Trong thơ họ, nó tạo ra rất nhiều những liên tưởng bất ngờ. Không phải ngẫu nhiên Bích Khê ví hương vị của trái măng cụt là “múi mát tợ thịt thơm”. Không bị hấp dẫn, Bích Khê cũng sẽ không có những câu thơ tuyệt vời thế này: “Có cặp lông mày phớt ráng đêm - Dậy như men rượu gợi mơ thèm - Có gì uyển chuyển trên da thịt - Nức một đường thơm một điệu êm” (Châu). Hay: “Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa - Thơm tho da thịt bắt say ngà” (Hiện hình). Bích Khê nhận ra rằng, “hương da thịt còn thơm hơn chất xạ”, nên khi cảm xúc dâng lên đến tột đỉnh, ông không kìm chế được và đã thốt lên đầy ngưỡng mộ: “Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần” (Mộng lạ). Chế Lan Viên, dù đã phiêu dạt đến một tinh cầu lạnh giá phía tận trời xa vẫn khôn nguôi tiếc nuối vì: “Chưa lõa lồ thịt còn nằm trong da! - Chưa trần truồng óc còn say trong ý! - Trăng chưa lấp đầy xương, chưa ngấm tủy: - Hồn vẫn còn chưa uống hết, hương hoa” (Tắm trăng - Chế Lan Viên). Hàn Mặc Tử bị hớp hồn bởi làn hương vướng sau xiêm áo: “Anh đi thơ thẩn như ngây dại - Hứng lấy hương nồng trong áo em” (Âm thầm - Hàn Mặc Tử). Con người đa tình đến phong tình ấy còn như mê đắm vì một bờ môi say đọng hương phấn trinh nguyên: “Say mơ vướng phải mùi hương ướp - Yêu các môi hường chẳng nói ra” (Âm thầm - Hàn Mặc Tử). Cô đơn, bệnh tật đi kèm với những ám ảnh về cái chết, nhưng hoàn cảnh ấy dường như chỉ càng làm giàu có hơn óc tưởng tượng cho trang thơ thi sĩ.
Mỗi biểu tượng hoa, nhạc, hương trong sáng tác của Trường thơ Loạn đều mang ý nghĩa biểu trưng phong phú. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của thuyết tương giao nên các thi sĩ thường xây dựng ba biểu tượng này trong mối quan hệ hô ứng, hòa trộn vào nhau: “Ta những muốn sầu thương thôi biểu lộ - Sắc trong màu, màu trong sắc; hân hoan... - Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ.- Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc; lan man... - Ta những muốn màn đen về cõi mộ - Cả không gian là bể sáng tràn lan... ” (Đồ mi hoa - Bích Khê). Để đến thiên đường tượng trưng nơi “Baudelaire! Người là vua thi sĩ!”. Bích Khê phải “Lạy tứ hướng và xin khắp thiên hạ” một cảm quan tương ứng, để thấy “Nắng có nhạc chớp đầy hơi hương lạ - Nấc âm thanh chết liệm giữa triền miên - Gió mang thư cho mang đến cung thiềm - Thổi chứ gấm bằng khí điên cuồng vọng” (Ăn mày - Bích Khê). Vẻ đẹp trong thơ Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử cũng sẽ giảm đi rất nhiều quyến rũ nếu không có sự quyện hòa của “nhạc thơm, hương gấm” (Tựa tập Xuân như ý)... Sự hòa quyện, xuyên thấm vào nhau của hoa, nhạc, hương trong thơ Loạn vốn không lạ so với các nhà thơ cổ điển phương Đông, nhất là thơ Đường. Khi mỹ cảm ấy gặp gỡ các nhà thơ tượng trưng phương Tây, đã làm nên một sắc thái mới trong sáng tác của các thi sĩ thơ Loạn. Thi nhân ướp hương cho hoa, nâng tất cả trên đôi cánh nhạc, siêu vượt trên những giới hạn trần tục. Những nhà thơ tượng trưng cho đây là sự tương ứng cảm giác rất chân thật. Nói như Valéry: “Ở người thi sĩ, tai nói - miệng nghe; chính là trí tuệ và sự tỉnh táo sản sinh và mơ mộng; chính là giấc ngủ nhìn thấy rõ; chính là hình ảnh và ảo ảnh nhìn ngó; chính là sự khiếm khuyết và sự trống rỗng sáng tạo”. Nếu như qua âm nhạc Wagner, Baudelaire nhận ra “muôn vật đều tương tự lẫn nhau”, thì Trường thơ Loạn đã nhận thức cho ta “thế giới là một tổng thể phức tạp không thể chia cắt”, chỉ có sự hòa điệu ở chiều sâu mà không có sự tách lìa…
Biểu tượng hoa, nhạc, hương cũng phần nào cho thấy các thi sĩ thơ Loạn dù điên cuồng đến đâu vẫn không thôi khát vọng niềm yêu sống. Thậm chí, càng bị đẩy vào bờ vực cái chết thì khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt.
Tiểu kết
Sự tương đồng với mỹ học thơ
tượng trưng cộng với tâm thế, động thái và hoàn cảnh riêng đã quy định kiểu tư
duy kỳ lạ trong việc xây dựng hệ thống hình tượng và biểu tượng của Trường thơ
Loạn. Các nhà thơ đã đem đến thi giới cái tôi khát khao tìm hiểu, khám phá và
phát hiện ở chiều sâu. Từ giới hạn của ước mơ và hiện thực, Trường thơ Loạn đã
gắn kết thi nhân và tín đồ, trần thế với siêu nhiên để làm nên sự tích hợp và đối
cực của một trường mê cảm. Cái tôi trữ tình ấy gắn bó hữu cơ với hình tượng
không gian và thời gian tương ứng. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
trong thơ Loạn được kiến tạo độc đáo, có nhiều kiểu, nhiều miền, thể hiện sự
phân thân chia cắt trạng thái tinh thần đặc biệt của thi nhân. Cùng với thế giới
hình tượng, Trường thơ Loạn còn sử dụng biểu tượng như ẩn dụ của ý tưởng, tạo
nên một ám ảnh day dứt, khôn nguôi. Đó chính là tình yêu và cuộc sống được các
nhà thơ khúc xạ và biến ảo trong thi ca, thoát khỏi sự cạn hẹp của lý trí, đạt
đến đỉnh điểm của mĩ học nhờ thăng hoa trong cảm nhận vũ trụ và con người.
CHƯƠNG 4
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG SÁNG TÁC CỦA TRƯỜNG THƠ LOẠN - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC
THỂ HIỆN
4.1. Ngôn từ nghệ thuật
4.1.1. Sự lạ hóa về ngôn từ
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, là chất liệu duy nhất của văn học.
Nó không chỉ là vật liệu, là cái cấu tạo, mà còn là hình tượng. Maiakovsky và
Kvaranalx cho rằng: “ngôn ngữ là tướng của đạo quân sức mạnh của con người”, “từ
ngữ là hiệp sĩ của đạo quân không thể thay thế được”.
Ngôn ngữ trong tác phẩm trữ tình nói chung và thơ nói riêng “là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm” [37,215]. Theo Martin Heidegger, “Tác phẩm thơ không phải là một cái gì khác ngoài sự tạo ra một ngôn ngữ mới” [10, 233]. Chúng ta có thể coi thơ như sự kết tinh trong cách biểu đạt tư tưởng bằng ngôn từ. Những cảm xúc, tâm tình, thế giới tâm hồn nhà thơ đều thể hiện thông qua ngôn từ. “Mỗi nhà thơ khi lựa chọn ngôn ngữ thể hiện cho tư tưởng, tình cảm, ấn tượng, cảm xúc đều in rõ dấu ấn phong cách lên khoảng ngôn ngữ mà anh ta lựa chọn” (Khrapchenco). Nói như Lê Đạt: “Mỗi công dân có một dạng vân tay - Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ - Trộn không lẫn”. Có thể nói, sự lựa chọn ngôn ngữ của thi sĩ được định hướng bởi tư tưởng, quan niệm, tư duy nghệ thuật, phong cách, cá tính riêng. Đặc biệt, trong Thơ mới, ngôn ngữ được thể hiện lạ lẫm và đầy ấn tượng. “Thơ mới là sự sáng tạo ngôn từ về nhiều mặt; nó mở rộng câu thơ, bài thơ; nó đi vào chiều sâu của thơ bằng cấu trúc mới, cú pháp mới, từ ngữ mới, nhịp điệu mới” (Đỗ Đức Hiểu). Chính sự tác động mạnh mẽ của thơ lãng mạn, tượng trưng và siêu thực Pháp đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình “Tây hóa” trong phong trào Thơ mới. Sự đổi mới ngôn từ này không đơn thuần là sự đổi mới về hình thức mà nó xuất phát từ những biến đổi trong cách nhìn nhận, nhận thức cuộc sống của các nhà thơ. Trong sự đa dạng và cách tân của Thơ mới, ngôn ngữ nghệ thuật của Trường thơ Loạn có sự lạ hóa và khu biệt nhất định.
Ngôn ngữ thơ Loạn đã duy tân một cách mới mẻ, đa dạng, biến hóa pha chút thần linh, man dại, là thần, là mộng, là thiên tài… Ở đó, tín hiệu ngôn ngữ có tính biểu đạt cao, gây cảm giác mạnh, khiến người đọc rơi vào một thế giới mặc khải với những liên kết kỳ lạ, đột ngột. Đọc thi phẩm thơ Loạn, người ta có thể nhận thấy sự khắc khoải, điên loạn trong lòng thi nhân, tìm được những hình ảnh ma quái mà thơ Việt trước đây chưa từng có: não trắng, máu cân, sọ người, xương khô, thịt nát, uống máu lan, nhai thịt sống… Những câu thơ kinh dị nhất của Thơ mới thuộc về các tác giả thơ Loạn.
Ngôn ngữ trong thơ Loạn là “cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản” (Phan Ngọc), là “Lời truyền đánh điện muôn nơi - Chữ bí mật chứa ngầm hơi chất nổ” (Nàng bước tới... - Bích Khê). Để thực hiện “trò chơi ngôn ngữ”, Trường thơ Loạn phải dùng tưởng tượng của tưởng tượng làm nảy sinh những gì đặc biệt về hình ảnh và ý thơ: “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng - Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi - Ở trên kia có một người - Ngồi bên sông giặt lụa chơi - Nước hóa thành trăng, trăng hóa nước - Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm” (Say trăng - Hàn Mặc Tử). Bích Khê hướng người đọc đến một sự cảm nhận mới mẻ bằng thứ ngôn ngữ đầy ám gợi: “Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây - Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm” (Tranh lõa thể - Bích Khê). Và đây là những câu thơ làm quay cuồng, điên đảo cả cô hồn, tử khí, xương khô bằng sự lệch chuẩn và phá vỡ cái logic ngôn ngữ thông thường của Chế Lan Viên: “Ta muốn thấy mi kêu gào, mi than thở - Ta muốn nghe mi khóc lóc, mi vang lơn! - Ta muốn trông, từ mắt mi, máu đỏ - Từ đầu mi, não trắng, rủ nhau tuôn!” (Xương khô - Chế Lan Viên). Sự tàn vong đến rợn lạnh, tang thương này cũng xuất hiện nhiều trong thơ Hoàng Diệp: “Những thi thể rớt rơi trên mộ lá - Những linh hồn rét mướt đẫm mình sương” (Dấu quê hương - Hoàng Diệp). Các thi nhân tạo ra hệ thống ngôn ngữ vừa độc đáo vừa dị thường, dung chứa sự mơ hồ và quyến rũ, làm ảo hóa cấu trúc bề mặt và bề sâu, đem đến cho ngôn ngữ thơ một sức nặng mới.
Trong Nghệ thuật thi ca, Verlaine khẳng định: “Không gì hơn khúc ca màu xám - Nơi cái mơ hồ cùng cái chính xác - Chung sức liên kết - Ôi sai biệt vi diệu, chỉ mình nó se duyên - Mộng với mơ và sáo với kèn” (Nghệ thuật thi ca - Verlaine). Để đưa người đọc đi vào khu rừng kỳ lạ của trí tưởng tượng bay bổng, các thi sĩ thơ Loạn thường dùng hệ thống biểu tượng như: hồn, máu, trăng, ngọc, châu, giai nhân… làm hằng số nghệ thuật đặc trưng, đặt chúng trong sự biến hóa khôn lường, nhưng luôn cùng một tâm thức, một đồng hình và phục sinh cho chúng, để tạo sinh nghĩa: “Hồn là ai? Là ai tôi chẳng biết - Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi - Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười - Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng (Hồn là ai? - Hàn Mặc Tử). Hoặc nhà thơ tạo sự lung linh kỳ lạ bằng cách nhấn mạnh những hình ảnh thị giác, thính giác và xúc giác, kết hợp với ý nghĩa ám thị: “Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa - Tôi tưởng chừng da thịt biến ra thơm - Những đầu lâu đã hết khí xanh rờn - Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng - Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng - Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương” (Châu III - Bích Khê). Thi sĩ thơ Loạn dường như không phải người sáng tạo thi ca nữa, mà là người để thể xác của mình giao hòa với cõi hư ảnh, và ghi lại những cảm xúc day dứt về nỗi đau khôn nguôi. Ngay cả điều tưởng như bình thường nhất cũng được Quỳnh Dao viết lên bằng ngôn từ lạ lẫm: “Ngày mai dậy, hàng nghìn tia nắng dịu - Lướt ngang đồi để liếm những hơi sương” (Muôn năm về trước - Quỳnh Dao). Thơ Yến Lan trước cách mạng dù hiền hòa, nhè nhẹ, nhưng ngôn từ vẫn điêu luyện và tài hoa: “Sầu tam giác buồn cô về lặng nghỉ - Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi” (Xa xanh - Yến Lan); hay “Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm - Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang” (Thanh Hóa 1942 - Yến Lan). “Sầu tam giác”, “thơ đá chạm”... là những khóm chữ tân kỳ giàu hình tượng, được chạm khắc từ sự am hiểu thơ Đường và thơ Pháp cộng với chất thơ cổ điển của dân tộc hàng bao thế kỷ.
Đề cao trí tưởng tượng nhằm tạo ra những vần thơ lung linh, kỳ ảo, nên đối với các thi sĩ thơ Loạn, thơ nhiều khi như là một sự thách đố. Đây cũng là một trong những đặc tính của thơ tượng trưng. Baudelaire cho rằng: “Trí tưởng tượng là bà chúa của các năng khiếu. Nó là sự phân tích, là sự tổng hợp… Chính trí tưởng tượng đã dạy cho con người cái ý nghĩa tinh thần màu sắc, đường nét của âm thanh và của mùi hương. Từ khởi thủy nó đã tạo ra phép loại suy (analogie), phép ẩn dụ…” [60,46]. Chủ nghĩa tượng trưng thiên về lối thơ bí ẩn, gợi hơn tả, xem trọng trực giác và vô thức trong sáng tạo. Mallarmé từng nhận định rất sâu sắc: “Gọi tên đối tượng có nghĩa là phá hủy ba phần tư sự hưởng thụ bài thơ… Khiêu gợi, đó là ước mơ và mục đích” [28,83]. Thơ vì vậy, nhiều trường nghĩa, giàu liên tưởng, “ngôn tận ý nhi bất tận”. Liên tưởng vẫn được sử dụng trong văn học xưa nay, và phổ biến trong Thơ mới. Đến thơ Loạn, nó trở nên linh hoạt, lạ lẫm, bất ngờ hơn. Thi nhân luôn mở rộng giác quan để hứng lấy vạn vật và trao cho nó một hình hài cụ thể để thế giới tinh thần và vạn vật trở nên có tâm trạng. Chẳng hạn, các nhà thơ đã miêu tả thiên nhiên bằng những hình dung từ mới mẻ: “gió say mướt”, “ôm ngang lấy gió”, “gió trêu tà áo biếc” (Hàn Mặc Tử). Chế Lan Viên biến dải ngân hà thành sông, ở đó mỗi vì sao như con cá thủy tinh trong suốt: “Ta để xiêm lên mây, rồi nhẹ bước - Xuống dòng Ngân lòa chói ánh hào quang - Sao tán loạn đua bơi trên mặt nước - Tiếng lao xao dội thấu đến cung Hằng” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên). Bích Khê khi diễn tả cái bí ẩn, vô hình, thường sử dụng ngôn ngữ chỉ màu sắc, gợi hình ảnh thị giác như: “mộng trắng phau” (Mộng trắng phau phau, vót cung nga), mộng xanh (Mộng rất xanh, rất xanh, rất xanh)… Nhà thơ có khả năng cảm nhận được những biến đổi tinh vi của những cái tưởng như mơ hồ, khó nắm bắt. Đó có thể là tiếng “hương vỡ”: “Phăng mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh” (Mộng cầm ca), “mắt vỡ”: “hồn ơi! Cặp mắt vỡ men hoa” (Châu I), hay một “mộng nghiêng”: “Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng mộng” (Hồ Xuân Hương), một làn nắng thơm: “Ôi nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc” (Nhạc), một bóng “đêm mềm”: “Nàng ơi tay đêm đang giăng mềm” (Tỳ bà).
Thế giới trong thơ Loạn không phải là thế giới được nhìn thấy mà là thế giới được nhận ra với những điều sâu thẳm và bí ẩn. Không còn sử dụng phương thức kể, thi nhân đã khải thị một thế giới chưa từng biết, đầy huyền diệu và linh động thông qua quyền năng ngôn ngữ. Diễn đạt thế giới thi ca ấy là bất khả đối với ngôn từ của trí năng và là cơ hội cho ngôn từ của sự liên tưởng đầy trực giác và thần cảm: “Có người buồn quá không sao khóc - Làm mùi thanh khí quyện tiên nương - Có người buồn quá không sao khóc - Cười thơm như ngọc dội hương vang - Đây chàng lãng tử buồn rơi lệ - Miệng cứng hào quang chảy tợ vàng” (Sầu lãng tử - Bích Khê). Hàn Mặc Tử ngửi thấy mùi hương trăng tỏa khắp không gian: “Anh đã đón tình em bay phất phới - Như hương trăng đằm thắm cõi không gian” (Sáng láng - Hàn Mặc Tử). Đâu đây, người đọc liên tưởng đến hình ảnh người con gái dịu dàng, nết na nép bên bậu cửa dưới ánh trăng huyền hoặc. Nhìn trăng bằng sự phân thân giữa bến bờ hư - thực, Hàn còn thấy được cái hư ảo, cầm được cái vô lượng và nghe được sự yên lặng vô hình của sắc - không, chung - thủy. Chế Lan Viên nhìn thấy sự tương giao huyền bí trong vũ trụ và lòng người, tuân theo quy luật cảm nhận bằng trực giác và vô thức: “Hãy lắng nghe nhạc tơ mềm dãy dụa - Trong nhạc trăng vang nỗi khắp cung mây” (Vo lụa - Chế Lan Viên)…
Sự phong phú, đa dạng của đơn vị hình ảnh và ngôn từ trong sáng tác Trường thơ Loạn có điểm xuất phát từ ảnh hưởng của thơ tượng trưng, nhất là Baudelaire và Rimbaud. “Cảm quan tương ứng” của Baudelaire muốn dẫn ta đến chỗ thẳm sâu của tâm hồn, nơi hội tụ của cảm giác, trong cái mơ hồ của tiếng nhạc lòng, được tạo nên từ màu sắc, âm thanh, bóng tối và ánh sáng. Đến Rimbaud, nâng lên thành loạn cảm giác, thành ảo giác ngôn từ, ảo giác hình tượng và ảo giác tâm linh: “Tôi tự hào đã sáng tạo một ngôn từ thơ, có thể xâm nhập tất cả các cảm giác” (Rimbaud). Lối diễn đạt đầy sáng tạo ấy, các thi sĩ thơ Loạn ập vào người đọc cảm giác ngỡ ngàng, thú vị. Những liên tưởng đầy ngạc nhiên và táo bạo trong thơ họ tựa như Baudelaire đã nói: “Trong một số trạng thái tâm hồn hầu như có tính chất siêu nhiên, chiều sâu của cuộc sống bộc lộ hầu như toàn vẹn trong một cảnh tượng bày ra trước mắt con người” [29,155]. Sáng tạo ngôn từ trong những trường hợp này không phải là tạo ra từ mới, mà cơ bản là làm mới ngôn từ, nhằm đưa lại cho từ một khả năng đặc biệt, qua đó góp phần làm hé lộ thế giới tinh thần bên trong của bản thân sự vật. Chừng như, Trường thơ Loạn đang lấn sân vào nghệ thuật sắp đặt bằng ngôn từ. Nên dù thi nhân có đặt những hiện tượng, tính chất của sự vật, sự việc không hề dính dáng, tương tác nhau nhưng vẫn tạo ra một hiệu ứng thẩm mĩ thông qua mắt xích liên tưởng. Ví như những câu thơ sau của Bích Khê, ta thấy như không có sự sắp đặt của ý nghĩ và câu chữ, thơ là tự nó bật lên từ tâm thức: “Xác là mộng mà tình là tuyệt đích! - Hỡi không gian! Hãy tan ra tiếng địch - Của lòng yêu ca ngợi tuyệt vời cao - Hỡi trần gian! Hãy chết ngột trong sao - Cho chân lý ngời ra như lưỡi kiếm - Cho tình ta xô dồn sang cực điểm - Và hào quang khiêu vũ với hào quang…” (Nàng bước tới… - Bích Khê). Ý tứ giữa các câu thơ có cảm giác chẳng ăn nhập gì với nhau, mỗi câu là một bày tỏ, một khát mong của thi nhân. Song, sự kết hợp tự nhiên của chúng lại tạo nên tiếng nói chung của một tư duy nghệ thuật hiện đại, tung hứng tới tận cùng những khám phá biểu đạt ngôn từ. Nó mở ra bất ngờ và kết thúc cũng thật bất ngờ, khiến người đọc khó đoán định được ý tưởng của người viết.
Thiên về lối diễn đạt những tương quan vô hình, bên trong, mang tính tinh thần của bản thân sự vật, gắn với cảm quan về một thế giới thống nhất, Trường thơ Loạn cho thấy đã tiếp thu nhanh chóng tư duy tượng trưng phương Tây từ các bậc tiền bối như Baudelaire, Rimbaud, Verlaine…, khai phá địa hạt thần kỳ cho thơ, góp phần chinh phục người đọc bao thế hệ.
Bằng cô đơn và nỗi đau thân xác, bằng trí tưởng tượng phong phú, bằng ngòi bút kỳ tài, các thi sĩ đã làm sống dậy trong thơ một thế giới huyền diệu, khéo léo kết hợp giữa ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ tâm linh và ngôn ngữ thi ca để tạo ra lớp ngôn từ mới lạ. Diện mạo ngôn ngữ thơ Loạn này là kết quả của quá trình nhận thức lý thuyết thi pháp học phương Tây, từ trải nghiệm cá nhân trong sáng tạo, cũng như những bất hạnh riêng về thân phận của các nhà thơ. Nó là sản phẩm của một sự khủng hoảng, một khát khao và một nỗ lực duy tân thơ.
Thơ Loạn là trạng thái chót cùng của cái tôi cá nhân đau
thương, tuyệt vọng, là một thứ thơ siêu nghiệm. Và trong thi phẩm thơ siêu nghiệm
ấy, có những mảng thơ Loạn đi đến độ quá ngưỡng về ngôn từ, gây nên sự khó chịu
đối với không ít người. Nhưng phải thừa nhận, sự táo bạo ngôn từ thơ Loạn đã
đưa thơ Việt đương thời phát triển lên một trình độ mới. Chính sự bất thường
trong tổ chức ngôn ngữ thơ đã đặt giới nghiên cứu văn học lâu nay hướng sự chú
ý vào việc giải mã những lệch chuẩn mang giá trị mỹ học của địa hạt thơ độc đáo
này. Và đến tận hôm nay, mỗi dòng mỗi chữ trong sáng tác của các thi sĩ ấy dường
như vẫn còn cựa quậy với một sức sống mãnh liệt và không bao giờ cũ.
4.1.2. Các thủ pháp tạo nghĩa
Thế giới thơ Loạn tràn đầy những hình ảnh thực và ảo, tràn đầy suy tưởng, đủ
màu sắc, tạo nên trong thơ nhiều phức cảm, phức điệu kỳ diệu. Những vần thơ này
đã gây chấn động mạnh mẽ về giá trị đạo đức, thẩm mỹ - xã hội trong lòng độc giả.
Sáng tạo những vần thơ như vậy, các thi nhân thơ Loạn vận dụng nhiều phương thức
tư duy nghệ thuật: tưởng tượng, suy tưởng, ấn tượng, trực giác…, và xử lý đề
tài bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là các biện pháp: so sánh, ẩn dụ,
nhân hóa. “Biện pháp nghệ thuật với tư cách là một nguyên tắc cấu trúc trong việc
tổ chức phát ngôn nghệ thuật, đã giúp độc giả thấy: độ sâu triết học và cảm xúc
thẩm mĩ” [46,42].
Phổ biến nhất trong thơ Loạn là thủ pháp so sánh. Đây là biện pháp tu từ tốt nhất để biểu hiện ý đồ nghệ thuật một cách rõ ràng trong việc xây dựng hình ảnh đa chiều, tạo một trường liên tưởng rộng, sâu. Những so sánh trong thơ Loạn có tính chất khác thường, tuy câu chữ đan kết nhưng tương ứng, không còn hiểu đơn giản là giống nhau mà phải hiểu là sự xích lại gần nhau, hòa lẫn vào nhau của những cái vốn rất khác xa nhau, và chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác, biểu đạt cho thế giới tâm linh, mầu nhiệm: “Đây cặp mắt hiền chan chứa mộng - Đây làn da mát dịu như trăng” (Gái thời loạn - Quỳnh Dao); “Quả tim ta là một khối U buồn - Mạch máu ta là một khối Đau thương - Mà quả đất là khối sầu vô hạn” (Đừng quên lãng - Chế Lan Viên), “Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc - Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương” (Nàng bước tới - Bích Khê); “A ha! Ta vốn người trong mộng - Hư thực như là một ý thơ” (Người ngọc - Hàn Mặc Tử). So sánh trong thơ Loạn gợi trường liên tưởng rộng, thể hiện tính chủ quan cao độ, dẫn nhập vào chốn thâm cung của tâm linh. Cấu trúc ngữ nghĩa của biện pháp tu từ so sánh này phá vỡ cách thức truyền thống, gợi nên một quan hệ mới, huyền bí, lay động cảm giác, cảm xúc lý tính và phi lý tính ở người thưởng thức. Ngôn ngữ có sự chuyển đổi từ phương tiện biểu hiện nghĩa đã trở thành cứu cánh của nhà thơ, có giá trị tự thân. Bằng trí tưởng tượng phi thường, thi nhân để cho ngôn từ lên tiếng: “Lầu ai ánh gì như lưu ly? - Nụ cười ai trắng như hoa lê? - Thủy tinh ai để lòng gương hồ - Không gian xà cừ hay san hô?” (Nghê Thường - Bích Khê); “Hãy nâng lên và nâng lên chút nữa - Sáng thơm tho như khúc nhạc hừng đông” (Vầng trăng - Hàn Mặc Tử). Trường thơ Loạn đã đưa thủ pháp nghệ thuật so sánh vào thơ với tần số khá cao. Các kiểu cấu trúc so sánh thường gặp trong thơ Loạn: A như B “Hãy cho ta lúc vui trên tay khác - Một chút tương an ủi tấm lòng đau - Như hồn ma trong khi về mồ khác - Còn đôi hồi dừng cánh viếng mồ sâu” (Mồ không - Chế Lan Viên); A là B: “Nàng! Nàng! Nàng! Không có nữa châu than - Xác là mộng mà hồn là tuyệt đích” (Nàng bước tới - Bích Khê), A hơn B: “Đức tin thơm hơn ngọc - Thơ bay rồi thơ bay” (Điềm lạ - Hàn Mặc Tử)… Có khi trong một đoạn thơ, thi nhân sử dụng cùng lúc nhiều từ ngữ so sánh: “Ôi cặp mắt của người trong tựa ngọc - Sáng như gương và chấp chóa kim cương - Mỗi cái ngó là một vì sao mộc - Mỗi lời yêu là phảng phất mùi hương (Cặp mắt - Bích Khê). Vế được so sánh đôi lúc được nhà thơ đảo ngược để cú pháp so sánh trở thành: “Trăng dẫu sáng còn thua đôi mắt ngọc - Trời tuy xa lòng thiếu nữ xa hơn - Ái ân là hơi thở của van lơn - Và thú thật cũng không thích bằng khóc” (Dấu tích - Hàn Mặc Tử). Sự biến hóa trong cùng một biện pháp so sánh cũng là điểm mạnh, tạo cho nội dung, ý tưởng của Trường thơ Loạn đa dạng và đạt hiệu quả cao. Nói như A. France: “Hình tượng là gì? Chính là sự so sánh”. Đinh Trọng Lạc cho rằng: “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ của sự liên hội và so sánh nghệ thuật, là đôi cánh giúp ta bay vào thế giới của cái đẹp, của tưởng tượng hơn là đến với ngưỡng cửa của logic học” [44,193]. Một so sánh đẹp là so sánh phát hiện. Trong thơ Loạn, đối tượng được đem ra so sánh và dùng để so sánh thường rất hư ảo. Điều đó khiến câu thơ vốn mơ hồ càng mơ hồ, tác động vào giác quan người đọc, tạo cõi thơ huyền bí. Kiểu so sánh này đã phá vỡ lối so sánh của thơ truyền thống, tạo nên sự biến hóa trong ngôn ngữ thơ; câu thơ vì thế linh động, hòa nhịp cùng cảm giác, trở nên ma thuật, huyền ảo. Không thể phủ nhận, lối so sánh vốn phổ biến trong thi ca dân gian và bác học nước ta từ bao đời. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, cũng có thể thấy, thủ pháp so sánh này của Trường thơ Loạn chịu ảnh hưởng không nhỏ thơ tượng trưng phương Tây. So sánh là phương thức tư duy chủ yếu của thơ tượng trưng. Thơ Baudelaire được xem là “cỗ máy so sánh thực sự”. Đã có nhà nghiên cứu thống kê, thi sĩ dùng đến 349 lần từ comme (như) và vài chục lần những từ so sánh khác trong tập Những bông hoa ác. Khảo sát thi phẩm của các nhà thơ Loạn, chúng tôi nhận thấy, so sánh được Hàn Mặc Tử sử dụng 6 lần trong Gái quê, 43 lần/ 42 bài trong Đau thương; Bích Khê có 40 lần/ 34 bài trong Tinh huyết, 18 lần/ 42 bài trong Tinh hoa; Chế Lan Viên có 18 lần/36 bài trong Điêu tàn. Dường như, ở những tập thơ thể hiện đậm thi pháp tượng trưng lại là những tập thơ được dùng nhiều biện pháp so sánh.
Nghệ thuật ẩn dụ cũng được các thi sĩ thơ Loạn sử dụng tương đối nhiều. Ẩn dụ là một trong những hiện tượng chuyển nghĩa được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ văn chương. “Khi nhà thơ nhận được một ấn tượng sâu sắc thì sự nhận biết đơn thuần các sự kiện tinh nguyên đó chưa đủ. Anh ta không bằng lòng mô tả đối tượng một cách khoa học cho nó một đường viền chính xác, nhưng anh ta cần tới sự ẩn dụ. Anh ta tóm lấy sự vật và chiếu rọi nó trong một thế giới khác với thế giới anh ta đang sống. Anh ta thay cho đối tượng - nguyên nhân sự cảm xúc của anh ta bằng một vật khác tốt đẹp hơn, có khả năng làm cho chúng ta lóa mắt” [58,409]. Nghệ thuật ẩn dụ giúp thần kỳ hóa ngọn bút, gọi dậy cái vô thanh vô hình trong con chữ hữu hình, chứa đựng thế giới thơ mênh mang nghĩa và giàu gợi cảm, vượt thoát khỏi sự tầm thường và trở nên mới lạ. Các nhà thơ Loạn luôn đề cao sức ám gợi theo tinh thần thơ Đường và thơ tượng trưng. Trong thơ, các thi sĩ luôn cố gắng đưa ra hệ thống ngôn ngữ kỳ lạ, để tạo ra những ngầm ý. Giống các nhà thơ tượng trưng phương Tây, các thi sĩ thơ Loạn thường hay dùng hình ảnh để mã hóa những điều thầm kín trong lòng mình. Phong phú và sinh động nhất trong thơ Loạn là những ẩn dụ thể hiện liên tưởng của thi nhân trong việc tạo hình ảnh, hình tượng và biểu tượng, nhất là các biểu tượng trăng, hồn, máu…, vì đã phát huy tối đa tính tượng trưng của nó trong việc biểu đạt. Sử dụng phương thức ẩn dụ, Trường thơ Loạn luôn đặt ngôn từ, hình ảnh, hình tượng trong thế cai trị.
Chế Lan Viên mơ về “một tinh cầu giá lạnh”, “một vì sao trơ trọi” để ẩn dụ về một hành tinh khác không còn “ưu phiền đau khổ với buồn lo” (Những sợi tơ lòng - Chế Lan Viên). Hết mơ về cõi mộng, nhà thơ lại lạc đến cõi ma với những âm hồn. Trong hành trình đi vào âm giới, ta bắt gặp ở thơ Chế Lan Viên rất nhiều những điều kỳ dị: máu huyết, xương khô, thép lạnh, sọ người… Với Chế, tình yêu và cõi chết vẫn có thể hòa quyện với nhau. Bình Định với vòm trời xanh thẳm trên những tháp Chàm cô đơn đã dựng lại cõi hư vô ớn lạnh không ngừng ám ảnh Chế: “Trên trời lạnh tháp Chàm sao ủ rũ - Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi? - Hay lãnh đạm, Hời không về tháp cũ - Hay xuân sang, Chiêm nữ vẫn vui cười” (Đêm xuân sầu - Chế Lan Viên). “Bãi tha ma” trong thơ Chế là ẩn dụ tập trung nhất của thế giới “điêu tàn”, là hình tượng tổng hợp của chết chóc, đổ vỡ và tang thương. Hóa ra, cái thế giới địa ngục ghê sợ ấy lại là nơi đồng cảm với thi sĩ, nơi thi nhân cho là tốt hơn cõi hận - trần gian: “Hồn ma ơi! Hồn ma ơi! Có nhớ - Nơi mi hằng chôn gửi hận trần gian - Nơi đã khô của bao mi máu đỏ - Bao tủy nồng não trắng với xương tàn” (Mồ không - Chế Lan Viên). Tháp Chàm, ma Hời, Chiêm nữ là ẩn dụ biểu trưng của Chế Lan Viên, là ám ảnh khắc khoải của hồn thơ u uất: “Trên đồi lạnh tháp Chàm sao ủ rủ - Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi? - Hay lãnh đạm Hời không về tháp cũ - Hay xuân sang Chiêm nữ chẳng vui cười” (Đêm xuân sầu - Chế Lan Viên). Từ sâu thẳm cõi lòng, chưa một phút nào Chế lãng quên quá khứ. Chiêm nữ là sự hóa thân tâm hồn thi nhân. Đôi mắt u buồn của nàng cũng chính là ánh nhìn buồn thảm của thi nhân đang vọng về xa vắng. Đằng sau những Tháp Chàm, ma Hời, cung nữ là ẩn dụ về sự xót xa, cô độc đến không thôi ám ảnh…
Tinh hoa và Tinh huyết của Bích Khê là sự hiện thực hóa khả năng tạo sinh nghĩa của ngôn ngữ. Ở đó, thi nhân sử dụng nghệ thuật ẩn dụ một cách tài tình, không giống các nhà thơ khác. Những hình ảnh thơ như: “Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc” (Tranh lõa thể), hay: “Hỡi đôi mắt, châu báu của muôn đời” (Đôi mắt)…, ta thấy, Bích Khê biến tất cả những gì thuộc thể lỏng thành vật rắn. Nước mắt được ví như ngọc, dòng châu, pha lê; ngược lại lỏng hóa tất cả những gì vốn ở dạng rắn. Sử dụng thủ pháp nghệ thuật này, Bích Khê chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng khá rõ. Điều đó hình thành những liên tưởng tương ứng giữa các giác quan, biểu đạt bằng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Cảm giác được nối kết, chuyển hóa lẫn nhau tạo nên mạch liên tưởng vô cùng sinh động, làm nổi bật cảm nhận của thi nhân về đối tượng.
Ở thơ Hàn Mặc Tử, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác này cũng xuất hiện nhiều, có điều nó được biểu đạt ở sự bổ sung, hòa lẫn: “Ngoài không gian rất mát - Chim thanh tước ra đời - Nêu cao hơn tiếng nhạc - Mùa hát sẽ xanh tươi” (Điềm lạ - Hàn Mặc Tử). Sự quấn quýt của xúc giác, thính giác và thị giác báo hiệu sự xuất hiện của thế giới mới thanh sạch và hoan ca rộn rã… Không chỉ ẩn dụ ở cấp độ từ ngữ, thơ Hàn còn là ẩn dụ cấu tạo cú pháp. Dường như bản thân mỗi từ ngữ không thôi chưa thể bộc lộ hết ý nghĩa tiềm ẩn mà tác giả hướng đến, nên phải tìm nghĩa ẩn dụ ở câu thơ, khổ thơ: “Gió theo lối gió mây đường mây - Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay - Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay?” (Đây thôn Vỹ Dạ - Hàn Mặc Tử). Các hình ảnh trong thơ như chẳng ăn nhập gì với nhau. Nó tan tác, dở dang, và chia lìa. Gió đường gió, mây đường mây, nước lặng lẽ theo dòng khẽ chạm hoa bắp, một con thuyền và một vầng trăng đổ ánh vàng lai láng cả dòng sông. Cảnh buồn hay tâm trạng nhà thơ nhiều xáo động. Mỗi câu thơ với một hình ảnh rời rạc ấy liên kết lại với nhau là ẩn dụ về tâm trạng cô đơn đến cô độc của tâm hồn thi sĩ. Những ẩn dụ này đã tạo nên trường hô ứng trong thơ. Người đọc cảm nhận sau những ngôn từ một vẻ đẹp tâm hồn. Tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật ẩn dụ đã mang đến cho thi phẩm của Trường thơ Loạn giá trị văn chương và thẩm mĩ rất cao.
Trong sáng tác của Trường thơ Loạn,
áp lực hòa đồng tâm trạng thi nhân vào tâm trạng đối tượng được biểu hiện là rất
lớn, vì thế các thi nhân còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa như một phương thức
hữu dụng đồng nhất sự vật với tính cách con người. Từ góc độ lý luận, “nhân hóa
là một biến thể của ẩn dụ, trong đó, người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc
tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu không phải của
con người” [43,63]. Phóng chiếu hình ảnh của mình để cảm nhận thế giới khách
quan, nhưng thực chất là để các thi sĩ tự bộc lộ cái tôi của mình. Dưới nhãn
quan của cái tôi muôn trùng đa cảm, các thi sĩ thơ Loạn nhìn đâu cũng thấy yêu
đương. Với ngòi bút tài tình, từ một loài hoa (Đồ mi hoa), một loại trái cây
(Quả măng cụt) đến một địa danh thắng cảnh (Ngũ hành sơn)…, đều được Bích Khê
nhân hóa bằng cái nhìn nhục cảm. Trong tư duy sáng tạo của thi nhân, đồ mi hoa
là biểu tượng của người đẹp và của thơ: “Đài nộn nhụy hóa nguồn trinh tinh khiết
- Ướp một làn hương rượu quyện lâng lâng - Tràng cánh trắng biến ra da thịt tuyết
- Một tiên nương mừa tựa một giai nhân - Ngửng đôi mắt chứa mùa xuân phẩm tiết
- Giữa bài thơ... đưa vẳng tiếng ngân” (Đồ mi hoa). Quả măng cụt cũng được nhân
hóa thành biểu tượng của vẻ đẹp thân thể: “Múi trăng sao như ngọc - Múi mát tợ
thịt thơm - Môi hoa ai mời mọc - Ngọt lịm đến linh hồn” (Quả măng cụt). Biện
pháp nhân hóa thường được Trường thơ Loạn đặt trong rất nhiều những đối cực nghịch
dị và ảo hóa. Các nhà thơ xếp đặt các từ khác xa về chức năng, những từ ngữ bất
ngờ đặt cạnh nhau tạo nên sự mới mẻ, hấp dẫn. Ngay cả khung cảnh đồi và trăng
vào xuân cũng được Bích Khê “vú hóa”: “Nâng lên núm vú đồi - Sữa trăng nhi nhỉ
ngọt” (Xuân tượng trưng). Từ đó mùa xuân chảy vào thơ Bích Khê thành “xuân tượng
trưng”. Hàn Mặc Tử cũng có lần nhân hóa đồi và trăng: “Ngả nghiêng đồi cao bọc
trăng ngủ - Đầy mình lốm đốm những hào quang” (Ngủ với trăng - Hàn Mặc Tử). Những
hình ảnh nhân hóa được thi sĩ sử dụng rất tài hoa: “Mở cửa nhìn trăng, trăng
tái mặt - Khép phòng đốt nến, nến rơi châu” (Lều tranh đêm đông - Hàn Mặc Tử).
Trăng cũng chính là người nên “trăng tái mặt”, nến cũng chính là người nên “nến
rơi châu”. Trăng và nến có thể là hiện thân của mô-típ một người một bóng, đối
diện với chính mình. Trăng có thể vừa là người yêu, vừa là mình. Con người
“trăng tái mặt” kia có lẽ đang mở cửa nhìn trăng thật. Con người “nến rơi châu”
cũng có thể đang khép phòng đốt nến thật. Phương thức nhân hóa này vừa thể hiện
hướng liên tưởng, vừa thể hiện cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ… Trong Đây thôn
Vĩ Dạ, hình ảnh dòng nước đã được nhà thơ nhân hóa trở thành một sinh thể có
tâm trạng nhằm giãi bày tâm tư của chính mình. Bởi dòng sông xứ Huế không thể tự
buồn mà chính thi nhân đã thả hồn buồn vào dòng sông ấy. Đặc biệt, trong thơ
Hàn Mặc Tử, trăng bao phủ, xâm chiếm, đồng hóa tất cả. Trăng biết quỳ, sấp mặt,
cúi mình, ngã ngửa, biết ghen, biết rụng… Vượt lên thủ pháp nhân hóa quen thuộc,
những hình ảnh thơ Hàn Mặc Tử được tạo ra từ vô thức và đời sống tâm lí cuồng
loạn. Vì thế, vẫn là thủ pháp nhân hóa, nhưng bản thân thủ pháp đã chuyển hóa tự
nhiên thành vấn đề cái nhìn, cảm quan thế giới và sự thăng hoa của những ẩn ức
từ đời sống vô thức cá nhân… Trong Điêu tàn của Chế Lan Viên, sự vật được nhân
hóa bao giờ cũng mang tính siêu thường, kì ảo: “Ai tưởng đến tháp Chàm kia trơ
trọi - Tháng ngày luôn rộng lớn cửa đợi ma Hời - Ai nhìn đến làn thương rêu lở
lói - Trên thịt hồng nứt nẻ gạch Chàm tươi” (Thu về - Chế Lan Viên). Trong sáng
tạo nghệ thuật, Chế Lan Viên và Bích Khê gặp nhau ở chỗ, đó là ít dùng biện
pháp tu từ nhân hóa trong những phạm vi hình ảnh cụ thể của những câu thơ đơn lẻ
để diễn tả một trạng thái cảm xúc mà sử dụng nó như một thủ pháp khơi gợi ý tưởng.
Các bài Đồ mi hoa của Bích Khê, Vo lụa, Sọ người của Chế Lan Viên là những minh
chứng tiêu biểu… Nhân hóa là phương thức chứng tỏ sức mạnh của mình trong việc
giúp các vật không phải là người “đầu thai” vào kiếp người trong thi phẩm của
Trường thơ Loạn.
4.2. Nhạc tính và họa tính
4.2.1. Nhạc tính
Valéry từng nhận định: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”. Đối với
Mallarmé, thơ ca không phải để kể lể, mà là ám thị, muốn ám thị cần phải có điệu
nhạc ma quái. Trường thơ Loạn không nằm ngoài sự kiểm soát của những quan niệm
mang tính chất tuyên ngôn ấy, nên từng câu chữ thoát ra từ tâm khảm các thi
nhân luôn chứa đựng yếu tố nhạc. “Âm nhạc là nửa phần nếu không là phần lớn nhất
trong giá trị của thơ” [60,157]. Đặc biệt, trong thơ tượng trưng, “tinh thần âm
nhạc” được vinh danh hàng đầu. Các thi sĩ tượng trưng đề cao âm nhạc vì họ nhìn
thấy trong âm nhạc sức mạnh “gợi” và khả năng chuyển đổi, tương hỗ cảm giác và
dẫn dắt những cao diệu tuyệt vời của ý thơ. Mỗi bài thơ tượng trưng là một bản
giao hưởng, gợi cái lơ lửng không rõ ràng, cái sắc thái mơ hồ và tinh tế nhất của
tâm trạng bởi thế giới vô hình, trong suốt của âm thanh. “Âm nhạc làm sâu thẳm
bầu trời”, góp phần giúp nhà thơ có linh cảm kỳ diệu về thế giới tâm linh, gợi
lên những giấc mơ kỳ lạ. Nói như Baudelaire: “Nhạc luôn mang ta đi như sóng biển!
- Đến ngôi sao mờ của ta - Dưới bầu trời u ám hay trong thinh không xanh - Buồm
ta mở rộng đi xa” (Nhạc - Baudelaire); hay như Paul Verlaine: “Âm nhạc là thiên
khải, trước tất cả mọi thứ” (De la musique avant toutes choses). Nhạc điệu
trong thơ tượng trưng tác động ở mức độ đậm nhạt khác nhau đến sáng tác của Trường
thơ Loạn. Các nhà thơ tập trung khai thác đặc điểm của thanh điệu tiếng Việt ở
các mặt cao - thấp hay bằng - trắc để nhạc thơ được vang lên. Ngoài ra còn một
thứ nhạc nữa, đó là nhịp điệu bên trong của hình ảnh, tình ý, tâm hồn. Đó là nhịp
điệu hình thành của những cảm xúc và những hình ảnh liên tiếp hòa hợp mà những
tiếng và chữ gợi ra những ngân vang, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những
khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của những xúc động. Làm nên hồn của
nhạc điệu là sự liên tưởng của tổ chức âm thanh với cảm giác âm nhạc trong lòng
người. Sự liên tưởng này không phải bao giờ cũng cụ thể, trực tiếp, mà lúc nào
cũng có mối liên hệ giữa âm hưởng, nhịp điệu với tâm hồn. Mỗi bài thơ trong
sáng tác của Trường thơ Loạn có thể được xem như bản giao hưởng ru lòng người
theo những nốt trầm bổng, du dương.
Có thể nói, thế giới nghệ thuật của Trường thơ Loạn là thế giới của những âm điệu. Nhạc điệu trong thơ Loạn trước hết là nhạc điệu tâm hồn của những trạng thái đặc biệt, u hoài và tha thiết. Tiếng nhạc trong thơ cũng chính là tiếng lòng thi sĩ, vì với họ, làm thơ cũng chính là “dạo một cung đàn” (Hàn Mặc Tử). Ta bắt gặp ở thơ Loạn những thanh âm da diết, những trùng điệp ngân rung, những kiểu gieo vần, ngắt nhịp, những trầm bình thanh… Nhạc tính trong tương hợp giác quan từ thuyết tượng trưng phương Tây được vận dụng trong thơ Loạn tài tình, lung linh, kỳ ảo, lưu giữ bền lâu chất thơ trong lòng người. Nhạc hóa hồn thơ, thông qua cách kiến trúc câu thơ đầy nhạc. Tất cả hòa quyện, chuyển hóa trong nhau để tạo thành thi giới của âm nhạc, màu sắc, hương thơm và cảm giác u sầu, trước hết của chính người thơ, sau đó, vươn đến tha nhân để vẫy gọi những tâm hồn đồng điệu.
Thơ Loạn trước hết là tiếng thơ buồn với những âm điệu buồn tạo nên từ sự kết hợp các thanh bằng như những bè trầm lan tỏa. Bài thơ Bến My Lăng của Yến Lan có số lượng 59% (105/179 từ của bài thơ) thanh bằng. Những thanh bằng với độ mở khá cao hầu hết ở các chỗ ngắt nhịp thơ tạo một không gian vắng lặng, một nỗi niềm cô tịch, lãng đãng trong khúc nhạc buổi hoàng hôn: “Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh - Tơ vương trời nhưng chỉ giãi trăng, trăng - Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh - Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng” (Bến My Lăng - Yến Lan). Tập Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng ưa sử dụng thanh bằng. Có những câu thơ của Chế chỉ toàn thanh bằng như một hơi điệu dài, vang xa, triền miên trong tâm thức, đưa tới miền sâu thẳm mơ hồ, kiểu như: “Ta mơ rồi! Mơ rồi! Ta mơ rồi” (Mơ trăng - Chế Lan Viên). Những thanh bằng này tạo nên âm thanh du dương, đẹp và buồn, trầm trầm một giai điệu tiêu huyền cổ kính. Hàn Mặc Tử khai thác tất cả mọi tiềm năng của thanh điệu để diễn tả tối ưu một cung bậc của tình cảm: “Đàn cung bậc gió dồn lên âm điệu, - Sững lòng chưa? Say chấp cả thanh bai. - Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai - Thu đây rồi, bước lên cầu Ô Thước - Sao! Vàng sao rơi đầy nơi sóng nước, - Đừng ngả tay mà hứng máu trời sa” (Đừng cho lòng bay xa - Hàn Mặc Tử). Câu thơ “Sang chơi thôi, sang chơi thôi mà ai” toàn thanh bằng như tiếng nhủ thầm trong lòng, như cung trầm của bản tình ca buồn. Những chuyển giọng bất thường này của Hàn Mặc Tử làm nên bước nhảy đột biến về giai điệu, gợi sự chơi vơi, bất định. Thi sĩ cố tạo ra những nghịch âm mà không quan tâm đến luật bằng - trắc, bổng - trầm. Đặc biệt ở Bích Khê, nhà thơ có hẳn những bài thơ sử dụng thanh bằng độc đáo: Tỳ bà, Hoàng hoa, tạo nên một hơi điệu dài triền miên trong tâm thức, đưa thơ tới miền mộng ảo mơ hồ. Nếu không phải là phù thủy ngôn từ, nhà thơ nào sáng tạo theo kiểu này rất dễ rơi vào khiên cưỡng trong cách diễn đạt. Bích Khê quả rất tài tình khi viết trọn bài thơ bình thanh toàn bích một cách thăng hoa, nhưng vẫn réo rắt, đồng vọng lòng người: “(…) Nàng ơi! tay đêm đương giăng mềm - Trăng đan qua cành muôn tơ êm - Mây nhung pha màu thu trên trời - Sương lam phơi màu thu muôn nơi - Vàng sao nằm yên trên hoa gầy - Tương tư người xưa thôi qua đây…” (Tỳ bà - Bích Khê). Bài thơ có thể ví như giai điệu trong một bản nhạc, êm đềm và nồng nàn cảm xúc. Cảm xúc ấy khi chơi vơi dịu vợi, khi khắc khoải da diết, dội vào lòng người những nỗi niềm vừa gần gũi vừa xa xôi. Cái độc đáo của Tỳ bà cũng như Hoàng hoa là ở chỗ, ý thức cho nhạc vào thơ đã hòa điệu với tâm trạng nhà thơ. Nhà thơ đã biến những khoắc khoải gãy khúc của tâm trạng thành điệu ru êm. Thế nên, dù cả hai bài thơ chỉ sử dụng một thanh điệu, người đọc vẫn không hề có cảm giác đều đều nhàm chán. Sự kết hợp khéo léo các thanh ngang và thanh huyền có lúc đưa cảm xúc vút lên, có lúc tưởng không có hình, không có khối mà lan tỏa. Ảnh hưởng từ Bích Khê, Quỳnh Dao cũng có bài thơ bình thanh đầy mơ màng, mộng mỵ: “Lòng vương theo giây lên khơi... - Lòng xôn xao theo lời giây đương lơi... - Bờ Ngân Hà mơ như trời mùa thu - Dòng Ngân Hà trong như hơi mùa thu. - Hằng Nga ơi đêm nay em nên cười, - Vì lòng ta đầy thơ đương chơi vơi... - Đầu mùa thu lòng ta đương âm u, - Sau mùa thu thơ ta đương âm u... - Hằng Nga ơi lên thuyền ta ra khơi - Đêm nay đây, trên đầu ta sương rơi - Tay buông chèo lòng nương theo ru - Đường tơ êm khuya rồi chưa thôi ru... - Ta hôn, ta hôn, cho buồn ta nguôi, - Trên đôi môi đầy trăng mà chưa thôi! - Lòng vương theo dây lên khơi... - Lòng xôn xao theo lời giây đương lơi...” (Mộng Quân Thiều - Quỳnh Dao). Với những bài thơ toàn thanh bằng này, các tác giả đã tạo ra một máng trượt để người đọc phiêu lưu, dấn thân vào vùng ngôn ngữ của riêng mình, vào những thanh âm mềm mượt, giai điệu chơi vơi, mê hoặc.
Ngoài việc sử dụng những quyền năng của thanh bằng, Trường thơ Loạn còn chú trọng đến tiết tấu, nhịp điệu để tạo nhạc tính trong thơ. Nhịp điệu là hình thức phân bố các thanh điệu chuyển động trong thời gian mà chúng ta cảm nhận được và gây ở người đọc, người nghe sự cộng hưởng cảm xúc. Có thể thấy, Trường thơ Loạn dường như đã thử sức mình trên hầu hết các thể loại thơ ca: từ các thể thơ mang tính chất truyền thống như lục bát, song thất lục bát đến các thể thơ mô phỏng thơ ca Trung Quốc như ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt, bát cú, hành... và cả các thể thơ của phong trào Thơ mới như 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng, hợp thể... Nhiều bài thơ Loạn được tổ chức theo tiết tấu thuận, tức là dạng tiết tấu mà bước đi của nhịp luôn đều đặn một cách thống nhất với cách ngắt nhịp quen thuộc. Có nhịp 4/3 trang trọng hài hoà trong thơ thất ngôn Đường luật và thơ 7 tiếng: “Ai đâu trở lại/ mùa thu trước - Nhặt lấy cho tôi/ những lá vàng” (Xuân - Chế Lan Viên). Có nhịp 2/3 ở thơ ngũ ngôn: “Trước sân/ anh thơ thẩn - Đăm đăm/ trông nhạn về - Mây chiều/ còn phiêu bạt - Lang thang/ trên đồi quê” (Tình quê - Hàn Mặc Tử). Có nhịp 3/4 và 2/2/2 ở song thất lục bát: “Mưa hoa rụng/ mưa hoa xuân rụng - Mưa xuống lầu/ mưa xuống thềm lan - Mưa rơi/ ngoài nẻo/ dặm ngàn - Nước non/ rả rích/ giọng đàn/ mưa xuân” (Tiếng đàn mưa - Bích Khê)…
Tuy nhiên, tính chất phong phú và đa dạng về nhịp điệu trong thơ Loạn không chỉ là kết quả khách quan do yêu cầu của thể loại, bởi như thế dù có đa dạng đến mấy vẫn là những tiết tấu quen thuộc không khỏi khiến ta cảm thấy tẻ nhạt và đơn điệu. Trên cái nền nhịp điệu cơ bản ấy, Trường thơ Loạn đã biết tạo ra những biến thiên khác để thơ mình trở nên bung phá và tươi tắn hơn. Nhịp điệu ấy như sự trắc trở về những giấc mơ không đến trọn con đường của các thi sĩ. Bài Lang thang của Hàn Mặc Tử thể hiện sự lai ghép nhịp thơ: nhịp thất ngôn, nhịp lục bát, nhịp câu thơ 8 chữ, 9 chữ đan xen. Nhịp thơ Đường 2/2/3 đã bị nhịp thơ lục bát lấn sân đành phải quay về nhịp 3/2/2 ở câu cuối thể hiện sự nghịch lý trong nội tâm nhân vật trữ tình khi thì huyễn tưởng, lúc lại căm hờn, có khi lại buông xuôi: “Trời hỡi/ nhờ ai/ cho khỏi đói? - Gió trăng/ có sẵn/ làm sao ăn? - Làm sao/ giết được/ người trong mộng? - Để trả thù/ duyên kiếp/ phũ phàng?” (Lang thang - Hàn Mặc Tử). Trong Duy tân của Bích Khê, tiết tấu nhiều khi bị đảo lộn, xô đẩy có dụng ý, tạo nên cái cảm giác tán loạn: “Người hòa điệu với thiên nhiên/ ân ái - Buồn/ và xanh trời/. Tôi trôi với bờ - Êm biếc... - Khóc với thu: lời úa ngô - Vàng/ khi cách biệt/ giữa hồn xây mộ - Tình hôm qua/ dài hôm nay thương nhớ” (Duy tân - Bích Khê). Lối bắt vần từ câu thơ trên tiếp nối câu thơ dưới tạo nên nét độc đáo cho đoạn thơ. Thơ mà như nói. Đâu đây hiện lên trước mắt người đọc một Bích Khê đang độc thoại nội tâm với chính mình. Trong đoạn thơ, Bích Khê vẫn giữ nguyên số lượng chữ ở mỗi câu (hình thức thơ bát ngôn thường thấy). Chỉ khác là, cách ngắt nhịp khấp khểnh, không theo một quy luật nhất định khiến cho Duy tân càng trở nên mới mẻ. Bích Khê ngắt câu thơ ra thành nhiều câu hoặc nhiều thành phần câu liên tiếp vắt nối sang nhau. Từ đây, biên độ cảm xúc được tăng thêm, không có ranh giới rõ ràng giữa các câu thơ. Âm hưởng thơ vì thế được mở rộng giúp người đọc hình dung ra bản hòa tấu tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên: “Người hòa điệu với thiên nhiên ân ái”. Sự xô đẩy nhịp điệu, tiết tấu, từ ngữ, cú pháp; sự tương tác về ngữ nghĩa do hiện tượng vắt dòng được Bích Khê thể nghiệm mới lạ và độc đáo: “Thoảng tiếng gáy của cu - Cườm./ Hiu hiu vàng đượm”. Chữ “cườm” của câu trước lại được tách riêng ra đứng đầu câu sau. Trong cách vắt dòng này, ngữ nghĩa của “cườm” trở nên đa dạng, nó không chỉ là tên gọi mà còn gợi lên hình ảnh của những giọt âm thanh long lanh vàng đượm. Trong Xuân tượng trưng và một số bài khác, Bích Khê cũng vận dụng hình thức này và đã tạo nên hiệu quả âm nhạc khá rõ… Chế Lan Viên cũng có một bài thơ tựa đề Tập qua hàng khá đặc biệt mà ông thừa nhận đã học từ cách viết này của Bích Khê: “Chỉ một ngày nữa thôi./ Em sẽ - Trở về./ Nắng sáng cũng mong. Cây - Cũng nhớ./ Ngõ cũng chờ. Và bướm - Cũng thêm màu trên cánh đang bay” (Tập qua hàng - Chế Lan Viên). Tuy vậy, đó là câu thơ được sáng tác sau này, còn Điêu tàn của Chế thường ít có sự phá cách về nhịp. Nhịp điệu đều đặn của Điêu tàn gợi cảm giác u hoài bởi nó diễn đạt nỗi khắc khoải thời gian, lo âu cho chuỗi mồ dĩ vãng, phấp phỏng vì tương lai là chuỗi huyệt chưa thành, còn hiện tại thì chán chường, đổ nát.
Nhạc tính trong sáng tác của Trường thơ Loạn còn được ký âm bởi các biện pháp điệp. Điệp là biện pháp lặp lại một yếu tố diễn đạt để nhấn mạnh ý nghĩa và cảm xúc, nâng cao khả năng biểu cảm, gợi hình cho lời thơ. Sự lặp lại mang tính chu kỳ được Jacobson gọi là sự lặp lại hình thái âm thanh tạo nên sự song hành trong cấu trúc, giúp khắc phục sự trôi tụt của thời gian, neo giữ lại chất thơ bền vững. Trường thơ Loạn sử dụng rất nhiều điệp từ, điệp ngữ tạo ra sự vang dội cộng hưởng, những chuỗi âm thanh rung ngân thi vị. Thơ Hoàng Diệp không ít lần xuất hiện biện pháp điệp từ nhằm nhấn mạnh, tô đậm hình tượng thơ, khiến cho những con chữ luôn có sức vang ngân, ám ảnh: “Tiếng muôn người xô nhau vào cõi chết - Tiếng quan tài đổ ụp xuống hư vô - Tiếng ngàn sâu lung lay hồn rũ liệt - Tiếng hình hài sắp vữa nát ra tro” (Xứ sở của hồn ta - Hoàng Diệp). Chế Lan Viên có lẽ là người thuần thục nhất trong việc khai thác nhạc điệu bằng biện pháp điệp từ đầu tiên ở mỗi câu thơ: “Hãy ngả nghiêng, lăn lộn, hãy kêu gào - Hãy rít lên những điệu xương vỡ rạn - Hãy buông ra những tiếng máu sôi trào! - Hãy quay cuồng, múa may, trong gió lốc - Hãy cười những điệu cười như tiếng khóc - Hãy hét vang, rung động đến mây cao” (Xương vỡ máu trào - Chế Lan Viên). Sự thừa thãi về mặt từ ngữ bao giờ cũng thể hiện sự tràn đầy trong đời sống nội tâm, lưu lại cho chúng ta sự trùng trùng, trào dâng và dập dồn cảm xúc. Nó được Chế khai thác triệt để nhằm tăng độ gấp gáp của nhịp điệu thơ. Kiểu điệp này xuất hiện dày đặc trong Điêu tàn: “Ta gặp Nàng trên một vì sao nhỏ - Ta hôn Nàng trong bóng núi mây cao - Ta ôm Nàng trong những nguồn trăng đổ - Ta ghì Nàng trong những suối trăng sao” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên). Hàng loạt từ “ta”, “nàng” lặp lại gắn liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương, mơn trớn mỗi lúc một nồng nàn, bạo liệt: “gặp”, “hôn”, “ôm”, “ghì” như diễn tả được trạng thái tâm hồn vừa đam mê, vồ vập của nhân vật trữ tình khi khám phá ra vẻ đẹp diệu kỳ Chiêm nữ… Bài Thi vị của Bích Khê có 4 khổ, 70 âm tiết nhưng có tới 51 âm tiết là được lặp đi lặp lại. Các tiếng “vàng”, “rơi”, “đàn”, “người yêu”, “anh ơi” lặp lại 5 lần; “rồi”, “tiếng”, “tôi khóc” được lặp lại 4 lần. Có khi, Bích Khê kết hợp biện pháp điệp với việc sử dụng những câu nhiều thanh bằng tạo nên những ấn tượng mới mẻ “Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm - Nhịp nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương... - Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà - Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà say” (Nhạc - Bích Khê). Các nhóm chữ đi về, lặp lại, gối chồng lên nhau như những nhịp sóng vỗ bờ tạo thành âm điệu da diết khắc khoải triền miên. Bằng sự lặp lại ấy mà vẻ đẹp của nhạc được tượng hình ngay trong nhạc tính của ngôn ngữ thơ. Hàn Mặc Tử thường xuyên láy đi láy lại từ để tạo nhạc tính: “Gió theo lối gió mây đường mây” (Đây thôn Vĩ Dạ), hoặc: “Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu - Những đám mây lam cuốn dập dìu - Những mảnh nhạc vàng rơi lả lả - Những niềm run rẩy của đêm yêu” (Lưu luyến). Đặc biệt, bài “Trăng vàng, trăng ngọc”, Hàn sử dụng câu thơ chỉ một danh từ “trăng”: “Trăng, Trăng, Trăng, là Trăng, Trăng, Trăng”, và câu thơ này được lặp lại ba lần trong bài, cũng là câu mở đầu cho từng khổ thơ. Một câu thơ có 6 từ trăng như điệu hát được cất lên. Âm thanh nhấn đi nhấn lại, mới đọc lên đã nghe như nhạc. Nhạc đến từ trước hình ảnh, ý nghĩa. Nguyên âm mở và phụ âm vang của từ “trăng” như kéo dài và ngân nga mãi điệu nhạc ấy, gợi cảm giác như thi nhân đang reo vui, nhảy múa dưới ánh trăng huyền dịu. Cách điệp cú pháp này được sử dụng phổ biến trong thơ Bích Khê. Những bài thơ như: Mộng cầm ca, Thi vị, Tiếng đàn mưa, Phương Thảo, Cơn mê, Tân hôn,... đều có sử dụng lối điệp này. Bài Thi vị, câu thơ “Tôi khóc anh ơi” được lặp lại hoàn toàn trong các khổ thơ như những điệp khúc kết hợp với các hình thức điệp khác (điệp âm, điệp từ, ngữ, điệp cấu trúc đoạn) tạo thành những vòng tròn lớn nhỏ quấn quýt tương giao. Không chỉ âm thanh tạo ra nhạc mà các hình ảnh cũng tạo ra nhạc, một thứ nhạc chuyển từ thấp đến cao từ hình ảnh người yêu vận động qua các trạng thái: “đương ngồi”, “dậy rồi”, “đi rồi”, “xa rồi”, “chết rồi”… Cứ mỗi trạng thái lại càng lúc càng xót xa, nức nở. Cũng có khi thi sĩ thơ Loạn chỉ điệp lại một bộ phận của câu thơ, nghĩa là cấu trúc ngữ pháp giống nhau, song đã có một sự xê dịch nào đó về sắc thái ngữ nghĩa. Ví như: “Buồn lưu cây đào xin hơi xuân - Buồn sang cây tùng thăm đông quân” (Tỳ bà - Bích Khê), hay: “Có phải chăng còn trào bao suối huyết? - Có phải chăng còn dội tiếng đầu sa?” (Đầu rơi - Chế Lan Viên).
Tác động từ quan điểm thẩm mỹ của văn học phương
Tây, đặc biệt là Baudelaire, Valéry, Gautier… với quan niệm rằng, thơ ca muốn đẹp,
muốn kỳ diệu cần phải thoát ly cuộc sống, thoát ly cái hữu ích, vụ lợi của con
người trần tục, cũng như tư tưởng của Mallarmé: “Điều kiêng kỵ nhất của thơ là
diễn tả đúng thực tại. Thơ không cần rõ ràng, sự tách bạch. Thơ là mờ ảo, là
tinh khiết, là lan tỏa. Thơ tượng trưng còn coi yếu tố nhạc là phương diện chuyển
tải hiệu quả nhất cho các ý tưởng siêu hình”, các thi sĩ thơ Loạn đã sáng tạo
nên những vần thơ đầy nhạc. Có thể nói, tiếng nhạc trầm bổng trong thơ, lúc ảm
đạm bi ai, lúc rạo rực tha thiết đã phần nào đưa các tác giả thơ Loạn đạt tới
được cái công thức nổi tiếng của P. Valéry: “Bài thơ là sự phân vân kéo dài giữa
âm thanh và ý nghĩa”.
4.2.2. Họa tính
“Thi trung hữu họa” là một quan niệm có từ rất sớm ở phương Tây. Từ xưa xưa, người phương Tây đã phát hiện tính họa trong thơ, tính thơ trong họa và xem thơ ca và hội họa là hai loại hình nghệ thuật gần gũi. Thời La Mã cổ đại, Simonides đã nói: “Họa là thơ không lời, thơ là họa có lời”, và với Horace: “Thơ như họa”. Đây là sự dung hòa trong hai loại hình nghệ thuật trong cùng một tác phẩm. Thực ra, ban đầu ở phương Tây, địa vị thi ca được đánh giá cao hơn hội họa. Phải đến thời Phục hưng, hội họa mới xác lập được vị trí của mình. Và cũng bắt đầu từ đây, thơ và họa tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương diện. Thơ ca cũng có tác dụng miêu tả, tái hiện như hội họa; và hội họa cũng có tác dụng biểu hiện như thơ ca. Trong quá trình sáng tạo, các nghệ sĩ đều muốn mở rộng biên độ giữa thơ và họa, thậm chí cái này còn muốn thâm nhập, dung hợp cái kia. Vì thế, họa sĩ và thi sĩ luôn luôn tìm cách vượt qua mọi trở ngại, hạn chế, không phụ thuộc hoàn toàn vào chất liệu. Chẳng hạn, chất liệu của thơ là ngôn từ, nhưng nhà thơ không chỉ tả ý, chí, tình mà còn hòa âm, tạo dáng cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ dùng nhằm tái hiện lại hình ảnh sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến cái thần, gửi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc. Thơ phương Đông từ bao đời đều giàu hình ảnh và đường nét. Với khối lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ, thơ Đường vẫn có khả năng tạo dựng một bức tranh vô hạn về thế giới nội tâm con người. Không gian mờ ảo của phong cảnh chia tay bên rặng liễu non xanh lất phất mưa bay trong buổi sang xuân được Vương Duy - một thi sĩ và họa sĩ Trung Quốc đời Đường điểm tô bằng bút pháp tài tình, ấn tượng: “Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần, - Khách xá thanh thanh liễu sắc tân. - Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, - Tây xuất Dương Quan vô cố nhân” (Tống Nguyên Nhị sứ Tây An - Vương Duy). Trong thơ cổ, kết cấu một bài thơ bao giờ cũng gồm hai phần: tình và cảnh, trong đó phần cảnh hiện lên trước mắt người đọc như một bức tranh. Thơ mới, các thi sĩ cũng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo sức hấp dẫn và sức gợi cho thơ. Trong sáng tác của Trường thơ Loạn, thơ nhiều lúc như một bản nhạc, lắm khi như một bức họa. Trong thơ tượng trưng, họa là một xúc cảm thẩm mĩ gần ngang hàng với nhạc. Để diễn tả những bí mật thầm kín bằng sự ám thị, thơ tượng trưng phải tìm đến một thứ ngôn ngữ phi thường, kỳ ảo trong sự hòa điệu nhịp nhàng của màu sắc và âm thanh. Theo các nhà tượng trưng, nếu “âm nhạc là người thầy tối thượng” thì “màu sắc là phím đàn, mắt là cái búa đập lên nó, tâm hồn là thứ nhạc khí có muôn ngàn dây cung”. Tinh thần thơ tượng trưng này được các thi sĩ thơ Loạn cảm thụ sâu sắc. Thế giới thơ Loạn ngoài thanh âm, còn là thế giới của sắc màu. Màu sắc là chất liệu không thể thiếu được trong tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là trong hội họa và văn học. Hegels khẳng định: “Nhờ việc dùng sắc màu làm cho các sự vật dường như có tâm hồn và sức sống”. “Màu sắc trong văn học chẳng những là phương tiện miêu tả thế giới mà còn là phương tiện thể hiện cái nhìn nghệ thuật đối với cuộc đời, mang đậm màu sắc thời đại và cá tính. Màu sắc trong tác phẩm có thể giàu nghèo, đậm, nhạt, thực, ảo phụ thuộc vào cái nhìn nghệ thuật của người nghệ sĩ” [78,419]. Baudelaire cho rằng: “Màu sắc là sự hòa hợp giữa hai sắc độ: sắc độ nóng và sắc độ lạnh mà mọi lý thuyết đều nằm trong sự đối kháng của chúng, không thể định nghĩa được một cách tuyệt đối: chúng chỉ có thật một cách tương đối” [8,26]. Qua sự khúc xạ sắc màu, chúng ta sẽ nhận ra gương mặt cuộc sống và thế giới tâm hồn của các thi sĩ thơ Loạn. Màu sắc trong Trường thơ Loạn được thể hiện tương ứng với những hình ảnh và cảm xúc thơ. Có khi, đó là những sắc màu có thực trong thế giới khách quan: “Trời xanh ơi hỡi, xanh không nói - Hồn tôi muốn hiểu chẳng cùng cho” (Đọc sách - Chế Lan Viên); Hàn Mặc Tử hướng về làng quê tươi đẹp khi mùa xuân chín: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan - Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng” (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)…, nhưng nhiều hơn là sắc màu của cảm xúc, màu của nỗi lòng. Nói cách khác, đó là màu của ảo ảnh, của tâm tưởng được khúc xạ qua điểm nhìn tác giả. Đó là những sắc màu nửa thực, nửa hư, nhìn thấy nhưng không làm chủ được. Chế Lan Viên đã thực hiện hành trình trên sắc màu hoài vãng. Cỏ biếc là sắc màu vàng son thường thấy trong thơ Chế Lan Viên: “Ta vừa thấy bóng nàng trên cỏ biếc - Suối tóc dài tuôn chảy giữa lòng trăng” (Mộng - Chế Lan Viên). Thi sĩ đã dùng sắc màu để vẽ nỗi sầu trong tim giữa buổi hoàng hôn thời đại. Màu máu tràn ngập trong không gian Điêu tàn. Sắc màu rực rỡ đã dần tan biến trở thành ảo ảnh nhường chỗ cho những sắc màu bi thống, khiến Chế nhớ về sắc màu nát tan của Chiêm Thành thuở xưa. Cái tôi soi mình vào vạn vật nên nhuốm màu khủng khiếp của địa ngục máu xương. Dòng suy tưởng Chế Lan Viên trôi theo sắc đỏ của máu, màu trắng của xương, màu vàng của chết chóc, màu đen của bóng đêm. Trong thế giới đó, bóng tối nhiều hơn ánh sáng, hoàng hôn lấn át ban mai. Sắc màu trong Điêu tàn vừa rực rỡ hoang tàn, vừa lung linh đổ vỡ. Chán màu thật, cảnh thật trần gian, thi sĩ thơ Loạn muốn “Cho hồn phách say sưa trong giả dối - (…) Cho lăn lóc hôn mê trong ảo huyễn” (Tạo lập - Chế Lan Viên). Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên sử dụng các màu chủ đạo, như: trắng, xanh, đen, mờ để cụ thể hoá những đường nét của “thành quách”, “tháp đổ”, “ngàn lau”, “sọ trắng” và những “chiều thẫm máu hồng”. Thi sĩ cũng sử dụng màu xanh, nhưng không phải màu xanh của tương lai, hy vọng mà lại gắn liền với những “tàn xanh ngày chiến tượng trở về”; với những đỉnh tháp gầy mòn trong mong đợi “Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh” (Những nấm mồ). Trong khung cảnh Điêu tàn vào cõi chiều tà, đêm sâu, màu trắng là màu tang chế, ghê rợn nhất. Ta chỉ thấy “một khớp xương ma rợn trắng” một “nền giấy trắng như xưa trong bãi chém” và “những thành sọ trắng của ma thiêng” hoặc những “khớp xương ma trắng tựa não cân người”. Cái chết, mà tượng trưng là màu trắng, cứ chập chờn trên từng trang thơ. Lẫn trong tâm trí người đọc là hình ảnh của xương, sọ, tha ma và huyệt lạnh. Để điểm tô không gian rùng rợn thêm phần ấn tượng, Chế sử dụng màu mờ đặt giữa hư vô và thực tại, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa âm giới và trần gian. Do vậy, những câu thơ có hình dung từ này, đều dẫn dắt người đọc đến một cõi xa xôi nào đó đã mất đi trong quá khứ và dĩ vãng xa lìa. Trên tấm lụa bạch “điêu tàn”, nó đính vào các hình ảnh, làm nên ý nghĩa của hủy diệt, chết chóc: “Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn” (Cái sọ người), “Này nghe chăng những đêm sâu mờ mịt” (Bóng tối), “Dòng sông Linh nước mờ không dám chảy” (Tiếng trống), “Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ” (Những sợi tơ lòng), “Đừng có để những đêm mờ vắng vẻ” (Đầu rơi)... Giữa cõi mờ mờ, hư ảo đó, không sự vật nào mang đường nét cụ thể, rõ ràng. Tất cả đều hoang dại. Chế Lan Viên đã đẩy những hình ảnh này đến biên độ cực đại của siêu hình.
Cái đẹp trong thơ Loạn gắn với màu sắc kỳ dị. Bằng nghệ thuật pha màu, Bích Khê khai phá những vùng đất mới, đem đến cho người đọc những cảm giác mới mẻ về thơ. “Ngoài âm thanh ra, Bích Khê còn làm sáng tỏ đối tượng bằng màu sắc, hoặc trừu tượng hoặc cụ thể. Khi thì huyền mơ, diễm ảo, khi thì âm u chói chang” [7,70]. Thơ Bích Khê như một “đóa hoa thần dị”, dội vào lòng người một nỗi đau khổ tuyệt vọng. Qua lớp ngôn từ được bao phủ bởi màu sắc trụy lạc, ta như thấy được cơn ham mê, cuồng loạn trong tâm hồn nhà thơ. Thi nhân ưa nói đến những gam màu lạnh và dịu nhưng không kém phần gợi cảm như: trắng, xanh, vàng,..: “Khung trắng trời mây trắng lạ thường” (Hiện hình), “Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” (Tỳ bà), “Ô trời hôm nay sao mà xanh?” (Nghê thường)… Trong số sắc màu ấy, màu vàng có lẽ là gam màu mang lại cho Bích Khê nhiều cảm hứng sáng tạo. Nhà thơ như tìm thấy bên trong những gam màu mà ông yêu thích sức mạnh lan tỏa: lá vàng, trăng vàng, sao vàng, đêm vàng, sóng vàng, lệ vàng… hòa thành một mảng đầy ám thị đối với người đọc, gợi những liên tưởng thú vị về thế giới tự nhiên. Thế giới ấy không độc lập với con người mà gắn với những khoái cảm dậy nên từ phía tâm tư. Bích Khê không cố ý miêu tả những màu sắc vốn có của thiên nhiên, mà những màu sắc ấy thường bật ra từ vô thức khi thi nhân miên man, chìm đắm trong cõi mộng: “Trăng gây vàng, gây vàng trên sắc trắng - Của hồn thu đi lạc ở trong mơ” (Mộng cầm ca). Màu sắc như là cách để Bích Khê dồn vào đó những ý nghĩ không thể diễn đạt được. Cứ đều đặn thế, trong những bài thơ thi sĩ, khi mà cảm xúc bị đẩy lên đến tận cùng thì màu sắc bật ra trong cái vô hình vô thể đầy huyền vi, cao khiết: “Mộng sao mộng lạ, trắng như ngà”, “Mộng rất xanh, mộng rất xanh”… Những sắc màu ấy hòa vào tâm linh của chính nhà thơ, đưa người đọc chập chờn giữa hai bờ hư - thực.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy xuất hiện “vô số màu tươi chảy lặng lờ”, nhưng tập trung chủ yếu ở các màu: vàng, trắng, đỏ, xanh. Sắc màu đó là kênh giao tiếp dẫn dắt người đọc đến với sự phong phú, đa dạng của cái tôi trữ tình mênh mông không bờ bến. Màu vàng chiếm ưu thế nổi trội trong thơ Hàn, nó gắn với không gian ân ái, với thân thể ngọc ngà của giai nhân và tột cùng cảm xúc: “nắng vàng con mắt”, “hào quang vàng”, “trăng bọc vàng”, “tiếng vàng rơi”, “thu vàng”, “nhạc vàng”… Đa phần, màu vàng trong thơ Hàn thể hiện sự tàn phai, héo úa: “Em có nghĩ ra một chiều vàng úa - Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru” (Trường tương tư). Nhưng cũng có khi đó là màu của nắng vàng tươi sáng: “Nắng sao như nắng đời xưa ấy - Nắng vàng con mắt thấy duyên đâu” (Buồn ở đây). “Nắng đời xưa” là màu nắng của tâm tưởng, của hoài niệm, của sự chờ mong, của niềm hy vọng, rực rỡ xuân xanh, trinh nguyên trời đất. Một bức tranh đẹp được kết hợp hài hòa các màu sắc rực rỡ, thể hiện niềm khát khao, mơ ước cháy bỏng của thi nhân về một vũ trụ huy hoàng… Cùng với màu vàng, màu đỏ cũng là màu sắc xuyên suốt trong các tập thơ Hàn Mặc Tử. Hàn nhiều lần mô tả sắc đỏ trên đôi gò má hay cặp môi đỏ hồng của các cô gái đương tuổi xuân thì: “Môi tươi thiếu nữ vừa trang điểm - Nắng mới âm thầm muốn kết hôn - Đưa má hồng hào cho nắng nhuộm - Tình thay, một vẻ ngọt và ngon” (Nắng tươi). Nhưng màu đỏ trong thơ Hàn nhiều nhất vẫn là màu máu. Cả thể xác, cả linh hồn, cả chữ, cả thơ, cả khổ đau, cả hạnh phúc đều dính màu đỏ của máu. Máu của những nỗi đau dồn nén là màu đậm đặc của huyết: “Máu của sao, tủy của nguyệt bao giờ - Chảy sửng sốt như phong vàng anh ánh” (Hồn đêm qua)… Không gian nghệ thuật thơ Hàn, màu trắng cũng xuất hiện rất nhiều. Màu trắng ngoài được miêu tả những sự vật của đời thường: mỏm đá trắng, cánh buồm trắng, tờ giấy trắng, mây trắng, thơ trắng… còn được dùng để miêu tả sự cô đơn, xa vắng của một kiếp người: “Rụng rồi hương không còn trắng như băng… - Đo hoài niệm có dài hơn kinh tuyến - Hay thua xa, thua xa màu vĩnh viễn - Không rộng bằng hiu quạnh của thời gian?” (Tình hoa). Có khi đó là màu của chiếc áo trinh nguyên, thánh thiện và huyền ảo: “Áo em trắng quá nhìn không ra” (Đây thôn Vĩ Dạ), màu của những cánh bông thơ: “Những cánh bông thơ trắng ngọt ngào” (Ước ao)… Hàn Mặc Tử còn đưa vào thơ mình gam màu xanh với đủ sắc độ: “xanh tươi”, “xanh mơ”, “xanh rợn”, “xanh biếc”, “xanh ngát”, “xanh như ngọc”, “xanh lờn lợt”, “xanh như cẩm thạch” và cả những màu xanh không có thực trong đời mà chỉ có trong tâm tưởng nhà thơ: “xanh huyền diệu”, “xanh hờ hững”, “xanh huyền hoặc”… Nhìn chung, thế giới quan, phương pháp sáng tác và cảm quan hiện thực của nhà thơ đã ảnh hưởng đến việc sử dụng màu sắc. Màu sắc là phương diện của cái nhìn nghệ thuật trong thơ Loạn. Ở đó, ta có thể tìm thấy những biểu hiện gián tiếp của một thời đại thơ ca và của một hệ ý thức.
Từ những màu sắc vừa cụ thể, vừa mơ hồ, Trường thơ Loạn vẽ nên những bức tranh
thơ sinh động về cuộc sống và hiện thực. Hàn Mặc Tử đã cấu trúc không gian theo
sự phập phồng của nỗi khát khao tình ái: “Ai đã làm thinh chớ nói nhiều - Để
nghe dưới đáy nước hồ reo - Để nghe tơ liễu run trong gió - Và để xem trời giải
nghĩa yêu” (Đà Lạt trăng mờ - Hàn Mặc Tử). Không gian tượng trưng ân ái ấy, mọi
vật đều thăng hoa trong yêu đương: “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu - Đợi
gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử). Thơ Bích Khê là hội họa trừu tượng.
Họa không phải là cái bản thể của ngôn ngữ thơ, cho nên thơ phải mượn đến họa.
“Thi trung hữu họa” là một kinh nghiệm làm thơ. “Muốn vào trong thơ đúng như
cái bản thể của thơ thì họa phải tự hủy chất tạo hình vật lý cụ thể của mình,
nghĩa là phải hủy cái hình thái tự nhiên vốn dĩ của mình để hóa thân thành họa
siêu hình, cái họa lung linh trong cảm xúc của một người, khúc xạ trong một chất
chủ quan cá thể” [62,114]. Hình tượng trong thơ Bích Khê mang chất hội họa bất
hòa bề mặt để đi tìm tới sự thống nhất trong bề sâu: “Chữ biến hình ảnh mới,
lúc trong ngâm - Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm - Đầy thẩm mỹ của một
pho thần tượng - Lúc trong ngâm giữa pho vàng mộng tưởng - Múa song song khiêu
vũ dưới đêm hồng” (Duy tân - Bích Khê). Có khi, thơ Bích Khê là cả bức tranh thục
nữ yêu kiều được phác họa từ sắc màu ái, ố, hỷ, nộ cùng ngòi bút sáng tạo giàu
cảm hứng: “Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm? - Nàng là hương hay nhan sắc
lên hương? - Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường - Lệ tích lại sắp tuôn
hàng đũa ngọc - Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc. - Một chút trăng say đọng ở
làn môi” (Tranh lõa thể - Bích Khê). Đó là cả một bức tranh lõa thể “lồ lộ một
tòa hoa nghiêm động” khiến thi nhân vừa “miên man uống mộng quỳnh dao”, vừa tưởng
tượng ra bao điều kỳ thú: “Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng - Xuân muôn đời
đi giữa một vùng tang!”. Bích Khê đã họa lại bằng thơ vẻ đẹp thiếu nữ và những
đam mê trần tục của con người tinh tế đầy gợi cảm.
Thơ Loạn đã ảo hóa ngôn từ để khám phá bức tranh thế giới qua
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố thực tế và yếu tố trừu tượng. Bức tranh lộng
lẫy của thơ Loạn chính là lớp ngôn ngữ lấp lánh tự soi, phát sáng nhờ bàn tay của
người nghệ sĩ cấu trúc nên. Yến Lan phác họa bức tranh toàn cảnh thiên nhiên với
những nét đặc trưng của một vùng đất từ lâu gắn bó với mình: “Ở đây nắng bãi võ
vàng - Dừa cao lểnh khểnh, cành xan ngoằn ngoèo - Con đường thì khuất cheo leo
- Mình đi chỉ bóng cùng theo với mình” (Về làng - Yến Lan). Vẫn có những nét vẽ
cụ tượng, nhưng nhiều hơn trong thơ Loạn là những bức tranh huyền hồ, khó nắm bắt.
Hàn Mặc Tử phân thân để chiếm lĩnh sắc màu thiên nhiên, từ đấy những bức tranh
thơ Hàn được cấu trúc theo sắc màu kỳ ảo. Đây thôn Vỹ Dạ là bức tranh chắp nối,
đứt đoạn theo một cấu trúc nhảy cóc tâm trạng. Chỉ một nét Huế thôi mà đã nói
được bao điều: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc - Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Thế nhưng, trong bức tranh tưởng chừng tươi đẹp ấy, vẫn thấm một nỗi buồn chia
ly, nỗi nhớ nhung sâu sắc của một người đang yêu. Nhiều bài thơ khác, Hàn vẽ
tranh bằng máu huyết của mình. Từ trong huyết quản thi nhân, thơ trào ra nơi đầu
ngọn bút lấp lánh ngọc bích cho dù nó có huyền hoặc, dị thường. Thơ Chế Lan
Viên là bức họa của một thế giới siêu tưởng và ảo giác. Vẫn là cảm hứng lãng mạn,
nhưng trong cách cảm nhận của Chế Lan Viên, bức tranh tượng trưng siêu thực như
những vỉa lấp lánh trong tư duy thơ lúc bấy giờ. Bức tranh ấy mang vẻ u uất,
xót xa, ghê rợn, bí hiểm hướng về một không gian đã trở thành hoang tàn của lịch
sử. Trong thơ Chế, yếu tố tượng trưng và siêu thực luôn được quan niệm để làm
gia tăng chiều kích của bức tranh hiện thực, làm cho hiện thực sung mãn hơn:
“Ai tưởng đến tháp Chàm kia trơ trọi - Tháng ngày luôn rộng cửa đợi ma Hời - Ai
nhìn đến làn thương đang lở lói - Trên thịt hồng nứt nẻ gạch Chàm tươi” (Thu về).
Bức tranh trong Tinh huyết của Bích Khê chứa đựng bao vẻ lạ kỳ và bí ẩn..., làm
cho cảm xúc người đọc rung rinh theo từng con chữ. Thế giới huyền diệu ấy là một
phức hợp bao gồm nhiều thế giới khác: thế giới thần tiên, thế giới trần tục và
thế giới ma quái với đặc trưng riêng biệt của nó. Với Đồ mi hoa, thi nhân đem đến
cho độc giả một bức tranh kỳ ảo: “Đây một đóa đồ mi ta đón lấy - Áp hồn hoa...
đem đặt giữa bài thơ” (Đồ mi hoa), là suối nguồn của trinh tiết và tinh khiết. Bỗng
nhiên, đóa đồ mi đột ngột biến thành giai nhân, thành tiên nương cao giá, thoắt
một cái thành “anh hồn hoa vũ trụ”, với đủ đầy “tinh chất khí âm dương”, để rót
ngọc, nhả sâm... và biến ra nhạc, ra hương, ra vàng, ra ngọc ngà, ra ánh sáng.
Thế giới thơ kỳ dị, huyền ảo đó được đan kết với các yếu tố thi ca, nhạc,
hương, màu sắc, ánh sáng, ngọc châu và các hình tượng trung tâm: trăng, hồn,
máu, giai nhân..., và luôn đặt trong các mối tương quan, tương hợp. Tạo ra một
thế giới hư - thực, chập chờn như vậy, Bích Khê đã vận dụng một cách tài tình
các phương thức kỳ ảo, huyền thoại để định lượng đối tượng thẩm mỹ của mình.
Bích Khê cùng các thi sĩ thơ Loạn đã vận dụng linh hoạt màu sắc và đường nét để
vừa vẽ nên bức tranh ngôn từ tuyệt diệu, vừa bộc lộ những rung động tế vi trong
tâm hồn con người.
4.3. Giọng điệu và nghệ thuật tương hợp
4.3.1. Giọng điệu
Nghiên cứu giọng điệu trong thi ca là nhận thức điệu hồn của thi nhân phổ nơi
thi phẩm. Mỗi một điệu hồn sẽ cho người đọc thấy cá tính sáng tạo của nhà thơ.
Theo Trần Đình Sử: “Giọng điệu trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật toát
ra từ bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mỹ… là hiện tượng
siêu ngôn ngữ học phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, khuynh hướng
nghệ thuật của tác giả và của thời đại” [79, 248]. Như vậy, có thể hiểu giọng
điệu là những biểu hiện của tình cảm, cảm xúc của nhà thơ đối với điều được nói
tới trong tác phẩm. Đó là tư tưởng, là thái độ của nhà thơ trước hiện thực với
những dấu hiệu, sắc điệu riêng của nó: buồn thương, giận dữ, vui sướng, tự hào…
Mỗi thi sĩ bao giờ cũng có một điệu hồn riêng. Tuy là điệu hồn của mỗi cá nhân,
nhưng giọng điệu thơ bao giờ cũng chịu sự tác động của nhịp điệu đời sống và
vang ứng của chất giọng thời đại.
Do ý thức sâu sắc về cái hữu hạn, nhỏ bé của kiếp người trước vũ trụ, nên sáng tác của Trường thơ Loạn thường mang giọng điệu u sầu và ảo não. Các thi nhân thất vọng trước thực tại lạnh lùng, nghiệt ngã và tâm hồn nhân thế vô cảm, vô tri: “động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ” [83,46], từ đó ngân lên tiếng thơ lạnh lùng, u sầu, thần bí.
Chuyển hướng rất nhanh từ khuynh hướng lãng mạn sang tượng trưng rồi siêu thực, Trường thơ Loạn làm một cuộc hội ngộ giữa phương Đông và phương Tây bằng giọng điệu thơ hết sức độc đáo. Trong thơ họ, ta thấy dấu ấn của Baudelaire khá rõ. Thiên đường và địa ngục, cái đẹp và cái xấu, cái ác, cái ghê rợn, sống và chết, đầy đọa và siêu thoát... là những nguồn cảm hứng trong thơ để minh chứng cho một sự gặp gỡ ở những tín niệm thẩm mĩ đôi khi nằm ngoài ý thức của các thi nhân. Hãy xem chất giọng u uất, sầu đau đến khắc khoải của Baudelaire: “Chúa trời hỡi! Cám ơn Chúa đã cho đau khổ - Làm phương thuốc thần rửa sạch mọi bùn nhơ - Và là tinh hoa tuyệt vời trong sáng nhất từ xưa - Cho những con người mạnh hưởng khoái lạc thần tiên nhất” (Chán chường và lý tưởng - Baudelaire). Cả Baudelaire và các thi sĩ thơ Loạn đều quằn quại trong vũng đau thương, văng vọt cả máu lệ và linh hồn. Do vậy, bi thương là âm điệu và là trục xúc cảm chủ đạo trong những tập thơ ghê gớm của các tác giả này (Những bông hoa ác - Baudelaire, Đau thương - Hàn Mặc Tử, Điêu tàn - Chế Lan Viên, Tinh hoa, Tinh huyết - Bích Khê). Thảm kịch thân phận đưa các nhà thơ gặp nhau trong những tri nhận và xúc cảm về cuộc đời, về con người để cất lên tiếng thơ làm kinh hoàng người đọc. Chế Lan Viên gào thét một nỗi chán chường, uất hận trước thực tại với giọng bi thiết mà chính ông cũng thấy giật mình kinh sợ. Khước từ sự sống quay về cõi chết, lấy máu huyết địa đàng dựng thành bức tranh sống động, cho nên đọc thơ Chế, ta thấy chủ thể trữ tình lẻ loi, chứng kiến mọi thứ quanh mình dần tan rã, một sự tan rã không gì cứu vãn nổi: “tháp Chàm đua nhau rụng”, “gạch Chàm rơi lác đác”, “đền xưa đổ nát dưới trần gian”, “tượng Chàm lở lói rỉ rên than”... Nó được đặt trong sự tương phản với “cảnh thái bình”, “điện các huy hoàng”, “đền đài tuyệt mỹ”..., nên càng làm nổi bật lên cái hoang tàn, ngập tràn đau thương của Chiêm quốc. Thiên nhiên, vũ trụ cũng như tan vỡ: “hoa rạn vỡ”, “muôn cánh rũ”, “sao sa”, “trăng rụng”... Cảnh tượng đó gieo vào lòng người nỗi đau xót, niềm tiếc thương, một cảm giác u buồn choáng ngợp. Với ý thức chấp nhận cái tột cùng của bi thảm là sống với hư vô, Chế Lan Viên cảm nhận được cái nhỏ bé, đơn côi của mình trong cõi siêu hình như “một con chim thu lạc cuối ngàn”. Lắm lúc, chủ thể trữ tình như thấy thân thể mình cũng đang dần tan vỡ: “Hầu rang nóng lửa hồn bừng cháy mắt - Máu hồng tươi lay vỡ cả thành tim - Đâu điệu nhạc điên cuồng khao khát - Chẳng vang lên tràn ngập suối trăng êm - Đem mau đây chiếc sọ người ứ huyết - Chiếc xương khô rợn trắng khí tinh anh - Và rót mau trong hồn ta tê liệt - Những nguồn thơ rồ dại hỡi yêu tinh” (Điệu nhạc điên cuồng - Chế Lan Viên).
So với Chế Lan Viên, giọng điệu trong thơ Bích Khê gần gũi và đằm thắm hơn. Song, Bích Khê vẫn lạ và mới. Nếu đọc kỹ từng bài thơ của Bích Khê, ta sẽ thấy thi nhân nói nhiều về những chiêm nghiệm, những khao khát từ trong sâu thẳm ý nghĩ và những ước vọng riêng tư của mình. Tiếng nói ấy âm vang từ bên trong tâm hồn nhà thơ, thấp thoáng một nỗi buồn cô đơn, nhẹ nhàng, tha thiết: “Gió về mang cả mùi lăng tẩm - Buồn cắt lên đền những miếng đen - Người viễn khách lòng sầu vạn cổ - Dặm mòn muốn gặp một người quen!” (Dặm mòn - Bích Khê). Giọng sầu buồn trong thơ Bích Khê nhiều khi tản mát, nở tan thành niềm khoái lạc: “Tôi chết rồi! Tiếng nói như châu - Tản mát ra muôn vạn khí sầu - Người khóc tình ta thơ mộng cả - Để tìm khoái lạc ở chiêm bao” (Tôi chết rồi tiếng nói như châu - Bích Khê). Đó là tiếng lòng của một tâm hồn dịu dàng, đa sầu, đa cảm.
Cùng nằm trong Trường thơ Loạn, Hàn cũng giống Chế ở những lời bi thiết như tiếng nguyện cầu tuyệt vọng bên bờ nỗi chết, ý thức khiếp đảm dạt nép đi để những lời “mê man”, “điên loạn” ngự trị trong những bài thơ cùng dòng cảm xúc. Nhiều bài thơ của Hàn, ngay từ câu đầu ta bắt gặp một sự thoảng thốt, hoang mang: “Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh! - Sao chẳng một ai hay”, và kết thúc bài thơ là nỗi chơi vơi, chìm ngập trong âm u, sợ hãi: “Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên - Nhảy ùm xuống giếng với xác trăng lên” (Trăng tự tử - Hàn Mặc Tử). Chừng như, thi nhân cô đơn ngay trong chính việc đào bới, độc thoại với nội tâm, với sâu thẳm tâm thức của chính mình. Trong vật vã cô đơn ấy, Hàn phải “tập nói trong môi trường vắng lặng”, “thả hồn mình và cảm xúc trong dòng ngôn ngữ sâu thẳm của cõi lòng riêng” [26,59]. “Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh - Hơn hết u buồn của nước mây - Của những tình duyên thương lỡ dở - Của lời rên siết gió heo mây” (Sầu vạn Cổ - Hàn Mặc Tử). Khi dòng chảy thênh thang của cảm xúc lãng mạn bắt đầu lâm vào tử địa, Hàn réo gào, rên siết trong niềm “đau thương” tột cùng. Nỗi đau sầu ấy như tan loãng, thẩm thấu và quyện hòa trong cảm thức một kiếp người: “Nhớ thôi lòng những sầu bi - Lệ rơi vào rượu hàng mi lờ đờ” (Say chết đêm nay - Hàn Mặc Tử). Những lời thơ của thi nhân tựa “Một lời run hoi hóp giữa không trung” (Trường tương tư - Hàn Mặc Tử) lạ thường, phiêu du và tán lạc rồi bất ngờ như những ngọn sóng tung xóa lên từ thác ghềnh số phận.
Các thi sĩ thơ Loạn đã đục khoét trái tim người bằng những câu thơ rùng rợn và truyền vào trí não mọi người những tiếng thơ than vãn, não nề đến tê liệt. Giọng điệu ấy hướng nội và hướng ngoại, đan cài xoắn xuýt cùng đồng hiện, làm người đọc nhiều khi không biết đâu là giọng của tác giả và đâu là giọng của nhân vật trữ tình: “Ai kêu ta trong cùng thẳm hư vô - Ai réo gọi giữa muôn sao chới với” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên), hay: “Người đi một nửa hồn tôi mất - Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” (Những giọt lệ - Hàn Mặc Tử). Nó đau thương, mê đắm, huyền hoặc, hồ nghi, đưa người đọc vào cõi hư vô trong sự thăng hoa tiềm thức: “Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ - Cho đã khát trong đê mê huyền bí - Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh - Đường kim tuyến nhiễm hút chất vô hình - Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn” (Châu III - Bích Khê). Thế giới thơ Loạn là thế giới của thực tại ấn tượng. Ở đó, thi nhân nhìn đời bằng nhãn quan quy ước, bằng ngòi bút điêu linh, bằng tâm hồn hướng vào bóng âm nơi ánh sáng mặt trời câm bặt sau biển mây u buồn để trần gian ngập đầy bóng tối. Với giọng điệu bi quan, chán nản, nên trong thơ Loạn, số lượng từ ngữ chỉ tâm trạng buồn tràn ngập trong từng bài thơ và cả những tập thơ: “buồn lo”, “buồn vương”, “buồn thương”, “u buồn”, “buồn lạ”, “buồn tư lự”, “buồn ủ rũ”, “buồn như đám mây”, “sầu não”, “sầu rơi”, “sầu muộn”, “sầu tư”, “sầu khổ”, “tiêu sầu”, “bể u sầu”, “sầu vạn cổ”, “sầu lạ lùng”, “điệu sầu bi”, “mối đau thương”, “khúc buồn thương”… Cùng với đó là những thán từ biểu thị cảm thán như tiếng rên thê thiết của những xác thân bị dày vò, tàn hủy: “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói - Gió trăng có sẵn làm sao ăn” “Ôi trời ơi là Phan Thiết! Phan Thiết!”, “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi” (Hàn Mặc Tử). Thi nhân u buồn, đau đớn trước hiện thực cuộc sống tan hoang, đổ nát: “Ôi rồ dại muôn người trên mặt đất”, “Hồn ma ơi! Hồn ma ơi có nhớ”, “Trời hỡi trời, hôm nay ta chán hết - Những sắc màu hình ảnh của trần gian!” (Chế Lan Viên). Đó là tiếng nói bi phẫn trước một đất nước bị tàn phá, một dân tộc bị diệt vong; là tâm trạng bi quan của một cái tôi không lối thoát, một nỗi đau xót, hoài niệm về dĩ vãng... Bích Khê đau khổ vì một tấm thân bệnh hoạn và tình yêu gãy đổ: “Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề - Hoa vàng đưa hương gây đê mê”; “Hỡi không gian! Hãy tan ra tiếng địch - Của lòng yêu ca ngợi tuyệt vời cao - Hỡi thời gian! Hãy chết ngột trong sao” (Nàng bước tới - Bích Khê). Với những từ ngữ như vậy, giọng điệu thơ sao tránh khỏi sầu não, bi quan. Đó là nỗi bi quan, sầu não của “Một khối tình nức nở giữa âm u - Một hồn đau rã lần theo hương khói” (Trường tương tư - Hàn Mặc Tử). Lắm lúc nhà thơ xem nỗi u buồn ấy như là liều thuốc an ủi, băng bó vết thương lòng: “Vì u buồn là những đóa hoa tươi - Và đau khổ là chiến công rực rỡ” (Đừng quên lãng - Chế Lan Viên). Vì lẽ đó, trong thơ Loạn, ta bắt gặp những âm thanh rên rỉ đến tan hoang, đổ vỡ. Đó có thể là tiếng kêu đau thương của bệnh tật, của sự xóa mòn tâm hồn trước hiện thực cuộc sống. Và, đó cũng là giọng chủ âm thảm thiết của các thi sĩ đang đi tìm cái đẹp từ sự đau thương.
Cảm hứng sầu bi trong giọng điệu thơ không chỉ có ở “ba đỉnh cao thơ Loạn”, mà còn lan tỏa, bàng bạc và đồng vọng trong cảm thức của các thi hữu khác của cả trường thơ. Với Yến Lan, đó là nỗi buồn sầu trải dài nhẹ nhàng, man mác: “Lầm lũi em đi chẳng nói năng - Vắng em anh cũng thắt buồng gan - Gần nhau hay phải xa nhau mãi - Mặt biển tình ta dải thẳng băng” (Cam chịu - Yến Lan). Thi sĩ nhẹ nhàng bước vào làng thơ cùng Bến My Lăng với hình ảnh ông lái đò buồn dợi, đợi khách trên bến sông trăng lung linh ánh sáng như nhân chứng lạnh lùng: “Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã - Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly - Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả - Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi” (Bến My Lăng - Yến Lan). Còn đây là cả “một thế giới u sầu không bến đỗ” của Hoàng Diệp: “Mau giở lại, bay về trong khoảng vắng - Trong mùa thu tắt cả tiếng lòng ta - Trong thế giới u sầu luôn vắng lặng - Trong muôn đêm khổ não… một thời xa” (Xứ sở của hồn ta - Hoàng Diệp). Bắt nhịp cùng cơn xoáy hút của Trường thơ Loạn, mỹ cảm thi ca Hoàng Diệp luôn gặm nhấm sự tàn lạnh đến hãi hùng. “Hãy theo ta khối sầu thiên vạn cổ - Khóc làm chi năm tháng đã xa rồi - Hãy theo ta đi tìm người muôn thuở - Dưới muôn trùng địa ngục, chốn xa xôi” (Xác chết của người đẹp - Hoàng Diệp). Chất giọng buồn buồn, chan chán ấy không chỉ xuất hiện trong một bài thơ, mà lai láng, chưng diện khắp vũ trụ, thành sắc độ rất riêng xuyên suốt tập thơ Xác thu của tác giả... Và đây nữa, tiếng lòng buồn thiu đến thất thểu của thành viên cuối cùng gia nhập Trường thơ Loạn - Quỳnh Dao: “Tiếng nhạc đồi khuya không trỗi nữa - Ngàn cây vương vướng một hơi buồn - Ôi chao trên cành lá trào lệ - Ta thít lên như lạnh tới hồn...” (Đà lạt trăng ngủ - Quỳnh Dao)...
Tuy vậy, phải thấy rằng, trong thơ Loạn, dù giọng điệu sầu bi là chủ đạo, nhưng không phải là duy nhất. Có khi, thơ Loạn mang kết cấu đa âm, linh hoạt với đầy đủ biểu hiện của nó về trường lực âm thanh, độ trầm bổng, cao thấp, nặng nhẹ; tương quan với nó là các trạng thái cảm xúc vui buồn, đê mê, căm hờn. Thơ Chế Lan Viên huyền bí, vang rền âm ba rờn rợn là thế, nhưng cũng lắm khi giàu cảm xúc triết lý, nhận thức sự, người với giọng điệu ngân nga: “Ai kêu ta trong cùng thẳm hư vô - Ai réo gọi giữa muôn sao chới với” (Ngủ trong sao - Chế Lan Viên). Hàn Mặc Tử không thiếu những câu thơ phả từ tâm hồn “nhuần gội áng thiều quang”, mở ra một vũ trụ đầy hân hoan trong niềm mơ cứu rỗi: “Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời - Mùi thơm ngây dại sóng con ngươi” (Xuân đầu tiên - Hàn Mặc Tử). Nhiều câu thơ được Bích Khê dệt nên bởi một hồn thơ đã thoát khỏi “lâm lụy” để đến giấc mộng đời bất tử của bao điều tinh túy: “Ôi đi! đoàn tiên lột khỏa thân - Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần” (Mộng lạ - Bích Khê). Chúng ta đọc ra tình yêu của thi nhân trong giọng thơ mặc khải, rạo rực như một tiếng reo, đầy ắp những hình ảnh và âm thanh kỳ thú: “Người cho ta một thanh gươm rất sắc? - Ô vung lên… cắt mạch nguyệt vàng xanh! - Xẻ mạch trời, - xô mây sao răng rắc! - Phăng mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh! - Người cho ta một thanh gươm rất sắc? - Ta điên rồ… múa giữa áng bình minh” (Mộng cầm ca - Bích Khê).
Khi quên đi những cơn đau, cũng là lúc thơ Loạn nguôi đi tiếng rú gào thảm thiết. Sự chuyển kênh giọng điệu này có thể diễn ra trong cùng một bài thơ, một khổ thơ. Ví như đoạn thơ sau: “Máu tim ta tuôn ra làm bể cả - Mà sóng lòng rồn rập như mây trôi - Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ - Dâng cao lên, cao tột tới trên trời. - Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết - Khi say sưa với lượn sóng triền miên - Khi nhận lấy trong thâm tâm cay nghiệt - Giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng” (Biển hồn ta - Hàn Mặc Tử), ta thấy xuất hiện phức cảm, phức điệu nhiều âm hưởng: có đau thương, có mê đắm, và có cả huyền hoặc…, thể hiện tính chất tương phản trong ngõ ngách, sâu thẳm tâm hồn thi sĩ… Điều này cho thấy, thi phẩm của Trường thơ Loạn không bị thu hẹp vào những khuôn hình giọng điệu có sẵn, mà ở đó “Dưới bầu trời u ám hay trong thinh không xanh nhẹ - Buồm ta mở rộng mà đi” (Baudelaire), rẽ theo nhiều đường, thấm sâu và lan rộng trong lòng độc giả.
Trong tiểu luận Cách viết là gì, Barthes nhận định khá xác đáng: “Trong bất kỳ hình thức văn học nào cũng đều có sự lựa chọn chung một giọng điệu”. Chất giọng của thơ Loạn nhìn chung vẫn không nằm ngoài giọng chủ âm ảo não của phong trào Thơ mới. Nhưng so với Thơ mới, giọng điệu thơ Loạn tang thương và bi thiết hơn.
Khi tìm hiểu đặc trưng chung về giọng điệu của Trường thơ Loạn, chúng ta cũng không thể không nhìn thấy những âm hưởng riêng, chủ đạo của từng tác giả. Một Hàn Mặc Tử giọng điên cuồng day dứt. Một Chế Lan Viên với gọi thăm thẳm hư vô về thời dĩ vãng. Một Bích Khê huy hoàng ánh sáng, có kỳ dị nhưng không rùng rợn như hai bậc đàn anh. Tất cả các thi sĩ với nỗ lực vượt thoát, bung phá giọng điệu đã mang đến cho Trường thơ Loạn giá trị thẩm mỹ đặc sắc, không trộn lẫn với các nhà thơ và tổ chức thi ca khác cùng thời.
4.3.2. Nghệ thuật tương hợp
Gần với thơ phương Đông, thơ tượng trưng phát hiện ra mối tương hợp, hô ứng với nhau giữa các giác quan, giữa mùi hương, màu sắc và âm thanh. Thi phái tượng trưng đã khai triển sự nhất thể của cảm giác. Baudelaire là người đầu tiên khám phát ra sự nhất thể kỳ diệu này. “Ngửi thấy một hương thơm, thi sĩ thấy mình như nghe một âm thanh huyền diệu hay trông thấy một màu sắc quyến rũ; bởi vậy nhà thơ có thể nghe thấy một mùi hương, ngửi thấy một màu sắc hoặc trông thấy một thanh âm” [66,54]. Tương ứng là cách để các thi sĩ thơ tượng trưng thay đổi quan hệ của con người với thế giới. Một quan hệ mới với thế giới nảy sinh “mà trong đó cảm giác lẫn lộn với nhau và mâu thuẫn đớn đau biến mất. Tâm hồn có thể uống ừng ực hương thơm, âm thanh và màu sắc” [49,100]. Rimbaud đòi hỏi nhà thơ phải là “một kẻ thấu thị” (un visionnist), nghĩa là “có khả năng thấy được cái siêu nhiên mà người thường không trông thấy” bằng “sự gây rối loạn lâu dài, rộng khắp và có suy tính tất cả các giác quan” (Phùng Văn Tửu)... Âm thanh, màu sắc, hương thơm - những đối tượng của giác quan xuất hiện với tần số rất cao ở thi giới Trường thơ Loạn... Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên 52 lần nhắc đến màu sắc, 63 lần nhắc đến âm thanh, 24 lần nhắc đến mùi hương. Trong Tinh hoa và Tinh huyết, Bích Khê 126 lần nhắc đến màu sắc, 52 lần nhắc đến âm thanh, 72 lần nhắc đến hương thơm. Trong Đau thương và Xuân như ý, Hàn Mặc Tử 46 lần nhắc đến màu sắc, 55 lần nhắc đến âm thanh, 45 lần nhắc đến hương thơm... Thi sĩ thơ Loạn cảm nhận vẻ đẹp lộng lẫy, yêu kiều, tươi rói của thiên nhiên bằng năng lực tổng hợp qua thính giác, thị giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, đem lại sự khám phá tinh túy, kỳ diệu về thế giới xung quanh mình.
Bích Khê say đắm trong không gian ngập tràn hương, sắc và giai điệu. Mộng cầm ca là hương sữa lúa, mùi tô hợp, hương trầm, hương xạ, hương dạ lan, hơi thở hoa hồng... Chúng như quyện lẫn vào nhau trong không gian tơ gợn sóng nhạc. Nhạc ngân từ khúc Lạc Mai Hoa, điệu Tỳ Bà, khúc Mộng Cầm ca... dẫn lối nhà thơ đến một vùng mộng tuyết, một bến xa khơi. Phải có sự thính nhạy và rộng mở của các giác quan trong trạng thái mê sảng mới có thể giúp thi nhân chiếm lĩnh thiên nhiên, khám phá vẻ đẹp thuần khiết và mới lạ đến thế. Nhiều bài thơ, Bích Khê mang đến cho người đọc “cả không gian là bể sáng tràn lan” phảng phất hương và nhạc: “Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc - Mát như xuân và ngọt tợ hương” (Hiện hình - Bích Khê). Nhà thơ như thấu thị thiên nhiên và con người để nghe những điều không ai nghe, nhìn thấy những gì không ai thấy, phá vỡ ranh giới của cảm giác, hòa nhập tất cả trong cảm quan tương ứng diệu kỳ. Thi sĩ nhìn trăng như một thứ dạ quang lung linh của ngọc ngà châu báu. Trăng tạo ánh lưu ly, màu xà cừ, san hô, ngọc thạch, trân châu, mã não, hổ phách... trong “niền hoan hỷ của tinh thần và giác quan”. Có lúc say trăng, Bích Khê lạc vào cõi mộng: “Hai ta vừa gối bến sông Ngân - Ôi! Nàng Xuân Hương để ngực trần - Ngâm bài Vấn nguyệt tiếng trong ngần - Nhìn xuống giai nhân cười như điên” (Nghê thường - Bích Khê). Thiên nhiên và con người đã xác lập một mối quan hệ mới, một sự vận động mới. Sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên là sự hòa điệu giữa tỉnh và mộng, hiện thực và siêu thực, cảm giác và ảo giác, giữa mùi hương, màu sắc và âm thanh trong một thế giới huyền bí, siêu nhiên: “Những cặp môi cười gươm sắc lẹm - Chóa lên không khí dội hương vang” (Mộng lạ).
Hàn Mặc Tử nghe tiếng đàn lại thấy sắc, thấy hương và giai âm lạ: “Bằng trăm tiếng vẽ ra trăm màu sắc - Với đôi tay nàng trút hết đê mê - Dạ lan hương bừng nở cánh e dè - Trong khúc nhạc rên đều hơi gió tới” (Đàn ngọc - Hàn Mặc Tử). Yến tiệc của đất trời ngào ngạt và lòng thi sĩ cũng ngất ngư trước bao mĩ vị cao sang, quyến rũ. Thi sĩ ướp hương cho hoa, nâng tất cả trên đôi cánh nhạc, siêu vượt trên những giới hạn trần tục: “Trăng là ánh sáng nhất là giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người cho thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả” (Chơi giữa mùa trăng - Hàn Mặc Tử); “Thơ em cũng giống lòng em vậy - Nghĩa là thơm tho như ánh trăng” (Lưu luyến - Hàn Mặc Tử). Thiên nhiên trong thơ Hàn là một thế giới đa dạng và sống động, phiếu diễu, đánh động mọi cảm giác và tri giác người đọc: “Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc - Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác - Rất phương phi, trên hết cả anh hoa” (Ra đời). “Sự thống trị của cái chủ quan là căn nguyên của việc thơ tượng trưng, siêu thực có ảnh hưởng sâu sắc đến Thơ mới” (Trần Nho Thìn).
Sự tương hợp này, dù không nhiều, nhưng đây đó vẫn thấy xuất hiện trong thơ Chế Lan Viên. Với ý thức chấp nhận cái tột cùng của bi thảm là sống với hư vô, Chế Lan Viên cảm nhận được cái nhỏ bé, đơn côi của mình trong cõi siêu hình như “một con chim thu lạc cuối ngàn”. Nhưng trong những phút giây ấy, thi sĩ được dịp phát triển hết mọi cảm quan, ngây ngất, đê mê, mơ mộng trước cảnh tượng u sầu, huyền ảo. “Hãy lắng nghe nhạc trăng vàng dãy dụa - Trong nhạc trăng vang nổi khắp cung mây” (Vo lụa - Chế Lan Viên).
Từ năng lực khám phá những tương ứng, tương giao trong thiên nhiên, Trường thơ Loạn đã bỏ “cái trông thấy” để đi vào thế giới bên trong, nơi âm thanh, màu sắc, hương thơm hòa hợp, sáp nhập với nhau. Thế giới đầy nhạc, đầy hoa thơm tho vô độ ấy là “thế giới của ước mơ, của sự giao hòa tương ứng giữa các giác quan, của sự mập mờ bất phân định giữa chủ thể và khách thể” [12,163].
Thơ Loạn không chỉ có sự tương hợp giữa các giác quan mà còn có cả sự tương hợp giữa trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật. Tư duy văn học đóng vai trò quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định đến sáng tác cũng như chất lượng tác phẩm. “Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy” [85,56]. Chế Lan Viên từng nói: “Nghe ngóng, quan sát, lấy tài liệu cũng chỉ giúp ta nắm chân lý lấy một nửa. Còn một nửa nữa là phải biết vận dụng tư duy… Tư duy phải làm nghìn triệu phép tính, bộ óc phải vận dụng từ sức quan sát, sự phán đoán, trí tưởng tượng” [27,87]. Ảnh hưởng từ những luồng tư tưởng tiến bộ phương Tây, Trường thơ Loạn đã có những chuyển biến mạnh mẽ đầy sáng tạo, phóng túng theo trí tưởng tượng, cảm xúc, nhân sinh quan, thế giới quan và hoàn cảnh riêng của chủ thể trữ tình. Thơ Loạn có sự dung hòa giữa tư duy phương Đông và phương Tây, thiên về trực giác và phi lý tính.
Hơn ai hết, các thi sĩ thơ Loạn quan niệm thi nhân phải là người thức nhọn mọi giác quan, đi sâu vào tận tâm hồn, cõi tâm linh của mình để đánh thức những miền bí ẩn, huyền diệu của thế giới vô thức, cảm nhận thế giới bằng trực giác chứ không phải bằng những trực cảm thông thường. Điều này cũng xuất phát từ nhu cầu muốn nắm bắt những tương quan, bí ẩn giữa con người và vũ trụ của các nhà thơ. Thi sĩ luôn quan sát, lắng nghe mọi âm thanh của vũ trụ, thế giới hồn mình, nhưng để nó bật lên thành nghệ thuật thì chỉ trong một khoảnh khắc, một phút giây nào đó thường không có sự tham gia của lý trí, mà là một nhận thức bất chợt ta gọi là giây phút “xuất thần”. Vậy trực giác là gì? Theo nhà triết học Pháp Bergson: “Chúng tôi gọi trực giác là sự thông cảm nhờ đó ta đem chính mình vào trong lòng sự vật để đồng hóa ta với cái gì là duy nhất là bất khả của sự vật đó” [60,29], và con người “Nhìn thấy được, nhận biết được một cách trực tiếp, không cần gián tiếp thông qua phân tích, chứng minh của lý trí. Nó giúp ta nắm được cái tiềm ẩn của sự vật, nhưng không theo quá trình được ý thức một cách rõ ràng” [52,17]. “Trực giác là một đột nhiên trong tâm lý ta bắt gặp một hình tướng hay ý tượng, mà thực ra đó là sự sáng tạo vì hình tướng là sự sáng tạo nên nghệ thuật [93,164]. Thông qua trực giác, nhà thơ có thể nắm được cái tiềm ẩn bên trong, “cái lõi” của sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp nhất, nó khác với những trực cảm thông thường của các nhà thơ lãng mạn. Thực ra, trong văn học nghệ thuật phương Đông từ xa xưa đã có cái nhìn trực giác tâm linh. Đỗ Phủ cho rằng “thi thành, khấp quỷ thần” (thơ thành khiến cho quỷ thần phải khóc). Sự ngự trị của con mắt tâm linh trong thơ ca phương Đông thường đưa đến chiều hướng làm thơ theo phép mộng tưởng, giả tưởng. Các tác giả Xuân Thu nhã tập xem trực giác là bản chất có tính cội nguồn của thơ. Trong tuyên ngôn của mình, Xuân Thu nhã tập cho rằng: “cái mà thời nhân có thể cho là hấp thụ của phương Tây, thì người Á Đông ta có cái trí cổ sử, trực giác ngay từ lúc đầu, nhờ một ngôn từ đặc biệt” [86,36]. Cổ nhân gọi điều mà trực giác trực tiếp cảm thấy được là cái “thần” của sự vật. Đó là sự vụt hiện, là khoảnh khắc gây nổ tung, tuôn vọt những cảm xúc, cảm giác ở thang độ đỉnh điểm vốn tích lũy những mãnh lực nằm ẩn sâu trong lớp vô thức. Chính trực giác và vô thức làm cho nghệ thuật bùng phát và tỏa sáng. “Toàn bộ tác phẩm nghệ thuật đều do tính trực giác sáng tạo sinh ra” (Maritain), mà cơ sở của tính trực giác sáng tạo là “tinh thần vô thức”. Theo Maritain, nguồn gốc của sự hoạt động con người dù là lý tính hay phi lý tính đều gom về một mối là tinh thần vô thức. Và tinh thần vô thức ẩn tàng trong cội nguồn chung của toàn bộ lực lượng tâm hồn.
Trong thơ Loạn, thế giới tượng trưng mờ ảo là thế giới lý tưởng của từng thi sĩ. Có thể là thế giới của niềm tin và của trăng quằn quại trong thơ Hàn Mặc Tử; là thế giới của hồn ma, tử khí, xương khô trong thơ Chế Lan Viên; hay thế giới đầy nhạc, lệ, đẹp, dâm, cuồng, ánh sáng và tình yêu trong thơ Bích Khê... Và trong thế giới tượng trưng, dường như tất cả được nhìn bằng trực giác và vô thức. Vô thức như một giây phút thôi miên từ hư vô xa thẳm vẫy gọi tác phẩm hình thành. Từ trực giác và vô thức, thi sĩ thơ Loạn có thể nghe “tiếng sao rơi”, “âm hưởng địa cầu đang vỡ toang ra từng mảng”, ngửi được “hương trăng”, thấy được “lòng trăng mật”... Vô thức trong thơ Loạn được khởi phất từ những điều ám ảnh của thực tại khách quan mà các nhà thơ từng trải qua và có tác động cực kỳ to lớn đến nhận thức của họ. Nhưng những ám ảnh của các thi nhân có thể xuất phát từ những ẩn ức dồn nén do bi kịch cá nhân đem lại. Chính những ảnh hưởng to lớn của thực tại khách quan chèn ép đến nhận thức khiến nhà thơ ám ảnh. Trực giác dẫn dắt thi nhân đến chân trời huyền bí, bằng lý trí khó cắt nghĩa được, tất cả đều mơ hồ, bí ẩn: “Thơ bay! Thơ bay vô tay ngà, - Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say! - Nàng ơi! Đừng động có nhạc trong giây, - Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây - Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động” (Nhạc - Bích Khê). Hai bờ thực ảo bị xóa nhòa, chỉ còn tâm hồn siêu thăng, lắng đọng để âm nhạc dìu dặt ngân lên. Không gian thực mất đi chỉ còn là cõi mộng tưởng, vô hình, hư vô “hoa mộng”, “đào động”, “nàng tiên nương”. Có khi, những hình ảnh rùng rợn của chiếc sọ người với đôi hố sâu gớm ghiếc của mắt, với hàm răng nhe ra như tinh ma, thi nhân bảo đó là bình vàng chén ngọc, chứa đựng những khoái lạc lịm người, thơm tho ngào ngạt: “Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng! - Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương! - Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương! - Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng! - Ôi thần tình! người chứa một trời thương. - Người yên tịnh nhưng người đi muôn dặm - Máy thu thanh hòa âm nhạc thơm tho! - Miệng yêu kiều mơn ánh sáng say no! - Nguồn trinh tiết gây hồng tươi xanh thắm! - Bầu sữa người êm mát vạn sầu lo” (Sọ người - Bích Khê). Hàn Mặc Tử nhận xét thẩm mỹ quan của Bích Khê rằng: “Trực giác của thi sĩ mạnh quá, đến nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả bóng Nghê thường đang nao nao gợn, và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa ngọc (…). Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có được cái ma lực huyền diệu cám dỗ được ngũ quan của người trần” (Tựa Tinh huyết)… Cái tôi tâm linh đầy ẩn ức trong thơ Bích Khê có sự trộn lẫn giữa những gì trần tục và thanh cao, có cả địa ngục và thiên đường, khát vọng cao cả và khoái lạc thân xác… Cho nên, ngoài Sọ người, còn có những Tranh lõa thể và những Mộng lạ làm người đọc ngỡ ngàng và kinh ngạc. Những bức tranh “nuy” là kết quả thăng hoa của những ẩn ức dồn nén, bị chế ngự trong vô thức và đến đỉnh điểm xung động thì bừng nở ở một chàng trai trẻ chịu định mệnh đóng đinh bằng căn bệnh lao quái ác. Từ thực tại khắc nghiệt và lòng khát khao vô hạn độ của bản năng tuổi trẻ, Bích Khê tìm sự giải hạn bằng cuộc phiêu du trong cõi tinh thần, cõi tâm linh, “chiếm lĩnh cái đẹp nguyên sơ, toàn vẹn”: “Một người thiếu nữ hiện trong trăng - Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt - Da thịt phô bày ý tuyết băng” (Hiện hình - Bích Khê). Bích Khê làm thơ có sự gia công nghệ thuật rất rõ. Như một nhà luyện đan ngôn từ, thi sĩ “cặm cụi đun nấu, pha chế, thử nghiệm các con chữ. Ông dò tìm năng lực tiềm ẩn của chúng: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, hình ảnh…” [88,188], nhưng có những thoáng chốc, trong vô thức, ngôn từ dìu nhau đi tự nhiên trên văn bản làm mê hoặc, quyến rũ người đọc thơ: “Đây bóng lá ánh trăng nhuồm sấp ngã - Một cô hồn có lẽ thoáng đi qua - Sao lốm đốm trên cây nằm lả tả - Một chuỗi cười rồ rộ ở trong hoa” (Người say rượu - Bích Khê).
Như Bích Khê, Hàn Mặc Tử phải chịu căn bệnh quái ác trầm kha dày vò thể xác và tâm hồn đến tê dại. Chính vì vậy, không ít câu thơ của Hàn ghi ra trong trạng thái hỗn loạn đau đớn mà không ai lý giải được. Đó là thế giới hình tượng đầy trăng, hoa, hương lẫn lộn với hồn và máu được cảm nhận bằng trực cảm sắc nhạy. Đây là ám ảnh của linh thị khi bệnh tình vừa phát tiết: “Lụa trời ai dệt với ai căng - Ai thả chim bay đến Quảng Hằng - Và ai gánh máu đi trên tuyết - Mảnh áo da cừu ngắm nở nang” (Cuối thu - Hàn Mặc Tử). Và đây, những vần thơ Hàn ghi lại sau khi trở về từ cõi chết: “Cả hơi hám muôn xưa theo ám ảnh - Hồn trơ vơ không biết lạc về đâu - Và vướng vất phải muôn ngàn tinh khí lạnh - Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu” (Hồn lìa khỏi xác - Hàn Mặc Tử)… Thơ Hàn Mặc Tử diễn đạt những giấc chiêm bao, những ảo giác bằng những câu, những nhịp điệu mơ hồ, đứt quãng. Thơ thể hiện trong trạng thái nửa mơ, nửa thức, chập chờn, bất định. Thi sĩ đã xáo trộn những quan hệ trong cuộc sống và thi ca. Logic của thơ ca không được tuân thủ theo trật tự bình thường, một hiện thực quen thuộc mà là siêu hiện thực. Cốt lõi của bài thơ hình thành một mạch chìm đâm cành rẽ nhánh, biến hóa theo dòng tư tưởng, tình cảm, qua cảm nhận trực quan của thi nhân: “Ai đi lẳng lặng trên làn nước - Với lại ai ngồi khít cạnh tôi - Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng - Không nói không rằng nín cả hơi?” (Cô liêu - Hàn Mặc Tử)… Những dòng thơ ám thị, cuốn hút người đọc vào thế giới hư thực, chập chùng, lung linh. Đó là tiếng lòng của giấc mơ, của cơn say, sự mê sảng, của dòng ý thức và vô thức đan chéo, mắc giăng.
Chế Lan Viên cũng có nhiều bài thơ sáng tác từ kiểu tư duy kết hợp trực giác và vô thức. Chán ghét thực tại, Chế quay về quá khứ, tìm lại nước Chàm xưa cũ. Trên đường về, bằng trực giác của mình, thi nhân đã nghe được bao âm thanh huyền bí, ghê sợ vọng lên từ cõi tâm linh: “Ta hãy nghe, trong mồ sâu lạnh lẽo, - Là thịt người nảy nở tiếng xương rên” (Bóng tối - Chế Lan Viên). Tất cả như tan biến chỉ còn hồn ma ám ảnh, vô thức sống dậy đẩy lùi ý thức, thậm chí phủ nhận luôn sự tồn tại của ý thức. Nhà thơ dựng lại quá khứ của dân tộc Chiêm Thành, sống với những hình ảnh về hồn ma bóng quỷ, lấy trạng thái “điêu tàn” làm đối tượng thẩm mĩ: “Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng - Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh - Đây, chiến thuyền nằm mơ bên sông lặng - Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành” (Trên đường về - Chế Lan Viên). Từ cái nhìn bi quan về cuộc đời, Chế đã nhập vào dân Chàm mà khóc thương cho kiếp buồn của họ, vực dậy sự đổ nát, điêu tàn của thời đại. Nỗi đau mất nước của dân tộc Việt được Chế Lan Viên gián tiếp bày tỏ qua cách quay về dĩ vãng, tìm đến nước non Chàm một thuở oai linh. Một đất nước mà muốn tìm nó phải đi qua một biên giới quan trọng: xóa bỏ thực tại, vào cõi hư vô để cảm nhận bằng trực giác và vô thức. Vì chính hư vô mới có thể bắt gặp đầy đủ cả một vương quốc, cả một nền văn minh đền tháp, cả một thế giới du dương bởi màu sắc và âm thanh… Chính giữa hư vô, nơi nhà thơ nhập thể vào, vẳng lên tiếng hát như thực, như mộng của Chiêm nương: “Chiêm nương ơi, cười lên đi em hỡi! - Cho lòng anh quên một phút buồn lo! - Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi - Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?” (Đêm tàn - Chế Lan Viên). Người tình Chiêm nữ biểu trưng cho nỗi u sầu, oán hận của một đất nước tươi đẹp đã mất: “Đây những cảnh thái bình trong Chiêm quốc - Những cô thôn vàng nhuộm ánh chiều tươi - Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp - Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui” (Trên đường về - Chế Lan Viên). Dù đang ở trên bóng núi mây cao hay trong vòng tay âu yếm của người tình, linh hồn Chiêm nữ vẫn đau đáu hướng về cố quốc. Hoài vãng về nước non Chàm một thời rực rỡ, một người tình diễm lệ, hư vô cũng là cách để Chế Lan Viên giải phóng những ẩn ức của thực tế cuộc sống. Bởi, trong thời đại bấy giờ, muốn bày tỏ nỗi lòng một cách trọn vẹn, không gì hơn bằng quay về quá khứ, mượn hình ảnh người làm hình ảnh mình, mượn tiếng than của người làm tiếng than của mình, mượn nỗi thù hận của người làm nỗi thù hận của mình.
Nghệ thuật tương hợp giúp Trường thơ Loạn thiết kế nhiều bài thơ tân kỳ, lôi cuốn người đọc vào miền tâm linh miên viễn. Tuy vậy, sự đề cao thái quá trực giác và vô thức đây đó cũng khiến thi phẩm Trường thơ Loạn mất cân bằng, có lúc vượt qua từ trường tượng trưng, men vào lãnh địa siêu thực, dễ đi vào siêu hình thần bí.
Tiểu kết
Từ sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật tất yếu
sẽ dẫn đến một kênh mới về phương thức thể hiện trong sáng tác của Trường thơ
Loạn, mà trước hết là sự cách tân về ngôn ngữ. Các thi nhân đã mang đến cho thi
phái của mình một ngôn ngữ thơ mới lạ, độc đáo, giàu thủ pháp tạo nghĩa, kéo
thơ đến gần với nhạc và họa bằng giai âm huyền hồ và sắc màu diệu vợi. Có thể
xem nhạc và họa như một chiếc áo tân kỳ lung linh và rực rỡ, được Trường thơ Loạn
sử dụng như một nét thi pháp nổi trội trong suốt hành trình sáng tác. Thơ Loạn
là một thế giới vĩnh cửu được tạo nên từ sự thức nhận ngôn từ, sự đa thanh giọng
điệu, cùng nghệ thuật tương hợp để hòa trộn mọi giác quan, tạo cho thơ một thế
giới tinh vi và khơi gợi, ngợi ca những hệ lụy cõi đời, những khát khao trần thế,
những mối giao hòa giữa con người với vũ trụ vô biên. Tuy có lúc, Trường thơ Loạn
để tâm trí của mình phiêu diêu quá xa đời thực khiến hình tượng thơ có phần cầu
kỳ, gây cản trở quá trình lĩnh hội, nhưng không thể phủ nhận, cách diễn đạt mới
lạ của các thi sĩ đã tạo nên sự thay đổi chiều sâu, làm nên một cú hích quan trọng
trong quá trình phát triển thơ Việt.
KẾT LUẬN
1. Chỉ trong vòng chưa đầy 15 năm, Thơ mới đi trọn vẹn hành trình bằng hơn
100 năm thơ Pháp (Phan Cự Đệ), thành một hiện tượng có một không hai trong lịch
sử văn học dân tộc. Phong trào Thơ mới tỏa sáng với những tên tuổi và thi phẩm
bất hủ, kiến trúc nên thời đại rực rỡ với nhiều khuynh hướng, nhiều trường phái
sáng tạo. Nhưng nhìn lại quá trình vận động và phát triển phong trào Thơ mới,
so với những nhóm thơ khác, Trường thơ Loạn khẳng định tên tuổi và vị thế của
mình hơn cả. Đây là một hiện tượng văn học vô cùng phong phú, đa dạng nhưng
không kém phần phức tạp. Lịch sử nghiên cứu, phê bình hơn hai phần ba thế kỷ
qua đã chứng minh điều ấy. Cũng từ lịch sử nghiên cứu, phê bình, chúng tôi nhận
thấy, dù đã có khá nhiều những chuyên luận, bài báo trực tiếp hoặc gián tiếp đề
cập đến biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong thơ Loạn. Song, chưa có
công trình nào nêu lên vấn đề này như đối tượng nghiên cứu trọn vẹn.
2. Sự gặp gỡ, tiếp thu và tiếp biến thi pháp tượng trưng phương Đông thâm
trầm, huyền bí với thi pháp tượng trưng phương Tây hiện đại cùng bi kịch cá
nhân như món quà vô giá mà tạo hóa ban phát, đã giúp những nghệ sĩ thơ Loạn thiết
kế nên những vần thơ thiên tài, kinh hoàng và thu hút. Thơ Loạn là sự tích hợp
giữa lãng mạn và tượng trưng, càng về sau yếu tố tượng trưng càng đậm nét. Đó
là cuộc cách mạng vĩ đại thể hiện ở khả năng hòa nhập và tái tạo với một tinh
thần luôn học hỏi, không chịu lùi bước, không chịu đi theo lối mòn khuôn sáo
cũ.
Quá trình tiếp biến và kết tinh yếu tố tượng trưng nói trên là bệ đỡ để Trường
thơ Loạn thể hiện quan niệm mới lạ về thơ. Trường thơ Loạn thần thánh hóa vai
trò của nhà thơ, xem việc sáng tác thơ là cuộc du ngoạn của những cảm xúc tinh
túy, thăng hoa trong “khoái lạc của hồn đau” (Võ Long Tê), trong tột cùng đau
thương và hạnh phúc. Họ đặt thơ vào cái vô hình và xuất phát từ cảm giác, vì thế
thơ không còn là truyền cảm nữa mà là gợi cảm. Độc giả phải tự khai mở những hướng
đi của thơ vào tâm hồn mình để tiếp nhận được những gì tế vi nhất.
3. Từ ảnh hưởng của thi phái tượng trưng, Trường thơ Loạn mang đến cho người
đọc thế giới hình tượng và biểu tượng độc đáo.
Đi từ cái tôi gắn kết giữa thi nhân và tín đồ đến cái tôi đối cực trần thế và siêu nhiên, để từ đó bằng mộng mơ và tưởng tượng, cái tôi trữ tình thơ Loạn vượt thoát vào một thế giới mới, một vũ trụ mới được dệt bằng hương hoa, thanh sắc và giai âm. Ở đó, con người mang trong mình tột đỉnh đau thương và khát vọng, vượt khỏi giới hạn chật hẹp của thể xác để thoát thai vào cõi hư vô. Con người có xu hướng nhìn sâu vào bản thể mình để tìm kiếm những giá trị mới và những cơn vận động run rẩy của linh hồn, sự hoảng loạn, đổ vỡ của nội tâm quay cuồng trong cơn đau thương mê sảng…
Cùng với hình tượng cái tôi, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật cũng là hình tượng thơ đặc sắc của Trường thơ Loạn. Trường thơ Loạn lấy mình, lấy chung quanh mình làm đối tượng chiêm quan để khái quát lên những hình tượng không gian và thời gian độc đáo. Các thi nhân dệt nên những sợi không gian, thời gian với rất nhiều sắc màu tâm trạng, nhưng đều ở mức độ mãnh liệt nhất, đồng hiện cùng những buồn, vui, hạnh phúc và đớn đau, qua đó nói lên hiện thực và các phạm trù có liên quan đến đời sống con người.
Việc tiếp thu lý thuyết tượng trưng
làm cho biểu tượng trong sáng tác Trường thơ Loạn mang ý nghĩa phổ quát cao. Biểu
tượng là phương thức hữu hiệu giúp thơ Loạn độc đáo và quyến rũ. Sự sống của
các nhà thơ Loạn là sự tụ tán của Trăng - Hồn - Máu. Trăng là kết tinh vẻ đẹp
đau thương và thánh thiện, hồn là phần anh linh của thi sĩ, máu là thể xác thống
khổ về những thảm sử. Cùng với đó, Hoa - Nhạc - Hương cũng là chuỗi biểu tượng
xuất hiện với tần số cao trong thơ Loạn, gợi vẻ trinh nguyên và thanh khiết. Những
biểu tượng này được đặt trong mối liên hệ, hỗ tương, tác động với nhau để tạo
ra thế giới nghệ thuật tân kỳ và bí hiểm, làm nên mỹ học tượng trưng đặc thù Việt
Nam.
4. Trong hành trình đến với thơ tượng trưng, Trường thơ Loạn thực hiện cuộc
phiêu lưu kiếm tìm phương thức thể hiện phù hợp với quan niệm nghệ thuật, tạo
nên những phong cách thơ mới lạ, riêng biệt nhưng thống nhất, nhất là trên các
phương diện: ngôn ngữ, giọng điệu và nghệ thuật tương hợp trong thơ.
Quá trình cách tân ngôn ngữ trong Trường thơ Loạn xuất phát từ sự thức nhận ngôn từ. Với ngôn từ mới lạ, hàm súc, đa dạng thủ pháp tạo nghĩa, Trường thơ Loạn đưa người đọc đến một thế giới ảo mộng, hư huyền, mở ra một vùng cảm xúc kỳ diệu. Các thi nhân đã chiếm lĩnh, cắt nghĩa vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ thơ một cách tài tình, linh hoạt và phong phú.
Ngôn ngữ
trong thi phẩm thơ Loạn rất giàu nhạc tính và họa tính. Có thể nói, Trường thơ
Loạn tìm đến thơ tượng trưng như tìm sự hội ngộ của tư duy truyền thống và hiện
đại. Hai trong ba trụ cột của Trường thơ Loạn trước khi đến với thơ tượng trưng
đã làm thơ Đường khá vững. Do đó, họ chắc chắn không xa lạ với nguyên tắc mĩ học
“thi trung hữu nhạc” và “thi trung hữu họa” của thơ ca phương Đông. Nhờ đó, thi
phẩm thơ Loạn có sức mạnh gợi cảm khi biết tổng hợp vào mình nhiều loại hình
nghệ thuật khác như hội họa và âm nhạc.
Bên cạnh đó, một trong những phương diện tạo nên giá trị bền vững cho thơ Loạn là giọng điệu thơ. Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác của Trường thơ Loạn đa sắc điệu, có khả năng chứa đựng, diễn tả được cảm xúc, tâm trạng cũng như những suy nghiệm của nhà thơ trước cuộc đời. Từ giọng điệu đó, người đọc có thể cảm nhận chính xác hơn những u buồn cay đắng, thấm đẫm nỗi đau đời; hay tình cảm đằm thắm thiết tha, cái sôi nổi cũng như cái trần trụi, xót xa khi nhà thơ thể hiện những nghịch lý trong đời sống.
Trường thơ Loạn bước vào địa hạt thơ tượng trưng, dù còn những hạn chế nhất định, nhưng đã mang đến cho thơ vẻ đẹp thăng hoa từ những điều thiêng liêng và kinh dị. Thơ Loạn là thế giới của sự tương thông, thế giới của “hương thơm, màu sắc, âm thanh trong không gian tương ứng”. Các thi sĩ đã khai phá thế giới tâm linh vi diệu ấy bằng trực giác sắc nhạy, vô thức và bản năng để thiết kế nên một mô hình thơ hiện đại, đưa thơ Việt tiến vào quỹ đạo thơ thế giới.
Đã tròn 80 năm tính từ ngày thành lập,
nhìn lại, Trường thơ Loạn đã hoàn thành trọng trách lịch sử - thi ca của mình.
Tất cả họ đã sống hết mình trong niềm đam mê vô hạn với thơ để khám phá, sáng tạo
ra một “cuộc đời thứ hai bằng ngôn ngữ” (Chế Lan Viên). Các thi sĩ đã ra đi,
nhưng vườn thơ họ vẫn điểm sắc, tỏa hương thơm ngát giữa dòng thời gian miên viễn
của cõi người
NHỮNG CÔNG TÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI
1. Võ Như Ngọc (2014), “Quan niệm nghệ thuật của Trường thơ Loạn - nhìn từ thi
phái tượng trưng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Huế,
số 2, tập 1.
2. Võ Như Ngọc (2012), “Sự vận động hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Quy Nhơn, số 3, tập 6.
3. Võ Như Ngọc (2012), “Chế Lan Viên - nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”, Tạp
chí Lý luận và phê bình văn học nghệ thuật, số 3.
4. Võ Như Ngọc (1015), “Trường thơ Loạn - Thi trung hữu họa”, Tạp chí Văn hiến
Việt Nam, số 9 (248).
5. Võ Như Ngọc (2015), “Không gian văn hóa của Trường thơ Loạn trong phong trào
Thơ mới 1932 - 1945”, Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 60.
6. Võ Như Ngọc (2011), “Cảm thức thời gian trong thơ Chế Lan Viên”, Tạp chí Văn
hiến Việt Nam, số 9 (181).
7. Võ Như Ngọc (2015), “Thế giới biểu tượng trong sáng tác của Trường thơ Loạn”,
Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 55.
8. Võ Như Ngọc (2014), “Cảm thức hoài vãng trong Điêu tàn”, Tạp chí Văn nghệ
Bình Định, số 19 + 20.
9. Võ Như Ngọc (2011), “Sự vận động quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên”, Tạp
chí Đất Quảng, số 92 (214).
10. Võ Như Ngọc (2016), “Không gian và thời gian nghệ thuật trong sáng tác của
Trường thơ Loạn”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, (có giấy nhận đăng).
11. Võ Như Ngọc (2015), “Nhạc và họa trong thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Văn hóa
Bình Định, số 62.
12.Võ Như Ngọc (2012), “Trường thơ Loạn với hoa trái đau thương và sắc màu
khoái lạc”, Tạp chí Văn nghệ Bình Định, số 15.
13. Võ Như Ngọc (2016), “Trăng trong thơ Yến Lan”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Yến
Lan - một nhân cách, một sự nghiệp thi ca, Hội Văn học Nghệ thuật Bình Định tổ
chức nhân kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ Yến Lan.
14.Võ Như Ngọc (2014), “Vẻ huyền ảo của biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong sáng
tác Trường thơ Loạn”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Yếu tố kỳ ảo và huyền thoại
trong văn học, Đại học Khoa học Huế. 15. Võ Như Ngọc (2012), “Trường thơ Loạn
và nỗi khát khao làm sự phi thường”, Tạp chí Văn nghệ Bình Định, số 14.
16. Võ Như Ngọc (2015), “Trực giác và vô thức trong thơ Bích Khê”, Tạp chí Văn
nghệ Bình Định, số 25.
17. Võ Như Ngọc (2013), “Chế Lan Viên - Từ tháp Chàm bí ẩn đến tháp Bay-on bốn
mặt”, Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 58.
18. Võ Như Ngọc (2015), “Trường thơ Loạn với sự lạ hóa chứ quốc ngữ”, Kỷ yếu Hội
thảo Bình Định với chữ quốc ngữ, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh
Bình Định tổ chức.
19. Võ Như Ngọc (2016), “Người tình Chiêm nữ trong thơ Chế Lan Viên”, Tạp chí Đất
Quảng, số 145 (267).
20. Võ Như Ngọc (2016), “Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác của Trường thơ Loạn”,
Tạp chí Văn hóa Bình Định, số 64.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”,
Tạp chí Văn học, số 1.
2. Vũ Tuấn Anh (1997) Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
3. R. M. Albérès (1963), (Phạm Đình Khiêm dịch) Tổng kết văn học thế kỷ XX, Viện
Đại học Huế.
4. Nguyễn Bao (1991), Xuân Thu nhã tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. C. Baudelaire (1995) (Vũ Đình Liên dịch), Thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Phan Canh (1999), Thi ca Việt Nam thời tiền chiến 1932 - 1945, Nxb Đồng
Nai.
7. Đinh Cường (1966), “Nhạc và họa trong thơ Bích Khê”, Tạp chí Văn, số
64.
8. Jacques Charpier, Pierre Seghers (1996) (Lê Thanh Lộc dịch), Nghệ thuật hội
họa, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. X. Darcos (1997) (Phan Quang Địch dịch), Lịch sử văn học Pháp, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
10. Trương Đăng Dung (1998), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
11. Phan Huy Dũng (1999), “Tổ chức bài thơ theo sự dẫn dắt của âm nhạc: một đặc
điểm loại hình kết cấu của nhiều bài thơ mới”, Tạp chí Văn học, số 2.
12. Phan Huy Dũng (2000), Kết cấu trong thơ trữ tình, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội.
13. Will Durrant (1999) (Nguyễn Hiến Lê dịch), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Xuân Diệu (1938), “Thơ của người”, Báo Ngày nay, số ra ngày 7 tháng
8.
15. Hoàng Diệp (1969), Chế Lan Viên, Thi sĩ tiền chiến, Nxb Khai trí, Sài
Gòn.
16. Phan Cự Đệ (1998), Hàn Mặc Tử: tác phẩm, phê bình và tưởng niệm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ, Nguyễn Toàn Thắng (2003) (Tuyển chọn và giới thiệu), Hàn Mặc Tử,
về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu văn hóa, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
19. Phan Cự Đệ (tái bản 1998), Phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Hà Minh Đức (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (1996), “Điêu tàn và tâm hồn thơ Chế Lan Viên”, Tạp chí Văn học,
số 10.
23. Hà Minh Đức (1999), Một thời đại trong thi ca, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Hà Minh Đức (2001), Văn chương, Tài năng và phong cách, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
25. Alain Gheerbrant - Jean Chevalier (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Nxb Đà Nẵng.
26. Bích Hà (Tuyển chọn và giới thiệu) (2006), Hàn Mặc Tử - một cá tính sáng tạo
độc đáo, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
27. Hồ Thế Hà (1999), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
28. Hồ Thế Hà (2007), Những khoảnh khắc đồng hiện, Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Lê Bá Hán (chủ biên, 1998), Tinh hoa Thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Minh Huy (1962), Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam, Nhà sách Khai
Trí, Sài Gòn.
32. Hoàng Hưng (1993), “Thơ mới và thơ hôm nay”, Tạp chí Văn học, số 2.
33. Đoàn Trọng Huy (1994), Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức nghệ thuật
thơ Chế Lan Viên từ sau 1945, Luận án Phó Tiến sĩ Ngữ Văn, Hà Nội.
34. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong
Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Nguyễn Quốc Khánh (1999), Thi pháp thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Quốc Khánh, (2004), Trường thơ Bình Định, Diện mạo và những đóng góp
vào phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học
Quy Nhơn.
37. Nguyễn Trọng Khánh (2006), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ
góc độ ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Bích Khê (1995), Tinh hoa, Tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
39. Nguyễn Hoành Khung (1983), “Hàn Mặc Tử”, Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
40. Milan Kundera (1998) (Nguyên Ngọc dịch) Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng.
41. Lê Đình Kỵ (1996), Thơ mới, những bước thăng trầm, Nxb Thành phố Hồ
Minh.
42. Kishnamuti (1976), Tự do và hòa bình, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
43. Đinh Trọng Lạc (2000), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
44. Đinh Trọng Lạc (Chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (2004), Phong cách học tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Phong Lan (sưu tầm và biên soạn) (2006), Chế Lan Viên người làm vườn vĩnh cửu,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
46. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
47. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Lao động, Hà Nội.
49. C. De Ligny - M. Rousselot (1998), Văn học Pháp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nguyễn Tấn Long (1968), Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Nxb Sống
mới, Sài Gòn.
51. Nguyễn Tấn Long, Phan Canh, (1968), Khuynh hướng thơ ca tiền chiến, Nxb Sống
mới, Sài Gòn.
52. Phương Lựu (2001), “Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật”,
Tạp chí Văn học, số 2.
53. Trần Thanh Mại (1941), Hàn Mặc Tử - thân thế và thi văn, Nxb Tân Việt, Sài
Gòn.
54. Nguyễn Thanh Mừng (1992), Bích Khê Tinh hoa và Tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
55. Lê Hoài Nam (1998), “Thế giới nghệ thuật trong tập thơ Tinh huyết của Bích
Khê”, Tạp chí Văn học, số 321.
56. Phan Quỳnh Nga (1999), “Thơ, Người thơ, Nghề thơ trong quan niệm thơ Hàn Mặc
Tử”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 2.
57. Phan Ngọc (1993), “Ảnh hưởng của văn học Pháp tới văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945” Tạp chí Văn học, số 4.
58. Văn Ngọc (2004), Đi trong thế giới hội họa, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
59. Hoàng Sĩ Nguyên (2007), Thơ mới 1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
60. Vương Trí Nhàn (1996) Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
61. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam giao lưu, gặp
gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (2004), 70 năm đọc thơ Bích Khê, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (2006), Tham luận hội thảo thơ Bích Khê, Hội Nhà Văn Việt Nam
- Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ngãi.
65. Nhiều tác giả (1991), Xuân Thu nhã tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
66. Lê Huy Oanh (1967), “Thơ tượng trưng Pháp và Việt Nam”, Tập san Văn, số
66.
67. Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội.
68. Vũ Ngọc Phan (1959), Nhà văn hiện đại, Nxb Thăng Long, Sài Gòn.
69. Phạm Phú Phong (2008), “Bích Khê trong Trường thơ Loạn”, Bích Khê tinh hoa
tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
70. Phạm Phú Phong - Phạm Phú Uyên Châu (2012), “Hàn Mặc Tử trong Trường thơ Loạn”,
Kỷ yếu tham luận Hội thảo 100 năm sinh nhà thơ Hàn Mặc Tử, Bình Định.
71. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí (Tập 3), Nxb Thuận
Hóa, Huế.
73. Nguyễn Quân, Vương Trí Nhàn (1982), “Mười nhà thơ lớn của thế kỷ”, Chân
dung văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
74. A. Rimbaud (1997) (Huỳnh Phan Anh dịch và giới thiệu), Một mùa địa ngục,
Nxb Văn học, Hà Nội.
75. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Chu Văn Sơn (2001), “Thơ điên Hàn Mặc Tử, Thi học của cái tột cùng”, Tạp
chí Văn học, số 11.
77. Chu Văn Sơn (2001), Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
78. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
81. Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
83. Hoài Thanh, Hoài Chân (Tái bản 2000), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
84. Hoài Thanh (1965), Phê bình và tiểu luận, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
85. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
86. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Văn
học, Hà Nội.
87. Nguyễn Toàn Thắng (2007), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
88. Đỗ Lai Thúy (1997), Mắt thơ - phê bình phong cách Thơ mới, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
89. Đỗ Lai Thúy (2007), “Chế Lan Viên tháp Chàm bốn mặt”, Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, số 6.
90. Trần Thị Huyền Trang (1997), Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật đắng, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
91. Xuân Tùng (2001) (sưu tầm và biên soạn), Thơ và văn xuôi Hàn Mặc Tử, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
92. Nguyễn Bá Tín (1994), Hàn Mặc Tử trong riêng tư, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
93. Chu Quang Tiềm (1991), (Khổng Đức Đinh Tấn Dung dịch) Tâm lý văn nghệ - Mỹ
học hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
94. Nguyễn Quốc Túy (1994), Thơ mới - Bình minh thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
học, Hà Nội.
95. Hàn Mặc Tử (1997), “Bích Khê thi sĩ thần linh”, Tuyến tập phê bình nghiên cứu
văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
96. Trương Tửu (1938), “Quan niệm về thơ Chế Lan Viên”, Báo Ích hữu, số
103.
97. Chế Lan Viên (1940), “Những kỷ niệm về Hàn Mặc Tử”, Báo Người mới, số ra
ngày 23 tháng 11.
98. Chế Lan Viên (1942), Vàng sao, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
99. Chế Lan Viên (1990), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
100. Chế Lan Viên (1967), Điêu tàn, Nxb Hoa Tiên, Sài Gòn.
B. Tiếng
nước ngoài:
101. Austin. L.J (1956), L'Univers poétique de Baudelaire, Mercure de
France.
102. Barasch. M (2000), Theories of art, (2) from Winckelmann to Baudelaire,
Routledge.
103. Chatel. N (1970), Charles Baudelaire, Coll. Les Géant, Paris -
Match.
104. Eliot. T.S (1951), "Baudelaire", Selected essays,
Faber and Faber limited, London, p. 419 - 430.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét