Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Trăng suông 1

Trăng suông 1

PHẦN 1

Một thời trai trẻ

Chiếc xe đò Á Đông chạy vùn vụt trên đường Sài Gòn-Mỹ Tho. Phùng Xuân ngồi ghế bìa. Gió thổi phần phật. Chàng đang sung sướng nhìn ra đồng ruộng Tân An mênh mông cò bay thẳng cánh. Đã là tháng bảy rồi. Đồng lúa  xanh xanh mút mắt. Cuối chân trời, những đàn cò trắng bay thong thả và những đám chim lá rụng rập rờn lên xuống. Có những đoạn đường xe đò chạy song song với đường xe lửa. Đột nhiên Xuân nhớ lại những chuyến xe lửa thú vị. Ngồi chỗ bậc thang lên xuống ở những toa hàng hóa, chàng mặc tình ngắm nhìn đồng ruộng, ca hát và suy nghĩ vẩn vơ mà hông bị quấy rầy… Nhưng bây giờ, xe lửa hổng còn chạy nữa. Năm ngoái (1958) là lần cuối cùng Xuân về Mỹ Tho bằng loại xe chạy cà xịch cà xịch tuôn mù mịt khói đó…

Cách đây hai ba tuần vừa có kết quả kỳ thi Tú Tài I, Xuân đã nhảy tưng tưng. Sau khi loang quanh ở SàiGòn thăm bè bạn cho đến hôm nay, Xuân mới xin phép Má về quê chơi trong vòng một tháng.

Xuân xuống xe ở Ngã Ba Tháp, rồi băng qua đường, đi xuống hồ Trúc Bạch. Nhà bà cô thứ Tám ẩn hiện sau lùm cây bên trái. Ông dượng, Sáu P…, người con út của ông Hội Đồng M…, sau khi phung phí hết tài sản vào những canh ỏ ( hình như là một loại bài làm những miếng gỗ nhỏ như là bài đô mi nô. Chỉ thấy lúc còn nhỏ. Hông sưu tầm được. ) thâu đêm suốt sáng, chỉ còn giữ lại được mười mẫu vườn dừa hương hỏa ở Châu Thới (cầu Ông Hổ). Thời chiến tranh- khoảng năm 1946-1954-, vùng Ba Châu còn là khu tự trị của Việt Minh. Sau khi làm giáo làng một thời gian, ông chán nản. Ông bỏ làng lên tỉnh, làm thư ký Tòa Án. Rồi bây giờ, quen nếp sống sáng xách xe đi chiều đạp xe về, ông ở lỳ lại tỉnh, bỏ mặc bà vợ bươn chải coi vườn tược ở làng.

Xuân bước vào nhà. Ông dượng đang ngật ngù ngồi trên ghế đẩu. Xị rượu đế với trái cốc còn độ nửa và mấy trái ớt hiểm để trên bàn. Ngày nào cũng vậy, chỉ cần bao nhiêu đó là ông có thể nhịn ăn cơm suốt ngày.

– Chào dượng

– Sao mậy? Học hành ra sao rồi?

– Dạ, con đậu Tú Tài I rồi. Có kết quả hôm tháng rồi.

– Giờ đi đâu đây?

– Dạ, con dìa quê chơi

– Bao lâu?

– Dạ, một tháng

– Đã hé!

Nói xong, ông tiếp tục gật gù bên ly rượu đế. Chàng đi xuống nhà dưới rộng thênh thang. Bà cô đang lui cui bên đống rau lang.

– Ngọc Thiền đâu rồi hả cô?

– Nó ở trong kia kìa, hổng biết đang làm gì ở trỏng.

Vừa lúc đó, Ngọc Thiền đi tới, mừng rỡ:

– Anh Ba. Anh vừa mới dìa hả? Thi đậu hông?

– Đậu rồi. Dìa quê chơi một tháng đây. Cha! Lúc rày Sáo Sậu coi bộ trổ mã rồi nghe.

Cô em gái, con thứ sáu của bà cô, tên thân mật Sáo Sậu, vội cười bẽn lẽn đỏ hồng đôi má. Ngọc Thiền, năm nay 15 tuổi, là con gái duy nhứt trong gia đình toàn anh trai nên được cưng chiều. Ngọc Thiền có đôi mắt u buồn, xa vời vợi. Chàng quay mặt đi chỗ khác.

– Thôi anh đi nghen.

– Đi đâu?

– Xuống cầu Cá Lóc, coi Khanh và Vân còn ở đó hông rồi dìa Lương Quới chơi.

– Chà! Coi bộ anh mết cô nào đây. Nói em nghe đi!

Xuân mỉm cười, nheo mắt nhìn Ngọc Thiền, bước ra khỏi nhà. Ánh nắng hơi nghiêng về chiều. Chàng đi dọc theo bờ hồ Trúc Bạch, băng qua mấy con đường vắng vẻ rồi hướng về cầu Cá Lóc. Ngôi nhà to lớn hoang tàn bên trái vẫn còn đó, nhắc chàng nhớ lại một thời học sinh ngắn ngủi ở Bến Tre và mối tình ngây thơ đẹp đẽ…

– Ê, Xuân. Mầy thấy con Điệp hông? Nó ngó mầy dữ lắm đó!

– Thiệt hôn? Mầy nổi tiếng xạo, đó Trường.

– Sao mầy biết tao xạo?

– Thì tin lời mầy đó. Hôm kia, mới vừa tan trường, tao thót lên xe dông theo nó. Qua khỏi cầu Cá Lóc, tao rề rề theo. Ban đầu, chắc nó tưởng bạn cùng trường tan học dìa. Tới Rạch Chanh, nó thấy lạ, nó quay đầu lại, nhìn thấy tao, nó đạp xe nước rút. Tao đeo theo, nhưng đường lổm chổm đá hông cặp song song với nó được. Vừa lên dốc cầu Gò Đoàn, tao dọt lên. “ Điệp ơi, Xuân có cái nầy”. Bất ngờ, nó xẹt qua trái. Tao lủi vào lề, may nhờ bụi lứt, nếu hông té xuống sình nhào vô đám ô rô. Nó hổng thèm ngó lại, quẹo trái vào đường bờ dừa, chạy miết. Mầy gạt tao hả? Đồ thằng quỉ sứ!

Bên trái dưới dốc cầu Gò Đoàn, dọc theo đường bờ dừa có những hàng cây điệp ( phượng vĩ ) đang nở rộ bông đỏ ngất cả bầu trời chiều….. Bông Điệp !!!……Và sau đó là những lá thư ngây ngô qua lại. Hồng Điệp rồi cũng hông còn qua mùa hè. Những dòng chữ, những hình ảnh trong “Lưu Bút Ngày Xanh” rồi cũng trôi vào không gian tít mù xa…

– Anh Ba. Anh dìa rồi hả?

– Thì dìa tới đây rồi, còn hỏi dìa rồi hả.Hai con nhỏ nầy!

– Em tưởng vậy mà?

– Em tưởng sao Khanh?

– Em sợ anh hông dìa.

– Bây giờ anh ở đây nè! Bộ nhớ anh sao?

– Đúng đó, anh Ba. Chị Sáu em hổm rày nhắc anh hoài. Anh thi đậu hôn?

– Con nhỏ Vân nầy lãng xẹt. Tao nhắc hồi nào mậy? Có mầy nhắc thì có.

– Anh thi đậu rồi. Khanh biết rồi mà! Thôi hai chị em đừng cãi nữa. Còn mấy người kia đâu hết rồi?

– Vậy hả anh Ba? Vui quá hé! Tụi nó hẻ? Chưa kịp hết lớp hè là  lo dông trước rồi. Anh Tân, con Bích dọt lúc trưa. Còn Thủy, Ái, mới vừa ra khỏi nhà chừng chút xíu thì anh dìa.

– Còn hai em? Sao chần chờ ở đây?

– Chỉ đợi anh đó, anh Ba. Cứ lo miết vụ anh đi thi. Hồi sáng chỉ nói bữa nay thế nào anh cũng dìa. Em hối chỉ lo dọn đồ đạc. Chỉ nói thủng thỉnh mà!

– Con nhỏ Vân nầy! Mầy lợi xạo nữa rồi.

Xuân trìu mến nhìn Khanh. Nàng đỏ má và đôi mắt long lanh. Các cô gái miệt vườn kẹp tóc dài, làn da trắng, thon thả trong bộ áo bà ba, ăn nói thật ngây thơ, hồn nhiên.

– Có gì cho anh ăn hông?

– Tụi em hết tép kho rồi. Chỉ còn gạo thôi!

Chàng biết nhóm học trò miệt vườn lên tỉnh học nầy. Mỗi tuần họ về nhà cụ bị tép rang kho nước cốt dừa với dừa cứng cạy, mắm ruốc xào hoặc thịt ba rọi kho khô… Buổi sáng, thức dậy nấu nồi cơm, ăn cho sáng, trưa, chiều với chừng ấy thức ăn trong suốt tuần. Rau ráng thì mua ở chợ, nhưng ít khi có món canh…

Sau năm 1954, khi Việt Minh( dân miền Nam vẫn còn gọi là Việt Minh ) tập kết về miền Bắc, miền Nam trở nên thật yên bình. Nhà nhà lo vun đắp lại mảnh vườn bị tàn phá và bắt đầu cho con cái đi học. Giống như các bạn cùng trang lứa, hông được học hành đến nơi đến chốn trong thời chiến tranh, nên Khanh và Vân đã 18 và 17 tuổi mà mới học đến lớp đệ lục và đệ ngũ. Những năm đó, hông hiểu sao, làng Lương Quới chỉ có trường bậc Tiểu Học. Những làng lớn hơn, nằm dọc theo tỉnh lộ nối liền Bến Tre và quận Ba Tri như Mỹ Lồng (Mỹ Thạnh)…, đôi khi có đến lớp đệ thất, lục, ngũ. Ở Châu Thới cũng có một trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp tư, nên học sinh vùng Ba Châu ít khi lên tỉnh học. Phần nhiều do giáo sư ở chiến khu về dạy. Họ hông giỏi, nên cha mẹ thường cố gắng cho con cái lên tỉnh.

Bốn năm gia đình hoặc đông hơn mướn một miếng đất rồi cất một căn nhà dài dọc theo bờ dừa để cho con cái có chỗ ở đi học, thường ở khu Lò Gạch. Chung quanh nhà chỉ đóng ván sơ sài. Đám con trai ngủ trên bộ ván ngựa dài ở phần trước, giăng mỗi đứa một cái mùng vào ban đêm. Phần sau, kê hai ba cái giường dành cho đám con gái. Phần bên hông là bếp nấu ăn và một cái bàn. Sau căn nhà là sàn nước. Cuối góc phải nhà là cái buồng tắm vừng sơ sịa bằng lá chầm. Đám con trai có bao giờ tắm trong buồng tắm đâu. Tụi nó dùng gàu đan bằng lá dừa nước, múc nước từ trong lu hoặc nước dưới mương dừa- khi nước lớn- xối ào ào…

– Hay là hai em đãi anh một bữa chè nghen! Được hôn anh Ba? Nhưng em phải đi mua thêm đường, dừa, bột khoai. Chị Sáu ở nhà nấu đậu xanh cho nhừ, chờ em dìa, nhen.

– Ờ hé!! Ngon à nghen, Vân. Chè đó ở thành phố họ gọi là chè thưng, có phải hôn? Mà anh phải đi tắm cái đã.

– Nước đang lớn đó anh Ba. Nếu anh sợ tắm nước mương dừa thì anh tắm nước trong lu đã lóng phèn sẳn. Chị Sáu biểu em lóng nước để cho anh dìa tắm đó!

– Mầy nghen mậy. Con nhỏ lí lắc, xí xọn! Đi đi mầy….

Xuân quay lại nhìn Khanh. Cô nàng bẽn lẽn bỏ đi một nước vào trong buồng. Xuân, Khanh, Vân quen nhau từ lúc nhỏ. Tụi nó thường cút bắt từ bờ dừa nầy sang bờ dừa khác trong những đêm trăng rằm vào những ngày mùa hè, dưới gốc xoài, ổi, mận, sa bô chê. Đám con nít trầm nghịch trong xẻo mương dừa từ lúc nước nhửng lớn cho đến nước ròng. Môi đứa nào đứa đó đen thâm sì. Bờ môi bám đầy bùn non như có râu. Chúng nó nắn tu na với đủ thứ con nhưng mà nhiều nhứt là con trâu.Xong rồi đi bắt kiến dương ở những gốc ô môi đem về gắn vào bốn chân trâu. Trâu đất, kiến dương đi nghễng nga nghễng ngãng. Cả bọn xúm xa xúm xít. Có hôm Xuân dụ Khanh bắt ổ ong dúi ( loại ong nhỏ thường đóng ổ trong hang bọng chung quanh nhà, hông cắn, chích nhưng hay bu kín người ). Cô nàng ngây thơ nên bị ong bu đầy tóc. Mật ong dúi thơm nồng ngọt ngào. Rồi vào những cơn mưa dầm tháng tám, lũ nhóc dầm mưa chơi rồng rắn cho đến tạnh ráo. Ai nấy môi tím ngắt lạnh run cầm cập. Hồi đó cả bọn đều tắm truồng…

Cho đến một hôm, tự nhiên bọn con gái bận nguyên bộ đồ bà ba nhảy ùm xuống sông. Đám con trai thấy mắc cỡ nên cũng mặc quần xà lỏn. Nhưng mà bây giờ, tụi nó có vẻ dè chừng hơn thành ra hổng còn hứng thú nữa. Lúc trước hả? Tạt nước, nhào vô, xáp lá cà, ôm nhau vật đả đời mà có gì đâu? Bây giờ Xuân a lát sô đến con nhỏ nào, tụi nó đều né…

Một buổi trưa hè. Nước nhửng lớn. Cả bọn đang hò hét, móc bùn táng nhau ở đầu con rạch nhỏ. Đột nhiên đám nhỏ la lên ….

– Anh Ba! Anh Ba! Ma da! Ma da! Con Khanh bị ma da níu!

Xuân bơi sải đến, nắm chùm tóc Khanh vật vờ trên mặt nước. Khanh quíu tay ôm chặt vào người thằng con trai. Hai đứa chìm nghỉm, đụng đáy rạch. Xuân đạp mạnh một cái, trồi lên. Nó may mắn quơ tay nắm được bụi dây chại, kéo hai đứa vào bờ và lủi vào đám mái dầm. Xuân thở khì khò, còn Khanh cà ngáp. Hông hiểu cô nàng đã uống bao nhiêu ngụm nước mà còn nằm im thin thít. Mặt xanh như tàu lá chuối. Hàng nút bóp của áo bà ba trắng ngã phèn cũ kỹ bị bung toành hoành từ trên xuống tới dưới gần bụng. Ngực trần trắng nuột lộ ra chập chờn! Đôi vú như hai cái mộng dừa non nhu nhú nhỏ cứng ngắc căng tròn tròn nhòn nhọn, có hai núm hồng hồng. Mái tóc dài cùng vạt áo lượn lờ trong đợt nước chập chùng… Nó cảm thấy hơi ấm từ người Khanh hòa vào ngực nó. Một luồng hơi nóng rừng rực chạy cùng khắp người. Nó ngạc nhiên, hơi ngơ ngơ ngác ngác. Lần đầu tiên, nó nhìn thấy hai cái vú của người con gái… Nó đắm đuối nhìn vào đôi má bầu bĩnh sũng nước… Tự nhiên nó cúi đầu xuống. Khanh mở mắt trân trân nhìn nó. Nó nhanh chóng hun lên má cô ta một cái. Khanh hứ nhẹ một cái cóc, đẩy Xuân ra rồi lật đật cài nút áo lại…

Và bây giờ Xuân hun một cái nữa, nhưng lần nầy lâu hơn như uống một hơi nước dừa xiêm ngọt mát rượi.

– Hồi trước, nhờ ma da kéo, em hụt chưn nên anh mới hun được em có chút xíu. Bây giờ hun lâu lâu hơn.

– Xí! Coi chừng Vân nó sắp dìa rồi đó anh!

Phùng Xuân chưa chịu buông Khanh ra, còn muốn tận hưởng mùi dầu dừa bông chúa ( Ylang Ylang ) ngay ngáy ủ trong mái tóc óng ả dài thậm thượt. Và mùi sả, bông bưởi hay bông chúa thoang thoảng lan ra khắp trong  người Khanh.

Con gái miệt vườn thường nấu nước sả, bông bưởi, để tắm hoặc sang hơn tụi nó mua một xâu bông lài bỏ vào ấm nước sôi, xong rồi cất đó, khi nào tắm pha vào nước lạnh. Bông lài thì ở chợ BếnTre ngày nào hổng có. Mỹ Lồng có mấy mẫu trồng bông lài bán cho những người ướp trà ở BếnTre. Bông lài thường hái vào buổi chiều, lúc còn búp và để sáng hôm sau thì nở ra thơm ngát. Hoặc hông kiếm được bông, tụi nó liều bỏ tiền mua một cục xà bông Cô Ba. Sau năm 1954, có được cục xà bông Cô Ba của hãng xà bông Trương Văn Bền là nhứt. Bọn con trai ít khi tắm được xà bông Cô Ba. Tụi nó chỉ được tắm với cục xà bông đá nhỏ, cắt từ khúc xà bông lớn dài độ gang rưởi tay. Ở thành thị dân dùng xà bông để giặt quần áo. Còn ở quê hả? Toàn xài nước tro bếp lóng trong diệm hoặc lu bể để ở bên hông nhà… Xong xả lại bằng nước lóng phèn, có ngâm thêm vài miếng giấy lơ ( Lơ có thể từ tiếng bleu của Pháp ) cho màu xanh dương để vải có màu trắng  đẹp.

REPORT THIS AD

– Em trông anh nhiều dữ lắm hả?

– Mấy hôm rày em ngủ chập chờn, nhớ anh nhiều. Hổng hiểu có chuyện gì hôn mà Tía nhắn dìa gấp. Em còn nấn ná chờ anh.

– Thì mơi dìa cũng được mà. Mấy khi mình có được như vầy, hở em? …

– Coi chừng Vân đó anh à! Con nhỏ quỉ đó hả, nó thóc mách lắm. Sợ nó mét tía má là bị đòn tét đít luôn!!…

– Xí! Nhát như thỏ đế!

Trăng đầu tháng hông còn ở phía tây. Ánh sao mờ nhạt xuyên qua những tàu lá dừa lắc lư theo cơn gió nhẹ. Khanh nằm gối đầu lên ngực Xuân. Nàng đã dâng hiến trọn vẹn cho người tình. Tóc Khanh xõa dài chập chờn như dòng suối đang chảy. Và hơi thở cô gái đều đặn trong niềm hoan lạc vừa qua. Xuân nếm được mật ngọt trái cấm đầu đời của thằng con trai mới lớn lên, lâng lâng như người say rượu, bồng bềnh như ở giữa dòng sông mông mênh… Ở cuối góc nhà, có tiếng vạt giường kêu răng rắc, cót két… Vân đang trở mình?

Sáng hôm sau, ba người đạp xe về Lương Quới. Qua khỏi cầu Gò Đàng là vùng đất giồng. Tỉnh lộ nối liền Bến Tre-Ba Tri ( Tỉnh Lộ 885), chạy qua nhiều vùng nỗng đất cát kêu là giồng: như Giồng Khương (LươngQuới), Giồng Trôm, Giồng Tre (Cái Bông)… Đám ruộng bên trái xanh rờn. Vài cây thốt nốt  lẻ loi vươn lên trong nắng sớm. Nhiều đám dúi xanh um tùm ở khuất tận ngõ vào xóm. Có thể Lê Thương đã từng ở nơi đây để viết ca khúc Hòn Vọng Phu chớ không phải phía bên kia cầu Chẹt Sậy về phía Mỹ Lồng, vì vùng đất giồng bên đây đầy vẻ thơ mộng, có đường tỉnh lộ chạy sát bờ sông. Vùng đất vườn bên kia âm u nhiều muỗi mòng.

Cầu Chẹt Sậy- hay cầu Kinh-  bắc ngang qua con kinh Chẹt Sậy (Giao Hòa) nối liền sông Bến Tre và sông Ba Lai với những nhịp sắt yếu ớt. Cầu bị phá nhiều lần trong thời chiến tranh chống Pháp. Việt Minh  lợi dụng lúc nước ròng xuống về đêm thả bè dừa làm sập cầu. Những lần như thế, người ta  phải dùng bắc để qua lại. Hồi nhỏ, Xuân sợ đi bộ ngang qua cầu vì cầu cao trông có vẻ lêu khêu, chênh vênh, mà ván lót ngang quá mỏng và thưa. Nó bước từng bước một, nhìn dòng nước kinh chảy xiết. Cầu yếu lắm. Hành khách phải xuống xe đò, đi bộ qua cầu. Còn đi xe ngựa, cũng phải xuống đi bộ vì dốc cầu cao, ngựa hông kéo lên nổi.

Ba đứa xuống xe đạp, lửng thửng bước qua cầu. Ánh nắng ban mai rọi xuống dòng nước chảy cuồn cuộn ở ngã ba kinh chập chờn bàng bạc. Những đám lục bình hông trôi được, xoay tròn như bông vụ nơi búng nước. Màu đỏ của lò gạch nơi ngã ba sông hừng hực trong nắng ban mai. Gió thổi mạnh. Gió của tháng bảy: gió nồm hướng tây nam bung hai mái tóc huyền. Từng sợi, từng sợi tóc lượn lờ như những tơ nhện mờ ảo trong nắng sớm. Bốn ống quần đen của Khanh và Vân kêu phành phạch. Bữa nay hai đứa hông mặc áo dài trắng, chớ hông thì bốn tà áo thi nhau tung tăng trong gió. Hai cô nàng phải lấy nón lá xuống, úp ngang trên ngực. Khanh bước đi vẻ chậm chạp, nhìn dòng nước đục ngầu tuôn ra ngã ba kinh….. Xuân và Vân thả xe xuống dốc cầu trước, đúng đợi Khanh.

– Anh Ba. Mình có ghé Mỹ Lồng hông?

– Hông. Chắc mấy thằng bạn của anh giờ nầy hổng có ở nhà đâu. Tụi nó dông đi chơi hết rồi. Có con Tuyết em thằng Thông là có ở nhà. Còn Trường phải phụ ba nó sửa xe đạp. Tiệm ba nó có nhiều xe đạp cho mướn lắm: xe người lớn và xe con nít. Nên nó phải sửa hoài. Còn thằng Đáng ở tuốt trong Phong Nẩm lận. Ờ quên, tự nãy giờ nói chuyện mấy thằng bạn của anh mà quên hỏi thăm anh Năm Lân của em.

– Anh Năm em hả? Hè nầy ảnh hổng có dìa.

– Sao vậy?

– Ảnh mắc dự lớp bổ túc cho giáo viên. Hơn nữa, ảnh dạy bên Mõ Cày rồi cưới vợ ở bển, nên ở luôn bên vợ, ít khi về thăm Tía Má lắm.

Năm Lân học sau Xuân. Đậu bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp, Năm Lân thi vào Giáo viên cộng đồng, học một năm ra làm giáo viên cấp Tiểu Học, về dạy ở Mõ Cày.

Khanh chầm chậm bước xuống dốc cầu, nghĩ ngợi mông lung đến hạnh phúc đầu tiên đêm hôm qua… Cảm giác nhiều lần ái ân còn ngần ngật.“ Hổng hiểu Tía kêu về nhà gấp gáp có chuyện gì. Bình thường Tía đâu có làm như vậy?”

Mỹ Lồng – tên tục của làng Mỹ Thạnh- nằm kế bên dòng sông Bến Tre, là vùng gò cát pha đất màu đo đỏ, có những vườn lài cung cấp bông cho những nhà ướp trà ở Bến Tre và đôi khi ở Sài Gòn. Nhà lồng chợ rộng và đẹp đẽ, nằm sát bờ sông. Hai bên là hai dãy phố gạch. Buôn bán nhộn nhịp.

Vào khoảng năm 1947- 48, cả đoàn ghe thoát khỏi vùng Tây ruồng bố ở Lương Phú, bên kia bờ sông Bến Tre… Chợ Sữa là một địa danh mù mờ trong trí nhớ của Xuân, ở đâu bên Tân Hưng hay Châu Hưng gì đó, bên bờ sông Hàm Luông? Phải bơi ghe qua mấy vàm sông rộng mênh mông. Ở đó, buổi sáng người đông nườm nượp. Lần đầu tiên, nó ăn tô hủ tiếu thơm ngào ngạt, có mấy lát thịt, hai ba miếng gan và một khúc phèo sừng sựt, beo béo.

– Lấy tín phiếu hay lấy tiền ngoài, chú Năm?

– Tiền gì cũng được, chị Bảy. Mà chị có tiền ngoài hôn? Tiền ngoài thì ba đồng, còn tín phiếu thì năm đồng. Đừng cho mấy ổng thấy.

Và đoàn ghe của nhóm người chạy trốn, trong đó có ghe gia đình Xuân, đã tấp vào Mỹ Lồng.

– Con ăn cà rem hông?

– Cà rem là gì hở má?

– Cái thằng nầy! Cà rem là cà rem chớ cái gì mà phải hỏi. Con lấy cây ba cắc, có đậu xanh.

– Í! Trời ơi! Sao nó bốc khói dữ quá vầy nè má?

– Con đừng có thổi. Con thổi nó tan hết bây giờ.

– Má ơi, ngon quá má. Khi dề Lương Quới, má mua cho con ít cây, gói trong lá chuối, để dành ăn nghen má.

– Anh Ba! Làm gì đứng thừ người vậy?

– À! Nhớ chuyện cây cà rem và tô hủ tiếu.

Bọn họ đạp xe ra khỏi Mỹ Lồng là đến Mã Đá, rồi tới ngã ba Lương Hòa. Trước mặt, hai bên đường, những cánh đồng lúa xanh có sao chơm chớp trong nắng trưa. Vùng Đồng Gò, Đìa Đôi, Trường Gà- chạy dài đến cầu Đúc Lương Quới. Hàng me tơ hai bên đường đang trổ bông…

– Khanh! Em còn nhớ hông?

– Nhớ chuyện gì anh?

– À! Cái vụ thằng Rong nó hái me cho tụi em mà hổng có đứa nào dám tới lấy hết đó mà! Anh nhớ thằng Rong hôm đó nó mặc cái quần sọt rộng rinh.

– Ờ hé! Đồ quỉ anh à! Cứ nhắc chuyện đó hoài. Em nhớ chớ sao hông. Con Lan rắn mắc. Nó tới lấy, bụm hai tay nhìn lên để hứng me. Bất ngờ nó quay chạy ra còn la lớn: “ Tụi bây ơi, tới chỗ anh Rong lấy me. Ảnh có chùm chùm vậy đó! ”Tụi em ùa tới. Cả đám ngước lên bụm tay. Đứa nào đứa nấy đỏ mặt ù té chạy…

– Tụi em thấy gì, sợ mà bỏ chạy ghê vậy?

Khanh lấy tay đấm thùm thụp lên lưng Xuân… Đồ quỉ!… Hai tiếng: Đồ quỉ vang vang trong buổi trưa vắng lặng…

Lúa xanh ngầy ngật trong ban trưa nổ đầy sao nắng. Từng đàn cò trắng lập lờn trên  đám ruộng. Hai bên đường những đàn chim áo dà nâu tím, chim sắc ( cùng một loại với áo dà nhưng màu xám pha sọc đen ) tíu tít trong những bụi bông cỏ. Con bù cắt ( Chim săn mồi bay đứng một chỗ rất lâu ) lẻ loi trong nắng chói chang, chăm hẳm tìm mồi. Và con đường chạy dài tới Cầu Đúc Lương Quới ngun ngút, đượm ảo nước từ xa xa ngút ngoắt. Nắng nổ đom đóm. Cánh đồng ruộng xanh với đám công cấy vang tiếng hò hông còn nữa. Ôi! Cả khung trời kỷ niệm xa lắc xa lơ nay còn đâu?

Khi tụi nó còn học ở trường Trung học Tư Thục Mỹ Lồng, trưa nào cũng tụm năm tụm bảy dưới những gốc cây me. Mùa me đơm lá non, xanh màu đọt chuối, cả con đường trở nên dịu mát. Bầu trời cũng dường như bớt oi ả. Lá me non chua lè nếu mình nhai ngốn ngáo trong miệng; nhưng vị chua trở nên ngọt ngào hơn với nồi canh chua lươn, bắp chuối, lá me; hay canh chua cá chốt, lá me… Bông me nho nhỏ, trăng trắng, tim tím ở đầu, phủ nhút nhít đầy cây, ít khi trông thấy được lá, biến hàng me dọc đường như những giỏ bông treo lơ lửng trời xanh. Bông me ăn cũng chua chua, chan chát. Tháng mười một là mùa me non, có nhiều gió chướng ( gió mùa Đông Bắc ). Me non dễ bắt với cơm nguội và tép rang nước dừa: béo, chua, mặn. Nhưng mùa nầy rủ bọn con gái hơi khó vì khi trở về, gió bấc thổi mạnh, bật tung hai vạt áo dài ra sau và quần đen làm lồ lộ… Tụi nó hông chịu đi, chỉ ới :“ Đem về cho tụi tui ăn ví ”. Thế là xong.

Tháng hai, tháng ba rủ là tụi nó đi liền: Mùa me dốt và chín. Hơn nữa hông còn  gió chướng, nhưng nắng nổ đom đóm. Me dốt chua chua ngòn ngọt xôm xốp. Nếu nhai luôn nguyên hột có thêm vị chan chát đăng đắng. Vừa để me dốt vào miệng là nước miếng trào ra. Nhai từ từ, sẽ thưởng thức được hương vị tuyệt vời của me dốt trộn lẫn trong nước miếng. Ăn riết rồi phát ngây, ê răng hồi nào hổng biết. Mà phải me dốt thực sự chớ còn dôn dốt thì hông bằng, vì me dôn dốt còn chua nhiều và khó lột vỏ. Me chín thì ăn hông đã miệng vì cơm chín mềm mụp, chua lét lại còn phải lừa bỏ hột. Ít khi tìm được me đậu phọng có cơm chín ngọt…

Chợ Lương Quới- hồi xưa còn gọi là chợ Bàu Sấu- là một ngôi chợ nhỏ, nằm sát đường Bến Tre-Ba Tri. Nhà lồng cao, chỉ có mái che còn hai bên trống hoang hoác. Một vài ba cái sạp nhỏ xíu nằm rải rác.

Ông già mù ở cái sạp cuối nhà lồng. Mắt ổng mở trao tráo. Tròng mắt hơi đo đỏ, hông đen. Vậy mà ổng hông thấy đường. Ổng mặc một cái áo rách bươm, rệu rã, coi bộ xơ rơ xác rác, hông đủ che thân mình mà còn làm lộ rõ cái quần xà lỏn sười lai cũ kỹ. Tóc tai bùm sùm vì lâu ngày hông hớt. Ngày hai bữa, Xuân đem cơm cho ổng trong cái diệm nhỏ. Sáng sớm ổng lẩn đi đâu mất vì chợ nhóm từ gà gáy. Chợ tan lúc mặt trời vừa ngang tầm là có ổng. Hể ổng cần đái ỉa là kêu: Xuân ơi. Khi nào nước lớn ngoài đầu cống bên mặt chợ, nó dẫn ổng đi tắm.

Hổng hiểu ổng từ đâu tới. Một buổi chiều, nó đi bắn chim về thì ổng đã có ở nhà lồng chợ rồi. Mấy ngày đầu tiên, nó thấy ông già mù ăn toàn là xôi. Vì ổng có mình ên, nên nó chạy vào xin với Má cho ổng ngày hai bữa cơm. Mà cơm thì cũng hổng có gì ngoài cá kho, cá chiên, mắm kho, tép rang nước dừa đựng trong cái diệm nhỏ… Thỉnh thoảng mới có một bữa cơm với thịt ba rọi kho dừa cứng cạy.

Bọn Xuân thường ngày chơi tạc giấy, đánh trỏng, đánh cờ chó, bắn bi ở nhà lồng chợ. Còn bọn con gái thì nhảy cò cò, đánh đũa. Đôi lúc cả bọn chơi cút bắt hay rồng rắn, hay bắt con quít tàu, chuồn chuồn buộc miếng giấy nhỏ thả lên làm máy bay. Trong đám có Tuyết, con của anh Mười Điển. Nó gọi Xuân bằng chú mà bằng tuổi Xuân, hay nhõng nhẽo với chú dàng trời đất. Sau nầy nó mới biết anh Mười Điển, to lớn dềnh dàng, bà con họ đâu xa lắm. Ba Má Xuân gặp ảnh ở Chợ Sữa trong lúc chạy Tây ruồng…. Rồi còn có con Mận- con anh Tư Chúc- cháu nội của bác Năm Học, cùng tuổi nó, lúc nào cũng kêu Xuân bằng chú Ba ngọt ngào. Lại còn con Lan, con anh Hai Nhung, mắc bịnh Cam Tích, có cái bụng chong bóc, nổi gân xanh lè. Rồi còn thằng Si ghẻ, mình mẫy nó lúc nào cũng đầy ghẻ hòm. Xuân thấy má nó lấy trái mù u, nướng trên ngọn đèn cháy sèo sèo cho chảy dầu ra, xong lấy dầu trét lên mấy mụt ghẻ. Mỗi lần bả làm như thế là nó khóc ré, té đái chết điếng vì bả phải tắm nó rồi gở mấy cái mày ghẻ đầy mủ xanh nhầy nhụa trên khắp mình nó.

Anh em Xuân tối ngày chơi ngoài nhà lồng chợ. Có thằng Bon Nhỏ mới 14 tuổi mà đã lấy vợ 16 tuổi. Một hai năm về trước, khi gặp nó, còn thấy hai lỗ mũi có hai cục cứt mũi xanh lè chảy dài lòng thòng lểnh thểnh. Ba nó –ông Chín Kiến- chỉ có thằng con trai một, nên cần con dâu về nhà lo phụ công việc. Cái thằng ghê thiệt! Bọn Xuân nói mầy còn chút xíu, biết cái gì mà lấy vợ. Mầy có dám cổi truồng đi về nhà hông? Nó cổi thiệt, trùm quần lên đầu để hai sợi lưng quần tòn teng, đi ngỗng nga ngỗng nghễn. Cu nó còn nằm nóp và mới có vài sợi lông măng lơ thơ. Chắc thế nào về nhà vợ cũng nhằn cho một trận! Ấy vậy mà năm sau nó có đứa con trai kháu khỉnh. Nó giúp Xuân rất nhiều việc: dẫn ông già mù đi đái ỉa khi hông có Xuân, đội diệm mạch nha lên đầu lúc anh em nó đi bán. Mà bán mạch nha khi nào cũng lỗ vì mỗi đứa chấm mút một ít hoặc đôi khi sút tay rớt bể diệm. Bà Ba Đầm- má Xuân – làm mạch nha rất ngon. Nó hông ngọt nhiều, có vị ngòn ngọt, thơm, dèo dẽo. Mạch nha làm từ mộng lúa và nếp. Mà tụi thằng Xuân đi bán mạch nha có đi một đứa đâu; đi cả đàn cả lũ: anh em Xuân, thằng Bon Nhỏ, thằng Sết, con Bi, con Mận… Khi bán, thằng Xuân vít mạch nha bằng chiếc đũa, quệt vào bánh phồng nướng hoặc lá chuối, thế nào nó cũng chừa lại một ít; thế là cả bọn thay phiên nhau chấm mút chùn chụt. Ôi! sao nó ngon làm sảo làm sao! Nhà thằng Xuân có khi nào có đường ngon đâu. Đường thùng thì dùng ướp mắm lóc, mắm sặc đem bán ngoài chợ. Bà Ba thỉnh thoảng mới mua một vài cục đường tán, hoặc vài miếng đường thẻ. Đường cát vàng hoặc đường cát mỡ gà thì bà Ba Đầm dùng để làm mứt. Bả cất rất kỹ hai loại đường nầy. Đứa nào lớ quớ thì ăn bánh tét nhưn mây ngay. Xuân có nghe loáng thoáng Bà Ba Đầm nhắc đến đường phèn, đường phổi gì đó. Bả nói ngọt và ngon như kẹo vậy, nhưng có bao giờ nó nhìn thấy…

REPORT THIS AD

Ở cái thời chiến tranh trước năm 1954, dân khu chợ là dân hàng hai, cũng giống như ban hội tề. Ban ngày theo “Tây”, ban đêm theo Việt Minh. Đồn đóng sau dãy nhà bên hông chợ, trên nền đất của ông Quan Năm. Về những năm gần đình chiến sau nầy, đồn dời về ngay ngã ba Lương Quới, đối diện với nhà chú Hai Đấu cho mướn xe đạp. Lính trong đồn mà có rục rịch gì là dân xóm trong biết liền. Trái lại lâu lâu, dân xóm ngoài cũng có người bị Việt Minh giết, thả trôi sông. Thằng chỏng có nhiều khi nằm chình ình bên rạch trước đồn ông Quan Năm.

Thường thường, đêm nào mà sắp sửa có đánh đồn- nói là đánh chớ ít khi nào Việt Minh đánh bứt đồn Lương Quới, chỉ là  du kích về chọc phá chơi- thì tối đêm hôm đó nhà Xuân biết trước. Má lo gom góp một ít đồ và gói đầu máy may hiệu Brother vào bọc vải rồi âm thầm dắt đàn con chạy tuốt vào xóm trong cho đến một hai hôm sau mới về. Có lần du kích về ban ngày. Xuân thấy họ đi ngờ ngờ trong xóm. Anh Hai Thẹo cho nó đeo thử cây mút “Ăng-Lê”( ?) làm nó khoái chí tử. Và Xuân cũng thấy anh Năm Nhiên  đứng giữa ngã ba đường, bên cây me còng, ôm cây FM, cười hể hả với những người qua lại. Người ta nói ảnh  là bộ đội của Ông Cống( ?)(Đồng Văn Cống)

Bà Ba Đầm được Bà Nội thằng Phùng Xuân giao cho căn nhà ngoài chợ Lương Quới. Thời chiến tranh bả bán sạch trơn mấy mẫu vườn bên ngoại Xuân chia cho, lo nuôi đàn con để ông chồng rảnh rang đi kháng chiến chống Pháp. Sau năm 1954, Ông Ba hông trở về. Bà Ba Đầm với hai bàn tay trắng, buôn gánh bán bưng đủ thứ: bán mắm, bán bánh bông lan, bánh men nước dừa, mạch nha… để nuôi đàn con năm đứa. Xuân cũng hông hiểu từ đâu mà lâu lâu Bà Ba có được một thùng bơ nước lỏng le, một thùng sữa bột hoặc một thùng dầu bông cải. Những ngày đó là những ngày huy hoàng: cơm chiên bơ ăn với nước mắm… Hông hơn một năm, bà cô sáu từ bưng trở về, lấy căn nhà ngoài chợ. Mẹ con lại đùm túm dọn về ở một mẫu đất ruộng ngoài giồng. Từ đó thằng Xuân xa hẳn ông già mù …

Sau Hiệp định Geneve 1954, ở làng Lương Quới, một số người theo kháng chiến chống Pháp tập kết ra Bắc, một số hông tập kết ở lại sinh sống yên ổn: như chú Sáu Đâu, Mười Tương… May mà thằng Xuân hông đi theo anh Tám Khước, con bác Tư Bơ đi tập kết vì bà nội hổng cho đi, lấy lý do thằng Phùng Xuân là cháu lớn nhứt của tao. Ngay cả những gia đình có con, có chồng tập kết đều làm ăn bình thường như thằng Khởi con anh Mười Điển; chồng chị Sáu Biên; chồng chị Ba Kha… Làng xã chẳng thấy ai thắc mắc gì về họ. Họ hông bị bắt bớ, tra hỏi, hay bị làm khó dễ trong mọi việc. Nói nào ngay, tất cả đều có dây mơ rễ má với nhau cả: hông bà con xa thì cũng họ hàng gần, hay sui gia. Thì bây giờ tất cả đều chí thú làm ăn có gì đâu???

Dân làng Lương Quới sống thật an lành sau năm 1954. Thỉnh thoảng có gánh hát đến đóng tại chợ, đôi khi lâu nửa tháng. Mỗi buổi chiều tiếng trống thì thùng vang lên làm ai cũng náo nức. Tuồng gì đêm nay? Hay hôn chị Ba? Đám đàn bà, con gái, trẻ con thì có vẻ mê hơn. Đàn ông, thanh niên ít bàn tán: một lớp lo giỗ quảy, tiệc tùng, nhậu nhẹt. Cánh đàn ông sồn sồn lo tán mấy bà lỡ thời sau kháng chiến trở về…

Vào mùa hè, có đội chiếu bóng hông biết từ đâu về, căng màn giữa chợ, bắc loa kêu gọi ầm trời. Hai phim thường chiếu là: Ánh Sáng Miền Nam và Chúng Tôi Muốn Sống. Và sau đó là các phim về vệ sinh của gia đình bác Tám: phải rửa tay trước khi ăn… ;  phải đào lỗ chôn khi đi ỉa ngoài đồng, trong rẫy bắp… ; vi trùng sốt rét chui vào trong người như thế nào: qua con muỗi nên phải lắp cống rảnh … Chỉ có dân xóm chợ thường hay coi chiếu bóng, còn dân vườn ở xóm trong ít khi coi, vì lúc nào cũng có bao nhiêu đó thôi, hông có gì mới lạ. Những dịp chiếu bóng, gánh hát bội, đoàn hát cải lương đến là con nít đều khoái: chạy nhảy vui chơi, năm mười, rồng rắn.

Đặc biệt là gánh Sơn Đông Mại Võ. Họ vừa bán các thứ thuốc cao đơn hườn tán, cảm mạo thương hàn, thuốc trị đau nhức răng, thuốc sán lải…… Mỗi lần bán một thứ thuốc là một tràng trống tùng tùng nổi lên. Sau đó một người đi vòng vòng giơ cao món thuốc mời mọi người mua. Bán xong thuốc là màn biểu diễn võ thuật. Thường là những màn nội công như chém bể gạch, để mũi dao ấn vào bụng… Đôi khi có những con khỉ giúp vui, làm những trò lạ mắt khiến đám con nít đúng bên ngoài liên tục gọi: Mai! Mai! Dân làng nghèo bị bịnh thường uống ba thứ lá cỏ cây. Cùng lắm mới đến chỗ bán thuốc Tây. Người bán thuốc là “dược sĩ kiêm bác sĩ”. Bịnh gì đây? Nhức đầu nóng lạnh hả? Aspirine. Ỉa chảy hả? Elexir. Vân vân và vân vân. Có tiền chút đỉnh thì bổ thuốc bắc. Nay gặp các loại thuốc nầy thì họ bu lại coi, “trước mau vui sau làm nghĩa”chớ họ đâu biết thuốc sán lải của đám Sơn Đông Mại Võ nầy còn thua thuốc sổ bằng lá muồng đầy dẫy trong vườn nhà họ.

Gánh hát cải lương, đoàn hát bội là gây ồn ào nhứt. Họ ăn dầm nằm dề ở chợ làng đôi khi cả tháng, hát những tuồng tích như Cánh Buồm Đen, Phàn Lê Huê giải giá Thọ Châu…. Những dịp đó, khu chợ như ngày hội. Khoảng ba, bốn giờ chiều, trống bắt đầu nổi lên, con nít chạy nhảy, la hét. Trước khu chợ, những sạp bày bán đủ thứ: khô mực nướng, bắp nướng…

Sau khi họ rút đi, dân làng mất một ít cô con gái  mê cải lương. Những năm đó, ngoài gánh hát bội, cải lương, chớp bóng, dân làng hông có gì để giải trí vui chơi. Gặp dịp có đám giỗ, đám cưới họ tụ họp đờn, ca vọng cổ kéo dài hai ba ngày thâu đêm suốt sáng. Ngoài ra còn cúng đình cũng sập sình sập sọe mất mấy ngày. Thằng Xuân biết cả làng chỉ có một người- Chú Bảy Nghiêm- có máy hát hình ống loa hiệu con chó, lâu lâu phải lên dây thiều bằng tay, dĩa to bằng cái rổ quảo, hát các tuồng cải lương, giọng nghe chan chát. Đâu có ai có được cái radio để nghe tin tức và ca nhạc. Và Xuân tin rằng chẳng ai biết mặt mũi cái máy thâu thanh nó như thế nào!

– Sao bây về trễ dậy?

– Dạ, nhà trường cho lớp chị Sáu ở lại làm cái gì đó. Con cũng hông biết nữa, Tía.

Vân liếc mắt ngó Khanh thầm nói: chị phải cám ơn em nha.

– Còn thằng Xuân, mầy cũng mới dìa hả.

– Dạ, con mới dìa chú. Chú thím mạnh giỏi hả?

– Tụi bây cơm nước gì chưa?

– Chưa, Tía. Chị Sáu chỉ hối đi sớm nếu hông nắng lên. Nóng lắm Tía à.

– Bà ơi! Coi còn cái gì hôn, cho tụi nó ăn ba hột.

Bà Sáu Xe dọn bữa cơm ra với cá bống dừa kho tiêu mằm mặm, ngòn ngọt và béo, tô rau cải trời luộc và tộ nước dừa xiêm tươi. Chở Khanh từ sáng đến giờ, Xuân đói bụng, thêm nước dừa váng cháo chua chua  thay canh nên nó ăn rất ngon… Cơm nước vừa xong. Khanh và Vân đem chén, tô ra rửa ngoài mương và úp lên xống chén làm bằng sống dừa.

– Con Khanh vào đây tao biểu.

– Dạ, Tía

– Mầy với Má mầy lo chuẩn bị ngày mai đám hỏi.

– Đám hỏi ai vậy hả Tía?

– Đám hỏi mầy chớ ai nữa, mà còn hỏi. Tao đã hứa với gia đình Tư Thép bên ấp bốn. Hổm rày còn đợi bây. Để chút, tao đi báo cho họ. Ngày mai họ đem trầu cau qua.

– Tía! Sao Tía hổng hỏi con chút nào hết dzậy. Con còn đang đi học mà Tía. Con chưa muốn lấy chồng.

– Học hành gì nữa con ơi. Mầy lớn chồng ngồng rồi. Mười tám tuổi rồi chớ còn nhỏ nhen gì nữa. Tao cho bây đi học là chưa có ai hỏi. Bây giờ có người hỏi thì tao gả. Gái vườn mà bước qua hai mươi là ế đó con. Coi! Chưa gì hết mà bây bí xị, mặt mày xanh như tàu lá và khóc mếu máo dzậy.

– Tía. Cho chị Sáu học hết năm tới, chỉ đi thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp, rồi làm cô giáo như anh Năm dậy Tía.

– Tía! Con năn nỉ Tía. Như Vân nói, Tía cho con học thêm một năm nữa đi Tía! Nghen Tía! Con mới mười tám tuổi mà.

Nói vậy chớ thực ra, Khanh có biết tuổi mình là bao nhiêu đâu? Ở nhà quê, sanh ra trong thời chiến tranh, làng xã thường bị đốt đi đốt lại tới ba bốn lần. Sổ bộ bị thất lạc. Cha mẹ hông nhớ ngày sinh chính thức của con cái. Họ chỉ nhớ đại khái là, ờ con nhỏ nầy hình như nó tuổi con Gà, thằng kia tuổi con Rồng, hoặc là tui sinh con Khanh ra năm Ba thằng Nhữ đi vào đâu trong Khu Chín? Ngày tháng thì họ mù tịt. Hỏi bà Nội hay bà Ngoại thì may ra họ cũng nhớ là hình như mày sanh ra lúc rằm tháng mười hay là, tao nhớ hình như lúc đó là con nước rong tháng chín. Rồi sau năm 1954, lúc cho con cái đi học. Tụi nó cần khai sinh thì mới ra làng gặp hương Bộ. Như hương Bộ Đời ở làng Lương Quới. Ổng hỏi thì biết đâu mà lần: năm con Gà lớn hay con Gà nhỏ…. Ở cái thời quỷnh tẹt và cái thời Bảo Đại còn làm trùm, ai có biết con Gà nào và con Rồng nào! Ổng nhẩm tính trên bàn tay rồi ghi vào sổ. Tới khi đi học, ra làng xin giấy khai sinh, tá hỏa tam tinh mới biết mình sinh ngày, tháng,  năm nào! Đôi khi còn có cái tréo cẳng ngỗng. Tên Mai nhiều khi biến thành tên Mơi, vì trong làng kiêng cử tên Mai!

Khanh vẫn còn khóc thút thít.

– Tao đã hứa với người ta rồi. Thôi nín đi con. Lo phụ với má mầy chuẩn bị đám hỏi.

Khanh hông dám nhìn Xuân, hông dám cải lại ông Sáu Xe, nhưng nước mắt ràn rụa. Phùng Xuân đứng kế bên, hông nói được lời nào. Trong lòng chàng đang rối rắm, tự hỏi có nên nói một vài tiếng với ông chú nầy hôn.

Thực ra gia đình Phùng Xuân hông có bà con họ hàng gì với chú thím Sáu Xe, chỉ là quen biết nhau trong làng. Còn chuyện yêu thương giữa chàng và Khanh là chuyện thầm kín giữa hai đứa từ bao lâu nay, hông có ai biết được. Nếu chuyện lộ ra, có thể Khanh bị đòn. Ông Sáu Xe có khắt khe trong việc tiếp xúc giữa trai và gái? Và hôn nhân con cái thường do cha mẹ Khanh định đoạt? Cũng có chuyện yêu thương lăng nhăng trong lúc còn đi học, nhưng phải dấu diếm, vì mắc cỡ, vì sợ người ta nói vô nói ra. Bọn Khanh, Vân lên tỉnh học thì tình cảm trai gái hơi mới mẻ hơn chút xíu. Một số ít cũng cặp bồ, cũng tình tứ theo kiểu “tự lực văn đoàn”. Nhưng ở tỉnh lẻ khó có thể hẹn hò ra một nơi vắng vẻ nào đó. Và chuyện quan hệ xác thịt nếu có xảy ra thì bùng nổ một cách mãnh liệt; lỡ có bầu bì với nhau thì rủ nhau bỏ trốn. Xuân có nên nói ra hông và nếu nói thiệt, liệu ổng có gả Khanh cho chàng hông? Ổng có e ngại về gia đình mình hông?

Gia đình Xuân có tiếng chớ hông có miếng. Ông nội chàng là Hội Đồng trong làng. Một chức việc phải mua mới có thì có gì là danh tiếng. Phùng Xuân hông hiểu sao người ta lại trọng vọng gia đình chàng. Đó là hồi nẫm kìa! Hồi thời năm 1940-1950… Bà nội cho các chú, các cô lên Sài Gòn học. Các cô học trường Áo Tím. Nhưng mà nghe đâu các cô học hông nhiều, chỉ đến première année hay deuxième année gì đó rồi về quê lấy chồng.

Còn ông Bảy Mi theo Cao Đẳng Sư Phạm (École normale supérieure). Học được nửa chừng, gặp lúc phong trào Nguyễn An Ninh, cả trường bãi khóa. Ông Bảy Mi bỏ học, theo kháng chiến chống Pháp khoảng năm 1946.

Từ đó gia đình dọn về Lương Quới, cất một căn nhà lá phía bên kia đường đối diện nhà Bà Nội. Hai vợ chồng nhờ tiền của Nội, sắm một chiếc ghe bầu. Hồi đó ghe bầu còn vô được rạch bên hông nhà, vào đậu ở cái búng to rộng rình trước  chùa. Họ mua trái cây như chuối, chanh, mận từ làng đem lên Sài Gòn. Rồi bổ hàng bí rợ đem về bán cho chợ làng. Đâu có ai ăn bí rợ dữ vậy? Bí rợ chất đầy cả nhà. Thầy cò mi  làm sao có được mánh lới như con buôn? Họ bị lỗ vốn rồi bỏ nghề.

Đêm đêm thằng Xuân có dịp nằm cạnh bà cô Năm, bên ngọn đèn chong leo lét, nghe cái giọng ê a đọc đủ loại truyện Tàu của bà cô chưa học hết lớp ba trường làng. Nhà Nội có đủ loại truyện: Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Thuyết Đường, Tây Du, Tam Quốc, Đông Chu Liệt Quốc… do các cô, chú mua từ Sài Gòn.

Xuân còn nhớ ngày chàng đi học. Buổi sáng hôm đó chàng khóc sướt mướt, dùng dằng hông chịu đi. Bà Bảy Mi phải đứng đợi từng chặp. Đi học thì còn thời giờ nữa đâu để mà  đào trùng câu cá bống dừa, còn thời giờ đâu nữa để mà  tối ngày móc bùn nắn tu na, chim cò !

Ngôi trường làng Lương Quới sao mà nó bự vậy! Trường lợp ngói, cất trên thềm cao. Bà Bảy Mi (Bà Bảy Mi và bà Ba Đầm cũng là một người. Ở quê miền Nam, người ta gọi tên người tùy theo quen bên nội hay ngoại) nói với ông Hiệu Trưởng: “Cho tôi gởi con anh Bảy đi học”. Đứng nói chuyện một lát với vài người chung quanh rồi bà Bảy Mi bỏ ra về. Xuân chạy theo, nhưng ông Hiệu Trưởng nắm tay Xuân dắt vào lớp và nói với thầy giáo: “Cháu bà Hội Đồng, con anh Bảy Mi”. À ra, danh giá thời xưa còn lại là cháu bà Hội Đồng Nhượng và con ông Bảy Cò Mi. Chớ bây giờ sau bao năm chiến tranh, các con ly tán. Nhà bà Nội bị Tây đốt cháy mấy ngày sau mới tắt, ruộng vườn tan hoang thì còn gì nữa? Gia đình Phùng Xuân bây giờ hông có một miếng đất để cặm dùi. Bà Bảy Mi phải đi buôn gánh bán bưng, đôi khi phải may quần áo dối cho chợ, nuôi đàn con năm đứa nhỏ nheo nhóc thì có gì là danh giá nữa?

Xuân đành đứng yên lặng nhìn người mình thương mà chẳng nói được một lời nào. Khanh lấy tay quẹt nước mắt ràn rụa, nghẹn ngào; thỉnh thoảng hỉ mũi một cái và nấc lên một tiếng như nấc cụt…

Nằm trên bộ ngựa gõ rộng, Xuân lăn qua lộn lại hông biết bao nhiêu lần. Trăng đã lặn. Đêm chắc khuya lắm. Tiếng vạc sành sạt sạt sát bên hè. Tiếng dế nhủi nhin nhít hòa với tiếng dế chó che che nghe rõ mồm một. Có tiếng mũi hin hít. Hình như Khanh đang khóc. Làm sao bây giờ? Làm sao thoát khỏi tình trạng nầy? Tiếng muỗi vo ve bên lỗ tai làm cho chàng hông ngủ được. Đêm nay ngủ hông mùng cũng hông mềm, chỉ có chiếc chiếu lác mỏng. Chàng bị muỗi chích lia chia nên quơ tay đập lia lịa. Xuân liền cuốn mình trong chiếu, mong muỗi hông thể cắn được, nhưng chiếu quá thưa, muỗi vẫn đưa vòi được qua kẽ chiếu. Quá mệt mỏi, Xuân ngồi dậy nhìn đống un. Lửa đã tắt từ lâu. Xuân khều khều thử, may còn chút than miểng gáo nằm dưới đáy. Xuân bươi nhẹ ra, xé một miếng xơ dừa bỏ vào. Than bắt đầu ngún. Xuân thêm xơ dừa, than phừng lên. Xuân vội vàng bỏ thêm vỏ dừa vào. Khói bùng lên tràn ngập căn nhà.

Xuân ngồi im lặng nhìn khói trắng bao phủ quanh mình, nghĩ ngợi mông lung. Rồi mối tình của Khanh và chàng cũng tan mau như những làn khói nầy? Cảm giác nhiều lần ái ân ngất ngất đêm qua làm chàng đau khổ và hối tiếc thời gian qua mau. Khói tan rồi còn lại đống than đỏ rực và vài ngọn lửa nhỏ. Muỗi vo ve trở lại. Ngồi đây hoài suốt đêm đuổi muỗi? Ngồi đây hoài than thở cho mối tình tan vỡ? Phải chi thời gian dừng lại ở đêm hôm qua? Làm gì để kéo níu trở lại? Chỉ là hối tiếc thôi sao? Ôi thời gian! Thời gian quái ác! Sao hông dừng lại ở đêm hôm qua cho mình tận hưởng trọn vẹn ân ái mặn nồng? Thời gian vẫn trôi và có tiếng gà gáy canh hai xa xa từ bên nhà hàng xóm. Chàng gục đầu vào hai gối nhìn đống than từ từ lụn mà quên đàn muỗi vo ve bu quanh hai mang tai.

Khanh vùi đầu vô cái gối mỏng còn lộm cộm hột vì dồn bằng bông cây gòn. Từ đầu hôm đến giờ Khanh hông ngủ được, khóc rấm ra rấm rứt tức tưởi. Sao mình hông lấy được anh Xuân? Con người  mà mình yêu thương từ đó đến giờ. Liệu mình chống  lại  được lịnh của  Tía hông? Tía Má chắc từ mình quá? Bỏ nhà trốn đi theo ảnh? Mà mình với ảnh đã có…với nhau rồi mà! Làng xóm họ đàm tiếu hai ông bà già, hai ổng bả chịu sao nổi? Trời ơi! Sao khổ quá vậy nè trời?…

Xuân uể oải đứng dậy. Cầm một miếng than nhỏ, bỏ vào miếng vỏ dừa, chàng dời đống un đến gần võng. Võng đong đưa kẽo kẹt trong đám khói. Xuân thiếp đi và ngủ quên được một lát rồi chàng giựt mình thức dậy. Ngoài vườn vừa có tiếng dừa khô rụng đánh bịch và tiếp theo là tiếng tàu dừa rơi nghe xào một cái. Đống un đã tắt ngúm. Xuân bước lại bộ ván, xoa xoa hai bàn chân phủi bụi rồi nằm gối đầu lên trái dừa điếc. Sơ dừa làm chàng nhột nhạt nơi cổ. Và muỗi lại vo ve bên tai. Xuân quơ đại cái áo thun dơ hồi lúc chiều chưa kịp giặt, còn nồng nặc mùi mồ hôi, trùm kín mít lên đầu và thiếp đi cho đến khi chàng thức dậy vì tiếng nói của chú Sáu Xe và tiếng động dao động thớt ở dưới nhà sau.

– Bây lựa hai con vịt nấu cháo, hai con gà giò nấu cà ri phụ má mầy. Ra bắt sớm đi con, để chút nữa hừng đông là tụi nó đi mất, khó bắt lắm. Còn con Vân lo đi mua bún, rồi về chuẩn bị nấu nước nôi pha trà đãi khách. Để Tía lột dừa rồi nạo cho.

– Bộ họ qua sớm hả Tía?

– Ờ! Họ qua sớm. Nghe đâu về rồi phải đưa ông Tư Thép đi nhà thương. Ổng bị bịnh gần cả tháng nay  rồi.

– Ổng bị bịnh gì dzậy Tía?

– Bịnh gì cả nhà cũng hổng biết. Cứ nóng lạnh lên xuống hà rằm. Ăn vô ói ra. Chút nữa, thằng chồng bây qua, rồi bây hỏi nó.

– Ảnh tên gì Tía?

– Thằng Ba Đẹn.

Xuân ngồi trên bộ ngựa, nhìn thấy Khanh xụ mặt qua ánh đèn dầu leo lét. Xuân thấy tội nghiệp cho Khanh, tới bây giờ mà chưa biết tên tuổi và mặt mũi người chồng sắp cưới của mình. Chàng liếc nhìn Khanh. Hình như có hai dòng nước tuôn ra từ đôi mắt nàng.

– Xuân! Mầy uống với tao một chén trà cho tỉnh người, mậy. Trà con Khỉ đó mầy!

Chàng biết trà xanh con Khỉ ướp bông lài Mỹ Lồng. Trà nầy thường bán ở con đường giữa chợ Bến Tre. Nước màu xanh trong chén trà bốc hơi. Xuân nhấm một hớp. Mùi bông lài ngào ngạt. Vị trà chan chát, đăng đắng. Nước trà nóng trôi đến bao tử. Hơi ấm lan dần trong cơ thể. Xuân cảm thấy lâng lâng.

Ngồi nhìn ánh đèn chập chờn, chàng nghĩ ngợi mông lung. Mới năm nào, ba đứa Antoine-( con anh Hai Huynh, lớn hơn Xuân đến ba tuổi mà kêu Xuân bằng chú; quen nhau nhiều chỉ kêu tên thôi. Sau nầy, có bằng trữ dược viên, mở nhà thuốc Tây ở Mỹ Lồng), Hai (con chú Bảy Nghiêm. Nhà bên hông vườn Bà Nội)- và Xuân cứ mỗi buổi trưa hè mùa bãi trường hay ngồi uống trà xanh con Khỉ ở nhà Antoine. Hết bình trà nầy đến bình khác, ba đứa nói đủ thứ chuyện: chuyện làng xóm , chuyện học hành, truyện Tàu, chuyện văn chương Việt Nam……

– Anh Ba ngồi uống trà với Tía em. Bây giờ em còn phải đi chợ mua bún

– Cho anh đi với.

– Đợi em đi bó đuốc.

– Để anh bó cho. Ba cây được hông?

– Nhiều lắm. Hai cây đủ rồi. Anh bẽ hai ngọn tàu lá dừa rồi bó thành hai cây dài là mình đủ đi đến ngoải.

Xuân mồi lửa rồi giành cầm đuốc. Chàng quơ lên quơ xuống. Chập chờn ánh sáng bóng đêm. Đuốc lửa trắc tréo men theo đường mòn . Chưa quen đường đêm, Xuân dò dẫm theo bước chân của Vân. Đôi khi vấp mô đất cao, Xuân suýt té. Những bụi lứt, bụi sậy, đám quao có trái cong vòng mọc lấn ra đường thù lù như hình người làm chàng giựt mình. Hàng dừa tơ cao bằng đầu, lá dừa ngáng ra giữa, chàng phải cúi mình chui qua. Phùng Xuân nhìn lên cao, qua những ngọn dừa lão cao nghệu, sao đêm đang trôi chầm chậm về Tây. Trời sắp sáng. Có một vài tiếng cu đất gáy từ xa xa.

Hai người ra đến đường làng. Vân đi lẹ. Xuân vung đuốc cao. Lửa bập bùng. Phía trước và sau, xa xa có vài ánh đuốc lập lòe như ma trơi, nhìn tưởng chừng như lăn tròn trên mặt đất.

– Vân nè?

– Gì anh Ba.

– Tại sao Khanh chịu lấy chồng sớm vậy?

– Sao anh hông hỏi chỉ. Lại hỏi em.

– Đêm qua hai đứa chui vô mùng sớm. Làm sao hỏi được.

– Tía sợ chị Sáu ế chồng. Anh nghĩ coi. Thời buổi nầy, con trai ở nhà quê lớn lên đi học cho có chút chữ nghĩa rồi còn ở nhà lo chăm sóc vườn tược nữa chứ. Thành thử tụi nó đâu có đi học bao nhiêu. Con gái học cao ở quê, trai nào dám cưới.

– Vậy chớ chồng Khanh, Ba Đẹn, học đến lớp mấy rồi?

– Hồi hôm nghe má nói chồng chỉ học hết lớp ĐệThất rồi về nhà lo coi khoảnh vườn của Tía ảnh. Thì anh coi, trai vườn tối ngày chỉ lo làm cỏ, bồi mương và tới lứa lo giựt dừa.

– Rồi hổng làm gì cho có tiền nữa sao ?

– Có làm gì đâu ra tiền. Có đám nào giỏi, làm chông bắt cá tép chút đỉnh để vợ đem ra chợ bán.

– Vậy là cũng nhàn nhã?

– Có đám tiệc, giỗ quảy thì lo phụ. Xong lại đờn ca hát xướng, nhậu say be bét. Có đứa hiền về nhà im re; còn có đứa nhậu đã về nhà chửi vợ mắng con.

– Có vậy mà con cái cũng đầy đàn đầy đống.

– Còn em?

– Sao anh hổng hỏi tới chuyện chỉ nữa đi ?

– Hỏi gì nữa em.Khanh đã chịu vậy. Thì anh biết làm sao nữa.

– Đêm qua chỉ nằm kế bên em mà khóc thút tha thút thít hoài. Em kêu chỉ nín đi mà chỉ hổng nín. Sáng nay bụp mắt mà Tía thấy là đố khỏi ổng rầy cho coi.

– Sao Khanh khóc dữ vậy?

– Sướng chưa! Bây giờ mới hỏi vậy. Chắc tại chỉ thương ai đó.

– Lúc đi học ở BếnTre?

– Chắc vậy?

– Em biết người đó chứ?

– Em biết.

– Trong đám bạn Khanh?

– Hông phải.

– Anh đâu có ở Bến Tre thường. Một năm anh mới về một vài lần mà. Em nói cho anh biết đi.

– Hổng có nói bây giờ. Bật mí hết. Để sau khi làm đám cưới hả.

Xuân im lặng. Chàng nghĩ: con nhỏ nầy chắc biết chuyện Khanh và chàng thương nhau. Cũng có thể lắm? Nhiều khi Vân nói đon nói ren hoài…

Một hai nhà đã thức. Bếp đã đỏ lửa. Giờ nầy đám đờn ông nấu nước pha trà vì có tiếng nói rổn rảng và tiếng cười ròn tan. Hai đứa đi qua một vài nhà có chó. Tiếng sủa inh ỏi, vang rền cả một khu vườn. Đột nhiên, một con chó từ trong nhà chạy sát ra đường sủa to liên hồi rồi hực một tiếng.

– Vân! Làm gì vậy?

– Anh! Em sợ chó.

– Thì em cứ đi đi. Nó sủa chớ hổng có cắn đâu. Đi đi. Làm gì mà hoảng hồn dữ vậy?

– Em sợ chó mà!

– Sợ thì sợ chớ sao ôm anh cứng ngắc, hổng chịu buông ra vậy?

– Xí! Đồ thấy ghét. Lãng nhách! Ai thèm ôm anh hồi nào!

– Nó. Lại giận nữa rồi. Ở đằng trước tối thui. Coi chừng ma bắt bây giờ đó nghe!

Vân ngoe nguẩy bỏ đi te te thật xa. Xuân nghĩ chắc con nhỏ nầy muốn sanh sự…

Hai người tới đình Lương Quới thì cũng vừa tàn cây đuốc thứ hai. Hồi nhỏ, thằng Xuân ít khi vô đền vì trong đền tối âm u, chỉ thấy gươm giáo và mấy con hạc, con rùa. Nó đi vòng ở ngoài ra đến cây trôm. Nó chặt lấy mũ đem về cho Bà Nội. Hồi đó cây trôm to lắm, gốc khoảng một người ôm và hông biết mọc từ lúc nào. Muốn vào cây trôm, phải lách lau sậy. Thiên hạ đồn có nhiều rắn thần để giữ đình, nhưng nó đâu có ngán! Cái thằng Xuân trời đánh, tung hoành lục tặc, tối ngày mình trần trùng trục, hay phá làng phá xóm. Đi cả đám ngang vườn mía tây vàng ươm là Xuân nhảy vào bẽ cái rụp rồi chia mỗi đứa một khúc. Ổi thì khỏi nói, cho tụi bây ăn líp ba ga. Làm như ta đây là chúa đảng hông ai bằng. Mỗi lần bị mắng vốn: “Chị Bảy: Thằng Xuân ….” là mỗi lần bị đòn nhừ tử. Roi mây, roi tre bà Bảy quất túi bụi. Nó chỉ có dang tay đỡ rồi chạy trốn, chui vào bụi cây lùm cỏ khóc thút thít cả buổi trời. Nghe bà Bảy, chị hai kêu về ăn cơm nhưng nó cứ ngồi lì cho đến sẩm tối. Nói vậy chớ đánh đòn xong, lần nào bà Bảy cũng lấy dầu cù là MacPhsu xức vào những lằn roi ngang dọc rồi hai mẹ con ôm nhau khóc thút tha thút thít. Lần bị đòn đau nhứt là lần Xuân nhảy lên thoi vào bụng Sếp Hết. Ổng nhậu say ngà ngà. Gặp hai anh em nó, ổng đưa hai tay bóp cổ thằng Quang, em Xuân. Nó nhảy lên thoi ổng hai thoi rồi hai đứa bỏ chạy. Ổng theo riết. Tao mét chị Bảy là mầy dám đánh tao. Bà Bảy đánh cho đã nư vì có ổng đứng đó coi và bà Bảy sợ ổng trả thù. Ổng biết ông Bảy đi kháng chiến chống Tây…

Gà gáy canh ba. Chợ Lương Quới bắt đầu nhóm. Mỗi một người bán là một ngọn đèn chông. Có người có sạp. Người hông sạp thì lót lá chuối bày hàng trên mặt đất. Một số người buôn sĩ để sẳn trong thúng như chanh, chuối, cam, ổi, bưởi. Họ thường là dân xóm trong, ở ấp cô Xanh bên Lương Hòa, hay Lương Phú ở bên kia sông Bến Tre. Họ bán mảo cho bạn hàng chợ quận và chợ tỉnh, cho nên mỗi lần xe đò đến là người đông tấp nập. Xe đò Ba Tri lên sớm thường chở cá và tôm thẻ. Cá thì có mùa, khi thì cá đuối, cá rựa, cá lù đù. Những loại cá rẻ tiền mà Bà Bảy thường hay mua. Cá đuối thì nấu cà ri dừa, ăn béo ngậy. Cá rựa thì ướp sả chiên, nhưng phải khứa khứa cho nhỏ ra vì nó rất nhiều xương. Cá lù đù kho khô. Đặc điểm của món ăn Bến Tre là cái gì cũng có nước dừa tươi và nước cốt dừa. Đến món cháo trắng cũng có nước cốt dừa: món mà ông Bảy thích nhứt.

Những năm đó chợ Lương Quới sung túc vì ở Ba Châu lên và Lương Hòa, Lương Phú đổ ra. Thành thử khu chợ nhỏ mà đã đông từ khuya. Bạn hàng nườm nượp đã đành mà người mua cũng nhiều. Họ tranh nhau đi sớm để mua được những món hàng rẻ mà tươi. Hơn nữa còn hành khách đi xe cũng tụ về đây. Họ đi sớm lên tỉnh có công việc hoặc lên Sài Gòn thăm bà con. Từ Châu Bình- vùng Ba Châu- phải thức dậy từ gà gáy canh một thì canh ba đi bộ mới đến Lương Quới. Những năm đó cũng có xe đò Bến Tre- Châu Bình, nhưng mỗi ngày có một hay hai chuyến. Còn muốn đi đò máy qua MỹTho thì cũng phải thức dậy từ canh hai. Đò máy chạy sình sịt tới trưa mới đến Mỹ Tho. Muốn đi mau, chỉ có cách là lên xe đò ở Lương Quới đến Bến Tre thật sớm, ngồi xe Á Đông lên Sài Gòn.

Vân và Xuân đi ngay lại chỗ bác Năm Học bán bún và giá đậu xanh.Vân mua được một cái củ hủ dừa. Trời còn quá sớm nên chưa có bún. Những ánh đèn dầu mù mờ. Những cái đầu đội miếng khăn có khi trắng, có khi có sọc. Nếu hông có tiếng ồn ào thì chợ về đêm toát lên vẻ âm u của một ngôi chợ ma…

Trời hửng sáng. Bận về Vân đi sát bên Xuân, thỉnh thoảng nhìn chàng cười chúm chím và hai má ửng hồng trong sương sớm.

– Em có gì vui?

– Đâu có gì!

– Sao lại cười?

– Thì nhìn anh cười hổng được sao!

– Anh có gì lạ?

– Có chứ. Lạ là tại sao anh hổng buồn?

– Buồn chuyện gì?

– Buồn chuyện chị Sáu em đi lấy chồng

– Con nhỏ nầy hay hỏi cắc cớ quá. Thì cũng như em thôi. Mình vắng đi môt người thân!

– Anh nói xạo hoài!

Đàng trai qua thật sớm. Hông đông, khoảng mười người. Ba Đẹn mặc bộ đồ bà ba trắng, bên ngoài thêm áo dài đen lụa mỏng. Chú rể đi chân không, đầu bịt khăn đống. Gương mặt người trai nhà quê đi cưới vợ lần đầu ngô nghê, cặp mắt hơi ti hí và môi dưới trề ra, lộ hàm răng lộn xộn vàng khè. Nhà trai đem qua có bốn mâm: mâm trầu cau, mâm trà, mâm rượu và mâm trái cây. Mùa nầy hông phải là mùa trái cây và chắc vội vàng, nên trên mâm chỉ có vài trái mận đỏ và trái mãng cầu xiêm.

Mở đầu là lời ông mai, nói lý do đám hỏi hơi gấp; rồi lời chào hỏi hai bên đàng trai, gái. Sau đó, tất cả bốn mâm bọc vải đỏ được bày ra để trên bàn ăn cơm giữa gian nhà. Nhà có được sáu cái ghế đẩu nên có một vài người khách phải đứng, nhưng Xuân nhanh nhẹn mời họ ngồi qua bộ ván bên cạnh. Vân lăng xăng lo tới lui bưng nước trà. Chú Sáu Xe thường hay nói nhiều, lanh lợi, thăm hỏi bịnh tình của ông sui Tư Thép. Bà TưThép nhai trầu bỏm bẻm, xỉa cục thuốc rê to tổ bố bên miệng, trả lời rất chậm. Thím Sáu Xe cũng là dân quê nhưng hông ăn trầu, nói nhỏ nhẹ và rất hiền lành. Hông hiểu bên sui trai như thế nào chớ Xuân thấy bên sui gái có vẻ như chưa hợp với nhau. Ba Đẹn ngồi bên bộ ván, thỉnh thoảng lấy hai bàn chân chà chà nhau coi bộ nóng lòng vì chưa thấy bóng dáng Khanh.

Được độ cạn ba chén trà, ông mai đứng lên xin phép về sớm vì còn phải đưa Ông Tư Thép đi nhà thương. Đến bây giờ mới nghe chú Sáu Xe gọi Khanh ra chào hỏi đàng trai. Lẽ ra, Khanh phải ra bưng trà đãi khách, nhưng hông hiểu sao từ sớm đến giờ Khanh cứ ở miết trong buồng. Đến khi nghe tiếng Tía gọi Khanh mới ló đầu ra. Cô dâu tương lai mặc chiếc áo dài trắng  hổng có gắn phù hiệu của trường Trung Học Tân Dân Bến Tre, đôi mắt hơi đỏ,  bước ra khỏi buồng cúi đầu e lệ chào mọi người. Bà Tư Thép lấy cục thuốc xỉa khỏi miệng, cầm hờ trên tay, liếc nhìn cô dâu. Còn Ba Đẹn lật đật tuột xuống khỏi bộ ván, đứng nhìn người vợ sắp cưới duyên dáng trong chiếc áo dài trắng, có vẻ hài lòng. Xuân đứng cuối nhà bếp, loáng thoáng nghe ông mai xin định  cưới trước Tết- ngày hai mươi tháng chạp ta, sau khi gặt lúa xong- rồi chào hỏi ra về…

Dòng nước ròng đục ngầu cuồn cuộn, tuôn vào búng của con rạch thành những xoáy tròn mang theo những bập dừa, những trái mù u còn xanh, trái vẹt dài có đầu như cái nôm, trái quao cong vòng, chìm sâu vào đáy nước. Kỷ niệm ba năm về trước vẫn còn đó. Bụi chại hơi lớn hơn. Đám mái dầm và ô rô lấn ra dòng rạch. Nơi Xuân vớt được Khanh, rồi ôm vào lòng, bây giờ trơ ra gốc dừa nước. Lúc đó là nước nhửng lớn. Bây giờ là nước ròng. Thời gian trôi đi, đảo lộn và xóa nhòa mọi thứ. Con ma da có còn ở cái búng nầy hông? Xuân ngồi ở đầu bờ dừa, hổng biết bao lâu, cảm thấy mình hèn hạ hông thể làm gì để có thể giúp cho hai đứa có được một mối tình trọn vẹn. Chim chàng chài lẻ loi đậu im lìm trên gốc bập dừa nước, nhìn dòng rạch tuôn chảy. Chim ơi, chim đợi chờ gì?

– Anh. Anh làm gì ngồi ở đây? Em đi kiếm anh cùng hết.

Phùng Xuân ngước nhìn lên. Gương mặt Khanh u buồn, nhưng vẫn còn nét tươi sáng đẹp đẽ. Mái tóc kẹp lại gọn ghẽ. Đôi môi hồng hồng lồng trong hai má bầu. Cặp mắt tròn nhìn nó đăm đăm như muốn nói điều gì. Chàng vụt đứng lên, bước sát đến bên Khanh. Có tiếng sột soạt trong đám mía ở đầu bờ.

– Coi chừng con Vân nó đang đi tới!

– Hai người đang làm gì ở đây?

– Con nhỏ nầy! Tía kêu tao đi kiếm ảnh về ăn bánh xèo, chớ bộ!

– Ờ hé! Thôi đi về mau để Tía đợi.

Hai chị em bước đi. Xuân nhìn theo. Mông Khanh lúc lắc trong chiếc quần đen. Chiếc mông giống y chang khi Khanh gánh dừa hoặc hai thúng ổi và chuối từ vườn về nhà. Còn Vân thân hình hơi mảnh dẽ hơn và đi có vẻ gọn gàng hơn Khanh. Khanh đúng là tướng con gái nhà quê, giỏi giang, chịu khó đủ điều.

Về tới nơi, Khanh bắt đầu đổ bánh xèo. Củ hủ dừa dòn tan và ngòn ngọt, được xắt mỏng. (Ít khi có được củ hủ dừa, trừ trường hợp dừa bị đuông ăn hoặc dừa quì ngã ra bờ rạch)… Những cái bánh còn nóng hổi, bốc khói, vàng ươm óng ánh đầy những con tép bạc, tép đất, xếp thẳng hàng ngay ngắn trên tấm lá chuối. Hai bên rìa bánh xèo dòn rụm. Bên kia là tấm lá chuối khác, có lá cách xanh mùi hăng nồng đăng đắng, đọt xoài mũm mĩm chan chát, lá điều ( cây điều: Maya Apple, trái màu đỏ sậm, lá non chua ) non tim tím chua chua, lá bông vạn thọ hương ngạt ngào nhân nhẫn, lá ngò gai thơm nồng hái ở đầu bờ, rau răm cay cay, vấp cá tanh tanh mằm mặn. Mọi thứ được trộn chung với lá đọt mọt chua chát, trắng ngần mỏng tanh mềm mại như lụa, làm cho đống rau ăn bánh xèo dân dã thêm phong phú. Vân pha nước mắm chanh, tỏi, ớt với nước dừa xiêm thiệt. Cuộn bánh xèo béo ngậy đầy đủ hương vị của nước cốt dừa, của nghệ tươi, của bột gạo Tào Hương xay ở cối đá sau nhà, cuốn với đám rau sống, chấm nước mắm chanh là món mà dân quê ưa thích, ăn no cành hông. Gặp những ngày cuối tháng bảy trời mưa dầm, trúng được ổ nấm mối mà đổ bánh xèo thì còn gì bằng!

Sau buổi ăn, chú Sáu Xe ngồi ở bộ ván, vấn điếu thuốc rê to bằng ngón trỏ, xong thọt tay vô túi áo bà ba cũ mèm nhuộm màu phèn, lấy ra cái hột quẹt đá lửa, se se đầu tiêm cho bớt dầu. Sau ba bốn cái sẹt nháng đỏ, tiêm bùng cháy. Chú Sáu đưa điếu thuốc bập bập hai ba cái, hít một hơi thật lâu, xong thở ra. Luồng khói thuốc dài màu xám đục tuôn ra từ hai đầu mũi. Điếu thuốc hông dính vào môi mà dính vào đầu lưỡi. Chú tiếp tục bập thêm ít cái nữa và hít vô. Điếu thuốc bây giờ chỉ còn độ nửa. Chú hút thêm một vài hơi nữa, điếu thuốc gần hết. Chú dụi tắt và lấy tàn dán vào cột hàng hiên bên hông nhà. Xuân nhìn những tàn thuốc dán đầy từ trên xuống dưới. Để làm gì vậy? Chàng chưa bao giờ hỏi ổng.

– Khanh, Vân à! Tụi bây chuẩn bị ngày mai xuống thay cho thằng Tám Trò. Hổm rày nó coi thế dùm tao mấy ngày để về lo đám hỏi cho con Khanh.

Khanh nháy mắt hai ba cái, liếc nhìn Xuân, im lặng. Còn Vân cứ hỏi miết.

– Thế gì Tía?

– Thì chăn bầy vịt Tàu chớ gì nữa!

– Ở đâu Tía?

– Ở đồng Mỹ Nhiên, sâu trong Cái Bông, Giồng Tre.

– Vân nó hổng biết, chớ con biết rồi. Tía khỏi lo. Để con chuẩn bị ngày mơi tụi con đi.

– Chú Sáu! Cho con đi theo tụi nó ví.

Ông Sáu Xe nhìn Xuân hơi ngạc nhiên. Còn bà Sáu Xe ngó Xuân đầy cảm tình. Từ hồi nào đến giờ, hai ông bà hy vọng có sự ngỏ lời của má Xuân về hai đứa con gái của mình, nhưng hông thấy má Xuân nói năng gì, nên họ cũng e ngại. Mỗi lần Phùng Xuân về chơi, chú thím Sáu đều hỏi thăm má chàng. Nhưng ngoài những câu Xuân trả lời về sức khỏe, về chuyện làm ăn của gia đình, hai ông bà hông nhận được bất cứ điều gì nữa nên họ đành im lặng. Có thể họ là đàng gái, họ hông mở lời trước. Còn Xuân và Khanh đều lo sợ nên hông dám hở môi. Bây giờ chuyện đã dỉ lỡ rồi. Thím Sáu còn hy vọng ở Vân? Bà nhìn chồng như ngầm đồng ý. Chú Sáu liếc nhìn vợ một cái rồi quay sang Xuân, hơi ngần ngại.

– Nắng nôi lắm mầy ơi. Còn sình lầy và đỉa nữa mầy có chịu nổi hông. Đố hông rồi mầy bịnh hoạn chị Bảy rầy tao.

–  Được mà chú Sáu. Con chưa biết mần như thế nào. Con muốn chăn vịt cho biết. Chú Sáu cho con đi đi. Có gì con còn phụ cho Khanh và Vân

– Mầy mà phụ cái gì. Tướng học trò Sài Gòn.Trắng bốc! Mầy mà mần nổi cái nước nôi gì!

– Nổi mà chú!

Nói vậy chớ chú Sáu cũng phì cười. Chắc chú tin có hai đứa con gái đi chung nhau thì hông có điều gì phải lo. Hơn nữa Khanh cũng đã đám hỏi rồi!

– Bà kiếm cho nó hai bộ bà ba cũ của thằng Lân. Chớ nó mặc đồ tây, xuống dưới phèn ăn hết!

Khanh đợi lúc vắng, nói với Xuân cứ mặc quần áo chàng mang theo. Anh mà mặc bà ba đen coi nhà quê lắm. Nhớ bỏ đôi săng đan ở nhà!

Chưa tờ mờ sáng, ba đứa ra đến chợ Lương Quới, ngồi ở chỗ quán bà Tám Khéo: vợ bé của ông Hương Quản Cây. Gần nửa tiếng sau mới có chiếc xe đò Bến Tre-Ba Tri. Hành khách đông nghẹt, hổng còn một chỗ trống. Bọn họ phải đeo sau xe. Xuân lựa khi xe sắp chạy, nhảy lên sau cùng, nắm càng, đeo sau lưng Khanh. Xuân gần như ôm trọn Khanh vào lòng. Mùi thơm từ da thịt Khanh, thêm gió đồng sớm tỏa khắp vào mũi chàng. Chàng ngây ngất.

Sau năm 1954, đường sá chưa tu bổ nhiều nên còn nhiều ổ gà. Mỗi lần xe sốc là mỗi lần Xuân ôm lấy Khanh. Trời còn tối nên Vân hông thấy. Xe qua cống Cát Lỡ. Cầu sắt Bình Chánh, cũng loại như cầu kinh Chẹt Sậy, nhưng hông cao bằng và chắc hơn.Tiếng ván vỗ rầm rầm nghe điếc tai. Đến Giồng Trôm có vài người khách xuống. Xe trống hai chỗ. Vân và Khanh chui vào trong. Băng cây dài dọc hai bên. Chính giữa bạn hàng chất giỏ cần xé, gióng gánh. Xe chạy kêu ì ầm, sình sịt, qua mấy ổ gà sâu còn nghe cót két. Đến TânThành xe ngừng lại đổ nước vì máy xe bốc hơi dữ dội.

Cánh đồng Sơn Đốc mờ mờ trong sương sớm. Những địa danh quen thuộc gợi lại cho Xuân thời còn bé đi cùng các frère lội bộ dọc bờ đê từ ngã ba Sơn Đốc vô nhà thờ La Mã, nơi Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hiện ra.

Đến Cái Bông thì trời đã bửng sáng. Cái Bông là vùng Công Giáo, có nhà thờ cũng khá lớn, nhưng đối với Xuân nhà thờ Ba Châu (GiồngKhương) là có nhiều kỷ niệm hơn cả: có những bà dì Phước Dòng Mến Thánh Giá phạt học trò quì xơ mít, bê thước bảng đỏ bàn tay; nhiều cây sao cao ngun ngút quanh nhà thờ. Những trái sao xoay tròn bay trong bầu trời nắng hè gay gắt. Xuân lượm bỏ đầy vào cái cặp lác, vào cái nón cối trắng tinh Bà Bảy mua cho lúc tựu trường…

Con đường cát ở Giồng Tre sâu hun hút, mập mờ tận cuối làng. Những cây vú sữa sắp trổ bông phủ dầy đặc cả hai bên đường. Khanh nói vú sữa vùng nầy là vú sữa tím, trái nhỏ và tròn. Có lẽ vì cây quá cỗi? Vú sữa nhà nội Xuân có hai loại. Loại da bò thì trái thon và hơi dài, khi chín vỏ hơi cưng cứng, hông láng bóng. Còn loại vú sữa trắng- bà ngoại gọi là vú sữa nếp- tròn mộng và to trái. Khi chín trên cành, da chúng láng bóng và hơi vàng vàng dưới đít. Bóp, vò cho mềm trong lòng hai bàn tay, rút cùi ra, rồi lấy lưỡi nút nút, độ ngọt và cơm sữa tiết ra của vú sữa trắng làm mình ngây ngẩy, tăng tăng. Một vài cành thanh long khẳng khiu, có một vài trái nhỏ chín đỏ, bò dài vút cao lên thân vú sữa. Tiếng chó sủa rân từng hồi dọc con đường bọn Xuân đi qua.

Khi ba người ra đến cuối làng, giáp với cánh đồng thì mặt trời mọc lên một sào. Ánh nắng thật chói chan. Đàn cò, đàn chim áo dà chập chờn cùng khắp cánh đồng. Bắt đầu nóng vì hông có gió. Đợi thật lâu, Khanh mới nhắn được với một người chống ghe đang đi vào trong, kêu Tám Trò ra.

Đồng Mỹ Nhiên-Mỹ Chánh là một cánh đồng trũng, nước nhiều vào mùa mưa- từ tháng tư trở đi. Mùa khô vào khoảng đầu tháng giêng, cánh đồng vẫn còn ngập nước, đầy phèn. Phía Bắc là Bình Tiên –Châu Bình, có món mắm còng lột ngon thơm lừng. Ngày mùng năm tháng năm âm lịch, còng đỏ tụ vào vùng trũng nước, nhứt là các lỗ chơn trâu rồi lột đồng loạt.( Còn còng quều càng xanh ở bặp dừa  vùng nước lợ ). Người ta chỉ cần thò tay vào các lỗ đó bắt còng lột và đem về làm mắm. Đây là một món đặc biệt, hông phải ai cũng có mà ăn, vì số còng lột hông nhiều. Thường thường gia đình làm để ăn và ít khi đem bán. Mắm còng đến độ, đem trộn với mít chín xé nhỏ, hay khớm, thơm điếc mũi. Ăn nó với bún và rau sống thì đả và no cành hông luôn.

Phía Đông Bắc là Bình Khương, có sân chim rộng lớn. Nổi tiếng là rừng chà là, có rất nhiều đuông. Đuông chà là ngon và to hơn đuông dừa. Mỗi đọt chà là chỉ có một lỗ, nghĩa là chỉ có một con đuông. Có hai lỗ là hông có đuông: đuông thành kiến dương bay đi mất. Nhưng đốn được đọt chà là để bắt một con đuông hông phải dễ vì rừng chà là rất nhiều gai, rắn và muỗi mòng vô kể. Vùng Nhơn Trạch miệt Long Thành (Biên Hòa) cũng có đuông chà là nhưng hông nhiều bằng ở đây. Phía Nam là miệt Tân Xuân và phía Tây là vùng Giồng Tre- Cái Bông.

Khanh bỏ sào dài xuống nước, nhún người đẩy nhẹ một cái, chiếc ghe ba lá hai kèm khẵm khừ rướn mạnh theo dòng nước trong vắt. Hai bên là lác, rán, sậy, quao, dứa gai. Từng đàn chim áo dà nâu tím, chim sắc màu xám điểm chút đốm trắng bay lượn chập chờn vờn theo những bụi bông cỏ, kêu ríu rít. Nhiều đám mây cò trắng rập rờn cùng khắp cánh đồng hoang. Thỉnh thoảng một vài con cò ma, con trích giựt mình bay vụt lên. Một vài cây trâm bầu trơ trọi giữa cánh đồng nơi gò đất cao.

Ở đây chỉ có thể làm một vụ lúa sạ bắt đầu từ tháng năm, tháng sáu. Đến tháng bảy, cánh đồng trũng ngập đầy lúa xanh rờn. Nhiều nhà bắt đầu nuôi vịt tàu bầy, thả ra đồng hoang ăn mọi thứ cào cào, châu chấu, cua còng đang lớn. Và họ đợi lúa chín, cánh đồng trơ gốc rạ là lúc thả cho vịt ăn lúa rơi rớt để cho mau mập.

Khanh chống xuồng một lát vừa đổ mồ hôi hai bên mang tai làm ướt những sợi tóc mai thì lấy tay chỉ căn chòi lớn nằm bên trái. Xuồng rẽ vào dòng nước nhỏ và tấp vào bờ.

Đàn vịt càm cạp ỏm tỏi vì bị nhốt từ sáng đến giờ. Hai chị em và Xuân lật đật buông đồ đạc xuống.

– Chị Sáu lo cơm nước đi. Bây giờ cũng gần trưa rồi. Để em thả vịt cho.

– Khoan đã. Cho nó ăn ba hột lúa đi. Bữa nay thằng Tám Trò bỏ đói từ sáng.

Vân xách quần áo lủi vào sau đống rơm, thay đồ. Vân lật đật bước ra khỏi cây rơm, chưa kịp gài hết bộ nút áo, lộ khỏang ngực màu cơm dừa. Hai ống quần đen vo lên khỏi gối. Bây giờ là cô gái đồng ruộng, chớ hông còn là cô gái miệt vườn nữa. Sau đó Vân múc nước vào diệm, đổ ít lúa. Đám vịt khoảng chừng non hai tháng bu lại những cái diệm, kêu chít chít, rút rỉa chìn chịt. Độ chừng hết lúa, nàng mở cà tăng. Đàn vịt tuôn ào ra kêu chíu chít, vẫy nước văng tứ tung rồi tung tăng bơi vào đám ruộng. Vân đẩy xuồng ra, chống ghe theo bầy vịt.

Chòi chăn vịt nằm chơ vơ giữa đồng không mông quạnh, trên một cái nỗng đất cao hơn mặt nước một chút xíu. Phía trước có hai cây rơm cao độ chừng một tầm. Phía bên hông có một khoảng trống dừng cà tăng ví xung quanh làm chỗ nhốt vịt. Trong chòi trống bốc, hông có được cái gì để nằm và ngồi. Có một cái cà ròn, một cái nồi đồng sứt quai trong có vài đôi đũa nằm lỏn chỏn dưới đất. Bên cạnh cà ròn là một cái khạp đựng gạo, kế bên là cái tỉn đầy muối hột. Hai ba cái chén, một cái tô đá mẻ úp trên kệ tre. Và một cái hủ nhỏ dùng làm con mẻ. Phía góc chòi một chiếc chiếu bung đầu nằm đè trên hai cái nóp đệm. Còn có thêm cái cuốc, cái phảng, cái cù nèo, con dao yếm, con dao phay, cái chét và mấy cái liềm bỏ tùm lum tà la ở cuối sau hè. Sát bên ngoài có hai cái lu chứa đầy nước và một cái khạp bể miệng chứa nước tro lóng màu vàng nghệ, dùng để giặt đồ…

– Anh! Chắc em bỏ nhà trốn theo anh lên Sài Gòn. Anh đi để lại mình em làm sao em sống nổi. Em nhớ anh lắm.

– Rồi làm sao anh nói với má anh.

– Em sẽ tự thú. Em năn nỉ Bác Bảy, má anh. Được mà anh. Anh đừng lo.

– Tụi mình còn đi học, rồi lấy giống gì mà sống em? Mai mốt đẻ con đầy đàn đầy đống để tụi nó đói sao em?

– Em rán đi mần gì đó nuôi anh đi học tiếp, để anh làm giáo sư.

– Mần cái gì bây giờ em? Buôn gánh bán bưng? Nắng nôi cực lắm em ơi! Gánh nước mướn? Cũng khổ lắm. Tối ngày em sếp thùng ở phông tên, chờ chực lấy từng thùng nước. Còn nếu hông, em phải chờ đến khuya. Anh đâu để em cực khổ như vậy!

– Cực gì em chịu cũng được hết, miễn em được gần anh. Nghĩ tới em sống với người chồng em sắp cưới, chắc em chết mất quá. Nói gì thì nói em sẽ trốn đi theo anh.

– Hổng sợ Chú Thím Sáu sao? Ổng Bả đã làm đám hỏi cho em rồi.

– Có con rồi hai đứa dẫn con về tự thú. Hổng lẽ ổng bả giết chết em?

– Từ em luôn chớ giết chết gì?

– Ối hơi đâu mà lo anh. Ông bà nào hông thương cháu.

– Thiệt hông em? Em chắc đi theo hả?

– Chớ còn gì nữa? Bộ anh tưởng em nói giỡn với anh sao?

– Hay là để anh tính như vầy. Anh nói với chị hai, xin em vô mần hãng dệt với chỉ. Rồi anh cố gắng năm tới đậu xong Tú Tài Hai. Anh sẽ thi vào Đại Học Sư Phạm hai năm. Ra trường là giáo sư Đệ Nhứt Cấp. Lúc đó mình mần đám cưới. Em sẽ sung sướng hơn.

– Thiệt vậy hả anh? Anh tính vậy hả? Anh cho em đi theo anh hả anh?

– Còn Má anh. Anh lo hổng biết bả có chịu hông?

– Được mà anh! Em sẽ lạy xin má tha tội. Mình rán đẻ cho má một đứa cháu nội là bả mừng lắm. Rồi bả sẽ xí xóa hết.

– Chưa gì hết mà em lo đẻ rồi. Em đừng để đụng giường là đẻ. Kiểu mắn đẻ như gà dzậy là chết đó nghen em.

– Thì qua nay em thấy có cái gì hơi khan khác rồi.

– Hơi khan khác là sao?

– Thì hơi khan khác là vậy đó chớ ai biết nói sao đâu?

– Em nói giỡn? Em có bầu?

– Bầu bì gì mới qua nay. Nhưng em linh cảm là em có con. Em thấy trong người khác lạ lắm.Chắc tại mới lần đầu nên em thấy vậy.

– Hay là, em thèm nữa ?

– Con Vân nó về bây giờ, nó thấy là chết à nghen !

– Nói chơi thôi em. Bộ em tưởng thiệt hả? Vậy là mình tính sao đây em?

– Em tính sau khi mình chăn vịt dìa, em sẽ lấy cớ lên Bến Tre dọn đồ, rồi sẳn đó, em trốn theo anh lên SàiGòn luôn. Tính vậy được hông anh?

– Em tính sao mau quá vậy? Chú Sáu có nghi hông? Nhưng coi chừng con Vân. Anh thấy nó có vẻ đang soi mói cái gì đó.

– Hông có đâu. Nó vẫn binh em mà. Mà em nghĩ nó cũng mến anh lắm. Nó hay nhắc tới anh hoài.

– Được vậy càng tốt! Có chị có em.

– Gì nữa đây ông! Bộ tính bứng hoa cả cụm hả? Coi chừng em đó nghen. Thôi bây giờ anh ra trước, nhắc chông lên coi có con tép rong, cá bãi trầu nào hông?

Xuân  đi ra ngoài, vừa lúc Vân cũng hùi hùi quơ cây lùa vịt vào chuồng. Đóng cà tăng xong, Vân đổ lúa vào diệm cho vịt ăn thêm. Cái nón lá  rách bươm của Vân che cái đầu đội khăn trùm kín mít nên Xuân chỉ còn thấy được hai con mắt đen nhánh như hột nhãn nhấp nháy. Hai cánh tay áo dài sười sợt, tươm những đường chỉ còn đang sũng nước. Nàng vo hai ống quần đen lên tới bắp vế, lộ hai đùi trắng nuột vừa mới rửa. Và những giọt nước còn đọng lại nơi chơn lông tơ mượt mà. Vân bỏ nón và khăn ra. Liếc nhìn chàng, Vân nhoẻn miệng cười. Nàng hơi e thẹn. Cô ta vội lấy hai tay vắt ống quần cho rỏ nước rồi xổ ra. Mặt nàng đỏ hồng lồng ráng chiều rực rỡ…

– Cho ăn gì đây chị Sáu?

– Có gì đâu mậy! Thì tép rang dừa cứng cạy ăn với cơm gạo mới, hổng ngon sao? Anh Ba ảnh vừa xúc một mớ tép rong ngoài chông còn nhảy soi sói. Tao rang với muối hột rồi cho ít trái ớt xanh hái bên chòi. Mầy với ảnh ăn thử coi có ngon hơn hông.

– Ngon hông anh? Em thấy anh hít hà và đổ mồ hôi hột rồi đó.

– Ngon. Nhưng mặn đắng chát và cay quá. Muối hột nhai rào rạo ghê răng dữ à nhen! Bới cho anh chén nữa đi!

Một chén nữa. Mặn. Cay. Răng nghiền muối hột rau ráu như cối xay lúa. Ê răng lên tận óc.

Chiều đang xuống dần. Nhưng nóng vẫn còn hừng hực như trong lò sấy dừa. Hông có một chút gió. Mồ hôi đổ ướt rinh rít cả áo. Hai áo trắng của Vân và Khanh cũng vậy, ướt nhiều còn hơn áo chàng, giống như vừa tắm sông lên, làm lộ hai cặp vú săng tròn như mộng dừa già. Cái chòi hình như nhỏ lại và không khí ngột ngạt. Mái chòi lợp bằng lá cà đốp cũ, lủng nhiều nơi. Ánh nắng tuôn xuống loang lỗ. Cả ba người, người nào toàn thân cũng có đốm đốm trắng giống như những con chó mắc mưa đang nằm trong ổ. Khanh lấy tay vén những sợi tóc mai đẫm mồ hôi hai bên má rồi thu dọn chén bỏ vào nồi đồng, bước ra ngoài. Nhai xong một và cơm còn lại, Xuân vội đứng dậy. Một dòng nước từ trên cổ tuôn xuống tận thắt lưng quần. Mặt trời vẫn còn cao. Nắng chói chan, ngùn ngụt. Mặt nước toàn cánh đồng như đống un hắt nắng nổ lừng lừng con mắt…

Chiếc xuồng chưa kịp tấp vào bên đống rơm, người con gái đầu quấn khăn rằn trùm bít để lộ hai con mắt đen nhánh và lanh lợi, vội nhảy lên bờ, bỏ sào và đi nhanh vào chòi. Vân liếc mắt nhìn thấy trước tiên.

– Chị ở đâu vậy?

– Ở chòi bên. Thấy mấy người mới tới qua đây chơi được hôn?

– Thì được chớ sao hổng được. Mà chị tên gì dzậy?

– Tên Lon.

– Tên Lon hả?

– Ừa. Tên Lon. Lon là tên con chim gì gì đó. Má tui nói vậy. Còn ở nhà kêu tui là Tư Én hông hè!

– À vậy, chị tên là Loan chớ hổng phải là Lon đâu!

– Ờ hé ! Ai biết đâu! Chữ nghĩa có nhiều đâu mà hiểu Loan với hổng Lon!

Người con gái mới đến tên Loan có đôi mắt sáng và nụ cười dòn dã, cổi nón lá bung niền cũ rích  và cái khăn rằn trùm đầu, rồi quạt sành sạch. Xuân đứng gần, ngửi mùi mồ hôi ngay ngáy và mùi nắng cháy từ mái tóc Loan tỏa ra trong căn chòi chật chội.

– Ai đó vậy?

– Anh Ba tụi em.

– Anh ruột hay bà con?

– Hỏi kỷ quá vậy? Bà con được hông?

– Vân nó nói xạo đó cô Loan. Vân nó vừa nói vừa cười, cô hổng thấy sao?

– Ai biết! Mấy người nói sao, tui tin vậy. À há! Mà anh sao trắng trẻo, đẹp trai quá vậy? Chắc hổng phải ở đây?

– Ảnh ở Sài Gòn. Nghỉ hè về quê chơi.

– Tui có biết Sè Gòn ở đâu đâu. Tui chỉ biết Bến Tre có một lần. Học trò hả?

– Ừa. Ảnh là học trò.

– Chắc học giỏi lắm hé. Ăn cơm chưa?

– Gì vậy? Ăn cơm rồi. Sao cô hỏi kỷ quá vậy?

– Ờ. Tại tui có con vịt què, thấy mấy người mới xuống, muốn đem qua đây, nấu cháo, mời ăn chơi vậy mà. Mà ăn cơm rồi thì thôi, ngày mơi tui đem qua. À, chị gì gì đó, đang rửa chén ngoài kia kìa, tên gì?

– Chị Sáu em hả? Chỉ tên Khanh.

– Mấy người cũng là học trò hả?

– Sao chị biết?

– Sao hổng biết! Mấy người, người nào người nấy trắng như bông bưởi, đẹp hơn tui nhiều. Nắng ruộng cháy da nên tui đen thui đen thít, mùi khét lẹt. Tui xấu hơn mấy người nhiều. Có phải vậy hông anh Ba? Thôi tui dề nghen. Ngày mơi, tui đem vịt qua, nấu cháo ăn chơi. Tui dề nghen anh Ba !

– Sao cô hông ngồi chơi một chút. Có gì đâu mà gấp vậy?

– Tui phải lo cho vịt ăn, anh Ba.

Nói xong, Loan trùm khăn, đội nón lá, bước ra, nhìn Xuân ngoẻn cười. Xuân cũng theo ra. Mặt trời vừa chấm chơn trời, to bằng cái rổ súc, rừng rực. Một đàn cò bay ngang. Vài đốm trắng hiện ra trong khối lửa đỏ.

Cơm nước xong. Đàn vịt cũng nhốt kỹ càng. Trời nhá nhem. Vân và Khanh đi chung quanh cà tăng ém rơm, sợ chuột và rắn ban đêm chui vào ăn vịt con. Trăng đầu tháng còn trên ngọn trâm bầu ở hướng Tây. Mùa nầy là mùa mưa nên trời nhiều mây. Thảng hoặc có hôm trời trong thì về khuya thấy được nhiều sao. Ba đứa ngồi tựa vào đống rơm. Gió mát lai rai. Sao bắt đầu lấp lánh nhưng thỉnh thoảng bị mây che khuất. Muỗi kêu vo ve, ẹ ẹ như tiếng đờn cò của người mới tập. Khanh đem ra hai cái nóp và chiếc chiếu rách để gần đống rơm. Đời sống người dân quê miền Nam giản dị. Ở miệt vườn và miệt đồng, vừa chạng vạng là lo đốt đèn. (Nói là đèn cho nghe có vẻ sang, chớ thực sự là miếng vải se tròn lại luồn qua cái nắp bằng thiếc của cái chai đựng dầu dừa thắng theo lối nhà quê. Họ nạo một trái dừa khô, vắt lấy nước cốt, bắc lên bếp nấu cho đến khi nào cứt dừa hơi cháy đen, chắt bỏ cặn thì lấy được dầu. Trẻ con thích ăn loại cứt dừa nầy, béo ngậy và ngọt.)

Tối một chút là tắt đèn và chung vô mùng vì sợ bị muỗi cắn. Ở đây cũng vậy, trời chạng vạng nên Khanh lo đi ngủ. Họ ngồi nhìn bầu trời tối đầy mây sâu thăm thẳm, hông ai nói gì. Khanh luồn tay dưới rơm nắm chặt hai tay Xuân. Muỗi chờn vờn bên tai, Xuân đành chịu trận, hông đập được. Ba người ngồi sát bên nhau, nói chuyện vu vơ, nhưng Vân và Khanh cứ vung tay đập muỗi lia lịa.

– Anh với Vân ngủ mỗi người một cái nóp, còn để em ngủ chiếu cho. Chiếu rách thấy mồ sao anh ngủ được!

– Anh ngủ chiếu. Ngủ nóp chật lắm anh hổng ngủ được đâu.

Xuân giành ngủ chiếu vì chàng biết ngủ nóp rất chật chội, khó day trở. Cái nóp bề ngang độ hơn cánh tay, mình ngủ phải chui tọt vào trong đó, ló đầu ra. Nếu muỗi nhiều, thụt đầu vô như rùa và bịt đầu lại, đôi khi nóng đổ mồ hôi, khó thở. Vì thế, dân quê hay nói con cu còn nằm nóp là vậy. Đàn ông con trai hay lăn lộn nên hổng khoái ngủ nóp. Còn mấy bà, mấy cô ngủ thì được, hông tung đạp. Mà thực ra, cực chẳng đã mới ngủ nóp chớ có ai khoái đâu.

Xuân lấy rơm khô lót thêm dưới chiếu, rồi cuộn mình vo tròn, nhìn lên bầu trời. Triều sao cuồn cuộn như dòng nước chảy từ Đông sang Tây khuất trong bầu trời đầy mây. Tiếng cúm núm, tiếng chim trích, tiếng nhái bén, nhái bầu… xa xa hòa lẫn với tiếng dế tí te tí te trong đống rơm như một bản đờn nhiều cung bậc, dỗ Xuân  ngủ mau chóng.

Xuân giựt mình thức giấc. Tối và im lặng. Khanh nằm sát bên chàng từ hồi nào. Hai đứa rục rịch, rị mọ, một hồi lâu. Chàng nghe tiếng thì thầm bên tai….

– Anh! Em… em… Đừng có cổi đồ nhen anh. Rơm sót lắm!

– Hổng sao đâu em!

Tiếng xột xoẹt của rơm và quần áo quyện lấy hơi thở dồn dập. Mùi mật ngọt ong dúi, mùi thơm nước chanh, nước sả ngầy ngật. Cơn khao khát như những làn sóng bạc đầu ở dòng sông Bến Tre cuốn chìm hai con người trẻ đầy sức lực đang đi chòng chành trên con xuồng ba lá. Sao Hôm mất lút ở dưới chơn trời và rồi sao Mai lấp ló ở hàng bần cửa sông Ba Lai. Chiếc thuyền chở Phùng Xuân và Khanh trôi giạt ngoài biển khơi. Xuân đê mê sung sướng nhưng thân thể rã rời, rệu rạo hơn chiếc chiếu rách chàng đang nằm. Xuân mặc cho sương đêm thấm lạnh và những con muỗi è ẹ bên tai…

Cái vỗ nhẹ của Khanh

– Mặc đồ mau vô để Vân nó…

Xuân nhướng mắt. Trong chòi, lửa rơm đang phừng cháy….

– Em đang làm gì vậy?

– Nấu cơm.

– Nấu cơm gì giờ nầy?

– Coi vậy chớ gần sáng rồi anh. Ví lại, nấu cơm bằng rơm phải canh chừng nếu hông nó sống. Lúc đầu anh phải đốt rơm thật nhiều, cho lửa phừng lên để nước sôi bùng sùng sục, gạo mau nở. Sau đó anh chắt nước, đậy hùm nấp và dần nồi cơm trong rơm nóng. Anh hổng dần nó trong rơm mà cứ hong trên bếp là nó hổng chín đâu; nên phải coi chừng lâu lắm đó anh.

Có tiếng lịch kịch của cây sào chạm vào ghe.

– Chị Sáu ơi! Chị Sáu ơi!

– Gì đó mậy. Đi đâu sớm vậy? Mà sao mầy kêu như bị ma rượt vậy?

– Bác Sáu nói chị dề mau.

– Tám Trò! Làm gì mà mầy nói như líu lưỡi vậy? Dề là sao? Sao dề?

– Bác Sáu nói. a… đàng trai hồi khuya qua nói ông sui trai bị nhà thương chê rồi. A.a.a. họ lật đật chở dề. Aa.a..a. Họ qua xin đàng gái cho cưới chạy tang. Bác Sáu đã thuận rồi. Ổng kêu chị dề mau đi, để họ qua rước dâu cho kịp con nước.

– Anh ! Cưới chạy tang! Anh ơi! Chết em rồi! Anh ơi! Cưới chạy tang! Trời ơi!

Nước mắt Khanh ràn rụa. Vân liếc nhìn chị rồi nhìn Xuân, thầm đoán ra câu chuyện. Chỉ có Tám Trò là thò lỏ mắt nhìn mọi người mà hông hiểu tại sao Khanh lại khóc dữ vậy. Tay chân Khanh lập cà lập cập, nàng vừa cuộn ba quần áo bỏ vào trong giỏ bằng lác vừa thút tha thút thít, xong ngồi bệt xuống đất bắt đầu khóc rấm ra rấm rức. Nước mắt, nước mũi tuôn ra cùng một lượt làm đẫm vạt áo cô gái. Khanh chỉ nói được một câu như thất thần: Đám cưới chạy tang, chết em rồi! Xuân chỉ biết đứng nhìn người yêu khóc mà lòng rối bời bời. Nói lời an ủi cũng hông được mà ôm vào lòng vỗ về cũng hổng được. Khóc đã một hồi, hỉ mũi ướt cả góc khăn rằn, Khanh vụt đứng lên, nhìn Vân, nhìn Xuân một lát rồi ngấp nga ngấp ngứ..

– Anh! Em đi. Anh ở lại với Vân.

– Đợi anh. Anh lấy đồ đi dìa ví em.

– Hổng được đâu anh Ba. Hồi khuya em mượn xuồng của người ta, họ để sẳn trên đó một hai giạ lúa rồi.Chị Sáu ngồi lên đã khẳm, thêm anh nữa là ghe chìm luôn. Mà Bác Sáu nói anh ráng ở lại phụ chị Bảy một hai hôm rồi Bác Sáu xuống.

Xuân thẩn thờ, bí xị. Khanh quay trở lại

– Em bỏ cái nón lá nầy lại cho anh đội, hông để nắng cháy da anh. Vân! Mầy  lo nấu cơm cho ảnh ăn nghen mậy!

– Khanh! Khanh! Khanh!

Khanh tuôn chạy ra khỏi chòi. Nàng bước xuống ghe, ngồi quay mặt về phía Xuân. Nước ở đâu chảy ra nhiều và mãi mãi như nước tuôn ra từ hai mắt sâu thăm thẳm?… Chiếc xuồng khuất dần trong đám sậy, lùm cây trâm bầu. Khanh có quay lại thì cũng hông còn thấy nhau. Xuân chỉ thấy có một cây sào chống ghe dài quơ qua quơ lại một lát rồi mất hẳn trong màng sương sớm mờ mờ trên mặt nước đồng hoang.

Xuân ngồi thừ bên đống rơm một lúc lâu, nhìn về phía Khanh ra đi. Giồng Tre bây giờ là một nhúm cây nhỏ lờ mờ xanh rì. Thôi thế là hết. Những toan tính tốt đẹp chiều hôm qua như hoa Quỳnh Hoa, qua đi nhanh chóng. Mà chàng theo Khanh về thì có được cái gì?

Tám Trò đèo Khanh trên chiếc xe đòn dông ọp ẹp hông có cái bửng nào hết. Khanh ngồi sau. Cái bọt- ba- ga lông ốc sụt sịt. Bùn đất văng lên tới tóc. Nàng vẫn còn khóc thút thít. Thằng con trai còng lưng đạp, đổ mồ hôi ướt áo như mắc mưa, về đến nhà thì cũng gần trưa.

Cổng đám cưới trước nhà làm bằng tàu dừa xé đôi, rọc bớt lá còn chừa lại độ một gang tay dọc sát cọng rồi uốn cong, trang trí thêm những lá và bông đủng đỉnh đốn ở cuối vườn, giây tơ hồng hái nơi những bụi lứt mọc hoang trong vườn. Bảng Vu Quy mượn ở đâu đó, được gắn vội vã nên hông ngay ngắn. Một bình bông vạn thọ, một dĩa trái cây trên bàn thờ ông bà. Đơn giản như thế nhưng ông Sáu Xe vẫn lăng xăng chạy tới chạy lui mong ngóng Khanh về. Một vài người bà con lui cui ở bếp lo nấu vài món ăn đãi khách.

Vừa thấy Khanh bước vào thềm nhà, ông Sáu Xe hối Khanh lo chuẩn bị vì nhà trai trưa sẽ qua rước dâu cho kịp con nước. Ông hông để ý thấy đôi mắt Khanh đỏ hoe. Khanh hông buồn tắm, ra sàn nước rửa mặt qua loa rồi vào buồng tìm cái áo dài trắng mặc bữa đám hỏi còn vắt ở đâu đó. Hông kịp sắm một cái áo cưới! Khanh ngồi xuống bên mép giường, thừ người nghĩ ngợi một lát rồi đứng dậy, chải sơ mái tóc, kẹp cho hai bên đừng xệ xuống. Trời ơi! Đám cưới chạy tang! Đúng là trời định. Mình toan tính nhiều thứ với ảnh chiều hôm qua giờ hông còn gì nữa! Ái ân nóng bỏng đêm qua còn ngây ngất. Câu nói với Xuân về chuyện bầu bì, giờ đây làm Khanh hơi lo sợ. Thôi kệ nó. Chuyện lỡ rồi, tới đâu hay tới đó. Mình tính trước rồi cũng trớt quớt, hổng đi đến đâu!

Hàng dừa hơi ngã bóng. Con nước xế trưa vừa mấp mé đám mái dầm ở ngoài rạch thì năm người bên đàng trai qua tới: chú rể, bà Tư Thép, ông mai và chú thím của chú rể. Hông có những mâm trái cây, mâm trà. Ba Đẹn bận bà ba trắng, ngoài khoác áo dài đen, đi chơn không, bưng mâm trầu cau… Họ có vẻ hối hả, hấp tấp đi vào trong nhà, hông cần ông mai vào báo trước. Ông Sáu Xe rót nước mời, nhưng ông mai chưa kịp uống, đứng lên nói vài lời trình bày lý do phải cưới gấp vì bịnh tình ông sui trai. Khanh đứng kế bên ông Sáu Xe mà hông nghe được câu nào cả. Hông có nhẫn cưới, hông có đôi bông tai, chỉ có chiếc kiềng vàng để trong hộp…  Xong ông mai xin cho hai cháu lạy bàn thờ ông bà để rước dâu về sớm. Ông Sáu Xe khẩn khoản mời nhà trai ở lại ăn bữa cơm trưa, dù gì cũng qua tới đây rồi. Ông mai đưa mắt hỏi ý kiến bà Tư Thép. Sau một phút ngần ngừ, bà gật đầu ưng thuận. Ông Sáu Xe hối vợ cho dọn đồ ăn lên. Khanh cũng chạy tới chạy lui lo bưng khi thì chén cơm, khi thì tô kiểm, nhưng mặt mày buồn so. Buổi ăn hông lâu hơn thời gian một siêu nước sôi. Ai nấy im lặng, ngoài  tiếng chó gầu gừ giành giựt những cục xương thừa quăng xuống đất…

Khanh cùng Ba Đẹn lạy trước bàn thờ ông bà, lạy cha mẹ. Những người bà con xí xóa những cái lạy của Khanh vì hông đủ thời giờ. Khanh vào buồng, vội vàng nhét một vài ba bộ quần áo trong giỏ đệm lác (bà già chồng nhắc nhở đừng mang nhiều. Hai ba bữa sau sẽ quay về lấy thêm cho đủ) rồi ra ngoài. Vừa bước đến cửa hiên nhà, Khanh sụp khóc ồ ồ sướt mướt, có lẽ để được dịp sổ hết những nỗi buồn khổ của mình mà hông ai có thể biết được. Giờ nầy đáng lý ra có Vân, có Xuân, có dâu phụ, có rể phụ, có tiếng pháo nổ, có những trẻ em chạy lăng xăng theo coi cô dâu mặc áo cưới, có tiếng khua lụp cụp của dao thớt, có tiếng lẻng kẻng của tô chén, có tiếng chuyện trò rổn rảng của người thân quyến thuộc, có bếp lửa bên hông nhà, dưới tàn cây lêkima,  khói bay nghi ngút của đám trai trẻ lo nấu nước pha trà. Hông có dựng rạp che lá dừa nước ở trên với những hàng cột ôm đầy lá đủng đỉnh, giây tơ hồng, những nẹp ngang bó bằng bẹ chuối có bông đủng đỉnh tua tua… Một chút hơi hướm đám cưới cũng hổng có: đúng là đám cưới chạy tang!

Gia đình Khanh cùng nhà trai ra chỗ đậu ghe. Con nước ưỡn ẹo lưng chừng rạch. Chiếc ghe năm lá hai kèm hông áp sát được bờ. Một vài người trai trẻ đốn những tàu lá dừa nước lấp lên bùn làm lối đi cho đỡ lún…

Chiếc ghe chở đoàn đám cưới chạy tang khuất sau đám dừa nước, nhưng gia đình Khanh vẫn còn đứng trên bờ ngó theo. Và nước chảy ngập ngừng, ứ éo. Có tiếng bìm bịp kêu ngoài sông cái. Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi! Đợi một hồi lâu, họ thẩn tha thẩn thờ lặng lẽ quay trở vào…

Chiếc ghe ra rạch Lương Quới. Hai bên đầy lá dừa nước chen ô rô bông trắng và tím nhỏ nhin nhít hì hụp trong con nước lớn đục ngầu. Cặc bần ngỏng lên khỏi mặt nước độ gang tay, ngủng ngẳng nhịp nhịp cà giựt, cà giựt theo sóng nước. Thỉnh thoảng có những bụi bần chen lẫn, mang nhiều ổ chim dòng dọc đực và cái có màu vàng cỏ úa. Ổ chim mái bao giờ cũng đẹp và ấm cúng, con đường vào kín đáo như buồng các cô gái chưa chồng. Trong lúc đó chàng chim trống đứng lơ lửng trong ổ đơn sơ, chịu đựng mưa nắng. Đừng có ham mà trèo lấy ổ dòng dọc. Chúng khôn ngoan ở chung với ong bần, nên kẻ nào có ý xấu phá đám- nhứt là đám trẻ con- sẽ bị ong bần đánh cho tơi bời, hông kịp leo xuống, chỉ có cách nhảy ùm xuống nước để thoát mà thôi. Ít có ai lấy được ổ dòng dọc, trừ khi là ổ cũ, chúng đã bỏ đi rồi. Mà lấy làm gì? Hãy để những ổ dòng dọc treo tòn teng trên những hàng bần dài dọc bờ sông, bờ rạch, bờ xẻo- dưới tàng cây rợp bóng, giữa đồng hoang mênh mông- sẽ tạo thành  bức tranh ấm cúng, hạnh phúc như những gia đình dân quê sông nước miền Nam.

Khanh ngước nhìn lên. Một con dòng dọc trống đang đứng lẻ loi trong ổ. Bất giác dòng nước mắt Khanh tuôn chảy. Ba Đẹn ngồi bên, nhìn vợ khóc, hông nói một lời, tưởng là những giọt nước mắt kia Khanh dành cho mình: cô dâu về nhà chồng!

Bữa tiệc đón dâu hối hả và yên lặng. Bà Tư Thép hông muốn làm rình rang trong lúc người chồng đang nằm chờ chết trong buồng ở căn nhà trên nên cổng đón dâu cũng làm đơn sơ như bên nhà gái. Hổng có pháo. Có khoảng chục người thân thuộc trong gia đình lo đám cưới. Không khí lặng trang. Ai nấy nhìn cô dâu vừa vô nhà mà hông có tiếng cười nói rôm rả. Sau khi cùng chồng lạy bàn thờ tổ tiên, lạy cha mẹ, Khanh vào buồng thay áo rồi xuống nhà bếp lo dọn dẹp cùng những người gia đình bên chồng cho đến khuya mà quên rằng mình từ trưa đến giờ chưa có cái gì nhét vào trong bụng. Trong khi đó, BaĐẹn đang gật gù ở bàn nhậu với mấy người bạn bên ánh đèn dầu leo lét.

Trời tối thui. Đám cưới chạy tang nên bà già chồng hông cho đốt đèn măng xông. Khanh lần mò đi vào căn buồng dành cho hai vợ chồng mới cưới. Một mùi khác lạ hơn mùi căn buồng ở bên nhà. Và đột nhiên Khanh vừa cảm thấy mình mất mát một thứ gì khó tả mà Khanh hông bao giờ tìm thấy lại được trong giờ phút cô đơn nầy. Cây đèn dầu mù mờ hông đủ làm ấm cúng căn phòng đêm động phòng của đám cưới chạy tang. Mềm gối mới cũng hông. Giường mới cũng hông. Khanh ngồi xuống thở dài, nghĩ ngợi lung tung; được một lát, lục trong giỏ lác đem theo hồi trưa, lấy một bộ đồ bà ba bông còn mới, rồi cầm đèn đi ra nhà tắm sau nhà…

Khanh nằm xuống trong chiếc giường mà nàng nghĩ là lạ lùng với mình. Cuộc đời người con gái sao bị đưa đẩy nhanh chóng? Vừa mới đêm qua đây với Xuân, đầy những dự tính, đầy những ân ái nóng bỏng mà bây giờ lại thế nầy đây?

Khanh suy nghĩ miên man, thiu thiu ngủ trong mưa đêm thì giựt mình, vì có người ôm chặt và mùi rượu đế nồng nặc. Khanh định xô ra nhưng vừa kịp nghĩ lại, mình mới làm đám cưới chạy tang ngày hôm nay và người ôm mình chắc là Ba Đẹn, chồng mình, nên nằm im lặng. Ba Đẹn chồm lên mình Khanh, thở hổn hển trong hơi rượu. Bàn tay sờ soạng lung tung và mạnh bạo nơi bụng vợ. Đôi bàn tay to lớn, gồ ghề, nham nhám làm Khanh nổi da gà cùng mình. Nàng nằm trân mình chịu trận. Qua những lần ân ái với Xuân, nàng biết là chồng mình muốn gì? Chồng mình có biết mở dây lưng quần mình hông? Khanh tự hỏi? Vì bàn tay Ba Đẹn lây quây ở bụng và thắt lưng vợ rất lâu mà hông mở được. Khi hông biết kéo, Ba Đẹn sẽ giựt dây gút lại. Cô định thò tay gỡ mối, nhưng Ba Đẹn mạnh bạo đẩy tay vợ ra và giựt mạnh một đầu dây. Lưng quần bị gút chặt. Người con trai bồng bột, háo hức, thiếu kinh nghiệm trong đêm tân hôn, gồng người lên mình người vợ mới cưới một vài cái. Vừa lúc đó, Khanh nghe một tiếng thở khè nồng nặc mùi rượu phà vào mặt mũi nàng… rồi Ba Đẹn nằm sui cò…

Khanh lấy răng cắn môi lại, cố ngăn hai dòng nước mắt chảy dài. Đêm tân hôn như thế nầy sao? Khanh chưa bao giờ nghe Má nhắc tới đêm tân hôn như thế nào. Tiếng đó hông khi nào nghe cha mẹ ở đồng quê nói tới. Và Khanh cũng chẳng bao giờ nghe bạn bè nói với nhau về chuyện nầy. Nó như thế nầy sao?…

Gà gáy canh hai. Khanh giựt mình thức giấc, đỡ nhẹ chồng mình qua một bên, mầy mò trong bóng tối mù mù. Nàng lục giỏ mình, lấy ra một bộ bà ba, lần mò đi xuống nhà tắm, giặt bộ quần áo nhầy nhụa và đầy mùi rượu.

Khi Khanh vừa bước lên nhà trên, nghe tiếng hốt hoảng của bà già chồng: “Thằng Ba đâu rồi? Tía mầy chết rồi nè!” và tiếng khóc thất thanh của bả. Khanh lật đật chạy vào buồng kêu chồng dậy…

Trời vừa tờ mờ sáng là bắt đầu một ngày bận rộn của cặp vợ chồng mới cưới cho đám ma. Khanh bù đầu lo công việc dưới bếp: nào nấu cơm, thức ăn cho gia đình và những người bà con, lối xóm phụ việc chôn cất. Mọi việc ai cũng kêu vợ thằng Ba. Vì mới về nhà chồng chưa được một ngày nên Khanh hông biết mọi thứ sắp xếp trong nhà như thế nào? Hổng lẽ chút gì cũng phải hỏi bà Tư Thép trong lúc bả đang ngồi khóc rấm rức? Còn cô em chồng, Út Nhạy, mới mười lăm tuổi nó chỉ biết chạy tới chạy lui. Vì thế Khanh hông lúc nào được hở tay.

Còn Ba Đẹn? Từ sáng sớm, lo tắm rửa cho Tía, thay một bộ đồ bà ba trắng mới tinh, để người chết trên bộ ván giữa nhà. Nó dặn mẹ lo việc cúng kiến, nhứt là đừng để cây đèn dưới bộ ván tắt. Xong qua nhà chú Hai Đời mượn xe đạp dông xuống GiồngTrôm mua hòm.

Khoảng gần đứng bóng dừa, người ta nghe tiếng nổ bình bịch của tiếng xe gắn máy motobécane cũ xì. Sau năm 1954, ở các tỉnh miền Nam, ngoài xe ngựa, người ta còn thường xài  chiếc xe lôi đạp để chuyên chở hàng và người ở những đoạn đường ngắn khoảng từ mười hai cây số trở lại. Xe lôi đạp hông chở được nhiều, chừng ba, bốn người và một số ít hàng. Nếu có được một chiếc motobécane cũ thời Pháp thì chở được khoảng tám người với số hàng nhiều và đi xa hơn. Về sau nầy, có một số xe lôi gắn máy Sachs, Goebel, Peugeot…. Hành khách ngồi ở trong ba người- nếu có con nhỏ thì ôm vào lòng-, ở càng xe hai người, ở phía sau hai hoặc ba người. Gióng gánh thì móc hai bên.

Chiếc xe lôi motobécane cũ mèm như con trâu già coi vậy mà còn gân, ít khi nào chết máy. Hơn nữa, vì tài xế giỏi nên hông bao giờ thấy xe lật. Đoạn đường Lương Quới- Mỹ Lồng bị Việt Minh đào đi bới lại trong chiến tranh, nay chưa được sửa lại, nên lầy lội chèn nhẹt trong mùa mưa. Ấy vậy mà chiếc xe lôi motobécane vẫn tuôn đi ào ào trên con đường trơn trợt đó. Ba Đẹn mướn xe lôi chở hòm từ Giồng Trôm về, quẹo vô ngã ba Lương Hòa, ở gần Mã Đá. Xe lôi vào sân nhà chú Hai Đời. Người ta phải bắc thêm hai cây cầu song song qua hai cái mương mới khiêng được hòm về tới nhà.

Thầy chùa đã coi giờ liệm, khoảng đâu đầu giờ Mùi, tức là lúc có tiếng gà gáy ban trưa. Trà xấu được gói bằng giấy súc thành những bọc to và xơ dừa chèn hai bên hông; xong rồi phủ thêm những bộ quần áo mới. Bà TưThép và cô con gái khóc vật vã khi khóa nắp hòm. Xong đâu đó là phần thầy chùa trong làng lo tụng kinh.

Buổi chiều đầu tiên, một ít trai tráng thanh niên trong làng tụ họp giúp đỡ gia đình người chết. Một đám lo tìm cây như so đũa, mù u, bình linh… để dựng rạp. Nhóm nầy chặt lá dừa nước để lợp che nắng hoặc lo khiêng bàn ghế để ngày mai cho khách ngồi. Đám kia lo phần nấu nước pha trà.

Khanh đầu tắt mặt tối, chạy lên chạy xuống lo đủ thứ chuyện, từ chuyện cái chén, cái tô, đôi đũa đến chuyện bếp núc. Hở một chút là con vợ thằng Đẹn, cô Ba, dì Ba. Khanh hổng biết đâu mà rờ. Khanh phải chạy đi kiếm chồng hỏi cái nầy ở đâu, cái kia ở đâu anh?

Trời mới vừa mưa đêm qua, bùn dậy lên sền sệt vì nhiều người dẫm tới dẫm lui. Đôi chơn của Khanh hông bao giờ sạch, quậy trong đám bùn nhão nhoẹt, dính bết đầy bùn nên chè bè ra. Trên đầu thì đội khăn tang. Hai ống quần phải xoắn lên gần khỏi bắp chuối. Cặp giò trắng ngần của cô nữ sinh ngày hôm kia, bây giờ đã thành đôi cẳng của người vợ đảm đang. Khanh mần quần quật, hông còn thời giờ để nghĩ đến Xuân, đến những giây phút ân ái cuồng nhiệt bên đóng rơm mà giờ đây Khanh coi như đã xa, xa lắm.

Trời tối mờ tối mịt. Đèn đóm mù mờ ở dưới nhà bếp. Ở nhà trên và ngoài sân rạp có được hai cây đèn măng xông. Tụng kinh đã xong. Giờ nầy có lẽ đã khuya lắm rồi nhưng vẫn còn một đám đàn ông con trai tụ tập ở phía bên góc trái rạp. Họ lót nhiều lớp lá dừa nước để cho đỡ dính bùn rồi ngồi lên trên đó. Một người đờn cây guy-ta và một người ca những bài vọng cổ. Tiếng ca buồn não nà não nuột tả cảnh chia ly của cặp vợ chồng, ơ ơ trong đêm khuya như nghẹn trong tiếng nấc. Con chó nằm nghếch mỏ lim dim bên đống un mù khói.

Nồi cháo gà đã nhừ cho đám đờn ca hát xướng. Khanh bỏ thêm vài trái dừa điếc khô để giữ nóng, đi lại cái lu bên hè nhà rửa chơn rồi vào buồng. Khanh mệt mỏi thiếp đi. Trong giấc ngủ chập chờn, Khanh cảm thấy mùi rượu nồng nặc phà vào mặt và bàn tay mằn mò mải miết của chồng. Mơ mơ màng màng, Khanh đưa tay gỡ mối dây lưng quần… Men rượu làm Ba Đẹn quên người cha vừa mới chết còn nằm trong hòm! … Nó thỏa mãn nằm sụi lơ… Nước mắt Khanh tuôn chảy dầm dề. Nàng hổng có thấy một chút gì sung sướng.

Xuân cuộn tròn mình như con trúc, ngủ thiếp đi. Khi giựt mình thức dậy, chàng cảm thấy chung quanh vắng lặng và trống trải. Ngoài đồng, chói lòa. Pháo nắng nổ khắp nơi. Xuân lim dim và dụi mắt một ít lâu mới mở được. Ngồi thừ, co rúm lại như chuột gặp phải rắn, bần thần nghĩ mông lung rồi Xuân gục đầu vào hai gối. Chàng vẫn lặn hụp trong sung sướng xác thịt đêm qua. Hương vị nồng nàn còn ở đây. Kỷ niệm hiện ra từng khúc, từng khúc như đám lục bình trôi. Làm sao nối lại được. Bị sóng đánh tan tác. Xa rồi, xa rồi, dòng xoáy nước nhấn chìm tất cả. Chỉ còn những mảng vỡ vụn hông chắp nối lại được. Mỗi mảnh trôi theo mỗi hướng. Xuân ứa nước mắt.

– Anh Ba! Anh Ba! Thức dậy chớ.

– Thì anh cũng vừa dậy đây.

– Gần xế rồi. Em dề, nhốt vịt, cho vịt ăn mà vẫn thấy anh ngồi bó rọ, gục mặt vô đầu gối. Anh buồn lắm hả?

– Sao em biết?

– Thì thấy sáng sớm nay chị Sáu khóc sướt mướt khi nghe đám cưới chạy tang, rồi bây giờ anh ngồi cú rủ và rơm rớm nước mắt, là em đủ biết.

– Cái con nhỏ nầy cứ đoán mò hông hè!

– Ờ hé! Đoán mò hay hổng đoán mò thì có ai biết đó nhen? Trúng bóc!

– Cái con nhỏ quỉ nầy!

– Sao anh kêu em con nhỏ nầy con nhỏ nọ hoài hông dzậy. Bộ em còn con nít lắm hả? Có ngày em cho anh biết tay.

– Biết tay gì?

– Thì biết tay vậy vậy đó.

– Thôi đi cô em ơi! Đừng nói chuyện dần lân.

Như lời hứa, buổi chiều Loan xách con vịt què qua chòi. Nồi cháo ngọt lịm nhưng còn hôi mùi lông thui. Xuân buồn bã húp từng ngụm cháo và uể oải ăn miếng thịt vịt xé trộn muối ớt cay sè.

– Anh Ba nè!

– Gì Loan?

– Ngày nào tui cũng đem đồ ăn qua đây ăn với anh và Vân được hông?

– Có được hông Vân?

– Anh Ba hỏi em hả?Ờ hé ! Chị Loan tốt quá hé! Vậy là em đỡ nấu cơm rồi nhe.

– Sao em lại muốn ăn cơm chung với anh và Vân?

– Ở đây vắng teo. Ăn cơm tui ăn có một mình nhiều khi nuốt hổng vô.

– Chớ mấy khi kia thì sao?

– Thì ngồi một mình ráng nuốt chớ sao!

– Sao hổng kiếm bạn nào chăn vịt gần gần chỗ Loan.

– Có ai đâu anh Ba? Anh hổng thấy đồng không mông quạnh hông sao? Có trời và nước….

– Hổng có anh và Vân thì em cu ky một mình em hổng sợ à?

– Chèn đất ơi! Sợ gì anh Ba? Còn ai đâu mà sợ, thằng Tám Trò nó còn con nít, khờ câm à! Cả tháng nay rồi. Từ hồi vịt còn chút xíu cho đến bây giờ vịt sắp đôn lông rồi. Sáng sớm dậy nấu cơm ăn cho cả ngày. Trưa bới cơm đựng trong mo cau đem ra ngoài đồng, ngồi coi chừng vịt rúc rỉa, hát nghêu ngao ba câu vọng cổ, vừa nhai vừa nuốt, rồi vốc nước ruộng uống. Rảnh một chút, kiếm thêm con cá, con tép, con lươn.

– Em có bắt được chim cò gì hông?

– Có chứ. Đôi khi tui cũng chộp được trích, cò, chàng nghịch, cúm núm. Mà chuột và rắn là thường.

– Em dang nắng cả ngày à?

– Có chỗ nào đâu mà đụt mưa đụt nắng. Bộ tui đen lắm hả?

– Tui hổng đen mà tui như cục than!

– Đồ quỉ anh nè! Ngày mơi tui kiếm gì qua ăn, chớ ở dưới đây ăn cực lắm.

– Thì có gì ăn nấy, cũng như tụi em thôi. Khanh và Vân cũng còn chút đồ ăn đem từ Lương Quới xuống.

– Anh Ba nầy sướng quá hén, vừa mới đây mà có người lo rồi! Hôm trước có chị Sáu, giờ đến chị Loan, em toàn ăn ké hông.

– Xí. Cái con nhỏ nầy lại ganh nữa rồi. Tao thấy ảnh học trò sợ ảnh ăn cực hông nổi tao mới phụ với mầy chớ. Đừng có ba xàm bá láp nghen mậy.

– Ờ hé ! để rồi coi.

– Coi coi cái gì? Có coi mầy á. Thôi tao dìa đây. Trưa mơi tao đem cơm qua ăn chung nhen.

Loan te te đi ra ngoài, nhảy xuống xuồng chống đi. Xuân mệt mỏi ngã lưng trên đống rơm nhìn ra ngoài cánh đồng mút ngàn ngộp nắng chiều. Giờ nầy em đang làm gì hở Khanh?

Ba người đựng cơm chung trong cái mo cau. Vân và Xuân mỗi đứa có một cái muỗng cũ mèm. Còn Loan cắt một khúc lá dứa gai. Hai cô gái bày tép kho dừa, thịt chàng nghịch và đọt rán luộc ra trong hai cái lá bông súng nhỏ. Tép kho dừa của Khanh và Vân còn có chút màu mè và hơi hướm nước mắm thơm ngon. Thịt chàng nghịch của Loan trắng bệch vì hông có nước màu và gia vị, kho với muối hột nên nghe mùi tanh ói và mặm chát. May là có thêm mấy trái ớt tươi bán được mùi lông, nhưng chàng vẫn hửi được mùi khen khét của chim thui qua lửa rơm. Loan còn bày thêm được món canh chua rau dừa, bông súng nấu với con mẻ đựng trong chén làm bằng gáo dừa.

– Ngon hông anh Ba?

– Ngon chớ!Thịt chàng nghịch lạ miệng ăn cũng được.

– Hứ! Tui biết anh khen cho lấy có, chớ thịt chàng nghịch kho muối hột có gì là ngon.

– Thì anh phải khen để mai mốt em còn nấu cho anh ăn nữa chứ. Chớ khen dở, em giận lẩy là hổng có cái gì ăn đâu nghen. Ờ mà sao em bẫy được chàng nghịch vậy?

– Đâu có bẫy anh Ba. Tui vừa đi vừa cầm khúc cây. Nó bay lên, tui phang, may trúng cánh, nó lủi xuống đám lác, tui phải quần hồi lâu mới tìm được; nếu hông, bữa nay, có muối rang ớt hông hè.

– Em có gian thiệt. Hể quơ cây là trúng chim. Ờ, mà còn canh chua con mẻ nữa mà. Ăn lạ miệng.Ngon lắm.

– Chà! Anh Ba nay coi bộ nịnh dữ à nghen!

– Con nhỏ nầy! Chọc tao hoài nghen mậy.

Hai gò má Loan hây hây đỏ trong nắng. Loan bỏ đi, đến vũng nước trong, lấy tay khoát khoát rồi bụm uống. Có lẽ nước vũng ruộng ngon hơn nước mưa trong lu bên hông chòi. Khi mới mở lu ra Xuân hông dám uống. Trước hết là muỗi, rồi kế đó lăng quăng, khỏa cách mấy lăng quăng vừa chìm xuống là nổi lên lại. Nước mưa mái lá và rơm hơi đo đỏ, có mùi nấm. Rút cuộc rồi ai cũng uống nước ruộng, múc càng xa chòi càng tốt.

– Con Vân nó đi đâu rồi anh?

– Hổng biết. Chắc Vân ở tuốt ngoài đầu bờ. Có gì hôn?

– Con nhỏ hay thót thét. Nói tui với anh nầy nọ.

– Thì đâu có gì! Cũng như Vân vậy thôi!

– Chừng nào anh dìa trển. Dìa trên SèGòn đó.

– Hổng biết nữa. Chắc mươi ngày.

– Tui muốn anh ở đây chăn vịt hoài.

– Đâu phải vịt của anh. Với lại, anh còn phải về Sài Gòn đi học nữa chớ.

– Vậy thì biết chừng nào tui gặp lại anh?

– Thì mùa hè năm sau. Anh trở về đây chăn vịt nữa.

– Ờ hé! Biết có còn gặp lại anh Ba hôn?

Nàng ngó mông ra cánh đồng. Hai cặp mắt đỏ hoe, rươm rướm nước mắt. Hình như có cái gì làm cho tâm hồn nàng xao động. Nàng cảm thấy mình thiệt gần gủi với người thanh niên nầy. Sao mới có mấy ngày mà mình cảm thấy hông thể xa cách được ảnh. Mình có thương ảnh hông? Mai mốt ảnh về Sè Gòn thì mình mần sao?

Bữa cơm trưa vừa xong. Từ cuối rặng dừa một đám mây đen như lọ ghẹ dần dần lan rộng, hông mấy lúc phủ kín cả bầu trời hướng Tây Nam. Có gió nhẹ và không khí dịu mát lại. Có tiếng sấm sét gầm gừ từ xa.

– Anh Ba dí Vân lùa vịt dìa đi. Mưa tới  lớn lắm đó. Vân, mầy lo hùi tụi nó dìa mau đi. Tấn cà tăng kỹ nghen mậy. Gió mạnh, thổi tốc hết, vịt túa ra tùm lum, mầy hổng nhốt lại được đâu. Rồi mất vịt hết. Thôi tao dìa đây, tao lo vịt của tao.

– Kệ. Để chỉ dề đi. Mình lo từ từ cũng xong. Bây giờ em dí anh xuống xuồng, mình lùa tụi nó dìa, nhốt lợi thì chưa chắc mưa tới.

– Có chắc hông em? Loan nó nói mình làm mau mau đi mà. Anh thấy bây giờ gió lớn quá mà. Trời tối đen rồi em. Sấm nhiều quá. Mau đi.

– Anh hổng nghe người ta nói sao. Mưa đằng Đông vừa trông vừa chạy. Mưa đằng Nam vừa làm vừa chơi. Em cá ví anh là mình ví vịt xong xuôi thì mới vừa mưa tới thôi.

Nhưng hai đứa làm cà rịt cà tang, phần Vân hông thạo việc bằng Khanh. Còn Xuân thì i tờ rít, ù ù cạc cạc  ba cái vụ nầy, nên mây phủ đen trời mà việc chưa đến đâu. Cơn mưa ập đến như roi mây quất vào mình. Sấm sét nổ như đạn lum đum nghe đinh tai nhức óc. Những giọt mưa như những viên sỏi nhỏ bắn vào mặt, tát vào má, đau rát dữ dội. Nón lá bay mất. Xuân phải lấy khăn rằn phủ kín mặt, phụ Vân đang lính qua lính quýnh chèn cà tăng thật kỹ. Mưa bắt đầu như lấy gàu tát. Cánh đồng mù mịt. Hông còn thấy gì. Một màu trắng xóa.

– Vân ơi! Em đâu rồi? Em đâu rồi?

– Gì? Anh hét lớn quá vậy?

– Anh đâu thấy em đâu? Mưa lớn quá. Mù trời. Dông dữ tợn.

– Em đang đứng gần anh đây. Chạy vô chòi đi.

– Chòi hướng nào đâu? Anh đâu thấy đâu?

– Em thấy anh rồi!

Xuân chợt nhận ra một hình mờ mờ đi lần tới, rồi hướng về phía chòi. Chàng bước lần theo. Vô chòi, hai đứa ướt như chuột lột, cùng tháo khăn rằn ra, vắt ráo, rồi lấy lau mặt. Mưa vẫn còn nặng hột và gió càng lớn. Sấm sét hông bớt. Vừa lúc Vân lủi vô góc sau chòi thay đồ, Xuân lật đật cổi quần áo thật lẹ, vứt đại xuống đất rồi mặc đồ khô vào. Tiếng gió hú dữ tợn. Cơn dông có lẽ sắp tới gần. Bờ mương gần nhà đầy bong bóng. Mới chút đó mà nước lé đé mí bờ. Hông còn thấy hai cây rơm và bến ghe. Màn mưa che khuất đám vịt. Chắc chúng tụm lại, rút đầu vào nhau, dồn vào một góc cà tăng, im thin thít. Mà nếu chúng có kêu Xuân cũng hông thể nghe được vì gió quần dữ quá, chỉ nghe tiếng hú liên tục mà hổng nghe được tiếng mưa rơi. Mưa giăng mùng khắp trời, nhìn ra hông còn thấy gì hết. Chợt xoáy gió quặn một cái thật mạnh kèm theo tiếng rít rất dài. Dãy lá cà đốp bị giựt mạnh nghe cái rốp rồi tung bay mất. Nước tát tung tóe.

– Chạy chỗ khác đi! Nóc chòi bay mất rồi!

– Anh hét lớn lên hơn nữa em mới nghe. Chạy đi đâu anh Ba?

– Lấy nóp trùm đầu rồi chạy ra đống rơm, lủi đầu vào trỏng, anh kéo rơm phủ dầy tấp kín lên khắp mình em nghe!Nghe hôn? Nghe hôn?

– Nghe rồi!

– Chạy đi!

Vân tốc ra khỏi chòi, lủi vào đống rơm. Xuân nhào theo, rút từng bó rơm phủ đầy một lớp thật dầy lên người Vân. Khi moi được một lỗ sâu và rộng luồn vào giữa cây rơm, chàng đẩy Vân vào nóp rồi chui tọt vô luôn, lấy rơm phủ kín bên ngoài. Mưa và gió vẫn còn quần nhau dữ tợn.

– Chừng nào mới tạnh hả anh?

– Chưa biết nữa!

– Chắc chòi bay nóc hết rồi?

– Chắc vậy!

– Anh!

– Gì?

– Hồi nảy anh đứng ở ngoài rút rơm. Anh ướt hết rồi. Chắc anh lạnh lắm hả?

Một khoảnh khắc im lặng. Chàng hông trả lời .Vân hơi nhúc nhích. Hơi ấm chiếc nóp của Vân từ từ xít lại gần hơn. Mùi tóc ngạt ngào mật ngọt ong rùi và hơi thở thơm tho của cô gái đồng nội trinh trắng bay tỏa gần mũi Xuân.

– Hồi đầu lạnh, bây giờ hết rồi!

– Nhờ nằm gần em nên có hơi ấm nhiều chớ gì? Phải hôn?

– Hổng phải đâu cô nương. Nhờ rơm đó. Ở giữa cây rơm nóng lắm. Một chút nữa em sẽ thấy nực cho mà coi.

Im lặng một lúc lâu. Hơi thở của Vân phà sát vào mặt Xuân và phần nóp ở ngực cô nàng phập phòng.

– Nực quá anh! Em muốn bỏ nóp ra!

– Sao được? Em cựa quậy hoài, rơm tuôn, nước mưa hắt vô, hai đứa ướt hết bây giờ. Ráng chịu. Nằm im đi!

– Xí! Ghét anh quá hè!

Bên ngoài dông hông ngớt, càng lúc càng dữ dội. Tiếng hột mưa đánh xình xịt lên mái cây rơm. Xuân nằm im, nghĩ đến Khanh. Mối tình thoáng qua mau chóng như cơn mưa dông, gãy đổ thật nhanh như chiếc ghe nhỏ mong manh quay mòng mòng rồi chìm trong búng nước ông Khả. Người ta có biết trước cái gì xảy ra cho mình hôn? Mới vừa toan tính đó, rồi có gì hông? Khanh ơi!!

Bây giờ nằm sát bên Vân, mình nghĩ gì? Có nghĩ đến Vân hông? Qua những lời nói mấy hôm rày của nàng, Xuân biết mình chỉ cần một cử chỉ hơi đi xa một chút là Vân sẽ ngã trọn vào vòng tay của chàng. Hông. Hông. Xuân sẽ hổng tính gì thêm nữa. Hãy để cho con thuyền trôi đi một cách tự nhiên và nó sẽ tấp vào bờ bến nào kệ nó….. Khanh ơi! Khanh ơi! Giờ nầy em đang làm gì?

Xuân giựt mình thức đậy. Hơi nóng của rơm, hơi nóng của người hừng hực. Mồ hôi ra ướt áo. Hai cái nóp bây giờ trở nên chật và nực nội nên bung hết ra ngoài. Lỗ rơm đâu đủ rộng. Hai đứa phải nằm sát vào nhau. Xuân hơi nhóm người dậy, nhận ra Vân cũng đã chui ra ngoài nóp. Áo Vân rinh rỉnh ướt và nàng nằm sát bên mình chàng, hơi thở đều đặn trong giấc ngủ say. Xuân lắng tai nghe. Hông còn tiếng mưa đập trên mái rơm. Sợ Vân thức giấc, Xuân nằm hông động đậy, ngửi mùi thơm của tóc, mùi mồ hôi thơm ngọt của người Vân toả sang. Đột nhiên, Vân choàng tay qua ngực Xuân. Xuân đợi một lúc lâu rồi nhẹ nhàng đỡ lấy tay Vân bỏ ra khỏi ngực mình. Một lớp rơm mỏng te ngăn cách người chàng và Vân. Xuân lặng lẽ xoay người về phía khác cố tránh mùi bông chanh, bông chuối của cô gái vườn dừa. Có bao giờ một hình ảnh mới dễ dàng làm lu mờ cái cũ một cách mau chóng hông? Vân cứ mãi quấn quít Xuân ngày đêm ở nơi khỉ ho cò gáy rồi thì cũng có một ngày Vân sẽ làm Xuân quên mất hình bóng người chị. Cô em bây giờ như một cái bóng to lớn muốn ôm trùm Xuân. Và Xuân cũng biết mình khó thoát khỏi cái bóng cô gái nầy. Sống chung đụng nhau như thế nầy thì cũng có ngày. Trai với gái vừa mới lớn mà ở giữa trời đất lồng lộng thì có chạy đằng trời? Lửa gần rơm đố mà hông tròm thì trẹm. Mình đâu phải là thánh? Hơn nữa nàng cố tình khiêu khích Xuân nhiều lắm. Và Xuân cố đem cô chị ra chống đỡ một cách yếu ớt. Xuân cũng hông phải là thằng con trai hay ve vản các cô gái.

À, mà hông hiểu sao chú Sáu Xe hổng cho Tám Trò hoặc ổng xuống thế cho tụi nầy? Ông Bà cũng biết chớ.  Một thằng con trai mới lớn lên-19 tuổi- và đứa con gái út hơ hớ của ổng- 17 tuổi, tuổi con gái bẽ gãy sừng trâu- ở chung nhau nơi chốn vắng vẻ chỉ một ngày là có chuyện rồi. Huống gì bây giờ là hai ngày rồi. Ông Bà tin mình? Tin cái gì? Tin cái giống nhứt quỉ nhì ma thứ ba học trò? Hay là hai người đó tính với nhau cái gì?

Tiếng dế nhủi chi chắt trong đống rơm. Và đâu đây có nhiều tiếng chuột đồng chí chít. Xuân nghe văng vẳng có tiếng cúm núm, tiếng chim trích tắc nhè nhẹ. Cánh đồng chắc mênh mông đầy nước. Nỗng đất nầy có bị ngập hông? Hông nghe tiếng vịt con chiêm chiếp. Chúng nằm im vì bị ướt hay là cà tăng đã tốc hết? Đàn vịt chạy tứ táng và lạc bầy mất rồi? Xuân nhỏm dậy, nhìn ra ngoài. Màn đêm còn tối đen. Gió vẫn thổi mạnh. Chàng cảm thấy bao tử mình trống rỗng và cơn đói làm sót ruột. Đầu cô gái vẫn còn nghiêng sát qua mình Xuân. Xuân hít một hơi thật dài cho đầy bụng. Có đỡ đói hơn hông? Phùng Xuân nằm im lặng một lát rồi thiếp đi trong giấc ngủ muộn màng.

Xuân choàng mở mắt. Trời sáng bửng. Vân đã chui ra ngoài từ lúc nào. Xuân lật đật tốc rơm, đưa tay dụi mắt. Cả một vùng nước mênh mông. Những bờ đê thấp hông còn nữa. Ngập láng te. Chỉ còn một vài cây trâm bầu đứng chơ vơ giữa biển nước đục ngầu. Nước bao phủ toàn bộ nỗng đất. Đàn vịt con bơi lội tung tăng, rúc rỉa trong vòng cà tăng. Vân đang lội bì bà bì bõm mò kiếm các đồ đạc trong căn chòi mất nóc, còn trơ trọi các rui ngang. May là nước chỉ ngập đến mắt cá nên tỉn muối, khạp gạo, hủ con mẻ hông bị trôi đi mất. Cà ròn, chén dĩa bị chìm nơi nào? Xuân loay hoay một lúc lâu mới tìm được cái nồi đồng duy nhứt dùng để nấu cơm và làm các món ăn khác ở tận ngoài gốc ớt. Nếu hông, hai đứa chắc bị đói meo. Cuối cùng Vân cũng mò ra cái cà ròn và rút rơm lo nấu cơm.

– Ăn cơm với gì đây Vân?

– Em cũng hông biết nữa! Chắc với ít muối quá! Ngày hôm qua còn chút tép kho đem ra ăn ví chị Loan hết rồi!

– Ờ hé! Để anh coi coi… À, anh biết rồi. Có một món ngon lắm em có ăn hông?

– Món gì?

– Thịt chú tí!

– Ở đâu mà có?

– Ở trong hai cây rơm nầy nè! Nước nôi lênh láng như vầy, tụi tí chỉ còn có nước rút vào trong cây rơm chớ có đi đâu được!

– Ờ hé! Vậy mà em cũng quên nữa.

– Bây giờ em và anh mỗi đứa cầm một khúc cây. Mình dậm cù cây rơm đằng kia, thế nào mấy trự cũng nhào ra. Mình đập cho mau là mình cũng có mấy con. Anh đem thui, lột da, móc ruột, bỏ đầu, lấy mấy cục máu tanh, ướp muối ớt, rồi xỏ lụi nướng lửa rơm là ngon hết sảy đó nghe. Em thấy chảy nước miếng chưa?

– Anh đi học ở Sài Gòn mà sao anh rành quá vậy?

– Thì em cũng biết anh là dân nhà quê mà! Anh nghe má anh nói anh sanh ở SàiGòn đâu năm 19…, ở nhà Bảo Sanh Hồng Ngọc, đối diện chợ Thái Bình, lúc ba làm cho Tây ở Sạt Ne. Gia đình theo ổng về quê đâu năm 1945, 46, lúc ổng bỏ trường theo Nguyễn An Ninh đi bán dầu cù là, rồi đi theo kháng chiến luôn. Anh mới lên Sài Gòn đi học mấy năm nay chớ có lâu đâu. Hơn nữa, hè nào anh cũng về quê mình, cùng các bạn dậm cù, đào hang bắt chuột. Nước rong đi chĩa chuột. Kéo đăng bẫy chim trích, chàng nghịch, ốc cao, cò ma….; hớt cá lia thia, làm giàn thung bắn chim, chèo ghe hái bần, tắm sông…  Anh cũng biết phân biệt tép rong, tép rêu, tép mòng, tép bạc, tép đất; cá lia thia với cá bãi trầu, chớ bộ! Anh là dân xứ dừa mà! Anh có quên đâu?

– Ờ hé! Vậy là mai mốt anh dìa lại Bến Tre? Dìa lại Bến Tre ví em nghen! Nghen anh! Em…

– Hổng biết được đâu à cô nương! Tui về trển còn phải đi học nữa. Biết năm sau có về được hông? Đừng có mơ nhen!

Cô nàng xụ mặt. Buổii cơm trưa tưởng chừng là ăn thịt chuột nướng chấm với con mẻ và muối ớt ngon hết sẩy, nhưng Vân nuốt hông vô, mắc nghẹn nơi cổ họng. Vân tiu nghĩu. Cặp mắt đỏ hoe, rơm rớm. Xuân xé miếng đùi chuột nướng vàng ươm, quết con mẻ, bỏ vào chén cơm cô gái rồi vã lã cười nói như thường. Nàng gầm mặt lại, nhưng được một lát thôi.

– Đồ quỉ anh nà! Ghét anh quá!

– Coi nè! Sao lấy tay đấm lưng anh thùm thụp vậy? Coi chừng dập ba sườn à nhen!

Xuân bỏ chạy ra sau chòi. Nước bây giờ đã rút bớt để lộ gò đất, nhưng hai đứa hông dám thả vịt vì nước còn lễnh lãng như thế nầy làm sao chăn đám đó, mà sâu quá tụi nó cũng hông rúc rỉa được. Chàng nhìn mút sang chòi Loan. Hổng thấy mái đâu. Tệ hơn là chẳng còn riu mè gì hết, trơ ra mấy trụ lẻ loi. Tiếng vịt cạp cạp dữ quá. Mần gì mà tới giờ nầy Loan chưa cho tụi nó ăn?

– Anh mần gì lo tới chỉ dữ vậy? Chỉ lớn rồi. Chỉ lo được mà! Chỉ là dân miệt ruộng, chỉ rành sáu câu còn hơn anh nữa!

– Nhưng anh nghe vịt cạp cạp dữ quá. Chắc có gì lạ. Gần đứng bóng rồi. Nhen! Để anh qua bển coi sao nhen!

– Em hổng cho anh đi! Sao anh hổng hú chỉ coi sao?

– Thôi mà! Cho anh đi đi, nhen! Chút xíu rồi anh dề rồi anh bắt đền cho!

– Kỳ quá! Anh lo chuyện bao đồng hông hè!

Khi Xuân chống ghe gần tới chòi Loan, tiếng vịt cạp quang quác càng dữ tợn, chứng tỏ chúng đang đói hoặc có điều gì bất thường. Chiếc ghe chưa kịp tới bờ, Xuân bỏ sào, nhảy phóc lên. Đàn vịt thấy người càng cạp cạp rộ lên. Chàng bỏ mặc, đi nhanh vào chòi.

Loan đang nằm mê man trên lớp rơm mỏng. Tóc tai bùi xùi. Quần áo ướt nhem. Chàng lấy tay sờ trán cô gái. Nóng hổi. Và hai môi tím rịm. Xuân gọi tên Loan nhiều lần, nhưng nàng vẫn nằm nín khe. Chàng vừa vỗ vào má nàng vừa gọi tên. Loan vẫn hông nhúc nhích. Nắm tóc giựt mạnh một vài cái, nàng vẫn hông tỉnh. Mình phải làm gì bây giờ? Quay về kêu Vân qua phụ? Lâu lắm! Hơn nữa Vân cũng hông biết gì đâu? Chàng lật đật chạy ra ngoài rút nhiều ôm rơm khô, đem vào banh một lớp dày rộng vừa đủ người nằm. Xong Xuân ẳm cô gái, để nhẹ nhàng vào chỗ đó. Chàng chợt nhìn thấy một khạp đậy nấp. Xuân đi đến, dở nấp ra. May quá có một bộ đồ bà ba, phong bánh in Bổn Lập, miếng cớm chùi, chai dầu cù là MacPhsu, lọ Nhị Thiên Đường, và cái hột quẹt máy.

Một ý nghĩ thoáng qua nhanh chóng: phải thay đồ cho Loan ngay lập tức rồi xoa dầu cho cô ta. Chàng hơi ngần ngại. Rủi mình đang làm thì cô ta tỉnh rồi sao? Loan la lên là ể mặt. Mà chưa chắc gì cô ta la lên đâu! Cổ mắc cỡ, cổ thụi, cổ đấm đá mình chưa biết chừng. Mà để cổ như vầy thì cảm lạnh càng lậm hơn. Cổ cũng có vẻ ngổ ngáo lắm, nhưng Xuân nhận thấy Loan hơi thin thích mình. Mình lạng quạng chưa kịp cổi quần áo, mới rờ đụng vào mình, cổ  giựt mình tỉnh lại, cổ hoảng sợ rồi đá mình một đá thì chết cha mồ tổ! Ở đây xa xóm xa làng biết kêu cứu ai bây giờ? Thực ra Xuân cũng run lắm, nhưng chàng cũng phải làm liều. Để lâu như vậy, hông hiểu Loan có chuyện gì hông? Cho chắc ăn, chàng vừa kêu vừa lấy chơn đẩy nhè nhẹ vô người Loan. Nàng hơi nhướng mắt, hơi tỉnh lại. Nhưng rồi sau đó Loan lại nhắm hai mắt, xụi lơ. Xuân vỗ nhè nhẹ vào hai má Loan. Nàng lại hơi nhướng mắt.

– Em có thay đồ được hông? Quần áo ướt hết trơn rồi. Mau đi để bị lậm là chết đó.

Loan vẫn nằm im. Hơi thở hơi chậm. Xuân rờ trán nàng. Vẫn còn nóng hổi. Chàng giựt mạnh một núm tóc cố tình làm cho Loan tỉnh. Rồi nàng cũng mở hai con mắt hơi lớn một chút nhướng lên nhướng xuống một vài cái.

– Em có thay quần áo được hông? Có bộ đồ khô trong cái khạp cà. Em ráng đứng dậy. Anh đỡ cho. Rồi ráng thay đồ. Rồi… rồi lại nhắm mắt nữa rồi. Nè, Loan. Để anh thay quần áo cho em. Em chịu hôn?

Nàng lại vẫn nằm im re. Cuối cùng chàng quyết định lấy hai tay mở lẹ hàng nút áo. Bộ ngực thật đầy đặn. Làn da trắng ngà ngà như nước cốt dừa và hai vú săn chắc to tròn như cặp vú sữa trắng chín mộng, có núm đỏ hồng. Xuân một thoáng choáng voáng. Chàng hơi ngần ngừ, nhưng tiếp tục đẩy Loan nghiêng qua nghiêng lại để cổi áo, rồi bỏ qua một bên. Còn cái quần? Chàng ngừng tay một chút rồi mau lẹ giựt dây lưng quần sút ra. Hai tay tuột gọn gàng và nhanh. Người Loan bây giờ nằm trên đống rơm hiện ra một cách tuyệt đẹp trước mắt Xuân trong ánh nắng chói chan. Chàng ngây ngất. Trắng ngần ngần như miếng cơm dừa nạo! Xuân nghĩ. Thân thể người đàn bà là một tuyệt tác của tạo hóa. Đúng.Chàng đã đọc câu nói của Francisco de Goya. Và thấy hình La Maja, và thân thể người đàn bà trần truồng trong những tác phẩm của Gustave Courbet in trong sách ở Thư Viện Quốc Gia đường Gia Long Sài Gòn.

Và lần đầu tiên trong đời của thằng con trai 19 tuổi, Xuân được thấy trọn vẹn thân hình lồ lộ của một thiếu nữ hiện trước mắt mình. Chàng hơi xao động. Tự nhiên nước miếng chận nơi cổ họng. Xuân biết sự ham muốn ân ái nổi dậy. Xuân cố kềm chế nên Xuân hông dám nhìn lâu. Chàng lật đật lấy bộ đồ khô mặc vào. Hai bàn tay vẫn còn hơi rung. Đến khi mặc đồ cho Loan xong xuôi, chàng mới thở phào nhẹ nhõm. Mồ hôi tuôn ra như tắm.

Và bây giờ làm sao cho Loan bớt nóng? Xuân lấy dầu Nhị Thiên Đường xoa hai bên mang tai, sau ót. Chàng dùng nắp dầu cù là cạo gió ở lưng. Sau đó, nhanh chóng cạo ở hai bên bả vai. Khó khăn nhứt là xoa dầu ở phần ngực. Xuân ngần ngừ. Mình đúng là thằng ba trợn, dám làm chuyện nầy!

Xong, Xuân lấy bộ đồ ướt đầy mùi hôi tanh ói liệng vô ảng nước tro, đem ra bến ghe đập lên đập xuống vài cái nghe bèm bẹp, rồi quăng dài lên đống rơm phơi nắng. Cái áo in bông cũ nhèm thâm kim ở phần lưng. Cái quần lãnh đen hàng Mỹ A cũ xì cũ xịt nhuộm mặc nưa, hai ống rách bươm.

Chàng lục lạo tìm lúa và cho đám vịt ăn. Tụi nó từ sáng giờ đâu có hột nào trong bụng đâu, nên con nào con nấy chạy lẹt đẹt bu quanh các diệm lúa, đua nhau rúc chèn chẹt.

Chàng trở vào thấy Loan hơi mở mắt, khép lại rồi trở mình rên một vài tiếng. Xuân lại gọi tên cô gái nhưng nàng nằm im. Chàng bèn đi kiếm cái nồi đất, nấu một ít nước sôi, bỏ miếng cớm chùi và một chút bánh in vô quậy cho thành cháo. Chàng rờ trán Loan. Mát rượi. Như vậy là đỡ lắm rồi. Chàng lay lay vai Loan mấy cái. Cô gái mở mắt thao láo nhìn Xuân, vẻ ngượng ngùng.

– Ăn chút cháo nhen. Cho khỏe.

– Anh mần gì tui vậy?

– Thì có mần gì đâu! Trưa rồi, tui nghe vịt cạp dữ quá, bơi ghe qua coi thử sao. Ai dè thấy cô ướt chèm nhem, nóng hổi, nằm liệt dưới đất, kêu hoài hổng nghe trả lời, lắc mấy cái cũng hổng tỉnh. May mà lục trong khạp được bộ quần áo, lọ Nhị Thiên Đường, chai dầu cù là rồi mới thay đồ cho cô, rồi cạo gió. Giờ cô thấy sao rồi?

– Chèn đất ơi! Anh thấy của tui hết rồi hả?

– Thấy gì đâu mà thấy! Ráng nhắm mắt nhắm mũi thấy mồ tổ, rồi thay áo quần lẹ lẹ.

– Dóc tổ. Anh mà nhắm mắt dịt dật cho tui chết đi. Anh nhìn tui mãn nhãn rồi phải hông?

– Thiệt mà! Hổng có đâu mà!

– Thiệt ví giả cái gì! Anh cổi hết đồ tui ra rồi bộ anh mặc lại một cái rụp được hả? Nè anh coi đi. Đầu tiên là cái áo, anh phanh ngực tui, anh nhìn đã thèm. Còn cổi quần tui nữa. Anh thấy hết trơn rồi còn gì đâu! Sao anh gan dữ vậy? Anh hổng sợ tui tỉnh, tui dộng anh một cái, tui đá anh dập mật, lòi bảng họng sao?

– Trời ơi! Cô nầy dữ hé. Chớ để cô vậy, cô bị cảm lạnh cô chết ai mà chôn! Bị ướt từ đầu hôm đến giờ hả?

– Chà! Kệ cha tui! Coi bộ anh thương tui quá hé! Thương thấy mồ thấy tổ người ta. Lột quần áo người ta ra hết rồi còn gì! Mần sao anh biết tui bị cảm?

– Trời ơi! Tui cạo hai bên bả vai sau lưng cô, toàn là gió hột hông hà ! Tức là cô trúng nước chớ gì nữa. Vậy là hổng phải cảm chớ là cái gì? Hổng ấy, bây giờ tui ra ngoài lấy bộ quần áo ướt vô cho cô mặc trở lại, cô chịu hôn? Xí! Người ta mần ơn mà còn bị mắc oán nữa. Giờ có chịu ăn cháo hông?

– Tui còn chóng mặt quá hè! Ngồi dậy hổng nổi. Mần sao ăn?

– Trời đất! Bộ tính bắt tui đút cháo cho cô sao?

– Bắt đền anh vụ hồi nảy đó. Thì đút có chén cháo mà mần gì dữ vậy? Giờ có đút hông? Hổng đút tui la lên bây giờ!

– Nè! Nói cái gì mà phang ngang bửa củi hông vậy? Đừng có mần nư nhen! Đồng không mông quạnh ai mà nghe cô!

– Ừa đó! Con Vân nó nghe chớ ai nghe. Nó nghe rồi cho anh ê mặt luôn.

– Cô bắt bí tui hoài .Được rồi.Tui ngồi đâu lưng với cô để cô dựa rồi múc cháo ăn nhen!

– Hông. Anh phải đút cho tui.

– Trời ơi! cô đày tui quá. Mần có chút xíu mà làm tình làm tội người ta! Thôi, tui đút đây cô nương. Ngồi dậy đi.

– Hổng ngồi nổi. Anh phải đỡ tui dậy.

– Đỡ sao đây?

– Anh nói thiệt hay giỡn chơi đó. Anh mà hổng biết đỡ hả? Thì luồn tay dưới cổ tui, nhắc đầu tui dậy, dựa vào đầu gối anh thì anh mới đút được chứ!

– Cô nằm gọn trong lòng tôi như tôi ẳm em vậy hả?

– Ừa. Có vậy mà hổng biết nữa.

– Cô muốn gì đây?

– Muốn anh đút cháo cho tui chứ gì đâu?

– Khổ cho tui quá. Thinh không mắc cái nạn nầy. Nè! Vầy được chưa?

– Được rồi. Xí! Có vậy mà bi giờ mới làm.

– Ăn hết chén cháo nầy hông?

– Hết chứ! Miễn anh ráng đút cho tui.

– Tui chưa bao giờ mần như vầy hết. Má tui bịnh mà tui chưa bao giờ đút cháo kiểu nầy cho bả. Còn cô, chưa gì hết mà đày tui quá cỡ thợ mộc rồi đó nhe.

– Anh có thương tui hông vậy?

– Hả?

– Anh có thương tui hôn? Thương hông?

– Ờ! Thì… Thì có thương chớ sao hổng thương. Có thương, tui nghe tiếng vịt cạp dữ quá, tui biết cô có gì rồi mới chống ghe qua, chứ nếu hông qua đây mần gì? Ai dè, có chuyện cắc cớ vậy. Lỡ thì mần tới luôn chứ để cô chết thì sao? Thì lo cho cô cũng như Vân vậy thôi!

– Hổng phải. Thương khác kìa…

– Thương khác là thương mần sao?

– Thì thương như vợ chồng vậy đó!

– Tui chưa là chồng cô mà?

– Chắc hôn? Chỉ có chồng mới dám cổi đồ vợ trần trụi dậy chớ có ai dám. Anh thương tui như vợ anh nên anh mới mần. Giờ tui hỏi lại anh, anh có thương tui hông?

– Ơ! Ơ….

– Hổng có ơ nồi gì hết á. Chịu hông?

– Chịu sao?

– Thôi. Ghét anh quá đi. Nói chuyện gì đâu hông á. Người ta hỏi một đằng nói một nẻo.

– Mà… bây giờ xong cháo rồi đó. Tui ra cho vịt ăn thêm, rồi về kêu Vân qua đây sắp nóc chòi lại cho cô.

– Anh đánh trống lãng hông hà!

Chiếc ghe chưa kịp tắp vào bờ, Xuân buông sào, nhảy phốc lên bụi cỏ. Chàng lật đật bước vô chòi. Ngó quanh ngó quất, Xuân hông thấy Vân đâu. Chàng đi vòng ra phía sau chòi. Chợt Xuân khựng lại. Vân hông mặc áo,  tự nhiên ngồi xoay lưng lại, múc nước trong lu xối rỉ rả lên đôi vai trần.

– Anh đi lâu dữ hé! Bây giờ mới dìa? Đêm qua, mồ hôi ướt áo, hôi rình. Em cổi ra để giặt.

– Thì qua bên Loan có chút siú, chớ đi đâu!

– Chỉ sao rồi, mà anh ở bển lâu quá dậy? Bộ dính nhau rồi hả?

– Đọ. Chưa gì hết mà nghi oan cho người ta rồi đó.

– Chớ sao bây giờ mới dìa?

– Loan nó bị cảm, nóng quá trời. Anh ở lại nấu cho nó một miếng cháo.

– Rồi đút cho chỉ ăn chứ gì?

– Em sao hay ghen tầm bậy tầm bạ quá, đặt điều hông hè! Đút cho nó ăn hồi nào?

– Thì nhìn cặp mắt láo liên của anh, em biết anh nói láo. Chà! Hai người tình quá hé. Cái bà đó coi vậy mà dữ tợn à nghen. Mới đây mà chài được anh học trò ở Sài Gòn rồi ta!

– Thôi đừng có nói bậy cô nương. Giờ em với anh qua bển, gom lại mớ lá, sắp nóc cái chòi cho cổ.

– Còn của mình thì sao?

– Mình khỏe. Tối nay ráng ngủ ngoài trời đêm nữa, rồi ngày mai lợp chòi lại.

– Ngủ như đêm hôm qua hén? Em với anh cùng chui vô lỗ rơm đó nữa hẻ?

– Hông. Hết mưa rồi. Mỗi đứa ngủ một cây rơm.

– Xí! Thấy mà phát ghét!

Hai đứa qua chòi Loan. Họ gom lại được mớ lá xé cũ vương vãi khắp nơi, nhưng rách nhiều quá hông đủ để lợp lại, đành dựng một cái thum nhỏ. Vân giúp Loan cho vịt ăn và làm một vài công việc lặt vặt: sắp đặt lại cái cà ròn, chỗ để hủ gạo, tỉn muối, khạp đựng quần áo và đồ ăn… Vân nhìn thấy những vết bầm ở nơi gần cổ Loan.

– Chà! Chị bị cảm nặng lắm đó. Ai cạo gió cho chị vậy?

– Tao cạo chớ ai mà cạo mậy!

– Chị cạo đâu được ở lưng, để tui cạo gió lưng chị là chị hết bịnh liền hà.

– Thôi tui hết bịnh rồi. Hổng cần cạo nữa.

– Chứ hổng phải hồi nảy anh Ba cạo gió cho chị hả? Chà! Cạo sau lưng là tình rồi. Còn cạo trước ngực thì kể như mấm mộng rồi đó nhe!

– Con nhỏ nầy! Kệ tía tao. Hỏi đon hỏi ren hoài. Bộ mầy cũng thương ảnh lắm hả?

– Tui hổng biết. Thế nào tui rình tui cũng bắt được hai ông bà lẹo tẹo à nghen. Sao? Chị sợ chị hổng dám vạch lưng cho tui coi hả?

– Ờ đó. Mầy mần gì tao?

– Coi chơi vậy mà! Nếu có thì hai người hú hí nhau rồi. Hay quá há!

– Kệ cha tao. Tao thương ảnh thì mắc mớ gì tới mầy.

– Thôi mà! Hai đứa đừng cãi lẫy nữa. Lo mần cho mau đi. Tối rồi!

Ngày hôm sau, hai đứa nhặt nhạnh những tấm lá cà đốp còn hơi tốt để lợp lại mái chòi. Nơi nào thiếu lá, Xuân lấy thêm rơm bện lại thành từng bó nhỏ chen vào chỗ hở. Mấy cây cột bể mộng, hông mấm vào ngàm, sút lặt lìa. Điệu nầy, mái lá cũng chỉ ngăn được chút nắng chớ hổng che được mưa. Suốt cả ngày hai đứa có ở trong chòi đâu. Sáng, lùa vịt ra ruộng; chiều thì sau khi cơm nước xong xui, hai đứa ngủ ngoài trời. Khanh dặn đừng ngủ trong chòi vì nhiều rắn rít hay bò vô kiếm đồ ăn…

Không khí buổi chiều mát rượi nhờ mưa dông đêm qua. Và bầu trời ít mây, chắc vì đã trút gần hết nước. Sao Hôm mờ mờ ở chơn trời hướng Đông, được một lúc thì mất hẳn. Chàng hiu, nhái bén, cúm núm, ốc cao thi nhau hòa một điệu nhạc lạ lùng với nhiều nốt trầm bổng. Ánh trăng đầu tháng mờ nhạt, mông lung. Đầu hôm có gió nhẹ lai rai, nên nhìn xuống mặt nước như thấy nhiều mặt trăng chạy lao xao theo những đợt sóng lăn tăn. Những đám lau, sậy, lác, dứa gai dọc dài tạo nên hình dáng kỳ dị, đôi khi giống con cọp, con heo nằm ngủ im lìm trong màng sương trăng…

Loan cho đầu mũi ủi nhẹ vào đám lác sau chòi, chống mạnh sào cặp xuồng vào bờ, nhảy lên, rồi đi về phía hai cây rơm. Trời tối đen. Hai người ngủ hai cái nóp, thụt đầu vào trỏng thì mình làm sao biết được ảnh? Lớ quớ mò bậy trúng con Vân thì bể mánh hết. Mà rủi đụng ảnh, ảnh la lên thì chết cha mồ tổ. Từ hồi chiều tới giờ Tư Én cứ ngần ngừ hoài, nửa muốn qua mà nửa muốn hông. Loan luôn luôn tự hỏi trong bụng hoài: Ảnh có thương mình hông? Hổng thương sao ảnh cổi đồ mình hết vậy, lúc mình nóng mê man? Người gì đâu mà dị hợm? Sao cả gan dám cổi đồ người ta? Mình hỏi có thương mình hông mà cứ ỡm a ỡm ờ, trả lời trớt quớt. Mình thương ảnh quá đi chớ, ngay từ lúc đầu kìa. Nếu hông, sao lúc tỉnh rồi mà còn giả bộ nằm im re để cho ảnh cạo gió mình. Mắc cỡ muốn chết, mình mẫy sượng trân, nổi da gà mà cũng rán gồng mình để cho ảnh làm gì thì làm. Mà ảnh cũng tử tế, chưa dám sờ mó gì? Với bao nhiêu câu hỏi đó làm Loan rạo rực trong lòng. Hai hôm rồi, hình ảnh Xuân ôm nàng vào lòng để đút cháo, cứ chập chờn trước mặt Loan. Nghĩ tới lúc Xuân cổi hết quần áo, nàng trần trụi, có cái gì cứ nóng ran ran trong người nàng, chạy lên chạy xuống xốn xốn hoài. Loan xốn xang hông chịu được, cứ ngó mong qua chòi Xuân. Chập chập lại muốn chống ghe qua nhưng sợ cái con Vân, con nhỏ hay thót thét. Từ đầu hôm đến giờ Loan nằm trong cái thum mà cứ lăn qua lộn lại hông ngủ được. Tiếng cúm núm hình như giục: Cứ đi đi. Tư Én hông chịu được nên đẩy xuồng ra, hai tay ấn mạnh sào lao vụt  trong đêm tối.

Rồi bây giờ qua đến đây, Loan bắt đầu phân vân. Con gái gì mà đi tìm con trai? Giống như cột tìm trâu. Ảnh có chê mình hông? Rủi ảnh hông ưng mình thì sao? Nhưng coi bộ dạng ảnh trả lời thì chắc là ảnh thương mà! Con trai gì mà còn thỏ đế? Thương mà hổng dám nói là thương, cứ trả lời vòng vo hoài. Và Loan nhứt quyết phải gặp cho được Xuân, bởi vì Loan thấy có cái gì nong nóng làm nàng khó chịu, nhớ ray rứt hoài từ lúc lần đầu tiên thấy Xuân đến giờ.

Loan đi rón rén, vòng qua cà tăng nhốt vịt, nếu hông đám vịt con đánh hơi được, tụi nó sẽ kêu chí chít. Nàng đi tới cây rơm có cái nóp. Nàng ngần ngừ một hồi lâu, bước tới gần, nghe hơi thở nhè nhẹ, nàng biết là hơi thở của Vân. Nhưng để cho chắc ăn, Loan đứng lại, nghe ngóng một lần nữa, rồi bỏ đi qua cây rơm ở đầu kia. Nhờ ánh sáng mờ nhạt của những ngôi sao dọi xuống nước; và hơn nữa, ở ngoài đêm tối trong một thời gian lâu, nhìn được rõ hơn, Loan  thấy cái đầu đen của Xuân ló ra khỏi chiếc chiếu. Hơi thở của Xuân dài và mạnh. Loan hồi hộp bước đến gần. Sau một lúc do dự, cô gái nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh Xuân.

Trong giấc ngủ Xuân chập chờn ngửi được mùi bồ bồ và sả. Chàng giựt mình, lấy tay hất chiếu ra, đụng phải thân hình mềm mại của Loan.

– Ai đây?

– Tui đây mà!

– Em đi đâu vậy Loan?

– Tui nhớ anh quá, tui qua đây hổng được sao?

– Nè. Đừng nói lớn. Vân nó nghe.

Xuân vội rút một ôm rơm thật chặt, nắm lấy tay Loan, dẫn tuốt ra phía sau chòi, bươi rơm rộng ra, rồi hai đứa ngồi xuống.

– Em hổng sợ sao?

– Sợ gì? Có anh đây mà. Giờ tui hỏi thiệt anh nghe. Anh có thương tui hông? Anh nói đi rồi tui dìa. Đêm hôm khuya khoắt mà tui bạo gan qua đây gặp anh. Gái đi tìm trai, thì anh đủ biết bụng dạ tui rồi.

– Trời đất!

– Hổng có trời đất gì hết ráo á. Anh cứ dần lân hoài.

– Thì …thì…

– Thì sao nữa đây?

Nói chưa dứt câu, Loan ngã đầu vào ngực Xuân. Mùi bồ bồ, mùi bùn tanh tanh và mùi con gái đồng nội ngây ngô chơn chất có cái ngay ngáy của rơm, có cái chua chua của phèn, của bùn non, có cái khen khét của ánh nắng cháy làm da đen dòn khiến Xuân rạo rực. Loan cứ rúng ra rúc đầu hửi hửi vào người thanh niên mới lớn hực hực đầy sức trai, chờ dịp là bùng nổ. Và rồi, tròm trẹm, trẹm tròm, phựt lửa đốt cháy rơm. Hai con mồi sẵn sàng lăn sả vào nhau. Và con chuột đồng ú nu vàng hực, lăn qua lộn lại xèo xèo trong đám lửa phựt phừng…

– Mình mặc đồ vô đi để bị cảm.

– Hông. Tui hổng chịu.

– Dữ hôn! À nè. Sao em cứ xưng tui hoài vậy? Thương nhau thì phải xưng em, anh chứ!

– Tui đâu biết. Cha sanh mẹ đẻ tới giờ tui có xưng em với ai bao giờ đâu?

– Thì bây giờ mình thương nhau rồi mình phải xưng anh em chứ!

– Ờ hé! Vậy hả anh? Vậy là tự nảy giờ mình thương nhau rồi đó hả anh. Kỳ ghê! Xưng em nghe lạ miệng, mắc cỡ chết mồ.

– Gì đâu mà kỳ. Người ta còn hun nhau nữa kìa. Em có biết hun đâu, chỉ biết hửi hửi như con chó Mực đánh hơi chuột! Vừa thấy hang là hít rồi bươi tới cùng luôn.

– Tui ….. Em nhà quê mà anh, tui… em có biết gì đâu. Em chỉ có biết thương là vậy thôi à! Anh à! Vậy là mình chắc có con hả anh? Em sẽ đẻ cho anh một dọc cho mà xem. Rồi anh sẽ mặc sức mà đặt tên cho tụi nó. Thằng hai Thương, thằng ba Anh, con tư Quá, thằng năm Trời….

– Ngộ quá hé! Ông chú quen trong làng anh, ổng đặt tên con gái một dọc là Mưng, Mửng, Mừng, Mứng, Mựng. Còn ông kia năm thằng con trai là Khuân, Khuấn, Khuần, Khuận, Khuẩn. Còn em lại đặt tên hay hơn.

– Thì tui thương anh quá trời nên mới đặt tên mần vậy?

– Con đông quá mần sao nuôi nổi đây?

– Ối! Hơi sức đâu mà tính. Trời sanh voi trời sanh cỏ. Mắc cuông lo bò trắng răng. Thì anh cứ tính đi. Anh ráng mần ít năm tụi nó lớn lên, tụi nó mần phụ ví anh, lúc đó là anh khoẻ rồi, còn em nữa mà. Chồng cày vợ cấy thì lúc nào cũng có ăn, hổng chết đói đâu mà sợ, má tui nói vậy. Ở xóm tui, ai cũng biết nhà ba má tui- nhà ông Sáu Lục- nhiều con, tới sáu đứa lận. Mà đứa nào đứa nấy cũng cùi cụi. Giờ ba má tui khoẻ re! Ruộng trong bưng nầy còn đầy đàng đầy đống. Tới mùa mình mặc sức mà mần.

– Sao tự nảy giờ anh nghe em tính hông vậy. Ba mẹ em có chịu hông? Nếu hông thì sao?

– Em thương anh thì ở đâu em cũng tới. Tía má em cấm thì em bỏ nhà theo anh .Chị ba tui -chị Ba Lựa- chỉ đi bán, chỉ thương anh ba tui-Hai Rắc- đâu bên Tân Hưng. Ba tui hổng chịu gả, nói tao đâu biết thằng cù bơ cù bấc đó. Chỉ mần nư. Ba tui nói mầy mần gì thì mần đi, tao hông chịu gả. Chỉ bỏ nhà đi theo ảnh biệt có về tới giờ.

– Trai tráng ở đây thiếu gì, sao mới thấy anh mà sáp vô vậy?

– Tụi nó ở đây hả. Thanh niên gì tối ngày tụ năm tụ ba, nhậu nhẹt, ca vọng cổ, hút thuốc rê, hôi rình. Có lần, có thằng hơi đã đã, đêm hôm mò mò tới tui, tui đá cho một cái muốn lòi bảng họng.

– Em ghê vậy! Bữa đó anh thay đồ cho em sao hông đá anh một cái cho lòi bảng họng đi? Bây giờ biết anh sao mà theo anh?

– Nữa? Lúc đầu, tui thấy anh hợp nhãn thì tui… em thương chớ bộ. Anh cứ nói quanh co hoài. Mình thương nhau sao mà cứ đắn đo. Hổng biết! Cứ thương nhau cái đã!

– Trời đất!

Xuân chưa kịp nói hết câu đã bị Loan đè ngã xuống. Xuân bị chìm nghĩm hổng biết đến mấy lần…

Buổi trưa hôm nay hông có gì ăn. Nước còn lễnh lãng. Tép rong hổng có con nào chạy vào chông, nên Xuân và Vân lùng sục tùm lum, may mới bắt được con rắn. Vân sợ hông dám làm. Phùng Xuân đành phải chống xuồng một mình về chòi, bỏ lại cô ta ngồi ở gốc trâm bầu, và hẹn khi nào xong thì đem ra. Tất cả mọi thứ ở đây chỉ làm có được hai món để ăn với muối: luộc và nướng. Chim chóc, chuột … thì phải nướng, chớ luộc ăn tanh ói. Cũng có những món nướng ăn vẫn tanh vì hông có một chút gia vị nào ngoài cây ớt hiểm mọc sau chòi.

Xuân đang lui cui lột da con rắn rằn ri cá thì Loan chống xuồng tới.

– Bầy vịt em ở đâu?

– Bỏ ngoài ruộng gần chòi tui. Tui…. em để ý thấy anh chống ghe về chòi có một mình, nên em lật đật qua. Con Vân nó ở ngoải một mình hả anh?

– Ờ! Có chuyện gì vậy?

– Nè! Nói nầy nghe nầy!…

Loan cổi bỏ khăn rằn trùm đầu ra. Miệng cười chúm chím và đôi mắt sáng ngời lồng trong mái tóc đen dài mượt mà. Cái áo bà ba bung hết nút. Làn da trắng và cái cổ màu mật ngà vì nắng ăn. Xuân ngước nhìn, và bỗng nhiên nghĩ tới thân hình lồ lộ của Loan ngày hôm kia dưới ánh trăng mờ mờ… Hơi nóng trong người Xuân và hơi nóng ban trưa rừng rực lây lan sang người Loan. Khi họ tỉnh lại, cỏ chung quanh đã bị nhầu nát…

– Em dữ lắm nhen! Như bị phong sù. Lại còn nhảy đồng đồng nữa kìa!

– Ờ hé! Vậy đó, rồi thì sao?

– Thì em đúng là Loan trào đờm. Mặc đồ vô mau đi. Vân nó thấy bây giờ.

– Ma dấu anh cho chết luôn đi! Xí! Đồ thấy ghét! Đồ dị hợm!

Nhưng nói thì nói vậy, chớ cô ta cũng nhào đến ôm Xuân hít, hít ngấu nga ngấu nghiến một hồi lâu như muốn ăn tươi nuốt sống. Hai ánh mắt cứ ngời ngời lên. Mình cổ nóng hừng hực còn hơn nắng trưa. Đúng là các cô gái quê đồng nội. Lần nầy nữa cỏ bị quậy nát bấy như trâu dậm lúa, chắc hông lên được!

– Nè. Nói nầy nghe nầy. Anh hỏi thiệt em nghe.

– Chuyện gì anh?

– Có phải hôm đó em giả bộ bị cảm nặng, ngồi dậy hông nổi để anh thay đồ cho em, phải hôn? Hổng phải hả? Ngập ngừng phải hông? Đúng rồi. Bị lật tẩy rồi.

– Xí!

– Xí, xí cái gì cô nương. Đúng rồi. Em làm bộ. Em gan thiệt. Rủi anh trở chứng là tiêu đời luôn.

– Xí! Thì bây giờ cũng tiêu tùng rồi đó!

Tư Én nhanh nhẹn đứng dậy, vuốt lại quần áo, rồi quay vô chòi, trở ra chỗ ghe đậu. Khi đi ngang chòi, cô ta tỉnh bơ xớt lẹ cái áo sơ mi rằn của Xuân, nhét vô bụng…

Loan đột ngột vắng bóng mấy ngày nay làm Xuân buồn rũ rượi. Xuân hỏi thằng nhỏ chừng mười tuổi chăn vịt thế cho Loan. Nó nói nó ra thay chị nó lúc khuya, để chỉ về chở Tía nó đi nhà thương. Hỏi bịnh gì? Nó trả lời ú ớ rồi nín khe. Thằng nhỏ coi bộ còn khờ, có cái mặt ngơ ngơ ngác ngác và hai mắt thao láo. Nó rất ít nói, cứ đưa mắt nhìn. Hông bao giờ có nụ cười. Hỏi tên gì? Một lúc lâu, hình như nó đang tìm kiếm cái tên của nó ở tận miền xa xôi nào đó, nó mới nhếch miệng: Út Thèm. Xuân chưng hửng. Có lẽ cho tai mình nghe hông rõ, Xuân hỏi lại một lần nữa. Nó ngạc nhiên chắc thằng cha nầy điếc, nên lập lại hơi lớn: Út Thèm. Tên gì kỳ vậy mậy? Út Thèm! Vân đứng kế bên cũng bật cười. Cái tên lạ quá há? Có gì đâu, chắc lúc sanh thằng nhỏ nầy, ông già nó ổng đang thèm cái gì đó nên ổng đặt tên cho nó như vậy mà! Chớ nếu nó “xấu hái” thì chắc tên nó là Út Cu hay Út Cặ.. rồi! Đôi khi nó đứng trân trân ngó Xuân và Vân như hai người khác lạ lùng mà nó chưa bao giờ gặp ở trong làng của nó. Nhứt là Vân, nó thấy trắng trẻo hơn chị của nó nhiều, có đôi má núng đồng tiền và cái miệng có cái răng khểnh, lúc nào cũng cười chúm cha chúm chím.

Xuân có linh tính là chẳng bao giờ gặp lại được Loan. Chàng chỉ có hơi thắc mắc là tại sao Loan hông nói với mình một lời trước khi ra đi. Có gì đâu, chỉ cần đi ngang là hú một tiếng thôi mà. Thế mà cũng hà tiện lời. Kể ra cô ta cũng kỳ. Đến đột ngột, thương bồng bột, quầng nhau dữ dội, rồi ra đi đường đột. Hình như là một áng mây che làm chàng u buồn ngẩn ngơ.

– Rồi a! Chị Loan hớp hồn anh nữa rồi phải hông?

Xuân hổng buồn trả lời.Vân thấy Xuân nhìn mình hổng cười trong hai ngày liên tiếp như vậy, nhưng Vân vẫn tiếp tục săn đón.Có thể nàng hiểu ra rằng bây giờ chỉ còn lại một mình.Và chắc chắn mình là kẻ chiến thắng sau cùng thì mình vội vã làm gì. Hai đứa chung đụng hằng ngày giữa chốn đồng không. Hông chóng thì chầy, lửa sẽ đốt cháy rơm tiêu tan hổng có cách gì ngăn cản được… Sao ông Sáu Xe hứa bữa sau xuống mà tới bây giờ hổng thấy ổng?

Tháng bảy ít khi được những đêm trời trong, bao giờ cũng có mây che, nên trăng hông bao giờ lộ nguyên hình, thỉnh thoảng hé miệng ra cười một chút xíu rồi lại ẩn mình trong những đám mây. Và trời thường tối sớm hơn vì mây đen. Hai đứa lúc nào cũng lùa vịt về lúc mặt trời còn ở trên cao. Trong lúc Vân bận rộn với nồi cơm, Xuân lo nhốt vịt rồi cho ăn thêm chút ít lúa. Xong, chàng ra thăm cái chông coi có được chút tép rong và cá bãi trầu nào hông. Bây giờ thì đồ ăn hết rồi.Hai đứa chỉ trông cậy ba con tép cá có được hằng ngày của cái chông. Trời mưa nhiều .Nước tràn bờ. Tép rong, cá bãi trầu, cá lia thia… lên ruộng. Cá lóc cửng cũng đi đâu mất hết. Mong gì được bầy ròng ròng! Chông hông chạy thì rán đi kiếm chuột, rắn… Những bữa hổng kiếm được gì thì Vân bỏ cho Xuân chăn vịt. Cô ta lò dò đi kiếm đọt chại, đọt ráng, rau dừa, rau muống ruộng (rau muống ruộng cọng màu hơi đỏ và cứng) về luộc chấm với nước muối ớt. Cay thắt họng. Nước mũi, nước miếng chảy sụt sùi. Nhiều khi hai đứa nuốt hổng vô…

Hông biết thời gian trôi đi là bao lâu, nhưng Xuân đoán có thể hôm nay là gần rằm. Chàng hy vọng có đêm sáng trăng. Nhưng tháng bảy và tháng tám làm gì có được đêm trăng rằm sáng ngà. Tháng nào thì có hạn bà Chằn? Hỏi Vân thì cô ta cũng bù trớt luôn. Và ngày rằm và ba mươi thường thì có mưa, vì con nước rong, nước ngập tràn đồng.

– Chắc đêm nay có trăng đẹp.

– Hổng có đâu anh. Em thấy mấy đám mây đen đang kéo tới kìa!

Vân trông mong trời mưa. Mấy hôm rày trời hơi khô ráo, hai đứa ngủ riêng ở hai cây rơm. Xuân biết Vân đợi trời mưa để được dịp chui vào lỗ rơm Xuân làm mấy hôm trước, nhưng bây giờ phải gá thêm vào đống rơm một cái thum nhỏ cho đủ rộng. Mỗi lần ước như thế là đôi mắt nàng rực sáng.

Và quả thiệt, mây đen kéo tới làm tối trời. Trăng bị mây che mất. Ánh trăng suông mờ mờ. Chưa gì hết là Vân lật đật phóng vào cái lỗ rơm trước tiên. Xuân còn chần chờ, nhưng cuối cùng mưa nặng hột rồi cũng phải chui tọt vô, phủ rơm lấp lại.

– Anh!

– Gì Vân?

– Em…

Xuân ngộp người vì hơi thở của Vân dồn dập. Hơi nóng tuôn ra ào ạt từ đôi vú lớn săn chắc, phập phò lồ lộ ra khỏi áo bị bung hết nút từ lúc nào hông biết. Mùi thơm lạ lùng của mái tóc dài thườn thượt, của đôi gò má nắng cháy đồng ruộng, mùi da của cô gái vườn dừa đang ở độ tuổi “bẽ gãy sừng trâu” và làn da mềm mại của ngực trần, đã đánh bại sức chống cự của Xuân.

Trời mưa! Trời mưa dông. Và trời mưa thật lớn nung nóng sức bật mãnh liệt của đôi trai gái đang sung độ. Cây rơm vừa gồng mình dưới cơn mưa vừa oằn oại chịu đựng sự rung rinh của hai thân thể bất kể trời đất. Trận mưa dông mặc tình tuôn đổ như xối nước lên cây rơm. Và tiếng xột xà xột xẹt của rơm liên tu bất tận, càng lúc càng lẹ hơn tiếng mưa rơi…

– Nhè nhẹ thôi em. Coi chừng cây rơm sập là hai đứa chết ngộp luôn à nghen.

– É! Anh biết gì! Tía bung rơm lên chặt lắm, hông có sụp đâu mà anh sợ.

– Nhưng mà anh moi một lỗ sâu vô giữa thân cây rơm rồi. Mưa đang như trút bên ngoài, thêm cây mưa của em; hai cây mưa lớn như thế nầy thế nào nó cũng quị cho mà xem!

– Kệ nó! Chết em chịu.

– Dữ hôn! Còn hơn chị Sáu em.

– Thì em đã nói có ngày em sẽ cho anh biết tay em mà. Anh hổng biết đâu. Chớ cái đêm ở Bến Tre, anh và chị Sáu mầy mò cái gì mà lục cà lục cục làm em ngủ trắng mắt. Còn nữa. Anh với chị Loan như hai cây đèn cầy lúc la lúc lắc hoài trong đêm tối. Chỉ đi tới đầu nóp em là em biết rồi. Em nín thở. Rồi em rình theo. Em biết hết. Đống rơm đằng sau chòi còn sờ sờ đó. Bây giờ còn mình em, em cho anh biết tay. Cho anh chết luôn!

– Trời đất! À. À. Anh còn nhớ đêm hôm đó, anh nghe tiếng giường của em cứ cọt cà cọt kẹt hoài.

– Ờ hé! Hổng có trời đất gì hết ráo á! Cho anh biết tay em mà! Đồ đàn ông gì mà tham lam!

– Có em á!

Và những trận mưa lại thêm nặng hột, ào ào, hông dứt. Ánh trăng suông mờ mờ. Cho đến lúc nào hông biết, đôi trai gái buông ra. Họ thở ra hông kịp hơi. Và họ mê mệt, tàn như tro rơm. Họ chết dần dần trong giấc ngủ. Chết dần trong sự đam mê xác thịt giữa cơn mưa nơi đồng không mông quạnh.

Mặt trời mọc rồi lặn trôi đều đặn. Vân hả hê với cuộc sống có Xuân bên cạnh. Bây giờ thì chỉ còn một mình, hông còn ai mà bắt xác ảnh nữa. Nàng nghĩ như vậy. Và nàng có những toan tính cho riêng mình.

– Anh à! Nói nầy nghe nầy! Em tính mai mốt Tía Má sẽ cho  tụi mình miếng vườn ở ấp Cô Xanh. Mình có con có cái sống ở đó khoẻ lắm anh.

– Sao khòe?

– Thì có huê lợi sẳn rồi. Nè, ổi nè, chuối nè, dừa nè. Bấy nhiêu đó hai đứa mình xoay tối ngày đủ ngất ngư. Còn con nữa mà. Em thích có năm sáu đứa.

– Năm sáu đứa thì còn thì giờ đâu mà lo vườn tược.

– Sao hổng được. Đẻ một tháng là làm được rồi.

– Rồi hai tháng sau ôm một cái bầu nữa hé?

– Em muốn vậy.

– Trời đất! Tư niên có chuyện đó thôi sao.

– Thì sao nữa. Gái vườn lớn lên, có chồng có con, lo vườn tược, như vậy là êm ấm rồi.

– Còn anh. Anh muốn học nữa.

– Thì anh học đi. Dìa dưới nầy làm thầy giáo.

– Vậy là mình chưa tính làm đám cưới?

– Chưa. Cho anh đi học rồi làm thầy giáo như anh Năm em.

– Anh thấy em tính coi bộ hổng được rồi đó.

– Sao hổng được?

– Mấy hôm rày cứ xà nẹo ngày ba bốn lần thì đố khỏi có con tới nơi. Ở đó mà tính với toán.

– Em hổng sợ. Mình có con là có chớ sao!

– Trời! Gái 17 bẽ gãy sừng trâu!

– Ờ hé! Cho anh biết tay em mà!

Buổi trưa, trời nắng chan chan. Sau khi ăn xong, hai đứa ngồi dưới gốc trâm bầu, nhìn bầy vịt đang rút rỉa trong ruộng.

– Em khát nước quá! Em đang thèm nước dừa xiêm.

– Dừa xiêm gì?

– Dừa xiêm chớ dừa xiêm gì? Anh lại hỏi dần lân nữa rồi!

– Hổng có đâu đó cô. Có dừa xiêm thiệt và dừa xiêm lai. Dừa xiêm thiệt nhỏ trái, hơi thon dài. Còn dừa xiêm lai trái hơi lớn một chút. Em hông có biết, chớ nước dừa xiêm thiệt ở quê ngoại anh- Châu Bình- có vị thanh và ngọt hơn Lương Quới .

– Sao vậy anh?

– Vì vùng Châu Bình là vùng đất còn ngập mặn- nước xạ hai. Qua mùa nắng gắt, lúc nước kém, nước mặn tràn vào,  ban đêm, mình lấy tay khỏa sẽ thấy nước sáng lên, có lân tinh lấp lánh. Rễ cây dừa hút nước lờ lợ. Nước dừa sẽ ngọt thanh hơn…

Ngôi nhà của Ngoại, ở Châu Bình, lợp ngói âm dương, cũ kỹ, có từ hồi nào Xuân hổng biết nữa. Lớn lên, Xuân đã thấy ngôi nhà đã có ở đó với cái dạng hình bánh ít, giữa cái sân trước rộng rinh dùng để phơi dừa. Một dãy lu vú da bò chứa đầy nước mưa bên hàng hiên nhà. Xuân, các em và tụi bạn thường hay lủi vào kẹt lu chơi trốn bắt cút. Trước nhà là cái cầu đúc nhỏ bắc ngang con rạch. Qua cái cầu đúc, phải đi trên những tảng đá ong, vòng vo ngoằn ngoèo theo cái hàng rào quít tàu và trà  được cắt xén cẩn thận cao khỏi đầu người, rồi mới vô tới căn nhà ăn và nhà bếp rộng rãi.

Sau nhà bếp là một dãy nhà lớn rộng để chứa và sấy dừa vào mùa mưa. Lúc nào bên hông dãy nhà nầy cũng có một hai đống dừa khô độ một hai thiên. (Một thiên là một ngàn. Ở  quê Xuân, người ta gọi một thiên dừa chớ hông ai gọi là một ngàn dừa). Và những ổ tèn hen đùn lên cùng khắp sân. Có bầy ngỗng dữ dằn, cổ dài ngoằn, luôn luôn lúc nào cũng rượt đuổi bọn Xuân.

Ông Ngoại của Xuân, Ông Ba Hạo, có đến bốn bà vợ. Ổng chết từ lúc não lúc nao, chắc lúc còn trẻ nên ông cố  Lê Phùng Xuân chia phần, cho người vợ trẻ nhứt, bà ngoại của Xuân ba mẫu vườn dừa, năm mẫu ruộng ở ngoài lộ ngang. Bà Ngọai, quê ở Giồng Trôm, đã một lần góa chồng, dốt đặc cán mai. Bà hay nói những thứ chữ hơi lạ như “tư niên”(quanh năm), hồi nẫm(hồi xưa), đi hược(đi học), vịt cồ (vịt trống), gà cồ, cua kình (cua lớn), sít rịt… Từ khi về với ông Ngoại, bà quán xuyến công việc nhà rất giỏi. Xuân lớn lên đã thấy một mình Ngọai tính nhẩm từ trăm cau, chục sa bô chê, chục mãng cầu xiêm… Đống dừa mấy thiên? Ngoại đều biết răng rắc bằng cách bẽ từng đọan cọng lá dừa.

Ông Cậu Năm Kình hổng làm gì được hết. Tối ngày ổng chỉ ho sù sụ vì chứng ho lao đã hành ổng từ khi ông Cố cho ổng lên Sài Gòn học. Ông Cậu mãi mê thức đêm thức hôm đọc ba cái Tiểu Thuyết Thứ Bảy và Tự Lực Văn Đoàn. Ổng có rất nhiều sách- nhưng đặc biệt là hông có truyện Tàu- dấu trong các cái lu vú bò. Khi nào hô có Tây ruồng là Bà Ngoại phải lo tuồn ba cuốn sách đó vào những cái lu đã chôn sẳn sau vườn. Ổng lại còn có tật cà lăm nữa. Nói một tiếng, rặn gần hồi lâu mới ra khỏi miệng.

Mới có  tám, chín tuổi nhưng Xuân cũng đọc được: Tôi là Mẹ, Chiếc Bóng Song The, Hồn Bướm Mơ Tiên, Tố Tâm và cuốn mà Xuân mê nhứt là Đồng Tiền Vạn Lịch. Thằng nhỏ nầy hay lò dò đến gần mấy cái lu, đợi ổng lên cơn ho, lén lén rút đại một cuốn rồi bỏ chạy. Ông Cậu có ngó thấy, chưa nói được một tiếng là Xuân đã tuôn ra tới đầu bờ dừa, nằm gác chơn lên gốc bụi nhàu đọc ngấu nghiến trong buổi trưa hè đầy nắng loang lỗ.

Nắng trong vườn dừa  buổi trưa mát rượi. Hông có một ngọn gió. Vắng lặng. Thoảng có tiếng cu kêu xa xa và tiếng gà  cồ gáy. Thằng bé đọc đã, nằm ngủ thiu thiu. Nước lớn dần dần len vào các bờ mương. Cá nóc nói bắt đầu nhảy lên, nằm phơi mình trên mấy trái dừa điếc và mo nang đầy bùn sình. ( Cá nóc nói có hình dạng như cá thòi lòi nhưng nhỏ con hơn, chỉ bằng ngón tay giữa là cùng. Nóc nói ở trong mương vườn, hông thấy ra ở vùng nước sâu. Háu ăn nên trẻ con thường bắt để làm mồi câu cua biển )

Nhà Ngoại còn có hai cây me to bên hông sân, ngập bông khi mùa gió chướng và đầy trái vào mùa quết bánh phồng mì, bánh phồng nếp. Bông me, đọt me non nấu canh chua cá chốt ăn với tép bạc kho nước cốt dừa. Có bụi chuối hột đầy trái chín. Đám con nít hông dám ăn, sợ ỉa hông ra. Bắp chuối và cây non nấu canh chua lươn con mẻ. Khi ra giêng, còn có hoa ô môi nở màu tím rịm, từng chùm phủ kín cây, đua sắc với bông vông nem đỏ choét ở ngõ vào nhà. Có chim trao trảo kêu ‘ trao trao’ nhảy nhót đầy trong lùm cây sa bô chê, lê ki ma, mãng cầu xiêm, vú sữa. Có chim chìa vôi hiền lành liệng qua lại trên cành ô môi. Có con chim khách đen thẩm, đuôi dài kêu như có khách đến nhà. Có bầy chim se sẻ và cu lửa, cu đất thỉnh thoảng sà xuống sân mổ những viên sạn nhỏ. Có những com chim sâu ô đen tuyền im lặng chuyền qua chuyền lại tìm sâu trong lùm cây buổi trưa hè nắng có sao…

Từng ấy ghi đậm trong trí óc non nớt của Xuân về vùng đất của Ngoại ở Châu Bình. Nhưng còn nữa, còn nhiều nữa mà Xuân hông nhớ hết. Có cái đáng nhớ hơn hết là Ngoại hông bao giờ quánh đòn, hông bao giờ trách mắng anh em Xuân. Cùng lắm là: “ Ông bà cố tổ mầy, thằng chó đẻ nầy, mầy phá lắm à nghen! ”, rồi Bà vừa cười vừa lấy tay xoa đầu Xuân.

Cái thằng mới có cở tuổi đó mà đã giúp Ngoại lượm dừa rụng từ sáng sớm, hái sa bô chê, hái cau… Hông hiểu sao Xuân khoái nhứt là cái vụ hái cau. Miệng nó ngậm con dao bầu nhỏ bén để bửa cau khi Ngoại ăn trầu. Bụng bó mo cau. Nó có bao giờ mặc áo đâu, ở trần trùng trục tối ngày. Hai chơn kẹp vào nài, Xuân leo thoăn thoắt, đến buồng cau, thử hai trái bìa rồi đến trái giữa. Một tiếng hô: Dầy rồi Ngoại ơi! là nó cứa hai cái rẹt rẹt hai bên mép. Buồng cau rời khỏi thân cây. Một tay giữ chặt buồng cau, một tay ôm thân cau, Xuân tuột một cái rột là xuống tới đất. Bỏ đó, nó đi đến những cây cau khác. Cau hiểm hay là cau lồng tôm, nó đều biết cách thử và hái được hết. Đôi khi nó hông biết tại sao có những buồng cau rất nặng, nó hông xách nổi ở dưới đất mà lại ôm trọn được buồng cau để tuột xuống. Hay là nó say mùi bông cau? À! À! À hén, nó biết rồi. Ôm thân cau tuột thật lẹ làm cho nó thấy tê tê đầu con cu. Hèn chi nó mê cái mửng đó!

Xuân ít khi nào thấy Ngoại bị bịnh, chỉ lâu lâu thấy bà nhai một vài viên thuốc tể uống với nước đậu nành rang. Trà của Ngoại là bông đực mãng cầu xiêm cắt nhỏ phơi khô, xong rang cho vàng ươm thơm lừng, đổ xuống nền đất nạp thủy thổ. Trà của Ngoại còn là đậu ma hái ngoài bờ dừa rang với đậu đỏ, đậu đen. Ngày nào cũng có ba bốn tô bự chảng nước trà loại nầy để Ngoại uống từ sáng đến chiều. Mấy hôm nào bị trúng mưa, bà sụt sùi. Bà lấy một viên thuốc tể hiệu Cữu Long Hoàn, nhai nhót nhét rồi uống một vài hớp nước hoặc hái mấy trái nhàu chín màu trăng trắng chấm với muối, ăn một cách ngon lành. Xuân hông chịu được mùi trái nhàu chín, nó khai ngấy, thum thủm như mùi nước đái con nít. Tụi Xuân thích nhứt là những ngày nắng hè gay gắt Ngoại vò cho một diệm lá sâm hái ngoài bờ dừa. Mỗi đứa ăn một tô với đường tán gọt nhỏ hay đường thùng. Có thế mà ngon, vì hổng có đường thì ăn với muối kia mà!

Ngoại tom góp đủ thứ để nuôi anh em Xuân. Ngoại bán cơm dừa sấy hay phơi khô có giá hơn dừa tươi. Từng lít nước màu nấu bằng nước dừa, từng trăm cau, từng trăm sa bô chê (khi Sa bô chê tới lứa, Ngoại kêu anh em Xuân hái xuống, phơi đầy sân một nắng, xong cho vô khạp da bò có lót lá chuối khô, đốt một bó nhang để vô giữa, đậy hùm lại độ ba ngày là sa bô chê trở mình ) và chục mãng cầu xiêm, từng bó lá dừa, từng nãi chuối tá quạ và từng ôm củi bẹ dừa, từng trái ô môi chín khô quăng lên nóc nhà .

Những thứ đó Ngoại chứa sẳn theo mùa, đợi ngày con nước rằm. Ghe bầu vào tới cầu ở rạch cái trước nhà. Ngoại đem đổi lấy gạo, nước mắm, muối, đường… Đôi khi đổi được một miếng thịt ba rọi, thịt đầu heo thì đem đi kho với dừa cứng cạy, với tép đổ nò. Cây mái dầm mọc đầy dẫy ven bờ rạch. Ngoại làm cách nào hông biết để thành món dưa chua. Xuân hông bao giờ quên được cái mùi thum thủm của món dưa chua mái dầm ăn dậm với nước mắm kho quẹt trong những ngày mưa dầm rả rích tháng bảy. Còn có cả thịt nhái, thịt cóc xào với lá nhàu hay lá cách. Và còn tô canh cải trời nữa chứ. Ờ hé!, những ngày tháng nầy có nấm mối mọc ngoài vườn. Ngoại đổ bánh xèo với nấm mối, tép chạy nò. Bánh xèo cái nào cái nấy vàng hực, ngầy ngậy mùi nước cốt dừa. Bọn Xuân ăn bánh xèo cuốn với lá đọt mọt trắng muột, lá cách, với ngò gai thơm mọc tràn sau vườn nhà.

Ra giêng, mùa nắng gắt. Nước sông mặn. Ban đêm lấy tay khỏa, nước lấp la lấp lánh như ma trơi. Bắt đầu có sam, rạm. Ngoại cho đấp đập mương vườn ngăn nước mặn tràn vô. Bọn Xuân tắm nước mặn. Mắt cay xè. Họng đắng nghét. Vậy mà cũng ráng dầm mình suốt buổi rồi chạy vào mương vườn múc nước xối ào ào. Có hôm Ngoại buồn tình. Bà bẽ cây lá cách làm roi, vừa cười, rượt bọn Xuân. Tụi bây phá nước ngọt của tao. Bọn trẻ, ở truồng dòng dỏng, tuôn chạy, rồi quay lại cười. Coi vậy, chớ nhằm con nước rong rằm và ba mươi, nước sông trở nên măn mẳn hay ngòn ngọt được một vài đêm.

Cái nò ở cái xẻo bên hông vườn nhà là nguồn cung cấp cá tép hằng ngày cho gia đình. Mỗi ngày có hai con nước lớn, nước ròng theo con trăng. Tép bạc, tép đất, bống dừa, bống cát… thì lúc nào cũng có. Còn cá kèo và những con rạm, con sam, con lươn, con lịch… chạy theo mùa, theo con nước. Cá chốt thì nhiều, nhưng dơ lắm, hay bám theo những dề cứt trôi lều bều lúc nước nhửng lớn ở ngoài rạch cái. Gặp con nước ươn, con nước kém, hoặc là những dịp rái giỗ ngoài rạch lớn thì hông có con gì. Đôi khi bọn anh em Xuân thèm quá, lén Ngoại đổ trộm để bắt tép, cua… nướng ăn. Còn con rạm, con sam, và con lươn, con lịch với con cua bọn nầy đi câu hay đi móc hang lúc nước ròng là những món ăn chơi của bọn Xuân. Hay là nghịch ngợm hơn, đào miết để bắt tèn hen nướng ăn chơi. Tư niên chỉ có mùi cá hông mà sao hổng thèm đến các thứ khác được?…

Gà chưa gáy sáng, Ngoại choàng mình thức dậy. Đâu phải tiếng chim sấm bay trong mùa nầy? Chim sấm bay nhiều đợt từ Nam ra Bắc vào mùa gió chướng mà? Tiếng gầm rú của tàu đổ bộ ngoài vàm sông Ba Lai? Chắc Tây ruồng rồi. Trong khi mọi người lo gom góp quần áo cuộn lại trong khăn, Ngoại đã nấu được nồi cơm nhão, dùng mo cau nhồi thành những cục cơm vắt, cuộn lá chuối rồi bỏ vào bao lác.

Trời chưa hửng sáng, đã có tiếng súng gần lộ ngoài. Ngoại lật đật hối Cậu Năm chui xuống lu đã chôn giữa bụi quít tàu sau nhà rồi dùng lá dừa phủ lên. Kỳ nầy Ngoại hông kịp dẫn bọn Xuân trốn vào rừng cây bình linh có nhiều bụi mây và lứt cao ngập đầu mà đẩy tụi nó chui vào đít bộ ván giữa nhà bếp. Xong Ngọai lấy vỏ dừa khô chất kín chung quanh…

Hổng biết độ bao lâu. Đột nhiên có tiếng súng nổ ngoài sau vườn và nhiều tiếng la hét bằng giọng mình và giọng gì lạ quắc mà Xuân nghĩ chắc là Tây. Xuân có bao giờ thấy Tây đâu. Nghe mọi người nói là tụi nó ác dữ lắm, đi ruồng tới đâu là bắn giết, chặt đầu người, còn bắt đàn bà con gái hãm hiếp. Nó nghe nói mà ớn luôn. Họ lại còn nói Tây mặt gạch và Tây Sê nê ga le còn hung dữ hơn nữa. Xuân nghe lén chị Năm Hơn ở xóm ngoài bị bốn năm thằng Tây mặt gạch tụi nó hiếp tới chết luôn. Xuân nhớ có lần, Ba Má dẫn Xuân đi mít tinh chống Tây ở đình Bình Khương, miệt dưới Châu Bình. Xuân còn nhớ đêm đó, nó trông thấy nhiều cờ đỏ sao vàng của ViệtMinh  quơ lên quơ xuống và tiếng hô đả đảo Tây vang trời.

Bất thình lình, có những tiếng xí xô xí xào quanh chỗ Xuân và tiếng lụp cụp quăng đồ vật lên mặt ván. Cả gia đình nằm im thin thít, chết điếng, hông dám cựa quậy. Mẹ nói nếu để Tây bắt được thì nó bắt đem về bên Bình Đại; nếu hông thì nó bắn giết cho chết luôn. Sợ nhứt là đứa em út. Rủi nó khóc lên thì sao? May mà nó sợ quá, nó nín khe.

Có những thứ gì liệng len keng trên bộ ván và giọng nói của đám người càng lớn càng nhiều. Cùng lúc có tiếng gà mái kêu quang quác và tiếng la hét hô bắt nó, bắt nó. Xuân nghĩ chắc bọn lính tìm ra nơi gà mái đang ấp và đã hốt trọn ổ trứng gà rồi.

– Mầy hỏi quan lớn có đốt nhà nầy hông mậy?

– Hông. Ổng thấy nhà nầy có  tượng Đức Mẹ ẳm chúa DêSu, có ông Thánh DuSe, lại còn có khung hình thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nữa nên ổng hông cho đốt.

Ông Hương Cả Lê Phùng Xuân-người thường gọi ông Cả Non- đã đến lập nghiệp ở vùng đất hoang vu Châu Bình từ lâu đời. Gia đình thờ cúng ông bà. Khi gặp một linh mục ở Đà Lạt đã trị cho ông hết bịnh ban cua dai dẳng, ông tin lời Chúa và theo đạo Thiên Chúa. Theo lời bà Ngoại kể lại, ông có rất nhiều sách viết chữ Nho, ông biết kê đơn bốc thuốc và giỏi võ. Đến đời ông Ngoại- Lê văn Hạo- con cái đều được đi học. Má Xuân học ở GiồngTrôm, còn Cậu Năm Kình “hược” ở Sài Gòn. Gia đình rất sùng đạo. Chủ nhựt nào cũng phải thức dậy từ khuya để đi lễ tận nhà thờ Giồng Khương, sát bên Lương Quới. Vùng Ba Châu có nhiều người theo đạo, nhưng chỉ có một nhà thờ đó mà thôi.

Ông Cố cho lập bàn thờ Đức Mẹ ở gian giữa nhà. Gian nầy có bộ tràng kỷ đen, cẩn xa cừ. Một bên là bộ ván gõ mun và bên kia là bộ bàn ghế dùng để ngồi uống nước trà. Phần sau là buồng ngủ, có cái “giường xe” to lớn, đựng đầy tô chén kiểu dùng vào dịp giỗ quãy. Phần sau nhà nầy là phần Xuân sợ nhứt vì bao giờ cũng tối mò và đầy muỗi.

Nằm im lìm nín thở dưới đít bộ ván, Xuân nhớ lại Ngoại đã kể với nó về Ông Tán Kế (Lê tấn Kế) bị Tây chém đầu ở Châu Thới(?), về Một On (Le Roy) phục kích đánh tan tác bộ đội của Chín Tá, Việt Minh, ở gần cầu sắt Châu Bình năm 1947(?), gần lộ giữa. Bà nói ông Ngoại kể chết nhiều lắm, chôn xác một ngày hông hết .Xuân sợ quá, lỡ Tây mà nó bắt được là nó bắn chết. Xuân mắc đái gần chết mà hông dám đái ra quần.

Cảnh vật chung quanh im ắng đã từ lâu. Cả nhà vẫn còn nằm nín thinh. Đột nhiên có tiếng gáy của con gà cồ gần bên bộ ván. Bà Ngoại và Má biết đám lính đã rút đi hết rồi nên tốc vỏ dừa hai bên. Tụi Xuân lật đật chui ra. Trên mặt bộ ván bày la liệt  những lon dẹp và tròn mà bọn nầy hông biết là thứ gì. Mỗi đứa cầm lên một thứ, bắt đầu hửi. Có mùi thịt. Tụi nó liếm một cách ngon lành. Nhưng có liếm mút được một cách trọn vẹn đâu vì tiếng hét của Bà Ngọai và Má.

– Quăng đi. Mau. Có thuốc độc trong đó. Chết hết bây giờ!

Tư niên chỉ có mùi cá hông mà sao hổng thèm đến các thứ khác được? Cả bọn ngẩn ngơ. Xuân xách chét, kéo tụi em ra bờ dừa xiêm. Xuân trèo lên vặn một vài trái cho rớt rồi tuột xuống, vạt soèn soẹt ở đít dừa, chia nhau uống ừng ực. Mùi cá mòi và mùi thịt hộp vẫn còn dây dưa quanh miệng…

– Em muốn uống nước dừa xiêm thiệt Châu Bình!

– Đâu mà có?

– Có mà!

Đột nhiên Vân ngã người ôm siết Xuân. Gương mặt nàng đỏ rực dưới mặt trời nóng cháy. Và hai thân thể bị nắng trưa thiêu đốt đỏ hừng hực. Bùn non trây nhèm nhẹp, chẹp chẹp liên hồi và nước bị quậy chủm chà chủm choẹt, rột rà rột rẹt. Mình mẫy hai đứa dính đầy bùn. Gió mạnh cũng hông làm khô nổi những giọt mồ hôi tuôn rào rào như nước xổ đập… Nằm im lìm trên người Vân rất lâu, Xuân thấy ngưa ngứa ở bắp chuối. Chàng giựt mình. Có hai con đỉa mén..

– Chết cha! Quần áo mình để ở nón lá trôi tuốt luốt đằng kia rồi!

– Làm sao đây? Thôi mình lội đi lấy đi!

– Hả? Hông. Hổng đi đâu hết!

– Chứ làm sao mình lấy?

– Oánh tù tì. Đứa nào thua thì đi lấy.

– Thôi à nhen! Mình hổng chịu đi đâu à nhen. Rủi em thua thì sao?

– Thì đi lấy chứ sao!

– Mình hổng dỡn đâu à nghen! Đàn ông con trai gì đâu mà hổng biết nịnh. Như vầy, ai bắt con gái đi!

– Nịnh là hồi lúc trước cà! Chớ bây giờ ai thèm nịnh nữa. Em thua thì em phải đi lấy. Như vậy đi cũng được vậy!

– Dị hợm hôn. Coi cái bản mặt kìa. Thấy mà ghét!

– Ghét hả? Xỉa xói vô mặt anh hả ? Anh mần một trận nữa cho em chết luôn thì hết ghét nghen!

– A! A! A! Thôi… thôi mà…

Bờ bao ruộng nơi khác lại bị sạt lở. Nước lại đục ngầu như  nước quậy mương xúc tép. Dường như có trời mưa vì nước tuôn chảy dầm dề trên lưng Xuân. Hai cơ thể rã rời nằm yên, một phần ở bờ bao đầy bùn sình, một phần ở dưới nước. Nắng trưa hừng hực. Nước ruộng nóng hổi.

Cuối cùng thì chàng cũng phải đi lấy quần áo nằm trong nón lá bị trôi mút tí tè ở đầu bờ ruộng. Hông lẽ mình để thân thể trắng duột như miếng cơm dừa của cổ đi ngờ ngờ trên bờ đê hay lội vô đám bùn non? Chàng hông dám chạy tồng ngồng theo bờ đê, coi chướng lắm, nên lội ột ệt dưới nước sâu đến ngang háng. Đến khi trở về, hai con đỉa mén bám vào bắp đùi, Vân ngó thấy la hoảng lên. Chàng lấy tay giựt mạnh ra. Hai dòng máu rỉ ra chạy xuống đến bắp chuối.

Ở đây có nhiều đỉa mén mà ít đỉa trâu. Hai đứa hông khi nào lội tắm ở xẻo nước trước chòi. Xuân thì có thể ở trần, mặc quần xà lỏn, lặn ngụp một hai cái, xong đi lên. Chớ còn Vân bao giờ cũng mặc nguyên quần áo nhảy ùm xuống, rồi lật đật chạy lên- nếu ngày hôm đó bị dính bùn đất nhiều. Hai đứa đều sợ đỉa. Nếu mình quậy đùng đùng một lúc lâu thì đỉa mén sẽ men tới liền, chui vào những chỗ kín thì khó mà biết được. Khi mà thấy ngứa, mò tay đến thì con đỉa mém to bằng ngón tay út đầy máu. Ai mà hổng hoảng!

Cho nên tắm nước trong lu là tốt nhứt, vì nước trong lu hông bao giờ có đỉa. Có hai lu nước. Một lu dùng làm nước uống, còn một lu dùng làm nước xài và tắm. Những ngày trời mưa, hai lu nước đầy, hai người tắm giặt thoải mái. Và bây giờ, Vân luôn luôn mặc quần trong lúc tắm. Nàng vo tròn hai ống lên tận bắp vế. Ở đây bao giờ có nhà tắm đâu. Ngực trần với đôi vú hồng, chắc, thon thả của Vân có cái gì trìu mến đối với Xuân. Cả hai hông thấy mình thẹn thùng, đứng tắm giữa đồng.

Chỉ có một cái đồ múc nước làm bằng gáo dừa. Hai đứa thay phiên nhau múc, xối. Một vài ngày đầu tiên Vân còn ngại ngùng e thẹn rồi sau đó nàng tỏ ra dạn dĩ, chà xà bông rồi kỳ lưng cho Xuân. Đổi lại Xuân cũng làm như thế cho cô nàng. Cục xà bông Cô Ba Xuân đem theo cũng mau hết, vì Vân còn dùng nó để gội đầu. Có thể đến một lúc hai đứa sẽ phải dùng tới bồ bồ hay là phải tắm mà hông có chút xà bông nào cả. Cũng như bột đánh răng “Anh bảy Chà Và, Hynos” Xuân đem theo đã hết từ lâu. Đâu có gì nhiều đâu. Đó là một hộp nhôm tròn nhỏ đựng miếng bột ép cứng, khi xài dùng bàn chải ướt chà chà cho bột tan ra. Mấy ngày hôm nay chàng cũng bắt chước Vân dùng xác cau chà răng mỗi buổi sáng và tối.

Vân cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Ngày ba buổi nàng lo nấu cơm chăm sóc bữa ăn cho Xuân như một người vợ. Vân cứ để cho Xuân mặc sức làm cái gì thì làm. Nàng cứ cắm cúi lo kiếm từng con tép, từng con cá nhỏ nhít tới con cá bãi trầu lớn bắng ngón tay út, từng con ròng ròng, từng con cá lóc cửng, từng đọt rán ở mọi ngõ ngách, từng cọng rau dừa, rau hẹ ở tận bờ ruộng xa chỗ chăn vịt…. để chỉ làm một món ăn với muối ớt! Nàng hy vọng Xuân ăn ngon miệng vì mấy hôm rày hông còn gì để ăn với cơm nữa.

Một buổi chiều, Vân lục lọi được trong góc chòi một lon chao cũ, sét gần như lủng vào trong.Có vậy mà Vân cũng mừng húm như tìm được một món ăn ngon. Vân kêu Xuân inh ỏi. Xuân lật đật chạy vô ngó Vân đưa lon chao sét với  vẻ mặt rạng rỡ.

– Làm sao mở đây anh?

– Để anh coi coi. Ở đây, làm gì có than bỏ lên ngay nắp cho nó chảy chì hàn ra.Mình lấy mũi dao phay đục thì nó bể.

Cuối cùng Xuân cũng tìm được chỗ mỏng. Chàng từ từ lấy mũi dao tách nhè nhẹ cho đến khi thành một lỗ lớn đủ đổ hết chao ra tộ.Những cục chao hòa chung với một thứ nước hơi đen đen vàng vàng. Xuân đưa lên mũi, hửi. Vẫn còn có mùi chao thum thủm pha lộn với mùi rượu. Nhưng để cho chắc ăn, chàng đổ bỏ nước, chỉ lấy lại mấy cục chao. Mùi thơm lừng toát ra từ mấy viên vuông vuông khiến nước miếng từ hai bên miệng Vân chảy ra. Tự nhiên nàng muốn nấu một nồi cơm thật ngon, ăn ngấu nghiến với mấy viên tàu hủ lên men ngầy ngậy đó. Phùng Xuân pha nước muối đổ vào chao, cho vô tô mới.

– Mình rán kiếm một con rắn hay con chuột, nướng cho thật vàng, rồi dầm chao chấm với đọt ráng luộc là ăn cơm quên thôi đó, hén em!

Nàng nuốt nước miếng đánh ực một cái rồi nhìn Xuân mĩm miệng cười. Những buổi chăn vịt sau đó hai đứa đã đập được con rắn bông súng nhỏ. Có rau dừa, rau hẹ, kèo nèo, cóc kèn, lại thêm một chút rau muống. Và họ đã có một bữa cơm chiều đả miệng, no cành hông.

Sau đó chúng nó bỏ đại chén đũa, hổng thèm rửa. Tụi nó ra ngồi cặp kè dựa đống rơm, nhìn mặt trời từ từ gối đầu đỏ ối lên chiếc “giường dừa” cuối chưn trời. Khi ở trên cao, mặt trời chỉ bằng cái rỗ súc, nhưng càng xuống gần hàng dừa mặt trời từ từ lớn dần bằng cái nia, bị đốt cháy đỏ rực rồi chậm rãi tiêu tan mất. Không khí hơi dịu lại và có gió thổi lai rai từ hướng Tây Nam. Một vài vệt mây đen vắt ngang chơn trời

– Mình xuống đây được bao lâu rồi hả anh?

– Anh cũng hông biết nữa. Chỉ nhớ lúc đầu có trăng lưỡi liềm. Chắc gần rằm vì mới đầu hôm, em thấy hôn, mà trăng đã lên gần một sào, lấp ló trong đám mây cà. Ánh trăng suông chớ có bao giờ tỏ đâu. Em nhớ nhà hả?

– Hông. Còn anh?

– Cũng hông nữa. Có em bên cạnh là anh vui rồi.

– Dữ hôn nhen. Nói nghe đã chưa! Chớ mới lúc đầu anh ở đâu đâu, biệt thèm ở gần em. Mất hết trơn rồi mới quay dìa em hả? Có phải vậy hôn?

– Đâu có. Khanh cũng cho anh biết chứ! Nhưng hổng lẽ anh bứng hoa cả cụm?

– Cha! Tham quá há. Hai cụm rồi đó ông, còn đòi gì nữa!

– Em hổng ghen hả?

– Ghen chớ sao hổng ghen? Nhưng giờ đi mất tiêu hết rồi. Em tha tàu cho anh đó. Từ rày về sau lạng quạng là chết ví em đó nhen. À, anh! Sao hổng thấy Tía hay thằng Tám Trò xuống thế cho mình hết vậy. Hai đứa mình ở lâu dưới nầy làng xóm họ dị nghị.

– Anh hổng biết nữa. Làng xóm đâu mà dị nghị. Ở đây đồng không mông quạnh, hổng có một bóng người. Thằng nhỏ Út Thèm nó đem vịt chăn ở đâu đâu. Có thấy nó đâu. Suốt ngày đêm có thấy ai đâu mà nói ra nói vô. Anh với em sống giống như ông bà Adam và Eva.

– Ông bà nào? Em hổng biết?

– À. Đây là chuyện Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa. Sau khi mần ra trời đất, Chúa tạo ra hai con người đầu tiên là ông Adam và bà Eva. Họ sống sung sướng trong vườn địa đàng.

– Ủa? Có tới hai lận sao?

– Ừ hai. Có nam nữ mới có con cái chứ!

– Sao Tía nói với em ông Tổ loài người chỉ có ông Bành Tổ thôi.

– Còn bà Nữ Oa nữa đó chứ em. Cổ tích mình kể lại họ là hai anh em ruột. Chắc người lớn sợ kể thêm bà Nữ Oa là em ruột thì đó là sự vô luân. Ai đời hai anh em ruột lại lấy nhau được. Chúng ta hông được quyền nghe những chuyện như thế. Xã hội càng ngày càng văn minh mà em. Có những ràng buộc về đạo đức để bảo vệ gia đình.

– Nhưng em học lịch sử nhà Trần mình. Bà con lấy nhau lộn xộn.

– Lịch sử Đông Tây đâu mà chẳng vậy. Một là bảo vệ vương triều, hai là lòng tham tiền và quyền lực. Thiếu gì chuyện anh em ruột lấy nhau, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chú, dượng lấy cháu…… Ối thôi loạn xà ngầu, kể đâu cho hết.

– Còn anh thương em thì sao?

– Anh thương em hả? Anh thương em từ thuở mẹ về với cha.

– Xạo ke dữ he! Đó là câu ca dao: Sao Vua chín cái nằm kề. Thương em từ thuở mẹ về với cha.

– Vậy chớ em thấy sao Vua chưa? Sao Vua ở xa tít tít ngoài cõi trời xa xăm. Lúc đó em và anh chưa có. Thì hổng phải là lúc mẹ về với cha sao?

– À! Anh. Sao Vua ở đâu? Em có bao giờ biết nó ở đâu đâu. Ở vườn lúc nào cũng nhìn thấy lũm trời bé tí xíu trên đầu. Còn lại bốn bề chỉ có dừa là dừa.

– Bữa nay trăng suông làm gì mà nhìn thấy được sao, em!

Cõi trời xa xăm nầy giống như nơi họ đang ở. Tối ngày hông thấy một ai ngoài hai cái đầu đội nón lá và bịt khăn rằn. Xuân bây giờ như một dân quê. Chàng đi chưn không. Móng chơn bám đầy phèn vàng khịt. Hai bắp chuối bị muỗi chích sần sùi và cỏ lác cắt chằng chịt. Hai ống quần có hai khoảng cách riêng biệt: vàng và đen.

Một hôm Phùng Xuân nhìn vào lu nước thấy tóc mình bùm xùm, râu non mọc đen mươn mướt hai bên bờ mép, hai má hóp đi. Mình có ốm đi hôn? Mình quên mất đi ngày tháng rồi. Ở đây chỉ có biết ngày đêm bằng mặt trời mọc và lặn. Và ngày nào cũng như ngày nào với một công việc đều đặn: sáng sớm thức dậy, ăn ba hột cho chắc bụng rồi cùng Vân lùa vịt đến những đám ruộng. Nhiều khi để Vân một mình, Xuân lùng xục tới những nơi xa kiếm rau, bắt ốc, dặm chuột, đập rắn. Những con rắn rằn ri cá hay rằn ri voi to và mập cũng hông khó kiếm nơi chốn đầm lầy nầy. Nhưng có điều những con rắn nầy cắn nhanh quá tợn nên nhiều khi bàn tay Xuân đầy vết răng của tụi nó.

Sau đó, trở về gốc trâm bầu nào đó mà Vân đã dọn sẳn làm cái ổ cho hai đứa. Ăn ba hột dưới trời nắng chang chang. Nằm thiu thiu ngủ. Ngọ nguậy… Rồi xớ rớ thế nào hai đứa cũng có một trận đổ lửa xảy ra. Nhiều khi nó xảy ra còn hơn gấp hai ba lần ngày ba bữa cơm. Có phương tiện gì giải trí hơn là công việc đó ở nơi nầy-nơi trời đụng đất, nước giáp mây- với sức trai gái đang độ rững mỡ được dịp mà hùng hục buông thả? Nhứt là những ngày mưa dầm rả rích. Gió lộng trời cho đến suốt đêm. Muỗi mòng hông có thì ở trong ổ rơm hai đứa cũng hì hà hì hục nhừ tử, đua nhau cùng với trời đất. (Cái thằng con trai bây giờ quên nó là đứa học trò học hành chăm chỉ bao năm qua ở Sài Gòn, phải lo học gạo dữ dằn để lấy được mảnh bằng Tú Tài. Nó quên tuốt luốt mọi thứ. Cái thằng giống đực vô trách nhiệm. Có khi nào nó sẽ có đàn con đầy đàn đầy đống và dính chặt vào đời sống ở đây hôn?)

Có đêm, chàng giựt mình thức giấc. Chung quanh hoàn toàn im lặng. Vân nằm bên cạnh, choàng tay qua ngực Xuân, thở đều đều nhẹ nhàng, bình yên. Chàng lắng tai nghe. Thời gian như dừng lại. Chàng giựt mình nhớ lại Sài Gòn. Nhớ những ngày tháng ngồi lê lết ở trường cùng bạn bè. Những ngày tháng thiệt ngây thơ bình dị, hông có những lo toan về đời sống, từ miếng ăn cho đến manh áo, chỉ ngày hai bữa cắp tập đến trường. Đôi khi, có mơ mộng đến một mối tình vu vơ thoảng qua, nhưng chưa bao giờ chàng biết  đến những vui sướng của xác thịt.

Đột nhiên chỉ một kỳ nghỉ hè ở miền quê xa xăm, chàng đã tận hưởng được những giờ phút ái ân mặn nồng. Một thoáng thôi của thời gian, ba người con gái còn trinh trắng đã cho chàng nếm mùi vị yêu đương ngọt ngào. Hèn gì thằng con trai 19 tuổi như dê đực chẳng đê mê ngây ngất quên hết ngày tháng qua đi. Chàng hông còn nhớ những đoạn văn hay chàng đã đọc trong những cuốn sách nổi tiếng viết về đồng quê, về những bức tranh thơ mộng cánh đồng ruộng. Bây giờ Xuân sống như một người dân quê thực sự, quên hết mọi sự hiểu biết, lo ngày hai bữa ăn. Nói tóm lại, có bốn nhu cầu thiết yếu của con người bình thường. À! Mà lạ. Mới có mấy ngày thôi: cũng là cánh đồng, cũng thơ mộng, có trăng có nước giữa trời đất bao la mà sao Xuân hông tìm thấy những điều giống như trong sách vở chàng đọc được. Chàng đã biến thành con người khác mất rồi.

Còn Vân, lúc nào ra nắng cũng trùm kín mít đầu và hai tay. Nàng sợ nắng ăn đen làm cô ta trở nên xấu xí? Tóc Vân hơi dài nên phải cuộn quấn vào khăn rằn. Những buổi chiều, trong ngày nắng ráo, sau khi cơm nước, tắm rửa xong xui, nàng mới xõa tóc rồi đứng hong cho khô trước hiên chòi gió thổi vù vù. Nàng cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Có Xuân bên cạnh, Vân yên tâm và nàng tin rằng đó là chỗ dựa duy nhứt trong cuộc sống bình yên hiện nay.

Mặc dầu với lối sống đơn sơ, mộc mạc: tắm nước ruộng, uống từng bụm nước ruộng, nấu nướng bằng rơm và những món ăn bình thường: cá tép, chim chuột, rắn rết, ốc… nhưng nàng tận tâm lo mọi việc cho Xuân như một người vợ, một người vợ trẻ yêu chồng như bất kỳ người đàn bà trẻ nào khác. Trong mấy ngày chung đụng nầy, hai đứa chưa bao giờ xa rời nhau. Họ khăng khít, vui vẻ bên nhau như cặp chim bồ câu ríu rít liú lo. Và nàng chìu chuộng Xuân một cách tự nguyện, hông đắn đo vì cho đó là bổn phận của người vợ; kể cả đến trường hợp nồi cơm đang sôi sùng sục bên lửa rơm phừng phừng…

Kết quả là sau đó hai đứa ăn cơm sống. Hổng ai đổ lỗi cho ai, còn vui vẻ cầm đũa chỉ cho nhau là tại anh, là tại em rồi cười nắc nẻ. Tự nhiên Xuân phát chứng, bỏ đũa tiến đến bên Vân rồi nói: Nè nè, tại anh nè… Bỏ ngang bữa cơm… Hai đứa nằm bệt dưới đất, bên bếp, thở muốn hụt hơi cho đến chiều tối. mặc cho bầy vịt đói kêu ỏm tỏi. Đơn giản, Vân xem những điều đó là hạnh phúc mà mình có được. Vân nghĩ mình sống như trong một thế giới nào đó, hông một bóng người, chỉ có chim chóc muông thú, cây cỏ ở thời đại xa xưa. Nàng hông cảm thấy thời gian trôi đi và ngày qua ngày hông có gì khác lạ.

Xuân tắm trần truồng trước mặt nàng trong cơn mưa dông gió lạnh vì phải cổi quần áo để giặt. Nàng nhìn thân thể đó một cách âu yếm trìu mến mà hông ngượng nghịu. Thân thể đó có một cái gì thân thiết, vững chãi khi nàng nằm trong vòng tay Xuân. Còn nàng, trái lại hông bao giờ dám làm như Xuân. Nàng ở trần khi tắm là quá lắm rồi. Nàng thẹn thùng hay sợ Xuân trông thấy mình mẫy mình trắng muột mà dưới cơn mưa lạnh? Lúc nào cũng quần kín mít. Chỉ vén quần lên đến bắp vế hoặc nới rộng lưng quần để kỳ cọ dưới cơn mưa, xong rồi che lại. Chớ còn khi ân ái ban ngày ban mặt thì sao? Ở bờ đê, ở góc đống rơm, bên cạnh nồi cơm đang sôi… sao Vân hổng mắc cỡ? Vân hông giải thích nổi. Hay là Vân sợ Xuân trông thấy thân hình mình có nhiều biến đổi kể từ khi ở gần Xuân?

Mà có thiệt như thế. Gần hơn tuần nay Vân thấy người mình nẩy nở ra. Hai đầu vú săn chắc, bầu vú lớn hơn và đôi mông hơi nặng nề đôi chút. Có đúng là gái phải hơi trai? Đôi khi, nàng thấy Xuân nhìn nàng chằm chặp, hông hiểu để làm gì; nhưng nàng đỏ mặt mắc cỡ trách nhẹ: Anh nầy! Tiếng trách đó hình như khiêu khích Xuân. Hai đứa lại vồ lấy nhau, ngấu nghiến cho đến khi mệt nhoài… Rồi, hổng thèm mặc quần áo, cùng nằm ngữa, nhìn lên trời cao sâu, xanh thăm thẳm.

Và cứ thế cuộc sống giữa đồng hoang của đôi trai gái hông có nhu cầu gì khác hơn. Họ sống hoang sơ, mộc mạc, bình dị, quên mất đi ngày tháng. Bây giờ chẳng ai nhắc đến thằng Tám Trò hoặc Tía hoặc Chú Sáu đến để thay thế họ. Trong đầu mỗi đứa đều thầm mong hông ai đến để họ tận hưởng những ngày tháng mặn nồng bên nhau. Cả hai bây giờ tỏ ra quấn quít, quyến luyến và nghĩ rằng nếu vắng bóng người mình thương thì nổi nhớ nhung sẽ ray rứt biết chừng nào!

Một buổi chiều, chúng nhận ra trong lu còn tí xíu gạo. Nhưng mấy ngày nay mưa lên tiếp, đồng hoang mù mịt. Vịt được thả cho ăn loanh quanh chòi chớ hông đi xa. Mấy lần hai đứa bàn nhau phải đi vào trong Cái Bông một chuyến để mua thêm gạo và một chút thức ăn vì hổng biết chắc chắn ngày nào người nhà trên Lương Quới xuống.

Buổi sáng hôm nay nhiều sương mù. Biết là trời hôm nay hông mưa, Vân chống ghe đi chợ thật sớm. Có vậy mà Xuân cũng đi cùng Vân ra tận chiếc tam bản và còn ráng nói vói theo là về sớm nghe mình! Khi chiếc xuồng khuất khỏi bờ nước, mất vào đám sương dày, Xuân vẫn còn ngồi thừ một lúc lâu trên đám cỏ, tưởng chừng như Vân đi vào chỗ nguy hiểm. Chàng mường tượng con đường nước từ chòi đến Cái Bông có nhiều trắc trở, hổng hiểu Vân có qua được hông, có lạc đường hông, mà quên rằng từ chòi đến đó chỉ có một dòng  nước một mà thôi. Hơn nữa Vân là gái vườn, tháo vát thì đâu có gì mà phải lo lắng. Sao hông lo cho mình khi còn một mình ngồi chong ngóc giữa đồng hoang ?

Khi mặt trời lên độ một sải tay, Xuân cứ ngóng mãi về hướng Cái Bông cho đến khi thấy cây sào dài quơ lên quơ xuống chàng mới yên lòng và đứng chực sẵn ở bờ nước.

– Có mua được gì hông em?

– Có. Được mười lít gạo, một lít nước mắm, một chục bánh cúng, bánh da lợn, bánh lỗ tai heo và một ít bánh rau mơ. Bây nhiêu đó là hết phần tiền của em và của anh đưa.

– Làm sao em mang nhiều thứ như thế nầy từ chợ ra bến ghe?

– Thì dễ ợt chớ gì. Kiếm khúc cây làm đòn gánh rồi quảy nó. Ráng mua một ít nước mắm để kho hay làm gì khác cho nó đỡ tanh. Chớ muối không mà ướp thịt chuột nướng, ăn tanh ói. Em chịu hông nổi.

– Rồi đa! Hôi cơm tanh cá rồi phải hôn?

– Mắc dịch anh. Trù ẻo hông à! Có đâu? Em hổng thèm ngủ chung với anh nữa à nghen!

– Thiệt hôn! Thiệt hôn!

– Đừng! Đừng anh…. Á! Á!…..

Cò cưa kéo nẹo ba cái vụ đó, mất gần hết thời giờ của buổi sáng. Hông nấu được cơm. Vịt kêu ỏm tỏi. Hai đứa lật đật mang theo đòn bánh tét, bánh tằm rồi hối hả lùa vịt ra đồng.

Đàn vịt mấy hôm nay thấy hơi trọng hơn một chút. Lông bắt đầu trổ mầu hơi trăng trắng và tiếng kêu hổng còn ríu rít như trước nữa; có lẽ sắp được ba tuần. Chắc vịt sắp đôn lông rồi. Bây giờ là đang vào tuần trăng rằm, nhưng về đêm mây đen bao giờ cũng che kín mít bầu trời, hông thấy được trọn vẹn con trăng. Dù sao trời cũng sáng hơn những ngày hông trăng. Hai đứa thường ngồi bên cây rơm sau những bữa cơm chiều.

Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,

Đèn ra trước gió được chăng hỡi đèn

Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,

Sao trăng lại phải chịu luồn đám mây?

– Còn nhiều nữa em à. Người mình vốn sống nhiều với đồng ruộng nên có nhiều thơ và ca dao về trăng.

– Đâu anh ngâm lên nghe coi.

– À. Như là:

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non…

Vầng trăng ai sẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.(Kiều)

Chàng từ đi vào nơi gió cát,

Đêm trăng nầy nghỉ mát phương nao.

Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trên hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đâu (1).

Đêm khuya ra đứng bờ ao,

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.

Buồn trông con nhện giăng tơ,

Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai.

Buồn trông chênh chếch sao mai.

Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?

Đêm đêm tưởng giải Ngân Hà,

Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,

Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.(2)

(1) Chinh phụ Ngâm

(2) Vì buồn mà nhớ-Quốc Văn Giáo Khoa Thư

– Anh ăn gian quá hà. Chỉ có một vài câu đầu là nói về trăng, còn phần sau là sao hông hà! Mà bài : Vì Buồn Mà Nhớ đó đâu phải là ca dao. Hôm trước anh nói của ông Nguyễn Mộng Can mà !

– Thì sao với trăng cũng vậy. Em hông nghe người ta hay nói trăng sao, sao? Tại vì bài thơ đó in vào Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Con nít đọc riết, thuộc lòng rồi nó thành ra ca dao đó mà ! À. Mà còn một thi sĩ làm thơ về trăng rất hay.

– Ai vậy?

– Hàn Mặc Tử. Ông ta bị bịnh cùi lúc còn trẻ nên thơ của ông viết về trăng như điên điên dại dại.

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy,

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.

Nhiều khi Xuân cũng ngâm vài đọan ca khúc của Chinh Phụ Ngâm, của truyện Kiều, những bài thơ Màu Tím Hoa Sim, Hai Sắc Hoa Ti Gôn… hoặc kể câu chuyện tình lãng mạn trong Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọ cPhách… Vân nằm trọn vẹn trên người Xuân, gối đầu vào ngực, thở đều đặn và im lặng. Đó là những đêm tràn đầy hạnh phúc. Thật sự có bao giờ hai đứa ra ngoài ngồi ngắm trời mây được lâu đâu vì lúc nào muỗi cũng bu quanh kêu vo ve như bầy ong. Nhưng nhiều khi muỗi cũng chui vào được ổ rơm, đến nổi Xuân phải phủ thật kín. Mà phủ kín thì nóng nực, hai đứa lại ngọ nguậy rồi sanh chuyện cho đến mệt lã người. Họ ngủ mê man từ lúc mới đầu hôm cho đến gần sáng. Lại tiếp tục màn cũ  rồi ngủ cho đến sáng bét, vịt kêu ỏm tỏi mới trờ dậy. Tình yêu trai gái ở đồng quê là tình nghĩa của đôi giống trống mái. Có phải vậy hôn?

Cứ như thế, đều đặn hơn chục ngày trời rồi hai đứa cũng hông cần biết; nhưng Xuân cảm thấy sức lực gần cạn kiệt đến nổi Vân biết được. Thỉnh thoảng nàng tìm một con vịt què nấu một nồi cháo cho Xuân ăn lại sức …

– Chèn đất ơi! Thằng Xuân sao mầy ốm như cây tre miễu và đen quá vậy? Cơ khổ! Chắc mầy dang nắng và ăn uống cực quá chớ gì?

– Hổng có đâu Thím Sáu. Con vẫn có thịt, cá ăn đều đều mà. Bộ con ốm lắm hả thím?

– Cơ khổ! Mầy hổng biết sao? Ốm cà tong cà teo à con à! Vân ! Mầy hông lo cơm nước gì cho nó hết sao? Kìa coi kìa! Vân, coi bộ mầy phởn phơ hơn nó, còn nó thì gió thổi muốn bay. Rồi đây chị Bảy thế nào cũng quở tao cho mà coi! Tóc tai, đầu cổ xù ngù xục ngục, ngó mầy giống thằng bố quá mầy ơi! Mày ra ông Hù Tốt, hớt tóc đi mầy rồi hả về Sài Gòn.Nhớ hớt ma ninh cua nhen. Coi cho nó gọn.

– Được rồi! Để ngày mai con xuống tiệm chú Tư Hầu ở lộ dưới, thím à.

Nói vậy, chớ chàng đâu có dám hớt kiểu ma ninh cua đâu. Cái đầu cao nghệu giống như đầu cá lóc. Mà mình ốm lắm hả ? Như bộ xương cách trí ? Xuân nằm xuống bộ ván ngựa đánh một giấc hông biết trời trăng đất nước gì hết cho đến khi Vân khều khều chân chàng.

– Ngủ gì mà ngủ dữ vậy trời!

– Mấy hôm rày mệt quá, ngủ để lấy lại sức.

– Nói nhỏ nhỏ. Coi chừng Tía nghe được.

– Ủa? Chớ ổng ở đâu?

– Tía đang bịnh, nằm trong buồng. Anh về tới nằm xuống là ngủ như chết. Em tính kêu anh dậy mấy lần, nhưng bả hổng cho, nói anh mệt thì để anh ngủ. Hình như bả nghi nghi cái gì đó, bả cứ ngó cần cổ và ngực em hoài. Coi mắc cỡ gần chết. Tụi mình ở dưới cả chục ngày nên bả sinh nghi là phải. Hổm rày Tía bị cảm mạo sao đó, trúng đi trúng lại, hết cạo gió tới cạo gió lui, nên hông xuống thế cho hai đứa mình được. Còn thằng Tám Trò nó lỡ mắc bồi mương cho người ta, mới xuống thế cho mình trễ như vậy. Chớ em biết ổng bả cũng nóng ruột lắm. Để em và anh ở dưới hoài, có ngày con gái ổng bả mang cái bụng chình ình làm sao.

– Thì cũng sắp phồng lên rồi đó!

– Đồ quỉ anh hà. Nói nhỏ thôi, hông Tía nghe là chết cả đám.

– À, Vân! Còn Khanh, chị Sáu của em, từ hôm đám cưới có về thăm nhà hông?

– Má nói chỉ về có một lần, ốm xanh xao.

– Chắc lo nhiều việc bên chồng quá chớ gì? Có đâu như em, phổng phao!

– Mình hổng ghẹo anh à nghen! Đâu biết được. Chắc còn nhớ ai đâu đó?

Câu nói vô tình của Vân làm Xuân đau nhói. Mối tình đong đầy theo ngày tháng bỗng chốc tan vỡ, vẫn còn đeo đuổi trong tâm trí. Rồi Loan, sao mà đến mà đi vội vàng thế, vụt như bóng mây bầu trời tháng bảy ở cánh đồng Mỹ Nhiên. Cô gái đồng nội yêu nồng nhiệt, vội vàng làm Xuân ray rứt khôn nguôi. Canh khoai mỡ tím của buổi cơm chiều giúp Xuân dễ dàng nuốt trôi những nỗi nhớ nhung xuống tận đáy lòng mà Vân hông nhìn thấy được.

Xuân nằm trăn trở trên bộ ván. Hông ngủ. Đêm đã khuya. Không gian vắng lặng. Chàng ngước nhìn ra trước hiên. Chỉ có một khoảng bầu trời nhỏ với một vài ngôi sao. Xuân thấy lòng mình tự nhiên lắng đọng lại và dễ dàng tan biến vào cõi tĩnh mịch. Nhớ nhung tràn đầy và đàn muỗi lúc nào cũng kêu vo ve làm Xuân khó ngủ. Chàng cứ nhìn ra khoảng bầu trời nhỏ bé, hông đếm được bao nhiêu sao băng nhưng thỉnh thoảng thấy một lằn sao xẹt qua ngọn dừa. Một lằn xẹt: Khanh đã qua đi. Hai lần xẹt: Và Loan đâu rồi? Còn lần xẹt nào đến cho Vân? Ngày mai lại phải xa Vân trở về Sài Gòn cắm cúi vào bài học, vào những quyễn sách… Và chàng sợ những giọt nước mắt lúc tiễn đưa. Vân chắc sẽ bịn rịn, rươm rớm. Một năm trời xa cách. Những bức thư sẽ đi lên đi xuống. Và sau đó thì sao nữa? Có một lằn sao vừa xẹt ngang qua ngọn dừa!

Chiếc bắc chở đầy nhóc người và xe chậm chạp rời bến, quay đầu hướng về cù lao Phụng. Phùng Xuân đứng bên lan can nhìn dòng nước ròng đục ngầu chảy tuôn ra cửa Đại. Tiếng rao hàng, tiếng mời mọc của các em nhỏ bán mía ghim, nem bưởi chay, đá chanh, xá xị vang inh ỏi…. từ mọi phía. Người ta đứng lộn xộn, xen lẫn với gồng gánh của những người đi buôn. Ngoài cùng hai đầu chiếc bắc là những hàng xe đạp, một vài chiếc Vespa… xếp chéo vào nhau. Người người  chen chúc hai bên hông của bốn chiếc xe- một chiếc xe đò Á Đông và ba chiếc xe hàng chở gà vịt- nên đi từ đầu đến cuối bắc phải luồn lách rất khó khăn. Chiếc bắc đã nhỏ, hông mui mà chuyến nào cũng đầy nghẹt người và xe, nên lúc nào cũng hổn độn và nóng nực vô cùng.

Nước ròng. Dòng sông chảy siết, hối hả, vội vã. Từng giề lục bình, từng giề dừa nước… giục giã chạy theo nước ròng đục ngầu. Bắc xuôi dòng nước, cặp dọc cù lao. Những ngôi nhà lá hì hụp sau đám bần, dừa nước. Cặc bần non rung bần bật, cà ngật cà ngật dọc theo mép bờ. Nước ròng bỏ bãi thật xa. Cặc bần cao thấp, nhỏ lớn lô nhô chen nhau trong đám bùn ở đầu bãi. Bắc Rạch Miễu đánh vòng ra xa tránh hai bãi bùn của cù lao Phụng và cù lao Thới Sơn, rồi ngược cửa Tiểu, quay đầu hướng về Mỹ Tho. Bên phải, sát bên cù lao Rồng, chiếc tàu Admiral Charner của Pháp bị Nhựt bỏ bom đánh chìm hồi 1945, trơ cột cờ cũ xì cũ xịt vươn lên trong nắng trưa. Chiếc bắc ngược nước, chạy rất chậm, rù rì như rùa bò, muốn ngừng tại chỗ. Xuân đứng sát lan can, nhìn nước đục ngầu tuôn trôi. Sao cái gì qua rồi cũng mất đi, hông tìm lại được? Thú vui vừa thấy đó, tình yêu nồng nàn vừa có đó, thoáng qua nhanh chóng. Chàng hông chộp lại đươc, hông nắm giữ được. Thời gian trôi đi là mất tất cả. Còn giữ lại được những kỷ niệm? Hông, tất cả đều mất đi, tan biến vào không thời gian vô hạn định.

Chàng nhìn về hướng Rạch Gầm. Một vài chiếc tàu nhả khói mù mịt cuối chân trời, chạy lên Nam Vang…

Nam Vang, tháng 5 năm 195… Xuân gặp Trần Văn Thành, ngồi ở băng đá, đang cầm cuốn Tái Sanh Duyên, bản in của Tín Đức Thư Xã, đường Sabourain ở SàiGòn… NamVang 195… Những ngày một mình lang thang nơi đế đô OulDong… Những ngày Phùng Xuân cùng Thành, Marin Phla bơi thuyền ở ngã ba sông MéKong và Tonlésap. Sóng vỗ bập bà bập bùng. Gió lồng lộng. Tóc của Marin Phla bay lượn lờ theo gió hú, hòa tiếng sóng vỗ vào mạn ghe. Cô bé 13 tuổi hồn nhiên, tươi mát, cười nắc nẻ giữa trời mây nước. Ba đứa bơi thuyền ngược dòng. Bãi bồi hiện ra với những đám bắp, đám dưa xanh um. Họ buộc ghe ở tuốt dưới lòng sông, đi ngược lên bờ, rồi vào những ngôi làng đầy cây ăn trái: sabôchê, cam, sầu riêng. Những người dân quê hiền lành, chơn chất, thiệt thà đãi họ những ly nước thốt nốt thơm tho, tươi mát. Nước thốt nốt ngọt ngào giống như những giọt nước mắt tiễn đưa của Marin Phla sau hơn 15 ngày chàng ở đất nước Chùa Tháp? Và bây giờ, cũng giống như nước dòng sông trôi đi, trôi đi hun hút. Kỷ niệm có bao giờ ngược thời gian quay trở lại? Ai cố bám víu nó, hông bao giờ nhìn được tương lai?

Hình ảnh Loan chắc mất mãi. Xuân cố công tìm kiếm nàng ở nhà thương Bến Tre và Mỹ Tho. Hổng bao giờ gặp lại! Sau khi ra khỏi nhà thương Mỹ Tho, chàng lê bước qua đường Ariès, đi tới cầu Quay, rẽ trái. Xe Cosara đâu rồi? Đã lâu hông còn! Nhưng tiệm sách Nam Cường vẫn ở đó?.. Những năm tháng ở trường Taberd Mỹ Tho: frère Colomban ở lớp Enfantin, frère Ignac lớp Moyen, frère Niva lớp Supérieur. Nhà thờ cũ kỹ ở con đường Hùng Vương dài hun hút. Ngôi biệt thự của ông Jacques Lê Văn Đức rộng thênh thang. Bến đò Thạnh Trị ngang qua kinh Bảo Định. Và thằng Tường, con ông bác sĩ Bá, có cái đầu chồ vồ, lúc nào cũng cà rem đậu xanh nước cốt dừa, ba cắc một cây, nay có còn hông? Mùi vị của miếng bánh mì bột gạo còn thơm lừng, dòn rụm vừa mới lấy từ trong bao bố tời và hương thơm ngọt ngào của chén cháo gạo lứt, đậu đỏ, dưa mắm đều vắng mất rồi?

Yvette ĐỗThị Đ…Yến ơi! Yvette Đỗ với mái tóc hớt bum bê ngào ngọt bông cau, nụ cười rạng rỡ và nước da bánh ít chưa phai nhòa trong trí Xuân. Tại sao Xuân vẫn nhớ mãi Yvette Đỗ? Yvette Đỗ ơi! Bây giờ em ở đâu rồi? Chàng đi về hướng trường Nguyễn Đình Chiểu, tới bến xe về Sài Gòn. Lần trong túi, chỉ còn đủ tiền mua vé. Xuân nhịn khát, nhịn đói cho đến khi xe đò ngừng ở đường Nguyễn Hoàng, Sài Gòn…

Con đường Hồng Thập Tự là con đường đặc biệt. Từ ngã sáu đến đường Lê Văn Duyệt, hai bên toàn là cây sao và cây dầu, nhưng thỉnh thoảng cũng xen vài cây thau lau (bằng lăng) có chùm hoa tim tím vào mùa hè. Đến mùa, trái sao và trái dầu tung bay theo gió như cánh bướm. Đoạn từ Lê văn Duyệt đến Huyền Trân Công Chúa, một bên là cây giá ngự (bọn Xuân thường gọi là Dái ngựa) và một bên là me. Đoạn Huyền Trân Công Chúa đến Hai Bà Trưng hai bên toàn là me. Những cây me lão cao vút cặp bên trường Jean Jacques Rousseau và dọc theo Dinh Độc Lập. Mùa hè trái rớt lộp độp sau mỗi cơn mưa dông. Rồi đoạn Hai Bà Trưng – Mạc Đĩnh Chi, một bên là giá ngự, một bên là sao cao vun vút. Có ngôi nhà gỗ lâu đời nằm ngay đầu đường Hai Bà. Từ Mạc Đĩnh Chi đến ngã ba Đinh Tiên Hoàng, bên hông thành Cộng Hòa có hàng liêm sét nở vàng rực rỡ trong những ngày hè cùng tiếng ve kêu ra rả. Rồi từ sân vận động Hoa Lư đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai bên lại là me cổ thụ gốc to sần sùi. Từ đường ông Trạng Trình đến cầu Thị Nghè, hai bên là giá ngự, có con dốc thoai thoải mà Xuân rất thích trên đường học trở về nhà.

Con đường thân yêu này hằng ngày in đều đều những vết bánh xe đạp, đi đi về về trong những ngày học ở trường Chu Văn An. Sao mà hôm nay nó dài thế?! Xuân lê đôi săng đan đầy nước lẹp xà lẹp xẹp, lầm lầm lũi lũi đi trong cơn mưa suốt chiều dài con đường Hồng Thập Tự. Có lúc, chàng đụt thật lâu dưới gốc me già. Tháng bảy, tháng tám thường là những trận mưa dai dẳng; chớ hông như tháng năm, tháng sáu, chợt mưa chợt nắng. Một vài chiếc xích lô đạp trùm kín mít lạnh lùng chạy qua. Phùng Xuân mơ màng ngó theo, rồi cắm cúi bước. Chàng về đến cầu Thị Nghè, rẽ trái vào ruộng dâu bên hông Ty Canh Nông thì trời cũng vừa sập tối…

Trường Chu Văn An, nằm phía sau trường Pétrus Ký, là ngôi trường bé tí so với “ParắcKý” qui mô, đồ sộ. Nó chỉ có một sân chơi nhỏ xíu với vài cây me còng gốc đen thui, sần sùi rụng lá tư niên, nhưng bù lại đầy bông nhỏ hơi tim tím, trái dài cong cong và cho bóng mát quanh năm. Giờ ra chơi, trong những ngày nắng ráo, học trò tụ tập quanh gốc me trong cái sân nhỏ; còn những khi mưa, đứng đầy ở hành lang. Nghe nói khi xưa đây là khu chuồng ngựa, hông biết có phải vậy hôn? Nhưng có những ông thầy “người Bắc kính mến và đáng yêu”: thầy Bạch văn Ngà dạy Cơ Học, thầy Trần Bích Lan dạy Triết, thầy Nguyễn Xuân Vinh dạy Thiên Văn Học… Ông Hiệu Trưởng Trần Văn Việt và ông Giám Thị Ngạc: quần áo hai ông đó lúc nào cũng chỉnh tề, cả trong những ngày hè nóng bức. Ông Hiệu Trưởng thì mặc veste. Còn thầy Giám Thị, ốm người, luôn luôn thắt cravate, mặc áo sơ mi dài tay.

Những thằng bạn Bắc Kỳ dốn của Xuân đều là những thằng ngổ ngáo như chàng nhưng rất đáng quí; nhất là giọng nói của chúng nó, trầm bỗng nghe ca kiệu hơn là giọng nói của các thằng bạn giá sống, đơn điệu. Thằng Toản, ở khu nhà thờ Ba Chuông, bao giờ mở miệng ra là có câu : địt mẹ. Còn thằng Chúc, tận Xóm Mới thịt chó, luôn luôn là: chúng ông. Rồi còn Tiến Tấn nữa chi. Ngồi bàn dưới mà lúc nào cũng thò viết chì cù lét Xuân. Lúc đầu, khi mà tụi nó địt mẹ, chúng ông là tiếp theo một cái thoi của Xuân vào vai. Rồi đuổi bắt, la hét… Về sau càng ngày càng thân thiện, cảm mến nhau.

Phần đông bọn họ đi học bằng xe đạp. Trong lớp đệ nhất A2 niên khóa 1959-1960 chỉ có thằng Tâm là con nhà giá sống giàu có. Nó đi chiếc Solex đen. Lẫn lộn trong bãi xe của đám học trò, chiếc Solex đen bóng nổi bật dưới trưa nắng làm dấy lên một chút ghen tị, nhưng hông vì thế làm cho bọn họ hông chơi thân với nhau. Những buổi tan học về là cặp kè ba bốn đứa bên hông chiếc Solex, giăng hàng ngang gần suốt con đường Hồng Thập Tự vắng teo, trò chuyện oang oang- chuyện ngây thơ của tuổi học trò. Đến vườn Bồ Rô thì rã đám. Chỉ còn Xuân và Chúc đi cho đến ngã ba Đinh Tiên Hoàng. Nhà thằng Chúc, Đỗ Bá Chúc, ở xa lút đâu tận khu Xóm Mới. Nó kết thân với Xuân, nên hai đứa thường hay đi chơi chung nhau. Ngày nào Xuân cũng đợi nó ở ngã ba Đinh Tiên Hoàng- Hồng Thập Tự. Mãi về sau nầy, Xuân mới biết gia đình nó ở Bàu Sen, Trảng Lớn, Tây Ninh.

Nhà ông Lý gần chợ Xóm Mới, sát bên con đường đá xanh lổm chổm đi lên Tân Thới Hiệp. Căn nhà đóng ván thùng thông phế thải. Mái tôn hông có pla-phông nên ngày hè rất nóng nực.  Ông di cư vào Nam năm 1954, theo giáo xứ Hà Nội, về ở tại khu nầy từ đó đến nay. Cả gia đình sống nhờ vào ao rau muống khoảng một công đất, được chia thành nhiều khu nhỏ. Buổi chiều, cả vợ chồng con cái cùng cắt rau, buộc thành từng bó nhỏ để sáng hôm sau đem ra chợ bán. Những ngày nghỉ, Chúc cũng phụ xịt thuốc trừ sâu, cắt rau, rồi cùng hai cô con gái của ông Lý: cái Lan và cái Huệ đem về nhà.

Sau khi phà một làn khói dài của điếu thuốc lào và hãm bằng một ngụm nước trà đậm, ông Lý ngồi trầm ngâm một thời gian rất lâu, nghĩ ngợi về tin của người bạn ông-bố của Chúc- ở TâyNinh. Tự nhiên, sáng nay ông cảm thấy hông an tâm, có điều gì bất ổn sắp xảy ra. Bác Đỗ cho biết ngày 26 tháng giêng năm1960 (ngày 28 tháng chạp năm Kỷ Hợi), bộ đội Bảy Môn của Bình Xuyên đã đột kích giết chết rất nhiều binh sĩ của Trung Đoàn 32, Sư Đoàn 21 Bộ Binh đồn trú ở Trảng Sụp (TuaHai), nằm trên Quốc Lộ 22 (Tây Ninh). Vì là ngày 28 Tết, anh em trong đồn lo chuẩn bị tất niên nên hông đề phòng. Hơn nữa, sau mấy năm dài được hưởng cảnh thái bình, sung túc dưới thời Ngô Đình Diệm thì hổng ai nghĩ là sẽ có chiến tranh. Trần duy Lâu-người cháu của ông Đỗ làm ở phòng nhì tiểu khu Tây Ninh-cho biết tiểu đoàn 3 của Bảy Môn (Bình Xuyên) đã bị hai cán bộ tên là Bảy Khánh và Chín Đạo dụ về với Việt Minh lúc tiểu đoàn thua trận ở Rừng Sác năm 1955. Hai tay Khánh và Đạo được Việt Minh cài lại sau Hiệp Định Genève năm 1954. Từ đó, bộ đội Bảy Môn bị Chánh Trị Viên Ba Thu lèo lái theo hướng có lợi cho họ. Có nghĩa là trong trận Trảng Sụp, bộ đội Bảy Môn của Bình Xuyên đánh quân đội của Ngô Đình Diệm để trả thù, chớ hông phải là của Việt Minh. Việt Minh đã tuân thủ Hiệp Định Geneve, rút về Bắc hết rồi mà !!! Ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh- Thiếu Tá Nhuận- chắc hông biết kẻ nào đã đứng đàng sau xúi giục đánh Tua Hai ?

Cháu Lâu cũng còn cho biết có những vụ lộn xộn xảy ra trong mấy ngày qua ở tỉnh Kiến Hòa. Ngày 17 tháng giêng năm 1960 có vụ gì mà nó gọi là Đồng Khởi bị quân đội quốc gia ruồng bố càn quét; rồi tiếp sau đó ngày 26 tháng giêng năm 1960, có đám đông đàn bà con nít từ các làng Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh dọc sông Hàm Luông, kéo về tràn ngập quận Mỏ Cày kêu cứu là đã bị quân lính Cọng Hoà cướp bóc, hãm hiếp…

Khi ở miền Bắc, Ông đã từng nghe về những đợt Cải Cách Ruộng Đất và đấu tố kinh hồn xảy ra ở nông thôn nhưng hông hiểu một cách thấu đáo rằng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập với sự hổ trợ của Cộng Sản Tàu, Cộng Sản Nga đã mang lại khốn cùng cho dân tộc Việt. Ông Hồ Chí Minh rất khôn khéo. Một mặt ông chiêu dụ những thành phần yên nước-hông theo Cộng Sản- để chống Pháp, rồi từ từ ông tìm cách tiêu diệt những người có ý chống đối ông. Một mặt ông lập tức thay đổi đảng Cộng Sản thành đảng Lao Động. Những người trẻ, với lòng yêu nước nồng nhiệt, đã bị sa vào rọ lúc nào hổng biết… Khi vô rọ rồi muốn ra cũng hông được.

Ông Lý linh cảm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc sẽ xảy ra. Quân đội Cộng sản miền Bắc chắc có lẽ sắp mở màn tấn công. Sau một thời gian cài người ở lại chờ thời cơ, bây giờ là lúc họ sắp sửa bắt đầu lộ diện. Họ cũng đoán biết có một số thành phần đang bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm như các đảng phái chánh trị và giáo phái.

Chánh phủ Ngô Đình Diệm muốn thống nhứt quân đội thành một khối. Quân đội Cao Đài Tây Ninh- trước năm 1954 là hai: phe Liên Minh của Trình Minh Thế, hông theo Pháp, chống Việt Minh lập khu kháng chiến ở vùng núi Bà Đen và phe Nguyễn Thành Phương hợp tác với Pháp. Nhưng sau đó, hai phe đều đã qui thuận về với chánh phủ vào tháng hai năm 1955.

Chỉ có quân đội Bình Xuyên của Bảy Viễn là chống lại vì có Pháp hổ trợ. Đêm 29 rạng 30 tháng ba năm 1955, bất thình lình họ nổ súng tấn công vào Bộ Tổng Tham Mưu của quân đội Quốc Gia tại đường Trần Hưng Đạo. Nhưng cuối cùng rồi cũng thua chạy vào Rừng Sác sau một vài ngày đụng độ ở khu Khánh Hội. Và quân đội Quốc Gia sau đó dẹp tan được quân Hòa Hảo của Ba Cụt vào năm 1956 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Khoảng năm 1952, trận bão năm Thìn làm núi Bà Đen bị sạt lỡ, nứt một đoạn dài từ chùa Bà đến chơn núi. Đứng ở Tây Ninh có thể nhìn thấy đường lỡ đó. Thời nầy, ở chơn núi Bà Đen còn vắng teo. Tụi học trò quăng xe đạp, dấu vô đám tranh. Đám khỉ khọt khẹt nhảy la chí chóe trên cây sấu, hái trái chọi tùm lum. Sóc xòe hai chơn trước bay từ cây nầy qua cây khác. Hồng Hoàng, Cao Các lượn qua lại kêu quang quác. Tụi nó đi cùng với một vài người bạn lên tận chùa Bà, hái xoài, mít, mận. Rối sau đó, vòng qua chùa Hang.

Họ đã gặp quân đội Liên Minh mặc toàn đồ bà ba đen và còn có một người tên là Nhị Lang. Lúc đó, còn rất nhỏ, nên họ hông biết Nhị Lang là ai và hông hiểu Liên Minh là gì? Nhưng có thể Jumoir Vương Mạnh Tuấn biết rõ vì Jumoir học ở Trường Trung học Lê Văn Trung.

Lúc mới thành lập, trường nầy có mười lớp Đệ Thất. Trường qui tụ được nhiều giáo sư giỏi do ông Trần Văn Tuyên làm hiệu trưởng từ năm 1952 đến năm 1954 rồi giao lại cho Chu Tử Chu Văn Bình. Đến năm 1958 ChuTử về SàiGòn.

Jumoir đâu có bao giờ quên các ông giáo sư già, trẻ kính mến: Trương Bảo Sơn, Hồ Việt Điểu, Tạ Chí Diệp,Tạ Chí Đông Hải, Hồ Thái Bạch, Âu Quang Nhứt… Ông Giáo sư Nhứt nầy còn trẻ, từ bên Pháp về, dạy Pháp Văn, nói tiếng Việt ngọng nghịu. Ông Nguyễn Văn Thuần, giáo sư dạy Tóan, mặt búng ra sữa. Trưa nào, trống đánh thùng thùng lúc hai giờ mà chẳng thấy thầy đâu? Té ra thầy ngủ quên. Báo hại đám học trò phải chạy đi kêu thầy. Thầy đến lớp mà hai con mắt còn đỏ ké… Và ông thầy Võ Văn Hợi, dạy chữ Hán, rất đáng yêu; mặc dầu đó là giờ hay ngủ gục…

Xuân dắt chiếc xe đạp cà tàng ra khỏi căn nhà sang trọng ở đường Hồ Xuân Hương.“ Vậy là mình kiếm được chỗ dạy kèm tốt rồi. Từ đây có thêm chút đỉnh tiền, mình yên tâm đi học hơn. Nhưng hổng hiểu các cô cậu nhà giàu nầy có hay quậy hông?”

Đang đạp xe tàng tàng, bất ngờ nó gặp Chúc ở ngã ba Bà Huyện Thanh Quan và Hồng Thập Tự.

– Ê! Chúc, tao tìm được chỗ kèm trẻ ngon lành rồi?

– Ở đâu, cậu?

– Trong đường Hồ Xuân Hương nầy.

– Sao tốt thế?

– Thì tao cũng đăng báo như mầy. Bây giờ hai đứa mình đi kiếm cái gì ăn đi. Tao đói bụng rồi. Tao đãi mầy một bữa.

– Nghĩa là không ăn ở quán cơm xã hội?

– Có gì mầy chê ở quán cơm đó? Một món mặn, một món canh, và cơm ăn thả giàn mà chỉ có hai đồng rưởi. Vậy là tốt rồi. Thôi đi mầy!

Bọn họ chạy theo đường Trần Quang Khải, hổng ghé vào quán cơm xã hội. Tụi nó ngược lên Tân Định, sà vào chỗ bán cơm bữa bên gần hông chợ. Bao giờ cũng vậy, món ăn đầu tiên mà Chúc gọi đầu tiên là trứng vịt kho.

– Mầy phải bắt chước tao. Gọi là trứng dzịt thì người ta mới biết. Chớ trứng vịt, trứng vịt giọng Bắc Kỳ của mầy làm cô bé bán cơm sẽ ngẫn tò te ra.

– Ê! Xuân. Cậu có biết tin Việt Minh đánh đồn Trảng Sụp ở Tây Ninh không?

– Việt Minh? Việt Minh nào mậy? Họ rút về Bắc hết rồi mà?

– Cậu không xem báo?

– Thì cũng như mầy. Lo gạo bù đầu bù cổ nếu hông năm nay rớt thì kể như lúa. Có thời giờ đâu mà coi báo. Ờ! Ờ! Mà cũng có, nhưng coi mau lắm. Coi báo cọp hay báo mướn hông hà. Tao đâu có thấy báo Dân Chúng đăng đâu.

– Tớ khác cậu. Tớ biết được vì bác Lý có báo. Có tin khác nữa kìa.!

– Tin gì?

– Tin đàn bà con gái ở tỉnh cậu đi biểu tình rầm rộ chống chánh quyền!

– Bến Tre? Mà ở chỗ nào?

– Hình như ở Mỏ Cày.

– Mỏ Cày hả?

Sau bữa cơm, Xuân đạp xe ra về. Vừa đi vừa nghĩ ngợi. Sao hông thấy Vân nhắc đến những việc đó? Hơn nữa, gần cả mấy tháng hổng được một cái thư nào của Vân. Chàng phân vân, hông hiểu có chuyện gì xảy ra ở quê nhà mà dân chúng phải biểu tình?… Nhưng thôi, kệ nó. Xuân thầm nghĩ, mình phải ráng lo học cái đã. Chắc Vân bận cái gì đó chớ gì? Hơn nữa bây giờ đâu có thời giờ và tiền để về Bến Tre ngó thấy Vân trong ngày rồi lại chạy lên. Hông kịp đâu! Hổng chắc là cô nàng có ở tại tỉnh ngày chủ nhựt hay là về Lương Quới thì kể như trớt quớt?

Những ngày đầu xa Xuân, Vân thấy bồn chồn, nhớ nhung mông lung. Chiều nào Vân cũng ngó ra trước sân, có con đường qua lại trong xóm, mường tượng hình bóng Xuân bỗng chốc hiện ra ở đầu đường vô nhà. Những ngày sống với Xuân ở căn chòi nơi đồng không mông quạnh là những ngày Vân cảm thấy vô cùng sung sướng. Bây giờ những khi ngồi một mình, nghĩ đến lúc hai đứa hì hục bên trong đống rơm lúc cơn mưa dông đêm hay là tồng ngồng ở bờ đê buổi trưa khét nắng, Vân nghe mình mẫy nóng ran. Rồi hai má tự nhiên bừng bừng rờn rợn như có con thằn lằn chui vô ống quần. Những nụ hôn tới tấp nay còn đâu? Những vòng tay âu yếm siết chặt nhau như hai con rắn rồng Vân thường thấy ở kèo nhà đã mất rồi! Hạnh phúc! Sung sướng! Sao trôi đi nhanh quá vậy. Vân thở dài thẫn thờ…

Trong đêm tối, Vân mò mẫm với tay lấy cái khăn rằn móc ở vách lá, quấn môt vòng quanh cổ, rồi bước vội vàng ra khỏi nhà. Đêm đen mờ mịt. Nàng hông chịu bó đuốc, nên lúc đầu đi còn khó khăn. Được một lúc quen dần với bóng đêm, Vân rảo nhanh hơn.

Đêm nay có buổi họp. Tía nói rất quan trọng và kêu Vân nên đi. Hơn nữa, đây là dịp bãi trường Vân ở nhà nghỉ ăn Tết nên nàng cũng háo hức đi cho biết. Nghe nói họ nói “chữ” rất hay. Mấy hôm nay, anh ba của Vân, đã dự một vài cuộc mít tinh, nói họ từ khu 9 về. Họ mặc toàn đồ bà ba đen, quấn khăn rằn, ăn ở cùng với dân chúng ở Lương Hoà. Anh ba của Vân còn cho biết là họ hay nói u tê cu, sinh họat, công tác…. Vân thắc mắc hông hiểu u tê cu là gì? Chữ gì lạ vậy? Vân chưa từng nghe bao giờ? Mãi suy nghĩ, Vân đã đi vô sân nhà chú Chín Lê- em của Tía Vân- hồi nào mà nàng hông biết. Một cây đèn măng xông treo lủng lẳng ở đòn ngang nhà, đốt sáng một góc vườn. Có một đám thanh niên, thiếu nữ nhơn dịp kỳ nghỉ Tết cũng đi dự như Vân. Cả nhà Vân đêm nay cũng có mặt ở đây.

Hông có tiếng nói ồn ào. Chỉ có tiếng xù xì trong đám đông. Họ trông đợi coi người ta nói cái gì, vì đây là lần đâu tiên sau sáu năm- từ hồi đình chiến, tập kết- mới có cán bộ Việt Minh về làng nói chuyện. Đột nhiên mọi người im phăng phắc. Từ trong tối mờ mờ ở giữa nhà bỗng hiện ra một người đàn ông sồn sồn. Vì lâu ngày hông dùng lược, chỉ lấy hai tay vuốt từ trước ra sau, nên mái tóc chẻ hai ngay giữa đỉnh đầu. Đôi mắt sâu và sáng. Chân mày rậm rịt. Dáng đi nghiêm nghị khi bước ra vừa tới cửa.

Đầu tiên, người hay nói “chữ” gởi lời kính chào tất cả người đến tụ họp đông đủ đêm nay. Sau đó nói đến tình hình những người tập kết chưa được về là do chánh phủ Diệm đã phản bội bản ký kết đình chiến, hông chịu hiệp thương. Rồi lại còn kết án chánh quyền Diệm kéo lê máy chém đi cùng khắp miền Nam lùng giết những người Việt Minh còn ở lại. Những người nầy- theo lời người hay nói “chữ”-là những người yêu nước chân chính. Họ chịu ở lại, hợp tác với chánh quyền Diệm, yên ổn lo làm ăn, thế mà chánh quyền ác ôn bắt họ, đày ải họ, chặt đầu họ. Thế là có phải một chánh quyền tàn ác, man rợ hông? Đám đông- nhứt là những gia đình có người đi tập kết và những người từng có cảm tình với Việt Minh- hoan hô và vỗ tay rầm rộ. Người hay nói “chữ” kế tiếp nói về tình hình miền Bắc rất thịnh vượng sung túc đang tiến dần lên Xã hội Chủ Nghĩa, hông có cảnh người bóc lột người như ở nông thôn của chế độ Diệm hiện nay. Ông ta lấy thí dụ về những trường hợp nông dân bị bốc lột, áp bức ở một vài tỉnh tận miền Nam, xa mút tí tè như Cà Mau, Rạch Giá mà dân hai xã Lương Quới và Lương Hòa có bao giờ biết được?.

Rồi ông nói Miền Bắc đang được bè bạn bốn phương giúp đỡ, nhứt là Liên Xô và Trung Quốc, hai quốc gia hùng mạnh của Xã Hội Chủ Nghĩa, thành trì của giai cấp công nông toàn thế giới… Bác Hồ của chúng ta đang đưa đất nước chúng ta, trong tương lai, sẽ giàu mạnh như Liên Xô và Trung Quốc. Ông “liên hệ”với hai nước trên rồi vẽ ra cảnh là phải tiêu diệt chế độ Diệm. Phản đối chế độ Diệm đã tàn ác với quần chúng!!!

Dân hai xã hả hê với lối diễn đạt của ông Việt Minh, hoan hô rầm trời. Vân ra về, cảm thấy mình có cái gì đổi mới. Đầu óc cô gái nửa quê nửa tỉnh hình như bừng bừng nóng. Cô trở nên bạo dạn, nói nhiều và nói uyên thuyên với bạn bè về những điều mà cô vừa nghe được trên đường trở về nhà…

Kể từ ngày đó, Vân như người mê muội nói luôn miệng  với người trong gia đình và cả bạn bè giống như ông Việt Minh hay nói chữ. Và Vân dần dần đã quên nghĩ đến Xuân… Những lá thư nồng thắm từ từ thưa dần. Cho đến khi Vân trở thành một cô “cán bộ” tham gia  vào “công tác”, “phong trào” của  “đoàn thể”, “quần chúng” thì những lá thư đó mất hẳn. Tối ngày Vân lo hội họp, học tập, “đấu tranh bản thân” để mau tiến bộ. Học gương của chị em Mỏ Cày tranh đấu chống bọn ác ôn Diệm… và thành tích của đội quân tóc dài ngày 26-1-1960, của phong trào Đồng Khởi tỉnh Bến Tre do bà Nguyễn Thị Định cùng quê với Vân phát động…

Một vài tuần sau, Vân được giao nhiệm vụ hoạt động ở trong giới học sinh tỉnh. Một công việc hông mấy khó khăn vì phần đông học sinh tỉnh Bến Tre có gia đình cảm tình với Việt Minh. Những đứa bạn ở chung nhà trọ đi học-Tân, Lân, Hùng, Trưởng, Lan, Bích, Thuỷ, Ái, Lam, Bạch đều ở dưới quê nên dễ dàng rủ ren. Tụi nó đều có gia đình đi tập kết. Chỉ có những đứa bạn tại tỉnh lỵ là khó, vì cha mẹ là những người làm việc cho nhà nước. Chủ nhựt nào bọn Vân cũng trở về, nay làng này mai làng khác để học tập. Mấy tháng nay, Vân lo mọi việc bù đầu rồi đâu còn thời giờ nghĩ đến Phùng Xuân!!!

Loan nhớ Xuân hung lắm. Mà chết cha mồ tổ, tới bây giờ mà mình cũng hổng biết tên thiệt của ảnh là gì nữa? Chỉ biết kêu theo tụi con Khanh và Vân là anh Ba thôi. Bây giờ tụi nó có còn ở trong trỏng nữa đâu? Hôm đưa Sáu từ nhà thương về, Loan lật đật chạy vào trong đồng, nhưng chòi trống trơn. Kiếm gặp thằng Tám Trò, nó nói về trển hết rồi. Hỏi thằng ÚtThèm, em nó. Thằng nầy nhoẻn miệng cười, một hồi lâu mới nói có chị trắng trẻo và anh đầu tóc bùm sùm, nhưng nay đi đâu mất tiêu rồi! Loan rầu muốn thúi ruột. Chiều chiều cứ ngó mong ra ngoài cánh đồng sau nhà, bụng dạ cứ bồn chồn, đầu óc trống rổng. Ôi! sao nhớ ơi là nhớ. Có cái gì làm cho nàng cứ ngủ chập chờn, lúc nào nằm mơ cũng thấy mình và ảnh quấn quíu nhau giữa cánh đồng. Nàng thấy rờn rợn người !

Loan thấy mình nhợn cơm. Hay là dang nắng nhiều quá nên bị cảm? Mà tại sao lại là mùi gì tanh tanh như cá thì Loan chịu hổng nổi? Có lúc giữa bữa cơm, Loan bỏ đũa đi mau ra ngoài đống rơm sau hè, ngồi thở dốc như muốn ói. Rồi mở chai dầu Nhị Thiên Đường, lấy tay thấm một miếng thoa vô đầu lưỡi. Cũng hông bớt. Thoa dầu lên hai màng tang cho nó nong nóng coi có đỡ nhợn hơn hôn. Cũng hông. Rồi tự mình bắt gió, giựt chơn mày, cạo hai bên cổ. Những thứ đó hổng làm cho Loan bớt nhợn. Tại sao kỳ vậy?

– Má à? Sao cả tháng nay con hông thấy thèm cơm. Nhiều khi ăn vô còn muốn ói nữa Má, cứ ớn ớn hoài. Con hổng mần được cái gì hết.

– Thì ba cái thuốc cảm mạo cao đơn huờn tán, mầy lấy dộng vô coi, coi sao. Cái thứ của mầy mạnh như trâu cui mà bịnh cái nổi gì.

– Con uống nhiều rồi má mà sao hổng thấy bớt.

– Vậy sao kỳ vậy?

– Mầy hôi cơm tanh cá?

– Ờ. Con ăn sao hổng thấy ngon mà còn muốn nhờn nhợn ra nữa.

– Mầy có thấy cần cổ mầy hơi giựt giựt với lợi hai đầu vú mầy hơi căng cứng hông ?

– Sao kỳ quá ! Có Má à!

– Mầy hông có tháng nữa à?

-Tháng nầy con chửa thấy.

– Vậy là chết cha con mụ nội con rồi con ơi! Mầy có ngủ với thằng nào trong đồng hôn? Đố khỏi mầy có chửa rồi đó nghen mậy! Sáu mầy mà biết được, chắc ổng giết mầy lắm chớ hông.

– Đâu có má! Má nói bậy hôn hè!

Lời nói của bà Sáu Lục làm Loan sực rùng mình. Chết cha, vậy là có chửa rồi hả? Sao mà mắn quá vậy? Chỉ có một đêm và một buổi trưa mà sao lẹ vậy. Rồi Loan bồn chồn, xốn xang. Người như mất hồn. Nhiều khi nhìn vào khoảng trống thấy hình như mình ở tận đâu đâu. Cũng có nhiều lúc thoảng như nhìn thấy được hình ảnh Xuân ở gần đâu đây. Sau giờ cơm chiều, lo rửa chén bát và cho heo ăn xong, Loan thường ra ngồi bên đống rơm sau hè, ngó mông ra ruộng lúa đang trổ đồng đồng. Mùi lúa thơm như mùi bông chuối xiêm mới trổ. Loan chặc lưỡi: Làm sao gặp ảnh bây giờ? Tên ảnh hổng biết. Biết đâu mà kiếm? Người như chim trời cá nước. Mình thì ngu dốt. Một chữ cắn làm hai hổng bể. Tối ngày chỉ biết lui cui lo nấu nướng, hái rau muống, sắc chuối trộn cám cho heo ăn. Quanh năm suốt tháng làm quần quật hông hề bước chơn ra khỏi làng. Nói đến đi Bến Tre như một chuyến đi xa, xa lơ xa lắc, chớ đừng nhắc tới lên SàiGòn. Loan hông mường tượng Sài Gòn là như thế nào? Nhớ lại lần đầu tiên đi Bến Tre, mình ngơ ngơ ngáo ngáo, đụng thứ gì cũng ngó, thấy cái gì là lạ cũng đứng lại nhìn làm cho bà Sáu Lục phải buột miệng nói cái con nầy như là mọi mới ở rừng rú về.

Loan lấy tay xoa xoa cái bụng xem coi lời nói của Má có đúng hông. Đâu có gì đâu? Chưa thấy bự lên mà? Loan xoa đi xoa lại nhiều lần để chắc rằng cái bụng của mình hông có lớn. À! dễ quá mà. Loan xé một khúc giây chuối, đo ngang vòng bụng quanh rún, rồi lấy tay làm dấu, đưa lên miệng nghiến một hồi cho đứt. Con Én dấu khúc giây vào đầu chuồng heo. Loan tự nói ai mà biết khúc dây gì ?

– Con Én. Mầy đâu rồi? Mầy lên đây tao biểu? Mầy ngủ với thằng nào, mầy phải nói với tao. Lúc mầy chăn vịt ở trong đồng phải hôn? Cái ngữ đồ con hư. Cái thứ đồ đĩ ngựa, mầy nứng l…. lắm hả nên mầy để cho thằng nào nó đ… mầy. Mầy ngủ với thằng cô hồn nào, mầy nói đi!

Bà Sáu Lục ngồi chân hai tréo trên ghế đẩu giữa nhà đang tru tréo. Mấy hôm nay bà thấy cái bụng Loan càng ngày càng bự. Từ khi bà bắt đầu nghi con gái tanh cơm hôi cá, rồi bà bất thình lình vạch ngực con gái mình, thấy ngực nó to lên. Hai cái núm vú nổi lên chồ vồ. Bà thất kinh thấy cái bụng hơi ển lên( ?)Bà biết cái con Én mầy hư rồi. Bà mong cô ta lớn lên có chỗ cưới gả đàng hoàng. Chớ hông như con chị của nó, bỏ nhà đi theo trai mất tiêu, hổng thấy mặt mày gần cả năm rồi, hông hiểu có con có cái gì chưa. Nhớ con, nhớ cháu làm bà rầu thúi ruột.

– Quánh cho chết cha mồ tổ nó đi! Đồ con gái hư. Đồ đĩ ngựa!

– Ông làm gì dữ vậy? Ông lấy roi mây quất nó túi bụi, bầm mình bầm mẫy nó hết trơn.

– Kệ tui. Con tui, tui quánh đâu phải con bà đâu? Đồ con gái gì đâu mà hư quá mà, mới nức mắt là đã mê trai rồi. Kỳ nầy tui quánh cho nó chết luôn rồi đem bỏ trôi sông.

– Ông nói vậy chớ đâu có được. Nói với nó nhỏ nhẹ để hỏi nó cặp với thằng nào. Rồi bắt người ta mang trầu cau tới cưới xin nó đàng hoàng chớ có gì đâu!

– Sao từ hôm đó tới nay nó hổng nói, để tới bây giờ mang cái bụng chình ình mà nói cái nổi gì. Ai mà gả thứ cái đồ chửa hoang. Mầy nói hôn? Bữa nay tao phải tra cho ra lẽ mới được. Mầy ngủ với thằng nào, hả con đĩ chó kia? Tao đơm cho tàn hết cây chổi chà nầy cho mầy chết luôn. Mầy có nói hôn?

– Trời ơi! Ông ơi! Ông quánh nó như vầy thì nó hư thai, nó đổ nợ ra nữa cho ông coi.

– Bà dang ra. Để tui dện cho nó cái ghế đẩu nầy cho nó bể đầu chết luôn. Tức quá nè. Trời ơi!

– Uý mèn đất ơi! Ông nện nó một cái còn gì cái đầu của nó. Đầu nó chảy máu tùm lum rồi kìa. Én, mầy chạy đi để Sáu mầy quánh một hồi là mầy lết đi hổng nổi nữa đó.

Từ lúc bị ông Sáu Lục dộng một cái ghế đẩu vào đầu, con Én tá hỏa tam tinh, la lên chết con rồi Sáu ơi. nàng lật đật chui vào núp dưới đít bàn. Loan nghe đau trên đầu. Cổ lấy tay sờ lên. Có chất nước nhầy nhầy. Một dòng máu chảy xuống má. Cô ta hết hồn hết vía, thót chui ra khỏi bàn, chạy te ra sau hè, lủi vào kẹt hai đống rơm. Đầu bị tét một đường dài. Máu rỉ ra  trộn với tóc xù ngù. Quần áo ướt mồ hôi  chèm nhẹp làm cho Loan tủi thân thêm khóc  rấm ra rấm rức. Nhưng được một lát, Loan nín, mở mắt trao tráo và suy nghĩ: nhứt định phải đi chớ hông thể ở đây được. Mà đi lên Sài Gòn biết đường đâu mà kiếm được anh Ba ? SàiGòn xa quá, xa lắm. Nàng nghe qua mà chưa tới bao giờ. Mà lên đó ở với ai? Hổng có bà con họ hàng thân thích, đi lang thang bị ma cô dụ bắt làm đĩ thì kể như  vô rọ. Nghĩ đến đó cổ rùng mình lo sợ… Nghĩ quanh quẩn, Loan thiếp đi hồi nào hông hay…

Tư Én giật mình thức dậy khi nghe tiếng gà cồ nhốt trong bội gáy canh một. Nàng nhìn lên trời. Triều sao giăng giăng. Làng xóm êm ả. Tư Én rón rén đi vào sau bếp tới chỗ ngủ, nhè nhẹ rút hai bộ quần áo và cái áo sơ mi sọc rằn đen dấu trong đáy giỏ, bước ra khỏi nhà trong đêm tối.

Vừa dò có tên mình trên bảng ghi những thí sinh đậu oral là Xuân dọt mau về nhà cho má hay và xin phép về Bến Tre. Rồi hông kịp tắm rửa, chàng dồn lẹ một vài bộ quần áo vô túi xách. Ba chân bốn cẳng Xuân dắt xe ra, đạp rút đến bến xe. Chỉ còn một chuyến Á Đông cuối cùng về Bến Tre lúc hai giờ chiều… Khi lơ xe bỏ hàng xuống ở ngã ba Tháp, mặt trời đã nằm sát ngọn dừa bên Cái Cối. Xuân lật đật thót lên xe còng lưng đạp rút về Lương Quới. Ra khỏi Mã Đá ở Mỹ Lồng thì trời nhá nhem. Ngó tới ngó lui, Xuân thấy có một mình mình đi cu ky trên con lộ đá vắng lặng nầy. Nhái bầu, nhái bén ò e trong các ruộng lúa dọc hai bên đường.

– Vân đâu rồi hả thím?

– Ôi! Mấy hôm rày nó đi họp hành hà rầm!

– Họp gì thím?

– Thì ba cái vụ đoàn điếc gì của nó thím hổng biết nữa. Ban ngày thì đi công tác. Ban đêm thì họp. Nó mới vừa ra khỏi nhà với Tía nó là mầy về tới.

– Họp ở đâu lận thím? Thím biết chừng nào Vân mới về hông?

– Đâu ở ngoài vàm. Hổng biết chừng nào nó về. Có khi khuya lơ khuya lắc, tao ngủ một chập còn chưa thấy hai cha con nó về.

Từ lúc ở Cái Bông về, bà Sáu Xe ngầm nghĩ là hai đứa nầy có gì rồi. Chớ sao cái thằng nầy săn đón cái con Vân dữ vậy. Về đến nơi là hỏi con nhỏ đó chớ hổng có hỏi thăm đến hai ông bà. Bà cũng cầu mong như vậy. Hổng biết hai đứa có cái gì chưa ? Rủi con nhỏ đó nó mà có chửa trước là…

Phùng Xuân mệt quá, ngã lưng xuống bộ ván, vói tay lấy cái gối làm bằng dừa điếc kê vào sau ót. Chất cứng của sơ dừa làm chàng thoáng rùng mình. Xuân nghĩ miên man cái gì là đoàn, cái gì là ban ngày đi công tác rồi ban đêm đi họp. Vân có gì thay đổi rồi sao? Vân có dính líu gì tới những vụ như Chúc đã nói với Xuân hông? Cho đến thiệtt khuya, cây đuốc chập chờn ở đầu góc vườn rồi tiến vào nhà. Ông Sáu Xe đi vô trước, còn Vân đứng lại dụi tắt đoạn cuối của tàu lá dừa đang cháy.

– Ủa! Anh mới về đó hả?

– Về hồi chiều.

– Thôi khuya rồi. Anh đi ngủ đi.

Vân đáp lại có bây nhiêu đó rồi lẳng lặng đi vào buồng. Phùng Xuân cảm thấy có cái gì đó hụt hẫng. Chàng im đi một lúc lâu, buồn chán nhìn mông lung ra ngoài vườn dừa tối như mực. Xuân linh cảm có sự chia cắt. Và mầm móng của sự rạn nứt sắp bắt đầu. Chàng tự hỏi cái gì làm thay đổi và chàng cũng hông biết trả lời thế nào….

– Uả! Sáng nay em đi nữa hả Vân?

– Ừa. Bữa nay còn họp một bữa cuối cùng để phân công tác.

– Ủa, chú thiếm đi đâu hết rồi.

– Ổng bả đi xuống vườn rồi. Anh ở nhà chơi nhen.

– Vân. Lại đây với anh. Cho anh ôm em, hun em  đi.

– Em mắc đi họp rồi. Khi khác đi.

– Khi khác nào nữa? Lại đây

– Hổng được.

Chỉ có mấy tiếng đó thôi, rồi Vân lật đật đội khăn rằn, vói tay lấy cuốn tập học trò một trăm trang, bước ra khỏi nhà. Xuân ngao ngán nhìn theo bóng Vân khuất dần dần nơi con đường mòn dọc quanh vườn dừa. Những giây phút mặn nồng ở cánh đồng Mỹ Nhiên đâu rồi ? Những cái hun nóng hổi đâu rồi? Chàng tự hỏi nhiều câu hỏi mà hông có lời giải đáp. Thời gian trôi đi, hông còn có cái gì có thể quay lại được. Tất cả đã hết rồi sao?

Phùng Xuân chán nản nằm xuống bộ ván ngáp một cái thật dài. Loay hoay một lúc chàng ngồi dậy. Một tô canh rau  cải trời và một trách cá bống dừa kho khô để sẳn ở trên bàn. Xuân chợt thấy một cuốn tập học trò năm mươi trang nằm kế bên bình trà làm bằng vỏ dừa. Cuốn tập nhầu nát. Cái bìa cứng trở nên mềm xèo, có vẻ như được cuộn đi cuốn lại nhiều lần. Hai bìa góc gập lại như lỗ tai chuột. Chàng mở ra. Những dòng chữ xiên màu tím nắn nót thật đẹp bằng ngòi viết lá tre. Mở đầu là bài hát Quốc Tế ca… những bài hát ca ngợi các nước Cộng Sản, nhứt là Liên Xô: “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa….”Tiếp theo là ca ngợi các lãnh tụ. Phùng Xuân lật tiếp những trang sau, chàng thấy  có bài thơ:

So ra tôi bác cũng anh hùng,

Cũng bậc mày râu, cũng kiếm cung.

Bác dẹp giặc Nguyên, thanh kiếm bạc,

Tôi đuổi bọn Pháp, ngọn cờ hồng.

Bác đưa dân tộc khỏi nô lệ,

Tôi dắt năm châu đến đại đồng.

Bác có linh thiêng cười một tiếng,

Để cho cách mạng chóng thành công.

Xuân thoáng nghĩ. Có phải chàng đã từng đọc được bài thơ bảy chữ tám câu nầy ở đâu hông, nhưng chàng hổng thể nhớ lại. Bài thơ ghi tên tác giả là Bác Hồ. Có phải vậy hôn? Ông ta sánh mình như là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn?…

Khu bán sách cũ dọc theo đường Lê Lợi, đối diện với nhà sách Khai Trí, ở sát bên nhà vệ sinh công cộng, bao giờ cũng khai mùi nước đái nồng nặc. Xuân thích la cà ở đây, vì thỉnh thoảng mua được vài cuốn sách cũ giá rất rẻ. Nơi đây  là cả một rừng sách cũ, thượng vàng hạ cám, bày bán dọc theo vĩa hè. Từ những cuốn bói toán, hồi ký, tiểu thuyết xưa của Lan Khai, truyện của TCHYA, của Phạm Cao Củng, tập thơ của Anh Thơ đến Phi Lạc Sang Tàu, Thu Hương, Chị Tập của Hồ Hữu Tường, cuốn Nửa Bồ Xương Khô nhầu nát, giấy vàng ngã màu của Vũ Anh Khanh, cuốn Tế Điên Hoà Thượng và cuốn Trận Giặc Con Nít v.v… đến những cuốn sách loại bỏ túi “livre de poche” bằng tiếng Pháp còn mới nguyên và cũ: En famille, Sans Famille của Hector Malot…. , Graziella của Lamartine và cả La Mère của Maxim Gorky nữa. Chính nơi đây, Xuân đã mua được cuốn: Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc của Hoàng Văn Chí, và cuốn Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử của Nguyễn Kiên Trung.

Nhà sách Khai Trí gần ở góc đường Lê Lợi và Công Lý.Đó là một căn phố nhỏ thôi, nhưng sách chất đầy nghẹt. Người ta ra vô nườm nượp. Họ mua nhiều lắm. Chắc chỉ có Phùng Xuân là coi cọp? Ông chủ và các cô bán hàng ở đây xem ra rất dễ dãi, chẳng bao giờ ngó ngàng tới những khách hàng hay mở những cuốn sách xem tới xem lui hàng giờ. Xuân rất thích vào đây trong những ngày cuối tuần để xem cọp tạp chí nước ngoài và những cuốn La vingt-cinquième heure của Constantine Virgil Gheorgiu, cuốn Le zéro et l’infinie của Arthur Koestler. Những cuốn nầy thì dễ gì tìm được ở những khu chợ bán sách cũ. Tiệm sách Lê Phan cũng hổng có, mà ở Xuân Thu thì mắc lắm. Xuân đành tìm một kẹt xó xỉnh nào đó của Khai Trí đọc cọp ngấu nghiến từng trang từ ngày nầy sang ngày khác. Với vốn liếng tiếng Pháp thấp kém, chàng cũng hiểu được một vài phần ý nghĩa trong  cuốn sách của Arthur Koestler. Cộng thêm những cuốn sách của Hoàng Văn Chí và Nguyễn Mạnh Côn giúp Xuân có chút ít ý niệm về một thế giới Cộng Sản.

Thư viện Gia Long im ắng khuất mình dưới những hàng me già, hông có vẻ gì đồ sộ, đối diện với Bộ Quốc Phòng, thường hay mở cửa đến tám hay chín giờ đêm. Phòng ốc nhỏ nhắn. Bàn ghế cũ kỹ mù mờ dưới những bóng đèn tròn  hông đến 100watt. Phần đông khách vào đọc là sinh viên, đến ghi danh lấy sách rồi tìm một góc nào đó im lặng làm việc. Hông một lời nói. Có phải nơi đây Xuân đã có một lần đọc đươc bài thơ trên kia hôn? Chàng hông nhớ nữa. Bao nhiêu chữ nghĩa trùng trùng điệp điệp làm cho lủy ( từ tiếng Pháp:lui, nó ) trở nên mù mờ. Hay là chàng đã đọc ở đâu?Trong những cuốn tập bỏ vương vãi đâu đó của những gia đình có người tập kết năm 1954? À. Có thể là đúng rồi. Dì Tám ở Cát Lỡ, Giồng Trôm, có người con là anh Hai Các theo Việt Minh. Ảnh đi tập kết. Và chắc là Đẹp- Thanh Tùng- em anh Hai Các, người con gái bằng tuổi Xuân, có thân hình nẩy nở trước tuổi dậy thì, cho Xuân mượn đọc những bài thơ của Tố Hữu. Nhưng cặp mắt liếc tình tứ của Đẹp đã ghi trong ký ức của Xuân nhiều hơn là những vần thơ đó.

Phùng Xuân hông màng coi hết cuốn tập. Chàng quăng trở lại trên bàn. Xuân cuốc bộ ra lộ cái-con đường làng chạy từ chợ Lương Quới cho đến bến đò Thủ Ngữ ( Lương Hòa )- đi dọc theo vườn Cô Xanh, thủng thỉnh lần ra bến đò. Vắng teo. Cả một cây cầu nhỏ cho ghe cặp cũng hổng có. Chỉ có khúc thân dừa gác sơ lên bờ. Nước đang lớn. Gió thổi mạnh. Tiếng sóng nhỏ vỗ lách tách vào đám lá dừa nước. Nhiều dề lục bình lững lờ trôi, mang theo những bập dừa hì hụp trong dòng nước. Đây là con sông BếnTre, một nhánh của sông Hàm Luông, bắt đầu từ  gần bắc Hàm Luông chạy dài cho đến  vùng Giồng Trôm. Từ sông Bến Tre tỏa ra nhiều rạch, xẻo, mương chằng chịt, len lỏi nơi những vườn dừa, vườn cây ăn trái, cánh đồng ruộng như một chưn rít  ăn thông với sông cái. Người ta có thể dùng những xuồng ba lá, ghe ba lá hai kèm, năm lá hai kèm, ghe bầu đi xuyên ngang từ vùng Mỏ Cày qua Chợ Gạo ( Gò Công ). Nếu hông phải là người lớn lên với sông nước, với đồng ruộng, với vườn tược khó có thể cảm nhận được mùi bùn pha lẫn trong dòng nước đục ngầu chảy khắp hang cùn ngõ ngách.

Nước đầy. Con sông nổi cơn. Những đợt sóng bạc đầu trắng xóa bủa cùng khắp. Hình như giữa dòng nước có chiếc ghe năm lá hai kèm nhảy sóng nhấp nhô. Một cô gái bé nhỏ độ mười tuổi bơi lái, đang ra sức chống đỡ con thuyền cho thằng em trai ngồi mũi, thò rổ vào những dề lục bình vớt cá bống trứng. Trời nắng chang. Thằng bé dang tấm lưng trần trùng trục. Da đen nhánh, nhưng nếu lấy tay cò cọ lên sẽ thấy mốc cời vì thằng nhỏ có bao giờ tắm sạch đâu. Hô đi tắm là nhảy một cái ùm xuống mương, xẻo, rạch. Lặn hụp, lặn hụp, quậy đùng đùng dậy bùn, đục nước cho đã. Lấy tay vò vò đầu. Xong rồi leo lên bờ đứng cho khô. Thằng bé có bao giờ biết cục xà bông, cái khăn là gì đâu. Phù sa sông nước qua bao năm tháng đắp thêm một lớp trên da đen xì. Ơ kìa, bây giờ chàng nhận ra hình ảnh hai chị em chàng của hơn mười năm về trước…

Buổi tối Vân rủ Xuân đi dự mít tinh ở gần búng ông Khả. Ánh đuốc chập chờn khắp các đường mòn trong vườn dừa. Người ta nói chuyện râm rang. Bên kia rạch Lương Quới, nhiều người kêu ơi ới để bên nầy bơi ghe qua rước họ. Đoàn người có vẻ háo hức hơn là đi coi chiếu bóng ngoài chợ. Khi gần đến chỗ mít tinh, Vân dắt Xuân len lỏi trong bóng đêm mờ, lần mò đến một cây lêkima gần sát sau nhà.

– Anh đứng đây nhen, coi mít tinh. Khi nào xong, em tới dẫn anh dìa.

– Em đi đâu?

Hông kịp nói một lời, Vân lủi vào trong đêm tối. Xuân ngỡ ngàng, hụt hẫng. Y ta cảm thấy mình bị bỏ rơi. Người ta tới càng lúc càng đông. Trước sân nhà, ba cái đèn măng xông bôm hết cỡ, kêu khè khè, tỏa ánh sáng ra đến tận bờ dừa. Xuân đi vô ít bước nữa, đứng sau bầy con gái đang nói cười tíu ta tíu tít. Đám đông chợt im lặng khi có người đàn bà mặc bộ đồ bà ba ra đúng giữa hiên nhà nói huyên thiên mà Xuân hông nghe rõ. Sau đó là tiếng vỗ tay rần rần. Khi tiếng vỗ tay vừa dứt, một người đàn ông cỡ khoảng ba mươi tuổi ra đứng nói có vẻ hùng hồn, y dơ tay lên dơ tay xuống liên tục. Phùng Xuân loáng thoáng nghe những tiếng: bè lũ Mỹ, Diệm; đế quốc xâm lược… Mỗi lần như thế, Xuân nghe tiếng hô đả đảo vang rền. Đám đông lại im lặng. Bất ngờ, Xuân thấy Vân hiện ra giữa hàng hiên. Hình Vân hiện rõ nét trước cái phông đen phía trong nhà. Gương mặt nàng tươi tắn, rạng rỡ đầy tự tin. Xuân thấy môi nàng mấp máy liên tục nhưng hông nghe được gì vì tiếng vỗ tay liên tu và tiếng la  hoan hô đả đảo rùm trời…

Sau đó là màn nhảy múa. Một đám thanh niên và thiếu nữ, có lẽ là những học sinh trung học ở trường Tân Dân hoặc trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa, bắt đầu vừa nhảy vừa ca: Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa…… Họ dùng tàu cau khô kết thành hình những con ngựa. Ngọn tàu cau phất pha phất phới như những cái đuôi ngựa, chạy vòng khắp chung quanh sân nhà.Có như vậy mà họ hừng chí la hát vang trời. Được môt lát thì cũng có một mớ đàn ông đàn bà nhập cuộc. Thế là đám đông bên ngoài cũng hát theo, vỗ tay theo nhịp hát rần rần cả khu vườn. Chỉ có một bài hát mà hát đi hát lại cả chục lần. Đám đông bị ngây hình như điên. Một vài cái đèn măng xông được đem xuống, bôm thêm. Ánh sáng lại bừng lên. Thế là họ cứ ca đi ca lại hoài mà hổng chán cho đến khi hai cái đèn tắt phụt. Bóng tối hình như làm chùn khí thế. Đám đông sực tỉnh, hết ngây. Người ta lại nói chuyện ồn ào được một chút rồi lũ lượt ra về. Xuân  trở lui lại gốc cây lêkima, đợi Vân rất lâu. Bóng cô nàng lờ mờ đến.

– Có vui hôn anh?

– Ơ….

– Vui quá hé! Thôi mình đi về.

– Mình hông kiếm chỗ nào ngồi nói chuyện như trước được hả em?

– Hổng được đâu?

– Sao vậy?

– Ơ!

Hông có đuốc. Trăng cuối tháng nhô lên gần đầu ngọn dừa. Lối mòn lỗ chỗ đốm trăng suông. Khi đi ngang qua một đám chuối, Xuân vụt ôm Vân, lôi vào sau lùm, hun tới ta tới tấp. Hổng kịp phản ứng, Vân té nằm xuống. Cô nàng chưng hửng. Bàn tay xừ lủy tung hoành, xông xáo mọ mậy và rồi mặc sức quậy tanh bành từ trên xuống dưới. Lủy tần mần, tưng tiu một hồi lâu…Rồi như nai chịu đèn…  Ẻn ( từ tiếng Pháp elle: nó ) im rẻ rè re… Thình lình, Vân hất mạnh Xuân ra, kéo quần lên và đứng dậy.

– Hông được đâu anh.

– Sao hông? Chớ mình đã hổng từng làm như vậy sao? Làm bộ hoài.

– Bây giờ thì khác rồi. Hủ hóa lắm. Hổng làm như vậy được nữa đâu!

– Cái gì? Hủ hóa là sao? Chữ nghĩa gì mới lạ vậy?

– Em là cán bộ gương mẫu, hông được hủ hóa.

– Hồi nào vậy em?

– Ơ. Nhưng mà em khác anh. Phải đợi tổ chức cho phép.

– Anh khác em ở chỗ nào? Tổ chức nào? Em có nói với họ chuyện của tụi mình chưa?

– Chưa. Em còn đang phấn đấu.Em chưa tiện nói.

– Thế thì những ngày tháng chăn vịt ở đồng Mỹ Nhiên kể như hổng có, phải hôn? Cái gì làm cho em thay đổi mau quá vậy?

– Ơ! Anh hãy đợi đi

Tiếng cười nói từ xa dội lại. Và một tốp người hiện ra. Vân vội ngoe nguẩy te te bước đi, sợ đám người trông thấy, hông để chàng nói thêm một lời nào nữa. Xuân vụt hiểu có cái gì chia cách hai đứa. Chàng hông đoán nổi ở phía bên kia họ làm cái gì để Vân thay đổi nhanh chóng như vậy.

Những người Việt Minh miền Nam? Họ có khác với những người Việt Minh Cộng Sản ở miền Bắc hôn? Thật ra với sự hiểu biết quá ít ỏi và nông cạn hông làm sao Xuân hiểu rõ vấn đề nầy. Một vài cuốn sách của Hoàng Văn Chí, Nguyễn Kiên Trung và vài cuốn sách tiếng Pháp đọc lóm vội vàng làm sao cho Xuân có thể nhận định được rõ ràng Cộng Sản ngoài Bắc và Việt Minh trong Nam? Thời Xuân mới lớn lên xem được hai cuốn phim Ánh Sáng Miền Nam và Chúng tôi Muốn Sống thì chỉ để giải trí vậy thôi, chớ hông thể hiểu rõ tại sao người miền Bắc trốn đi như vậy. Ngay lúc đi học, các thằng bạn Rau Muống chẳng bao giờ nhắc đến những điều gì xảy ra ở miền Bắc theo như những cuốn phim mô tả. Tụi nó hông sống trong vùng đó hay là cha mẹ hổng nói lại? Nhà trường cũng hông dạy.Hổng có giờ chính trị trong chương trình giáo dục và sách vở thì quá ít để tìm hiểu.

Đâu có phải những giờ Huấn Luyện Quân Sự Học Đường ở năm lớp Đệ Tam hun đúc được ý chí và tinh thần chống Cộng Sản miền Bắc? Đó là  thời gian học sinh mặc những bộ đồ kaki vàng, mang giầy Bata trắng toát với bê rê màu cứt ngựa, tập hợp trong dãy nhà rộng lớn ở đường Nguyễn Hoàng.Họ nghe giảng viên nói thao thao mà chẳng hiểu gì. Kết cuộc là được bắn ba viên đạn ở trường bắn Thủ Đức.

Phùng Xuân hông buồn nói thêm một tiếng, lầm lũi lần bước theo con đường gập ghềnh loang lỗ trăng suông, lẽo đẽo theo sau Vân. Lại mất một người yêu nữa rồi. Vân hổng thèm hỏi mình có thi đậu hay hông và tại sao anh lại về lúc nầy? Hông để một chút ít thời giờ hai đứa ở bên nhau? Quên mất tất cả những gì toan tính ở cánh đồng hoang. Sao lại mau thế? Khanh gắn bó lâu dài, rồi chợt mất. Loan thoáng qua như một bóng mây. Và Vân, sao lại xa cách một cách vô lối như vậy?

Xuân hông vô nhà. Chàng đứng dựa thân dừa, chán nản nhìn vào khoảng vườn mù mịt hông biết đến bao lâu cho đến khi nhận ra trăng đã lặn mất rồi. Chắc đã khuya lắm. Xuân ngồi bệt xuống gốc dừa thiu thỉu ngủ, hông buồn đuổi muỗi vo ve. Chàng bừng tỉnh khi có tiếng người nói chuyện lao xao và vài ánh đuốc chập chờn trước đường mòn. Xuân đứng dậy, vuốt mặt, vươn vai vài cái rồi vô sân lấy chiếc xe đạp, mầy mò dắt đi trong đêm tối.

Trời hửng sáng khi Xuân vừa ăn xong gói bánh tằm và mấy lá bánh thúi địt xám xịt chan nước cốt dừa. Chàng lật đật phóng xe đi về hướng Giồng Trôm. Đến ngã ba Sơn Đốc thì trời sáng bửng. Giồng Tre kia rồi! Chàng hy vọng gặp lại Loan. Mồ hôi mồ kê chảy ướt cả áo. Xuân mở bung nút áo, phạch ngực cho thoáng mát. Xuân định vào xóm hỏi nhà Loan. Khát nước quá, chàng tấp vào một quán nước đầu chợ.

– Cậu người ở đâu mới tới hả?

– Dạ, cháu ở Lương Quới xuống.

– Xuống đây kiếm ai vậy cậu?

Xuân chưa kịp trả lời thì nghe bà chủ quán nói với bà già nhai trầu bỏm bẻm ngồi bên cạnh.

– Ờ! Ờ! cái con nhỏ đó! Con Tư Én chớ gì? Em của con Ba Lựa, con ông Sáu Lục ở xóm trong.

– Con nhỏ đó sao rồi?

– Nghe nói cái con đó chửa hoang với thằng nào hổng biết, lúc đi chăn vịt ở trong đồng. Ổng đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Bỏ nhà đi lâu rồi.

– Đi đâu?

– Ai biết? Bà hỏi ngất ngơ hôn!

Xuân hoảng hồn, vội quay mặt ra chỗ khác, rồi đứng dậy lật đật trả tiền nước, dắt xe ra đường, đạp ngược về Bến Tre.

Loan đã đi đâu? Bụng mang dạ chửa, dốt đặc cán mai, xách cái mình đó đi đâu bây giờ? Biết tìm em ở đâu bây giờ? Hở Loan ơi ?Và người con của tôi, người con của tuổi thanh xuân bồng bột, người con kết tinh giữa đồng hoang mờ ánh trăng suông. Bây giờ con với mẹ con ra sao rồi?

Qua khỏi Giồng Trôm, đến Cát Lỡ, Xuân mệt mỏi tấp vào bên vệ đường dưới bóng mát của đám dúi và cây cần thăng cao nghều nghệu. Chàng nằm bẹp xuống bãi cỏ, kế bên bụi cối xay( Cây dại, trái giống như cối xay- Abatilon indicium)), nhìn lên trời cao xanh tắp. Bên kia vườn, phía ĐôngNgô, vọng tiếng cu đất cườm bổ tư buồn não nuột. Cuộc đời sao nhiều nỗi đắng, the như trái cần thăng mà ít ngọt ngào như trái dúi? Chàng thẩn thờ ngắt lấy vài trái cỏ nổ( Cỏ nổ, trái nhỏ thon dài, chín có màu đen, chạm nước nổ ti tách.(Ruellia tuberosa L.) chín đen bỏ vào miệng, lắng nghe từng tiếng tách tách vang vang trong cổ họng.

Kể từ năm 1954 đến năm 1960, dân miền Nam được hưởng cảnh thái bình, sung túc dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù cho có một biến động: ngày 22 tháng 02 năm 1957, Hà Minh Trí ám sát Tổng Thống nhơn dịp ông đi kinh lý ở vùng Cao Nguyên Trung Phần. Xuân nghĩ chắc cơ quan tình báo cũng biết ai chủ mưu của sự ám sát đó, nhưng báo chí lại loan tin theo một cách khác. Những lời bàn tán của người kháng chiến trở về thành, còn mơ ước ở một thời xưa cũ cộng thêm bất bình của những đảng phái chính trị bị chánh quyền cấm đoán hông cho hoạt động là mầm mống gây nên những xáo trộn về sau nầy? Thực ra phần đông dân chúng miền Nam còn ngây thơ, vẫn còn tin tưởng và có nhiều cảm tình với Việt Minh. Lại thêm một số lớp người đi kháng chiến chống Pháp thời Việ tMinh, hông hiểu gì về Cộng Sản, vẫn còn hoang tưởng sùng bái Hồ Chí Minh…. Có thể nói người miền Nam “làm chính trị theo cảm tính” hông?

Vào những năm đó, báo chí chỉ in ở Sài Gòn. Ở tỉnh hông có nhà in, ngay cả ngoài miền Trung cũng vậy. Báo cho ngày mai là ra chiều ngày hôm trước. Báo chuyển theo đường xe đò phân phối cùng khắp cả nước, phần đông là về tới quận và các làng sát tỉnh lộ. Mà những làng nầy chưa chắc có sạp nhựt trình bán đủ các loại báo ở thủ đô. Thông tin còn yếu kém. Ngay ở làng dọc đường cái cũng hông có thùng thư. Muốn gởi thư, muốn mua con cò, muốn đánh giây thép phải lên tận nhà giây thép tỉnh. Mà ít có người dân làng nào biết những thứ đó. Một cái giây thép về đến làng là cả làng quýnh quáng lên. Làm sao mà đọc được cái giây thép viết bằng thứ chữ quốc ngữ hông dấu của bưu điện? Phần đông là những người có chút học vấn, ưa theo dõi thời sự, dặn các lơ xe đò mang loại báo mà họ thích đọc. Các xe đò chạy ngang làng theo đúng giờ  trong ngày. Các vùng gần Sài Gòn, nhựt trình tới sớm hơn các vùng xa.

Xe đò Á Đông, chạy tuyến đường Sài Gòn – Ba Tri tới làng Lương Quới vào khoảng xế trưa, bỏ hai, ba tờ nhựt trình cho Tư Chà, Quản Cây, Tư Chúc, Hai Ngươn…. Buổi xế chiều hôm đó quanh bàn nước trà thế nào cũng có các chức sắc trong làng như ông Cả Năng, ông Thôn Hai, ông thôn Bơ… hoặc là những người có “máu mặt” ngồi nhâm nhi hết bình trà nầy tới bình trà khác, bàn chuyện thời sự theo các tin sốt dẽo đăng trong báo. Các làng mạc xa xôi tư niên hông thấy mặt được tờ nhựt trình. Và tất nhiên mù tịt về tình hình đất nước. Thông tin yếu kém như thế thì có lợi cho ViệtMinh. Họ tuyên truyền bằng cách rỉ tai, hoặc là mít tinh ở các làng hẻo lánh, xa cách các trục lộ giao thông chính.

Trong lúc này Vân- bây giờ có bí danh là Sáu Trân-đã biết cách in những tờ truyền đơn, khẩu hiệu bằng bột gạo hoặc bằng rau câu(rong biển) phân phát cho dân trong làng. Người ta dùng loại ngòi viết lá tre- nếu cần tựa to thì ngòi viết rông- và mực tím pha thật đậm viết lên tờ giấy trắng. Họ nhồi bột gạo đến đúng độ dẽo, cho vào khuôn, xong úp bản chính lên khuôn bột. Bằng cách nầy, mỗi ngày Sáu Trân in cũng được mấy trăm tờ truyền đơn.Họ cũng biết dùng thuốc tím(permanganat kali) và chanh để xoá dấu vết, làm những giấy tờ giả…

Sau khi miền Nam được vài năm an bình: từ năm 1955 đến năm 1960 thì miền Bắc quyết định dùng võ lực tấn công miền Nam theo nghị quyết của hội nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản ngày 13-5-1959, cho nên những cán bộ nòng cốt của Cộng Sản còn cài ở miền Nam bắt đầu hoạt động trở lại. Việc đầu tiên là du kích quậy phá khắp nơi. Tình hình trở nên mất an ninh. Chiến tranh bắt đầu!

Từ đầu năm 1960 có nhiều biến động hơn. Ngày 17 tháng giêng năm 1960, đội quân “ tóc dà i” do bà Nguyễn Thị Định khởi động, có sự giựt dây của nhóm cán bộ Việt Minh còn cài lại, biểu tình ở quận Mỏ Cày, Bến Tre. Ngày 26 tháng giêng năm 1960, quân đội Bảy Môn do ViệtMinh kích động đánh chiếm đồn Trảng Sụp (TuaHai) ở Tây Ninh. Ngày 26 tháng tư năm 1960, tuyên cáo của nhóm Caravelle (nhóm Tự DoTiế nBộ) gồm 18 thành viên làm xáo trộn chính trường miền Nam.

Những sự kiện nêu trên hông làm cho người bình dân Sài Gòn lo lắng. Họ vẫn sống bình thản vì thông tin yếu kém như đã nói ở trên. Hông phải người dân bình thường nào ở thủ đô đều cũng đọc được báo. Nhựt trình thời đó chưa nở rộ, có thể in ấn còn khó khăn, dân còn nghèo hay trình độ dân trí còn thấp kém? Chỉ có một hay hai đài phát thanh ở Thủ Đô Sài Gòn thì làm sao dân chúng biết được trọn vẹn tin tức. Radio trasitor thì rất hiếm. Không hiểu Đài phát tuyến ở Quán Tre truyền đi có mạnh không? Dân làng hẻo lánh xa Sài Gòn như vùng quê Châu Phú, Châu Hòa chỉ có một vài người biết dùng cây tre cao chót vót làm ăng ten. Một nguyên nhân nữa là chế độ kiểm duyệt của chính phủ? Điều nầy nhiều khi làm cho tin tức trở nên sai lệch trong chiều hướng có lợi cho nhà nước…

Bà Ba Đầm đang trên đường từ chợ về nhà, bưng rổ cá linh vừa mới mua ở chợ chồm hổm đầu xóm. Bà hông nghe được tiếng nổ, nhưng thấy đau nhói nơi xương bắp chuối. Bà khụy xuống, hông đi được. Bà vạch ống quần lên khỏi đầu gối. Một dòng máu tuôn ra. Mọi người la lối om sòm. Trong khi đó, Xuân nghe tiếng súng nổ dòn tan từng chập ở đài phát thanh, cuối đường Phan Đình Phùng. Bà HaiRiệm chạy ngang nhà la hoảng lên:” Cậu Xuân ơi! Mẹ cậu bị thương rồi kìa ”. Xuân hoảng hốt, vội bước nhanh ra khỏi nhà. Anh bạn Nguyễn Trấn cõng bà Ba trên lưng chạy dọc con đường mòn tuốt ra dốc cầu Thị Nghè, để mẹ lên xe xích lô đưa đi nhà thương. Ngày hôm sau đó, trong lúc đợi y tá  băng bó vết thương cho mẹ, Xuân mới nghe tin có đảo chánh ngày hôm qua, được đồn rùm qua miệng mọi người. Chàng đi ra ngoài cổng bịnh viện Nguyễn Văn Học, liếc trộm vào những hàng chữ lớn trên sạp báo. Hóa ra có một nhóm người gồm Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Trung  Tá  Vương Văn Đông, Trung Tá Nguyễn Thiệu Hồng,  Luật sư Hoàng Cơ Thụy và Bác sĩ Phan Quang Đán xúm nhau đảo chánh hôm 11 tháng 11 năm 1960…

Đâu là nguyên nhân bảng tuyên cáo của nhóm Caravelle ngày 26 tháng 4 năm 1960 và của nhóm người gây binh biến ngày 11 tháng 11 năm 1960?Có phải chánh quyền Ngô Đình Diệm tóm thâu tất cả quyền lực vào trong tay của họ? Và đưa đến dẹp tan mọi đảng phái chính trị?Hệ lụy là bắt bớ, giam cầm và thủ tiêu rất nhiều  người? Vụ mất tích của  người thầy cũ, Tạ Chí Diệp, ở cầu Tân An có phải là một trong những vụ thủ tiêu đó hôn?Hông lẽ tầng lớp trí thức họ chỉ phản kháng suông?Cái gì cũng có nguyên nhân của nó.Có bàn tay của ai? VC hay Mẽo?Và mầm mống bất mãn ngấm ngầm lan rộng.

Từ ngày có người con gái đầu lòng vào làm trong hảng dệt may ở Thị Nghè khoảng năm 1955, bà Bảy Mi đem cả gia đình lên Sài Gòn. Mới đầu họ mướn một chái nhà nhỏ ọp ẹp bên cạnh ruộng dâu. Sau đó, dành dụm được chút đỉnh tiền, gia đình cất được căn nhà sàn ở đám ruộng sau Ty Canh Nông.

Cánh đồng ngày gặt còn ngát mùi lúa chín, chạy dài từ con rạch Thị Nghè lên tận sau Viện Dưỡng Lão và ngã ba Hàng Xanh, với nhiều con xẻo nhỏ ngoằn ngoèo đầy cá tép. Đàn cò trắng lượn lờ ngày nắng oi ả. Tiếng chim trích, cúm núm tắc tục vào buổi hoàng hôn. Và nước lớn, ròng ngày hai buổi vẫn còn trong ngát với những bầy cá đối đớp bọt nước .Bọn Xuân ngày nào cũng bơi lội đì đùng trong những con xẻo nhỏ nầy sau những trận đá banh nơi khoảng đất đỏ rộng rãi để chuẩn bị làm xa lộ Sài Gòn-Biên Hoà. Và con đường đất nhỏ ngang qua trại gà Thanh Tâm đầy sình lầy sau cơn mưa.

Họ còn nghèo lắm. Thường thường ngày hai bữa cơm vẫn là rau muống luộc, khi thì chấm chao, chấm hột vịt dầm nước mắm, khi thì chấm cá mòi Ma Rốc. Những năm đó, một bịt mì gói của Nhựt là niềm mơ ước xa vời vợi. Với số đồng lương ít ỏi của người con lớn, người mẹ tằn tiện cho đủ nuôi sống gia đình thì làm sao có tiền mua báo hằng ngày để đọc. Ngay cả mướn báo cũng hông có nữa. Đôi ngày, Xuân đành rề rề ở các sạp báo, liếc trộm để đọc cọp nhựt trình. Xuân biết rất trễ tin nhóm người đảo chánh. Radio transitor còn mắc và ít có gia đình có máy phát thanh điện để nghe tin tức hàng ngày. Cả khu nầy làm gì có điện. Đêm đêm Xuân phải chong đèn dầu để học bài. Cả xóm Xuân ở, lẫn lộn với một số người miền Bắc di cư năm 1954, có được một vài cái radio. Họ biết được tin tức ở đâu? Chỉ có một cách duy nhứt là đọc nhựt trình. Người khá giả, công chức thì mua báo hằng ngày. Còn đọc báo của người nghèo, dân xích lô, xe ba gác, học sinh nghèo…. là đọc báo cọp, hoặc báo mướn.

– Ê Sơn! Báo của tụi mình tính chừng nào ra vậy mậy?

– Không biết chừng nào nữa? Còn đợi mầy và Tô Trần Nguyễn lo chạy xin mấy cái vụ quảng cáo. Mầy nghĩ coi tụi mình không có tiền, đi mượn không ai cho hết thì ra tờ báo rất gian nan.

– Tao biết. Mấy hôm rày tao và thằng cận thị nầy (Tô Trần Nguyễn, Nguyễn Khắc Thiệu) đi bộ muốn rã giò đây mầy ơi! Lội vòng vòng chợ Sài Gòn và gần hết con đường Trần Hưng Đạo mà chẳng có được mấy nơi họ chịu. Hai thằng diện bộ áo sơ mi, thắt cra vát bát phố dưới nắng, tháo mồ hôi hột thiếu đều muốn đi tắm luôn.

– Ráng đi. Tờ Thế Kỷ Hai Mươi của bọn mình có bài vở đầy đủ rồi. Giấy phép cũng đã có. Bây giờ chỉ cần tiền nữa thôi.

– Thì Sơn, mầy nói với thằng Kiều Công Nhịn, làm ở nhà in Nguyễn Bá đường Phạm Ngũ Lão, cho mình nợ tiền in đi. Khi nào ra báo bán được thì lấy tiền trả lại.

– Rủi báo bán không chạy thì lấy tiền đâu ra trả. Tụi bây phải xúm lại năn nỉ nó. Nhưng chắc gì?Mình không trả thì nó nai lưng ra trả à?

– Thì mầy gánh hết. Mầy là chủ bút kiêm chủ nhiệm mà. Thằng Tô Trần Nguyễn và tao chỉ là thư ký và thủ quỉ thôi. Mầy lấy bút hiệu là Sao Trên Rừng thì mầy chắc có nhiều sao và nhiều tiền lắm mà.

– Có cái con mẹ họ! Tụi mình chỉ là một nhóm học sinh vừa đậu Tú Tài xong, mon men vào ngưỡng cửa Đại Học, có một chút ít kiến thức, muốn tìm một con đường khác để đi, làm sao bì lại nhóm Sáng Tạo và Bách Khoa là bực thầy mình.

– Ê Thiệu! (Tô Trần Nguyễn), mầy coi cái lỗ mũi lân và cặp môi của thằng Sơn cà. Nó nói một hơi là chảy hết nước miếng ra ngoài bây giờ.

– Thì nó bao giờ chẳng vậy, phải không Xuân? Nó nói là xì bọt mép và cặp mắt lờ đờ, ra vẻ như là một thi sĩ nổi tiếng tới nơi. Ê, sao mầy lại lấy bút hiệu là Sao Trên Rừng vậy mậy?

– Nó hổng nói đâu. Bà già tao hỏi nó, nó chỉ làm thinh nuốt cuộn bánh xèo. Bả vỗ đầu nó và nói thôi cháu lấy tên khác đi. Nó lờ hai cặp mắt ra hỏi, tên gì bác? Má tao mới nói giỡn: Sao Trong ….. Nó ngẩn người một thoáng, mở to hai con mắt rồi tiếp tục ăn hết cái bánh xèo.

Phùng Xuân thoảng nhớ lại. Hông hiểu nó gặp Nguyễn Đức Sơn từ lúc nào ở cái xóm Canh Nông Thị Nghè nghèo nàn nầy, bàn chuyện văn nghệ, văn gừng, ca hát… Sơn học ở Đại Học Văn Khoa. Thằng Thiệu, học ở SPCN, lúc nào cũng hát nhạc Đoàn Chuẩn. Nó mở miệng là: “Tà áo xanh là màu anh trót yêu…”Buổi họp mặt, cùng với các người bạn gái là học sinh trường Gia Long, thường khi là dĩa trái cóc non với muối ớt. Sơn nhập bọn bàn với tụi nầy định ra tờ nguyệt san: Thế Kỷ Hai Mươi.

Xuân và Sơn đều là hai thằng rách túi, thường khi ghé ăn cơm bữa ở chợ Thị Nghè. Cái thằng lạ chưa! Nó chỉ thích ăn có mỗi món tàu hủ dồn thịt. Ở cái thời một thi sĩ chưa nổi tiếng thì nhà thơ thường nghèo mạt rệp. Hôm nào Xuân rảnh thì hay đèo nó đi đây đi đó, còn hông thì nó đi xe buýt. Có khi nó đi đâu mất tiêu hai ba bữa rồi thấy nó ló mặt về, trông vẻ bơ phờ, chui vào một góc nhà của thằng Nhịn, ngủ một giấc đến chiều chưa chịu thức dậy. Đến tối thì nó than đói bụng. Xuân phải lục nồi bới cho nó tô cơm nguội, chan vô chút cá kho rồi đem tới cho nó. Xuân nhìn Sơn ăn ngon lành mà thương cho bạn. Quê nó đâu tận ngoài Phan Thiết hay Phan Rang gì đó. Nó có cái giọng hơi pha sài gòn. Xuân thích nhứt lúc nó nói chuyện. Cái môi thười lười ra và nước miếng xì thành bọt tràn hai bên mép.

Tụi bạn bá vơ của Xuân thường tụ về nhà Kiều Công Nhịn. Toàn là một lũ học sinh chân ướt chân ráo lên Đại Hoc. Vậy mà đòi làm báo? Có máu văn nghệ hông? Xuân cũng hông biết nữa? Ai cũng có một bài thơ: Hồng Nhung, Hồng Lệ, Trois, Thanh Điệp, Kim Quang, Túy Em…. Lê Thạch Tâm (em đạo diễn Lê Dân)… Bài nào cũng na ná giọng TTKH, hơi hướm của nhóm SángTạo, làm ông chủ bút hông biết đường nào mà lần. Còn Xuân thì biết làm báo biếc gì đâu. Hồi còn học đệ lục, đệ ngũ, chàng chỉ theo các thằng bạn làm mấy tờ bích báo hàng tháng.

– Ê! Sơn. Mầy liệu báo của tụi mình có sống dai hông? Sao tao thấy bài vở lằng nhằng quá. Phải tìm cho ra một hướng đi mới thì báo mới sống nổi. Thơ của mầy nhiều khi tao hông hiểu. Còn thơ của hai thằng Trường Dzạ và Linh Vũ thì lại còn bí hiểm hơn thơ của mầy. Thơ gì mà làm như viết văn xuôi, lâu lâu lại xuống hàng; rồi lại còn dùng chữ nghĩa  như “phạm trù”. Tao đọc còn điếc con ráy luôn, làm sao bàng dân thiên hạ hiểu nổi? Vậy làm sao bán được, hở Sơn?

Bài vở của báo Thế Kỷ Hai Mươi chất đầy đống, vương vãi ở góc nhà. Rồi hông ai màng chăm sóc đến những trang giấy đó nữa. Sao Trên Rừng đã lâu lắm rồi hông thấy nó quay trở về. Tờ nguyệt san chắc chìm xuồng luôn. Nhưng Xuân và Nguyễn khắc Thiệu (Nguyễn Niên) còn cố gắng đi xin thêm quảng cáo mấy lần nữa, rồi cũng hông có kết quả gì cho lắm. Hai đứa về nằm chèo queo, buồn bã mấy ngày. Đôi lúc nhìn nhau cười trừ. Có lúc vùng nhau ngồi dậy, mặc quần áo lại cho tươm tất, bương bả leo lên xe buýt tiếp tục đi xin quảng cáo…

Tình hình miền Nam bước qua năm 1961 và năm 1962 có thêm nhiều biến động. Sau vụ án Caravelle, sự bất mãn càng gia tăng. Một số trí thức chống đối chế độ Ngô Đình Diệm bỏ thành phố vào trong rừng rậm vùng Bắc tỉnh Tây Ninh, bên kia biên giới Việt-Miên, kết hợp cùng cán bộ nòng cốt Cộng Sản còn cài lại sau năm 1954. Họ tuyên bố thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày 20 tháng mười hai năm 1960. Và đầu tháng hai năm 1961, lực lượng võ trang Giải Phóng Miền Nam chính thức ra đời. Nhưng thực ra, lực lượng nầy đã hoạt động từ lâu. Họ đã quậy phá các nơi hẻo lánh, giết các viên chức xã ấp. An ninh miền Nam bắt đầu suy sụp. Dân chúng từ từ bỏ các làng mạc xa xôi, tìm ra những vùng yên ổn- gần đồn bót hay những làng ven trục lộ giao thông chính- để làm ăn. Xuân đã đọc ở đâu đó và trong khoảng thời gian nào chàng cũng  hông còn nhớ, về một câu nói của một viên tướng Alexander Papagos đã chiến thắng du kích Cộng Sản ở Hy Lạp năm 1949: “nếu Cộng Sản mở được mặt trận du kích là kể như họ đã thắng được hiệp đầu.”

Một buổi sáng ngày 27 tháng hai năm 1962, Xuân đang đứng chơi cùng gia đình ông Lý. Họ bón phân rau muống. Thình lình Xuân và Chúc nhìn thấy hai chiếc máy bay khu trục gầm rú vòng qua lại trên bầu trời Xóm Mới. Rồi sau đó có nhiều tiếng nổ lớn và tiếng đạn từ dưới đất bắn lên nghe bụp bụp tạo ra nhiều chụm khói đen nhỏ rải rác khi chúng chúc xuống sát lùm cây khu vực Sài Gòn

– Bố ơi! Trông kìa. Có chiếc máy bay bị bắn rơi, bố ơi!

Xuân và Chúc nhìn theo hướng của cái Lan chỉ. Một làn khói đen tuôn ra từ sau đuôi của chiếc máy bay đang bỏ bom khu vực Sài Gòn.Nó đang sà thấp dần xuống  và mất dạng.

– Chắc nó bỏ bom Dinh Độc Lập. Không hiểu Tổng thống có mệnh hệ gì không?

– Không có gì đâu bố! Nó bị bắn rơi rồi.

– Con cái Lan nầy. Làm như mầy ở đó không bằng.

Xuân lật đật chào ông Lý. Và chỉ kịp dơ tay vẫy chào Chúc, cái Lan, cái Huệ rồi thót lên xe, đạp rút về Thị Nghè…

Kể từ ngày quen thằng Trực, thằng Thọ sửa rađiô ở đầu xóm, Xuân biết được nhiều thứ. Tụi nó thường sửa rađiô trănsito và cũng đôi khi sửa những cái rađiô bằng điện cũ, có cái đèn mắt dơi khi mình bật điện lên.

– Ê! Tụi bây. Tao còn đang đi học, nghèo lắm, có cách nào nghe radio được hông?

– Được chứ. Nhưng mà chỉ nghe một mình mầy.

– Nghe một mình tao? Sao kỳ vậy? Tao hỏi như vậy là cốt ý xin tụi bây cái nào cũ cũ của người ta bỏ ra.

– Hổng có cái nào cũ đâu mầy ơi. Cũ rích mà họ còn đem sửa lại để xài. Tao chỉ mầy một cách. Tao cho mầy một cục galen (galène là sulfur chì (PbS), chất bán dẫn, tách được sóng vô tuyến điện.) và một cái écouter (ê cút tơ). Mầy kiếm một sợi dây điện dài và một cái niềng xe đạp cũ. Quấn dây điện vòng quanh niềng xe đạp rồi đưa lên cao làm như một cột ăngten, hướng về phía Quán Tre. Nối dây từ cột ănten xuống cục galen. Từ hai dây nối của êcúttơ, một đầu mầy nối vào cục galen, một đầu mầy nối với một cái kim tây. Dùng đầu kim tây mầy chích chích vào cục galen mầy sẽ bắt được đài phát thanh Sài Gòn. Ê! mà nhớ trời mưa có sấm chớp, mầy đừng có nghe, nghen! Nó giựt mầy chết thẳng cẳng đó nhen!

Bằng cách đó, Xuân nghe được tất cả chương trình ở đài phát thanh. Mấy thằng bạn đó nói trung tâm phát tuyến ở QuánTre, có công suất rất mạnh, khoảng 500KW, phát sóng biến điệu biên độ (AM amplitude modulation) nên rất dễ bắt. Âm thanh hông qua loa, nên phải cầm ê cút tơ để sát vào lỗ tai. Một vài thằng bạn ở vùng Quán Tre cho biết tụi nó còn dùng ăngten nối vào hai đầu của bóng đèn nê-ông để học bài? Một lần gặp thằng Tưởng ở Châu Hòa (Bến Tre), Xuân chỉ cho nó cách làm như thế. Một thời gian sau gặp lại, nó mừng rỡ ra mặt, nói nhờ mầy mà tao nghe được đài Sài Gòn.

Một buổi chiều tối, khoảng giữa tháng hai năm 1962. Xuân chích vào cục galen. Có giọng nói gì lạ vậy?Đây là tiếng nói của Măt Trận Giải Phóng Miền Nam với giọng nói chát chúa. Sao lạ vậy ta? Ở đâu ra vậy? Xuân cũng ráng nghe thêm một chút. Coi họ nói cái gì? Toàn là tin tức chống đối chánh quyền, nói xấu gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm…

Sáng ngày, Phùng Xuân nhìn lên, thấy hướng ăngten hông thay đổi. Đài của Mặt Trận Giải Phóng ở TâyNinh? Hông. Nó phải ở nơi xa hơn và an toàn hơn. Ở đâu? Chiến khu D, Biên Hòa?.Nơi có tin đồn bà Ngô Đình Nhu khai thác gỗ. Hông chắc! Nó phải ở vùng Mỏ Vẹt, sát nách Sài Gòn? Đài nầy chắc có công suất cực mạnh, nghe rõ hơn đài Sài Gòn, truyền đi bằng biến điệu biên độ, độ dài sóng rất lớn nên khó phá? Từ đó, ngày nào Xuân cũng nghe, để biết họ nói cái gì, để so sánh. Phần đông là tin xe cán chó, trật lất, ba xạo nhưng rất nóng hổi…

Xuân lật đật đạp rút từ Xóm Mới về nhà để nghe tin bỏ bom vào Dinh Độc Lập. Bản tin buổi chiều của đài Mặt Trận Giải Phóng cũng là tin ba trợn. Hông có gì chính xác. Bao giờ cũng giọng điệu chửi rủa xa xả, nghe nhàm chán. Chàng chích vào cục galen, bắt đài Sài Gòn. Ông Diệm và gia đình vẫn bình yên. Một chiếc AD6 bị bắn rơi ở bến Bạch Đằng. Phạm Phú Quốc bị bắt. Nguyễn văn Cử dông tuốt lên Nam Vang.

Có cái gì thúc đẩy sau hai lần toan tính hạ bệ Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Gia đình trị? Độc tài? Ngấm ngầm tiêu diệt các đảng phái? Thủ tiêu các đảng viên đối lập? Sự chống đối của Ngô Tổng Thống hổng muốn cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam?

Năm Phèn lui cui chà sột sột cái ruột xe bằng miếng thiếc cuộn tròn đục nhiều lỗ nhỏ. Xong, Năm Phèn mở hộp keo dán xe làm từ cao su non của đế giầy pha với xăng, lấy tay quệt một cái, thoa một lớp mỏng lên chỗ đã chà nhám, rồi thổi cho mau khô.

– Mầy mần gì vậy Phèn?

– Ủa? Dì Ba. Dì về hồi nào vậy. Tui vá ruột xe lôi.

– Dữ hôn. Mầy hổng ở Châu Bình coi vườn tược của mầy hả? Sao lại ra đây chạy xe lôi?

– Ở gì được dì Ba! Mấy ông trời đen ổng dậy lên, giết tùm lum hết dì Ba ơi?

– Giết ai đâu mậy?

– Trời ơi! Dì ở trển dì hổng biết chớ. Mấy tháng nay, mấy ổng quậy tưới hột sen, dậy trời dậy đất. Cái gì là diệt phong đả tề, tôi cũng hổng biết nữa. Ban hội tề dông mất hết. Ba Thông, anh của Tư Báu chết rồi. Chết chém đó dì Ba!

– Gì dữ vậy mậy? Dân tập kết mà mậy?

– Thiệt mà dì Ba. Dân tập kết tập kiết gì họ cũng giết ráo trọi. Ờ, mà thằng Tưởng, bạn của thằng Xuân nhà mình, dì Ba biết nó chớ?

– Sao hổng biết. Con Hai Thiệt ở ChâuThới chớ đâu!

– Cơ khổ. Cả nhà bị giết hết rồi.

– Gì lạ vậy? Cả nhà đó hiền khô mà.Từ hồi nào tới giờ có làm cái gì bậy bạ đâu. Họ còn đi chơn trong nhiều hơn nữa à nghen.

– Có vậy mới nói.Nghe đâu họ nói nhà thằng Tưởng làm gián điệp.

– Làm gián điệp?

– Thì nhà nó có cây ăng ten cao để nghe ra- điô đó mà.

– Sao tụi nó ngu quá vậy? Làm gián điệp? Ai làm lộ liễu vậy?

– Thì có vậy mới nói. Lúc phong trào-à cái gì đó- à, Đồng Khởi từ năm 1960 đến nay- năm 1962- có lớp trẻ toàn là học sinh gia nhập. Tụi nó bỏ học sớm. Nghe lời mấy ông thầy dụ, theo ráo trọi. Phần đông mấy ông thầy nầy ở bưng về, mở các trường tư thục lèng xèng tới đệ lục, đệ ngũ: như các thầy Nguyễn Trường Phương dạy Viêt Văn, thầy Nguyễn văn Mười dạy Pháp Văn… ở trường trung học tư thục Mỹ Lồng và trường trung học tư thục Châu Thới vậy đó…

Đám nầy mới hông hà. Còn trẻ bân, hăng tiết vịt lắm. Sai đâu đánh đó.C ó biết cái con mẹ gì. Nên mấy ổng mới xài được. Cái lớp của tụi mình đây mà xía vô là có chuyện. Thế nào cũng bị chụp là cái nầy cái nọ rồi ban đêm ban hôm, mấy ổng đến gõ cửa, dắt đi. Hổng khỏi mò tôm, chết chém hay cán cuốc bửa vào đầu, chôn bậy đâu đó, mất xác luôn.

Hồi thời Việt Minh, cũng có vậy nhưng còn đỡ hơn bây giờ. Sao bây giờ mấy ổng, mấy ông Việt Cộng nầy, làm dữ quá hổng biết. Họ đổ thừa bên Quốc Gia rê máy chém đi cùng khắp theo luật số 10/59, còn họ phá xóm làng tan hoang tác hoác. Đám Mười Tông và thằng con trai tên Huệ, Cao Đài Tây Ninh, với họ là hai bên hông đội trời chung. Ông Tổng Linh cũng bị giết chết luôn rồi.

– Mầy cũng là dân kháng chiến mà, sợ gì? Vùng Ba Châu lộn xộn vậy. Còn miệt trên nầy, như Lương Quới, Lương Hoà, có yên hông?

– Sợ chớ dì Ba. Mấy ổng nổi hứng lên là mình chạy hông kịp đó. Ở trên nầy đỡ hơn ở dưới. Tại sao tui hổng biết nữa. Nghe nói ông Trưởng Ban Ám Sát ở trên nầy hiền hơn. Hay là tại tui ít dám xù xí với ai lắm, nên hổng biết rõ lắm. Lo chạy xe lôi, kiếm cơm ngày hai bữa; bỏ cho vợ tui đi đi về về, giựt ba cái dừa kiếm chút huê lợi.

– Còn mấy đứa nhỏ đâu hết rồi?

– Tui đưa hết lên BếnTre. Con vợ tui mướn nhà cho tụi nó ở để đi học. Dì Ba về dưới nầy để làm gì vậy?

– Tính về Châu Bình thăm bà già. Lâu quá hổng có tin tức gì bả, hổng biết lúc rày bả sao rồi nữa?

– Chà! Coi bộ khó à nghen. Ở LươngQuới còn đỡ, chớ ở dưới khó khăn lắm. Lúc rày, có cái vụ Ấp Chiến Lược mới thành lập hôm đầu tháng ba năm 1962, nên lính ruồng bố lung tung. Thôi dì Ba ở đây đi. Ngày mơi, tui nhắn vợ tui, kêu bà già lên.

Từ khi phong trào Đồng Khởi nổi dậy, xóm làng bỏ đi gần hết. Vùng Ba Châu kể như là vùng trắng. Máy bay, cà nông, mọt chê bắn bất kể ngày đêm. Bà Ba Hạo vẫn tiếp tục ở lì, hông sợ súng đạn. Cái trăn-xê được tấn rất chắc. Hai ba lớp ván gõ, bốn năm tầng vỏ dừa, đủ để ngăn súng đạn. Nhưng còn bom thì sao, dì Ba? Vợ Năm Phèn hỏi. Bà Ba mĩm cười, chép miệng. Cái đó thì mầy tới số rồi!

– Cơ khổ! Bả tiếc mấy trái dừa, cau, mãng cầu, sa-bô chê, mấy con tép. Khổ ghê vậy đó. Kêu bả bỏ đi mà bả hổng chịu. Lên Sài Gòn ở mấy lần, bả đòi về hoài. Bả nói ở trên nầy tù túng quá, tao hông chịu đươc. Tụi bây phải đưa tao về quê. Kệ nó, sống chết có số. Việt cộng thì bả hổng sợ đâu. Bả già rồi, có làm gì tụi nó đâu. Còn cái đám cháu ngoại bả, con của bà Hai Miều- tụi nó đi theo mấy ổng ở trỏng rồi.Vậy là có đứa nào dám hó hé tới bả?

– Con vợ tui cũng vậy. Tiếc chi mấy trái dừa hổng biết! Kêu lên trển ở với mấy đứa nhỏ, lo cơm nước cho tụi nhỏ đi học. Hổng chịu là hông. Mình đi đi về về hoài. Mấy ổng nghi rồi sanh chuyện nầy chuyện nọ mới chết chớ.

– Lúc rày đường về dưới có dễ đi hông?

– Hổng dễ đâu dì Ba. Hổng dám đi đường lộ lớn đâu. Máy bay nó thấy là nó bắn chết. Qua khỏi cái bửng nhà Năm Phỉ còn nguy hiểm hơn. Đi len lỏi trong vườn dừa hông hà. Mình hổng biết đường, lớ quớ sụp hầm chông của mấy ổng gài là trời cứu.

Trời chưa bửng sáng, bà Ba Hạo đã có mặt ở Lương Quới. Bà gánh hai thúng đủ thứ: tép khô, khô cá kèo, mãng cầu xiêm, sa bô chê và nước màu dừa…..Bà Ba Đầm mếu máo nhìn bà Ba Hạo đang cầm nón lá quạt lia lịa.

– Má quảy mấy thứ nầy chi cho cực Má.

– Thì gánh cho tụi nhỏ nó ăn chớ mậy. Ở Sè Gòn, mấy thứ nầy mắc mỏ. Cây nhà lá vườn, mình đem lên cho đỡ tốn tiền hôn?

Nói vậy chớ bà Ba Đầm cũng túm gọn các thứ cho vào bao cà ròn. Hai mẹ con nói ba điều bốn chuyện một hồi. Bà Ba Đầm hối má trở lại Châu Bình cho sớm, xong vác mấy bao đồ ăn ra xe lôi cùng Năm Phèn đi Bến Tre…

Ngày hôm đó là ngày Lễ Quốc Khánh, 26 tháng 10 năm 1962. Bữa nay, trước Tòa Đô Chánh - Công Trường Lam Sơn - có triển lãm một số máy bay. Đoàn người lũ lượt kéo nhau đến từ sáng sớm, đông nghẹt từ đầu đường Lê Lợi đến đường Gia Long.

Trung Sĩ Nguyễn Bội Ngọc đang trả lời những câu hỏi cho số đông người bu quanh chiếc trực thăng H34. Phùng Xuân xuống xe buýt ở chợ Bến Thành. Chàng đi bộ tà tà đến nơi. Lần đầu tiên Xuân được ngó thấy chiếc trực thăng. Chàng cố chen chân cho gần hơn để được nhìn rõ chiếc nầy. Chớ các loại máy bay bỏ bom, quan sát-mà Bà Ngoại gọi là Bà Già- thì Xuân đã biết rồi. Hồi đó ở Châu Bình, Xuân thấy máy bay bỏ bom có một chong chóng ở phía trước, bay rất nhanh. Vừa nghe tiếng nó xòe xoè thì thấy nó bay sát gần ngọn dừa, có hình vòng tròn xanh, trắng, đỏ bên hông. Một loạt tiếng súng bắn chát đùng trước, bà ngoại gọi đó là đạn lum đum. Sau đó là bom nổ ầm ầm. Còn cái con Bà Già có cánh đôi, bay mút ở trên, rề rề như đi chợ.

Ông Trung Sĩ đang nói thao thao. Một vật gì đen tròn rơi trước mặt ông ta. Xuân hông hiểu là vật gì? Chợt ông Ngọc cúi nhanh người xuống lượm cục đen tròn, rồi như chớp để vào trong bụng. Ông nằm sấp xuống.Một tiếng nổ đùng kinh hoàng. Một số người té ngã xuống.Một số ùn ùn bỏ chạy.Cùng lúc đó có tiếng hô:  “ Lựu đạn, lựu đạn”.

Phùng Xuân chạy vắt giò lên cần cổ. Chàng chạy cho đến đường Lê Lợi. Đứng lại thở giốc. Đám đông túa ra đủ hướng. Vừa đúng lúc Xuân gặp Tiến Tấn, cùng học Chu Văn An ngày xưa.

– Có chuyện gì đấy cậu?

– Tao hổng biết cái gì nữa. Ai quăng trái lựu đạn vô giữa đám đông đang coi máy bay. Chắc ổng chết rồi.

– Ai chết?

– Ông lính đứng bên chiếc trực thăng. Ổng nằm đè lên trái lựu đan, chớ nếu hông chắc thiên hạ chết nhiều.

– Ông ta gan quá.

– Sao Quốc Khánh có huông vậy?

Cũng vào ngày Quốc Khánh năm 1957, Hội chợ được tổ chức ở khu vườn bông Thị Nghè. Cổng chánh rộng lớn ở phía Thị Nghè. Cổng phụ là chiếc cầu bê tông nhỏ chiều ngang khoảng ba mét, bắc ngang rạch Thị Nghè, nối liền khu vườn bông và Sở Thú. Dân miệt Sài Gòn và Chợ Lớn đều đi từ Sở Thú qua cầu nầy để xem hội chợ. Người ta chen nhau ở cầu nhỏ, dẫm đạp lên nhau, chết khá nhiều. Có nhiều người phải nhảy xuống sông bị chết chìm. Sau đó công binh bắc thêm một cầu nổi tạm dùng để qua lại hai chiều. Tại sao họ hông đi cổng Thị Nghè, rộng thênh thang? Chắc hổng ai nghĩ là dân Sài Gòn, Chợ Lớn đổ vào xem Hội Chợ bằng cầu Sở Thú?…

Buổi chiều Xuân bắt đài Mặt Trận Giải Phóng. Cũng giọng ra rả, chát chúa. Nữ chiến sĩ Biệt Động Thành: Mỹ Linh-Con Chim Sắt – đã gan dạ tung quả lựu đạn giết chết một Trung Sĩ Ngụy và đồng bọn, đồng thời phá hủy một chiếc trực thăng HU1A (?) của địch. Phùng Xuân ngao ngán. Chàng biết họ tuyên truyền láo, xạo ke…Lý do là lủy có ở đó.

Cuối tháng mười hai của năm 1962 rồi. Gió bấc bắt đầu thổi mạnh. Bông so đũa nở rộ, khoe một màu trắng toát trên cành khẳng khiu. Bông đậu rồng xanh tim tím chen chúc nhau trong đám lá um tùm ven bên đường. Bông xoài từng chùm lắc lư theo gió, kéo theo đàn ong chăm chỉ bu quanh. Nhờ gió bấc đẩy mà Xuân đạp xe nhẹ nhàng, chạy vùn vụt về Lương Quới.

– Mầy muốn đi vào xóm trong hả? Bây giờ khó đi lắm, chớ hổng phải như hồi xưa. Đường lộ chánh nhiều chông và mìn, hổng đi được đâu. Ra khỏi khu nhà mình, giờ là của mấy ổng rồi.

– Út. Con muốn vô trỏng mà! Làm sao đi.Út giúp con đi.

– Để coi ngày mai, có mấy đứa ở trong xóm trong ra đi chợ hông hả? Tao kêu tụi nó dẫn mầy đi.

– Út biết tụi nó hả?

– Sao hổng biết mậy!

– Sao chú Tám hổng làm gì?

– Ổng còn đi guốc trong bụng họ hơn tao nữa mậy. Nhưng ổng sợ bay cái đầu ổng đi mất nên ổng im re. Nói chung ban Đại Diện xã, ai làm gì trong làng họ đều biết ráo trọi. Nhưng do giây mơ rễ má, do một số còn mê thời kháng chiến, một số sợ bị Việt Minh cho đi mò tôm nên họ hổng nói.

– Trong số đó có Út? Út còn mê cái danh từ Việt Minh quá mà. Vì vậy nên Lương Quới yên lành hơn vùng BaChâu phải hôn Út?

– Mồ tổ cha mầy. Sao mầy biết?

– Má con mới về cách đây mấy tháng. Bả nói cho con nghe.

– Mầy có đi thì về sơm sớm. Về trễ, rắc rối với mấy thằng dân vệ.

Hồi chín năm, bà Út Thừ- người con thứ mười một của ông Hội Đồng Nhượng- còn trẻ, cũng đi kháng chiến chống Pháp đâu trong khu chín. Năm 1954, bà hông tập kết, trở về làng để nuôi đứa con trai. Dân trong làng hông ai nhắc đến người cha của đứa bé, nhưng họ sù sì đó là ông Nguyễn văn Nê, chánh trị viên đại đội 301, tiểu đoàn 310. Cho nên bà cũng còn nhiều cảm tình với những người bên trong- bây giờ là Việt Cộng. Xuân có nghe lời đồn, nhưng chàng hổng dám nhắc đến chuyện của bà, vì nói với người lớn tuổi những việc như vậy: đó là sự cấm kỵ .

Lúc tuổi thanh xuân, khoảng năm 194…, bà rất giỏi giang. Đất chung quanh nhà trồng toàn là cây bông vải và cây dâu tằm ăn. Bà biết cán bông bỏ hột, bung bông, se sợi… rồi kéo go dệt thành vải. Xong bà đem hồ, nhuộm. Những miếng vải thô cứng kêu sột soẹt lúc may thành quần áo. Bà biết nuôi tằm. Tằm sắp kéo kén. Tầm ăn lên nghe rào rào, xong rồi ươm vàng hực trong những cái nia có cắm chà chờ tằm đóng kén và chín. Bọn trẻ bao giờ cũng bu quanh chảo nước sôi kéo tơ để mong chờ ăn nhộng. Vải bằng tơ tằm bao giờ cũng mịn màng và vàng óng ánh. Bà làm việc hông kể ngày đêm. Đến khuya mà bà cũng còn ngồi bên ánh đèn dầu dừa mù mờ, giựt dây, đưa con thoi qua lại lọc cà lọc cọc.

Bà còn biết nung vỏ nghêu trong trấu và vỏ dừa để làm vôi bán cho những người ăn trầu trong làng.

Ngày Tết hoặc ngày giổ quải, một tay bà làm đủ thứ việc: cán bánh phồng mì, bánh phồng nếp; gói bánh tét, bánh ú; quết thịt làm nem; xay lúa, giã gạo…

Rồi sau đình chiến 1954, bà quay lại làng, nuôi con chờ chồng (?) tập kết trở về. Ngày về xa biền biệt và tuổi thanh xuân lớn dần theo cây dừa, cây cau…

Mặt trời chưa ló khỏi ngọn dừa. Chợ đã dần tan. Thằng nhỏ, khoảng 15 tuổi, tên Tri, dẫn Xuân đi. Vừa ra khỏi chợ là một vùng trảng trống. Trường học và khu đình làng vẫn còn đó. Dừa bị đốn bỏ một phần để làm ấp chiến lược. Cổng ra vào sơ sài. Đây là ấp chiến lược? Chàng tự hỏi. Ở Sài Gòn, Xuân có bao giờ biết cái ấp chiến lược là cái gì đâu? Chỉ biết qua báo chí và qua những lời chửi ra rả của đài Mặt Trận Giải Phóng. Và thật sự, đời sống dân tình trong những cái ấp nầy ra làm sao?

Khi gần tới chùa, thằng Tri quẹo phải đi tuốt luốt về hướng sông. Một vài gốc dừa bị dạt một bên. Những dòng chữ nguệch ngoạc: Diệm Nhu bán nước, Đả đảo luật số 10/59… Ngoằn ngoèo, ngoắt ngoéo, trắc tréo, tới lui một hồi rồi len lỏi qua những bập dừa nước sát bờ rạch làm Xuân quên mất là mình đang ở đâu. Chàng đâu có lạ lùng gì những khu vực nầy. Hồi nhỏ chàng lê mòn gót trên những con đường lắc léo xuyên qua bờ dừa khắp làng để bắn chim. Có buổi hông có con chim nào, Xuân buồn tình lấy giàn thun bắn cá nóc nói để chơi kia mà!

Bến Tre là vùng đất của rừng dừa. Đất của những ông “Hội Đồng Dừa” có trên 10 mẫu. Đất của những ông chủ vườn có dừa chất thành đống cao tính bằng thiên. Những ông chủ nầy quanh năm suốt tháng đi ăn đám giỗ từ nhà nầy đến nhà kia, có con rơi con rớt, đánh ỏ thâu đêm, đôi khi thua sặc máu họng, bán từng mẫu vườn dừa.

Đất của những trái dừa kỳ lạ: dừa trăng ăn với cơm dừa nhăn nheo, xốp xộp và béo ngọt; với dừa bông ăn được cả vỏ dòn ngọt khi còn non. Đất của dừa lửa, dừa bị, dừa tam quan, dừa xiêm thiệt, dừa xiêm lai…Đất của những tên gọi từng trái dừa lớn lên theo màu phù sa đục như nước cơm vo: dừa non, dừa váng cháo, dừa nạo, dừa cứng cạy, dừa rám, dừa khô mà chỉ có những người con của Bến tre mới phân biệt được khi lắc nước óc ách  hay nhìn màu da trái dừa. Đất của củ hủ dừa, đuông dừa, chuột dừa, ong rùi dừa( ổ ong rùi nhỏ, chừng bằng bàn tay. Ong thường đóng kèo trong cọng bông dừa. Mật thơm ngon ), nước màu dừa và dầu dừa… Dừa bạt ngàn. Phùng Xuân mòn gót chơn son rong chơi suốt ngày trong rừng dừa rợp bóng mát. Có khi đi từ làng nầy sang làng khác mà hông bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời chói chang.

– Ê, Tri . Mầy có lạc đường hông vậy mậy? Sao vòng vo tam quốc hoài vậy? Dẫn tao tới nhà ông Sáu Xe nhen.

– Hổng có lạc đâu anh Ba. Em đi hà rầm hoài, làm sao lạc được. Đi dưới nầy chắc ăn hơn. Ở trên, họ làm hầm nhiều dữ lắm. Đi lớ quớ, sụp hầm, vướng chông cau, chông tre là anh tàn đời luôn.

– Như vầy làm sao lính biết đường mà đi ruồng được.

– Lính dưới quận đi ruồng hả? Họ đâu dám đi theo đường mòn. Họ băng bờ hông hà!

– Sao mầy rành sáu câu quá vậy!

Khi gần đến khu đất nhà của ông Sáu Xe, thằng Tri lấy tay chỉ cho Xuân hướng đi, rồi nó lật đật rẽ qua ngã khác.

Đất vườn vẫn như cũ nhưng cảnh vườn coi vẻ vắng que. Cỏ dại mọc um tùm. Lối vào sân nhà bây giờ cỏ tranh đơm bông trắng xóa. Tàu dừa rụng đầy sân. Mo nang vương vãi khắp nơi. Xuân đứng ngơ ngẩn hồi lâu. Hình bóng Khanh vẫn còn lảng vảng đâu đây. Đôi mắt em bao giờ cũng mơ màng nhìn vào khoảng không xa vắng, hông có được một nụ cười tươi. Còn Vân? Nụ cười chúm chím luôn luôn hiện ra nơi gương mặt rạng rỡ.

Bếp núc trong nhà lạnh tanh. Một cái dóng đựng đồ ăn treo đu đưa ở góc nhà. Bù hống giăng đầy nơi mái lá. Bàn giữa nhà đầy bụi. Bộ ván hông còn nữa. Xuân liếc nhìn vào buồng cũ của Khanh và Vân. Bây giờ là cái trăn xê chất đầy vỏ dừa. Chàng bước ra ngoài, đi vòng căn nhà, hy vọng tìm được một bóng người ở gần đâu đây. Hổng có. Bên kia bờ dừa, cây dâu da vẫn còn đó, nhưng đã qua mùa trái rồi!! Xuân lần bước men theo đường mòn bờ dừa qua nhà chú Chín. Chàng chợt thấy bóng cái nón lá nhấp nhô lên xuống ở cuối bờ. Nghe tiếng Xuân bước sột sạt, người đó đứng lên.

– Thím Sáu, thím làm gì ở đây?

– Bây mới dìa đó hả? Làm sao bây vô được đây? Tao mót bậy bạ ba củ khoai về luộc ăn.

– Con có ghé nhà. Hổng có ai hết. Vân và chú Sáu đi đâu hết rồi thím?

– Ối… Đi công tác hoài mầy ơi. Vân nó đi cả tháng nay rồi.Còn ổng mới đi hồi qua kia.

– Hèn chi. Bếp núc trống trơn.

– Đồ ăn tao để trong trăn xê. Sợ mọt chê, chạy hông kịp.

– Lính đi ruồng thì thím làm sao thím? Sao thím hông ra ngoài chợ, bên trong ấp chiến lược, ở có yên hơn hôn?

– Ối! Tụi nó có bắt bớ gì bà già. Ở để giữ ba cái dừa. Nếu hông bị bẻ trộm, mất hết.

– Hoang tàn như thế nầy mà cũng có người bẻ trộm sao thím?

Nói vậy chớ Xuân thừa biết bả ở đây là lo ăn uống cho chồng và con gái. Ban đêm ban hôm, họ bất thình lình trở về có chỗ nghỉ ngơi, hội họp và cũng để lấy tin tức.

– Con muốn đi thăm Khanh.Có được hông thím?

Bà Sáu Xe ngước nhìn Xuân có ý dò hỏi. Chàng biết vậy, nhưng im lặng, làm bộ ngó ra chỗ khác. Ít phút sau.

– Ừa. Lâu rồi, tao cũng hổng qua bển thăm tụi nó. Tao nhớ hai đứa cháu ngoại quá. Để tao dẫn bây đi. Mau đi, qua đó xà quần hoài, hông tối về hổng kịp. Bây còn trở ra chợ nữa. Độ rày có ấp chiến lược, khó khăn lắm.

Bả dẫn Xuân đi xuyên qua mấy đám cỏ tranh và những bụi lứt rậm ri rậm rịt, cao lút đầu, đến bờ rạch. Có một cái chòi nhỏ gần bờ nước. Có người canh chừng. Bả vô trong nói cái gì đó với người trong chòi. Xong trở ra kêu Xuân bước xuống chiếc xuồng ba lá. Bên kia là Lương Hòa.

Căn nhà lợp lá cà đốp. Chung quanh vừng bằng lá xé. Bên trong trống tan hoang tát hoác. Cái giường tre để kế bên bếp. Mùng túm vắt lên. Mền hông xếp, cuộn tròn vo bên gối.

Hai quày chuối xiêm đen chín bói nằm bù lăng bù lóc ở góc nhà. Có hai ba nải chuối lá hườm hườm. Một quày chuối tiêu, trái thon dài giống như bàn tay búp măng. Và ba quày chuối già hương. Chắc nhà tính gom góp lại đem ra chợ bán. Cũng hông nhiều nhỏi gì! Có lẽ đủ tiền mua gạo?

Hổng có ai. Bà Sáu lui cui lo dọn dẹp. Xuân đi lần theo bờ chuối ra phía sau. Có tiếng con nít ứ é. Và tiếng ru con nhè nhẹ ở đầu bờ.

Ầu… Ơơ… Chiều nay ra sông Cái tự ái cho rồi. Sống làm chi biệt ly công tử. Ơ… ơ… Chết cho rồi… chết cho rồi… cho đặng chữ hiếu trung. ơ…

Ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mượn chén ăn cơm. Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.

- Khanh! Khanh ! Em làm gì ở đây?

– Anh! Anh!! Làm sao anh vô đây được? Ai dẫn anh đi? Ai chỉ em ở đây?

– Nhiều câu hỏi quá! Chỉ biết là anh đến đây được để thăm em. Em có hai con rồi hả?

Khanh hông trả lời, nhìn xuống thằng nhỏ lớn nhứt đang ôm chơn mẹ. Cái bụng chong bóc. Mũi dãi xanh lè xanh lét, chảy lòng thòng. Thằng bé lấy tay quẹt. Cứt mũi hông tuôn ra hết, dính theo bờ má tạo thành một dọc xanh dài. Khanh dùng tay bịt hai lỗ mũi, vít sạch rồi quăng mạnh một cái. Đứa bé nhìn Xuân, khóc ré lên. Đứa con gái Khanh đang ẳm trên tay cũng khóc theo luôn. Khanh bồng con và kéo lê thằng con trai đến gốc dừa mục.

Nàng ngồi xuống, thản nhiên cổi nút áo, phạch ngực, nâng vú cho con gái bú trước mặt Xuân. Còn nàng, tóc tai bù xù nàng hổng màng tới. Con bé thấy vú mẹ, đưa miệng nút chùn chụt, rồi nín khóc ngay và lấy tay mân mê cái vú còn lại. Xuân nhìn thấy cặp vú nổi đầy gân xanh và xề xệ xuống như vú mướp. Hai vú săn cứng như hai trái vú sữa to trắng chín mộng, đã nhiều lần nằm trong tay Xuân và được chàng vân vê, hông còn nữa. Đôi vú tròn trịa săn cứng như hai mộng dừa của thời con gái, của một thời tình yêu trai gái trẻ trung, bồng bột đã qua rồi. Cặp vú bây giờ mềm nhũn và nhão nha nhão nhoẹt chứa đầy sữa mẹ để nuôi con. Ôi! Mùi thơm của mật ngọt ong dúi đâu còn nữa đâu em!

Xuân hiểu rỏ tình cảnh của Khanh. Làm gì có nhiều đồ ăn bổ dưỡng để có được hai bầu sữa to căng tròn. Nhìn căn nhà, cái bếp là chàng hiểu cuộc sống của người mình từng thương yêu. Giờ đây Khanh xơ rơ xác rác, giống như những bà mẹ Viêt Nam thân yêu, nàng làm tất cả  cho đàn con. Con nàng là tất cả. Việc nàng tự nhiên vạch hai vú cho con bú trước mặt Xuân đã nói lên điều đó. Có còn gì e thẹn như thời còn con gái đâu? Bây giờ là mẹ, mẹ của hai đứa con cho nên nàng phải ra sức bảo vệ tụi nó. Phùng Xuân nhìn thấy những điều đó trong đôi mắt nàng. Có lẽ, nàng hông còn nhớ đến mối tình đã qua từ lúc cái đám cưới chạy tang ác nghiệt kia?

– Thằng con trai lớn đúng hai tuổi?

– Ừa!

Một tiếng ừa có vẻ như chắc chắn và nuối tiếc một điều gì đó. Xuân có nên hỏi tiếp hông? Hỏi để khơi dậy sự buồn phiền cho Khanh? Trả lời tức là nhắc lại những lúc ân ái sôi nổi ở Mỹ Nhiên, Cái Bông? Em ơi! Dòng nước trôi đi có bao giờ quay trở lại. Gặp nhau lại trong phút giây ngắn ngủi nầy, biết cuộc sống của Khanh như thế là một sự đau khổ khôn cùng của Xuân. Xuân đành phải đánh trống lãng đi.

– Chồng em đâu rồi? Dượng Ba Đẹn?

– Ảnh ở ngoài đầu bờ dừa lo chặt mấy khúc đinh sét, đập miểng chai…

– Chặt đinh sét? Để làm gì?

– Để bỏ vô súng ngựa trời.

– Súng ngựa trời là súng gì?

– Anh đi tới mà hỏi ảnh.

Từ ngày Ba Đẹn là du kích xã, nó chỉ có một việc là lo làm những cây súng ngựa trời. Ở xã nầy, cả đội chỉ có một cây mút ca tong. Làm súng ngựa trời thì dễ, có gì khó đâu! Hông như mấy ông cán bộ dưới huyện chỉ, nào là phải đi tìm những ống tuýp xe đạp, cưa đi một đầu, còn đầu kia đập bít lại, nhồi đinh sét, miểng chai… ngâm trong cứt và nước đái… Ôi thôi, đủ thứ lu bù, hằm bà lằng quá. Mà ngặt, ống tuýp xe đạp khó tìm lắm! Nó làm theo ý nó. Nó đi kiếm những lóng tre đực thật già, cắt bỏ một mắt, còn mắt dưới dùi một lỗ để chuyền dây. Cái thứ nầy giống như ngày xưa nó hay chơi lúc Tết: ra ngoài tiệm chú Tiều mua cục khí đá bằng ngón chơn cái, cho vô khúc tre đực ướt, đã cắt bỏ một đầu. Chỉ cần lắc mạnh môt vài cái, xong đưa vào ngọn lửa là nó nổ to một tiếng bum dòn tan, còn hơn pháo đại và pháo tre nữa

– Dượng Ba làm mấy cây súng nầy có bắn chết được ai hôn?

– Khỏi nói anh Ba. Hổng chết mà mấy thằng dân vệ sợ chạy té đái. Súng em mà nổ cái ùng hả, tụi nó la oai oái.

– Cây súng nầy dượng làm rồi đó hả?

– Ừa! Xong rồi đó.Anh coi có được hông?

Xuân cầm cây súng ngựa trời dựng bên gốc dừa. Chàng ngó qua ngó lại rồi nhìn vào trong lòng ống tre được nện bít bằng đất sét.

-Dượng bỏ gì trong nầy?

– A.Trước hết là thuốc nổ rồi đến miểng chai ngâm trong nước đái. Cái nầy hổng có đinh sét. Em nện chặt bằng đất sét. Anh coi có được hôn?

Xuân nhìn kỹ một lần nữa. Cây súng nầy bắn chắc chẳng giết được ai, chỉ làm cho người ta trầy trụa xơ xịa ngoài da và hoảng sợ. Xuân đã học về vật lý và cơ học ở lớp đệ Nhứt. Chàng hiểu cây súng có sức phụt hậu và thế nào cũng làm cho người bắn bị thương.

– Làm sao dượng cho nó nổ?

– Em nối dây điện và dùng cục pin dẹp hiệu Con Ó. Rồi chích cho nó nổ.

– Nghĩa là dượng phải nằm từ xa?

– Phải rồi anh Ba. Nó nổ cái oành là mấy thằng dân vệ tá hỏa. Em rút dây điện rồi bỏ chạy.

– Ừa hé! Dượng hông bị súng tống trầy mặt. Dượng có bao giờ trở lại chỗ dượng đặt súng coi nó nổ như thế nào hông?

– Hổng có anh!

– Tôi có nghe mấy ông du kích còn lấy ong vò vẽ đuổi lính chạy có cờ nữa mà.

– Họp xã đội, họ cũng có phổ biến. Nhưng chắc đâu miệt dưới. Ở đây hổng có.

Nói vậy chớ Xuân dư biết mấy cha nầy nói xạo dóc tổ. Kiếm được ổ ong vò vẽ đã là khó. Thỉnh thoảng mới gặp được tụi nó đóng ổ nơi cây cao bụi rậm như bụi tre, bụi đủng đỉnh… Rồi lấy ổ ong càng khó hơn. Phải chờ trời tối, tìm cách leo lên nhè nhẹ và lấy bao cà ròn trùm lại. Mà đâu phải lúc nào cũng có dịp để đuổi lính đi ruồng đâu. Trùm kín ít ngày thì ong chết. Treo lên đâu đó, để dành, lớ ngớ bung ổ ra thì nó đánh có mà chết, chạy đâu cho khỏi. Hồi nẫm, Xuân có nhớ là được ăn cháo ong vò vẽ non. Chàng còn nhớ là đám người lớn đợi lúc tối trời đốt đuốc để ngay miệng ổ ong. Ong bay tuôn ra hết, bị đốt chết, còn lại ong non trong ổ…

– Còn em, Khanh?. Sao hông dẫn mấy con ra ở trong ấp chiến lược cho nó đỡ hơn hông?

– Ý đâu được anh Ba! Tụi nó biết em rồi, nó hành vợ em chết!

– Dượng làm dượng chịu, chớ vợ con dượng có làm gì đâu. Có ai bắt bớ gì đâu. Rồi ở trong nầy yên hơn hả? Lúc lính ruồng bố thì làm sao? Ở ngoài xã, thiếu gì người có bà con đi theo bên trong nầy mà có ai nói gì đâu?

– Ảnh có làm cho mẹ con một cái hầm, ở ngoài bờ, dưới củ trối bụi chuối.

– Đất thấp hông bị ngập nước à?

-Cái lu vú bò mà. Có gì ba mẹ con chui xuống đó. Xong ảnh lấp miệng lại. Có một cái ống trúc dài để thở.

– Nóng lắm hả em?

– Hầm hơi và nóng lắm. Nhưng mấy mẹ con ráng chịu. Lính đi ruồng hổng có lâu lắm đâu!

Nghĩ đến đó mà Xuân buồn cho Khanh. Vợ một anh chàng du kích sống một ngày mai vô định. Và biết chừng nào Xuân mới gặp lại Khanh. Chắc hông bao giờ. Bây giờ dòng sông đã chia hai…

Bà Sáu Xe đi tới, vói tay bồng lấy đứa cháu gái, hun chùn chụt. Khanh rảnh tay, bới lại cái đầu tóc cho gọn ghẽ. Bây giờ là đầu tóc của một thiếu phụ, có cái búi to ở đằng sau. Hổng còn mái tóc dài để đến ngang vai như thời nàng đi học. Xong, Khanh nhìn Xuân trân trân. Xuân vội quay mặt đi chỗ khác.

– Anh ở lại đây tối hôm nay?

– Hông. Má và thằng Xuân phải dìa liền bây giờ, để nó kịp ra Lương Quới.

Bà trả lời thay cho Xuân và nhanh nhẩu trả đứa cháu gái lại cho Khanh, rồi ôm hun thằng Hải mấy cái. Tổ cha mầy, mũi dãi tùm lum! Xuân cũng vội hun hai con Khanh, nhưng hun thằng Hải nhiều nhứt, rồi quày quả bước đi, sau khi nói lại một câu nhỏ và ngắn ngủi: anh về nghen em. Phùng Xuân biết đàng sau lưng mình có đôi mắt dõi  theo và một trái tim nghẹn ngào…… Một lần chót gặp nhau?

– Bây ráng coi chừng coi đổi hai đứa nhỏ nhen.

– Tui dìa nghe dượng Ba.

Bà Sáu Xe vừa tấp ghe vào bến thì nghe hai tiếng súng tắc cù từ hướng Lương Quới. Bả lật đật buông dầm, hối Xuân mau lên bờ, đi miết về nhà. Gặp thằng Tri dọc đường, nó báo cho bả biết là có lính đang đi vô gần đến chùa. Và đám du kích, có anh Năm Tấn chỉ huy, đang trông chừng tụi lính. Nhiều khi dân vệ ra khỏi ấp đi bắn chim cu.

– Vậy là bây đâu có đi dìa ngoải được. Tối nay phải ngủ lại đây rồi sáng sớm theo tụi nó ra chợ.

Cái chiếu rách và cái mềm mỏng tanh hông đủ để che tụi muỗi ma đói kêu vo ve như sáo thổi. Xuân hông nằm được. Chàng phải ngồi dựa vào góc cột nhà, lấy tay phất lia lịa. Nhiều năm qua rồi, cái mềm cũ mèm nầy đâu còn hơi hướm của Khanh và Vân? Mùi mốc hăng hăng làm chàng ngộp thở. Xuân nhớ đến mùi rơm ở cánh đồng Mỹ Nhiên… Phải chi bây giờ mình chui vô được đám  lá chuối khô ngủ giống như heo là yên nhứt ?…

Xuân hông chờ được bắc. Chàng đưa xe đạp cho người phụ việc xếp lên nóc đò máy, rồi chui vào trong khoan, tìm một chỗ khuất, nằm gác đầu lên thành ghế. Nước lớn. Gió thổi mát rượi. Sóng bạc đầu vỗ mạnh. Đò máy chồng chành, rẽ mũi áp sát vào cồn Phụng. Một vài bóng người hiện ra trong cù lao. Nghe nói hình như ông Đạo Dừa sắp về ở nơi đây. Tiếng máy nổ xình xịch ru Xuân vào giấc ngủ chiều ngắn ngủi đầy mộng mị…

Tình hình ở Sài Gòn càng thêm rối rắm. Kể từ khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm 1960, số người ra “bưng” càng ngày càng nhiều. Ở Sài Gòn bây giờ đủ mọi thành phần.

Một số là thân hữu của các ông Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trịnh Đình   Thảo… Một số là những người có học giầu sang, có đầu óc thiên tả đi học ở Pháp về. Một số con những trí thức thành thị, hông theo kháng chiến chống Pháp nên gia đình hông bị ly tán, sa sút. Khi Mỹ tuôn ào ạt vô Miền Nam, họ xoay trở nhanh chóng, tạo thành một thành phần trí  thức ưu tú gầy dựng nền móng dân chủ miền Nam. Hông như những gia đình giàu có miền quê, theo kháng chiến chống Pháp rồi sau đó lầm lẫn theo Việt Minh. Một số là các thành phần già thủ cựu đã từng theo kháng chiến chống Pháp. Họ về thành, giữ các chức vụ trong bộ máy chánh quyền, từ văn hóa, giáo dục, kinh tế, tài chánh… Chính nhóm nầy mới là nguy hiểm vì họ đi hàng hai, hông lộ diện. Họ hông phân biệt được Việt Minh và Cộng Sản? Còn lại là một nhóm thật lớn: các sinh viên học sinh. Nhóm nầy còn trẻ, có tinh thần Quốc Gia, đầy nhiệt huyết, hoạt động ất hăng say. Nhưng còn một nhóm nguy hiểm hơn: thành phần sinh viên học sinh hoạt động nội thành. Nhóm nầy bị các cán bộ ‘trí vận” Cộng Sản cài vào, khuấy động tình hình chính trị, văn hoá, xã hội ngay giữa Sài Gòn.

Ngay như bà Ba Hạo, bà Ba Đầm, Bà Út Thừ… hông hiểu một chút gì về Việt Minh và Việt Cộng. Và lẽ tất nhiên,  những người dân quê mùa chất phác, đâu có phân biệt được rõ ràng đâu là Việt Minh và đâu là Việt Cộng. Năm rồi (1962) Xuân nhớ hình như là chú Mười Tương và chú Sáu Đâu lên ở nhà Xuân mấy ngày. Chắc lúc đó các xã đang thanh lọc để xây ấp chiến lược. Họ bị động. Họ kiếm đường đi vào trong khu. Vậy là bà Ba Đầm cũng vô tình hông hiểu Việt Cộng là gì nữa, nên giúp đỡ họ. Đó chính cũng là một nguyên nhơn mà ViệtCộng lợi dụng để phá hoại miền Nam.

Xuân tần ngần trước cổng nhà rất lâu. Hông hiểu lần nầy họ có hẹn nữa hôn? Hai lần trước, người quản gia cho biết là gia đình đang có công chuyện. Họ đã hẹn hai lần, cách nhau năm, sáu tháng. Chuyên mục rao vặt ở trang trong  tờ báo vẫn còn phần dạy kèm trẻ em tại tư gia của Xuân. Chàng muốn bỏ chỗ nầy đi dạy nơi khác cho rồi, nhưng hông hiểu vì lý do gì, chàng cứ tới nơi nầy hoài. Con đường Hồ Xuân Hương đẹp, êm ả có sức quyến rũ hay nơi đây gần nhà, gần trường Đại Học cho Xuân dễ chạy tới chạy lui bằng chiếc xe đạp cũ xì?

Xuân cũng đã có chỗ dạy kèm, nhưng xa quá. Xa tận chợ Hoà Bình, Chợ Quán. Dạy hai buổi trong tuần, đạp xe lần nào cũng tháo mồ hôi hột. Phùng Xuân cũng tính nghỉ cho rồi. Cô học trò cũng tên  Xuân có tật vì bịnh sốt tê liệt. Hai chơn đi yếu nhưng cô bé thông minh, lại siêng học, dễ mến. Gia đình nói con Xuân cho biết thầy dạy hay lắm. Bài toán số học nào khó cách mấy, thầy giải cũng được và giảng lại cho em một cách rõ ràng. Em nó thích lắm. Nhờ thầy kèm, chắc thế nào cháu cũng thi đậu vào đệ thất Gia Long. Làm sao bỏ cho đành với một người học trò chuyên cần như vậy?

Cánh cửa cổng mở. Xuân đi theo người quản gia vào nhà, bước vô phòng khách khá rộng, sáng sủa. Chậu lan kim điệp đang trổ bông để cạnh cửa sổ. Trên tường treo một bức tranh lớn của Monet. Vài tạp chí bỏ lộn xộn nơi góc bàn nhỏ hình chữ nhựt ở cuối góc phòng. Người quản gia mời khách ngồi. Xuân kéo ghế nhưng còn đứng tần ngần nhìn mấy trang báo đang lật bỏ dỡ, cho đến khi người giúp việc mang ra một ly nước đá chanh, Xuân mới chịu ngồi xuống.

Người đàn bà trung niên hiện ra. Tóc cắt hơi thấp, buông xõa lơi lơi gần bờ vai. Đôi môi trái tim tô hồng. Hai mắt rạng rỡ và nụ cười tươi tắn. Xuân bối rối, đứng lên chào hỏi.

-Xin lỗi để cháu đợi quá lâu. Ngày mai cháu đến kèm dùm hai cháu nhỏ. Hình như ngày trước cháu cũng ở Mỹ Tho phải hôn?

– Dạ. Lâu lắm rồi, vào khỏang năm 1948… Ở trong tòa nhà của ông Jacques Lê Văn Đức, cuối đường Hùng Vương, gần bến đò Thạnh Trị. Cháu còn nhớ đám cháy kinh hoàng ở xóm Lò Heo, năm 1950(?), từ khu nhà gần nơi cháu ở lan cho đến sát hông trường Taberd, thiêu rụi gần cả ngàn căn của đám dân nghèo nữa.

– Bác biết rồi. Vậy là?

Con đường Hùng Vương là con đường chính của thành phố, chạy dài từ Dinh TỉnhTrưởng đến bến đò ThạnhTrị. Có cây dái ngựa “ giá ngự”  dọc đoạn nhà thương, theo thành 11ème RIC, đến sân vận động rồi trường Bà Sơ.Còn lại là me từ nhà Thờ, trường Taberd  đến bến đò. Buổi sáng có những xe ba gác đổ phân thùng và xe xích lô chở người đi chợ. Buổi trưa, trời nắng gắt. Con đường vắng hoe. Hình như sự nhộn nhịp của thành phố nằm ở phía chợ, sát bờ kinh Bảo Định, dài qua cầu Quay, dọc theo con đường bờ sông đến ga xe lửa.

Biệt thự của Ông Jacques Lê Văn Đức nằm trong khu đất khoảng nửa mẫu, chung quanh được bao bọc bằng tường gạch chắc chắn, kế bên trường học của dòng Mến Thánh Giá. Có hai khu nhà riêng biệt. Khu dành cho chủ nhân ở với phòng ốc rộng rãi, đẹp đẽ, ra vào bằng cổng chánh. Còn bên trái là căn nhà to, có nhà bếp, nhà kho và hai khu riêng biệt. Phía bên phải có cây da cao, rễ bu chằng chịt, lá phủ um tùm, che khuất tượng Đức Mẹ nằm bên dưới. Phần sau là vườn hoang, đủ thứ cây cối mọc loạn xạ như chuối, mận, khế, sung… Từ lâu hông có ai dọn dẹp. Chủ nhân là người đàn bà luống tuổi, lại bịnh ho lao, hông mấy khi bước ra khỏi nhà.

Ông Trương Văn Mạnh và ông Nguyễn Văn Bạch mướn căn nhà to nầy. Ông Mạnh là một nha công rất giỏi nghề, nghe đâu bà con với nghệ sĩ PhùngHá. Ông ở Nam Vang về Mỹ Tho, mở phòng trồng răng (cabinet dentaire) ở số 28 đường Ariès, kế bên phòng khám bịnh của đốc tờ Nguyễn Kiểng Bá. Ông Mạnh, thời đó chưa quá bốn mươi, sức khoẻ còn dồi dào nên ông tham gia nhiều chương trình thể thao của thành phố như đua xe đạp, bơi lội, đánh tennis, đua xe mô tô. Ông hy vọng có ngày ông sẽ là Phượng Hoàng Lê Thành Các. Nhà ông có một chiếc Harley Davison và một chiếc xe Traction quinze, một tủ lạnh chạy bằng dầu lửa, một cái radio có cặp mắt thần xanh lét để nghe đài Phát Thanh Pháp Á …

Vào lúc đó, ở những tỉnh lẻ làm gì có nha sĩ, chỉ có nha công thôi. Nha công làm đủ thứ: trồng răng, trám răng bị sâu ăn, nhổ răng, làm răng giả, bịt răng. Ngay như đốc tờ thì mỗi tỉnh chỉ có một. Mỹ Tho có đốc tờ Nguyễn Kiểng Bá. BếnTre có Trần Quới Tử. Ông Mạnh lanh lợi, giao tiếp rộng rãi, nên quen biết nhiều thành phần xã hội trong thành phố Mỹ Tho: từ tỉnh trưởng đến người chủ tiệm báo Nam Cường ở cuối góc chợ, gần cầu Quay, đến bác Ba Phước chủ garage sửa xe… Cho nên công việc làm ăn của ông rất phát đạt.

Bên hông căn nhà là một cây trứng cá gốc to gần khoảng một người ôm, cành lá sum sê. Trưa nào cũng có những bầy chim trao trảo bu đầy, kêu trao tráo, nhảy từ nhánh nầy qua nhánh khác, tìm kiếm những trái chín đỏ. Có những buổi trưa hè, ba đứa – Xuân, Phụng và Yvette – chụm nhum nhau chơi những trò chơi của những đứa con nít khoảng tám, chín tuổi dưới gốc cây trứng cá đó. Những buổi trưa đó qua đi nhanh chóng, nhưng Xuân hông bao giờ quên được hình ảnh của cô bé Yvette Đỗ hớt tóc bum bê. Xuân hay len lén xích lại gần, kê mũi sát đầu Yvette. Tóc thơm mùi bông cau nhà ngoại. Có khi cô bé bất chợt quay đầu lại, bắt gặp. Nàng lấy bàn tay vỗ nhẹ lên đầu Xuân mấy cái, cười cười. Nước da Yvette hơi ngăm ngăm và đôi mắt tròn, đen như hai hột nhãn. Đôi mắt đó đã hớp hồn Xuân từ lúc nào hông biết. Mà cho đến bây giờ, ma mắt của Yvette còn ám ảnh chàng mãi mãi trong cơn mộng mị nằm vun vút nơi tiềm thức vời vợi ở cõi Ngân hà xa xăm.

– Cháu kèm cho hai em Trọng và Hùng. Tụi nó đều học ở Saint –Exupéry hết. Tuần bốn ngày được hông cháu? Chỉ buổi chiều thôi, chừng hai tiếng đồng hồ, cho tụi nó khỏi mê chơi, lo làm bài vở. Tụi nó có hai con chị, nhưng mà chị tụi nó hông kèm được. Tụi nó lờn chị, hổng chịu học…

Xuân cẩn thận dựng chiếc xe đạp bên gốc cây mận hồng đào trước nhà. Mặc dầu trời nóng nhưng chàng cũng ráng mặc áo sơ mi dài tay. Tóc chải thêm chút brillantine bóng mượt. Cũng giống như nơi nhà cô học trò tên Xuân, buổi học bao giờ cũng có sẵn ly nước đá chanh để trên bàn. Hai đứa bé rất ngoan. Xuân cố gắng dùng hết vốn liếng tiếng Pháp của mình để chỉ bài cho tụi nó sau giờ học ở trường…

Một giọng nói êm dịu ru nhè nhẹ từ sau lưng Xuân.

– Ông thầy giáo nầy dạy kèm trẻ em bằng tiếng Pháp coi được lắm nhe! Nhưng mà thầy chia verbe aimer có rành hôn?

– Yvette? Yvette?Em ở đây sao? Em làm anh giựt mình!

– Thì em là chị của hai thằng nầy mà!

– Vậy em, em là… con của Tata M…?

Yvette hiện ra từ một tinh vân xa vời. Yvette trở về lại với ước mơ của chàng rồi. Yvette đang cười rạng rỡ, sáng ngời. Mái tóc cắt ngắn và uốn cuộn tròn gọn ghẽ. Đôi má vẫn hồng như mận Hồng Đào MỹTho. Đôi mắt vẫn đen nhánh như hai hột nhãn. Cánh áo trắng mượt mà, cái jupe xanh lơ. Xuân nhìn Yvette mê muội. Hơn mười năm xa rồi, Yvette trở thành một thiếu nữ đẹp, đầy nhựa sống. Chàng mơ màng…

– Em còn nhận ra được anh sao?

– Sao hông? Ê! Hai thằng nhóc này đi chỗ khác chơi để tao nói chuyện với ông thầy của tụi bây một lát coi.

– Em nhận ra anh từ lúc nào?

– Từ lúc đầu tiên anh dạy hai đứa nhỏ. Má cho biết có một anh sinh viên chịu kèm tụi nó. Hình như thằng đó cũng đã ở MỹTho. Em rình xem anh dạy cả tháng chớ bộ. Hóa ra anh cũng hông thay đổi bao nhiêu. Hơn mười năm rồi, em vẫn còn nhớ vóc dáng, cử chỉ của anh. Em vẫn còn nhớ anh. Nhớ anh hay hun trộm tóc em!

– Em cũng vẫn vậy. Anh nhớ đến con bé Yvette hớt tóc bum bê. Da ngăm ngăm. Tóc ngọt thơm bông cau. Cặp mắt tròn xoe đen nhánh. Con bé chơi đánh đũa dở ẹt, chơi búng hột me thua hoài.

– Tại con Phụng chớ bộ! Con nhỏ đó chúa ăn gian.

Cặp môi của Yvette trề ra như hồi xưa, nhưng bây giờ như mời gọi… Chàng nhớ đến ngôi nhà của Yvette ở MỹTho, bên hông con đường của dinh TỉnhTrưởng. Chung quanh có nhiều cây bông sứ cùi màu trắng. Bông rụng bay tơi tả sau những con trốt cuốn tròn. Chàng nhớ đến con nhỏ mặc bộ đồ tắm đỏ chói có đốm bông trắng. Đồ nhát như thỏ đế. Cứ mỗi lần bỏ xuống nước là la choai choái và mặt xanh như tàu lá. Mà nước ở cầu tàu sau dinh Tỉnh Trưởng đâu có gì là lạnh và sâu lắm đâu! Nước ròng còn nhìn thấy lườn tàu, chìm hồi Thế Chiến thứ hai, trồi lên ở kế bên chưn cầu tắm. Cá nóc (Cá nóc sông, nhỏ chừng bằng ngón tay cái ) đâu cắn chim con gái được! ChắcYvette sợ nước và sợ ma da. Cô bé sợ ma da cũng có lý vì nhiều người đã chết chìm ở đây. Rồi sau đó con bé cũng lần lần dạn nước và lội chó cà chủm cà chụp trong cái phao màu mè nhỏ bé…

– Hôm nay anh tính nói với má em cho anh xin dạy ba ngày cuối tuần thôi.

– Còn mấy ngày đầu tuần anh đi đâu?

– Mấy người bạn cũ rủ anh đi Tây Ninh cùng dạy học trên đó.

– Anh hông tiếp tục đi học nữa sao?

– Có chứ! Phải có tiền anh mới  học lên nữa được.

– Anh cẩn thận lúc đi tỉnh xa. Tình hình lúc rày hông yên ổn gì mấy. Em vừa đọc báo sáng nay, thấy có trận đánh lớn ở Ấp Bắc (ngày hai tháng giêng năm 1963).

– Việt Cộng khuấy động. Hổng hiểu tình hình đi đến đâu. Mình sống cũng gần được mười năm an lành ở miền Nam rồi.

Rồi sau đó, có những buổi chiều, hai đứa lang thang trên đường phố. Hai chiếc xe đạp chạy cặp song song nhau, nói chuyện trời đất, mưa nắng… dưới những hàng me lão rụng đầy lá sau cơn gió mạnh. Những ngày bát phố mệt nhoài rồi kết thúc ở tiệm cháo cá trong khu chợ cũ. Đôi khi, hai người ngồi dưới gốc thông già trong vườn Bồ Rô. Cặp môi hôn mọng mềm của Yvette vẫn ngọt ngào như sa bô chê chín, như những trái trứng cá chín đỏ hồng thuở xưa… Yvette lượm những trái thông khô rồi liệng đi tứ phía.

– Mình đừng làm như vậy. Hãy chất thành đống cao.

– Tại sao mình?

– Quăng chúng đi lộn xộn, mình sẽ bị chia lìa.

– Ờ hé! Mình  tin dị đoan dữ hôn.

Trường Trung Học Tư Thục Tiến Đức ở bên kia đường, đối diện với bến xe Tây Ninh. Khoảng năm 1958 đến 1963, học trò đi học càng ngày càng đông. Trường công ở tỉnh hông đủ cung ứng cho số lượng học sinh quá nhiều. Hơn nữa, trường Trung Học Đệ Nhứt Cấp Lê Văn Trung ở gần ngã ba Ao Hồ, trong khu vực Tòa Thánh Cao Đài, đã đổi thành trường bán công. Ở nội ô Tòa Thánh chỉ có một trường Tiểu Học dạy đến lớp nhứt: Đạo Đức Học Đường, ngoài ra hông có một trường Trung học nào khác. Một số thầy cũ của Jumoir Vương Mạnh Tuấn đứng ra xin phép mở trường Đệ Nhứt Cấp. Cũng có một số người có của, đứng ra kinh doanh. Họ bỏ tiền cất trường lớp rồi thuê một người có bằng cấp cao làm Hiệu Trưởng. Xong, kêu gọi các sinh viên đang học Đại Học dạy ăn lương giờ. Điều khá đặc biệt là khi đó hông thấy bóng dáng các bà, các cô đi dạy học ở tỉnh lẻ.

Trường Tiến Đức là một loại trường kể trên. Ông Ysup-một người Ấn ở Việt Nam lâu đời, có vợ Việt- đứng ra xây cất, mướn thầy Lê Thanh Tâm làm Hiệu Trưởng. Trường chỉ có một dãy gồm bốn phòng học, dành cho từ lớp Đệ Thất đến Đệ Tứ. Học sinh gồm các làng gần chung quanh như Thanh Điền, Bàu Sen, Trảng Lớn… hoặc miệt xa hơn Tầm Long, Bến Sỏi đều tụ về đây.

Số học trò quá đông. Mỗi lớp nhồi nhét đến 60, 70. Có lẽ Ông Giám Đốc muốn kiếm lời nhiều nên hông phân bớt lớp. Nhiều khi lớp Đệ Thất bên nầy tập đọc Anh Văn hay Pháp Văn to tiếng, những lớp bên kia hổng học được. Thầy Huy Thắng hay phàn nàn nhiều nhứt. Đành chịu vậy thôi. Vách ngăn lưng chừng của lớp học chỉ cao khoảng ba mét hông đủ chặn tiếng vang lan ra cả toàn trường. Thầy Hiệu Trưởng Lê Thanh Tâm cũng nêu ý kiến đó với ông Giám Đốc Ysup. Ông nầy cười. Để coi. Người Ấn đã tính toán bỏ vốn liếng ra có bấy nhiêu thì phải lấy lời vô cái đã.

Những ngày nóng nực, học trò đua nhau cầm tập vở quạt sành sạch. Đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê tuôn ra như lổ mội,  chảy dầm dề. Em trai bị ướt thì cổi nút áo phanh ngực. Còn các em gái thì đâu làm vậy được, chỉ vén tóc lên cao thôi. Tội nghiệp, áo mỏng của các em gái ướt như mắc mưa. Chúng nó đành quạt lia quạt lịa, cố đẩy lùi cái nóng cháy người từ trên mái tôn hắt xuống. Các em xin đi uống nước và đi đái lia chia. Mỗi lần thấy chúng nó dơ tay lên, thầy giáo hông cần biết chúng xin gì, chỉ cần khoát tay là xong. Xuân cầm cuốn sổ điểm danh nóng hổi mà hông đành lòng gọi các em lên đọc bài. Thầy cũng bực bội như em vì cái cravat cứ vướng ở cổ!

Học trò lại còn khổ hơn nữa trong lúc mưa dông. Mây đen kéo tới mù mịt. Trời tối om. Hông có một bóng đèn. Mưa nổ lốp đốp trên mái tôn. Đây là dịp học trò nói chuyện dậy trời đất. Làm gì để trách mắng chúng bây giờ? Hổng học được thì nói chuyện chớ làm gì? Gió mạnh. Mưa tuôn tóe vào lớp. Thầy trò dồn vào một cục về phía cuối góc. Có đứa né tránh hông được, bị ướt như chuột lột. Mưa nhiều khi rí ra rí rích, kéo dài cho đến hết giờ học. Học trò tuôn nhau ra về dưới cơn mưa còn nặng hột.

Trình độ và tuổi tác học sinh cũng chênh lệch nhau quá nhiều. Những em thi rớt vào trung học, những trò đi học trễ vì nhà nghèo… đều vào trường tư. Cha mẹ làm lụng quần quật, mong cho con cái có chút chữ nghĩa, có chút bằng cấp để thoát khỏi cảnh nghèo khó.

Cho nên, có những em ở độ tuổi 15, 16 học lớp Đệ Thất và 17, 18,19 tuổi học lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Thầy giáo nhiều khi hông lớn tuổi hơn học trò bao nhiêu. Sự hiểu biết của ông thầy về xã hội bên ngoài đôi khi thua xa những em lớn tuổi.

Một buổi sáng, thầy Đỗ Bá Chúc đang dạy giờ Sử Địa. Đám học trò lớn tuổi ở cuối lớp bu quanh trò Trung Tín, chúi đầu vào nhau đọc cái gì đó và xì xầm bàn tán. Thầy Chúc để ý nhiều lần. Cuối cùng thầy ném cục phấn về tụi nó. Cả bọn lấm lét, thậm thụt chuyền tay nhau một cuốn tập. Thầy Chúc ngưng dạy, đi xuống bàn chót, đến ngay nơi em lớn tuổi nhứt.

– Trung Tín! Đưa cho thầy cuốn tập!

– Dạ. Hông phải của em, thầy!

– Của ai không biết. Đưa cho thầy. Mau lên.

Trò Tín do dự nhưng rồi cuối cùng cũng đưa cho thầy Chúc. Học trò tỉnh lẻ vẫn ngoan ngoãn và có lễ phép. Tụi nó rất kính mến thầy, chưa bao giờ tỏ ra vô lễ với thầy. Ngoài giờ học, chúng nó khoanh tay cúi đầu chào khi gặp những giáo sư cùng dạy học ở trường.

Thầy Chúc mở cuốn tập gấp làm đôi, nhầu nát. Cái gì mà tụi nó chuyền tay nhau đọc dữ vậy? A! Cái tựa nghe hấp dẫn: “ Bảy đêm khoái lạc ”. Thầy xếp tập lại, nghiêm nghị nhìn tụi nó rồi làm như hông có gì, thầy tiếp tục giảng bài cho đến cuối giờ học.

– Trưa nay, lúc em Huân đem cơm tới nhà cho mấy thầy. Em Tín nhớ đi theo gặp thầy lấy cuốn tập nầy về.

Trò Tín xanh mặt. Nó nghĩ trưa nay thế nào cũng bị các thầy xạc cho một trận. Mà nếu mét ba má thì nguy hơn. Các học trò gái đều quay mặt nhìn nó. Chắc có gì quan trọng lắm đây, mới đi tới gặp thầy?

– Ê! Thắng, mầy có đọc cái tập: “Bảy đêm khoái lạc” chép tay nầy bao giờ chưa?

-Chưa. Hồi nhỏ đi học thì chỉ biết những điều tốt lành trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, đâu có biết gì. Lúc học ở lớp Đệ Ngũ, có nghe tụi bạn nói. Hình như cuốn đó dịch từ tiếng Pháp: “Les sept nuits merveilleuses”, nói về chuyện tình dục vợ chồng trong một tuần lễ hưởng tuần trăng mật.

– Thằng Thắng nói đúng đó. Tao đã đọc qua rồi. Nhưng lúc đó còn nhỏ quá, mới 17 tuổi mà. Học trò tỉnh lẻ mà, còn khờ lắm. Đọc xong rồi cũng quên hết. Đâu có dám đem cuốn tập đó về nhà. Tụi tao chỉ lén đọc trong giờ ra chơi.

– Mầy đọc ở đâu Tuấn?

– Ờ! Để tao nhớ lại, Chúc… A! Lúc đó tao đang học ở trường Lê Văn Trung,Tây Ninh, lớp Đệ Lục E, khoảng năm 195… gì đó. Hông hiểu ở đâu mà thằng Bá Chưởng có. Nó lén lút chuyền tay cho tụi tao. Kể cũng lạ, vì đó là trường đạo, trong vùng Cao Đài mà. Học sinh đều phải đọc kinh trước khi vào học. Tao chỉ  còn nhớ: “Đại từ phụ xin thương khai khiếu.Giúp trẻ thơ học hiểu văn từ”… Ngày nào cũng có chào cờ, sau đó hát bài:’Học sinh hành khúc”. Học trò thời đó ngoan lắm: gặp lúc chào cờ phải đứng nghiêm, bỏ nón xuống; gặp đám ma phải dỡ nón ra; gặp thầy cô cúi đầu chào… Tụi tao đi học còn mặc quần xà lỏn và đi chơn không mà! Gặp con gái còn mắc cỡ thấy mồ tổ. Có bao giờ dám tới gần tụi nó đâu, chỉ cáp đôi tầm bậy tầm bạ chơi chơi vậy thôi. Tụi nó cáp đôi tao với con Thia.Tao sợ gần chết, hông dám ngó nhỏ đó.

Chắc rồi, có lẽ ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc tràn ngập vô Việt Nam nên mới có loại sách khiêu dâm như vậy. Vào những năm đó, nhà trường có rất nhiều sách báo của Mỹ cho không cho học sinh như: Thế Giới Tự Do, Sự Thành lập Hiệp Chủng Quốc…

– Còn tao…

– Còn mầy sao hả Thiệu?

– À. Lúc nhỏ tao học Taberd. Cuối tuần chỉ biếtTarzan, Zorro, Charlot, Laurel-Hardy, mấy phim của Mỹ đánh với “mọi da đỏ”và những cưốn hình vẽ: “Tintin”… nhờ số bon points của mấy frères thưởng. Tao vào Sài Gòn năm 1957. Rồi thì mình cũng lang thang ngoài phố. Có mấy tay cứ vò vè bên mình, xòe ra các tấm hình các cô gái ở trần ở truồng và mấy cọc tập giấy nhỏ. Tụi nó lấy tay bung rẹt rẹt, hiện ra cảnh làm tình của cặp nam nữ. Nó cò  mồi để mình mua. Mình mắc cỡ, te te bỏ đi chỗ khác.

– Còn tớ nghĩ trong cuốn tập đó tả còn thua Nguyễn Du nhà mình nữa. Chỉ có bảy đêm thôi. Trong truyện Kiều là: ‘Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”.

– Mầy nói đúng đó, Thuyên. Mà thôi, đừng nói đến chuyện đó nữa. Bây giờ tụi bây nghĩ có nên trả cuốn tập nầy lại cho mấy thằng học trò tinh ma đó hông. Theo tao, nên trả cuốn tập lại cho tụi nó. Giữ lại, mang tiếng là mình cũng đọc như bọn nó. Mà tao nghĩ đám đó hông chỉ có một cuốn nầy thôi đâu. Nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò. Chắc còn có nhiều cuốn khác của những thằng trời đánh nào đó cho tụi nó mượn. Mất cuốn nầy rồi tụi nó càng chép thêm nhiều cuốn tập khác nữa. Cũng vậy thôi.

– Thằng Xuân nói nghe có lý. Trả lại cho rồi. Xong nói cho tụi nó là các em còn nhỏ, nên cố gắng học hành, đừng nghĩ lung tung lang tang xao lãng việc học, phí công cha mẹ.

– Thằng nào giỏi thì giảng morale cho tụi nó. Còn tao thì hông được. Tao đã có một cuộc sống bồng bột ở cánh đồng Mỹ Nhiên rồi. Tao đâu có tư cách gì mà dạy dỗ đám học trò xấp xỉ tuổi mình.

Mầy nghĩ coi. Trong đời sống xã hội mình, trai gái vừa mới lớn lên đều phải tự tìm hiểu tình dục. Từ chuyện coi chó nhảy đực, heo bỏ nọc, vịt xiêm cồ quầng con mái cả buổi dưới nước… Rồi bọn mình tưởng tượng ra là mình cũng giống như vậy. Cha sanh mẹ đẻ đâu có ai dạy. Họ coi những điều đó như cái gì cấm kỵ, hông ai dám nói ra. Mẹ sanh con ra ở đâu? Ở bụng mẹ!

Mà có nói ra thì thường ví von. Mầy cũng thừa biết là bọn đàn ông gặp nhau bên bàn tiệc rượu thế nào cũng có những câu chuyện tiếu lâm. Họ nhắc đến cái đó nhiều nhứt. Rồi trong câu đố cũng đầy dẫy đó.T ụi bây xem câu đố nầy có phải cảnh làm tình giữa trai và gái có hơn trong: “Bảy đêm khoái lạc” hông?

Mình tròn vành vạnh, đít bảnh bao,

Mân mân mó mó đút ngay vào.

Thủy hỏa tương giao sôii sình sịch.

Âm dương nhị khí sướng làm sao!

(hút thuốc lào)

Đám giáo sư trẻ thắc mắc: liệu cái nhóm học trò gái có bị mấy thằng học trò trai quỷ sứ nầy dụ coi những cuốn tập đó hông? Ai mà biết được học trò thời bây giờ. Văn minh Âu-Tây như cơn gió lốc, đang tràn ngập thành phố Sài Gòn. Tuổi trẻ đang bắt đầu bị tiêm nhiễm lối sống thực dụng và hiện sinh… Quần cao bồi ống rộng, đầu tóc bồng bềnh, điếu thuốc ngậm phì phà là cái mốt. Tình yêu của những đợt sống mới nhen nhúm: nhóm CTYở Sài Gòn, tập thơ: Em Là Con Gái Trời Bắt Xấu của Lệ Khánh. Cuốn tiểu thuyết Bonjour Tristesse (Buồn ơi!Chào mi) của Francoise Sagan được dịch ra, bán tràn hè phố Lê Lợi.

Thời mới lớn lên của đám giáo sư trẻ nầy ở thành thị chỉ biết Oh, Bernadine…, La guerre et la Paix (ChiếnTranh và Hoà Bình), Giant (Vĩ Đại), Le riz amer (Hạt gạo cay đắng), Olé! O’ Cangaceiro… ở những rạp Lê Lợi và Vĩnh Lợi. Phim Pháp, chiếu ở màn ảnh nhỏ, toàn phim đen trắng chỉ có Trung Tâm Văn Hóa Pháp.Ở mấy quận hơi xa nội ô, chiếu toàn phim Ấn Độ và đôi khi phim Nhựt Bổn như Bạc Trắng Lửa Hồng…..

Chắc đám học trò gái nầy cũng tiêm nhiểm trào lưu mới nầy nên chúng bám riết các thầy giáo trẻ. KimHoàng đeo thầy Vương Mạnh Tuấn, Ngọc Cúc chận thầy Nguyễn Thiệu lại hỏi bài miết và Bình Quang thường mang trái cây cho thầy Xuân. Thầy Tuấn là thầy đẹp trai nhứt trong đám giáo sư dạy ở trường. Thầy là con lai mang hai dòng máu Ấn-Việt. Hai cặp chơn mày dài đậm. Mũi cao. Miệng rộng, lúc nào cũng chúm chím cười. Thầy luôn luôn sức dầu thơm loại gì mà tụi nầy luôn gọi là mùi cà ri. 

– Ê! Jumoir. Mầy có tính tới hông. Bọn tớ thấy Kim Hoàng câu mầy mấy tháng nay. Nhất định là nàng hông tha mầy đâu.

– Thằng Chúc nói đúng đó tụi bây. Còn Ngọc Cúc nữa chi. Tao nghĩ tụi bây nên làm đám cưới cho rồi. Đám học trò mà đồn rùm lên, tụi mình cũng khó dạy ở đây.

Rốt cục rồi cũng có hai cái đám cưới. Bình Quang càng đeo riết thầy Xuân. Chọn những ngày nào thầy Xuân ở lại và lợi dụng chỗ quen biết với Ngọc Cúc và Kim Hoàng, nàng thường xuyên đem tới đủ thứ trái cây và các loại bánh.

Chiều nay ông Giám Đốc Ysup mời các giáo sư ăn cà ri thỏ. Đã ăn một lần, Phùng Xuân hông thích mùi vị nồng nặc của cà ri Ấn nên ở nhà.

Cả tỉnh Tây Ninh hông có chỗ nào để đi chơi. Sau bốn giờ chiều, cảnh vật vắng lặng. Con sông chia hai thành phố. Một bên là khu hành chánh, có đường sá sạch sẽ, ngăn nắp. Còn một bên là khu buôn bán. Đoạn đường ngắn hông đầy năm trăm thước từ cầu Tây Ninh đến ngã tư đi Trảng Sụp-Thanh Điền-Tầm Long có nhiều tiệm ăn, quán sá và rạp chiếu bóng… Còn phía dưới là chợ búa, hàng tạp hóa… Nơi nầy rộn rịp vào buổi sáng, trưa vắng hoe và buổi chiều tối có bán chè, cháo, hủ tiếu và các món ăn vặt…

– Em đem cho thầy nhiều quá vậy?

– Đâu có gì thầy. Chỉ mấy thứ trong vườn của em thôi: đu đủ, chuối, mận, mãng cầu… Còn bánh thì em làm.

– Bây nhiêu đó thì thầy ăn cũng hông hết. Thầy chỉ ở đây có mấy ngày thôi.

– Thầy đâu có đi chợ mua được trái cây đâu. Thầy chỉ ăn cơm trong gà mên hông hà!

– Mà nè, Bình Quang. Thầy còn thấy trong giỏ đệm em đem ra có thêm một bộ pyjama và mấy cái quần cụt nữa. Bình Quang!

– Dạ!

– Em lập tức lấy bộ pyjama và mấy cái quần bỏ lại trong giỏ đệm. Nếu hông, thầy hổng lấy bất cứ cái gì hết. Mau lên!

Tiếng nói gay gắt của Xuân làm Bình Quang sợ sệt. Nàng vội vàng cầm mớ quần áo đút lại vào trong giỏ. Đôi mắt rơm rớm nước nhìn Xuân.

– Em mới học may. Nên tập may thử mấy cái đó cho thầy.

Xuân quay lại. Trong bóng tối lờ mờ của buổi chiều tàn, hai mắt Bình Quang ươn ướt như hai viên sỏi đen nằm trong lòng suối trong veo ở núi Điện Bà. Thầy ơi, em thương thầy lắm. Sao thầy lại hờ hững với em như thế. Biết bao là công lao khó nhọc, em phải thức đêm thức hôm lén mẹ may những áo quần nầy cho thầy. Thầy hãy nói cho em biết là thầy có thương em hôn? Em khổ nhiều rồi. Sao thầy nỡ khắt khe với em như thế? Hai con nhỏ quỉ kia cứ chế nhạo em hoài. Sao mầy cua thầy Xuân dở thế. Hông giống như tụi tao chút nào.

Hai người nhìn nhau. Xuân biết, bây giờ chỉ cần môt cử chỉ thân mật là mọi việc sẽ thay đổi tất cả. Ông thầy đâu hơn cô học trò  bao nhiêu tuổi. Chắc hai, ba tuổi là cùng. Như thế có được hôn? Đâu có ai cấm cản chàng làm điều đó? Nhưng đây hông phải là cánh đồng hoang Mỹ Nhiên. Ở đây, có nhiều người. Ở đây, Xuân là một con người khác-một thầy giáo, đạo mạo trong bộ quần áo tươm tất, đứng giữa một đám học trò ngây thơ, hiền lành, chất phác. Xuân sao dám lợi dụng lòng kính trọng của đám học trò mình thương yêu? Và hơn nữa sự tin yêu của Yvette?

– Thôi em đi về đi. Trời sắp tối rồi. Nhớ cẩn thận lúc đi qua cái trảng gần Bàu Sen trước khi quẹo vào nhà em. Đừng có khóc nữa. Hãy lau sạch nước mắt rồi hãy về. Nếu hông, ngày mai thầy gọi lên trả bài Pháp văn. Em hông thuộc, thầy cho em cặp mắt kiếng.

Bình Quang ngoan ngoãn lau khô nước mắt, rồi đi xuống nhà sau rửa mặt…

29/11/2017

Lê Phùng Xuân
Theo https://chusalan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...