều và nói uyên thuyên
với bạn bè về những điều mà cô vừa nghe được trên đường trở về nhà…
Kể từ ngày đó, Vân như người mê muội nói luôn miệng với
người trong gia đình và cả bạn bè giống như ông Việt Minh hay nói chữ. Và Vân dần
dần đã quên nghĩ đến Xuân… Những lá thư nồng thắm từ từ thưa dần. Cho đến khi
Vân trở thành một cô “cán bộ” tham gia vào “công tác”, “phong trào” của
“đoàn thể”, “quần chúng” thì những lá thư đó mất hẳn. Tối ngày Vân lo hội họp,
học tập, “đấu tranh bản thân” để mau tiến bộ. Học gương của chị em Mỏ Cày tranh
đấu chống bọn ác ôn Diệm… và thành tích của đội quân tóc dài ngày 26-1-1960, của
phong trào Đồng Khởi tỉnh Bến Tre do bà Nguyễn Thị Định cùng quê với Vân phát động…
Một vài tuần sau, Vân được giao nhiệm vụ hoạt động ở trong giới học sinh tỉnh. Một công việc hông mấy khó khăn vì phần đông học sinh tỉnh Bến Tre có gia đình cảm tình với Việt Minh. Những đứa bạn ở chung nhà trọ đi học-Tân, Lân, Hùng, Trưởng, Lan, Bích, Thuỷ, Ái, Lam, Bạch đều ở dưới quê nên dễ dàng rủ ren. Tụi nó đều có gia đình đi tập kết. Chỉ có những đứa bạn tại tỉnh lỵ là khó, vì cha mẹ là những người làm việc cho nhà nước. Chủ nhựt nào bọn Vân cũng trở về, nay làng này mai làng khác để học tập. Mấy tháng nay, Vân lo mọi việc bù đầu rồi đâu còn thời giờ nghĩ đến Phùng Xuân!!!
Loan nhớ Xuân hung lắm. Mà chết cha mồ tổ, tới bây giờ mà
mình cũng hổng biết tên thiệt của ảnh là gì nữa? Chỉ biết kêu theo tụi con
Khanh và Vân là anh Ba thôi. Bây giờ tụi nó có còn ở trong trỏng nữa đâu? Hôm
đưa Sáu từ nhà thương về, Loan lật đật chạy vào trong đồng, nhưng chòi trống
trơn. Kiếm gặp thằng Tám Trò, nó nói về trển hết rồi. Hỏi thằng ÚtThèm, em nó.
Thằng nầy nhoẻn miệng cười, một hồi lâu mới nói có chị trắng trẻo và anh đầu
tóc bùm sùm, nhưng nay đi đâu mất tiêu rồi! Loan rầu muốn thúi ruột. Chiều chiều
cứ ngó mong ra ngoài cánh đồng sau nhà, bụng dạ cứ bồn chồn, đầu óc trống rổng.
Ôi! sao nhớ ơi là nhớ. Có cái gì làm cho nàng cứ ngủ chập chờn, lúc nào nằm mơ
cũng thấy mình và ảnh quấn quíu nhau giữa cánh đồng. Nàng thấy rờn rợn người !
Loan thấy mình nhợn cơm. Hay là dang nắng nhiều quá nên bị cảm?
Mà tại sao lại là mùi gì tanh tanh như cá thì Loan chịu hổng nổi? Có lúc giữa bữa
cơm, Loan bỏ đũa đi mau ra ngoài đống rơm sau hè, ngồi thở dốc như muốn ói. Rồi
mở chai dầu Nhị Thiên Đường, lấy tay thấm một miếng thoa vô đầu lưỡi. Cũng hông
bớt. Thoa dầu lên hai màng tang cho nó nong nóng coi có đỡ nhợn hơn hôn. Cũng
hông. Rồi tự mình bắt gió, giựt chơn mày, cạo hai bên cổ. Những thứ đó hổng làm
cho Loan bớt nhợn. Tại sao kỳ vậy?
– Má à? Sao cả tháng nay con hông thấy thèm cơm. Nhiều khi ăn
vô còn muốn ói nữa Má, cứ ớn ớn hoài. Con hổng mần được cái gì hết.
– Thì ba cái thuốc cảm mạo cao đơn huờn tán, mầy lấy dộng vô
coi, coi sao. Cái thứ của mầy mạnh như trâu cui mà bịnh cái nổi gì.
– Con uống nhiều rồi má mà sao hổng thấy bớt.
– Vậy sao kỳ vậy?
– Mầy hôi cơm tanh cá?
– Ờ. Con ăn sao hổng thấy ngon mà còn muốn nhờn nhợn ra nữa.
– Mầy có thấy cần cổ mầy hơi giựt giựt với lợi hai đầu vú mầy
hơi căng cứng hông ?
– Sao kỳ quá ! Có Má à!
– Mầy hông có tháng nữa à?
-Tháng nầy con chửa thấy.
– Vậy là chết cha con mụ nội con rồi con ơi! Mầy có ngủ với
thằng nào trong đồng hôn? Đố khỏi mầy có chửa rồi đó nghen mậy! Sáu mầy mà biết
được, chắc ổng giết mầy lắm chớ hông.
– Đâu có má! Má nói bậy hôn hè!
Lời nói của bà Sáu Lục làm Loan sực rùng mình. Chết cha, vậy
là có chửa rồi hả? Sao mà mắn quá vậy? Chỉ có một đêm và một buổi trưa mà sao lẹ
vậy. Rồi Loan bồn chồn, xốn xang. Người như mất hồn. Nhiều khi nhìn vào khoảng
trống thấy hình như mình ở tận đâu đâu. Cũng có nhiều lúc thoảng như nhìn thấy
được hình ảnh Xuân ở gần đâu đây. Sau giờ cơm chiều, lo rửa chén bát và cho heo
ăn xong, Loan thường ra ngồi bên đống rơm sau hè, ngó mông ra ruộng lúa đang trổ
đồng đồng. Mùi lúa thơm như mùi bông chuối xiêm mới trổ. Loan chặc lưỡi: Làm
sao gặp ảnh bây giờ? Tên ảnh hổng biết. Biết đâu mà kiếm? Người như chim trời
cá nước. Mình thì ngu dốt. Một chữ cắn làm hai hổng bể. Tối ngày chỉ biết lui
cui lo nấu nướng, hái rau muống, sắc chuối trộn cám cho heo ăn. Quanh năm suốt
tháng làm quần quật hông hề bước chơn ra khỏi làng. Nói đến đi Bến Tre như một
chuyến đi xa, xa lơ xa lắc, chớ đừng nhắc tới lên SàiGòn. Loan hông mường tượng
Sài Gòn là như thế nào? Nhớ lại lần đầu tiên đi Bến Tre, mình ngơ ngơ ngáo
ngáo, đụng thứ gì cũng ngó, thấy cái gì là lạ cũng đứng lại nhìn làm cho bà Sáu
Lục phải buột miệng nói cái con nầy như là mọi mới ở rừng rú về.
Loan lấy tay xoa xoa cái bụng xem coi lời nói của Má có đúng
hông. Đâu có gì đâu? Chưa thấy bự lên mà? Loan xoa đi xoa lại nhiều lần để chắc
rằng cái bụng của mình hông có lớn. À! dễ quá mà. Loan xé một khúc giây chuối,
đo ngang vòng bụng quanh rún, rồi lấy tay làm dấu, đưa lên miệng nghiến một hồi
cho đứt. Con Én dấu khúc giây vào đầu chuồng heo. Loan tự nói ai mà biết khúc
dây gì ?
– Con Én. Mầy đâu rồi? Mầy lên đây tao biểu? Mầy ngủ với thằng
nào, mầy phải nói với tao. Lúc mầy chăn vịt ở trong đồng phải hôn? Cái ngữ đồ
con hư. Cái thứ đồ đĩ ngựa, mầy nứng l…. lắm hả nên mầy để cho thằng nào nó đ…
mầy. Mầy ngủ với thằng cô hồn nào, mầy nói đi!
Bà Sáu Lục ngồi chân hai tréo trên ghế đẩu giữa nhà đang tru
tréo. Mấy hôm nay bà thấy cái bụng Loan càng ngày càng bự. Từ khi bà bắt đầu
nghi con gái tanh cơm hôi cá, rồi bà bất thình lình vạch ngực con gái mình, thấy
ngực nó to lên. Hai cái núm vú nổi lên chồ vồ. Bà thất kinh thấy cái bụng hơi ển
lên( ?)Bà biết cái con Én mầy hư rồi. Bà mong cô ta lớn lên có chỗ cưới gả
đàng hoàng. Chớ hông như con chị của nó, bỏ nhà đi theo trai mất tiêu, hổng thấy
mặt mày gần cả năm rồi, hông hiểu có con có cái gì chưa. Nhớ con, nhớ cháu làm
bà rầu thúi ruột.
– Quánh cho chết cha mồ tổ nó đi! Đồ con gái hư. Đồ đĩ ngựa!
– Ông làm gì dữ vậy? Ông lấy roi mây quất nó túi bụi, bầm
mình bầm mẫy nó hết trơn.
– Kệ tui. Con tui, tui quánh đâu phải con bà đâu? Đồ con gái
gì đâu mà hư quá mà, mới nức mắt là đã mê trai rồi. Kỳ nầy tui quánh cho nó chết
luôn rồi đem bỏ trôi sông.
– Ông nói vậy chớ đâu có được. Nói với nó nhỏ nhẹ để hỏi nó cặp
với thằng nào. Rồi bắt người ta mang trầu cau tới cưới xin nó đàng hoàng chớ có
gì đâu!
– Sao từ hôm đó tới nay nó hổng nói, để tới bây giờ mang cái
bụng chình ình mà nói cái nổi gì. Ai mà gả thứ cái đồ chửa hoang. Mầy nói hôn?
Bữa nay tao phải tra cho ra lẽ mới được. Mầy ngủ với thằng nào, hả con đĩ chó
kia? Tao đơm cho tàn hết cây chổi chà nầy cho mầy chết luôn. Mầy có nói hôn?
– Trời ơi! Ông ơi! Ông quánh nó như vầy thì nó hư thai, nó đổ
nợ ra nữa cho ông coi.
– Bà dang ra. Để tui dện cho nó cái ghế đẩu nầy cho nó bể đầu
chết luôn. Tức quá nè. Trời ơi!
– Uý mèn đất ơi! Ông nện nó một cái còn gì cái đầu của nó. Đầu
nó chảy máu tùm lum rồi kìa. Én, mầy chạy đi để Sáu mầy quánh một hồi là mầy lết
đi hổng nổi nữa đó.
Từ lúc bị ông Sáu Lục dộng một cái ghế đẩu vào đầu, con Én tá
hỏa tam tinh, la lên chết con rồi Sáu ơi. nàng lật đật chui vào núp dưới đít
bàn. Loan nghe đau trên đầu. Cổ lấy tay sờ lên. Có chất nước nhầy nhầy. Một
dòng máu chảy xuống má. Cô ta hết hồn hết vía, thót chui ra khỏi bàn, chạy te
ra sau hè, lủi vào kẹt hai đống rơm. Đầu bị tét một đường dài. Máu rỉ ra
trộn với tóc xù ngù. Quần áo ướt mồ hôi chèm nhẹp làm cho Loan tủi thân
thêm khóc rấm ra rấm rức. Nhưng được một lát, Loan nín, mở mắt trao tráo
và suy nghĩ: nhứt định phải đi chớ hông thể ở đây được. Mà đi lên Sài Gòn biết
đường đâu mà kiếm được anh Ba ? SàiGòn xa quá, xa lắm. Nàng nghe qua mà
chưa tới bao giờ. Mà lên đó ở với ai? Hổng có bà con họ hàng thân thích, đi
lang thang bị ma cô dụ bắt làm đĩ thì kể như vô rọ. Nghĩ đến đó cổ rùng
mình lo sợ… Nghĩ quanh quẩn, Loan thiếp đi hồi nào hông hay…
Tư Én giật mình thức dậy khi nghe tiếng gà cồ nhốt trong bội gáy canh một. Nàng nhìn lên trời. Triều sao giăng giăng. Làng xóm êm ả. Tư Én rón rén đi vào sau bếp tới chỗ ngủ, nhè nhẹ rút hai bộ quần áo và cái áo sơ mi sọc rằn đen dấu trong đáy giỏ, bước ra khỏi nhà trong đêm tối.
Vừa dò có tên mình trên bảng ghi những thí sinh đậu oral là
Xuân dọt mau về nhà cho má hay và xin phép về Bến Tre. Rồi hông kịp tắm rửa,
chàng dồn lẹ một vài bộ quần áo vô túi xách. Ba chân bốn cẳng Xuân dắt xe ra, đạp
rút đến bến xe. Chỉ còn một chuyến Á Đông cuối cùng về Bến Tre lúc hai giờ chiều…
Khi lơ xe bỏ hàng xuống ở ngã ba Tháp, mặt trời đã nằm sát ngọn dừa bên Cái Cối.
Xuân lật đật thót lên xe còng lưng đạp rút về Lương Quới. Ra khỏi Mã Đá ở Mỹ Lồng
thì trời nhá nhem. Ngó tới ngó lui, Xuân thấy có một mình mình đi cu ky trên
con lộ đá vắng lặng nầy. Nhái bầu, nhái bén ò e trong các ruộng lúa dọc hai bên
đường.
– Vân đâu rồi hả thím?
– Ôi! Mấy hôm rày nó đi họp hành hà rầm!
– Họp gì thím?
– Thì ba cái vụ đoàn điếc gì của nó thím hổng biết nữa. Ban
ngày thì đi công tác. Ban đêm thì họp. Nó mới vừa ra khỏi nhà với Tía nó là mầy
về tới.
– Họp ở đâu lận thím? Thím biết chừng nào Vân mới về hông?
– Đâu ở ngoài vàm. Hổng biết chừng nào nó về. Có khi khuya lơ
khuya lắc, tao ngủ một chập còn chưa thấy hai cha con nó về.
Từ lúc ở Cái Bông về, bà Sáu Xe ngầm nghĩ là hai đứa nầy có
gì rồi. Chớ sao cái thằng nầy săn đón cái con Vân dữ vậy. Về đến nơi là hỏi con
nhỏ đó chớ hổng có hỏi thăm đến hai ông bà. Bà cũng cầu mong như vậy. Hổng biết
hai đứa có cái gì chưa ? Rủi con nhỏ đó nó mà có chửa trước là…
Phùng Xuân mệt quá, ngã lưng xuống bộ ván, vói tay lấy cái gối làm bằng dừa điếc kê vào sau ót. Chất cứng của sơ dừa làm chàng thoáng rùng mình. Xuân nghĩ miên man cái gì là đoàn, cái gì là ban ngày đi công tác rồi ban đêm đi họp. Vân có gì thay đổi rồi sao? Vân có dính líu gì tới những vụ như Chúc đã nói với Xuân hông? Cho đến thiệtt khuya, cây đuốc chập chờn ở đầu góc vườn rồi tiến vào nhà. Ông Sáu Xe đi vô trước, còn Vân đứng lại dụi tắt đoạn cuối của tàu lá dừa đang cháy.
– Ủa! Anh mới về đó hả?
– Về hồi chiều.
– Thôi khuya rồi. Anh đi ngủ đi.
Vân đáp lại có bây nhiêu đó rồi lẳng lặng đi vào buồng. Phùng
Xuân cảm thấy có cái gì đó hụt hẫng. Chàng im đi một lúc lâu, buồn chán nhìn
mông lung ra ngoài vườn dừa tối như mực. Xuân linh cảm có sự chia cắt. Và mầm
móng của sự rạn nứt sắp bắt đầu. Chàng tự hỏi cái gì làm thay đổi và chàng cũng
hông biết trả lời thế nào….
– Uả! Sáng nay em đi nữa hả Vân?
– Ừa. Bữa nay còn họp một bữa cuối cùng để phân công tác.
– Ủa, chú thiếm đi đâu hết rồi.
– Ổng bả đi xuống vườn rồi. Anh ở nhà chơi nhen.
– Vân. Lại đây với anh. Cho anh ôm em, hun em đi.
– Em mắc đi họp rồi. Khi khác đi.
– Khi khác nào nữa? Lại đây
– Hổng được.
Chỉ có mấy tiếng đó thôi, rồi Vân lật đật đội khăn rằn, vói
tay lấy cuốn tập học trò một trăm trang, bước ra khỏi nhà. Xuân ngao ngán nhìn
theo bóng Vân khuất dần dần nơi con đường mòn dọc quanh vườn dừa. Những giây
phút mặn nồng ở cánh đồng Mỹ Nhiên đâu rồi ? Những cái hun nóng hổi đâu rồi?
Chàng tự hỏi nhiều câu hỏi mà hông có lời giải đáp. Thời gian trôi đi, hông còn
có cái gì có thể quay lại được. Tất cả đã hết rồi sao?
Phùng Xuân chán nản nằm xuống bộ ván ngáp một cái thật dài. Loay hoay một lúc chàng ngồi dậy. Một tô canh rau cải trời và một trách cá bống dừa kho khô để sẳn ở trên bàn. Xuân chợt thấy một cuốn tập học trò năm mươi trang nằm kế bên bình trà làm bằng vỏ dừa. Cuốn tập nhầu nát. Cái bìa cứng trở nên mềm xèo, có vẻ như được cuộn đi cuốn lại nhiều lần. Hai bìa góc gập lại như lỗ tai chuột. Chàng mở ra. Những dòng chữ xiên màu tím nắn nót thật đẹp bằng ngòi viết lá tre. Mở đầu là bài hát Quốc Tế ca… những bài hát ca ngợi các nước Cộng Sản, nhứt là Liên Xô: “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa….”Tiếp theo là ca ngợi các lãnh tụ. Phùng Xuân lật tiếp những trang sau, chàng thấy có bài thơ:
So ra tôi bác cũng anh hùng,
Cũng bậc mày râu, cũng kiếm cung.
Bác dẹp giặc Nguyên, thanh kiếm bạc,
Tôi đuổi bọn Pháp, ngọn cờ hồng.
Bác đưa dân tộc khỏi nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng,
Để cho cách mạng chóng thành công.
Xuân thoáng nghĩ. Có phải chàng đã từng đọc được bài thơ bảy chữ tám câu nầy ở đâu hông, nhưng chàng hổng thể nhớ lại. Bài thơ ghi tên tác giả là Bác Hồ. Có phải vậy hôn? Ông ta sánh mình như là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn?…
Khu bán sách cũ dọc theo đường Lê Lợi, đối diện với nhà sách
Khai Trí, ở sát bên nhà vệ sinh công cộng, bao giờ cũng khai mùi nước đái nồng
nặc. Xuân thích la cà ở đây, vì thỉnh thoảng mua được vài cuốn sách cũ giá rất
rẻ. Nơi đây là cả một rừng sách cũ, thượng vàng hạ cám, bày bán dọc theo
vĩa hè. Từ những cuốn bói toán, hồi ký, tiểu thuyết xưa của Lan Khai, truyện của
TCHYA, của Phạm Cao Củng, tập thơ của Anh Thơ đến Phi Lạc Sang Tàu, Thu Hương,
Chị Tập của Hồ Hữu Tường, cuốn Nửa Bồ Xương Khô nhầu nát, giấy vàng ngã màu của
Vũ Anh Khanh, cuốn Tế Điên Hoà Thượng và cuốn Trận Giặc Con Nít v.v… đến những
cuốn sách loại bỏ túi “livre de poche” bằng tiếng Pháp còn mới nguyên và cũ: En
famille, Sans Famille của Hector Malot…. , Graziella của Lamartine và cả La
Mère của Maxim Gorky nữa. Chính nơi đây, Xuân đã mua được cuốn: Trăm Hoa Đua Nở
Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí, và cuốn Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn
Kiên Trung.
Nhà sách Khai Trí gần ở góc đường Lê Lợi và Công Lý.Đó là một
căn phố nhỏ thôi, nhưng sách chất đầy nghẹt. Người ta ra vô nườm nượp. Họ mua
nhiều lắm. Chắc chỉ có Phùng Xuân là coi cọp? Ông chủ và các cô bán hàng ở đây
xem ra rất dễ dãi, chẳng bao giờ ngó ngàng tới những khách hàng hay mở những cuốn
sách xem tới xem lui hàng giờ. Xuân rất thích vào đây trong những ngày cuối tuần
để xem cọp tạp chí nước ngoài và những cuốn La vingt-cinquième heure của
Constantine Virgil Gheorgiu, cuốn Le zéro et l’infinie của Arthur Koestler. Những
cuốn nầy thì dễ gì tìm được ở những khu chợ bán sách cũ. Tiệm sách Lê Phan cũng
hổng có, mà ở Xuân Thu thì mắc lắm. Xuân đành tìm một kẹt xó xỉnh nào đó của
Khai Trí đọc cọp ngấu nghiến từng trang từ ngày nầy sang ngày khác. Với vốn liếng
tiếng Pháp thấp kém, chàng cũng hiểu được một vài phần ý nghĩa trong cuốn
sách của Arthur Koestler. Cộng thêm những cuốn sách của Hoàng Văn Chí và Nguyễn
Mạnh Côn giúp Xuân có chút ít ý niệm về một thế giới Cộng Sản.
Thư viện Gia Long im ắng khuất mình dưới những hàng me già,
hông có vẻ gì đồ sộ, đối diện với Bộ Quốc Phòng, thường hay mở cửa đến tám hay
chín giờ đêm. Phòng ốc nhỏ nhắn. Bàn ghế cũ kỹ mù mờ dưới những bóng đèn
tròn hông đến 100watt. Phần đông khách vào đọc là sinh viên, đến ghi danh
lấy sách rồi tìm một góc nào đó im lặng làm việc. Hông một lời nói. Có phải nơi
đây Xuân đã có một lần đọc đươc bài thơ trên kia hôn? Chàng hông nhớ nữa. Bao
nhiêu chữ nghĩa trùng trùng điệp điệp làm cho lủy ( từ tiếng Pháp:lui, nó )
trở nên mù mờ. Hay là chàng đã đọc ở đâu?Trong những cuốn tập bỏ vương vãi đâu
đó của những gia đình có người tập kết năm 1954? À. Có thể là đúng rồi. Dì Tám ở
Cát Lỡ, Giồng Trôm, có người con là anh Hai Các theo Việt Minh. Ảnh đi tập kết.
Và chắc là Đẹp- Thanh Tùng- em anh Hai Các, người con gái bằng tuổi Xuân, có
thân hình nẩy nở trước tuổi dậy thì, cho Xuân mượn đọc những bài thơ của Tố Hữu.
Nhưng cặp mắt liếc tình tứ của Đẹp đã ghi trong ký ức của Xuân nhiều hơn là những
vần thơ đó.
Phùng Xuân hông màng coi hết cuốn tập. Chàng quăng trở lại
trên bàn. Xuân cuốc bộ ra lộ cái-con đường làng chạy từ chợ Lương Quới cho đến
bến đò Thủ Ngữ ( Lương Hòa )- đi dọc theo vườn Cô Xanh, thủng thỉnh lần ra bến
đò. Vắng teo. Cả một cây cầu nhỏ cho ghe cặp cũng hổng có. Chỉ có khúc thân dừa
gác sơ lên bờ. Nước đang lớn. Gió thổi mạnh. Tiếng sóng nhỏ vỗ lách tách vào
đám lá dừa nước. Nhiều dề lục bình lững lờ trôi, mang theo những bập dừa hì hụp
trong dòng nước. Đây là con sông BếnTre, một nhánh của sông Hàm Luông, bắt đầu
từ gần bắc Hàm Luông chạy dài cho đến vùng Giồng Trôm. Từ sông Bến
Tre tỏa ra nhiều rạch, xẻo, mương chằng chịt, len lỏi nơi những vườn dừa, vườn
cây ăn trái, cánh đồng ruộng như một chưn rít ăn thông với sông cái. Người
ta có thể dùng những xuồng ba lá, ghe ba lá hai kèm, năm lá hai kèm, ghe bầu đi
xuyên ngang từ vùng Mỏ Cày qua Chợ Gạo ( Gò Công ). Nếu hông phải là người lớn
lên với sông nước, với đồng ruộng, với vườn tược khó có thể cảm nhận được mùi
bùn pha lẫn trong dòng nước đục ngầu chảy khắp hang cùn ngõ ngách.
Nước đầy. Con sông nổi cơn. Những đợt sóng bạc đầu trắng xóa
bủa cùng khắp. Hình như giữa dòng nước có chiếc ghe năm lá hai kèm nhảy sóng nhấp
nhô. Một cô gái bé nhỏ độ mười tuổi bơi lái, đang ra sức chống đỡ con thuyền
cho thằng em trai ngồi mũi, thò rổ vào những dề lục bình vớt cá bống trứng. Trời
nắng chang. Thằng bé dang tấm lưng trần trùng trục. Da đen nhánh, nhưng nếu lấy
tay cò cọ lên sẽ thấy mốc cời vì thằng nhỏ có bao giờ tắm sạch đâu. Hô đi tắm
là nhảy một cái ùm xuống mương, xẻo, rạch. Lặn hụp, lặn hụp, quậy đùng đùng dậy
bùn, đục nước cho đã. Lấy tay vò vò đầu. Xong rồi leo lên bờ đứng cho khô. Thằng
bé có bao giờ biết cục xà bông, cái khăn là gì đâu. Phù sa sông nước qua bao
năm tháng đắp thêm một lớp trên da đen xì. Ơ kìa, bây giờ chàng nhận ra hình ảnh
hai chị em chàng của hơn mười năm về trước…
Buổi tối Vân rủ Xuân đi dự mít tinh ở gần búng ông Khả. Ánh
đuốc chập chờn khắp các đường mòn trong vườn dừa. Người ta nói chuyện râm rang.
Bên kia rạch Lương Quới, nhiều người kêu ơi ới để bên nầy bơi ghe qua rước họ.
Đoàn người có vẻ háo hức hơn là đi coi chiếu bóng ngoài chợ. Khi gần đến chỗ
mít tinh, Vân dắt Xuân len lỏi trong bóng đêm mờ, lần mò đến một cây lêkima gần
sát sau nhà.
– Anh đứng đây nhen, coi mít tinh. Khi nào xong, em tới dẫn
anh dìa.
– Em đi đâu?
Hông kịp nói một lời, Vân lủi vào trong đêm tối. Xuân ngỡ
ngàng, hụt hẫng. Y ta cảm thấy mình bị bỏ rơi. Người ta tới càng lúc càng đông.
Trước sân nhà, ba cái đèn măng xông bôm hết cỡ, kêu khè khè, tỏa ánh sáng ra đến
tận bờ dừa. Xuân đi vô ít bước nữa, đứng sau bầy con gái đang nói cười tíu ta
tíu tít. Đám đông chợt im lặng khi có người đàn bà mặc bộ đồ bà ba ra đúng giữa
hiên nhà nói huyên thiên mà Xuân hông nghe rõ. Sau đó là tiếng vỗ tay rần rần.
Khi tiếng vỗ tay vừa dứt, một người đàn ông cỡ khoảng ba mươi tuổi ra đứng nói
có vẻ hùng hồn, y dơ tay lên dơ tay xuống liên tục. Phùng Xuân loáng thoáng
nghe những tiếng: bè lũ Mỹ, Diệm; đế quốc xâm lược… Mỗi lần như thế, Xuân nghe
tiếng hô đả đảo vang rền. Đám đông lại im lặng. Bất ngờ, Xuân thấy Vân hiện ra
giữa hàng hiên. Hình Vân hiện rõ nét trước cái phông đen phía trong nhà. Gương
mặt nàng tươi tắn, rạng rỡ đầy tự tin. Xuân thấy môi nàng mấp máy liên tục
nhưng hông nghe được gì vì tiếng vỗ tay liên tu và tiếng la hoan hô đả đảo
rùm trời…
Sau đó là màn nhảy múa. Một đám thanh niên và thiếu nữ, có lẽ
là những học sinh trung học ở trường Tân Dân hoặc trường Trung Học Công Lập Kiến
Hòa, bắt đầu vừa nhảy vừa ca: Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa…… Họ dùng tàu
cau khô kết thành hình những con ngựa. Ngọn tàu cau phất pha phất phới như những
cái đuôi ngựa, chạy vòng khắp chung quanh sân nhà.Có như vậy mà họ hừng chí la
hát vang trời. Được môt lát thì cũng có một mớ đàn ông đàn bà nhập cuộc. Thế là
đám đông bên ngoài cũng hát theo, vỗ tay theo nhịp hát rần rần cả khu vườn. Chỉ
có một bài hát mà hát đi hát lại cả chục lần. Đám đông bị ngây hình như điên. Một
vài cái đèn măng xông được đem xuống, bôm thêm. Ánh sáng lại bừng lên. Thế là họ
cứ ca đi ca lại hoài mà hổng chán cho đến khi hai cái đèn tắt phụt. Bóng tối
hình như làm chùn khí thế. Đám đông sực tỉnh, hết ngây. Người ta lại nói chuyện
ồn ào được một chút rồi lũ lượt ra về. Xuân trở lui lại gốc cây lêkima, đợi
Vân rất lâu. Bóng cô nàng lờ mờ đến.
– Có vui hôn anh?
– Ơ….
– Vui quá hé! Thôi mình đi về.
– Mình hông kiếm chỗ nào ngồi nói chuyện như trước được hả
em?
– Hổng được đâu?
– Sao vậy?
– Ơ!
Hông có đuốc. Trăng cuối tháng nhô lên gần đầu ngọn dừa. Lối
mòn lỗ chỗ đốm trăng suông. Khi đi ngang qua một đám chuối, Xuân vụt ôm Vân,
lôi vào sau lùm, hun tới ta tới tấp. Hổng kịp phản ứng, Vân té nằm xuống. Cô
nàng chưng hửng. Bàn tay xừ lủy tung hoành, xông xáo mọ mậy và rồi mặc sức quậy
tanh bành từ trên xuống dưới. Lủy tần mần, tưng tiu một hồi lâu…Rồi như nai chịu
đèn… Ẻn ( từ tiếng Pháp elle: nó ) im rẻ rè re… Thình lình, Vân
hất mạnh Xuân ra, kéo quần lên và đứng dậy.
– Hông được đâu anh.
– Sao hông? Chớ mình đã hổng từng làm như vậy sao? Làm bộ
hoài.
– Bây giờ thì khác rồi. Hủ hóa lắm. Hổng làm như vậy được nữa
đâu!
– Cái gì? Hủ hóa là sao? Chữ nghĩa gì mới lạ vậy?
– Em là cán bộ gương mẫu, hông được hủ hóa.
– Hồi nào vậy em?
– Ơ. Nhưng mà em khác anh. Phải đợi tổ chức cho phép.
– Anh khác em ở chỗ nào? Tổ chức nào? Em có nói với họ chuyện
của tụi mình chưa?
– Chưa. Em còn đang phấn đấu.Em chưa tiện nói.
– Thế thì những ngày tháng chăn vịt ở đồng Mỹ Nhiên kể như hổng
có, phải hôn? Cái gì làm cho em thay đổi mau quá vậy?
– Ơ! Anh hãy đợi đi
Tiếng cười nói từ xa dội lại. Và một tốp người hiện ra. Vân vội
ngoe nguẩy te te bước đi, sợ đám người trông thấy, hông để chàng nói thêm một lời
nào nữa. Xuân vụt hiểu có cái gì chia cách hai đứa. Chàng hông đoán nổi ở phía
bên kia họ làm cái gì để Vân thay đổi nhanh chóng như vậy.
Những người Việt Minh miền Nam? Họ có khác với những người Việt
Minh Cộng Sản ở miền Bắc hôn? Thật ra với sự hiểu biết quá ít ỏi và nông cạn
hông làm sao Xuân hiểu rõ vấn đề nầy. Một vài cuốn sách của Hoàng Văn Chí, Nguyễn
Kiên Trung và vài cuốn sách tiếng Pháp đọc lóm vội vàng làm sao cho Xuân có thể
nhận định được rõ ràng Cộng Sản ngoài Bắc và Việt Minh trong Nam? Thời Xuân mới
lớn lên xem được hai cuốn phim Ánh Sáng Miền Nam và Chúng tôi Muốn Sống thì chỉ
để giải trí vậy thôi, chớ hông thể hiểu rõ tại sao người miền Bắc trốn đi như vậy.
Ngay lúc đi học, các thằng bạn Rau Muống chẳng bao giờ nhắc đến những điều gì xảy
ra ở miền Bắc theo như những cuốn phim mô tả. Tụi nó hông sống trong vùng đó
hay là cha mẹ hổng nói lại? Nhà trường cũng hông dạy.Hổng có giờ chính trị
trong chương trình giáo dục và sách vở thì quá ít để tìm hiểu.
Đâu có phải những giờ Huấn Luyện Quân Sự Học Đường ở năm lớp
Đệ Tam hun đúc được ý chí và tinh thần chống Cộng Sản miền Bắc? Đó là thời
gian học sinh mặc những bộ đồ kaki vàng, mang giầy Bata trắng toát với bê rê
màu cứt ngựa, tập hợp trong dãy nhà rộng lớn ở đường Nguyễn Hoàng.Họ nghe giảng
viên nói thao thao mà chẳng hiểu gì. Kết cuộc là được bắn ba viên đạn ở trường
bắn Thủ Đức.
Phùng Xuân hông buồn nói thêm một tiếng, lầm lũi lần bước
theo con đường gập ghềnh loang lỗ trăng suông, lẽo đẽo theo sau Vân. Lại mất một
người yêu nữa rồi. Vân hổng thèm hỏi mình có thi đậu hay hông và tại sao anh lại
về lúc nầy? Hông để một chút ít thời giờ hai đứa ở bên nhau? Quên mất tất cả những
gì toan tính ở cánh đồng hoang. Sao lại mau thế? Khanh gắn bó lâu dài, rồi chợt
mất. Loan thoáng qua như một bóng mây. Và Vân, sao lại xa cách một cách vô lối
như vậy?
Xuân hông vô nhà. Chàng đứng dựa thân dừa, chán nản nhìn vào
khoảng vườn mù mịt hông biết đến bao lâu cho đến khi nhận ra trăng đã lặn mất rồi.
Chắc đã khuya lắm. Xuân ngồi bệt xuống gốc dừa thiu thỉu ngủ, hông buồn đuổi muỗi
vo ve. Chàng bừng tỉnh khi có tiếng người nói chuyện lao xao và vài ánh đuốc chập
chờn trước đường mòn. Xuân đứng dậy, vuốt mặt, vươn vai vài cái rồi vô sân lấy
chiếc xe đạp, mầy mò dắt đi trong đêm tối.
Trời hửng sáng khi Xuân vừa ăn xong gói bánh tằm và mấy lá
bánh thúi địt xám xịt chan nước cốt dừa. Chàng lật đật phóng xe đi về hướng Giồng
Trôm. Đến ngã ba Sơn Đốc thì trời sáng bửng. Giồng Tre kia rồi! Chàng hy vọng gặp
lại Loan. Mồ hôi mồ kê chảy ướt cả áo. Xuân mở bung nút áo, phạch ngực cho
thoáng mát. Xuân định vào xóm hỏi nhà Loan. Khát nước quá, chàng tấp vào một
quán nước đầu chợ.
– Cậu người ở đâu mới tới hả?
– Dạ, cháu ở Lương Quới xuống.
– Xuống đây kiếm ai vậy cậu?
Xuân chưa kịp trả lời thì nghe bà chủ quán nói với bà già
nhai trầu bỏm bẻm ngồi bên cạnh.
– Ờ! Ờ! cái con nhỏ đó! Con Tư Én chớ gì? Em của con Ba Lựa,
con ông Sáu Lục ở xóm trong.
– Con nhỏ đó sao rồi?
– Nghe nói cái con đó chửa hoang với thằng nào hổng biết, lúc
đi chăn vịt ở trong đồng. Ổng đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Bỏ nhà đi
lâu rồi.
– Đi đâu?
– Ai biết? Bà hỏi ngất ngơ hôn!
Xuân hoảng hồn, vội quay mặt ra chỗ khác, rồi đứng dậy lật đật
trả tiền nước, dắt xe ra đường, đạp ngược về Bến Tre.
Loan đã đi đâu? Bụng mang dạ chửa, dốt đặc cán mai, xách cái
mình đó đi đâu bây giờ? Biết tìm em ở đâu bây giờ? Hở Loan ơi ?Và người con của
tôi, người con của tuổi thanh xuân bồng bột, người con kết tinh giữa đồng hoang
mờ ánh trăng suông. Bây giờ con với mẹ con ra sao rồi?
Qua khỏi Giồng Trôm, đến Cát Lỡ, Xuân mệt mỏi tấp vào bên vệ đường dưới bóng mát của đám dúi và cây cần thăng cao nghều nghệu. Chàng nằm bẹp xuống bãi cỏ, kế bên bụi cối xay( Cây dại, trái giống như cối xay- Abatilon indicium)), nhìn lên trời cao xanh tắp. Bên kia vườn, phía ĐôngNgô, vọng tiếng cu đất cườm bổ tư buồn não nuột. Cuộc đời sao nhiều nỗi đắng, the như trái cần thăng mà ít ngọt ngào như trái dúi? Chàng thẩn thờ ngắt lấy vài trái cỏ nổ( Cỏ nổ, trái nhỏ thon dài, chín có màu đen, chạm nước nổ ti tách.(Ruellia tuberosa L.) chín đen bỏ vào miệng, lắng nghe từng tiếng tách tách vang vang trong cổ họng.
Kể từ năm 1954 đến năm 1960, dân miền Nam được hưởng cảnh
thái bình, sung túc dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù cho có một biến động:
ngày 22 tháng 02 năm 1957, Hà Minh Trí ám sát Tổng Thống nhơn dịp ông đi kinh
lý ở vùng Cao Nguyên Trung Phần. Xuân nghĩ chắc cơ quan tình báo cũng biết ai
chủ mưu của sự ám sát đó, nhưng báo chí lại loan tin theo một cách khác. Những
lời bàn tán của người kháng chiến trở về thành, còn mơ ước ở một thời xưa cũ cộng
thêm bất bình của những đảng phái chính trị bị chánh quyền cấm đoán hông cho hoạt
động là mầm mống gây nên những xáo trộn về sau nầy? Thực ra phần đông dân chúng
miền Nam còn ngây thơ, vẫn còn tin tưởng và có nhiều cảm tình với Việt Minh. Lại
thêm một số lớp người đi kháng chiến chống Pháp thời Việ tMinh, hông hiểu gì về
Cộng Sản, vẫn còn hoang tưởng sùng bái Hồ Chí Minh…. Có thể nói người miền Nam
“làm chính trị theo cảm tính” hông?
Vào những năm đó, báo chí chỉ in ở Sài Gòn. Ở tỉnh hông có
nhà in, ngay cả ngoài miền Trung cũng vậy. Báo cho ngày mai là ra chiều ngày
hôm trước. Báo chuyển theo đường xe đò phân phối cùng khắp cả nước, phần đông
là về tới quận và các làng sát tỉnh lộ. Mà những làng nầy chưa chắc có sạp nhựt
trình bán đủ các loại báo ở thủ đô. Thông tin còn yếu kém. Ngay ở làng dọc đường
cái cũng hông có thùng thư. Muốn gởi thư, muốn mua con cò, muốn đánh giây thép
phải lên tận nhà giây thép tỉnh. Mà ít có người dân làng nào biết những thứ đó.
Một cái giây thép về đến làng là cả làng quýnh quáng lên. Làm sao mà đọc được
cái giây thép viết bằng thứ chữ quốc ngữ hông dấu của bưu điện? Phần đông là những
người có chút học vấn, ưa theo dõi thời sự, dặn các lơ xe đò mang loại báo mà họ
thích đọc. Các xe đò chạy ngang làng theo đúng giờ trong ngày. Các vùng gần
Sài Gòn, nhựt trình tới sớm hơn các vùng xa.
Xe đò Á Đông, chạy tuyến đường Sài Gòn – Ba Tri tới làng
Lương Quới vào khoảng xế trưa, bỏ hai, ba tờ nhựt trình cho Tư Chà, Quản Cây,
Tư Chúc, Hai Ngươn…. Buổi xế chiều hôm đó quanh bàn nước trà thế nào cũng có
các chức sắc trong làng như ông Cả Năng, ông Thôn Hai, ông thôn Bơ… hoặc là những
người có “máu mặt” ngồi nhâm nhi hết bình trà nầy tới bình trà khác, bàn chuyện
thời sự theo các tin sốt dẽo đăng trong báo. Các làng mạc xa xôi tư niên hông
thấy mặt được tờ nhựt trình. Và tất nhiên mù tịt về tình hình đất nước. Thông
tin yếu kém như thế thì có lợi cho ViệtMinh. Họ tuyên truyền bằng cách rỉ tai,
hoặc là mít tinh ở các làng hẻo lánh, xa cách các trục lộ giao thông chính.
Trong lúc này Vân- bây giờ có bí danh là Sáu Trân-đã biết cách in những tờ truyền đơn, khẩu hiệu bằng bột gạo hoặc bằng rau câu(rong biển) phân phát cho dân trong làng. Người ta dùng loại ngòi viết lá tre- nếu cần tựa to thì ngòi viết rông- và mực tím pha thật đậm viết lên tờ giấy trắng. Họ nhồi bột gạo đến đúng độ dẽo, cho vào khuôn, xong úp bản chính lên khuôn bột. Bằng cách nầy, mỗi ngày Sáu Trân in cũng được mấy trăm tờ truyền đơn.Họ cũng biết dùng thuốc tím(permanganat kali) và chanh để xoá dấu vết, làm những giấy tờ giả…
Sau khi miền Nam được vài năm an bình: từ năm 1955 đến năm
1960 thì miền Bắc quyết định dùng võ lực tấn công miền Nam theo nghị quyết của
hội nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản ngày 13-5-1959, cho nên những cán bộ nòng cốt
của Cộng Sản còn cài ở miền Nam bắt đầu hoạt động trở lại. Việc đầu tiên là du
kích quậy phá khắp nơi. Tình hình trở nên mất an ninh. Chiến tranh bắt đầu!
Từ đầu năm 1960 có nhiều biến động hơn. Ngày 17 tháng giêng
năm 1960, đội quân “ tóc dà i” do bà Nguyễn Thị Định khởi động, có sự giựt dây
của nhóm cán bộ Việt Minh còn cài lại, biểu tình ở quận Mỏ Cày, Bến Tre. Ngày
26 tháng giêng năm 1960, quân đội Bảy Môn do ViệtMinh kích động đánh chiếm đồn
Trảng Sụp (TuaHai) ở Tây Ninh. Ngày 26 tháng tư năm 1960, tuyên cáo của nhóm
Caravelle (nhóm Tự DoTiế nBộ) gồm 18 thành viên làm xáo trộn chính trường miền
Nam.
Những sự kiện nêu trên hông làm cho người bình dân Sài Gòn lo lắng. Họ vẫn sống bình thản vì thông tin yếu kém như đã nói ở trên. Hông phải người dân bình thường nào ở thủ đô đều cũng đọc được báo. Nhựt trình thời đó chưa nở rộ, có thể in ấn còn khó khăn, dân còn nghèo hay trình độ dân trí còn thấp kém? Chỉ có một hay hai đài phát thanh ở Thủ Đô Sài Gòn thì làm sao dân chúng biết được trọn vẹn tin tức. Radio trasitor thì rất hiếm. Không hiểu Đài phát tuyến ở Quán Tre truyền đi có mạnh không? Dân làng hẻo lánh xa Sài Gòn như vùng quê Châu Phú, Châu Hòa chỉ có một vài người biết dùng cây tre cao chót vót làm ăng ten. Một nguyên nhân nữa là chế độ kiểm duyệt của chính phủ? Điều nầy nhiều khi làm cho tin tức trở nên sai lệch trong chiều hướng có lợi cho nhà nước…
Bà Ba Đầm đang trên đường từ chợ về nhà, bưng rổ cá linh vừa
mới mua ở chợ chồm hổm đầu xóm. Bà hông nghe được tiếng nổ, nhưng thấy đau nhói
nơi xương bắp chuối. Bà khụy xuống, hông đi được. Bà vạch ống quần lên khỏi đầu
gối. Một dòng máu tuôn ra. Mọi người la lối om sòm. Trong khi đó, Xuân nghe tiếng
súng nổ dòn tan từng chập ở đài phát thanh, cuối đường Phan Đình Phùng. Bà
HaiRiệm chạy ngang nhà la hoảng lên:” Cậu Xuân ơi! Mẹ cậu bị thương rồi kìa ”.
Xuân hoảng hốt, vội bước nhanh ra khỏi nhà. Anh bạn Nguyễn Trấn cõng bà Ba trên
lưng chạy dọc con đường mòn tuốt ra dốc cầu Thị Nghè, để mẹ lên xe xích lô đưa
đi nhà thương. Ngày hôm sau đó, trong lúc đợi y tá băng bó vết thương cho
mẹ, Xuân mới nghe tin có đảo chánh ngày hôm qua, được đồn rùm qua miệng mọi người.
Chàng đi ra ngoài cổng bịnh viện Nguyễn Văn Học, liếc trộm vào những hàng chữ lớn
trên sạp báo. Hóa ra có một nhóm người gồm Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Trung
Tá Vương Văn Đông, Trung Tá Nguyễn Thiệu Hồng, Luật sư Hoàng
Cơ Thụy và Bác sĩ Phan Quang Đán xúm nhau đảo chánh hôm 11 tháng 11 năm 1960…
Đâu là nguyên nhân bảng tuyên cáo của nhóm Caravelle ngày 26 tháng 4 năm 1960 và của nhóm người gây binh biến ngày 11 tháng 11 năm 1960?Có phải chánh quyền Ngô Đình Diệm tóm thâu tất cả quyền lực vào trong tay của họ? Và đưa đến dẹp tan mọi đảng phái chính trị?Hệ lụy là bắt bớ, giam cầm và thủ tiêu rất nhiều người? Vụ mất tích của người thầy cũ, Tạ Chí Diệp, ở cầu Tân An có phải là một trong những vụ thủ tiêu đó hôn?Hông lẽ tầng lớp trí thức họ chỉ phản kháng suông?Cái gì cũng có nguyên nhân của nó.Có bàn tay của ai? VC hay Mẽo?Và mầm mống bất mãn ngấm ngầm lan rộng.
Từ ngày có người con gái đầu lòng vào làm trong hảng dệt may ở
Thị Nghè khoảng năm 1955, bà Bảy Mi đem cả gia đình lên Sài Gòn. Mới đầu họ mướn
một chái nhà nhỏ ọp ẹp bên cạnh ruộng dâu. Sau đó, dành dụm được chút đỉnh tiền,
gia đình cất được căn nhà sàn ở đám ruộng sau Ty Canh Nông.
Cánh đồng ngày gặt còn ngát mùi lúa chín, chạy dài từ con rạch
Thị Nghè lên tận sau Viện Dưỡng Lão và ngã ba Hàng Xanh, với nhiều con xẻo nhỏ
ngoằn ngoèo đầy cá tép. Đàn cò trắng lượn lờ ngày nắng oi ả. Tiếng chim trích,
cúm núm tắc tục vào buổi hoàng hôn. Và nước lớn, ròng ngày hai buổi vẫn còn
trong ngát với những bầy cá đối đớp bọt nước .Bọn Xuân ngày nào cũng bơi lội đì
đùng trong những con xẻo nhỏ nầy sau những trận đá banh nơi khoảng đất đỏ rộng
rãi để chuẩn bị làm xa lộ Sài Gòn-Biên Hoà. Và con đường đất nhỏ ngang qua trại
gà Thanh Tâm đầy sình lầy sau cơn mưa.
Họ còn nghèo lắm. Thường thường ngày hai bữa cơm vẫn là rau muống luộc, khi thì chấm chao, chấm hột vịt dầm nước mắm, khi thì chấm cá mòi Ma Rốc. Những năm đó, một bịt mì gói của Nhựt là niềm mơ ước xa vời vợi. Với số đồng lương ít ỏi của người con lớn, người mẹ tằn tiện cho đủ nuôi sống gia đình thì làm sao có tiền mua báo hằng ngày để đọc. Ngay cả mướn báo cũng hông có nữa. Đôi ngày, Xuân đành rề rề ở các sạp báo, liếc trộm để đọc cọp nhựt trình. Xuân biết rất trễ tin nhóm người đảo chánh. Radio transitor còn mắc và ít có gia đình có máy phát thanh điện để nghe tin tức hàng ngày. Cả khu nầy làm gì có điện. Đêm đêm Xuân phải chong đèn dầu để học bài. Cả xóm Xuân ở, lẫn lộn với một số người miền Bắc di cư năm 1954, có được một vài cái radio. Họ biết được tin tức ở đâu? Chỉ có một cách duy nhứt là đọc nhựt trình. Người khá giả, công chức thì mua báo hằng ngày. Còn đọc báo của người nghèo, dân xích lô, xe ba gác, học sinh nghèo…. là đọc báo cọp, hoặc báo mướn.
– Ê Sơn! Báo của tụi mình tính chừng nào ra vậy mậy?
– Không biết chừng nào nữa? Còn đợi mầy và Tô Trần Nguyễn lo
chạy xin mấy cái vụ quảng cáo. Mầy nghĩ coi tụi mình không có tiền, đi mượn
không ai cho hết thì ra tờ báo rất gian nan.
– Tao biết. Mấy hôm rày tao và thằng cận thị nầy (Tô Trần
Nguyễn, Nguyễn Khắc Thiệu) đi bộ muốn rã giò đây mầy ơi! Lội vòng vòng chợ Sài
Gòn và gần hết con đường Trần Hưng Đạo mà chẳng có được mấy nơi họ chịu. Hai thằng
diện bộ áo sơ mi, thắt cra vát bát phố dưới nắng, tháo mồ hôi hột thiếu đều muốn
đi tắm luôn.
– Ráng đi. Tờ Thế Kỷ Hai Mươi của bọn mình có bài vở đầy đủ rồi.
Giấy phép cũng đã có. Bây giờ chỉ cần tiền nữa thôi.
– Thì Sơn, mầy nói với thằng Kiều Công Nhịn, làm ở nhà in
Nguyễn Bá đường Phạm Ngũ Lão, cho mình nợ tiền in đi. Khi nào ra báo bán được
thì lấy tiền trả lại.
– Rủi báo bán không chạy thì lấy tiền đâu ra trả. Tụi bây phải
xúm lại năn nỉ nó. Nhưng chắc gì?Mình không trả thì nó nai lưng ra trả à?
– Thì mầy gánh hết. Mầy là chủ bút kiêm chủ nhiệm mà. Thằng
Tô Trần Nguyễn và tao chỉ là thư ký và thủ quỉ thôi. Mầy lấy bút hiệu là Sao
Trên Rừng thì mầy chắc có nhiều sao và nhiều tiền lắm mà.
– Có cái con mẹ họ! Tụi mình chỉ là một nhóm học sinh vừa đậu
Tú Tài xong, mon men vào ngưỡng cửa Đại Học, có một chút ít kiến thức, muốn tìm
một con đường khác để đi, làm sao bì lại nhóm Sáng Tạo và Bách Khoa là bực thầy
mình.
– Ê Thiệu! (Tô Trần Nguyễn), mầy coi cái lỗ mũi lân và cặp
môi của thằng Sơn cà. Nó nói một hơi là chảy hết nước miếng ra ngoài bây giờ.
– Thì nó bao giờ chẳng vậy, phải không Xuân? Nó nói là xì bọt
mép và cặp mắt lờ đờ, ra vẻ như là một thi sĩ nổi tiếng tới nơi. Ê, sao mầy lại
lấy bút hiệu là Sao Trên Rừng vậy mậy?
– Nó hổng nói đâu. Bà già tao hỏi nó, nó chỉ làm thinh nuốt
cuộn bánh xèo. Bả vỗ đầu nó và nói thôi cháu lấy tên khác đi. Nó lờ hai cặp mắt
ra hỏi, tên gì bác? Má tao mới nói giỡn: Sao Trong ….. Nó ngẩn người một
thoáng, mở to hai con mắt rồi tiếp tục ăn hết cái bánh xèo.
Phùng Xuân thoảng nhớ lại. Hông hiểu nó gặp Nguyễn Đức Sơn từ
lúc nào ở cái xóm Canh Nông Thị Nghè nghèo nàn nầy, bàn chuyện văn nghệ, văn gừng,
ca hát… Sơn học ở Đại Học Văn Khoa. Thằng Thiệu, học ở SPCN, lúc nào cũng hát
nhạc Đoàn Chuẩn. Nó mở miệng là: “Tà áo xanh là màu anh trót yêu…”Buổi họp mặt,
cùng với các người bạn gái là học sinh trường Gia Long, thường khi là dĩa trái
cóc non với muối ớt. Sơn nhập bọn bàn với tụi nầy định ra tờ nguyệt san: Thế Kỷ
Hai Mươi.
Xuân và Sơn đều là hai thằng rách túi, thường khi ghé ăn cơm
bữa ở chợ Thị Nghè. Cái thằng lạ chưa! Nó chỉ thích ăn có mỗi món tàu hủ dồn thịt.
Ở cái thời một thi sĩ chưa nổi tiếng thì nhà thơ thường nghèo mạt rệp. Hôm nào
Xuân rảnh thì hay đèo nó đi đây đi đó, còn hông thì nó đi xe buýt. Có khi nó đi
đâu mất tiêu hai ba bữa rồi thấy nó ló mặt về, trông vẻ bơ phờ, chui vào một
góc nhà của thằng Nhịn, ngủ một giấc đến chiều chưa chịu thức dậy. Đến tối thì
nó than đói bụng. Xuân phải lục nồi bới cho nó tô cơm nguội, chan vô chút
cá kho rồi đem tới cho nó. Xuân nhìn Sơn ăn ngon lành mà thương cho bạn. Quê nó
đâu tận ngoài Phan Thiết hay Phan Rang gì đó. Nó có cái giọng hơi pha sài gòn.
Xuân thích nhứt lúc nó nói chuyện. Cái môi thười lười ra và nước miếng xì thành
bọt tràn hai bên mép.
Tụi bạn bá vơ của Xuân thường tụ về nhà Kiều Công Nhịn. Toàn là một lũ học sinh chân ướt chân ráo lên Đại Hoc. Vậy mà đòi làm báo? Có máu văn nghệ hông? Xuân cũng hông biết nữa? Ai cũng có một bài thơ: Hồng Nhung, Hồng Lệ, Trois, Thanh Điệp, Kim Quang, Túy Em…. Lê Thạch Tâm (em đạo diễn Lê Dân)… Bài nào cũng na ná giọng TTKH, hơi hướm của nhóm SángTạo, làm ông chủ bút hông biết đường nào mà lần. Còn Xuân thì biết làm báo biếc gì đâu. Hồi còn học đệ lục, đệ ngũ, chàng chỉ theo các thằng bạn làm mấy tờ bích báo hàng tháng.
– Ê! Sơn. Mầy liệu báo của tụi mình có sống dai hông? Sao tao
thấy bài vở lằng nhằng quá. Phải tìm cho ra một hướng đi mới thì báo mới sống nổi.
Thơ của mầy nhiều khi tao hông hiểu. Còn thơ của hai thằng Trường Dzạ và Linh
Vũ thì lại còn bí hiểm hơn thơ của mầy. Thơ gì mà làm như viết văn xuôi, lâu
lâu lại xuống hàng; rồi lại còn dùng chữ nghĩa như “phạm trù”. Tao đọc
còn điếc con ráy luôn, làm sao bàng dân thiên hạ hiểu nổi? Vậy làm sao bán được,
hở Sơn?
Bài vở của báo Thế Kỷ Hai Mươi chất đầy đống, vương vãi ở góc nhà. Rồi hông ai màng chăm sóc đến những trang giấy đó nữa. Sao Trên Rừng đã lâu lắm rồi hông thấy nó quay trở về. Tờ nguyệt san chắc chìm xuồng luôn. Nhưng Xuân và Nguyễn khắc Thiệu (Nguyễn Niên) còn cố gắng đi xin thêm quảng cáo mấy lần nữa, rồi cũng hông có kết quả gì cho lắm. Hai đứa về nằm chèo queo, buồn bã mấy ngày. Đôi lúc nhìn nhau cười trừ. Có lúc vùng nhau ngồi dậy, mặc quần áo lại cho tươm tất, bương bả leo lên xe buýt tiếp tục đi xin quảng cáo…
Tình hình miền Nam bước qua năm 1961 và năm 1962 có thêm nhiều
biến động. Sau vụ án Caravelle, sự bất mãn càng gia tăng. Một số trí thức chống
đối chế độ Ngô Đình Diệm bỏ thành phố vào trong rừng rậm vùng Bắc tỉnh Tây
Ninh, bên kia biên giới Việt-Miên, kết hợp cùng cán bộ nòng cốt Cộng Sản còn
cài lại sau năm 1954. Họ tuyên bố thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày
20 tháng mười hai năm 1960. Và đầu tháng hai năm 1961, lực lượng võ trang Giải
Phóng Miền Nam chính thức ra đời. Nhưng thực ra, lực lượng nầy đã hoạt động từ
lâu. Họ đã quậy phá các nơi hẻo lánh, giết các viên chức xã ấp. An ninh miền
Nam bắt đầu suy sụp. Dân chúng từ từ bỏ các làng mạc xa xôi, tìm ra những vùng
yên ổn- gần đồn bót hay những làng ven trục lộ giao thông chính- để làm ăn.
Xuân đã đọc ở đâu đó và trong khoảng thời gian nào chàng cũng hông còn nhớ,
về một câu nói của một viên tướng Alexander Papagos đã chiến thắng du kích Cộng
Sản ở Hy Lạp năm 1949: “nếu Cộng Sản mở được mặt trận du kích là kể như họ đã
thắng được hiệp đầu.”
Một buổi sáng ngày 27 tháng hai năm 1962, Xuân đang đứng chơi
cùng gia đình ông Lý. Họ bón phân rau muống. Thình lình Xuân và Chúc nhìn thấy
hai chiếc máy bay khu trục gầm rú vòng qua lại trên bầu trời Xóm Mới. Rồi sau
đó có nhiều tiếng nổ lớn và tiếng đạn từ dưới đất bắn lên nghe bụp bụp tạo ra
nhiều chụm khói đen nhỏ rải rác khi chúng chúc xuống sát lùm cây khu vực Sài
Gòn
– Bố ơi! Trông kìa. Có chiếc máy bay bị bắn rơi, bố ơi!
Xuân và Chúc nhìn theo hướng của cái Lan chỉ. Một làn khói
đen tuôn ra từ sau đuôi của chiếc máy bay đang bỏ bom khu vực Sài Gòn.Nó đang
sà thấp dần xuống và mất dạng.
– Chắc nó bỏ bom Dinh Độc Lập. Không hiểu Tổng thống có mệnh
hệ gì không?
– Không có gì đâu bố! Nó bị bắn rơi rồi.
– Con cái Lan nầy. Làm như mầy ở đó không bằng.
Xuân lật đật chào ông Lý. Và chỉ kịp dơ tay vẫy chào Chúc, cái Lan, cái Huệ rồi thót lên xe, đạp rút về Thị Nghè…
Kể từ ngày quen thằng Trực, thằng Thọ sửa rađiô ở đầu xóm,
Xuân biết được nhiều thứ. Tụi nó thường sửa rađiô trănsito và cũng đôi khi sửa
những cái rađiô bằng điện cũ, có cái đèn mắt dơi khi mình bật điện lên.
– Ê! Tụi bây. Tao còn đang đi học, nghèo lắm, có cách nào
nghe radio được hông?
– Được chứ. Nhưng mà chỉ nghe một mình mầy.
– Nghe một mình tao? Sao kỳ vậy? Tao hỏi như vậy là cốt ý xin
tụi bây cái nào cũ cũ của người ta bỏ ra.
– Hổng có cái nào cũ đâu mầy ơi. Cũ rích mà họ còn đem sửa lại
để xài. Tao chỉ mầy một cách. Tao cho mầy một cục galen (galène là sulfur chì
(PbS), chất bán dẫn, tách được sóng vô tuyến điện.) và một cái écouter (ê cút
tơ). Mầy kiếm một sợi dây điện dài và một cái niềng xe đạp cũ. Quấn dây điện
vòng quanh niềng xe đạp rồi đưa lên cao làm như một cột ăngten, hướng về phía
Quán Tre. Nối dây từ cột ănten xuống cục galen. Từ hai dây nối của êcúttơ, một
đầu mầy nối vào cục galen, một đầu mầy nối với một cái kim tây. Dùng đầu kim
tây mầy chích chích vào cục galen mầy sẽ bắt được đài phát thanh Sài Gòn. Ê! mà
nhớ trời mưa có sấm chớp, mầy đừng có nghe, nghen! Nó giựt mầy chết thẳng cẳng
đó nhen!
Bằng cách đó, Xuân nghe được tất cả chương trình ở đài phát
thanh. Mấy thằng bạn đó nói trung tâm phát tuyến ở QuánTre, có công suất rất mạnh,
khoảng 500KW, phát sóng biến điệu biên độ (AM amplitude modulation) nên rất dễ
bắt. Âm thanh hông qua loa, nên phải cầm ê cút tơ để sát vào lỗ tai. Một vài thằng
bạn ở vùng Quán Tre cho biết tụi nó còn dùng ăngten nối vào hai đầu của bóng
đèn nê-ông để học bài? Một lần gặp thằng Tưởng ở Châu Hòa (Bến Tre), Xuân chỉ
cho nó cách làm như thế. Một thời gian sau gặp lại, nó mừng rỡ ra mặt, nói nhờ
mầy mà tao nghe được đài Sài Gòn.
Một buổi chiều tối, khoảng giữa tháng hai năm 1962. Xuân
chích vào cục galen. Có giọng nói gì lạ vậy?Đây là tiếng nói của Măt Trận Giải
Phóng Miền Nam với giọng nói chát chúa. Sao lạ vậy ta? Ở đâu ra vậy? Xuân cũng
ráng nghe thêm một chút. Coi họ nói cái gì? Toàn là tin tức chống đối chánh quyền,
nói xấu gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm…
Sáng ngày, Phùng Xuân nhìn lên, thấy hướng ăngten hông thay đổi. Đài của Mặt Trận Giải Phóng ở TâyNinh? Hông. Nó phải ở nơi xa hơn và an toàn hơn. Ở đâu? Chiến khu D, Biên Hòa?.Nơi có tin đồn bà Ngô Đình Nhu khai thác gỗ. Hông chắc! Nó phải ở vùng Mỏ Vẹt, sát nách Sài Gòn? Đài nầy chắc có công suất cực mạnh, nghe rõ hơn đài Sài Gòn, truyền đi bằng biến điệu biên độ, độ dài sóng rất lớn nên khó phá? Từ đó, ngày nào Xuân cũng nghe, để biết họ nói cái gì, để so sánh. Phần đông là tin xe cán chó, trật lất, ba xạo nhưng rất nóng hổi…
Xuân lật đật đạp rút từ Xóm Mới về nhà để nghe tin bỏ bom vào
Dinh Độc Lập. Bản tin buổi chiều của đài Mặt Trận Giải Phóng cũng là tin ba trợn.
Hông có gì chính xác. Bao giờ cũng giọng điệu chửi rủa xa xả, nghe nhàm chán.
Chàng chích vào cục galen, bắt đài Sài Gòn. Ông Diệm và gia đình vẫn bình yên.
Một chiếc AD6 bị bắn rơi ở bến Bạch Đằng. Phạm Phú Quốc bị bắt. Nguyễn văn Cử
dông tuốt lên Nam Vang.
Có cái gì thúc đẩy sau hai lần toan tính hạ bệ Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Gia đình trị? Độc tài? Ngấm ngầm tiêu diệt các đảng phái? Thủ tiêu các đảng viên đối lập? Sự chống đối của Ngô Tổng Thống hổng muốn cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam?
Năm Phèn lui cui chà sột sột cái ruột xe bằng miếng thiếc cuộn
tròn đục nhiều lỗ nhỏ. Xong, Năm Phèn mở hộp keo dán xe làm từ cao su non của đế
giầy pha với xăng, lấy tay quệt một cái, thoa một lớp mỏng lên chỗ đã chà nhám,
rồi thổi cho mau khô.
– Mầy mần gì vậy Phèn?
– Ủa? Dì Ba. Dì về hồi nào vậy. Tui vá ruột xe lôi.
– Dữ hôn. Mầy hổng ở Châu Bình coi vườn tược của mầy hả? Sao
lại ra đây chạy xe lôi?
– Ở gì được dì Ba! Mấy ông trời đen ổng dậy lên, giết tùm lum
hết dì Ba ơi?
– Giết ai đâu mậy?
– Trời ơi! Dì ở trển dì hổng biết chớ. Mấy tháng nay, mấy ổng
quậy tưới hột sen, dậy trời dậy đất. Cái gì là diệt phong đả tề, tôi cũng hổng
biết nữa. Ban hội tề dông mất hết. Ba Thông, anh của Tư Báu chết rồi. Chết chém
đó dì Ba!
– Gì dữ vậy mậy? Dân tập kết mà mậy?
– Thiệt mà dì Ba. Dân tập kết tập kiết gì họ cũng giết ráo trọi.
Ờ, mà thằng Tưởng, bạn của thằng Xuân nhà mình, dì Ba biết nó chớ?
– Sao hổng biết. Con Hai Thiệt ở ChâuThới chớ đâu!
– Cơ khổ. Cả nhà bị giết hết rồi.
– Gì lạ vậy? Cả nhà đó hiền khô mà.Từ hồi nào tới giờ có làm
cái gì bậy bạ đâu. Họ còn đi chơn trong nhiều hơn nữa à nghen.
– Có vậy mới nói.Nghe đâu họ nói nhà thằng Tưởng làm gián điệp.
– Làm gián điệp?
– Thì nhà nó có cây ăng ten cao để nghe ra- điô đó mà.
– Sao tụi nó ngu quá vậy? Làm gián điệp? Ai làm lộ liễu vậy?
– Thì có vậy mới nói. Lúc phong trào-à cái gì đó- à, Đồng Khởi
từ năm 1960 đến nay- năm 1962- có lớp trẻ toàn là học sinh gia nhập. Tụi nó bỏ
học sớm. Nghe lời mấy ông thầy dụ, theo ráo trọi. Phần đông mấy ông thầy nầy ở
bưng về, mở các trường tư thục lèng xèng tới đệ lục, đệ ngũ: như các thầy Nguyễn
Trường Phương dạy Viêt Văn, thầy Nguyễn văn Mười dạy Pháp Văn… ở trường trung học
tư thục Mỹ Lồng và trường trung học tư thục Châu Thới vậy đó…
Đám nầy mới hông hà. Còn trẻ bân, hăng tiết vịt lắm. Sai đâu
đánh đó.C ó biết cái con mẹ gì. Nên mấy ổng mới xài được. Cái lớp của tụi mình
đây mà xía vô là có chuyện. Thế nào cũng bị chụp là cái nầy cái nọ rồi ban đêm
ban hôm, mấy ổng đến gõ cửa, dắt đi. Hổng khỏi mò tôm, chết chém hay cán cuốc bửa
vào đầu, chôn bậy đâu đó, mất xác luôn.
Hồi thời Việt Minh, cũng có vậy nhưng còn đỡ hơn bây giờ. Sao
bây giờ mấy ổng, mấy ông Việt Cộng nầy, làm dữ quá hổng biết. Họ đổ thừa bên Quốc
Gia rê máy chém đi cùng khắp theo luật số 10/59, còn họ phá xóm làng tan hoang
tác hoác. Đám Mười Tông và thằng con trai tên Huệ, Cao Đài Tây Ninh, với họ là
hai bên hông đội trời chung. Ông Tổng Linh cũng bị giết chết luôn rồi.
– Mầy cũng là dân kháng chiến mà, sợ gì? Vùng Ba Châu lộn xộn
vậy. Còn miệt trên nầy, như Lương Quới, Lương Hoà, có yên hông?
– Sợ chớ dì Ba. Mấy ổng nổi hứng lên là mình chạy hông kịp
đó. Ở trên nầy đỡ hơn ở dưới. Tại sao tui hổng biết nữa. Nghe nói ông Trưởng
Ban Ám Sát ở trên nầy hiền hơn. Hay là tại tui ít dám xù xí với ai lắm, nên hổng
biết rõ lắm. Lo chạy xe lôi, kiếm cơm ngày hai bữa; bỏ cho vợ tui đi đi về về,
giựt ba cái dừa kiếm chút huê lợi.
– Còn mấy đứa nhỏ đâu hết rồi?
– Tui đưa hết lên BếnTre. Con vợ tui mướn nhà cho tụi nó ở để
đi học. Dì Ba về dưới nầy để làm gì vậy?
– Tính về Châu Bình thăm bà già. Lâu quá hổng có tin tức gì bả,
hổng biết lúc rày bả sao rồi nữa?
– Chà! Coi bộ khó à nghen. Ở LươngQuới còn đỡ, chớ ở dưới khó
khăn lắm. Lúc rày, có cái vụ Ấp Chiến Lược mới thành lập hôm đầu tháng ba năm
1962, nên lính ruồng bố lung tung. Thôi dì Ba ở đây đi. Ngày mơi, tui nhắn vợ
tui, kêu bà già lên.
Từ khi phong trào Đồng Khởi nổi dậy, xóm làng bỏ đi gần hết.
Vùng Ba Châu kể như là vùng trắng. Máy bay, cà nông, mọt chê bắn bất kể ngày
đêm. Bà Ba Hạo vẫn tiếp tục ở lì, hông sợ súng đạn. Cái trăn-xê được tấn rất chắc.
Hai ba lớp ván gõ, bốn năm tầng vỏ dừa, đủ để ngăn súng đạn. Nhưng còn bom thì
sao, dì Ba? Vợ Năm Phèn hỏi. Bà Ba mĩm cười, chép miệng. Cái đó thì mầy tới số
rồi!
– Cơ khổ! Bả tiếc mấy trái dừa, cau, mãng cầu, sa-bô chê, mấy
con tép. Khổ ghê vậy đó. Kêu bả bỏ đi mà bả hổng chịu. Lên Sài Gòn ở mấy lần, bả
đòi về hoài. Bả nói ở trên nầy tù túng quá, tao hông chịu đươc. Tụi bây phải
đưa tao về quê. Kệ nó, sống chết có số. Việt cộng thì bả hổng sợ đâu. Bả già rồi,
có làm gì tụi nó đâu. Còn cái đám cháu ngoại bả, con của bà Hai Miều- tụi nó đi
theo mấy ổng ở trỏng rồi.Vậy là có đứa nào dám hó hé tới bả?
– Con vợ tui cũng vậy. Tiếc chi mấy trái dừa hổng biết! Kêu
lên trển ở với mấy đứa nhỏ, lo cơm nước cho tụi nhỏ đi học. Hổng chịu là hông.
Mình đi đi về về hoài. Mấy ổng nghi rồi sanh chuyện nầy chuyện nọ mới chết chớ.
– Lúc rày đường về dưới có dễ đi hông?
– Hổng dễ đâu dì Ba. Hổng dám đi đường lộ lớn đâu. Máy bay nó
thấy là nó bắn chết. Qua khỏi cái bửng nhà Năm Phỉ còn nguy hiểm hơn. Đi len lỏi
trong vườn dừa hông hà. Mình hổng biết đường, lớ quớ sụp hầm chông của mấy ổng
gài là trời cứu.
Trời chưa bửng sáng, bà Ba Hạo đã có mặt ở Lương Quới. Bà
gánh hai thúng đủ thứ: tép khô, khô cá kèo, mãng cầu xiêm, sa bô chê và nước
màu dừa…..Bà Ba Đầm mếu máo nhìn bà Ba Hạo đang cầm nón lá quạt lia lịa.
– Má quảy mấy thứ nầy chi cho cực Má.
– Thì gánh cho tụi nhỏ nó ăn chớ mậy. Ở Sè Gòn, mấy thứ nầy mắc
mỏ. Cây nhà lá vườn, mình đem lên cho đỡ tốn tiền hôn?
Nói vậy chớ bà Ba Đầm cũng túm gọn các thứ cho vào bao cà ròn. Hai mẹ con nói ba điều bốn chuyện một hồi. Bà Ba Đầm hối má trở lại Châu Bình cho sớm, xong vác mấy bao đồ ăn ra xe lôi cùng Năm Phèn đi Bến Tre…
Ngày hôm đó là ngày Lễ Quốc Khánh, 26 tháng 10 năm 1962. Bữa
nay, trước Tòa Đô Chánh - Công Trường Lam Sơn - có triển lãm một số máy bay. Đoàn
người lũ lượt kéo nhau đến từ sáng sớm, đông nghẹt từ đầu đường Lê Lợi đến đường
Gia Long.
Trung Sĩ Nguyễn Bội Ngọc đang trả lời những câu hỏi cho số
đông người bu quanh chiếc trực thăng H34. Phùng Xuân xuống xe buýt ở chợ Bến
Thành. Chàng đi bộ tà tà đến nơi. Lần đầu tiên Xuân được ngó thấy chiếc trực
thăng. Chàng cố chen chân cho gần hơn để được nhìn rõ chiếc nầy. Chớ các loại
máy bay bỏ bom, quan sát-mà Bà Ngoại gọi là Bà Già- thì Xuân đã biết rồi. Hồi
đó ở Châu Bình, Xuân thấy máy bay bỏ bom có một chong chóng ở phía trước, bay rất
nhanh. Vừa nghe tiếng nó xòe xoè thì thấy nó bay sát gần ngọn dừa, có hình vòng
tròn xanh, trắng, đỏ bên hông. Một loạt tiếng súng bắn chát đùng trước, bà ngoại
gọi đó là đạn lum đum. Sau đó là bom nổ ầm ầm. Còn cái con Bà Già có cánh đôi,
bay mút ở trên, rề rề như đi chợ.
Ông Trung Sĩ đang nói thao thao. Một vật gì đen tròn rơi trước
mặt ông ta. Xuân hông hiểu là vật gì? Chợt ông Ngọc cúi nhanh người xuống lượm
cục đen tròn, rồi như chớp để vào trong bụng. Ông nằm sấp xuống.Một tiếng nổ
đùng kinh hoàng. Một số người té ngã xuống.Một số ùn ùn bỏ chạy.Cùng lúc đó có
tiếng hô: “ Lựu đạn, lựu đạn”.
Phùng Xuân chạy vắt giò lên cần cổ. Chàng chạy cho đến đường
Lê Lợi. Đứng lại thở giốc. Đám đông túa ra đủ hướng. Vừa đúng lúc Xuân gặp Tiến
Tấn, cùng học Chu Văn An ngày xưa.
– Có chuyện gì đấy cậu?
– Tao hổng biết cái gì nữa. Ai quăng trái lựu đạn vô giữa đám
đông đang coi máy bay. Chắc ổng chết rồi.
– Ai chết?
– Ông lính đứng bên chiếc trực thăng. Ổng nằm đè lên trái lựu
đan, chớ nếu hông chắc thiên hạ chết nhiều.
– Ông ta gan quá.
– Sao Quốc Khánh có huông vậy?
Cũng vào ngày Quốc Khánh năm 1957, Hội chợ được tổ chức ở khu
vườn bông Thị Nghè. Cổng chánh rộng lớn ở phía Thị Nghè. Cổng phụ là chiếc cầu
bê tông nhỏ chiều ngang khoảng ba mét, bắc ngang rạch Thị Nghè, nối liền khu vườn
bông và Sở Thú. Dân miệt Sài Gòn và Chợ Lớn đều đi từ Sở Thú qua cầu nầy để xem
hội chợ. Người ta chen nhau ở cầu nhỏ, dẫm đạp lên nhau, chết khá nhiều. Có nhiều
người phải nhảy xuống sông bị chết chìm. Sau đó công binh bắc thêm một cầu nổi
tạm dùng để qua lại hai chiều. Tại sao họ hông đi cổng Thị Nghè, rộng thênh
thang? Chắc hổng ai nghĩ là dân Sài Gòn, Chợ Lớn đổ vào xem Hội Chợ bằng cầu Sở
Thú?…
Buổi chiều Xuân bắt đài Mặt Trận Giải Phóng. Cũng giọng ra rả, chát chúa. Nữ chiến sĩ Biệt Động Thành: Mỹ Linh-Con Chim Sắt – đã gan dạ tung quả lựu đạn giết chết một Trung Sĩ Ngụy và đồng bọn, đồng thời phá hủy một chiếc trực thăng HU1A (?) của địch. Phùng Xuân ngao ngán. Chàng biết họ tuyên truyền láo, xạo ke…Lý do là lủy có ở đó.
Cuối tháng mười hai của năm 1962 rồi. Gió bấc bắt đầu thổi mạnh.
Bông so đũa nở rộ, khoe một màu trắng toát trên cành khẳng khiu. Bông đậu rồng
xanh tim tím chen chúc nhau trong đám lá um tùm ven bên đường. Bông xoài từng
chùm lắc lư theo gió, kéo theo đàn ong chăm chỉ bu quanh. Nhờ gió bấc đẩy mà
Xuân đạp xe nhẹ nhàng, chạy vùn vụt về Lương Quới.
– Mầy muốn đi vào xóm trong hả? Bây giờ khó đi lắm, chớ hổng
phải như hồi xưa. Đường lộ chánh nhiều chông và mìn, hổng đi được đâu. Ra khỏi
khu nhà mình, giờ là của mấy ổng rồi.
– Út. Con muốn vô trỏng mà! Làm sao đi.Út giúp con đi.
– Để coi ngày mai, có mấy đứa ở trong xóm trong ra đi chợ
hông hả? Tao kêu tụi nó dẫn mầy đi.
– Út biết tụi nó hả?
– Sao hổng biết mậy!
– Sao chú Tám hổng làm gì?
– Ổng còn đi guốc trong bụng họ hơn tao nữa mậy. Nhưng ổng sợ
bay cái đầu ổng đi mất nên ổng im re. Nói chung ban Đại Diện xã, ai làm gì
trong làng họ đều biết ráo trọi. Nhưng do giây mơ rễ má, do một số còn mê thời
kháng chiến, một số sợ bị Việt Minh cho đi mò tôm nên họ hổng nói.
– Trong số đó có Út? Út còn mê cái danh từ Việt Minh quá mà.
Vì vậy nên Lương Quới yên lành hơn vùng BaChâu phải hôn Út?
– Mồ tổ cha mầy. Sao mầy biết?
– Má con mới về cách đây mấy tháng. Bả nói cho con nghe.
– Mầy có đi thì về sơm sớm. Về trễ, rắc rối với mấy thằng dân
vệ.
Hồi chín năm, bà Út Thừ- người con thứ mười một của ông Hội Đồng
Nhượng- còn trẻ, cũng đi kháng chiến chống Pháp đâu trong khu chín. Năm 1954,
bà hông tập kết, trở về làng để nuôi đứa con trai. Dân trong làng hông ai nhắc
đến người cha của đứa bé, nhưng họ sù sì đó là ông Nguyễn văn Nê, chánh trị
viên đại đội 301, tiểu đoàn 310. Cho nên bà cũng còn nhiều cảm tình với những
người bên trong- bây giờ là Việt Cộng. Xuân có nghe lời đồn, nhưng chàng hổng
dám nhắc đến chuyện của bà, vì nói với người lớn tuổi những việc như vậy: đó là
sự cấm kỵ .
Lúc tuổi thanh xuân, khoảng năm 194…, bà rất giỏi giang. Đất
chung quanh nhà trồng toàn là cây bông vải và cây dâu tằm ăn. Bà biết cán bông
bỏ hột, bung bông, se sợi… rồi kéo go dệt thành vải. Xong bà đem hồ, nhuộm. Những
miếng vải thô cứng kêu sột soẹt lúc may thành quần áo. Bà biết nuôi tằm. Tằm sắp
kéo kén. Tầm ăn lên nghe rào rào, xong rồi ươm vàng hực trong những cái nia có
cắm chà chờ tằm đóng kén và chín. Bọn trẻ bao giờ cũng bu quanh chảo nước sôi
kéo tơ để mong chờ ăn nhộng. Vải bằng tơ tằm bao giờ cũng mịn màng và vàng óng
ánh. Bà làm việc hông kể ngày đêm. Đến khuya mà bà cũng còn ngồi bên ánh đèn dầu
dừa mù mờ, giựt dây, đưa con thoi qua lại lọc cà lọc cọc.
Bà còn biết nung vỏ nghêu trong trấu và vỏ dừa để làm vôi bán
cho những người ăn trầu trong làng.
Ngày Tết hoặc ngày giổ quải, một tay bà làm đủ thứ việc: cán
bánh phồng mì, bánh phồng nếp; gói bánh tét, bánh ú; quết thịt làm nem; xay
lúa, giã gạo…
Rồi sau đình chiến 1954, bà quay lại làng, nuôi con chờ chồng
(?) tập kết trở về. Ngày về xa biền biệt và tuổi thanh xuân lớn dần theo cây dừa,
cây cau…
Mặt trời chưa ló khỏi ngọn dừa. Chợ đã dần tan. Thằng nhỏ,
khoảng 15 tuổi, tên Tri, dẫn Xuân đi. Vừa ra khỏi chợ là một vùng trảng trống.
Trường học và khu đình làng vẫn còn đó. Dừa bị đốn bỏ một phần để làm ấp chiến
lược. Cổng ra vào sơ sài. Đây là ấp chiến lược? Chàng tự hỏi. Ở Sài Gòn, Xuân
có bao giờ biết cái ấp chiến lược là cái gì đâu? Chỉ biết qua báo chí và qua những
lời chửi ra rả của đài Mặt Trận Giải Phóng. Và thật sự, đời sống dân tình trong
những cái ấp nầy ra làm sao?
Khi gần tới chùa, thằng Tri quẹo phải đi tuốt luốt về hướng
sông. Một vài gốc dừa bị dạt một bên. Những dòng chữ nguệch ngoạc: Diệm Nhu bán
nước, Đả đảo luật số 10/59… Ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo, trắc tréo, tới lui một hồi
rồi len lỏi qua những bập dừa nước sát bờ rạch làm Xuân quên mất là mình đang ở
đâu. Chàng đâu có lạ lùng gì những khu vực nầy. Hồi nhỏ chàng lê mòn gót trên
những con đường lắc léo xuyên qua bờ dừa khắp làng để bắn chim. Có buổi hông có
con chim nào, Xuân buồn tình lấy giàn thun bắn cá nóc nói để chơi kia mà!
Bến Tre là vùng đất của rừng dừa. Đất của những ông “Hội Đồng
Dừa” có trên 10 mẫu. Đất của những ông chủ vườn có dừa chất thành đống cao tính
bằng thiên. Những ông chủ nầy quanh năm suốt tháng đi ăn đám giỗ từ nhà nầy đến
nhà kia, có con rơi con rớt, đánh ỏ thâu đêm, đôi khi thua sặc máu họng, bán từng
mẫu vườn dừa.
Đất của những trái dừa kỳ lạ: dừa trăng ăn với cơm dừa nhăn
nheo, xốp xộp và béo ngọt; với dừa bông ăn được cả vỏ dòn ngọt khi còn non. Đất
của dừa lửa, dừa bị, dừa tam quan, dừa xiêm thiệt, dừa xiêm lai…Đất của những
tên gọi từng trái dừa lớn lên theo màu phù sa đục như nước cơm vo: dừa non, dừa
váng cháo, dừa nạo, dừa cứng cạy, dừa rám, dừa khô mà chỉ có những người con của
Bến tre mới phân biệt được khi lắc nước óc ách hay nhìn màu da trái dừa.
Đất của củ hủ dừa, đuông dừa, chuột dừa, ong rùi dừa( ổ ong rùi nhỏ, chừng
bằng bàn tay. Ong thường đóng kèo trong cọng bông dừa. Mật thơm ngon ), nước
màu dừa và dầu dừa… Dừa bạt ngàn. Phùng Xuân mòn gót chơn son rong chơi suốt
ngày trong rừng dừa rợp bóng mát. Có khi đi từ làng nầy sang làng khác mà hông
bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời chói chang.
– Ê, Tri . Mầy có lạc đường hông vậy mậy? Sao vòng vo tam quốc
hoài vậy? Dẫn tao tới nhà ông Sáu Xe nhen.
– Hổng có lạc đâu anh Ba. Em đi hà rầm hoài, làm sao lạc được.
Đi dưới nầy chắc ăn hơn. Ở trên, họ làm hầm nhiều dữ lắm. Đi lớ quớ, sụp hầm,
vướng chông cau, chông tre là anh tàn đời luôn.
– Như vầy làm sao lính biết đường mà đi ruồng được.
– Lính dưới quận đi ruồng hả? Họ đâu dám đi theo đường mòn. Họ
băng bờ hông hà!
– Sao mầy rành sáu câu quá vậy!
Khi gần đến khu đất nhà của ông Sáu Xe, thằng Tri lấy tay chỉ
cho Xuân hướng đi, rồi nó lật đật rẽ qua ngã khác.
Đất vườn vẫn như cũ nhưng cảnh vườn coi vẻ vắng que. Cỏ dại mọc
um tùm. Lối vào sân nhà bây giờ cỏ tranh đơm bông trắng xóa. Tàu dừa rụng đầy
sân. Mo nang vương vãi khắp nơi. Xuân đứng ngơ ngẩn hồi lâu. Hình bóng Khanh vẫn
còn lảng vảng đâu đây. Đôi mắt em bao giờ cũng mơ màng nhìn vào khoảng không xa
vắng, hông có được một nụ cười tươi. Còn Vân? Nụ cười chúm chím luôn luôn hiện
ra nơi gương mặt rạng rỡ.
Bếp núc trong nhà lạnh tanh. Một cái dóng đựng đồ ăn treo đu
đưa ở góc nhà. Bù hống giăng đầy nơi mái lá. Bàn giữa nhà đầy bụi. Bộ ván hông
còn nữa. Xuân liếc nhìn vào buồng cũ của Khanh và Vân. Bây giờ là cái trăn xê
chất đầy vỏ dừa. Chàng bước ra ngoài, đi vòng căn nhà, hy vọng tìm được một
bóng người ở gần đâu đây. Hổng có. Bên kia bờ dừa, cây dâu da vẫn còn đó, nhưng
đã qua mùa trái rồi!! Xuân lần bước men theo đường mòn bờ dừa qua nhà chú Chín.
Chàng chợt thấy bóng cái nón lá nhấp nhô lên xuống ở cuối bờ. Nghe tiếng Xuân
bước sột sạt, người đó đứng lên.
– Thím Sáu, thím làm gì ở đây?
– Bây mới dìa đó hả? Làm sao bây vô được đây? Tao mót bậy bạ
ba củ khoai về luộc ăn.
– Con có ghé nhà. Hổng có ai hết. Vân và chú Sáu đi đâu hết rồi
thím?
– Ối… Đi công tác hoài mầy ơi. Vân nó đi cả tháng nay rồi.Còn
ổng mới đi hồi qua kia.
– Hèn chi. Bếp núc trống trơn.
– Đồ ăn tao để trong trăn xê. Sợ mọt chê, chạy hông kịp.
– Lính đi ruồng thì thím làm sao thím? Sao thím hông ra ngoài
chợ, bên trong ấp chiến lược, ở có yên hơn hôn?
– Ối! Tụi nó có bắt bớ gì bà già. Ở để giữ ba cái dừa. Nếu
hông bị bẻ trộm, mất hết.
– Hoang tàn như thế nầy mà cũng có người bẻ trộm sao thím?
Nói vậy chớ Xuân thừa biết bả ở đây là lo ăn uống cho chồng
và con gái. Ban đêm ban hôm, họ bất thình lình trở về có chỗ nghỉ ngơi, hội họp
và cũng để lấy tin tức.
– Con muốn đi thăm Khanh.Có được hông thím?
Bà Sáu Xe ngước nhìn Xuân có ý dò hỏi. Chàng biết vậy, nhưng
im lặng, làm bộ ngó ra chỗ khác. Ít phút sau.
– Ừa. Lâu rồi, tao cũng hổng qua bển thăm tụi nó. Tao nhớ hai
đứa cháu ngoại quá. Để tao dẫn bây đi. Mau đi, qua đó xà quần hoài, hông tối về
hổng kịp. Bây còn trở ra chợ nữa. Độ rày có ấp chiến lược, khó khăn lắm.
Bả dẫn Xuân đi xuyên qua mấy đám cỏ tranh và những bụi lứt rậm
ri rậm rịt, cao lút đầu, đến bờ rạch. Có một cái chòi nhỏ gần bờ nước. Có người
canh chừng. Bả vô trong nói cái gì đó với người trong chòi. Xong trở ra kêu
Xuân bước xuống chiếc xuồng ba lá. Bên kia là Lương Hòa.
Căn nhà lợp lá cà đốp. Chung quanh vừng bằng lá xé. Bên trong
trống tan hoang tát hoác. Cái giường tre để kế bên bếp. Mùng túm vắt lên. Mền
hông xếp, cuộn tròn vo bên gối.
Hai quày chuối xiêm đen chín bói nằm bù lăng bù lóc ở góc
nhà. Có hai ba nải chuối lá hườm hườm. Một quày chuối tiêu, trái thon dài giống
như bàn tay búp măng. Và ba quày chuối già hương. Chắc nhà tính gom góp lại đem
ra chợ bán. Cũng hông nhiều nhỏi gì! Có lẽ đủ tiền mua gạo?
Hổng có ai. Bà Sáu lui cui lo dọn dẹp. Xuân đi lần theo bờ chuối ra phía sau. Có tiếng con nít ứ é. Và tiếng ru con nhè nhẹ ở đầu bờ.
Ầu… Ơơ… Chiều nay ra sông Cái tự ái cho rồi. Sống làm chi biệt
ly công tử. Ơ… ơ… Chết cho rồi… chết cho rồi… cho đặng chữ hiếu trung. ơ…
Ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mượn chén ăn cơm. Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.
- Khanh! Khanh ! Em làm gì ở đây?
– Anh! Anh!! Làm sao anh vô đây được? Ai dẫn anh đi? Ai chỉ
em ở đây?
– Nhiều câu hỏi quá! Chỉ biết là anh đến đây được để thăm em.
Em có hai con rồi hả?
Khanh hông trả lời, nhìn xuống thằng nhỏ lớn nhứt đang ôm
chơn mẹ. Cái bụng chong bóc. Mũi dãi xanh lè xanh lét, chảy lòng thòng. Thằng
bé lấy tay quẹt. Cứt mũi hông tuôn ra hết, dính theo bờ má tạo thành một dọc
xanh dài. Khanh dùng tay bịt hai lỗ mũi, vít sạch rồi quăng mạnh một cái. Đứa
bé nhìn Xuân, khóc ré lên. Đứa con gái Khanh đang ẳm trên tay cũng khóc theo
luôn. Khanh bồng con và kéo lê thằng con trai đến gốc dừa mục.
Nàng ngồi xuống, thản nhiên cổi nút áo, phạch ngực, nâng vú
cho con gái bú trước mặt Xuân. Còn nàng, tóc tai bù xù nàng hổng màng tới. Con
bé thấy vú mẹ, đưa miệng nút chùn chụt, rồi nín khóc ngay và lấy tay mân mê cái
vú còn lại. Xuân nhìn thấy cặp vú nổi đầy gân xanh và xề xệ xuống như vú mướp.
Hai vú săn cứng như hai trái vú sữa to trắng chín mộng, đã nhiều lần nằm trong
tay Xuân và được chàng vân vê, hông còn nữa. Đôi vú tròn trịa săn cứng như hai
mộng dừa của thời con gái, của một thời tình yêu trai gái trẻ trung, bồng bột
đã qua rồi. Cặp vú bây giờ mềm nhũn và nhão nha nhão nhoẹt chứa đầy sữa mẹ để
nuôi con. Ôi! Mùi thơm của mật ngọt ong dúi đâu còn nữa đâu em!
Xuân hiểu rỏ tình cảnh của Khanh. Làm gì có nhiều đồ ăn bổ dưỡng
để có được hai bầu sữa to căng tròn. Nhìn căn nhà, cái bếp là chàng hiểu cuộc sống
của người mình từng thương yêu. Giờ đây Khanh xơ rơ xác rác, giống như những bà
mẹ Viêt Nam thân yêu, nàng làm tất cả cho đàn con. Con nàng là tất cả. Việc
nàng tự nhiên vạch hai vú cho con bú trước mặt Xuân đã nói lên điều đó. Có còn
gì e thẹn như thời còn con gái đâu? Bây giờ là mẹ, mẹ của hai đứa con cho nên
nàng phải ra sức bảo vệ tụi nó. Phùng Xuân nhìn thấy những điều đó trong đôi mắt
nàng. Có lẽ, nàng hông còn nhớ đến mối tình đã qua từ lúc cái đám cưới chạy
tang ác nghiệt kia?
– Thằng con trai lớn đúng hai tuổi?
– Ừa!
Một tiếng ừa có vẻ như chắc chắn và nuối tiếc một điều gì đó.
Xuân có nên hỏi tiếp hông? Hỏi để khơi dậy sự buồn phiền cho Khanh? Trả lời tức
là nhắc lại những lúc ân ái sôi nổi ở Mỹ Nhiên, Cái Bông? Em ơi! Dòng nước trôi
đi có bao giờ quay trở lại. Gặp nhau lại trong phút giây ngắn ngủi nầy, biết cuộc
sống của Khanh như thế là một sự đau khổ khôn cùng của Xuân. Xuân đành phải
đánh trống lãng đi.
– Chồng em đâu rồi? Dượng Ba Đẹn?
– Ảnh ở ngoài đầu bờ dừa lo chặt mấy khúc đinh sét, đập miểng
chai…
– Chặt đinh sét? Để làm gì?
– Để bỏ vô súng ngựa trời.
– Súng ngựa trời là súng gì?
– Anh đi tới mà hỏi ảnh.
Từ ngày Ba Đẹn là du kích xã, nó chỉ có một việc là lo làm những
cây súng ngựa trời. Ở xã nầy, cả đội chỉ có một cây mút ca tong. Làm súng ngựa
trời thì dễ, có gì khó đâu! Hông như mấy ông cán bộ dưới huyện chỉ, nào là phải
đi tìm những ống tuýp xe đạp, cưa đi một đầu, còn đầu kia đập bít lại, nhồi
đinh sét, miểng chai… ngâm trong cứt và nước đái… Ôi thôi, đủ thứ lu bù, hằm bà
lằng quá. Mà ngặt, ống tuýp xe đạp khó tìm lắm! Nó làm theo ý nó. Nó đi kiếm những
lóng tre đực thật già, cắt bỏ một mắt, còn mắt dưới dùi một lỗ để chuyền dây.
Cái thứ nầy giống như ngày xưa nó hay chơi lúc Tết: ra ngoài tiệm chú Tiều mua
cục khí đá bằng ngón chơn cái, cho vô khúc tre đực ướt, đã cắt bỏ một đầu. Chỉ
cần lắc mạnh môt vài cái, xong đưa vào ngọn lửa là nó nổ to một tiếng bum dòn
tan, còn hơn pháo đại và pháo tre nữa
– Dượng Ba làm mấy cây súng nầy có bắn chết được ai hôn?
– Khỏi nói anh Ba. Hổng chết mà mấy thằng dân vệ sợ chạy té
đái. Súng em mà nổ cái ùng hả, tụi nó la oai oái.
– Cây súng nầy dượng làm rồi đó hả?
– Ừa! Xong rồi đó.Anh coi có được hông?
Xuân cầm cây súng ngựa trời dựng bên gốc dừa. Chàng ngó qua
ngó lại rồi nhìn vào trong lòng ống tre được nện bít bằng đất sét.
-Dượng bỏ gì trong nầy?
– A.Trước hết là thuốc nổ rồi đến miểng chai ngâm trong nước
đái. Cái nầy hổng có đinh sét. Em nện chặt bằng đất sét. Anh coi có được hôn?
Xuân nhìn kỹ một lần nữa. Cây súng nầy bắn chắc chẳng giết được
ai, chỉ làm cho người ta trầy trụa xơ xịa ngoài da và hoảng sợ. Xuân đã học về
vật lý và cơ học ở lớp đệ Nhứt. Chàng hiểu cây súng có sức phụt hậu và thế nào
cũng làm cho người bắn bị thương.
– Làm sao dượng cho nó nổ?
– Em nối dây điện và dùng cục pin dẹp hiệu Con Ó. Rồi chích
cho nó nổ.
– Nghĩa là dượng phải nằm từ xa?
– Phải rồi anh Ba. Nó nổ cái oành là mấy thằng dân vệ tá hỏa.
Em rút dây điện rồi bỏ chạy.
– Ừa hé! Dượng hông bị súng tống trầy mặt. Dượng có bao giờ
trở lại chỗ dượng đặt súng coi nó nổ như thế nào hông?
– Hổng có anh!
– Tôi có nghe mấy ông du kích còn lấy ong vò vẽ đuổi lính chạy
có cờ nữa mà.
– Họp xã đội, họ cũng có phổ biến. Nhưng chắc đâu miệt dưới. Ở
đây hổng có.
Nói vậy chớ Xuân dư biết mấy cha nầy nói xạo dóc tổ. Kiếm được
ổ ong vò vẽ đã là khó. Thỉnh thoảng mới gặp được tụi nó đóng ổ nơi cây cao bụi
rậm như bụi tre, bụi đủng đỉnh… Rồi lấy ổ ong càng khó hơn. Phải chờ trời tối,
tìm cách leo lên nhè nhẹ và lấy bao cà ròn trùm lại. Mà đâu phải lúc nào cũng
có dịp để đuổi lính đi ruồng đâu. Trùm kín ít ngày thì ong chết. Treo lên đâu
đó, để dành, lớ ngớ bung ổ ra thì nó đánh có mà chết, chạy đâu cho khỏi. Hồi nẫm,
Xuân có nhớ là được ăn cháo ong vò vẽ non. Chàng còn nhớ là đám người lớn đợi
lúc tối trời đốt đuốc để ngay miệng ổ ong. Ong bay tuôn ra hết, bị đốt chết,
còn lại ong non trong ổ…
– Còn em, Khanh?. Sao hông dẫn mấy con ra ở trong ấp chiến lược
cho nó đỡ hơn hông?
– Ý đâu được anh Ba! Tụi nó biết em rồi, nó hành vợ em chết!
– Dượng làm dượng chịu, chớ vợ con dượng có làm gì đâu. Có ai
bắt bớ gì đâu. Rồi ở trong nầy yên hơn hả? Lúc lính ruồng bố thì làm sao? Ở
ngoài xã, thiếu gì người có bà con đi theo bên trong nầy mà có ai nói gì đâu?
– Ảnh có làm cho mẹ con một cái hầm, ở ngoài bờ, dưới củ trối
bụi chuối.
– Đất thấp hông bị ngập nước à?
-Cái lu vú bò mà. Có gì ba mẹ con chui xuống đó. Xong ảnh lấp
miệng lại. Có một cái ống trúc dài để thở.
– Nóng lắm hả em?
– Hầm hơi và nóng lắm. Nhưng mấy mẹ con ráng chịu. Lính đi ruồng
hổng có lâu lắm đâu!
Nghĩ đến đó mà Xuân buồn cho Khanh. Vợ một anh chàng du kích
sống một ngày mai vô định. Và biết chừng nào Xuân mới gặp lại Khanh. Chắc hông
bao giờ. Bây giờ dòng sông đã chia hai…
Bà Sáu Xe đi tới, vói tay bồng lấy đứa cháu gái, hun chùn chụt.
Khanh rảnh tay, bới lại cái đầu tóc cho gọn ghẽ. Bây giờ là đầu tóc của một thiếu
phụ, có cái búi to ở đằng sau. Hổng còn mái tóc dài để đến ngang vai như thời
nàng đi học. Xong, Khanh nhìn Xuân trân trân. Xuân vội quay mặt đi chỗ khác.
– Anh ở lại đây tối hôm nay?
– Hông. Má và thằng Xuân phải dìa liền bây giờ, để nó kịp ra
Lương Quới.
Bà trả lời thay cho Xuân và nhanh nhẩu trả đứa cháu gái lại
cho Khanh, rồi ôm hun thằng Hải mấy cái. Tổ cha mầy, mũi dãi tùm lum! Xuân cũng
vội hun hai con Khanh, nhưng hun thằng Hải nhiều nhứt, rồi quày quả bước đi,
sau khi nói lại một câu nhỏ và ngắn ngủi: anh về nghen em. Phùng Xuân biết đàng
sau lưng mình có đôi mắt dõi theo và một trái tim nghẹn ngào…… Một lần
chót gặp nhau?
– Bây ráng coi chừng coi đổi hai đứa nhỏ nhen.
– Tui dìa nghe dượng Ba.
Bà Sáu Xe vừa tấp ghe vào bến thì nghe hai tiếng súng tắc cù
từ hướng Lương Quới. Bả lật đật buông dầm, hối Xuân mau lên bờ, đi miết về nhà.
Gặp thằng Tri dọc đường, nó báo cho bả biết là có lính đang đi vô gần đến chùa.
Và đám du kích, có anh Năm Tấn chỉ huy, đang trông chừng tụi lính. Nhiều khi
dân vệ ra khỏi ấp đi bắn chim cu.
– Vậy là bây đâu có đi dìa ngoải được. Tối nay phải ngủ lại
đây rồi sáng sớm theo tụi nó ra chợ.
Cái chiếu rách và cái mềm mỏng tanh hông đủ để che tụi muỗi ma đói kêu vo ve như sáo thổi. Xuân hông nằm được. Chàng phải ngồi dựa vào góc cột nhà, lấy tay phất lia lịa. Nhiều năm qua rồi, cái mềm cũ mèm nầy đâu còn hơi hướm của Khanh và Vân? Mùi mốc hăng hăng làm chàng ngộp thở. Xuân nhớ đến mùi rơm ở cánh đồng Mỹ Nhiên… Phải chi bây giờ mình chui vô được đám lá chuối khô ngủ giống như heo là yên nhứt ?…
Xuân hông chờ được bắc. Chàng đưa xe đạp cho người phụ việc xếp lên nóc đò máy, rồi chui vào trong khoan, tìm một chỗ khuất, nằm gác đầu lên thành ghế. Nước lớn. Gió thổi mát rượi. Sóng bạc đầu vỗ mạnh. Đò máy chồng chành, rẽ mũi áp sát vào cồn Phụng. Một vài bóng người hiện ra trong cù lao. Nghe nói hình như ông Đạo Dừa sắp về ở nơi đây. Tiếng máy nổ xình xịch ru Xuân vào giấc ngủ chiều ngắn ngủi đầy mộng mị…
Tình hình ở Sài Gòn càng thêm rối rắm. Kể từ khi Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm 1960, số người ra “bưng” càng
ngày càng nhiều. Ở Sài Gòn bây giờ đủ mọi thành phần.
Một số là thân hữu của các ông Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn
Phát, Trịnh Đình Thảo… Một số là những người có học giầu sang, có đầu
óc thiên tả đi học ở Pháp về. Một số con những trí thức thành thị, hông theo
kháng chiến chống Pháp nên gia đình hông bị ly tán, sa sút. Khi Mỹ tuôn ào ạt
vô Miền Nam, họ xoay trở nhanh chóng, tạo thành một thành phần trí thức
ưu tú gầy dựng nền móng dân chủ miền Nam. Hông như những gia đình giàu có miền
quê, theo kháng chiến chống Pháp rồi sau đó lầm lẫn theo Việt Minh. Một số là
các thành phần già thủ cựu đã từng theo kháng chiến chống Pháp. Họ về thành, giữ
các chức vụ trong bộ máy chánh quyền, từ văn hóa, giáo dục, kinh tế, tài chánh…
Chính nhóm nầy mới là nguy hiểm vì họ đi hàng hai, hông lộ diện. Họ hông phân
biệt được Việt Minh và Cộng Sản? Còn lại là một nhóm thật lớn: các sinh viên học
sinh. Nhóm nầy còn trẻ, có tinh thần Quốc Gia, đầy nhiệt huyết, hoạt động ất
hăng say. Nhưng còn một nhóm nguy hiểm hơn: thành phần sinh viên học sinh hoạt
động nội thành. Nhóm nầy bị các cán bộ ‘trí vận” Cộng Sản cài vào, khuấy động
tình hình chính trị, văn hoá, xã hội ngay giữa Sài Gòn.
Ngay như bà Ba Hạo, bà Ba Đầm, Bà Út Thừ… hông hiểu một chút gì về Việt Minh và Việt Cộng. Và lẽ tất nhiên, những người dân quê mùa chất phác, đâu có phân biệt được rõ ràng đâu là Việt Minh và đâu là Việt Cộng. Năm rồi (1962) Xuân nhớ hình như là chú Mười Tương và chú Sáu Đâu lên ở nhà Xuân mấy ngày. Chắc lúc đó các xã đang thanh lọc để xây ấp chiến lược. Họ bị động. Họ kiếm đường đi vào trong khu. Vậy là bà Ba Đầm cũng vô tình hông hiểu Việt Cộng là gì nữa, nên giúp đỡ họ. Đó chính cũng là một nguyên nhơn mà ViệtCộng lợi dụng để phá hoại miền Nam.
Xuân tần ngần trước cổng nhà rất lâu. Hông hiểu lần nầy họ có
hẹn nữa hôn? Hai lần trước, người quản gia cho biết là gia đình đang có công
chuyện. Họ đã hẹn hai lần, cách nhau năm, sáu tháng. Chuyên mục rao vặt ở trang
trong tờ báo vẫn còn phần dạy kèm trẻ em tại tư gia của Xuân. Chàng muốn
bỏ chỗ nầy đi dạy nơi khác cho rồi, nhưng hông hiểu vì lý do gì, chàng cứ tới
nơi nầy hoài. Con đường Hồ Xuân Hương đẹp, êm ả có sức quyến rũ hay nơi đây gần
nhà, gần trường Đại Học cho Xuân dễ chạy tới chạy lui bằng chiếc xe đạp cũ xì?
Xuân cũng đã có chỗ dạy kèm, nhưng xa quá. Xa tận chợ Hoà
Bình, Chợ Quán. Dạy hai buổi trong tuần, đạp xe lần nào cũng tháo mồ hôi hột.
Phùng Xuân cũng tính nghỉ cho rồi. Cô học trò cũng tên Xuân có tật vì bịnh
sốt tê liệt. Hai chơn đi yếu nhưng cô bé thông minh, lại siêng học, dễ mến. Gia
đình nói con Xuân cho biết thầy dạy hay lắm. Bài toán số học nào khó cách mấy,
thầy giải cũng được và giảng lại cho em một cách rõ ràng. Em nó thích lắm. Nhờ
thầy kèm, chắc thế nào cháu cũng thi đậu vào đệ thất Gia Long. Làm sao bỏ cho
đành với một người học trò chuyên cần như vậy?
Cánh cửa cổng mở. Xuân đi theo người quản gia vào nhà, bước
vô phòng khách khá rộng, sáng sủa. Chậu lan kim điệp đang trổ bông để cạnh cửa
sổ. Trên tường treo một bức tranh lớn của Monet. Vài tạp chí bỏ lộn xộn nơi góc
bàn nhỏ hình chữ nhựt ở cuối góc phòng. Người quản gia mời khách ngồi. Xuân kéo
ghế nhưng còn đứng tần ngần nhìn mấy trang báo đang lật bỏ dỡ, cho đến khi người
giúp việc mang ra một ly nước đá chanh, Xuân mới chịu ngồi xuống.
Người đàn bà trung niên hiện ra. Tóc cắt hơi thấp, buông xõa
lơi lơi gần bờ vai. Đôi môi trái tim tô hồng. Hai mắt rạng rỡ và nụ cười tươi tắn.
Xuân bối rối, đứng lên chào hỏi.
-Xin lỗi để cháu đợi quá lâu. Ngày mai cháu đến kèm dùm hai
cháu nhỏ. Hình như ngày trước cháu cũng ở Mỹ Tho phải hôn?
– Dạ. Lâu lắm rồi, vào khỏang năm 1948… Ở trong tòa nhà của
ông Jacques Lê Văn Đức, cuối đường Hùng Vương, gần bến đò Thạnh Trị. Cháu còn
nhớ đám cháy kinh hoàng ở xóm Lò Heo, năm 1950(?), từ khu nhà gần nơi cháu ở
lan cho đến sát hông trường Taberd, thiêu rụi gần cả ngàn căn của đám dân nghèo
nữa.
– Bác biết rồi. Vậy là?
Con đường Hùng Vương là con đường chính của thành phố, chạy
dài từ Dinh TỉnhTrưởng đến bến đò ThạnhTrị. Có cây dái ngựa “ giá ngự” dọc
đoạn nhà thương, theo thành 11ème RIC, đến sân vận động rồi trường Bà Sơ.Còn lại
là me từ nhà Thờ, trường Taberd đến bến đò. Buổi sáng có những xe ba gác
đổ phân thùng và xe xích lô chở người đi chợ. Buổi trưa, trời nắng gắt. Con đường
vắng hoe. Hình như sự nhộn nhịp của thành phố nằm ở phía chợ, sát bờ kinh Bảo Định,
dài qua cầu Quay, dọc theo con đường bờ sông đến ga xe lửa.
Biệt thự của Ông Jacques Lê Văn Đức nằm trong khu đất khoảng
nửa mẫu, chung quanh được bao bọc bằng tường gạch chắc chắn, kế bên trường học
của dòng Mến Thánh Giá. Có hai khu nhà riêng biệt. Khu dành cho chủ nhân ở với
phòng ốc rộng rãi, đẹp đẽ, ra vào bằng cổng chánh. Còn bên trái là căn nhà to,
có nhà bếp, nhà kho và hai khu riêng biệt. Phía bên phải có cây da cao, rễ bu
chằng chịt, lá phủ um tùm, che khuất tượng Đức Mẹ nằm bên dưới. Phần sau là vườn
hoang, đủ thứ cây cối mọc loạn xạ như chuối, mận, khế, sung… Từ lâu hông có ai
dọn dẹp. Chủ nhân là người đàn bà luống tuổi, lại bịnh ho lao, hông mấy khi bước
ra khỏi nhà.
Ông Trương Văn Mạnh và ông Nguyễn Văn Bạch mướn căn nhà to nầy.
Ông Mạnh là một nha công rất giỏi nghề, nghe đâu bà con với nghệ sĩ PhùngHá.
Ông ở Nam Vang về Mỹ Tho, mở phòng trồng răng (cabinet dentaire) ở số 28 đường
Ariès, kế bên phòng khám bịnh của đốc tờ Nguyễn Kiểng Bá. Ông Mạnh, thời đó
chưa quá bốn mươi, sức khoẻ còn dồi dào nên ông tham gia nhiều chương trình thể
thao của thành phố như đua xe đạp, bơi lội, đánh tennis, đua xe mô tô. Ông hy vọng
có ngày ông sẽ là Phượng Hoàng Lê Thành Các. Nhà ông có một chiếc Harley
Davison và một chiếc xe Traction quinze, một tủ lạnh chạy bằng dầu lửa, một cái
radio có cặp mắt thần xanh lét để nghe đài Phát Thanh Pháp Á …
Vào lúc đó, ở những tỉnh lẻ làm gì có nha sĩ, chỉ có nha công
thôi. Nha công làm đủ thứ: trồng răng, trám răng bị sâu ăn, nhổ răng, làm răng
giả, bịt răng. Ngay như đốc tờ thì mỗi tỉnh chỉ có một. Mỹ Tho có đốc tờ Nguyễn
Kiểng Bá. BếnTre có Trần Quới Tử. Ông Mạnh lanh lợi, giao tiếp rộng rãi, nên
quen biết nhiều thành phần xã hội trong thành phố Mỹ Tho: từ tỉnh trưởng đến
người chủ tiệm báo Nam Cường ở cuối góc chợ, gần cầu Quay, đến bác Ba Phước chủ
garage sửa xe… Cho nên công việc làm ăn của ông rất phát đạt.
Bên hông căn nhà là một cây trứng cá gốc to gần khoảng một
người ôm, cành lá sum sê. Trưa nào cũng có những bầy chim trao trảo bu đầy, kêu
trao tráo, nhảy từ nhánh nầy qua nhánh khác, tìm kiếm những trái chín đỏ. Có những
buổi trưa hè, ba đứa – Xuân, Phụng và Yvette – chụm nhum nhau chơi những trò
chơi của những đứa con nít khoảng tám, chín tuổi dưới gốc cây trứng cá đó. Những
buổi trưa đó qua đi nhanh chóng, nhưng Xuân hông bao giờ quên được hình ảnh của
cô bé Yvette Đỗ hớt tóc bum bê. Xuân hay len lén xích lại gần, kê mũi sát đầu
Yvette. Tóc thơm mùi bông cau nhà ngoại. Có khi cô bé bất chợt quay đầu lại, bắt
gặp. Nàng lấy bàn tay vỗ nhẹ lên đầu Xuân mấy cái, cười cười. Nước da Yvette
hơi ngăm ngăm và đôi mắt tròn, đen như hai hột nhãn. Đôi mắt đó đã hớp hồn Xuân
từ lúc nào hông biết. Mà cho đến bây giờ, ma mắt của Yvette còn ám ảnh chàng
mãi mãi trong cơn mộng mị nằm vun vút nơi tiềm thức vời vợi ở cõi Ngân hà xa
xăm.
– Cháu kèm cho hai em Trọng và Hùng. Tụi nó đều học ở Saint –Exupéry hết. Tuần bốn ngày được hông cháu? Chỉ buổi chiều thôi, chừng hai tiếng đồng hồ, cho tụi nó khỏi mê chơi, lo làm bài vở. Tụi nó có hai con chị, nhưng mà chị tụi nó hông kèm được. Tụi nó lờn chị, hổng chịu học…
Xuân cẩn thận dựng chiếc xe đạp bên gốc cây mận hồng đào trước
nhà. Mặc dầu trời nóng nhưng chàng cũng ráng mặc áo sơ mi dài tay. Tóc chải
thêm chút brillantine bóng mượt. Cũng giống như nơi nhà cô học trò tên Xuân, buổi
học bao giờ cũng có sẵn ly nước đá chanh để trên bàn. Hai đứa bé rất ngoan.
Xuân cố gắng dùng hết vốn liếng tiếng Pháp của mình để chỉ bài cho tụi nó sau
giờ học ở trường…
Một giọng nói êm dịu ru nhè nhẹ từ sau lưng Xuân.
– Ông thầy giáo nầy dạy kèm trẻ em bằng tiếng Pháp coi được lắm
nhe! Nhưng mà thầy chia verbe aimer có rành hôn?
– Yvette? Yvette?Em ở đây sao? Em làm anh giựt mình!
– Thì em là chị của hai thằng nầy mà!
– Vậy em, em là… con của Tata M…?
Yvette hiện ra từ một tinh vân xa vời. Yvette trở về lại với
ước mơ của chàng rồi. Yvette đang cười rạng rỡ, sáng ngời. Mái tóc cắt ngắn và
uốn cuộn tròn gọn ghẽ. Đôi má vẫn hồng như mận Hồng Đào MỹTho. Đôi mắt vẫn đen
nhánh như hai hột nhãn. Cánh áo trắng mượt mà, cái jupe xanh lơ. Xuân nhìn
Yvette mê muội. Hơn mười năm xa rồi, Yvette trở thành một thiếu nữ đẹp, đầy nhựa
sống. Chàng mơ màng…
– Em còn nhận ra được anh sao?
– Sao hông? Ê! Hai thằng nhóc này đi chỗ khác chơi để tao nói
chuyện với ông thầy của tụi bây một lát coi.
– Em nhận ra anh từ lúc nào?
– Từ lúc đầu tiên anh dạy hai đứa nhỏ. Má cho biết có một anh
sinh viên chịu kèm tụi nó. Hình như thằng đó cũng đã ở MỹTho. Em rình xem anh dạy
cả tháng chớ bộ. Hóa ra anh cũng hông thay đổi bao nhiêu. Hơn mười năm rồi, em
vẫn còn nhớ vóc dáng, cử chỉ của anh. Em vẫn còn nhớ anh. Nhớ anh hay hun trộm
tóc em!
– Em cũng vẫn vậy. Anh nhớ đến con bé Yvette hớt tóc bum bê.
Da ngăm ngăm. Tóc ngọt thơm bông cau. Cặp mắt tròn xoe đen nhánh. Con bé chơi
đánh đũa dở ẹt, chơi búng hột me thua hoài.
– Tại con Phụng chớ bộ! Con nhỏ đó chúa ăn gian.
Cặp môi của Yvette trề ra như hồi xưa, nhưng bây giờ như mời
gọi… Chàng nhớ đến ngôi nhà của Yvette ở MỹTho, bên hông con đường của dinh TỉnhTrưởng.
Chung quanh có nhiều cây bông sứ cùi màu trắng. Bông rụng bay tơi tả sau những
con trốt cuốn tròn. Chàng nhớ đến con nhỏ mặc bộ đồ tắm đỏ chói có đốm bông trắng.
Đồ nhát như thỏ đế. Cứ mỗi lần bỏ xuống nước là la choai choái và mặt xanh như
tàu lá. Mà nước ở cầu tàu sau dinh Tỉnh Trưởng đâu có gì là lạnh và sâu lắm
đâu! Nước ròng còn nhìn thấy lườn tàu, chìm hồi Thế Chiến thứ hai, trồi lên ở kế
bên chưn cầu tắm. Cá nóc (Cá nóc sông, nhỏ chừng bằng ngón tay cái ) đâu cắn
chim con gái được! ChắcYvette sợ nước và sợ ma da. Cô bé sợ ma da cũng có lý vì
nhiều người đã chết chìm ở đây. Rồi sau đó con bé cũng lần lần dạn nước và lội
chó cà chủm cà chụp trong cái phao màu mè nhỏ bé…
– Hôm nay anh tính nói với má em cho anh xin dạy ba ngày cuối
tuần thôi.
– Còn mấy ngày đầu tuần anh đi đâu?
– Mấy người bạn cũ rủ anh đi Tây Ninh cùng dạy học trên đó.
– Anh hông tiếp tục đi học nữa sao?
– Có chứ! Phải có tiền anh mới học lên nữa được.
– Anh cẩn thận lúc đi tỉnh xa. Tình hình lúc rày hông yên ổn
gì mấy. Em vừa đọc báo sáng nay, thấy có trận đánh lớn ở Ấp Bắc (ngày hai tháng
giêng năm 1963).
– Việt Cộng khuấy động. Hổng hiểu tình hình đi đến đâu. Mình
sống cũng gần được mười năm an lành ở miền Nam rồi.
Rồi sau đó, có những buổi chiều, hai đứa lang thang trên đường
phố. Hai chiếc xe đạp chạy cặp song song nhau, nói chuyện trời đất, mưa nắng…
dưới những hàng me lão rụng đầy lá sau cơn gió mạnh. Những ngày bát phố mệt
nhoài rồi kết thúc ở tiệm cháo cá trong khu chợ cũ. Đôi khi, hai người ngồi dưới
gốc thông già trong vườn Bồ Rô. Cặp môi hôn mọng mềm của Yvette vẫn ngọt ngào
như sa bô chê chín, như những trái trứng cá chín đỏ hồng thuở xưa… Yvette lượm
những trái thông khô rồi liệng đi tứ phía.
– Mình đừng làm như vậy. Hãy chất thành đống cao.
– Tại sao mình?
– Quăng chúng đi lộn xộn, mình sẽ bị chia lìa.
– Ờ hé! Mình tin dị đoan dữ hôn.
Trường Trung Học Tư Thục Tiến Đức ở bên kia đường, đối diện với
bến xe Tây Ninh. Khoảng năm 1958 đến 1963, học trò đi học càng ngày càng đông.
Trường công ở tỉnh hông đủ cung ứng cho số lượng học sinh quá nhiều. Hơn nữa,
trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp Lê Văn Trung ở gần ngã ba Ao Hồ, trong khu vực Tòa
Thánh Cao Đài, đã đổi thành trường bán công. Ở nội ô Tòa Thánh chỉ có một trường
Tiểu Học dạy đến lớp nhứt: Đạo Đức Học Đường, ngoài ra hông có một trường Trung
học nào khác. Một số thầy cũ của Jumoir Vương Mạnh Tuấn đứng ra xin phép mở trường
Đệ Nhứt Cấp. Cũng có một số người có của, đứng ra kinh doanh. Họ bỏ tiền cất
trường lớp rồi thuê một người có bằng cấp cao làm Hiệu Trưởng. Xong, kêu gọi
các sinh viên đang học Đại Học dạy ăn lương giờ. Điều khá đặc biệt là khi đó
hông thấy bóng dáng các bà, các cô đi dạy học ở tỉnh lẻ.
Trường Tiến Đức là một loại trường kể trên. Ông Ysup-một người
Ấn ở Việt Nam lâu đời, có vợ Việt- đứng ra xây cất, mướn thầy Lê Thanh Tâm làm
Hiệu Trưởng. Trường chỉ có một dãy gồm bốn phòng học, dành cho từ lớp Đệ Thất đến
Đệ Tứ. Học sinh gồm các làng gần chung quanh như Thanh Điền, Bàu Sen, Trảng Lớn…
hoặc miệt xa hơn Tầm Long, Bến Sỏi đều tụ về đây.
Số học trò quá đông. Mỗi lớp nhồi nhét đến 60, 70. Có lẽ Ông
Giám Đốc muốn kiếm lời nhiều nên hông phân bớt lớp. Nhiều khi lớp Đệ Thất bên nầy
tập đọc Anh Văn hay Pháp Văn to tiếng, những lớp bên kia hổng học được. Thầy
Huy Thắng hay phàn nàn nhiều nhứt. Đành chịu vậy thôi. Vách ngăn lưng chừng của
lớp học chỉ cao khoảng ba mét hông đủ chặn tiếng vang lan ra cả toàn trường. Thầy
Hiệu Trưởng Lê Thanh Tâm cũng nêu ý kiến đó với ông Giám Đốc Ysup. Ông nầy cười.
Để coi. Người Ấn đã tính toán bỏ vốn liếng ra có bấy nhiêu thì phải lấy lời vô
cái đã.
Những ngày nóng nực, học trò đua nhau cầm tập vở quạt sành sạch.
Đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê tuôn ra như lổ mội, chảy dầm dề. Em trai bị
ướt thì cổi nút áo phanh ngực. Còn các em gái thì đâu làm vậy được, chỉ vén tóc
lên cao thôi. Tội nghiệp, áo mỏng của các em gái ướt như mắc mưa. Chúng nó đành
quạt lia quạt lịa, cố đẩy lùi cái nóng cháy người từ trên mái tôn hắt xuống.
Các em xin đi uống nước và đi đái lia chia. Mỗi lần thấy chúng nó dơ tay lên,
thầy giáo hông cần biết chúng xin gì, chỉ cần khoát tay là xong. Xuân cầm cuốn
sổ điểm danh nóng hổi mà hông đành lòng gọi các em lên đọc bài. Thầy cũng bực bội
như em vì cái cravat cứ vướng ở cổ!
Học trò lại còn khổ hơn nữa trong lúc mưa dông. Mây đen kéo tới
mù mịt. Trời tối om. Hông có một bóng đèn. Mưa nổ lốp đốp trên mái tôn. Đây là dịp
học trò nói chuyện dậy trời đất. Làm gì để trách mắng chúng bây giờ? Hổng học
được thì nói chuyện chớ làm gì? Gió mạnh. Mưa tuôn tóe vào lớp. Thầy trò dồn
vào một cục về phía cuối góc. Có đứa né tránh hông được, bị ướt như chuột lột.
Mưa nhiều khi rí ra rí rích, kéo dài cho đến hết giờ học. Học trò tuôn nhau ra
về dưới cơn mưa còn nặng hột.
Trình độ và tuổi tác học sinh cũng chênh lệch nhau quá nhiều.
Những em thi rớt vào trung học, những trò đi học trễ vì nhà nghèo… đều vào trường
tư. Cha mẹ làm lụng quần quật, mong cho con cái có chút chữ nghĩa, có chút bằng
cấp để thoát khỏi cảnh nghèo khó.
Cho nên, có những em ở độ tuổi 15, 16 học lớp Đệ Thất và 17,
18,19 tuổi học lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Thầy giáo nhiều khi hông lớn tuổi hơn học trò
bao nhiêu. Sự hiểu biết của ông thầy về xã hội bên ngoài đôi khi thua xa những
em lớn tuổi.
Một buổi sáng, thầy Đỗ Bá Chúc đang dạy giờ Sử Địa. Đám học
trò lớn tuổi ở cuối lớp bu quanh trò Trung Tín, chúi đầu vào nhau đọc cái gì đó
và xì xầm bàn tán. Thầy Chúc để ý nhiều lần. Cuối cùng thầy ném cục phấn về tụi
nó. Cả bọn lấm lét, thậm thụt chuyền tay nhau một cuốn tập. Thầy Chúc ngưng dạy,
đi xuống bàn chót, đến ngay nơi em lớn tuổi nhứt.
– Trung Tín! Đưa cho thầy cuốn tập!
– Dạ. Hông phải của em, thầy!
– Của ai không biết. Đưa cho thầy. Mau lên.
Trò Tín do dự nhưng rồi cuối cùng cũng đưa cho thầy Chúc. Học
trò tỉnh lẻ vẫn ngoan ngoãn và có lễ phép. Tụi nó rất kính mến thầy, chưa bao
giờ tỏ ra vô lễ với thầy. Ngoài giờ học, chúng nó khoanh tay cúi đầu chào khi gặp
những giáo sư cùng dạy học ở trường.
Thầy Chúc mở cuốn tập gấp làm đôi, nhầu nát. Cái gì mà tụi nó
chuyền tay nhau đọc dữ vậy? A! Cái tựa nghe hấp dẫn: “ Bảy đêm khoái lạc ”. Thầy
xếp tập lại, nghiêm nghị nhìn tụi nó rồi làm như hông có gì, thầy tiếp tục giảng
bài cho đến cuối giờ học.
– Trưa nay, lúc em Huân đem cơm tới nhà cho mấy thầy. Em Tín
nhớ đi theo gặp thầy lấy cuốn tập nầy về.
Trò Tín xanh mặt. Nó nghĩ trưa nay thế nào cũng bị các thầy xạc cho một trận. Mà nếu mét ba má thì nguy hơn. Các học trò gái đều quay mặt nhìn nó. Chắc có gì quan trọng lắm đây, mới đi tới gặp thầy?
– Ê! Thắng, mầy có đọc cái tập: “Bảy đêm khoái lạc” chép tay
nầy bao giờ chưa?
-Chưa. Hồi nhỏ đi học thì chỉ biết những điều tốt lành trong
Quốc Văn Giáo Khoa Thư, đâu có biết gì. Lúc học ở lớp Đệ Ngũ, có nghe tụi bạn
nói. Hình như cuốn đó dịch từ tiếng Pháp: “Les sept nuits merveilleuses”, nói về
chuyện tình dục vợ chồng trong một tuần lễ hưởng tuần trăng mật.
– Thằng Thắng nói đúng đó. Tao đã đọc qua rồi. Nhưng lúc đó
còn nhỏ quá, mới 17 tuổi mà. Học trò tỉnh lẻ mà, còn khờ lắm. Đọc xong rồi cũng
quên hết. Đâu có dám đem cuốn tập đó về nhà. Tụi tao chỉ lén đọc trong giờ ra
chơi.
– Mầy đọc ở đâu Tuấn?
– Ờ! Để tao nhớ lại, Chúc… A! Lúc đó tao đang học ở trường Lê
Văn Trung,Tây Ninh, lớp Đệ Lục E, khoảng năm 195… gì đó. Hông hiểu ở đâu mà thằng
Bá Chưởng có. Nó lén lút chuyền tay cho tụi tao. Kể cũng lạ, vì đó là trường đạo,
trong vùng Cao Đài mà. Học sinh đều phải đọc kinh trước khi vào học. Tao chỉ
còn nhớ: “Đại từ phụ xin thương khai khiếu.Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ”… Ngày
nào cũng có chào cờ, sau đó hát bài:’Học sinh hành khúc”. Học trò thời đó ngoan
lắm: gặp lúc chào cờ phải đứng nghiêm, bỏ nón xuống; gặp đám ma phải dỡ nón ra;
gặp thầy cô cúi đầu chào… Tụi tao đi học còn mặc quần xà lỏn và đi chơn không
mà! Gặp con gái còn mắc cỡ thấy mồ tổ. Có bao giờ dám tới gần tụi nó đâu, chỉ
cáp đôi tầm bậy tầm bạ chơi chơi vậy thôi. Tụi nó cáp đôi tao với con Thia.Tao sợ
gần chết, hông dám ngó nhỏ đó.
Chắc rồi, có lẽ ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc tràn ngập
vô Việt Nam nên mới có loại sách khiêu dâm như vậy. Vào những năm đó, nhà trường
có rất nhiều sách báo của Mỹ cho không cho học sinh như: Thế Giới Tự Do, Sự
Thành lập Hiệp Chủng Quốc…
– Còn tao…
– Còn mầy sao hả Thiệu?
– À. Lúc nhỏ tao học Taberd. Cuối tuần chỉ biếtTarzan, Zorro,
Charlot, Laurel-Hardy, mấy phim của Mỹ đánh với “mọi da đỏ”và những cưốn hình vẽ:
“Tintin”… nhờ số bon points của mấy frères thưởng. Tao vào Sài
Gòn năm 1957. Rồi thì mình cũng lang thang ngoài phố. Có mấy tay cứ vò vè bên
mình, xòe ra các tấm hình các cô gái ở trần ở truồng và mấy cọc tập giấy nhỏ. Tụi
nó lấy tay bung rẹt rẹt, hiện ra cảnh làm tình của cặp nam nữ. Nó cò mồi
để mình mua. Mình mắc cỡ, te te bỏ đi chỗ khác.
– Còn tớ nghĩ trong cuốn tập đó tả còn thua Nguyễn Du nhà
mình nữa. Chỉ có bảy đêm thôi. Trong truyện Kiều là: ‘Vành ngoài bảy chữ, vành
trong tám nghề”.
– Mầy nói đúng đó, Thuyên. Mà thôi, đừng nói đến chuyện đó nữa.
Bây giờ tụi bây nghĩ có nên trả cuốn tập nầy lại cho mấy thằng học trò tinh ma
đó hông. Theo tao, nên trả cuốn tập lại cho tụi nó. Giữ lại, mang tiếng là mình
cũng đọc như bọn nó. Mà tao nghĩ đám đó hông chỉ có một cuốn nầy thôi đâu. Nhứt
quỉ, nhì ma, thứ ba học trò. Chắc còn có nhiều cuốn khác của những thằng trời
đánh nào đó cho tụi nó mượn. Mất cuốn nầy rồi tụi nó càng chép thêm nhiều cuốn
tập khác nữa. Cũng vậy thôi.
– Thằng Xuân nói nghe có lý. Trả lại cho rồi. Xong nói cho tụi
nó là các em còn nhỏ, nên cố gắng học hành, đừng nghĩ lung tung lang tang xao
lãng việc học, phí công cha mẹ.
– Thằng nào giỏi thì giảng morale cho tụi nó. Còn tao thì
hông được. Tao đã có một cuộc sống bồng bột ở cánh đồng Mỹ Nhiên rồi. Tao đâu
có tư cách gì mà dạy dỗ đám học trò xấp xỉ tuổi mình.
Mầy nghĩ coi. Trong đời sống xã hội mình, trai gái vừa mới lớn
lên đều phải tự tìm hiểu tình dục. Từ chuyện coi chó nhảy đực, heo bỏ nọc, vịt
xiêm cồ quầng con mái cả buổi dưới nước… Rồi bọn mình tưởng tượng ra là mình
cũng giống như vậy. Cha sanh mẹ đẻ đâu có ai dạy. Họ coi những điều đó như cái
gì cấm kỵ, hông ai dám nói ra. Mẹ sanh con ra ở đâu? Ở bụng mẹ!
Mà có nói ra thì thường ví von. Mầy cũng thừa biết là bọn đàn ông gặp nhau bên bàn tiệc rượu thế nào cũng có những câu chuyện tiếu lâm. Họ nhắc đến cái đó nhiều nhứt. Rồi trong câu đố cũng đầy dẫy đó.T ụi bây xem câu đố nầy có phải cảnh làm tình giữa trai và gái có hơn trong: “Bảy đêm khoái lạc” hông?
Mình tròn vành vạnh, đít bảnh bao,
Mân mân mó mó đút ngay vào.
Thủy hỏa tương giao sôii sình sịch.
Âm dương nhị khí sướng làm sao!
(hút thuốc lào)
Đám giáo sư trẻ thắc mắc: liệu cái nhóm học trò gái có bị mấy
thằng học trò trai quỷ sứ nầy dụ coi những cuốn tập đó hông? Ai mà biết được học
trò thời bây giờ. Văn minh Âu-Tây như cơn gió lốc, đang tràn ngập thành phố Sài
Gòn. Tuổi trẻ đang bắt đầu bị tiêm nhiễm lối sống thực dụng và hiện sinh… Quần
cao bồi ống rộng, đầu tóc bồng bềnh, điếu thuốc ngậm phì phà là cái mốt. Tình
yêu của những đợt sống mới nhen nhúm: nhóm CTYở Sài Gòn, tập thơ: Em Là Con Gái
Trời Bắt Xấu của Lệ Khánh. Cuốn tiểu thuyết Bonjour Tristesse (Buồn ơi!Chào mi)
của Francoise Sagan được dịch ra, bán tràn hè phố Lê Lợi.
Thời mới lớn lên của đám giáo sư trẻ nầy ở thành thị chỉ biết
Oh, Bernadine…, La guerre et la Paix (ChiếnTranh và Hoà Bình), Giant (Vĩ Đại),
Le riz amer (Hạt gạo cay đắng), Olé! O’ Cangaceiro… ở những rạp Lê Lợi và Vĩnh
Lợi. Phim Pháp, chiếu ở màn ảnh nhỏ, toàn phim đen trắng chỉ có Trung Tâm Văn
Hóa Pháp.Ở mấy quận hơi xa nội ô, chiếu toàn phim Ấn Độ và đôi khi phim Nhựt Bổn
như Bạc Trắng Lửa Hồng…..
Chắc đám học trò gái nầy cũng tiêm nhiểm trào lưu mới nầy nên chúng bám riết các thầy giáo trẻ. KimHoàng đeo thầy Vương Mạnh Tuấn, Ngọc Cúc chận thầy Nguyễn Thiệu lại hỏi bài miết và Bình Quang thường mang trái cây cho thầy Xuân. Thầy Tuấn là thầy đẹp trai nhứt trong đám giáo sư dạy ở trường. Thầy là con lai mang hai dòng máu Ấn-Việt. Hai cặp chơn mày dài đậm. Mũi cao. Miệng rộng, lúc nào cũng chúm chím cười. Thầy luôn luôn sức dầu thơm loại gì mà tụi nầy luôn gọi là mùi cà ri.
– Ê! Jumoir. Mầy có tính tới hông. Bọn tớ thấy Kim Hoàng câu
mầy mấy tháng nay. Nhất định là nàng hông tha mầy đâu.
– Thằng Chúc nói đúng đó tụi bây. Còn Ngọc Cúc nữa chi. Tao nghĩ tụi bây nên làm đám cưới cho rồi. Đám học trò mà đồn rùm lên, tụi mình cũng khó dạy ở đây.
Rốt cục rồi cũng có hai cái đám cưới. Bình Quang càng đeo riết
thầy Xuân. Chọn những ngày nào thầy Xuân ở lại và lợi dụng chỗ quen biết với Ngọc
Cúc và Kim Hoàng, nàng thường xuyên đem tới đủ thứ trái cây và các loại bánh.
Chiều nay ông Giám Đốc Ysup mời các giáo sư ăn cà ri thỏ. Đã
ăn một lần, Phùng Xuân hông thích mùi vị nồng nặc của cà ri Ấn nên ở nhà.
Cả tỉnh Tây Ninh hông có chỗ nào để đi chơi. Sau bốn giờ chiều,
cảnh vật vắng lặng. Con sông chia hai thành phố. Một bên là khu hành chánh, có
đường sá sạch sẽ, ngăn nắp. Còn một bên là khu buôn bán. Đoạn đường ngắn hông đầy
năm trăm thước từ cầu Tây Ninh đến ngã tư đi Trảng Sụp-Thanh Điền-Tầm Long có
nhiều tiệm ăn, quán sá và rạp chiếu bóng… Còn phía dưới là chợ búa, hàng tạp
hóa… Nơi nầy rộn rịp vào buổi sáng, trưa vắng hoe và buổi chiều tối có bán chè,
cháo, hủ tiếu và các món ăn vặt…
– Em đem cho thầy nhiều quá vậy?
– Đâu có gì thầy. Chỉ mấy thứ trong vườn của em thôi: đu đủ,
chuối, mận, mãng cầu… Còn bánh thì em làm.
– Bây nhiêu đó thì thầy ăn cũng hông hết. Thầy chỉ ở đây có mấy
ngày thôi.
– Thầy đâu có đi chợ mua được trái cây đâu. Thầy chỉ ăn cơm
trong gà mên hông hà!
– Mà nè, Bình Quang. Thầy còn thấy trong giỏ đệm em đem ra có
thêm một bộ pyjama và mấy cái quần cụt nữa. Bình Quang!
– Dạ!
– Em lập tức lấy bộ pyjama và mấy cái quần bỏ lại trong giỏ đệm. Nếu
hông, thầy hổng lấy bất cứ cái gì hết. Mau lên!
Tiếng nói gay gắt của Xuân làm Bình Quang sợ sệt. Nàng vội
vàng cầm mớ quần áo đút lại vào trong giỏ. Đôi mắt rơm rớm nước nhìn Xuân.
– Em mới học may. Nên tập may thử mấy cái đó cho thầy.
Xuân quay lại. Trong bóng tối lờ mờ của buổi chiều tàn, hai mắt
Bình Quang ươn ướt như hai viên sỏi đen nằm trong lòng suối trong veo ở núi Điện
Bà. Thầy ơi, em thương thầy lắm. Sao thầy lại hờ hững với em như thế. Biết bao
là công lao khó nhọc, em phải thức đêm thức hôm lén mẹ may những áo quần nầy
cho thầy. Thầy hãy nói cho em biết là thầy có thương em hôn? Em khổ nhiều rồi.
Sao thầy nỡ khắt khe với em như thế? Hai con nhỏ quỉ kia cứ chế nhạo em hoài.
Sao mầy cua thầy Xuân dở thế. Hông giống như tụi tao chút nào.
Hai người nhìn nhau. Xuân biết, bây giờ chỉ cần môt cử chỉ thân mật là mọi việc sẽ thay đổi tất cả. Ông thầy đâu hơn cô học trò bao nhiêu tuổi. Chắc hai, ba tuổi là cùng. Như thế có được hôn? Đâu có ai cấm cản chàng làm điều đó? Nhưng đây hông phải là cánh đồng hoang Mỹ Nhiên. Ở đây, có nhiều người. Ở đây, Xuân là một con người khác-một thầy giáo, đạo mạo trong bộ quần áo tươm tất, đứng giữa một đám học trò ngây thơ, hiền lành, chất phác. Xuân sao dám lợi dụng lòng kính trọng của đám học trò mình thương yêu? Và hơn nữa sự tin yêu của Yvette?
– Thôi em đi về đi. Trời sắp tối rồi. Nhớ cẩn thận lúc đi qua
cái trảng gần Bàu Sen trước khi quẹo vào nhà em. Đừng có khóc nữa. Hãy lau sạch
nước mắt rồi hãy về. Nếu hông, ngày mai thầy gọi lên trả bài Pháp văn. Em hông
thuộc, thầy cho em cặp mắt kiếng.
Bình Quang ngoan ngoãn lau khô nước mắt, rồi đi xuống nhà sau rửa mặt…
29/11/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét