Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Cửu Long cạn dòng biển đông dậy sóng 2

Cửu Long cạn dòng biển đông dậy sóng 2

CHƯƠNG VI
NHỮNG NGÀY SINGAPORE VÀ MẶT TRẬN Ở CHIANG RAI
Buột tiếng kêu vô vọng thinh không
Như con nước cuồng lưu mùa lũ.
Thanh Tâm Tuyền
Khu đường bay quốc tế chiều thứ Sáu nhộn nhịp cảnh tiễn đưa: Họ là đám sinh viên đi du học, đa số là tự túc tới các Đại Học lớn ở Mỹ. Đi Tây, sang các nước Âu Châu không còn là giấc mơ cao nhất như của những chàng trai đất Việt hơn nửa Thế Kỷ trước. Và bây giờ chỉ có Mỹ là nhất, nếu có một giấc mơ phải là Giấc Mơ Mỹ Quốc (The American Dream) nếu được quyền lựa chọn.
Trên một đất nước Việt Nam gọi là đổi mới thì đế quốc Mỹ vốn là kẻ thù nay trở thành chỗ dựa vững chắc; và đám tư sản người Hoa vốn là giai cấp phản động thì nay lại là người bạn đồng hành đáng tín cẩn trong các vụ đầu tư làm ăn lớn.
Và trưa nay Hộ cũng chẳng ngạc nhiên khi gặp lại đồng chí Sáu Dân tổng cục trưởng tổng cục lúa gạo ra tiễn đứa con thứ tư đi du học UC Berkeley bên California. Ba đứa kia thì một ở Canada và hai đứa ở Úc. Như các gia đình cán bộ khác, Sáu Dân thấy mình chưa thể hãnh diện nếu chưa gửi được một đứa con nào sang học ở Mỹ cho dù phải tốn kém tới đâu. Và nhìn xa hơn thì đó là những đầu cầu an toàn để chuẩn bị cho cái ngày cuối của ‘’diễn tiến hòa bình’’ có thể thấy trước là bất trắc.
Và Hộ cũng gặp chú Quách chủ Công Ty Bột Ngọt Vivan đưa cô gái út đi Mỹ. Cuộc đời chú Quách phải nói là thăng trầm theo với vận nước Việt Nam. Trước 75, khởi từ một cửa hiệu chạp phô nhỏ chú Quách trở thành chủ thầu Quân Tiếp Vụ rất có uy tín với các bà Tướng trong dịch vụ cung cấp lương khô nuôi sống hơn một triệu tay súng của Quân Đội Miền Nam. Sau 75 chỉ vì bịn rịn với cô vợ bé măng tơ mà bị kẹt lại để rồi sau đó bị tan tác trong đợt đánh tư sản người Hoa nhưng rồi gia đình chú cũng thoát sang được Hồng Kông. Cũng chỉ mấy năm sau ngay khi bắt đầu có chánh sách Đổi Mới người ta thấy chú trở lại như một doanh nhân người Hoa tung hoành không phải chỉ ở các Tỉnh Miền Nam mà còn ra tới ngoài Bắc nữa. Bạn làm ăn của chú Quách bây giờ là những tỉnh ủy viên tới cấp trung ương đảng hay tổng giám đốc các công ty quốc doanh. Làm chủ một hãng sản xuất bột ngọt lớn nhất nước với nhà máy xây và hoạt động ngay bên sông, chú được sự ủng hộ của các Tiến Sĩ Viện Sĩ Viện Sinh Học Nhiệt Đới và Cục Môi Trường cho tự do tha hồ đổ chất phế thải xuống sông xuống biển với lý do ‘’để thực hiện thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng lên môi trường của các chất phế thải trong chu kỳ sản xuất công nghiệp sinh học’’ nhưng đó chỉ là mặt nổi, chứ tầm ảnh hưởng làm ăn của chú thực sự vươn xa tới Hồng Kông, Đài Loan Singapore. Và cũng dễ hiểu tại sao Singapore là nơi ưa được lui tới của các đồng chí cao cấp thuộc trung ương đảng.
Không có vé bay chính thức mà chỉ là khách stand-by, Hộ bước vội sang khu của hãng Singapore Airlines không kém sầm uất. Trên những chuyến bay shuttle hàng tuần đi Bangkok Singapore, người ta thấy nhiều khuôn mặt quen thuộc của các đồng chí thuộc câu lạc bộ Ba Đình, không phải đi công tác mà là đi chữa bệnh. Đủ thứ bệnh kinh niên mạn tính do thiếu ăn kham khổ di chứng còn sót lại sau những năm dài chiến tranh và bây giờ là các căn bệnh tệ hại nhất của no đủ dư thừa trong một đất nước đã có hòa bình.
Họ ra nước ngoài để được hưởng một chế độ điều trị hiện đại nhất của nền y khoa Âu Mỹ. Điều ngạc nhiên là tỉ lệ mắc bệnh rất cao về tim mạch và gan: Nghẽn mạch tim, sơ gan do rượu, viêm gan siêu vi. Điển hình là trường hợp đồng chí Bảy Thủ thuộc tỉnh ủy Đồng Nai, nơi có nhà máy bột ngọt của chú Quách, mỗi tuần đều bay sang Singapore ở khách sạn trên Đường Orchard chỉ để cho một mũi chích Interferon alpha trị bệnh viêm gan C.
Bác Sĩ Duy đầy ngạc nhiên quay sang hỏi Hộ:
- Chỉ cần thuốc gửi về chứ đâu có phải sang tận Singapore để được chích từng mũi thuốc!
Không biết phải giải thích với Duy ra sao khi mà câu trả lời gần như hiển nhiên, Hộ nói:
- Đúng là như vậy, nếu chỉ là về phương diện y khoa. Trước đây trong chiến tranh thì đã có ủy ban bảo vệ sức khỏe trung ương, viện quân y 108 để chăm sóc cho các đồng chí lãnh đạo, cao hơn nữa thì sang Đông Đức hoặc Liên Xô. Sau chiến tranh, bước vào thời kỳ kinh tế thị trường các đồng chí lãnh đạo không ai còn tin vào tính ưu việt của nền y tế xã hội chủ nghĩa ở trong nước nữa. Chưa thể đi Mỹ thì Singapore được coi là cánh cửa mở rộng để bước vào nền y tế tư bản. Các đồng chí ấy bây giờ đặt hết niềm tin giao phó sức khỏe cho đám Bác Sĩ của ông Lý Quang Diệu cho dù cũng đã có người sang đây và chết ở bên đây: Chắc anh cũng có nghe cái chết của một ông tướng ngay sau một cuộc mổ tim...
Trong số những con cọp con rồng Á Châu thì Singapore được các đồng chí lãnh đạo đánh giá cao nhất và được coi như mô hình lý tưởng để vươn tới cho Việt Nam trong tương lai.
Hộ ngưng lại giọng trầm tư:
- Theo tôi thì đó là một ‘’giấc mơ không thể được’’ bởi ai cũng biết về phương diện địa dư chánh trị, Singapore và Việt Nam là hai nước hoàn toàn khác nhau về mọi phương diện....
Duy bổ túc thêm ngay ý của Hộ:
- Điều khác biệt cơ bản là Singapore không có được một chánh quyền tham nhũng từ trên xuống dưới như ở Việt Nam.
Phát biểu của Duy không có vẻ gì là mỉa mai nhưng Hộ vẫn tìm cách giải thích tiếp:
- Vả lại anh cũng biết, trong trận đấu tranh giành quyền lực giữa những người cộng sản thì sức khỏe cá nhân cũng là điều tối mật thuộc phạm vi an ninh quốc gia.
Mới vừa tới Bangkok hai ngày, đang bề bộn với công việc chuẩn bị hội nghị, Hộ lại được điện gọi sang Singapore để làm việc với ông Ngoại Trưởng một tuần lễ trước cuộc họp bốn nước thay vì sáu sắp diễn ra ở Chiang Rai trên vùng Đông-Bắc Thái. Sự kiện Bangkok muốn thêm Trung Hoa và Miến Điện cho dù hai nước này ở vị trí Thượng Nguồn và từ 1957 chưa hề là thành viên của Ủy Ban Sông Mekong Mekong River Committee (MRC) là cả một nỗ lực vận động ngoại giao bền bỉ của Thái nhưng đã không thành công. Một người bạn Cam Bốt cũng là thành viên lâu năm của MRC, đã tâm sự với Hộ: Cho tới bây giờ chúng tôi vẫn biết ơn người Pháp, bởi vì nếu không có sự can thiệp của họ vào cuối Thế Kỷ 19 thì cũng chẳng còn hai nước Cam Bốt Lào và biên giới giữa Việt Nam và Thái Lan chỉ còn là con sông Mekong. Câu nói tuy không hàm ý ám chỉ nhưng chính Hộ cảm thấy hết sức băn khoăn như đứng trước một trường hợp lương tâm. Đâu phải chỉ có Vương Quốc Thái Lan, lịch sử cận đại Việt Nam là một liên tục phát triển bành trướng xuống Phương Nam.
Gắn bó với sông Mekong, con sông ấy bao giờ cũng đem lại cho Hộ nguồn cảm hứng và cả những tình cảm lớn lao. Bảo vệ sự nguyên vẹn tinh khiết cho dòng sông ấy không chỉ vì Vùng Đồng Bằng Châu Thổ Cửu Long mà chính là bảo vệ mạch sống cùng với hệ sinh thái của toàn vùng Đông Nam Á Châu nhìn về một tương lai xa.
‘’Surmenage’’ là lý do chính thức được đưa ra khi ông Ngoại Trưởng phải vào bệnh viện, nhưng bên cạnh đó lại là tin đồn khác rằng ông mới bị một cơn đau thắt ngực, rất có thể là một cơn nhồi máu cơ tim. Trừ viên Bác Sĩ điều trị gốc Singapore, không ai biết gì hơn về tình trạng sức khỏe của ông.
Hộ thắc mắc quay sang hỏi Bác Sĩ Duy:
- Tôi nghe nói bệnh tim mạch ở Việt Nam bây giờ còn cao hơn cả Âu Mỹ, làm thế nào mà giải thích về phương diện dịch tễ học ? Không trả lời ngay vào câu hỏi của Hộ, Duy nói:
- Mới đây có một cuộc nghiên cứu nhỏ về Cộng Đồng người Hoa sống ở Nữu Ước, đặc biệt nhóm di dân từ lục địa Trung Quốc. Khi mới đặt chân tới Mỹ chỉ số cholesterol của họ thấp gần như ở mức lý tưởng, vậy mà chỉ trong vòng ba năm sau họ đã vượt xa người Mỹ về lượng cholesterol cao và tiếp đó là tỉ lệ cao hơn nữa về bệnh tim mạch vốn là rất hiếm hoi ở những người nông dân Trung Hoa.
Từ một chế độ ăn uống thanh đạm chủ yếu là rau đậu ở bên nhà nay chuyển ngay sang thịt thà bơ sữa thừa mứa ở Mỹ: Yếu tố môi trường phải được kể là một nguyên nhân.
Không thỏa mãn với ‘’yếu tố môi trường’’ của Duy, Hộ hỏi thêm:
- Nếu chỉ có vậy thì cũng chưa giải thích được tại sao tỉ lệ bệnh tim mạch của họ qua mặt người Mỹ vốn đã sống lâu dài trên sự thừa mứa ấy! Phải chăng stress cũng là một nguyên nhân?
Duy thì rất thú vị với câu hỏi của Hộ và có ngay lời giải đáp:
- Nói về stress thì không ai qua mặt được người Mỹ. Do đó phải tìm cách giải thích khác. Đám di dân từ Trung Hoa Lục Địa ấy cũng như các ông Tư Bản Đỏ Việt Nam bây giờ, đã quen thích ứng với môi trường sống thường xuyên thiếu thốn, cơ thể họ như bộ máy chuyển hóa chậm (slow metabolizer) nay thả họ vào một nơi ăn uống thừa mứa, chỉ có đồng hóa mà không kịp giải hóa dẫn tới tình trạng tích lũy và thặng dư mà cholesterol là chỉ số phản ánh bộ máy chuyển hóa chậm ấy...
Duy phát biểu thản nhiên không lộ chút cay đắng:
- ‘’Chết Đói và Chết No’’ đang là hai thái cực của một nước Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi Mới, có phải vậy không ông Tiến Sĩ Lúa Honda?
Duy sắc bén nhạy cảm, tâm lành nhưng miệng thì lại cay độc. Phủ nhận chế độ hiện tại nhưng vẫn có thái độ dấn thân xây dựng. Cùng với Phái Đoàn Giáo Sư Mỹ, Duy vừa hoàn tất khóa thỉnh giảng ở hai Đại Học Y Khoa Sài Gòn và Hà Nội và cũng chờ chuyến bay đi Bangkok trước khi trở lại Mỹ. Mới quen nhưng rất hiểu Duy nên Hộ không giận. Khi mà thường ngày phải sống trong một xã hội chai lì với những con người mang trạng thái tâm thần phân lập, luôn luôn với hai bộ mặt thì mẫu người như Duy là hình ảnh vô cùng hiếm hoi như một chất xúc tác làm tươi tắn lại cuộc sống. Nằm gần xích đạo, nguyên chỉ là một hòn đảo đầm lầy không tài nguyên thiên nhiên vậy mà với chưa đầy 200 năm, Singapore đã trở thành một quốc gia tân tiến và phồn thịnh của Châu Á. Đã qua rồi hình ảnh cũ xưa của một Đảo Singapore thời thuộc địa với những ổ hút thuốc phiện, những chiếc xe do người còng lưng kéo, bến cảng với những chiếc thuyền buồm nơi tung hoành bọn thảo khấu. Ngày nay du khách đã phải choáng mắt với hệ thống xa lộ, những tòa nhà kính, các Khu Shopping Mall, những khách sạn sang cả trên Đường Orchard, thưởng thức món ăn Ý, uống rượu chát ủ lâu năm từ vùng sương muối nắng ấm Napa California, mua sắm các y phục thời trang mới nhất của Paris. Lúc ấy chẳng ai nghĩ mình đang viếng một hòn đảo rất nhỏ của Châu Á.
Singapore được kể là một trong bốn con rồng Á Châu với lãnh tụ Lý Quang Diệu đích thực là một nhà độc tài với nền dân chủ tập trung nhưng được dân chúng mến yêu và tiếng nói của ông ta luôn luôn được các nhà lãnh đạo thế giới quan tâm và lắng nghe.
Chỉ thực sự độc lập từ 1965, trong vòng ba thập niên ấy là một tốc độ phát triển tới chóng mặt: đến cả những tòa nhà đồ sộ còn vững chãi và tốt đẹp cũng bị triệt hạ chỉ để đáp ứng nhu cầu xây dựng thành những khu mới hiện đại nguy nga hơn. Đổi mới, luôn luôn đổi mới gần như là một ‘’chu kỳ bất tận’’ trên khoảng diện tích nhỏ hẹp 646 cây số vuông ấy khiến người dân Singapore lưu truyền một giai thoại: Chỉ cần quay lưng đi một lát thôi là bạn đã không tìm ra đường về nhà vì cảnh phố xá đã đổi thay quá chừng. 
Cuộc họp diễn ra tại khách sạn Shangri-La sang trọng bên trong một khu vườn rộng năm mẫu tây trên Đường Orange Grove, chỉ cách vài phút đi bộ từ cuối Đường Orchard về hướng tây bắc. Từ mỗi buồng khách nhìn qua một bao lơn rộng thênh thang là khu vườn đầy hoa lá rực rỡ màu sắc miền nhiệt đới.
Hộ bắt đầu bài thuyết trình:
- Trung Quốc sau đập Man Wan với công suất 1500 megawatt sẽ hoàn tất thêm tám đập thủy điện nữa như những bậc thềm trên dòng chính sông Mekong nằm trong lãnh thổ họ và không ai được quyền can thiệp hay dòm ngó tới. Thái Lan thì cũng đã làm xong hệ thống đập trên các phụ lưu Hữu Ngạn sông Mekong trong hai thập niên qua đập Pak Mun nổi tiếng vì đã gây nhiều tranh cãi và cho dù Việt Nam phản đối nhưng họ vẫn xây thêm hệ thống tiêu tưới bao gồm một con kinh dài 200 cây số nhằm chuyển khoảng 400m3/s nước từ sông Mekong mùa nắng vào hồ Lam Pao và họ ráo riết điều đình với Lào xây cất thêm nhiều đập thủy điện trên các phụ lưu Tả Ngạn sau đập Nam Ngum và Nam Theun 1 với công suất 150 và 200 megawatt và rồi tới các đập lớn trên dòng chính sông Mekong nhằm tăng cường điện cho các Thành Phố và kỹ nghệ của Thái. Chỉ riêng năm 1988 Thái Lan đã có công xuất điện trên 5000 megawatt và dự trù tăng đến trên 11 ngàn megawatt vào năm 1996, nghĩa là gấp 10 lần công xuất tối đa của đập Hòa Bình... Tưởng cũng nên nói thêm rằng kinh nghiệm hơn 20 năm xây đập thủy điện của Thái tuy chỉ ở các nhánh phụ lưu nhưng cũng đã gây tác hại nghiêm trọng trên môi sinh và là tấn thảm kịch cho những người dân sống trong vùng trước sự lãnh đạm đến tàn nhẫn của chánh quyền Thái, của các đại diện Ngân Hàng Thế Giới World Bank.
Từ bục thuyết trình, với cây ‘’pointer’’ cầm tay Hộ di động hướng mũi tên sáng vào các điểm dự án chín đập thủy điện trên bản đồ sông Mekong và tiếp:
- Các đại diện WB thường chỉ biết ngồi ở văn phòng Bangkok làm việc với quan chức chánh phủ Thái mà chẳng cần biết nguyện vọng của dân chúng địa phương ra sao. Cho dù chưa có những nghiên cứu sâu rộng và đứng đắn nào về ‘’cơ bản hệ sinh thái (ecosystem baseline)’’ vùng Hạ Lưu sông Mekong, nhưng khi nói tới các con đập lớn, Tiến Sĩ Sato đại diện cho WB vẫn tuyên bố một cách vô trách nhiệm là dự án ấy sẽ không gây ảnh hưởng nghiêm trọng nào trên môi sinh.
Viên đại diện người Nhật này còn có thái độ bất chấp đối với các phong trào chống đối của dân chúng và các nhà hoạt động bảo vệ môi sinh Thái, ông ta lạnh lùng phát biểu: ‘’Để họ ngăn chặn đập Pak Mun là khuyến khích mở đường cho các tổ chức vô chánh phủ khác thêm sức mạnh cản trở các dự án đập thủy điện lớn và thiết yếu khác trên dòng chính sông Mekong’’. Và quả nhiên với hậu thuẫn tiền bạc của WB kết hợp với bạo lực chấn áp, chánh phủ và Bộ Thủy Lợi Hoàng Gia Thái đã thắng.
Hộ tiếp:
- Trong một tương lai gần, nếu Thái Lan thực hiện được đập lớn đầu tiên trên dòng chính sông Mekong như Pa Mong Cao, thì chỉ riêng với đập này đã đem lại cho họ công xuất điện 1200 megawatt với hứa hẹn lợi lộc cho Việt Nam chỉ là ‘’cái giả thiết’’ bớt lũ lụt!
Hộ dừng lại như nén xúc động trước khi có thể nói tiếp:
- Kinh nghiệm học được từ các đập thủy điện lớn khắp thế giới trong vòng 100 năm nay đã chứng minh rằng thủy điện không nhất thiết là nguồn năng lượng rẻ nhất và trong lành cho loài người. Các đập thủy điện thường phải đi đôi với những tác động môi sinh độc hại rộng lớn trên hệ sinh thái và đời sống dân cư không lường được.
Nó ngăn chặn việc chuyển vận điều hòa và tự nhiên các lớp phù sa màu mỡ về vùng Đồng Bằng Châu Thổ đe dọa vựa lúa của hàng triệu nông dân và nền kinh tế nông nghiệp trong lưu vực. Thủy điện tạo phát triển thêm những khu kỹ nghệ sẽ gây ô nhiễm sông ngòi độc hại tới các loài chim cá và cây cỏ tác hại trên sức khỏe của hàng triệu người phải dùng nguồn nước sông đề sinh tồn. Thảm họa ‘’Con Rồng Đen’’ tháng 3 năm 92 với chín ngàn tấn mật mía của nhà máy Khon Kaen đổ xuống sông Nam Pong khiến không còn giống tôm cá nào sống sót, để cứu nguy chánh phủ Thái phải cho sả hàng triệu mét khối nước từ đập Ubolrath nhưng chỉ có tác dụng đẩy chất thải độc hại ấy vào hai con sông Chi sông Moon tiếp tục giết hại hơn 140 giống cá trước khi đổ ra con sông Mekong...Đó cũng là lý do tại sao chánh phủ Hoa Kỳ gần đây đã bỏ ra hàng nhiều triệu đôla cho kế hoạch không phải để xây mà là phá các đập thủy điện để phục hồi sinh cảnh sông ngòi và cứu những loài di ngư cá hồi sắp có nguy cơ hoàn toàn bị tiêu diệt.
Vẻ xác tín của Hộ không chỉ từ nguồn trí tuệ uyên bác mà cả sức mạnh thuyết phục của con tim nên giọng nói càng thêm thiết tha:
- Xây thêm các đập thủy điện trên dòng chánh sông Mekong là sẽ cắt giảm thêm khối lưu lượng nước sông cần thiết cho vùng châu thổ vốn đã thiếu nước trong mùa khô, khi đó người nông dân Việt Nam sẽ không có nước tưới ruộng rửa phèn, nước mặn sẽ lấn sâu vào nội địa phá hủy nguồn cung cấp nước uống và canh tác của họ.
Và bây giờ không phải là ông tuyên huấn mà là chính Hộ đã đưa ra một ‘’cái nhìn chánh trị từ góc độ Việt nam’’:
- Đã có nhiều ngộ nhận về mức độ an toàn của các đập thủy điện trên các vùng dân cư quanh và dưới chân đập. Nhưng rõ ràng về phương diện chánh trị ở một giai đoạn nào đó khi nước bạn trở thành thù nghịch họ có thể hoàn toàn chủ động gây ra một cuộc chiến tranh môi sinh trong vùng: chặn nước trong mùa nắng gây đại hạn cho vùng châu thổ hay tệ hại hơn là tháo đập làm ngập lụt quốc gia dưới Hạ Nguồn và dĩ nhiên là thập bội lần khủng khiếp hơn các trận lụt lội tự nhiên...
Sang phần thuyết trình của Giáo Sư Đoàn Minh Triết, Trưởng Khoa Địa Chất Viện Đại Học Cần Thơ. Ông đã chọn một phương thức ‘’dẫn nhập’’ độc đáo để trình bày đề tài. Đèn trong phòng vụt giảm sáng, trên màn ảnh là bản đồ không phải sông Mekong mà là sông Nile, nối tiếp sau đó là các hình ảnh cận cảnh của con đập Aswan. Bằng một giọng Nam trầm ấm, Giáo Sư Triết bắt đầu bài thuyết trình:
- Chấn động của hơn 160 tỉ mét khối nước bất chợt bung qua khúc vỡ của con đập cao hơn 100 mét. Trong khoảnh khắc lượng nước khổng lồ trong hồ chứa dài 500 cây số đã đồng loạt trút xuống. Thị Trấn đầu tiên cách đó chưa đầy ba dặm bị ngay sức đập trời giáng khủng khiếp như sức tàn phá của một ngọn sóng thần.
Thế rồi bức tường thành nước cao hơn 30 mét ấy cứ lừng lững đi tới dìm ngập phố xá ngập cả những tòa nhà cao mười tầng băng qua và cuốn đi các vùng dân cư. Ngày thứ sáu con nước cuồng nộ ấy tới được.
Thủ Đô Le Caire bên đông ngạn con sông Nile, vẫn với nguyên sức mạnh của 15 mét nước cao...
Đó là scenario từ cuốn tiểu thuyết Aswan của Nhà Văn Đức Michael Heim. Đó không phải chỉ là hư cấu mà dựa trên những khảo sát cơ học vững chắc.
Các nhà địa chất khảo sát những con đập lớn nhận thấy sức nặng thường trực của khối nước khổng lồ trong hồ chứa đã gây ra tình trạng mất cân bằng địa chấn, gây đứt đoạn lớp địa tầng dưới đáy gây tổn hại trên cấu trúc toàn con đập. Hiện tượng này được gọi là ‘’động đất do hồ chứa (reservoir triggered seismicity)’’.
Có thể kể ra đây hai trong số những vụ động đất do đập. Đó là đập Tân Phong Giang (Xinfengjian) gần Tỉnh Quảng Đông bên Trung Hoa có cấu trúc giống đập Aswan, đã bị một cơn địa chấn 6.1 vào năm 1961. Thứ đến là đập Koyna gần Tỉnh Poona Ấn Độ đã chịu cơn địa chấn khác 6.5 gần muốn sập vào năm 1967.
Lioyd Cluff là Kỹ Sư đầu tiên được chứng kiến tại chỗ những tổn hại của đập Koyna. Đến năm 1981, khi xảy ra cơn địa chấn khác gần đập Aswan nơi mà lớp địa tầng được coi là rất ổn định, Cluff đã được Tòa Đại Sứ Mỹ chỉ định lập ngay một toán nghiên cứu, và sau hai năm khảo sát họ đã nhận thấy ‘’có mối tương quan giữa mực nước trong đập và trận động đất xảy ra mới đây’’ và đồng thời đi tới kết luận: ‘’Theo các lượng giá về kỹ thuật cơ học, có thể thận trọng mà tiên lượng rằng...động đất có khả năng sẽ tái diễn ở mức độ tương đương hay lớn hơn.’’
Trong tường trình ấy cũng đã mô tả chi tiết về khả năng một thảm họa do vỡ đập nhưng bị cấm phổ biến vì giới quân sự Ai Cập rõ ràng là lo sợ đó như gợi ý cho một âm mưu khủng bố khiến Thứ Trưởng Bộ Thủy Lợi Ai Cập đã mô tả, ‘’Nó giống như trận hồng thủy kéo dài suốt 40 ngày đêm đã được ghi lại trong Thánh Kinh’’...
Giáo Sư Triết tiếp:
- Gần gũi với chúng ta hơn là bài học Trung Hoa. Đây là một thảm họa có thật tại Hà Nam năm 1975. Đó là hai con đập Bản Kiều (Banquiao) và Thạch Mãn Đàm (Shimantan) trên sông Hoài (sông Huai), một phụ lưu của sông Dương Tử. Đập Bản Kiều do Liên Xô xây dựng, được coi như một con đập sắt thép kiên cố có khả năng đứng vững với trận lụt ngàn năm. Nhưng chỉ với cơn mưa lũ lớn suốt hai ngày, mực nước trong đập đã ngập tới mức tối đa cho dù các ống thoát được mở ra nhưng lại bị nghẽn bởi các chất lắng và hậu quả là đập Bản Kiều bị vỡ với năm triệu mét khối nước từ hồ chứa đổ ập xuống các thung lũng cuốn phăng đi các làng mạc và Thị Trấn phía dưới, con đập sắt thép thứ hai cũng bị vỡ ngay sau đó... Tổng cộng có 62 đập bị vỡ trong trận bão lụt năm đó làm thiệt mạng 230 ngàn người vừa chết đuối lẫn chết vì bệnh dịch lan tràn.
Sự tổn hại ấy được coi là thảm khốc hơn vụ nổ nhà máy hóa chất Bhopal ở Ấn Độ hơn cả vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Chernobyl ở Nga cho dù nhà nước Trung Quốc đã dấu nhẹm đi trong suốt hai thập niên...
Bài thuyết trình hấp dẫn như một khúc phim, Giáo Sư Triết kết luận:
- Không có gì bảo đảm rằng một thảm họa như vậy sẽ không thể xảy ra trên sông Mekong. Nếu con sông Mekong là mạch sống của Đồng Bằng Châu Thổ thì mỗi con đập là một gót chân Achilles cho toàn vùng. Và hiển nhiên là thảm họa do con người gây ra sẽ lớn hơn gấp bội so với tai ương từ thiên nhiên...
Cả phòng hội thật tĩnh lặng chỉ còn vang vang tiếng nói của ông Giáo Sư. Bây giờ thì đến lượt ông Ngoại Giao hướng về thuyết trình đoàn và đặt câu hỏi:
- Nếu không ngăn chặn được các nước bạn tiếp tục thực hiện các dự án của họ, thế còn giải pháp nào cho Việt Nam?
Câu hỏi đã hàm ý như một nhượng bộ và hòa hoãn nhưng Hộ đã sẵn sàng lời giải đáp:
- Chúng ta đã không làm được gì với chín đập bậc thềm chiếm 20% nguồn nước trên dòng chính sông Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa, chúng ta cũng đã không làm gì được với hơn 30 con đập trên các phụ lưu trong nội địa Thái Lan và Lào, nhưng với hai ngàn cây số dòng chính sông Mekong vùng hạ lưu, do là một con sông quốc tế nên theo quy định của Ủy Ban Sông Mekong từ 1957, thì mọi dự án đập thủy điện lớn trên dòng chính phải được đa số tuyệt đối đồng thuận (unanimous decision) và mỗi nước hội viên đều có quyền phủ quyết (veto power). Có lẽ đây là điểm cơ bản cần duy trì trong mọi văn kiện ký kết trong tương lai điểm này tối quan trọng đối với Việt Nam vì ở vị trí cuối Hạ Nguồn...
Hộ tiếp:
- Trong các dự án từ những năm 60-70, thì chỉ với hai con đập lớn Pa Mong Cao ở Lào Stung Treng ở Cam Bốt cũng đã chiếm thêm 20% nguồn nước chảy xuống Đồng Bằng Cửu Long, duy có dự án Biển Hồ được coi là hữu ích cho Cam Bốt và Việt Nam với triển vọng giảm lũ lụt vào mùa mưa và tăng lưu lượng nước cho hai con sông Bassac và Mekong trong mùa khô nên dự án ấy lại được nhắc tới trong cuộc họp năm 88 của MRC diễn ra ở Việt Nam nhưng đã bị Cam Bốt quyết liệt từ chối vì cho là chỉ có lợi cho Việt Nam và có hại cho Biển Hồ mà họ so sánh giống như cắt rời một trái tim đang đập ra khỏi cơ thể nước Cam Bốt.
Hộ tiếp:
- Chúng ta sẽ không mù quáng như Thái Lan xây hàng chuỗi đập thủy điện chỉ để đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ nghệ trước mắt mà bất kể cái giá phải trả do hủy hoại lâu dài trên môi sinh. Nhưng trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, do ảnh hưởng dây chuyền của hàng loạt các đập đã được xây trên khắp các phụ lưu của Thái Lào, rõ ràng đã có dấu hiệu khô hạn trong mùa khô ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Để bảo đảm đủ nước cho vựa lúa vùng châu thổ, ‘’đặng chẳng đừng’’ chúng ta không còn một chọn lựa nào khác là phải gấp rút nghiên cứu tính khả thi các đập phụ lưu sông Mekong trong lãnh thổ Việt Nam. Do là các đập nhỏ trên dòng phụ trên vùng cao nguyên hoang dã nên không có mối hiểm họa trực tiếp rộng lớn do đập trên hệ sinh thái hay trên các vùng dân cư. Trước mắt cần xúc tiến việc xây đập ‘’Đại Yali’’ trên sông Sesan, một phụ lưu sông Mekong ở phía tây giáp giới hai tỉnh Gia Lai và Kontum, đập này sẽ tiếp nối với hệ thống đập Mang Giang An Khê để đưa nước về tưới vùng đồng bằng Bình Định Quy Nhơn. Tiếp theo là nghiên cứu thiết lập các dự án cho những đập mới trên các phụ lưu như sông Sekong, Sebang Hiên... không chỉ sản xuất điện mà còn nhằm việc tích trữ nước bảo đảm lưu lượng tối thiểu mùa nắng cho vùng châu thổ ngoài ra các đập này còn có khả năng chuyển nước từ Trường Sơn Tây sang phía Đông tưới cho các Đồng Bằng miền Trung vốn khô cằn và phát triển mạng lưới điện cho các Thị Trấn dọc theo quốc lộ 1 ra tới tận Vinh...
Điều mà Hộ kìm hãm không nói ra là anh không mấy tin tưởng ở trình độ xây đập của Liên Xô sau đập Hòa Bình và nay là Đại Yali, mà anh cho là lỗi thời obsolete, nếu không muốn nói là thứ kỹ thuật hạng hai (second class technology), so với thế giới.
Vẽ nên bức tranh hoành tráng ấy, Hộ nắm vững từng chi tiết trên những tấm bản đồ như một viên sĩ quan ban ba bộ chỉ huy hành quân quen thuộc với một sa bàn. Vẫn có thói quen nhìn thẳng vào mặt người đối diện, Hộ thấy trên nét mặt phương phi ông Ngoại Trưởng ngoài cái vẻ làm như tập trung chú tâm nhưng sao trong chiều sâu ánh mắt ấy vẫn là cái vẻ lạnh lẽo quan sát pha một chút gì đó như ngờ vực tra hỏi, nhưng Hộ cũng lại chợt nhận ra đó là nét quen thuộc mà anh vẫn bắt gặp nơi những con người Cộng sản. ‘’Chiang Rai Mekong Meeting Spells Disaster (Cuộc họp về sông Mekong) tại Chiang Rai báo hiệu Thảm Họa’’ là nhan đề bản tin phổ biến của Nhóm Quan Sát và Bảo Vệ Môi Sinh Thế Giới số tháng 5.95 ngay sau hội nghị cấp Ngoại Trưởng của Ủy Ban Sông Mekong nay đổi danh xưng thành Ủy Hội Sông Mekong (Mekong River Commission) và Việt Nam thì mất quyền phủ quyết (veto power). ‘’Call To Stop Large Scale Hydropower Development On The Mekong Basin (Yêu cầu Ngưng ngay các Dự Án Thủy Điện Lớn trên Sông Mekong)’’ của Nhóm Bạn Cửu Long trên mạng lưới Internet với luận cứ vững chắc và những lời phản bác thì mạnh mẽ: ‘’Các đập thủy điện lớn sẽ phá hủy hệ sinh thái của con sông Mekong đe dọa sự sống còn của hơn 50 triệu dân trong vùng với hậu quả tệ hại chết người cũng giống như chôn mìn trong các ruộng lúa hay thả thủy lôi trên sông...Chúng ta không ngang nhiên bác bỏ toàn bộ kế hoạch của Ủy Hội Sông Mekong hay coi nhẹ nhu cầu phát triển của các quốc gia Thượng Nguồn nhưng chúng ta có quyền đòi hỏi phải có những cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về hậu quả của các đập trên hệ sinh thái phong phú vốn đã có tự ngàn năm của con sông Mekong và riêng đối với người Việt là bảo vệ chính ấm nước, bát cơm, nồi cá, cánh đồng phì nhiêu, nền kinh tế và cả di sản trong lành cho thế hệ mai sau...’’
Nhưng chỉ sau này Hộ mới được biết thêm rằng trong giai đoạn ấy, vì sự sống còn của chế độ theo hướng nghị quyết của bộ chánh trị bằng mọi giá Việt Nam phải được vào khối ASEAN chuẩn bị cho bước gia nhập Tổ Chức APEC Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương có nghĩa là không thể để mất lòng Thái Lan, nên mọi chuyện khác kể cả tương lai sông Mekong ra sao chỉ có tầm quan trọng thứ yếu và thuộc về một tương lai xa vời. Mối quan tâm của đám chuyên viên như Hộ Triết ở trong nước và của Nhóm Bạn Cửu Long ở hải ngoại được đánh giá như ‘’một phản ứng xúc động quá mức (overeaction), một thứ nhãn quan hạn hẹp nếu không muốn nói là thiếu nhận thức chánh trị’’.
Tháng 7, 95 trên trang nhất của tờ nhật báo nhân dân đăng tin cột lớn như một chào mừng thắng lợi: ‘’Việt Nam được chấp nhận gia nhập ASEAN-Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á.’’ Tháng 11.97 tin thông tấn xa AP từ Vancouver: ‘’Việt Nam cùng với Nga và Peru chính thức được nhận làm hội viên của tổ chức APEC.’’
Hộ hiểu rằng cái ghế hội viên ASEANAPEC ấy sẽ được trả giá bằng tương lai bất trắc của con sông Mekong và cả Vùng Đồng Bằng Châu Thổ.
CHƯƠNG VII
TRỞ VỀ - PATTIVATTNA VỚI NHỮNG CÁNH ĐỒNG CHẾT
Chúng ta sẽ đốt hết cánh đồng cũ và cỏ cây mới sẽ mọc.
Pol Pot
Ông Khắc thì vẫn thích Malraux ngay từ cuốn sách đầu tiên La Voie Royale. Sách Malraux không những ông đọc mà còn có đủ bộ.
Rất tiếc là một thời gian dài ông đã chỉ làm quen với một Malraux nhà văn nhà chánh trị đã thành danh. Nhưng mới đây trong chuyến sang Pháp vào các Thư Viện tìm tài liệu cho cuốn sách viết về các phong trào cách mạng Việt Nam từ 1920 tới 1945, như một cơ duyên, ông Khắc đã có khám phá kỳ thú về ‘’một André Malraux khác’’. Đó là một Malraux ở cái tuổi 23, cách đây hơn 70 năm lần đầu tiên tới Sài Gòn. Những bước đầu xông xáo của Malraux đã bị tờ báo địa phương L’ Impartial (Vô Tư) gán ngay cho tội danh ‘’tên phá hoại, kẻ ăn trộm các phế tích’’ và đồng thời bị tòa án ở Nam Vang kết án ba năm tù và năm năm cấm cư trú ở Đông Dương về tội ‘’ăn cắp những phù điêu gỡ từ đền Angkor’’.
Ông Khắc thì vẫn thích con người hành động của Malraux nhưng đồng thời ông cũng biết thêm về ‘’một Malraux của đời thường’’ không phải chỉ qua bản án bị coi là trù dập của chánh quyền thuộc địa Pháp thời bấy giờ mà là qua một tác giả Mỹ Walter Langlois André Malraux: The Indochina Adventure (New York 1966) đã rất khách quan tường thuật diễn tiến vụ đánh cắp cổ vật có dự mưu chứ không chỉ là một hành động ngẫu hứng acting on a sudden impulse…do điên cuồng của tuổi trẻ folie de la jeunesse như lý lẽ bạn bè muốn đưa ra để bênh vực Malraux ngay lúc đó là cả những năm về sau này… Malraux trước đó ra Hà Nội cũng đã gặp các thành viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Francaise d’Extrême-Orient) đã biết Khu Đền Đài Angkor như một kỳ quan cần được bảo vệ và Malraux không thể không biết điều mà ông dự tính làm là phạm pháp. Vào Sài Gòn, Malraux vẫn cùng với vợ là Clara và một người bạn là Louis Chevasson, bằng đường sông Mekong tới Nam Vang, từ đó họ đi ngược dòng Tonlé Sap vào Biển Hồ lên tới Siem Reap rồi bằng đường bộ tới Angkor. Malraux đã chuẩn bị rất chu đáo, thuê xe bò kéo và có cả các công nhân Khmer đi theo để phụ giúp. Tại Đền Banteay Srei, Malraux đã cho dùng cưa đá cắt ra từ tấm phù điêu một tiên nữ apsaras tuyệt đẹp, ông còn cho gỡ thêm một số tượng nhỏ khác rồi cho đóng thùng chất lên xe, ngụy trang là ‘’các thùng hóa chất’’ để đưa xuống tàu ở Biển Hồ trước khi chuyển về Sài Gòn.
Mọi việc tưởng yên thấm và nếu thành công thì đó là những cổ vật rất có giá ở đối với các Nhà Sưu tập ở Nữu Ước và chàng tuổi trẻ Malraux lúc đó cũng chẳng dư dật gì. Nhưng điều mà Malraux không biết là họ đã bị theo dõi từng bước ngay từ đầu, nên khi vừa về tới Nam Vang họ bị bắt cùng với đầy đủ tang vật. Trừ Clara là phụ nữ được miễn tố, còn lại hai người đàn ông: Malraux bị án 3 năm tù và Chevasson là 18 tháng.
Viện cớ đền Banteay Srei không thuộc vùng cấm được bảo vệ nên cả hai kháng án và được đưa về Sài Gòn tái thẩm. Do đã có chút danh tiếng trong giới văn học lúc đó, Malraux được các bạn văn ở Paris lên tiếng bênh vực khiến vụ án mang vẻ văn học và chánh trị. Chánh trị hay không thì tòa án ở Sài Gòn cũng vẫn xử Malraux là có tội nhưng với án giảm xuống còn một năm tù treo và sau đó không một ngày ở tù, Malraux trở lại Paris. (Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về một điều quá trớ trêu (the rich irony), theo ngôn từ của Milton Osborne, là chính con người đã phạm tội phá hoại di tích (cultural vandalism) ở Đông Dương lại trở thành Bộ Trưởng Văn Hóa của chánh phủ De Gaulle trong nhiều năm sau).
Một năm sau là một André Malraux hoàn toàn khác trở lại Sài Gòn với quyết định ra tờ báo L’ Indochine nhằm khởi đầu một chiến dịch tố cáo chánh quyền thuộc địa, đấu tranh cho sự cởi mở chánh trị cho người ‘’An Nam’’. Malraux muốn đặt lại vấn đề Đông Dương trong bối cảnh Viễn Đông với cuộc cách mạng Tân Hợi đang diễn ra ở Trung Hoa. Tờ L’ Indochine không những đả kích tính lộng hành xấc xược của các nhà lãnh đạo thuộc địa người Pháp mà còn phơi bầy tệ nạn luồn cúi và tham ô của đám quan lại bản xứ.
Cũng vẫn viên giám đốc tờ L’ Impartial, công cụ của chánh quyền bảo hộ đã tố cáo Malraux là thiên Cộng. Với cái nhãn hiệu ấy qua sở mật thám, tờ L’ Indochine bị mất đi nhà in. Nhưng không tương nhượng, Malraux tìm mọi cách tục bản tờ báo với một tên mới nhiều ý nghĩa L’ Indochine Enchaine (Đông Dương Xiềng Xích) nhưng báo chỉ ra thất thường vì vô số những khó khăn không vượt qua được. Chính giai đoạn này Malraux đã nhận ra cái ảo vọng của cuộc đấu tranh ngoài nước Pháp nơi mà thành lũy thuộc địa còn quá ư vững chắc. Không chậm trễ, Malraux quyết định rời Sài Gòn với một bài viết cuối trên tờ Đông Dương Xiềng Xích trước khi đình bản hẳn: ‘’Tiếng nói quân chúng cần phải được cất lên, đòi hỏi giới chủ nhân phải thanh toán những nỗi khổ sai cực nhọc, nỗi quạnh hiu kinh hoàng đang đè nặng lên các cánh đồng Đông Dương... Rồi ra chúng ta có giành được tự do hay không, chưa thể biết được... chính vì vậy mà tôi phải về Pháp.’’ Lúc đó Malraux chỉ mới vừa 24 tuổi.
Bao năm xa rồi, khi còn là một phóng viên chiến tranh theo chân những đơn vị quân Miền Nam trên khắp vùng cao nguyên, trên Đồng Bằng Châu Thổ Cửu Long với chằng chịt những sông cùng rạch rồi cả hành quân sang Cam Bốt cũng trên Con Đường Vương Giả ấy, ông Khắc đã không thể không ngưỡng mộ và thán phục sức chiến đấu dũng cảm và can trường của những người lính. Họ thắng những trận đánh nhưng lại chẳng có quyền quyết định gì về cuộc chiến tranh. Để rồi ba mươi năm ròng rã hy sinh, đã phải tủi hận kết thúc vội vàng bằng Một Tháng Ba Gãy Súng.
Cũng bao năm sánh vai với đám nhà báo ngoại quốc tứ xứ, không thiếu những tên vô lại như một lũ lính lê dương đánh thuê: Mấy ngày gần chiến trận cũng được gọi là gần với cái chết, rồi trở về Thành Phố với rượu thuốc phiện và gái, rồi thách đố nhau về labia majora của gái Khmer và gái Việt khác nhau ra sao: Rằng của gái Khmer nảy nở hơn vì do di sản Ấn Độ còn của gái Việt thì nhỏ hơn do từ truyền thống Mông Cổ. Ông Khắc cũng hiểu rằng đã có hàng ngàn phóng viên nhà báo thuộc đủ quốc tịch trước sau đi vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam và cũng đã có 320 người không bao giờ trở về, họ được kể là tổn thất phụ (collateral damages), nói theo ngôn từ giới quân sự Mỹ. Ông Khắc thì được kể là người sống sót.
Đi giữa mênh mông Những Cánh Đồng Chết, ông Khắc vẫn không sao hiểu được mối tương quan giữa nền văn minh Angkor rực rỡ và rồi nền giáo dục Pháp với những tên tuổi Jean Jacques Rousseau, Montesquieu đầy tính khai phóng mà sản phẩm của nó lại là những trái đắng dẫn tới một chánh sách ‘’tự diệt chủng (self inflicted genocide)’’ tàn bạo hơn cả thời Trung Cổ và ban đầu người ta không thể tin là sự thật.
Tên Pol Pot gần như đồng nghĩa với Khmer Đỏ. Như những người cộng sản khác, khó mà có một lý lịch rõ ràng của Pol Pot: ‘’Sinh năm 1928 tại Kompong Thom với tên Saloth Sar, bố Khmer mẹ người Hoa, gia đình Đạo Phật nhưng học Trường Dòng ở Nam Vang, sau đó du học Paris theo Ngành Vô Tuyến, hoạt động chánh trị với nhóm sinh viên Khmer ở Pháp cùng Khieu Samphan, Ieng Sary, về nước đổi tên dạy học, tiếp tục hoạt động và lãnh đạo đảng cộng sản Khmer hay Angkar chỉ có nghĩa là Tổ Chức của Khmer Đỏ’’.
Đối với thế giới ngày nay tên Pol Pot như biểu tượng của tội ác nhưng thực ra tư tưởng chỉ đạo là từ Khieu Samphan xuất thân từ Đại Học Sorbonne. Trong luận án Tiến Sĩ 1959 Khieu Samphan sau khi đã phân tích những hậu quả của chánh sách Thực Dân Cũ và Mới đối với Cam Bốt và ông ta đi tới kết luận ‘’để bảo vệ độc lập thật sự về chánh trị và kinh tế cho Cam Bốt thì cần phải hoàn toàn cô lập quốc gia này và trở về một nền kinh tế nông nghiệp tự túc.’’
Trước thời Khmer Đỏ, nói tới cách mạng ở Cam Bốt có nghĩa là ‘’Nổi Dậy (Bambahbambor)’’. Thời đại Pol Pot, cách mạng lại có nghĩa là ‘’Trở Về Quá Khứ (Pattivattna)’’, đó là ước vọng trở về với nền văn minh Khmer cổ xưa, xoay ngược chiều kim đồng hồ đưa đất nước Cam Bốt trở lại thời đại nguyên sơ ‘’Niên đại Số Không (Year Zero)’’ phủ nhận mọi giá trị của nền văn minh hiện đại: Không có giáo dục, không có khoa học kỹ thuật, không có báo chí và cả tiền tệ trao đổi cũng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Khieu Samphan ngay khi trở thành Quốc Trưởng Cam Bốt đã tuyên bố: ‘’Chúng ta không cần máy móc. Chúng ta làm mọi thứ chủ yếu dựa trên sức mạnh của nhân dân. Chúng ta hoàn toàn tự túc. Điều này phản ánh tính anh hùng của dân tộc ta. Nó cũng chỉ rõ sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta. Bằng tay không chúng ta làm nên tất cả.’’ Khẩu khí những người cộng sản lãnh đạo thường giống nhau như vậy.
Và cũng bằng tay không ấy bao nhiêu sọ người bị đập vỡ, bao nhiêu hố chôn người tập thể được đào lên và cũng đã mọc ra hàng loạt những con đập thô sơ trên sông nhằm mục đích thủy lợi nhưng rồi ruộng đồng thì chẳng thêm nước mà cá thì không vào được Biển Hồ. Không có chất xám của trí tuệ, không có kỹ thuật cơ giới, chỉ có sức người vắt ra bằng bạo lực nên đê đập chỉ là những mảnh nhỏ vụn thô sơ vô dụng và không còn đứng vững sau một hai cơn lũ. Hậu quả là các nông trường bị hạn hán, để cứu vãn, hàng chục ngàn máy bơm được nhập cảng từ Bắc Hàn nhưng chỉ một thời gian ngắn tất cả trở thành những đống sắt han rỉ vứt rải rác trên khắp những cánh đồng chết. Và bây giờ thì dân chúng Cam Bốt đang trở lại cùng nhau đập phá những ‘’con kênh Pol Pot’’ để cứu ruộng và cứu lấy cá.
Lần thứ hai, cùng với Cao người bạn trẻ, trở lại với con sông Mekong hùng vĩ, như ngược dòng-sông-lịch-sử, ngược dòng-sông-thời-gian vẫn còn đó trên bờ lộ, nơi cửa rừng, cả trên những cánh đồng, những khối sắt thép vô tri của cuộc chiến tranh đã qua, tất cả vẫn chậm chạp han rỉ và mục ruỗng trong cái khí hậu ẩm thấp của lục địa Á Châu gió mùa.
Bằng Đường Số 6 đi Siem Reap phía Bắc Biển Hồ, ông Khắc cũng có dịp trở lại thăm Angkor giữa khoảng cách thời gian ngót 30 năm, để chứng kiến những khu Đền Đài đổ nát hơn. Ông cũng tới nơi mà cách đây hơn 70 năm André Malraux đã đặt chân đến và sau đó bị chánh quyền thuộc địa kết án tù với tội danh ‘’ăn cắp các phù điêu gỡ từ đền Banteay Srei ở Angkor.’’ Cảnh tịch liêu của Angkor gợi nhớ câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: ‘’Nền cũ lâu đài bóng tịch dương’’. Thành quách Điện Đài Angkor vẫn còn đó, vẫn là ‘’chứng nhân vô tri’’ cho những năm tháng máu me của người dân Cam Bốt. Chẳng ai có thể nghĩ được rằng chỉ mấy năm trước đây thôi đã có những chú lính Khmer Đỏ tuổi chưa quá 15 vẻ mặt dại khờ nhưng ánh mắt thì lạnh tanh lòng rực thù hận đã hướng nòng súng AK vào những pho tượng tiên nữ Apsaras tuyệt mỹ như những tấm bia để tập bắn. Tiếp nối sự suy tàn của đế quốc Angkor, lịch sử dân tộc Khmer là một tiến trình bạo động và tự hủy khiến Henri Mouhot Nhà Thám Hiểm người Pháp đầu tiên ngược dòng sông Mekong năm 1861 đã phải rất sớm đưa ra nhận xét: ‘’Hình như người Khmer họ chỉ có phá hủy mà không bao giờ biết xây dựng lại.’’
Câu hỏi của Cao người bạn trẻ cũng là câu hỏi mà chính ông Khắc chưa có lời giải đáp. Rằng một nền văn minh Angkor rực rỡ như thế mà sao bị tiêu vong? Đã không chỉ có một mà bao nhiêu câu trả lời của các nhà nghiên cứu và cũng chỉ là bấy nhiêu giả thiết.
Dễ dàng thì cho rằng đế quốc Angkor đã bị tiêu diệt do một cuộc chinh chiến xâm lăng bởi một nước lân bang bị đội quân hùng mạnh Champa tàn phá rồi sau đó bị Xiêm đánh. Rằng chánh sách tàn bạo bóc lột sức lao động suốt 30 năm để hoàn thành công trình Angkor khiến dân chúng phải bỏ đi (voted with their feet), nói theo kiểu nhà báo Tây Phương. Rằng chánh sách sai lầm về dẫn thủy đã phá hủy toàn thể nền nông nghiệp và trung tâm kinh tế đã phải di chuyển từ trong lục địa ra vùng duyên hải... Cam Bốt ngày nay là một đất nước rộng gần gấp 30 lần diện tích Đảo Singapore với một vùng châu thổ phì nhiêu, là một trong những vựa lúa của Đông Nam Á. Hậu quả những năm chiến tranh do Mỹ ném bom, sự tàn phá của Khmer Đỏ khiến người dân Cam Bốt nay không đủ gạo ăn. Đói kém thất nghiệp, gái quê đổ về Battambang và Nam Vang để kiếm sống. Các cô hoặc quần quật làm việc 16 giờ một ngày trong các khách sạn tiệm ăn phục vụ cho hơn 20 ngàn lính mũ xanh Liên Hiệp quốc UNTAC (United Nations Transitional Authority in Cambodia), nhân viên các tổ chức cứu trợ, các doanh nhân ngoại quốc và dĩ nhiên cả du khách. Hoặc nếu không muốn phải vất vả con số này thì không ít, các cô chọn con đường bán thân mau có tiền nhất là khi gia đình nghèo khó của họ ở quê hoàn toàn sống nhờ vào những đồng tiền ấy. Vẫn còn cảnh buôn người của thời Trung Cổ, có cả những cô gái được mua từ Việt Nam đem sang Cam Bốt để phục vụ chốn lầu xanh. Mean touk mean tray, mean luy mean srey (có nước có cá, có tiền là có gái). Ngạn ngữ Khmer đã nói như vậy.
Như từ bao giờ, con sông Mekong hùng vĩ vẫn không thay đổi vẫn tiếp tục nhịp điệu ngàn năm, tiếp tục là mạch sống của dân cư sống hai bên bờ. Nó cũng là con sông thời gian soi bóng sự thịnh suy của những nền văn minh, những buổi bình minh rồi lại hoàng hôn.
Từ Lào qua khỏi Thác Khone hay Tứ Thiên Đảo, nơi chấm dứt rất sớm giấc mơ của Francis Garnier cách đây hơn một trăm năm khi thám hiểm ngược dòng sông Mekong để tìm một thủy lộ giao thương với Trung Quốc. Chảy vào lãnh thổ Cam Bốt con sông Mekong còn phải qua thêm một khúc ghềnh thác Sambor giữa Stung Treng và Kratié trước khi thực sự thả mình hiền hòa trên Vùng Châu Thổ, mênh mang trải rộng ra từ ba tới năm cây số. Trên khúc sông nơi phụ lưu Se Kong bắt nguồn từ Việt Nam đổ vào, vẫn còn thấy xuất hiện những con cá voi hiếm hoi. Trước đây phỏng định rằng còn khoảng hơn 100 con, nhưng do lính và cả thường dân Cam Bốt sử dụng chất nổ bừa bãi giết cá hàng loạt và đồng thời cũng sát hại luôn cả giống cá voi này. Tương truyền rằng cá voi cũng đã từng được nuôi trong các Hồ của Điện Đài Angkor từ nhiều Thế Kỷ trước. Chao Phraya con sông duy nhất ở Thái Lan có cá voi thì nay cũng đã bị tiêu diệt do nước sông quá ô nhiễm.
Cư dân sống hai bên bờ sông Mekong luôn luôn bị tri phối bởi khí hậu Gió Mùa Tây-Nam thổi vào từ Vịnh Thái Lan. Mùa mưa bắt đầu từ tháng Năm đến tháng Chín, kết hợp với mùa tuyết tan từ rặng núi Hy Mã Lạp Sơn, nước sông Mekong dâng cao từ 2 tới 8 mét mênh mông tràn bờ làm ngập lụt một phần ba diện tích đất đai, phủ lớp phù sa màu mỡ mỗi năm lên khắp ruộng đồng. Đó cũng là thời gian con sông Tonlé Sap đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ, tăng diện tích mặt hồ tới 10 ngàn cây số vuông, gấp bốn lần so với mùa khô và làm ngập hết các khu rừng lũ (flooded forest). Đây là Hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á. Các đàn cá từ sông Mekong cũng lội ngược dòng sông Tonlé Sap tới các khu rừng lũ chọn nơi trú ngụ an toàn để sinh đẻ và tăng trưởng.
Rồi mùa mưa qua đi để bước sang mùa khô từ tháng 1 tới tháng 5. Đây là thời gian mực nước bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại chảy xuôi dòng với vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong và diện tích Biển Hồ bắt đầu co lại. Đây cũng là Ngày Hội Nước Giựt Bom Oum Touk truyền thống của quốc gia Cam Bốt, được tính theo tuần trăng vào khoảng cuối tháng 10 đầu tháng 11 diễn ra tại khu mà người Pháp gọi là Quatre Bras (nơi bốn nhánh sông hội tụ). Cánh tay thứ nhất Mekong Thượng là dòng chính sông Mekong chảy từ hướng Đông-Bắc xuống tới gần Nam Vang và bắt đầu chia làm hai: Mekong Hạ và sông Bassac là cánh tay thứ hai và ba cũng là sông Tiền và sông Hậu khi chảy vào Việt Nam. Còn cánh tay thứ tư là Con sông Nước Ngọt sông Tonlé Sap bắt nguồn từ Biển Hồ. Trong dịp hội Lễ Vua và Hoàng Hậu tới đây chung vui với thần dân, khai mùa cho ngư dân đánh cá thu hoạch, cho nông dân bắt đầu mùa gieo trồng. Bị gián đoạn nhiều năm vì chiến tranh cho mãi tới năm 91 khi Thái Tử Sihanouk vẫn được dân chúng yêu mến trở lại Cam Bốt và mở lại ngày hội lễ Bon Oum Touk trên một vùng đất còn dấu vết hoang tàn của những Cánh Đồng Chết. Cao hỏi ông Khắc đã nghĩ sao về Sihanouk. Với cái nhìn của một nhà báo, ông Khắc cho là Sihanouk đã bỏ lỡ những vận hội của lịch sử (Il a manqué les rendez-vous de l’histoire). Ông ta luôn luôn là vấn đề nhưng cũng lại là giải pháp cho Cam Bốt. Bàn tay ông ta không trực tiếp vấy máu nhưng chính ông đã im tiếng thỏa hiệp với Khmer Đỏ trong những năm tắm máu của những người dân Cam Bốt.
Theo tục lệ những ngày trước hội lễ, thuyền đua giữ trong các chùa được đem ra sơn phết lại và vẽ mắt rắn thần Naga, Naga là tên con rắn huyền thoại ngậm cả khối nước lũ của con sông Mekong giúp nông dân tránh lụt và có thể canh tác ruộng đồng. Vào ngày hội hàng trăm con thuyền như vậy với đủ tay trèo tụ tập trên mặt sông. Dân chúng đứng đông đảo hai bên bờ và luôn luôn được giúp vui bởi các tay hề hát những bài ca riễu. Lẫn vào đám đông ấy có không ít những người cụt chân vì mìn bẫy phải đi ăn xin. Hội vui kéo dài đến ngày thứ ba và kết thúc vào buổi tối sau hoàng hôn với đủ các thuyền đua và quan khách. Vua và Hoàng Thái Hậu ngự trên một cung điện nổi để chứng kiến con thuyền thắng giải vinh dự tiến ra khánh thành ngày hội lễ Bom Om Touk. Riêng Hoàng Thái Hậu thì tay cầm một vỏ sò mang đầy nước ngọt của con sông Mekong vẩy lên má lên tóc theo nghi thức Chào Đón Trăng Lên, trong muôn tiếng vui reo hò của đám đông dưới ánh sáng rực rỡ của pháo bông: Để thực sự khởi đầu cho một mùa gieo trồng và những ngày chài lưới rộn rã. Bị cuốn hút vào cuộc vui đầy sinh lực ấy người ta dễ dàng quên đi Khmer Đỏ quên đi Cánh Đồng Chết.
Không phải chỉ có đền đài Angkor, những Cánh Đồng Chết, Cam Bốt còn được cả thế giới biết đến với những bãi mìn lớn nhất thế giới và hàng tháng vẫn tiếp tục gây què cụt cho hàng chục ngàn người khác. Không có một gia đình nào còn nguyên vẹn và cũng không có một gia đình nào mà không có kinh nghiệm thật đau thương không thể nào quên. Con số bốn triệu trái mìn rải ra trên khắp lãnh thổ Cam Bốt không phải là xa với sự thật và vẫn là một vũ khí tuyệt hảo để tiếp tục cuộc chiến tranh hao mòn. Cao hỏi ông Khắc:
- Nhưng mìn ở đâu mà lắm thế hả anh?
- Đó là di sản của các phe phái tham chiến tại Cam Bốt. Mìn bẫy đã được gài vào Cam Bốt từ nhiều năm trước bởi các Toán Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ từ Việt Nam xâm nhập, rồi từ 67 Không Lực Mỹ thả mìn dọc theo biên giới Việt Cam Bốt, rồi tới hàng ngàn tấn mìn khác gài bởi quân cộng sản Bắc Việt, nhưng nhiều nhất vẫn là mìn Trung Cộng do Khmer Đỏ gài lại trước khi tháo chạy. Phỏng định rằng chỉ riêng Khmer Đỏ không thôi đã để lại khoảng ba triệu trái mìn chống cá nhân. Do đó nơi nào cũng có thể là cạm bẫy chết người đối với người dân Cam Bốt.
Cảnh thường gặp đối với du khách là nhan nhản những người què cụt đi ăn xin trước những quán ăn và các khách sạn trong Thủ Đô Nam Vang.
Phía biên giới Tây-Nam giáp với Thái Lan là hai rặng núi Đậu Khấu và núi Voi (Cardamons - Elephants mountains), nơi của rừng già với những cây gỗ quý, cũng là nơi mà trước đây có đủ loại cọp voi trâu rừng báo vằn và cả một loài thú rất hiếm kouprey đã được chọn làm biểu tượng cho World Wide Fund for Nature, nhưng nay thì chắc đã bị tiêu diệt do bị săn làm con thịt phần còn lại thì bị giết hay què cụt bởi vô số mìn bẫy.
Ông Khắc nhận định:
- Đâu phải chỉ có nỗi kinh hoàng quá khứ mà là cả ở tương lai: Những bãi mìn ấy vẫn tiếp tục phá vỡ cuộc sống thanh bình của người dân Cam Bốt, nó gieo thảm họa chết chóc bất cứ lúc nào trong cuộc sống hàng ngày của họ, nó ngăn chặn mọi triển vọng hồi phục của quốc gia này.
Rồi ông Khắc chuyển mối quan tâm xuống Đồng Bằng Sông Cửu Long:
- Đồng bào châu thổ mấy năm gần đây khốn khổ vì những con lũ do tính bất thường của nó: Lụt tới sớm hơn đổ về nhanh hơn lại lớn hơn nên thiệt hại rất cao kể cả về nhân mạng. Người ta nói tới thời tiết bất thường khắp thế giới do ảnh hưởng của El Nĩno, có phải vậy không?
Cao tìm một cách giải thích khác:
- Trực tiếp nhất vẫn là do hậu quả phá rừng trên Thượng Nguồn mà các nhà bảo vệ môi sinh gọi là ‘’lối phá rừng tự sát (suicidal deforestation)’’. Ở Lào thì quân đội độc quyền khai thác gỗ, ở Miên thì Khmer Đỏ, năm 92 đã có hơn một triệu hecta rừng mưa (rain forest) và rừng lũ bị phá. Dân đen Cam Bốt thì đói khát chứ lính Khmer Đỏ thì mập ú, chỉ riêng khu rừng Pailin họ đã kiếm hàng triệu đôla mỗi tháng do phá rừng bán gỗ cho các con buôn Thái Lan... Mà rừng thì như một tấm bọt biển khổng lồ giữ nước của những tháng mưa để rồi suốt năm rỉ rả chảy vào các phụ lưu trước khi đổ vào con sông Mekong.
Cao còn bổ túc thêm:
- Chủ trương phá rừng lũ quanh Biển Hồ của Pol Pot còn làm sút giảm nghiêm trọng nền ngư nghiệp của xứ này. Mực nước cạn tới mức báo động, khiến các đoàn di ngư từ sông Mekong vào Biển Hồ đã không còn nơi trú ngụ để sinh sôi nảy nở.
Ông Khắc nói giọng cảm xúc:
- Phải chăng đó là cái vòng luẩn quẩn của các nước kém phát triển, đã nghèo khó lại phung phí nguồn tài nguyên nên càng nghèo khó hơn. Thế còn các dự án thủy điện thì sao?
Đây là lãnh vực rất am tường của Cao, anh nói:
- Trước đây là Ủy Ban sông Mekong (MR Committee), nay là Ủy Hội Sông Mekong (MR Commission), đã hoạch định dự án một chuỗi 17 con đập trong lãnh thổ Cam Bốt mà người ta tin rằng có vai trò thiết yếu trong nỗ lực canh tân đất nước này. Nó cũng đáp ứng với kế hoạch xây đập của các quốc gia Thượng Nguồn: Trung Quốc 9 đập bậc thềm, Thái Lan hơn 40 đập và Lào 56 đập, nếu không phát triển đồng bộ Cam Bốt là nước Hạ Nguồn sẽ phải chịu những hậu quả rất bất lợi về kỹ thuật kinh tế và cả môi sinh.
Cao tiếp đi vào chi tiết:
- Đã có hai dự án lớn được hoạch định từ nhiều năm trước: Dự án thủy điện Sambor công suất 1000MW phía Bắc Thị Trấn Kratié cách Nam Vang 140 dặm có khả năng tiêu tưới cho hơn 90 ngàn mẫu Anh, mực nước dâng sẽ làm ngập 800 cây số vuông ghềnh thác sẽ mở ra một thủy lộ giao thông giữa Lào và Cam Bốt. Nhưng nó cũng khiến cho 60 ngàn người mất hết nhà cửa đất đai với hậu quả môi sinh không sao lường trước được. Riêng về dự án Tonlé Sap là một ý niệm khá sáng tạo của Ủy Ban sông Mekong trước đây. Biển Hồ sẽ được sử dụng như một hồ chứa thiên nhiên. Cửa đập được mở ra trong mùa lũ suốt 5 tháng để nước chảy ngược vào Biển Hồ tới mức dự trữ cao nhất trước khi được đóng lại và như vậy sẽ giảm lũ lụt dưới vùng châu thổ. Trong mùa khô hay mùa nước thấp, cửa đập được mở ra từng phần, có khả năng điều hòa mực nước sông Mekong đủ sâu cho tàu lớn có thể tới tận Nam Vang. Do giảm thiểu nước mặn vào vùng châu thổ, từ đó tăng thêm hai triệu rưỡi mẫu Anh đất canh tác mà trước đây bỏ hoang do bị muối phèn, khô hạn hay lũ lụt. Ngoài ra mực nước Biển Hồ vốn đã bị cạn, nay sẽ có mực nước cao hơn một mét trong mùa nước thấp sẽ làm gia tăng lượng cá Biển Hồ đang có nguy cơ bị sa sút.
Cao tiếp:
- Hứa hẹn bao nhiêu điều lợi nhưng thiếu tiền, thiếu nhân lực lại thêm tình hình chánh trị luôn luôn bất ổn nên các dự án của Ủy ban sông Mekong từ hơn 40 năm qua vẫn chỉ là trên giấy. Duy có dự án Prek Thnot đã được khởi công từ những năm 60 phải bỏ dở vì chiến tranh rồi sau đó còn bị Khmer Đỏ phá hủy thêm nên chẳng ai mà dự liệu được đến bao giờ mới hoàn thành. Cho đến nay Nam Vang vẫn là Thành Phố lớn nhất bên bờ con sông Mekong, được hình thành cách đây hơn sáu Thế Kỷ. Tương truyền rằng khi thấy hình bốn bức tượng Phật nổi trôi trên mặt nước sông Mekong tới đây thì dừng lại, Nhà Vua cho đó là điềm lành nên chọn nơi đây làm Thủ Đô để xây dựng hoàng cung. Nam Vang ngày nay với ngót một triệu dân, cũ kỹ và nhếch nhác, với dấu vết thời thuộc địa còn lại là những biệt thự của người Pháp trước đây nhưng đã rêu phong. Những con đường chính mang tên các vị Vua Chúa và cả những nhà lãnh đạo thế giới đương thời như De Gaulle, Nehru, Mao Trạch Đông thì cũng đã luôn luôn đổi thay theo bước thăng trầm của những chế độ chánh trị. Chiếc cầu sập không được sửa chữa, bến cảng hoạt động cầm chừng với những cần trục hoen rỉ. Chỉ mấy năm trước đây thôi, Phó Tổng Thống Mỹ Spiro Agnew tới Nam Vang tặng Tướng Lon Nol một ‘’Con Voi Trắng’’ vật linh biểu tượng cho vận may nhưng cũng đã không cứu vãn được chế độ cực kỳ tham nhũng ấy không xụp đổ. Để rồi vào tháng 4 năm 75, đoàn quân chiến thắng Khmer Đỏ với đồng phục đen đội nón Mao mang dép râu Hồ chí Minh đi vào Thủ Đô Nam Vang với dân chúng đứng hai bên đường hoan nghênh chào đón. Tập đoàn Lon Nol thì đã bỏ chạy sang Hawaii mang theo hàng triệu đôla, duy chỉ có Long Boret và Sirik Matak Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng ở giờ phút chót đã không chịu bước lên trực thăng Mỹ mà can đảm chọn ở lại và cũng biết là để nhận lấy cái chết chắc chắn từ tay Khmer Đỏ.
Sirik Matak cũng là một ông Hoàng, người đóng vai trò then chốt trong vụ đảo chánh của Lon Nol năm 1970 đã bị Khmer Đỏ lên án tử hình với tội danh là ‘’tên đầu sỏ trong 7 tên phản bội’’. Trong bức thư tuyệt mệnh gửi Đại Sứ Mỹ John Gunther Dean, trao tay đám ký giả ngoại quốc, Sirik Matak viết: ‘’... Tôi cám ơn ông Đại sứ có nhã ý giúp tôi phương tiện thoát tới tự do. Tôi không thể ra đi trong một tình huống hèn nhát như vậy... Tôi không tưởng tượng được rằng một nước lớn như Hoa Kỳ mà lại có lúc đang tâm bỏ rơi một dân tộc chọn tự do. Các ông đã từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi không làm gì khác hơn được. Các ông ra đi, chúc ông và nước Mỹ tìm được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nếu phải chết tại nơi đây trên quê hương mà tôi yêu mến, thì cũng để nhớ rằng tất cả chúng ta sinh ra và một ngày nào đó đều phải chết. Riêng tôi chỉ có phạm lỗi lầm là đã đặt tin tưởng vào Người Mỹ các ông...’’
Khác với giới lãnh đạo của miền Nam Việt Nam, hô hào người khác ở lại cầm súng chiến đấu còn họ thì trước sau cúi mặt ra đi, Sirik Matak và Long Boret chọn ở lại, cả hai đã bị hành quyết ở Olympic Stadium, nơi mà trước đó vài ngày các đoàn trực thăng đã di tản số tướng lãnh và viên chức cao cấp chế độ cũ còn lại qua hết Thái Lan. Ông Khắc cho rằng một đất nước Cam Bốt còn những con người như vậy họ vẫn có lý do để mà hy vọng. Có người kể lại rằng một ngày trước khi lực lượng Khmer Đỏ tràn vào Thủ Đô, họ đã thấy một con Cá Sấu Trắng nổi lên trên một khúc sông gần Nam Vang. Sấu trắng là vật thần thoại của dân tộc Khmer và tương truyền rằng loại cá này chỉ xuất hiện khi đất nước có biến cố trọng đại. Và chẳng ai có thể tưởng tượng được biến cố ấy sẽ ra sao. Nhưng chỉ ít lâu sau đó thì dân chúng bị lùa hết ra khỏi Thủ Đô nếu chưa bị sát hại ngay thì cũng bị đưa tới các trại tù lao cải chết dần mòn vì đói khát bệnh tật. Theo các nhân chứng sống sót kể lại thì những nạn nhân bị giết rất ít bằng súng mà đa số bằng búa, ống sắt hay Xiêmn nhọn hay bị chôn sống trong những nấm mồ tập thể ngay trên những ruộng nước. Cả chục năm sau trên những thửa ruộng lúa xanh nhiều nơi những miếng xương sọ người những mảnh quần áo rách còn vương vãi trên nền đất vẫn là một cảnh tượng hãi hùng.
Rồi hàng sư đoàn quân Cộng sản Việt Nam tràn qua Nam Vang năm 79 cho điều mà họ gọi là giải phóng Cam Bốt, Khmer Đỏ bị đánh bật, một chánh phủ mới thân Việt Nam được hình thành nhưng rồi mười năm sau ‘’cái ngày không tránh được (the inevitable day)’’ là quân cộng sản Việt Nam phải rút ra khỏi Cam Bốt. Một hiệp ước ngừng bắn được ký kết giữa các phe. Một lần nữa ông Hoàng Sihanouk trở lại hoàng cung. Sau Việt Nam và Lào, Cam Bốt bắt đầu theo chánh sách đổi mới, chấp nhận quyền tư hữu. Đã có những dấu hiệu của một đất nước hồi sinh. Những tàu hàng lớn của Singapore vào bến bỏ neo đổ lên bờ những hàng hóa và xe hơi mới của Nhật. Khách sạn Cambodiana bên bờ sông Mekong mới xây xong, đã lại đầy ắp du khách và các doanh nhân Thái Lan, Singapore, Hồng Kông tới tìm cơ hội làm ăn.
Cho dù có hơn 20 ngàn lính mũ xanh nhưng bạo động vẫn tiếp diễn bên ngoài Nam Vang. Trộn lẫn chiến tranh và niềm hy vọng hòa bình, tại Thủ Đô khách sạn tiệm ăn mọc ra như nấm. Đường xá bắt đầu kẹt xe, Phi Trường Quốc Tế Pochentong tấp nập những chuyến bay tới từ Singapore, Bangkok, Sài Gòn. Các chuyến bay shuttle đi Angkor đã tăng lên 5 chuyến mỗi ngày cho dù có xảy ra vụ bắt cóc và sát hại du khách. Như một truyền thống của các nước Á Châu, xây dựng và tham nhũng đã cùng một lúc phát triển ở Cam bốt: Tương lai chỉ là một chút ánh sáng le lói rất xa ở nơi cuối đường hầm.
Đường lên Biển Hồ, theo Đường số 5 dọc theo Hữu Ngạn con sông Tonlé Sap, trong bầu không khí thật nóng ẩm nhưng hai bên đường lúa vẫn xanh. Xa xa là làng mạc nhà cửa thưa thớt, với các cây trái vùng nhiệt đới soài chuối dừa và cả những cây thốt nốt thẳng cao. Trên đường chỉ gặp những người đàn bà Khmer trong những chiếc sarong sậm màu gầy ốm da nâu mắt sâu đen buồn bã và rất vắng bóng dáng đàn ông. Vài chiếc cầu sắt cũ rỉ với mấy người lính Cam Bốt trẻ măng lụng thụng trong bộ quân phục màu xanh cũ sờn duy chỉ có cây súng AK với băng đạn cong giết người là vẫn mới. Không có gì bảo đảm là con lộ ấy có an ninh ban ngày, lại càng kinh sợ hơn vào ban đêm. Sau nhiều vụ phóng viên mất tích, như một ‘’golden rule’’của đám nhà báo ngoại quốc trên xứ Chùa Tháp, là không bao giờ di chuyển bên ngoài Nam Vang từ sau bốn giờ chiều.
Thị Trấn Kompong Chhnang bên bờ sông Tonlé Sap vẫn là Bến Cảng lớn của những vựa cá. Nơi dốc bến đá, từ những chiếc ghe chài được đưa lên hàng tấn những cá tươi, được đổ vào những thùng nước đá hay những chiếc thúng trước khi được chất lên các xe tải hay những chiếc xe ngựa thồ để chuyển về các làng mạc xa xôi. Sin Heang thành viên Ủy Ban Sông Mekong Cam Bốt cho biết cứ 4 ký cá trong các bữa ăn của người dân Cam Bốt thì đã có 3 ký đánh lên từ Biển Hồ.
Phần đường còn lại thì bụi mù với bầm rập những ổ gà. Khu rừng lũ quanh Hồ đã bị phá hủy rộng rãi trong thời Pol Pot, không có cây lớn mà chỉ còn những khu đầm lầy (mudflat) với những bụi cây thấp rậm rạp. Tám ngàn cây số vuông rừng lũ nay chỉ còn chưa tới một phần ba. Hậu quả không có cây chống lũ bờ hồ bị sạt lở bao nhiêu lớp đất màu mỡ trút xuống đáy hồ. Chỉ trước đây ít năm thôi vào mùa khô mực nước Hồ sâu trung bình hai mét thì nay có nơi chỉ còn chưa đầy nửa mét. Mùa hè nước cạn lại rất nóng khiến loại cá trắng cả ngàn con chết nổi phều, chỉ có giống cá đen có mang thở có thể trốn rúc xuống bùn sâu nên chịu được và sống sót. Có những con cá đen phải dùng vây lội bộ (walking fish), trên cạn nhiều giờ chỉ để di chuyển từ vũng cạn tới các trũng nước sâu. Mất nguồn cá không chỉ là mối đe dọa trên sự sống của ngư dân Biển Hồ mà còn làm mất đi nguồn chất đạm chính trong mỗi bữa ăn của người dân Cam Bốt. Các nhà môi sinh báo động Biển Hồ đang có nguy cơ về một ‘’thảm họa môi sinh (ecological calamity).’’
Bằng thuyền chúng tôi tới khu làng nổi, với sặc mùi cá khô phơi trên mái những căn nhà đủ dạng đủ kiểu: Các tiệm ăn tiệm tạp hóa tiệm làm tóc và cả trạm xăng nhớt, chỉ có khác là di chuyển thì bằng xuồng. Lại còn những khu nhà lồng (floating cages), nuôi cá giống như ở Châu Đốc. Không thiếu những gia đình ngư dân Việt Nam mà người Khmer gọi là ‘’Youn (người Bắc)’’ sống ở đây nhưng khó mà phân biệt được họ với người Khmer trong sinh hoạt. Chỉ ngủ qua đêm trên Biển Hồ, cảm giác thật kỳ lạ vào buổi sáng tinh sương bên ngoài trời còn tối, Cao chợt nghe thấy mấy người trong bọn họ loáng thoáng nói với nhau bằng mấy câu tiếng Việt khi chuẩn bị ghe tàu ra khơi. Cáp Duồn (chặt đầu) thả trôi sông vẫn là mối ám ảnh kinh hoàng của các gia đình ngư dân Việt không phải chỉ với Khmer Đỏ mà ngay với những người Miên sẵn có ác cảm bắt nguồn từ lịch sử nhưng xem ra đám người Việt ấy chưa bao giờ có ý định bỏ về nước hay sẽ vĩnh viễn rời xa Biển Hồ.
Thuyền máy lớn đưa đoàn ra khơi, phía trước là trời nước mênh mông không thấy đâu là cuối bãi cuối bờ. Trên bầu trời mây vần vũ, dưới mặt hồ thì cuộn sóng, cho người ta cái cảm giác đang ngoài biển khơi chứ không phải trên một mặt hồ trong đất liền. Khi nhắc tới dự án đập thủy điện Tonlé Sap thì Sin Heang có thái độ chống đối quyết liệt với lý lẽ không phải là thiếu vững chắc: Con đập sẽ gây trở ngại cho các đoàn di ngư từ ngoài Biển Đông lội ngược dòng 4-5 trăm cây số để vào Biển Hồ, mà mỗi giống cá có một thời điểm và không gian riêng nên sẽ không có một cửa đập hay thang cá nào (fish ladder), đáp ứng được những yêu cầu khác biệt ấy.
Nhưng liệu có được mấy người như Sin Heang? Cho dù đã có lệnh cấm, nông dân vẫn tiếp tục phá nốt khu rừng lũ để có thêm đất canh tác. Số người không có bao nhiêu nhưng sự tàn phá của họ trên thiên nhiên thật đáng kể. Chính con người đã biến biển Aral ở Trung Á thành sa mạc. Không phải chỉ có Pol Pot, mà ngay chính những người nông dân Cam Bốt sẽ quyết định có giữ trái tim Biển Hồ đang thiếu máu ấy còn đập nữa hay không?
CHƯƠNG VIII
BÊN TRỜI TIẾNG HẠC KÊU THƯƠNG 

Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh dây thì về
Ca Dao Nam Bộ
Là thành viên Ủy Ban Sông Mekong, Hộ có dịp để thấy được con sông ấy hùng vĩ nhưng cũng mong manh ra sao. Sinh ra và lớn lên từ Vùng Đồng Bằng Nam Bộ, Hộ đã quá thân thiết với con sông ấy. Hồi nhỏ thì chỉ biết gắn bó với khúc Sông Tiền nơi quê nhà qua hai mùa lũ hạn, lớn lên thì vươn tới suốt chiều dài của dòng sông, thân thuộc với nhịp điệu của con sông Mekong như nhịp đập của trái tim mình.
Con sông ấy tưởng như bất trị nhưng lại là nguồn sống từ ngàn năm của người dân Đồng Bằng Châu Thổ. Mới hơn trăm năm trước người ta cũng chưa biết con sông ấy khởi nguồn từ đâu.
Con sông xanh cuồng nộ ấy như một con rồng với đầu ẩn khuất trên chín từng mây trên ngọn núi thiêng bên cao nguyên Tây Tạng với cả thân rồng uốn lượn khi thì dũng mãnh sủi bọt gào thét xuyên qua những cao nguyên và rừng già khi thì trải mình hiền hòa trên các bình nguyên rồi Đồng Bằng Châu Thổ với chín cái đuôi không ngừng quẫy đập để vươn tới thềm lục địa Biển Đông. Vào mùa lũ tháng Chín thì con sông ấy biến thành biển nước mênh mông thắm đỏ mang đầy phù sa tràn bờ dìm sâu hết cả ruộng đồng, và nhà cửa thì chỉ còn như những chiếc nón úp trên mặt nước. Tháng Tư mùa khô, con sông ấy vẫn phô bày kích thước của nó: vẫn khối nước một màu nâu sậm trải rộng ra từ hai tới ba dặm, cảnh trí quạnh quẽ, làng mạc thì thưa thớt. Ngược dòng xa hơn về phía Bắc, không xa con thác Khemerat, đã mấy tháng sau mùa mưa, Hộ đã không thể không ngạc nhiên khi thấy vẫn có những khúc sông cạn như sắp khô kiệt tưởng chừng có thể lội bộ băng qua. Hộ cũng hiểu rằng nếu chưa có hạn hán dưới Đồng Bằng Châu Thổ, chưa có những cơn đau thắt ngực phía Hạ Nguồn nơi quê anh là do còn các dòng phụ lưu (tributaries), như những mạch phụ (collaterals).
Sông Mekong với Hộ bây giờ còn mang ý nghĩa của những mô hình cơ thể học, hơn thế nữa còn là một mô hình toán học (Mathematic Model), với đầy rẫy những con số: 40 ngàn mét khối giây lưu lượng mùa lũ, chỉ còn 2 ngàn mét khối giây mùa khô, 20 lần thấp hơn, lòng sông không những thiếu độ dốc mà lại góc độ âm nghĩa là cao hơn khi tiến gần ra biển. Rằng chỉ mới hơn mấy chục ngàn năm trước đây thôi, con sông Mekong hoang dã mới bắt đầu tạo hình Vùng Đồng Bằng Châu Thổ từ đáy biển, do chất pyrite có trong trầm tích phù sa và cả thêm từ chất sắt trong phù sa kết hợp với sulphur trong nước biển để tạo thành hợp chất pyrite. Với thời gian tính bằng thiên niên kỷ, dần dần đất nhô lên khỏi mặt biển và để rồi hàng năm được các con nước lũ đổ về phủ lên tầng tầng lớp lớp phù sa ngày mỗi dày thêm để trở thành những ruộng đồng mênh mông và màu mỡ.
Nhưng dưới lớp phù sa tân bồi ấy, chất pyrite còn đó, bị dìm sâu trong đất hay dưới làn nước. Chỉ khi phơi ra ngoài dưỡng khí, nó trở thành chất phèn chua acit sulphate, thẩm thấu lên mặt đất, bắt đầu hoành hành và là nguyên nhân nỗi khổ của người nông dân Đồng Bằng Nam Bộ. Hộ sau này cũng được biết thêm rằng tính thổ nhưỡng vùng châu thổ cũng rất thay đổi ngay trong một khoảng cách gần. Ở một nơi này thì rất chua trong khi cách đó khoảng một trăm mét đã hoàn toàn đổi khác, do mực nước (thủy cấp), độ dày đất tân bồi và các loài thảo mộc trên đó. Chính Hộ đã học được biết bao nhiêu kinh nghiệm từ những người nông dân. Họ hiểu rõ hơn ai hết vùng đất đai mà họ đang sống như biết rõ dấu chỉ trên bàn tay của họ và đã khôn ngoan tìm ra cách gieo trồng trong những điều kiện tưởng như vô phương tìm ra lời giải đáp. Họ cũng hiểu rằng đất phèn như con cọp ngủ trong hang và chẳng bao giờ nên đánh thức một con cọp đang im ngủ!
Cho dù chẳng phải là một trí thức trong tháp ngà, từng là tác giả của một luận án đồ sộ về ‘’Hệ Sinh Thái của Vùng Hạ Lưu Sông Mekong’’ nhưng chính Hộ đã bị thực tế dạy cho những bài học đích đáng. Khởi đi từ lề lối suy nghĩ kinh điển cho rằng để tăng năng xuất lúa thì phải ngăn mặn trong mùa khô và trong mùa lũ thì cần những đập lớn trữ nước để sả ra trong mùa khô, rửa muối rửa phèn cho đất và dẫn tưới ruộng đồng. Nhưng thay vì ngăn mặn thì người nông dân Vùng Nam Đồng Bằng Châu Thổ lại cho dẫn nước biển vào ruộng trong mùa hạn mà ban đầu ai cũng cho là điên khùng. Nhưng thực ra họ đã áp dụng kỹ thuật ‘’trầm thủy’’ với kết quả thật kỳ diệu: Đất bớt phèn, đến mùa mưa thì đã có nước rửa mặn cho đất khiến mùa màng tốt tươi, chưa kể thêm cái lợi khác là nước biển đã đem tôm cá vào ruộng đồng và mương rạch. Chính người nông dân đã sáng tạo ra một ‘’nền nông nghiệp lúa-tôm (rice-shrimp culture)’’ phù hợp với hệ sinh thái phức tạp của Vùng Đồng Bằng Châu Thổ.
Và đã trong nhiều kỳ trên kênh đài truyền hình, không phải ‘’thày Hộ’’ mà là người nông dân đầy sáng tạo ấy lên đài hướng dẫn bà con làm sao tận dụng cả nguồn nước mặn trong kết hợp trồng lúa và nuôi tôm. Sự kiện bà con nông dân phá vỡ con đê ngăn mặn ở Gò Công Tây là bài học thấm thía và nhớ đời cho chính Hộ và đám kỹ sư thủy lợi đến từ trung ương.
Rồi lại còn thiên tai lũ lụt mỗi năm, ai cũng cảm thấy bất an khi đương đầu với con rồng bất kham ấy. Với bài học ngàn năm từ con Sông Hồng, người ta muốn chế ngự nó bằng những con đập với hệ thống đê điều vững chắc. Sơn Tinh (Thần Núi) biểu tượng cho sức mạnh của đê điều, Thủy Tinh (Thần Nước) là sức tàn phá của những cơn lũ. Cả hai đều muốn chiếm đoạt nàng Công Chúa xinh đẹp là Vùng Đồng Bằng Châu Thổ.
Nước dâng cao thì núi vươn cao và cuối cùng Sơn Tinh đã thắng. Đó là chiến thắng của sức người với hệ thống đê điều hai bên bờ con Sông Hồng.
Nhưng xem ra người nông dân Đồng Bằng Cửu Long có cái nhìn Lão Trang hơn, thay vì trấn áp thì họ chọn sự thách đố chung sống với những cơn lũ. Không đắp đê cao mà đào thêm những rạch sâu để thoát lũ ra Biển Tây, Biển Đông và cải thiện giao thông, tiếp tục truyền thống từ nhiều ngàn năm trước của nền văn minh Ốc Eo Vương Quốc Phù Nam cho dù cả Vương Quốc ấy đã tiêu vong do một cơn hồng thủy tràn ngập vùng châu thổ vào khoảng giữa Thế Kỷ thứ sáu.
Con thuyền máy chạy băng băng giữa lòng một con kinh đào mới, gọi là mới chứ cũng đã hơn năm năm rồi. Sẽ có thêm hàng ngàn cây số kinh rạch nữa được hoàn tất vào cuối Thế Kỷ này. Cảnh tượng nổi bật là màu vàng của rỉ sắt đã nhuốm lên mọi cảnh vật: Từ gốc những cây tràm, tới thân ghe, cầu tầu, lưới cá và cả chân người ta nữa, nghĩa là bất kể vật gì nhúng vào làn nước ấy. Người ta đã thấy ngay được nanh vuốt con cọp đang im ngủ trong hang vừa bị đánh thức. Trừ đợt tôm cá trong mùa mưa do cơn lũ đổ vào, đã không có sinh vật nào sống được dưới làn nước trong leo lẻo đẫm chất phèn chua ấy, có chăng chỉ là lưa thưa mấy đám cỏ xúng chịu phèn. Người nông dân chỉ cần nhận ra giống cỏ nào là họ biết đâu có thể là khu đất gieo trồng. Và cho đến bây giờ thì họ vẫn kiên nhẫn chờ đợi những trận mưa to những con lũ lớn tới rửa phèn cho đất và họ vẫn không ngừng phá rừng, tiếp tục đào kênh và lên liếp.
Những vùng đầm lầy như Tam Nông càng ngày càng thu hẹp và đã chẳng còn bao nhiêu nữa và tương lai của các Tràm Chim đang bị thả nổi. Hay rồi ra Đồng Tháp Mười chỉ còn là những cánh đồng chua nước mặn với mấy khu nuôi tôm xú, mấy khoảng ruộng lúa xanh hay những căn nhà ngói đỏ. Và rồi cũng chẳng còn một cánh hạc nào bên bờ con sông thiêng đang dần bị tát cạn.
Thuận giục chúng tôi trở lại ghe để có thể tới Huyện Tam Nông trước khi trời đổ tối. Con thuyền máy tăng thêm gia tốc vươn tới bỏ lại phía sau những đợt sóng vàng muôn sắc dưới những vạt nắng của ráng chiều. Do yêu cầu xã giao, Hộ tới gặp Mười Nhe bí thư huyện ủy Tam Nông. Cùng đi với Hộ có Bé Tư và Điền, đặc biệt lần này có cả Thuận con trai Mười Nhe. Thuận mới tốt nghiệp Đại Học Cần Thơ đang phụ trách khảo sát thủy văn của vùng Tam Nông.
Rất khác với người cha, Thuận cao lớn vạm vỡ trong khi Mười Nhe gầy khô và thấp nhỏ. Mười Nhe thuần nhất là con người thực dụng, trong khi Thuận thì mơ mộng, say mê công tác bảo tồn thiên nhiên và các Tràm Chim. Có thể nói Thuận là âm bản của con người cộng sản Mười Nhe. Thuận thấy lạc lõng với quá khứ của người cha và không thấy có liên hệ gì tới cuộc chiến tranh đã qua và cũng không muốn được nghe ai nhắc tới. Thuận học giỏi nhưng chưa bao giờ được điểm A về môn chánh trị Mác Lê, gốc gia đình cách mạng nhưng Thuận chưa bao giờ coi đó là điều đáng hãnh diện. Bản thân Thuận chưa hề có biểu hiện phấn đấu vào đoàn thanh niên cộng sản thì nói chi xa xôi tới đối tượng đảng. Về phương diện hồng, có thể nói Thuận là nỗi thất vọng ê chề của Mười Nhe.
Qua sự bảo trợ của Bé Tư, Thuận được Hội Hạc Quốc tế ICF cấp học bổng du học Âu Châu hoặc Hoa Kỳ. Không cần suy nghĩ Thuận chọn ngay đi Mỹ vì theo Thuận cái gì ở Mỹ bây giờ cũng là nhất thế giới. Không bộc lộ hay nói ra nhưng là một hiện tượng khá phổ quát từ Nam ra tới Bắc, nhất là ngoài Bắc gia đình nào cũng có một ‘’Giấc Mơ Mỹ Quốc’’ ước muốn làm sao gửi cho được một người con sang Mỹ.
- Nhưng em còn phải qua được kỳ thi Anh văn trước đã! Sao mà khó trần ai!
Họ thì đòi điểm phải trên 550 mà điểm em thì cứ 540 rồi 530 không sao nhích hơn lên được.
Bé Tư an ủi Thuận:
- Em vậy là khá lắm rồi, cô biết có người Mỹ chính gốc thi còn bị failed đó em!
- À mà em muốn hỏi cô, tình hình các giống hạc bên Huê Kỳ bây giờ ra sao cô?
- Toàn Mỹ Châu chỉ có Bắc Mỹ còn lại hai giống hạc. Whooping và Sandhill Cranes. Loài trên thì gần như sắp bị tiêu diệt nên đang được hết sức bảo vệ, loài Sandhill thì còn khá hơn. Hạc mới trông thì thấy giống loài Diệc (Herons) nhưng hoàn toàn khác, hạc thuộc họ Grudae. Hạc bay với cổ vươn ra phía trước, nhịp cánh đập chậm hơn nhịp cánh vung lên với tiếng kêu âm vang Kar-r-r-r-o-o-o có thể nghe thấy từ rất xa. Không khác mấy với Hạc Đông Phương ở Việt Nam (Eastern Sarus Cranes), nói chung hạc ưa sống ngoài trời, làm tổ trên mặt đất và chỉ đẻ hai trứng, thích kiếm ăn tôm cua sò hến và ăn thêm cả cỏ lá trên đầm lầy và mặt bùn nước cạn (mudflats) ở Florida, ở California tương tự như vùng đầm lầy Tam Nông.
Thuận khá thông minh lại rất hiếu học, luôn luôn đem theo bên mình cả băng cassette, không phải chỉ để thâu tiếng chim mà còn để luyện giọng tiếng Anh nữa. Bé Tư rất mến Thuận ở cái biệt tài giả giọng hót của nhiều loại chim muông, kể cả tiếng hạc. Trên đường đi, Thuận tâm sự:
- Em rất muốn được làm việc lâu dài ở đây nhưng phải cái hai cha con cứ đụng nhau hoài, thiếu điều ông ấy muốn đuổi em ra khỏi nhà! Nhưng không phải ổng hoàn toàn vô lý khi làm mọi chuyện chăm lo cho đời sống bà con.
Thuận chỉ nói được tới đó, dáng kìm hãm và không muốn nói gì thêm. Trên đường đi cảnh tượng thường xuyên bắt gặp là những bãi cây tràm bị đốn chất đống ngổn ngang dọc theo mé kênh và cả ở hai bên vệ đường, kể cả những đám tràm con còn tươi rói cũng bị đốn bỏ bừa bãi không chút thương sót.
Thuận giọng bùi ngùi nói:
- Từ ngày có ‘’Đổi Mới’’ dân nghèo từ khắp các Tỉnh đổ xô về đây ngày một đông. Họ đang thi nhau đốn bỏ rừng tràm để có thêm đất trồng lúa hay diện tích nuôi tôm, ‘’vì lúa hay tôm đều rất có ăn, lại còn mau ăn nữa’’. Cứ cái mửng này chẳng bao lâu nữa cả Đồng Tháp Mười sẽ cạn kiệt cây tràm. Mà hết rừng tràm thì cũng chẳng còn cái gọi là tràm chim Tam Nông, Thày Cô ạ.
- Bộ không có chánh sách bảo tồn khu thiên nhiên Tam Nông sao em? Bé Tư nôn nóng hỏi.
- Có chứ, Thưa Cô. Trung ương cũng đã có chỉ đạo việc quy hoạch và bảo tồn ‘’làng cổ Đồng Tháp Mười’’ nhưng nói ra thì kỳ phép vua vẫn cứ thua lệ làng, nghĩa là không có luật pháp gì rõ ràng, vẫn cứ tùy tiện như hồi còn chiến tranh, bao nhiêu quyền hành vẫn nằm trong tay đảng ủy địa phương. Mà Tam Nông có thể coi là trường hợp điển hình.
Bé Tư thấy xa lạ với những từ mới:
- Điển hình là sao em?
- Là mẫu tiêu biểu, giống như chữ role model trong tiếng Anh đó cô.
Cả Hộ, Điền và Bé Tư cùng bật cười vui vẻ. Qua Hộ Bé Tư mới được biết thêm rằng Mười Nhe là hình ảnh hiếm hoi của những người cộng sản chân chính còn vương sót lại. Sinh ra và lớn lên trong Vùng Đồng Tháp, chưa xong Tiểu Học đã vô bưng, được vinh danh là dũng sĩ diệt Mỹ thời còn chiến tranh, gan lì không ai bằng, bị hư mắt trái do mảnh bom trong một trận càn. Nay làm huyện ủy Tam Nông, không thể nói là Mười Nhe không yêu thương quê hương Đồng Tháp. Duy chỉ có cái nhìn của hắn ta thì rất khác. Môi sinh với Mười Nhe là cái môi trường sống sao cho ‘’dễ thở’’ đối với bà con. Cứu cánh ấy biện minh cho mọi phương tiện hiện đại được đem ra áp dụng ‘’đại trà’’ cho khắp vùng Tam Nông. Phá rừng tràm không phải chỉ có dao quắm mà còn có cả máy cưa, đánh cá không phải chỉ có lưới mà với cả chất nổ hay điện xoẹt, săn chim không phải chỉ có bẫy mà còn là đủ loại súng với đạn ghém và cả ống nhắm. Cảnh quanh Tam Nông quê hương Mười Nhe phải nói là thay đổi từng ngày, rừng khuyết từng mảng, cá tôm bất kể lớn bé bị giết hàng loạt nổi phều, chim thường hay hiếm quý cũng giống nhau bị lùng săn như những con thịt. Nói tóm lại Mười Nhe không những đem lại cho đồng bào một đời sống ‘’dễ thở’’ mà còn rất sung túc và cả hy vọng mau giàu nữa.
Khách thăm được mời một bữa ăn ê hề rượu thịt cả món hạc tiềm thuốc bắc chắc là để kéo dài tuổi thọ, bởi vì theo quan điểm Đông Y của Mười Nhe, đó không chỉ là món nhậu mà còn là vị thuốc nữa.
Bọn du mục Tây Tạng thì tin rằng trên đỉnh núi thiêng nơi khởi nguồn con sông Mekong có một vị thần linh là con rồng Zjiadujiawangzha bảo vệ cho nguồn nước luôn an lành và nếu uống được nguồn nước ấy người ta sẽ sống lâu. Nhưng với Mười Nhe, thay vì tin phép mầu từ ngụm nước sông thì nay là miếng trần gian hiếm hoi của các ‘’sứ giả môi sinh’’. Bữa ăn nấu bằng thú hiếm gợi cho Bé Tư cả một giai đoạn tranh đấu sôi nổi thời sinh viên. Lúc ấy Bé Tư là hội viên hoạt động tích cực của ‘’Hội Bảo Vệ Thú Vật Thế Giới’’ đã cùng các bạn qua Tòa Đại Sứ Liên Xô ở Hoa Thịnh Đốn cực lực chống đối việc cho phép một nhà hàng ở Mặc Tư Khoa chuyên cung cấp các món ăn nấu bằng các loại thú gần tuyệt chủng. Thực khách phải trả cả ngàn đôla xanh cho một đĩa món ăn lạ như vậy, giá càng cao hơn với loài thú hiếm hoi hơn. Có lẽ lúc đó thực đơn của nhà hàng ấy chưa có được món Hạc Đông Phương như của Mười Nhe bây giờ... Mãi sau này Bé Tư mới được biết thêm có một đường dây từ các Tràm chim cung cấp đủ loại chim kể cả loại hiếm quý cho Quán Chim, nơi lui tới ăn nhậu nổi tiếng kén chọn của giới thượng lưu ở Sài Gòn. Dưới mắt Bé Tư thì cho dù ở đâu và bao giờ, lùng kiếm ăn thịt các con thú hiếm quý sắp tuyệt chủng trên hành tinh này thì đó hành vi tội phạm man rợ.
Chỉ trong một ‘’kế hoạch ngũ niên tự phát’’, Mười Nhe đã đạt thành tích kỷ lục về những con số: dân số tăng khủng khiếp gấp đôi, diện tích rừng tràm nổi tiếng phong phú của tỉnh Đồng Tháp thì nay chỉ còn một phần ba, trong Tràm Chim chỉ riêng loài hạc con số trước đây đã lên tới cả ngàn thì nay chỉ còn khoảng 500 con. Dưới mắt người nông dân nghèo thì ‘’đồng chí’’
Mười Nhe đã có công rất lớn biến vùng đệm ngập nước quanh Tam Nông mau chóng thành một quận huyện đi lên cảnh trù phú. Mười Nhe tiếp khách trong một trụ sở quận mới xây cất rộng và khang trang. Trên tường là lá cờ đỏ chói lọi làm nền cho một bàn thờ hương án với tượng bán thân ‘’Bác Hồ’’ lớn bằng thạch cao trắng. Không còn treo la liệt những khẩu hiệu là điều mới đáng chú ý. Mười Nhe vóc người ốm nhỏ, có nước da sạm đen hơi tái của người thiếu máu do bệnh sốt rét kinh niên, khuôn mặt xương xẩu vẻ cằn cỗi và khắc khổ, có thêm nét dữ tợn do vết sẹo lớn nơi đuôi mắt trái. Không còn nón cối dép râu như hồi nào, Mười Nhe mặc áo sơ mi trắng tay cụt với quần sậm, cổ tay với đồng hồ Seiko vàng, chiến lợi phẩm thu hoạch do thành tích đánh tư sản và người Hoa sau giải phóng, tay xách cặp da và đi giày da. Nơi góc phòng trang trí nổi bật là chiếc máy Tivi màu Sony 19 inches có cả ‘’đầu máy’’ VCR để coi băng.
‘’Chuyện máy móc điện tử thì phải nhờ thằng con trai tui nó lo cho hết chơn. Cả bà con lối xóm cần chi về kỹ thuật cũng chạy sang kiếm nó.’’ Vừa nói vừa nhìn sang Thuận, Mười Nhe không dấu được vẻ kiêu hãnh, nhưng ngay sau đó thì trấn áp thằng con ngay: ‘’Nó chỉ được có dzậy, chứ chuyện chánh trị chánh em thì coi như zêro. Nó quen sống trên tỉnh chỉ biết có sách vở, nghe theo người ta rồi cũng bày đặt nói tới nói lui chuyện tào lao môi sinh môi tử với tui’’.
Mười Nhe được thể nói giọng xác tín với khách:
- Trước khi nghe các ông bà từ xa xôi lại đây bàn chuyện bảo vệ hạc với chim thì tui phải nói ngay rằng nhân dân Huyện Tam Nông phải có một cuộc sống ngày hai bữa ăn cái đã. Những người dân đổ về đây là đám bần cố nông nghĩa là vô sản chân chính, không có lấy một tấc đất cắm dùi, quanh năm đổ mồ hôi sôi nước mắt để đi làm thuê cắt lúa thuê mà vẫn thiếu ăn. Vấn đề cấp bách đặt ra là làm sao có đất cho họ để cấy lúa nuôi tôm. Đó cũng chính là quan điểm đảng ủy chúng tôi chấp thuận cho thu hẹp các khu rừng tràm mở rộng khu đệm để có thêm đất cấp cho nhân dân. Mười Nhe không dấu được kiêu hãnh nói thêm:
- Diện tích trồng lúa và nuôi tôm tăng đều và nhanh hơn mỗi năm, thuế nông nghiệp nạp cho nhà nước thì vượt chỉ tiêu so với các Huyện khác trong Tỉnh Đồng Tháp. Đáng nói là tinh thần tự nguyện của đồng bào, không cần phải o ép ai bởi họ biết đảng ủy thì hết lòng chăm lo cho họ.
Không mấy xa trụ sở huyện, Mười Nhe chỉ cho khách mấy ngôi nhà mới mái ngói đỏ au với cao vút lên nền trời xanh là những cột ăng-ten để bắt các kênh đài truyền hình. Ghé thăm gia đình bác Tư Trung gốc bộ đội phục viên quê ở tận Ấp Phú Hòa Chợ Lách Bến Tre, tới đây chỉ với hai bàn tay trắng vậy mà chưa đầy ba năm sau đã có một cuộc sống không những đủ ăn mà còn sung túc nữa. Chỉ riêng tay Tư Trung đã chém ngã hơn năm hécta rừng tràm đem bán được cả chục triệu đồng, không những dư tiền cất nhà mới lại còn thêm đất để làm lúa hai vụ mỗi năm rất có ăn, mau thu hoạch hơn cây tràm nhiều.
Điều ngạc nhiên với Bé Tư khi về Việt Nam là đi tới đâu cũng nghe nói ‘’chuyện ăn: Làm ăn nhanh, thu hoạch nhanh và làm giàu nhanh ngay cả trong lãnh vực nghiên cứu khoa học’’. Hình như sau chiến tranh mọi người chợt nhận ra rằng họ chỉ có một cuộc đời này để sống nên chẳng còn ai tin vào cái thiên đường cộng sản hứa hẹn ở mãi tận đời sau. Cũng theo Mười Nhe thì gia đình bác Tư Trung được coi như hộ tiên tiến điển hình của Huyện Tam Nông bước vào thời kỳ ‘’Đổi Mới’’ để cùng cả nước tiến lên ‘’hiện đại hóa, công nghiệp hóa’’.
Chính Hộ đã giúp Mười Nhe đưa lúa thần nông HYV (High Yield Variety) vào khu đệm Huyện Tam Nông với hy vọng giống lúa cao sản này sẽ cải thiện đời sống bà con mà không cần phá thêm rừng tràm. Nhưng mọi chuyện diễn ra sau đó hoàn toàn ngoài dự kiến của Hộ. Khoa Thủy Văn Đại Học Cần Thơ với dự án xây bốn ống dẫn thoát lớn từ con kinh bao quanh khu bảo tồn, thay vì để điều hòa mực nước trong Tràm Chim thì lại bị bà con nông dân tận dụng để rút nước ra khỏi khu đầm lầy để tưới ruộng trong suốt mùa khô. Đã thế do nước cạn bà con còn phá rừng mau hơn, vì ai cũng thấy trồng lúa nhất là thứ ‘’lúa cao sản của Thầy Hộ’’ rất có ăn. Nhưng cũng do là giống lúa rất khát nước nên mùa hạn bà con không chỉ lấy nước từ tràm chim mà còn be bờ không cho nước xuống vùng dưới khiến bà con nông dân miệt dưới thiếu nước phải kêu trời. Chẳng cần ai điều hợp hay trọng tài, Mười Nhe đã thành công phát triển riêng cho huyện Tam Nông bằng cái giá của Tràm Chim với sinh mạng của cả ngàn cánh hạc và mùa màng khô hạn nơi miệt dưới.
Mười Nhe vẫn giọng tâm sự:
- Trong chiến tranh, đồng bào hy sinh xương máu quá nhiều rồi. Chỉ mong có ngày hòa bình độc lập, đảng ta có dịp chăm lo hạnh phúc bù đắp cho bà con. Hạnh phúc nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu của huyện ủy chúng tôi. Vậy mà vẫn có các đồng chí ở trung ương xuống, còn dẫn theo cả mấy ông Mỹ tóc vàng mắt xanh, có ý chê trách cách làm ăn của chúng tôi mà họ gọi là ‘’tùy tiện’’, là phá hoại môi sinh. Chứ tôi hỏi các đồng chí môi sinh là cái chi chi mà bắt chúng tôi phải hy sinh cả miếng cơm manh áo của nhân dân?
Đời thuở nhà ai chỉ là khách tới nhà mà người ta bắt mình phải kê bàn thờ ông bà ở đâu sắp xếp lại hết đồ đạc trong nhà ra sao! Bọn thực dân đế quốc bao năm rồi như con đỉa nhiều vòi hút kiệt tài nguyên các nước Á Phi, bọn chúng giàu có dư ăn dư mặc rồi nay lại muốn thú vui chơi kiểng chơi chim. Chúng trở lại Việt Nam, chẳng cần biết dân ta đói no ra sao mà còn chơi cha dạy mình phải ‘’giữ màu xanh’’ phải bảo vệ rừng tràm để dưỡng mấy con hạc con nông. Như dzậy đâu có được!
Rồi bao nhiêu căm thù tích lũy bấy nhiêu năm, Mười Nhe giọng sắt đá:
- Mà nói phá hoại môi sinh thì ai bằng đế quốc Mỹ trong chiến tranh vừa qua. Hồi đó tụi tôi đâu có biết sợ là cái chi nhưng đụng với chiến tranh hóa học thì chỉ biết bó tay. Để xua bọn tôi ra khỏi rừng, chúng đã không từ nan một thủ đoạn nào: Dùng máy móc cơ khí hiện đại nhất cho đào kênh mương để tát cạn đầm lầy, cho máy bay rải bom Napalm và chất độc Da Cam để đốt rừng và diệt hết cây cỏ. Sau chiến tranh rừng thì còn đó nhưng hoàn toàn bị nhiễm độc và tan hoang.
Mười Nhe vẫn giọng đanh thép:
- Mất bao nhiêu xương máu, hòa bình mới đó mà đã có các đồng chí nhiều bộ phận đảng ta đã để mất cảnh giác. Bản chất đế quốc trong chiến tranh hay trong hòa bình thì cũng dzậy thôi. Đồng chí tổng bí thư sáng suốt đã dạy phải đề phòng âm mưu diễn tiến hòa bình của kẻ địch, dzậy mà sao nhiều người vẫn không thấy.
Rồi Mười Nhe còn bày tỏ mối ưu tư:
- Phải chi được như hồi còn chiến tranh, muôn lòng như một chỉ biết nghe theo đảng. Chứ như bây giờ ai cũng có quyền nêu ý kiến, nhất là mấy ông tự nhận có học ở nước ngoài về, tuổi đảng thì không biết được bao nhiêu mà đã mau chóng được cất nhắc. Hồng thì chưa, chỉ có chuyên thì làm sao mà nói chuyện lãnh đạo xuyên suốt cho được.
Rồi Mười Nhe xuống giọng buồn rầu:
- Tôi là thương binh tuổi cũng đã gọi là cao, kể ra đảng cho về hưu cũng là phải rồi, tôi cũng muốn dành phần cuối đời lo cho gia đình mẹ già chứ không lẽ cứ như dzậy mãi sao... Nhưng rồi như vẫn còn nghe đâu đó tiếng gọi của bác và đảng, tôi thấy mình vẫn còn phải bám trụ hy sinh thêm nữa. Đấu tranh nội bộ như hiện nay khó lắm, bởi vì không thấy đâu là trận tuyến. Tôi vẫn nói như dzậy ở mỗi lần về họp trên Tỉnh hay với các đồng chí đến từ trung ương...
Mười Nhe mắt long lanh hướng về phía bàn thờ nơi có tượng ông Hồ vẻ thành kính tưởng nhớ, giọng tiếc nuối:
- Phải chi nếu Bác còn thì đâu có tình trạng lãnh đạo chao đảo đến như dzậy... Như thằng Thuận con tui đây, không có một ngày trưởng thành trong chiến tranh khói lửa, ngoài chuyện sách vở thì nó biết cái chi mà dám lên tiếng dạy khôn tui.
Mười Nhe gầm gừ như một con cọp dữ trong khi Thuận chỉ là một con nai tơ chịu trận và ngồi nín khe. Trên đường về, Hộ kể lại:
- Không phải là không có lý khi có một đồng chí từ trung ương rất hiểu Mười Nhe bảo rằng chỉ có mỗi một cách duy nhất ngăn được hắn thôi không phá rừng tràm là phải khêu gợi lại lòng căm thù, nêu lý do mất cảnh giác về an ninh quốc phòng ‘’phá hết rừng tràm là phá hoại chiến khu...’’
Điền đưa ra nhận xét với Hộ:
- Có lẽ cho đến hết Thế Kỷ này, không chỉ những người cộng sản Tư Bản Đỏ tha hóa mà đến cả nhóm người cộng sản ít oi được coi là chân chính còn sót lại như Mười Nhe, thiếu học lại cuồng tín họ vẫn còn là nguyên nhân nỗi khổ không phải chỉ trên những con người mà còn với đám cây cỏ và chim muông.
Với con mắt nhà khoa học, theo Bé Tư thì vùng đầm lầy và tràm chim không phải chỉ cống hiến vẻ giàu đẹp của quê hương thiên nhiên mà đó còn là một kho tàng phong phú về sinh học, cái nôi của chu kỳ sinh sản và tăng trưởng cho nhiều giống chim cá và các loài sinh vật khác. Đó là nơi lưu trữ nước trong mùa lũ và điều hòa nước trong mùa khô, một yếu tố để cân bằng môi sinh có từ bao lâu nay rồi, vậy mà đang có nguy cơ bị phá hủy nó.
Nhật Ký Của Người Chứng.
Bé Tư thấy mình đánh mất sự hồn nhiên, thay đổi cảm xúc và cả cách suy nghĩ ở lần vội vã lên thăm con thím Ba trên bệnh viện Sài Gòn. Giữa một Sài Gòn hoa lệ thì vẫn có một địa ngục trần gian: Nơi mà người ta gọi là trại bệnh dành cho những đứa trẻ mang đủ thứ bệnh tật trong một căn bệnh chung là suy dinh dưỡng. Bé Tư không thể nào quên được cảnh tượng những đứa trẻ bụng ỏng da xương gầy gò nằm trơ trọi trong những căn phòng tường vôi thủng loang lổ, trên những chiếc giường sắt tróc sơn cũ rỉ với manh chiếu đơn khai nồng trải trên những vạt giường ọp ẹp, ngay bên một khu nhà vệ sinh ẩm thấp tối tăm với một bể nước ngập phân nổi lều bều. Chỉ cách đó không xa, băng qua một bãi cỏ tốt lút đầu, là một trung tâm Nhi Khoa khác mới xây kiêu kỳ và sang cả với cửa kính và gạch lát sáng choang, các phòng đều gắn máy lạnh, dĩ nhiên với đầy đủ thuốc men và các trang bị hiện đại dành cho con cái cán bộ nhiều tiền và thiểu số các gia đình giàu có, giá thật đắt tính bằng đô la xanh vậy mà không bao giờ còn chỗ.
Khi Bé Tư tới nơi thì đã quá trễ để mà chuyển trại cứu mạng sống cho đứa con thím Ba. Một cái chết không đáng chết chỉ vì thiếu thuốc. Có bao nhiêu đứa trẻ mỗi ngày đã chết một cách âm thầm và oan khiên như vậy. Chỉ cách nhau có một bãi cỏ mà sinh cảnh đã là hai thế giới của ánh sáng và bóng đêm.
Ngày... tháng...
Bé Tư theo thím Ba Xuân đi thực tế cắt lúa thuê trong vụ Hè Thu. Từ Bến Tre ‘’tập đoàn’’ thuê chung chiếc ghe bầu đi Đồng Tháp Mười. Trừ thím Ba, họ là đám thanh thiếu niên được sinh ra ngay trước sau năm 75: Lứa tuổi của hơn nửa dân số bảy chục triệu người trên cả nước, họ hồn nhiên và giống nhau ở chỗ nghèo ít học không tham vọng. Đều khiến Bé Tư ngạc nhiên tới sững sờ là trong số họ có người không biết đọc biết viết lại còn sớm mắc tật hút sách và rượu chè. Thời tiết khô nắng đẹp không có gì báo hiệu là sắp có lũ lụt. Do chỗ quen cũ đoàn lại được tới ở trọ nhà chú Mười Tân, nhà trống trơn nhưng được cái rộng nên họ chia thành các toán nhỏ phân khoanh nằm ngay trên sàn nhà Bé Tư và thím Ba thì được chú dành riêng cho một tấm phản ở trái bên. Còn bao nhiêu toán khác, họ cứ theo ghe lớn ghé vào mé kinh nơi có ruộng thuê gặt là đổ bộ lên bờ tách ra thành các nhóm nhỏ dựng nên những căn chòi tạm lợp bằng tấm nylon kiểu dã chiến, chỉ tạm che nắng chứ không đủ che mưa. Ăn thì đổ gạo nấu chung, tắm giặt vệ sinh thì trai gái từng toán kéo nhau xuống sông. Cả trăm nhóm như vậy từ khắp nơi đổ về trải ra khắp cánh đồng còn ngập nước. Vì cắt lúa chạy lũ nên họ phải làm tất bật từ sáng sớm tới trời tối mịt. Nắng mưa gì thì suốt ngày cũng cứ phải ngâm mình dưới nước mà cắt. Gặp lúa đứng thì còn đỡ chứ phải đám lúa ngã lẫn lội bùn đất, thì còn phải đem xuống sông rửa trước khi đem phơ. Cứ sau một ngày thì mọi người đều mệt lử không có ai mà tay chân không lạnh móp, bị cứa rách vì liềm hái và lúa cắt. Hạnh phúc trông chờ là cố chịu cực một tháng để có tí giạ lúa để dành ăn không phải lo đói trong một năm. Họ có khác gì đâu đám người Mễ những công dân hạng hai và mùa hoa trái trải ra khắp các cánh đồng bên California dưới cái nắng cháy sa mạc, để bán sức lao động với tiền công dưới cả mức tối thiểu.
Đi đâu Bé Tư cũng chứng kiến đa số người dân phải sống trong một cảnh nghèo khôn tả với vẻ chấp nhận cam chịu một cách thương tâm. Nơi phô bày vẻ sang cả thì chỉ làm cho vẻ lầm than càng tăng thêm. ‘’Chứng nhân cho Thiên nhiên: Sinh Thái Giữa Giàu Nghèo Trên Một Quê Hương Chia Lìa (Witness for Nature: A Divided Country, The Ecology of Rich and Poor)’’. Là bài viết gây chấn động của Bé Tư của một người vẫn yêu mến thiên nhiên với giọng văn đam mê nhưng chừng mực, rốt ráo về những vấn đề xã hội nhưng vẫn dịu dàng. Trong khi môi sinh đang trở thành vấn đề tranh luận gay gắt trên toàn quốc, thì những dòng chữ viết đầy tình tự ấy như một dòng suối mát ca ngợi hạnh phúc giữa con người và thiên nhiên như một kết hợp hài hòa chẳng thể tách rời...
Đêm ấy ở Tam Nông, vẫn là một đêm dài vô minh, đêm bao trùm khắp Việt Nam và cả lục địa Á Châu, hòa trong tiếng nước ròng của con sông Mekong như nhịp điệu từ ngàn năm, văng vẳng bên trời giữa những tiếng hạc kêu thương, Bé Tư còn nghe có tiếng trẻ con khóc.
CHƯƠNG IX
SÔNG THIÊNG MÀ TÁT CẠN
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Nước sông lai láng cá bầy đua bơi
Ca Dao Nam Bộ
Từ Ngọn Núi Thiêng 15 ngàn bộ trên cao nguyên Tây Tạng, từ đâu đó trong vùng trắng mênh mông của triền núi tuyết, con sông Mekong bắt đầu chảy róc rách khởi nguồn cho một con sông lớn của Châu Á, nhưng từ đây còn phải mất bao lâu nữa, trải qua bao nhiêu ghềnh thác, ngang qua bao nhiêu vùng khí hậu và dân cư để con sông xanh cuồng nộ ấy tới được Việt Nam mang tên Cửu Long ôm ấp vùng đất thiêng tỏa thành chín con rồng sáng trải dài ra tới bờ Biển Đông.
Mà Cửu Long Giang tên ấy có tự bao giờ? Theo Gia Định Thông Chí là cuốn sách về lịch sử địa lý đất Gia Định hay là đất Nam Kỳ sau này thì tên ấy là do Trịnh Hoài Đức đặt. Tổ tiên ông gốc người Phúc Kiến bên Tàu di cư sang đất Trấn Biên (Biên Hòa) sinh năm 1765 cùng năm sanh với Nguyễn Du, đỗ đạt làm quan dưới cả hai triều Gia Long và Minh Mạng lên tới chức Hiệp Biện Đại Học Sĩ hiệu là Cấn Trai. Ông cùng với Lê Quang Định và Lê Nhân Tĩnh đều là môn sinh của Võ Trường Toản, cả ba nổi danh thơ phú nên được người đương thời mệnh danh là Gia Định Tam Gia Thi. Ông mất năm 1825, năm năm sau ngày mất của Thi Hào Nguyễn Du. Ai cũng biết là hai con Sông Tiền Sông Hậu chỉ đổ ra tám cửa nhưng số chín mới là con số hên nên cửa Tranh Đề cũng được kể thêm vào cho dù chỉ là một thoát lưu phụ rất nhỏ. Cũng như Thất Sơn có nhiều hơn bảy ngọn núi nhưng số bảy được chọn vì cũng là một con số hên.
Nói tới Đồng Bằng Sông Cửu Long quê Điền, người ta nghĩ ngay tới lúa và lụt. Chung sống với lũ lụt thì có gì mới lạ đâu với những ai đã từng ở hai bên bờ những con sông ấy với chằng chịt những kinh và rạch. Rồi cứ hàng năm cùng với cơn lũ là tầng tầng lớp lớp phù sa tô bồi thì ruộng đồng nào mà chẳng thêm phì nhiêu, lại thêm bao nhiêu là tôm cá. Chưa kể thêm cái lợi con lũ rửa phèn cho đất, rửa bớt chất độc Da Cam còn nằm sâu lắng đâu đó trong các khu rừng chết từ sau cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Không biết đã bao lâu rồi nhưng Điền thì không bao giờ quên trận lụt lớn nhất năm đó khi Điền mới mười tuổi. Bấy giờ là khoảng giữa tháng Năm, nước quay kỳ nhất từ Thượng Nguồn đổ về thật đậm một màu đỏ như son.
Màu đỏ không phải chỉ có phù sa, có năm còn trộn lẫn máu người ta nữa. Cha Điền nói vậy không giải thích gì thêm và chỉ sau này lớn lên Điền mới thật sự hiểu.
Với con nước ấy ai cũng biết sắp tới mùa lũ mà có lẽ lũ lụt lớn bởi thêm cái điềm bày kiến vàng thì bỏ tổ tha trứng lên các ngọn cây cao và cả bầy ong muỗi từ núi bay về cũng làm tổ trên cao hơn mọi năm. Rất khác với con Sông Hồng dữ dằn, Sông Tiền Sông Hậu như từ bao giờ, do một phần lũ chảy ngược về Biển Hồ nên cho dù có lụt lớn thì con nước vẫn ổn định dâng lên từ từ tràn bờ rồi chảy ra chan hòa. Nhưng riêng năm ấy sao vẫn bất ngờ quá, trận lũ không những đã lớn hơn, dâng lên nhanh hơn lại còn sớm hơn mọi năm tới một tuần trăng khiến không có nhà nông nào trở tay cho kịp. Con nước cứ thế chảy phăng phăng về suôi kéo theo những cành khô những giề lục bình man mác trổ bông tím. Và cứ thế mỗi ngày mực nước dâng cao thêm hai ba tấc, ngay cả ruộng sạ với lúa mù lúa nổi cũng không cách nào phóng ống kịp và đành chịu ngộp. Nước ngập hết cả kinh rạch ruộng đồng, nước chảy mạnh tràn qua các lộ xe, không sao phân biệt được đâu là sông đâu là đồng. Con nước năm ấy sao lên cao quá, ở vào khu trũng nước dâng gần ngập tới nóc nhà, lại thêm cây lá bị sóng đánh te tua. Trên mái nhà lá hay tôn, ngoi ngóp người và chó, cả thêm mấy con gà đứng cú rủ, chỉ có mấy con vịt chịu nước thì lông cánh vẫn mượt mà. Điền và hai em cùng cúm rúm ngồi trên đó, trừ Bé Tư là con gái mắc cở thì mẹ cho mặc quần, còn hai thằng con trai thì ở truồng luôn cho khỏi bị quần áo ướt.
Bầu trời thấp xuống, lúc nào cũng sâm sẩm như sũng nước, mãi tới giữa trưa mới thêm được chút nắng ấm, nhưng phía dưới vẫn là con nước dâng cao lạnh lẽo bao la, chẳng còn bóng dáng đâu là ruộng lúa vàng, chỉ còn lấm tấm trên mặt nước là những bông điên điển mới trổ một màu vàng tươi nhấp nhô trên những gợn sóng. Điền theo cha từ sáng sớm xuống xuồng đi hái bông điên điển rồi đi vớt mớ cá linh.
Lục bình bông tím
Điên điển bông vàng
Điên điển mọc ở đất làng
Lục bình trôi nổi...
như phường hát rong
Cây điên điển người Khmer gọi là Srock Snor thân cỏ mọc khắp các mé rạch bờ sông, bông màu vàng hái sớm mà trộn gỏi tôm càng thì hết sẩy, đem nấu canh cũng rất ngon. Nếu hái trễ khi nắng đã lên cao, ăn không còn ngon nữa mà có vị đắng. Quên hết cả mưa lụt và gió lạnh, Điền thích thú với những con cá trắng nhỏ ánh bạc vùng vẫy trong lưới. Mùa mưa ăn cá trắng, mùa nắng ăn cá đen. Chỉ mới hơn nửa buổi mà cha con đã vớt được cả mấy thùng thiếc cá; giữ chút để ăn và phần làm nước mắm còn bao nhiêu đem ra chợ bán. Gọi là chợ chứ chỉ có lơ thơ mấy cái sạp gỗ tre tạm rời sát ra khúc lộ cao chưa ngập nước để phục vụ kiểu dã chiến.
Có mấy giạ lúa đen do cha Điền hụp lặn dưới nước cắt mót được trước đây ít hôm thì cha con ôm vác ra con lộ phơi. Cực thì có cực nhưng không than thở mà vẫn cứ kiên trì chịu đựng đã cứ như vậy từ hơn 300 năm nối tiếp các thế hệ những người lưu dân Thuận Quảng theo chân Chúa Nguyễn vào khai phá những vùng đồng lầy hoang vu với trên rừng muỗi kêu như sáo thổi, dưới nước đỉa lội như bánh canh và hai bên bờ là đầy những thần linh ma quỷ, lẫn cả rắn độc và cọp sấu. Tới đây thì ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh dây thì về. Vụ lúa hè thu kỳ ấy kể như mất trắng tay, chưa kể tổn thất về nhân mạng mà đa số là con nít trong đó có thằng Sanh bạn học từ lớp năm kể như chí thân của Điền. Mất mát đau thương, gì thì gì ai cũng lăm lăm chỉ chờ cho con nước giựt là sửa sang dọn sạch nhà cửa, đem chút lúa giống còn sót gieo xuống và kể như làm lại từ đầu. Mà có bao giờ trễ đâu để mà làm lại từ đầu.
Nói gì thì nói, kỷ niệm về tuổi nhỏ nơi quê Điền nhiều điều vui hơn buồn. Thiên nhiên giàu có và cả vô tình, đôi khi khắc nghiệt nhưng cũng rất chiều đãi con người. Không có lũ lụt thì lúa gạo lại thừa thãi, vườn cây ăn trái trĩu nặng sum suê, tôm cá ếch thì đầy đồng. Chiều chiều quạ nói với diều, cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm. Không những nhiều mà còn đầy hương vị đặc sản thơm ngon của đồng nội cây vườn.
Điền nhớ mỗi lần hè sang thăm bà nội ở Bến Tre là kể như đã nư, tha hồ ăn me dốp, uống nước dừa Xiêm, ăn kẹo dừa, bánh phồng dừa, ăn tôm rang nước dừa, món đuông dừa chiên, lại còn món cá kho tộ, canh chua cá bông lau nội nấu cho ăn thì khỏi chê.
Mãi những năm sau này sống ở nước ngoài, chưa bao giờ Điền được ăn lại những ‘’món lạ miền Nam’’ ngon như vậy, uống một ly nước dừa Xiêm có hương vị quê hương như vậy. Cùng với Bồng Sơn Tam Quan ở ngoài Trung, thì Bến Tre quê nội Điền là xứ dừa trong Nam, thứ cây mà theo Điền thì từ rễ tới ngọn đều có ích cho con người. Có phải vì vậy mà đồ án tốt nghiệp của Điền ở Trường Kiến Trúc nổi tiếng San Luis Obispo không phải là một thương xá hiện đại (big mall) ở Hà Nội hay Sài Gòn mà lại là một căn nhà ánh sáng toàn làm bằng chất liệu từ cây dừa cho người nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long. Giai thoại ruộng đồng với cò bay thẳng cánh sau này chỉ còn trong trí nhớ của Điền bằng những lần đi săn chuột đồng hay đi bắt cò. Điền đã từng theo thằng Hộ ra đồng, hai đứa lấy sình non trét đầy mình chỉ chừa có hai con mắt, xong rồi nằm xuống giữa ruộng chờ cho bầy cò bay tới, thôi thì đủ thứ cò trâu cò ma lò lửa... chỉ chờ con cò nào gần tầm tay nhất là chồm bắt ngay lập tức. Thằng Hộ thì lì, không sợ bị cò mổ đui mắt nên nằm chờ bao lâu cũng không hề nhúc nhích nên chỉ có nó là bắt được cò, riêng Điền thì không nhưng bù lại cùng với Bé Tư hai anh em bắt được bao nhiêu là còng đem về cho bà nội nấu bún riêu hay làm mắm. Bắt cò thì vui nhưng nghe nói thịt cò trâu thì tanh, thịt cò ma có ngọt hơn nhưng cái khoản cháo cò hay ăn thịt chuột đồng thì Điền vẫn thấy nhợn và không ham.
Gặp lại Hộ sau này, bây giờ đã có bằng Tiến Sĩ rồi chứ ít sao, nhắc chuyên săn chuột bắt cò khi xưa thì nó chỉ cười. Nó vẫn cứ gắn bó với ruộng vườn nhưng lại thêm đam mê khác. Nếu không bận dạy học nghiên cứu thì cũng thấy nó suốt ngày với đám sinh viên Nông Lâm bất kể nắng mưa, loay hoay ngoài các thửa ruộng, thăm nom mấy đám mạ mới cấy. Hộ đang thử nghiêm kỹ thuật trồng lúa thâm canh bốn mùa rưỡi mỗi năm bằng cách luân phiên cấy và gặt hàng tuần các lô được chia đều trên những thửa ruộng, với hy vọng nâng mức thu hoạch mỗi mẫu từ 15 tấn tới 30 tấn bảo đảm nâng mức xuất khẩu và tiêu thụ cho Việt Nam trong suốt Thế Kỷ tới. Chính Hộ đã có công đầu đưa giống lúa Thần Nông vào Đồng Bằng Sông Cửu Long, cái công của nó chính là thuyết phục được bà con cô bác nông dân bỏ được thói quen canh tác cũ bỏ lúa giống cũ mà chấp nhận thay bằng thứ giống lúa lùn xấu xí nhưng lại là thứ lúa cao sản; để rồi sau này bà con đặt thêm cho cái tên là ‘’Lúa Honda’’ bởi vì giống lúa ấy đã giúp bà con làm ăn sung túc có tiền mua xe gắn máy Honda, máy phát điện Honda để có điện buổi tối bắt coi các kênh đài truyền hình và chương trình được ưa chuộng nhất vẫn là tuồng cải lương tối thứ Bảy thứ đến là tiết mục ‘’Thày Hộ’’ lên đài giải đáp thắc mắc cho bà con nông dân...
Cái thành tích đưa Việt Nam lên hàng thứ hai thế giới về xuất cảng lúa gạo phải kể tới công của Hộ với Phân Khoa Khoa Học Canh Nông Đại Học Cần Thơ Điền thì nghĩ vậy nhưng Hộ bảo đó trước hết là công lao của bà con, rồi tới công của Liên Hiệp Quốc và Viện Lúa Gạo Quốc Tế…
Nói gốc gác thì Hộ là trí thức cũ của Miền Nam người Bến Tre quê hương của Đồng Khởi, xuất thân từ gia đình nông dân vạm vỡ khỏe mạnh, nhà nghèo nhưng là học trò giỏi của Trường Trung Học Mỹ Tho, đậu Tú Tài hạng ưu được học bổng Colombo du học Úc Châu. Tốt nghiệp Kỹ Sư Canh Nông nhưng lại còn đậu thêm bằng Tiến Sĩ với một luận án đồ sộ về ‘’Hệ Sinh Thái Vùng Hạ Lưu Sông Mekong (The Ecosystem of the Lower Mekong Basin)’’. Được mời ở lại giảng dạy nhưng chưa bao giờ Hộ có ý nghĩ sẽ chọn sống ở nước ngoài. Con đường trải qua của Hộ như một trí thức dấn thân có thể nói là lắm chông gai nếu không muốn nói là gian khổ, để bám ruộng bám đất sống chan hòa với cây cỏ và cô bác bà con.
Sau 75, rất ít quan tâm tới tình trạng một trí thức bị ‘’lưu dung’’ (chứ không phải ‘’lưu dụng’’ khác nhau lắm chỉ một cái dấu nặng, một Bác Sĩ cũ ở Bệnh Viện Phủ Doãn ở lại Hà Nội sau 54 đã cay đắng nói với Hộ như vậy, cho dù đã 25 năm sau). Hộ vẫn làm việc 14 tới 16 tiếng mỗi ngày, năng nổ hơn cả đám được bình bầu chiến sĩ thi đua. Ngoài ra Hộ còn trực tiếp trông coi tờ báo nhằm phổ biến những kiến thức khoa học phổ thông tới bà con. Từ chuyện gần như viết bài về cây mù u, cây so đũa sau sân nhà tới chuyện xa như phi thuyền con thoi bên xứ người ta. Chuyện phi thuyền con thoi thì có chi là lạ, người ta đi đi về về như cơm bữa vậy mà Hộ cũng vẫn phải trả giá: Tên Năm Lộc trình độ văn hóa lớp bảy, đảng viên tuyên huấn thì lúc nào cũng lên lớp về sự tất yếu của tính đảng trong khoa học và bắt Hộ phải thêm vào cái tin ấy một lời bình rằng, cho dù Mỹ có phi thuyền con thoi nhưng tiến bộ không gian của Liên Xô thì vẫn hơn xa Mỹ tới nửa Thế Kỷ. Trong cuộc họp tòa soạn Hộ thẳng thắn nói ra là chuyện đó không đúng, bằng cách dẫn chứng với những hình ảnh và tài liệu. Kết quả là tin phi thuyền con thoi không được xuất hiện trên tờ báo. Hộ bảo rằng chẳng thà như vậy chứ không thể có ‘’thông tin sai lạc (disinformation)’’ trong lãnh vực khoa học. Hộ cho rằng đây không phải chuyện đấu tranh giữa mới và cũ, giữa Tư Bản và xã hội chủ nghĩa mà là giữa sự thật và gian dối. Cho dù chỉ một bước chấp nhận sự gian dối, chính Hộ cũng sẽ mau chóng tuột dốc tha hóa như một số các bạn đồng sự ở ngoài Bắc. Theo cách suy nghĩ của Hộ thì cho dù ở đâu và bao giờ thì mỗi người dân cũng phải chịu một phần trách nhiệm về cái tốt cái xấu của cái chế độ mà mình đang sống. Vụ cải cách ruộng đất đấu tố như ở ngoài Bắc khó mà thực hiện được với đồng bào ở trong Nam, nếu có đi chăng nữa thì cũng không tệ hại tới mức như vậy. Hộ người Nam giao thiệp rộng, có nhiều bạn Bắc Kỳ lẫn bạn ở ngoại quốc. Kể cả những người bạn Nhóm Cửu Long chưa hề giáp mặt chỉ biết qua mạng lưới Internet với mẫu số chung là mối quan tâm về tương lai con sông Mekong và môi sinh của Đồng Bằng Cửu Long. Trong số những người bạn ấy phải kể tới Bác Sĩ Duy đang sống ở Mỹ, hiện là Giáo Sư về Sinh Học Phân Tử và Di Truyền thuộc Đại Học Stanford. Duy sinh đẻ ở Bắc, lớn lên trong Nam, tốt nghiệp ở Mỹ. Gốc Bắc chay nhưng Duy có cái nhìn rất quá khích về nền văn minh sông nước của Đồng Bằng Cửu Long. Theo Duy thì bước vào thiên niên kỷ tới, trung tâm nền văn minh Việt Nam không còn là châu thổ Sông Hồng hay Sông Mã mà là Vùng Châu Thổ Sông Cửu Long. Có những nền văn minh một thời huy hoàng nhưng cũng không tránh được quá trình già cỗi qua thời gian và cả không gian với ảnh hưởng môi trường mà chính con người đã tác động lên đó. Dùng thuật ngữ di truyền học thì bảo rằng ‘’gene’’ của nền văn minh ấy đã bị suy kiệt và biến thể ‘’defective gene’’.
Chỉ trong vòng 50 năm trở lại đây, cuộc chiến tranh kéo dài và đất nước phân chia, con người và ngôn ngữ bị tận dụng cho những mục tiêu chính trị phân hóa và dối trá nên đã làm cho nó bị kiệt quệ. Chữ không còn mang nghĩa thật của nó nữa, tâm và thân đã không còn là một. Đến cả những con người tử tế bình thường cũng đã trở thành một hình tượng văn học hiếm hoi. So với chiều dài của lịch sử thì khoảng thời gian đó không nghĩa lý gì nhưng lại có một tác dụng ‘’đột biến hủy hoại (detrimental mutation)’’ trên cội rễ của nền văn minh ấy. Vẫn theo Duy, thì cái ‘’gene’’ trẻ trung khỏe mạnh của nền văn minh sông nước Châu Thổ Sông Cửu Long sẽ chinh phục thay thế và có cả tiềm năng phục hồi cái di sản khánh kiệt của cả nước...
Không chia xẻ quan điểm phủ nhận triệt để của Duy nhưng cái nhìn quá mới mẻ ấy cũng khiến Hộ phải suy nghĩ. Riêng Hộ thì vẫn cả tin về về một nền Văn Minh Lúa Gạo (civilisation du riz) hay nói rộng hơn là nền Văn Minh Miệt Vườn, cái nôi của những thế hệ tiên phong khai phá, với những con người chất phác thẳng thắn nhưng hào sảng chưa bị khô cứng méo mó đi vì những hủ tục hình thức lễ nghi ràng buộc.
Cả đất nước muốn phục sinh đang cần một thứ trật tự đơn giản và hồn nhiên như vậy. Vào mùa lụt, nhiều khúc đường ngập nước không di chuyển được bằng đường bộ nên phải dùng thuyền.
Vẫn là khí hậu nhiệt đới với những cơn mưa rào chợt tới cũng như chợt tạnh. Không thiếu những cơn gió mát thổi vào mặt mang theo những hạt bụi nước từ các con sóng bạc đánh tung tóe vào mạn thuyền. Không phải là lần đầu tiên Bé Tư về thăm quê, nàng đã nhiều lần về thăm các Tràm Chim mà bấy lâu nàng đã dốc công vận động từ các Nhóm Bảo Tồn Hoa Kỳ ACG, Quỹ Môi Sinh Thế Giới WWF, Hội Hạc Thế Giới ICF... để có tài chánh hỗ trợ. Say mê khảo sát đời sống chim muông, tốt nghiệp Đại Học Colorado, Bé Tư trở thành nhà nghiên cứu rất trẻ và uy tín về ngành Điểu Học (ornithologist), và bảo tồn môi sinh. Tràm Chim Tam Nông với Bé Tư là hình ảnh một thiên đường trong trí tưởng, gần gũi ngay trên quê hương nhưng cũng lại là một Shangri-La rất xa xôi kỳ ảo còn vương sót lại trên hành tinh này. Bé Tư cũng sớm nhận ra Tam Nông không chỉ là sinh cảnh của những rừng tràm mênh mông với đủ loại cây cỏ nhiệt đới trên một vùng đầm lầy, nhưng đó còn là cái nôi của chu kỳ sinh sản của hàng trăm loài nhuyễn thể (invertebrates), cộng thêm với bao nhiêu loài tôm cá được con lũ sông Mekong hàng năm đổ thêm vào, như một nguồn thức ăn vô tận cho các loại chim muông. Bé Tư cũng không tránh được ngạc nhiên khi thấy những con sếu non đã tăng gấp đôi sức nặng chỉ trong vòng ít tuần lễ về sống ở Tràm Chim. Đã từ mấy năm rồi, cứ vào khoảng mùa khô từ tháng mười tới tháng năm, Bé Tư thu xếp về đây như chuyến hành hương để chiêm ngưỡng các đoàn di điểu từ những phương trời xa, rất xa lũ lượt hội tụ về đây. Mỗi lần về thăm để thấy vui thêm khi thấy các đoàn di điểu về ngày một đông hơn... Đây là lần đầu tiên Điền theo chân Bé Tư trở lại Việt Nam nhưng thời tiết bây giờ thì đã bước qua mùa mưa. Tâm cảnh Điền khác xa với em, đã từng khổ sở về những năm lính tráng, rồi trầy trật với những chuyến đi vượt biên đổ bể bị bắt vào tù, từng bị công an xả súng bắn vào ghe, bị tra tấn dã man còn để lại những vết sẹo hằn phải khâu trên má trên trán. Biết khác chánh kiến, hai anh em dứt khoát không bàn sang chuyện thời thế. Chuyến đi của Điền có chủ đích rõ rệt và cũng theo lời yêu cầu của Hộ là khảo sát tính khả thi của dự án căn nhà nổi đầy ánh sáng làm toàn bằng chất liệu cây dừa trong Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Điền đã hoàn tất bước đầu nghiên cứu sử dụng sơ dừa trộn đất sét với trữ lượng gần như vô tận từ mỏ sét Bến Cát, đều là những nguyên liệu tại chỗ, cộng thêm với các hóa chất tạo ra một loại vách tiền chế (drywall), chịu đựng được khí hậu khô-ẩm và cả không thấm nước trong mùa lũ lụt. Điền hoàn toàn chia xẻ quan điểm môi sinh của Hộ. Chống lại quan điểm Nhóm Thủy Lợi Trung Ương qua kinh nghiệm Sông Hồng với kế hoạch dự chi hàng tỉ đô la để làm đê chống lũ: Tức là cắt đứt nguồn sống từ ngàn năm của Vùng Đồng Bằng Châu Thổ.
Hộ chủ trương thích nghi chung sống an toàn và hạnh phúc với lũ, tận dụng các nguồn lợi vô tận của lũ về phù sa, thủy sản cũng như mượn lũ làm vệ sinh đồng ruộng. Hộ còn đi xa hơn khi say mê nói về cảnh quan đẹp hùng vĩ của Đất Phương Nam vào mùa lũ như một tiềm năng phát triển ngành du lịch trong tương lai. Theo Hộ thì Đồng Bằng Sông Cửu Long kể cả hai mùa mưa nắng đều có những nét chấm phá độc đáo không giống với bất cứ khúc sông nào trên Thượng Nguồn và cảnh quan tràn đầy sức sống ấy sẽ là những hình ảnh hấp dẫn ống kính của du khách: Những khu nhà vườn quanh năm xanh rợp bóng cây trái, những chợ nổi ở Vàm Rạch Cái Bè, chợ nổi Phụng Hiệp hay Ngã Bảy nơi hội tụ của bảy con kinh thẳng tắp tỏa ra như một ngôi sao nước sáng mà người Pháp từng gọi là Les Etoiles, những làng nổi nuôi cá hiện đại nơi ngã ba sông Châu Đốc, Vùng Thất Sơn với các Ông Đạo huyền bí một thời, rồi di chỉ Ốc Eo của nền văn minh Vương Quốc Phù Nam, tới Tràm Chim Tam Nông với vũ điệu sếu và những đoàn di điểu... Hộ cả quyết đó không chỉ là mơ ước mà đã là hiện thực trong kế hoạch của Tổ Chức Du Lịch Thế Giới WTO khi quyết định chọn sông Mekong như một trong 10 địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới năm 2000... Khó mà ngưng được khi Hộ bắt đầu nói về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long như một chân trời xanh mở ra bát ngát.
Điền dự định sẽ dựng một căn nhà mẫu đầu tiên trên nền nhà cũ của người cậu, vốn nằm trong vùng thấp lại là vách đất nền đất và mái gồi nên siêu vẹo đến tiêu điều qua mấy trận lụt. Ông cậu nay là giáo viên hồi hưu, nguyên là thày dạy của Hộ và Điền trước kia, bao năm vẫn sống thanh bạch trong căn nhà ấy. ‘’Thời này sống như một người lương thiện cũng khó lắm con ạ.’’ Như một lời răn, ông chỉ nói xa xôi như vậy, không than thở và chưa hề trách cứ ai.
Điền có tâm nguyện căn nhà mẫu đầu tiên, công trình tim óc của Điền bấy lâu sẽ đặc biệt dành cho một con người tử tế. Điền tưởng tượng là sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu nếu như căn nhà mẫu ấy (cũng với cái sườn ba gian hai chái không phá vỡ sự hài hòa của thiên nhiên nhưng hiện đại hơn) được bà con nông dân chấp nhận và ưa chuộng để trong một tương lai gần có thể đưa vào quy hoạch và phát triển cho toàn vùng.
Trước khi đi Tràm Chim, Hộ đưa hai anh em Điền đi thăm khu chợ nổi ở Vàm Rạch Cái Bè trên Sông Tiền, như một tụ điểm du lịch hấp dẫn trong tương lai. Buổi sáng sớm vào một ngày họp chợ trên sông quy tụ hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ. Khung cảnh náo nhiệt cứ như một ngày trảy hội. Những chiếc xuồng tam bản chở đủ loại trái cây thổ sản rực rỡ màu sắc: cam vàng quýt đỏ chuối dừa tươi rói như vừa mới hái từ trên cây còn dính theo cả lá xanh, có cả trẻ thơ nữa theo mẹ ra chợ ngồi tụt thỏm giữa lòng ghe... Trên mỗi chiếc ghe nhỏ thường do một người đàn bà trên đầu cuốn khăn rằn hay khuôn mặt khuất sau chiếc nón lá đứng phía đuôi vừa chèo vừa lái hướng về những con thuyền buôn lớn đang thu mua đủ các loại nông phẩm cây trái để đem về bán cho các vựa chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn hay các chợ bên Cam Bốt lên tận Nam Vang. Nhìn từ xa cứ giống như một đàn heo con đông đảo quấn quýt bám lấy vú mẹ. Nếu là những chiếc ghe có mui bít bùng thì hình thức tiếp thị (marketing) là một cây sào cao như một thứ cây nêu trên đó có treo lủng lẳng mỗi thứ cây trái hay rau bắp có trong ghe để bà con kiếm mua nhận biết.
Con thuyền của chúng tôi phải lách tới lách lui để khỏi phải đụng vào những chiếc ghe khác. Bác tài công dẫn chúng tôi bước lên một chiếc ghe lớn lót ván đủ rộng để làm quán cà phê, hủ tiếu, rượu và thuốc lá kể cả thuốc lá ngoại ba số 5. Sau bao nhiêu năm Điền mới lại được thấy ly cà phê đen bít tất đổ ra đĩa húp và ăn điểm tâm bằng một chiếc bánh bao vừa lấy từ quả hấp ra nóng hổi.
Cảnh tượng tươi mát và bừng bừng sức sống ấy như một phát hiện quá mới mẻ và hấp dẫn đối với Bé Tư sau bao năm xa quê nhà: Chỗ này ghe máy đang bơm bán xăng dầu cho mấy chiếc thuyền đuôi tôm, nơi kia là ghe có dấu chữ thập đỏ của y tá hành nghề chích thuốc dạo, lại còn cả những chiếc ghe hàng trên sông bày đủ thứ đồ giống như tiệm tạp hóa lưu động, có cả ghe xay lúa phục vụ dã chiến ngay tại chợ cho bà con.
Nền văn minh sông nước là thế đấy, Hộ nghĩ phải tạo cơ hội cho Duy một lần về thăm, thăm cả Khoa Y của Đại Học Cần Thơ đang cần thêm trang bị và cả nhiều chất xám. Thế rồi buổi chiều tan chợ thì cả cái Thị Trấn nổi ấy như biến mất chỉ còn lại là một khúc sông dàn trải mênh mông và vắng lặng, với thỉnh thoảng mới dội lên tiếng máy nổ của chiếc ‘’vỏ lãi’’ tốc hành chở đầy hành khách vun vút ngang qua để lại phía sau là những đợt sóng lớn vỗ vào bờ làm chòng chành cả chiếc ghe tam bản. Sau một ngày ở Cái Bè, chúng tôi vẫn chọn đường sông như một thứ xa lộ nâu êm mát và trữ tình để di chuyển. Cảnh đẹp bình minh rồi lại hoàng hôn trên sông.
Đêm xuống con thuyền đi ngược dòng vào khúc sông hẹp chỉ thấy đèn dầu leo lét thưa thớt dọc hai bờ kinh, mảnh trăng non mới hé lên cao, văng vẳng đâu đó tiếng hát hò như xa như gần, như âm vang từ đất từ một quá khứ hoang sơ theo từng cơn gió thoảng. Xứ đâu có xứ lạ lùng, con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh.
Con thuyền phải len lách giữa những dấu đèn để tránh những lưới cá trên sông và rồi cũng tới được Tràm Chim trên một vùng đầm lầy lúc trời tảng sáng. Có người dẫn đường, chiếc ghe vẫn phải luồn lách giữa một rừng tràm và lau sậy rậm rạp và cả gây động khiến đám vịt trời hoảng sợ rào rào cất cánh tung bay và kêu lên quàng quạc. Cảnh quan kỳ lạ của một vùng sinh thái nhiệt đới phong phú phồn tạp nhưng cũng đầy vẻ mong manh. Trong rừng cây là cả một rừng chim và tổ chim với bao nhiêu ngàn tiếng chim lảnh lót xa gần.
Như âm vang từ vùng ký ức tuổi thơ, Điền còn nhận ra tiếng con chim bói cá hay thằng chài và tiếng chim cu ghì đâu đó trong lùm cây đằng xa. Rồi một cảnh tượng tuyệt diệu với trước mắt là từng đàn hàng trăm những con sếu đầu đỏ với đôi chân cao hàng thước được bảo vệ sống thanh bình trong tràm chim ngày ngày nhẩn nha đi kiếm cá ăn rồi từng đôi múa lượn khoe sắc rộn rã.
Bé Tư kể cho Điền nghe tên những giống chim quý như loài sếu cổ đen (Black Neck Stork), loài vạc Á Châu cổ đỏ (Greater Adjutant Stork)... chỉ có ở Việt Nam mà trước đây ít năm tưởng có nguy cơ bị tiêu diệt, thì nay đang dần được phục hồi. Lần đầu tiên chỉ mới những năm rồi người ta lại thấy xuất hiện những Cánh Hạc Đông Phương (Eastern Sarus Cranes), đẹp mĩ miều với chiếc cổ dài trắng muốt đầu đỏ có điểm trắng thân mình thon thả trên đôi chân hồng thanh cao và dáng đi sang cả. Con số không phải chỉ hàng trăm mà là hàng ngàn cánh hạc như những đàn di điểu cuối cùng còn sót lại của vùng Đông Nam Á bay từ hướng Đông về sống trong các Tràm Chim... như một tin mừng không chỉ cho Việt Nam mà với cả thế giới nữa. Các ông già bà cả ở vùng Đồng Tháp thì cho đây là một điềm lành không chỉ là đất lành chim đậu mà hơn thế nữa với quý điểu như loài hạc chỉ chọn tới ở vùng đất được coi là linh địa bên bờ những con sông thiêng.
Họ cũng tin rằng Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có lẽ ở Thất Sơn có một loại cây cực hiếm quý tên là Ưu Đàm có đặc tính là cứ ba ngàn năm mới trổ hoa một lần và mỗi lần có Hoa Ưu Đàm là có một vị Phật ra đời cứu rỗi cho cả nhân loại. Bây giờ tuy mới bước vào Thiên niên kỷ thứ ba nhưng theo Phật Lịch thì đã là năm 2544 như vậy trong vòng chưa đầy 500 năm nữa Cây Ưu Đàm sẽ lại nở hoa nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long trên vùng đất thiêng và riêng với các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương thì tin rằng Phật Thầy sẽ tái sanh ‘’để lâm phàm trợ thế’’.
Cả Người và Đất như đang vật vã giữa cơn nắng hạn chỉ cầu sao sớm có được ngọn nước mát từ một cơn mưa rào…
Điền miên man nghĩ tới thế hệ như Bé Tư, sinh giữa những năm cao điểm của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, nó sinh vào ngày Tết Mậu Thân, cuộc chiến ấy kết thúc khi nó mới vừa bảy tuổi, nên cũng khó mà bảo rằng Chiến Tranh Việt Nam là cuộc chiến của thế hệ chúng nó. Và cũng dễ hiểu nếu như chúng không phải mang trên lưng cái quá khứ u buồn nặng trĩu và cứ thênh thang đi tới.
Bất chợt Bé Tư quay sang hỏi anh: ‘’Tiếng Việt, tuổi hạc có nghĩa chi hả anh Hai?’’, ‘’Là tuổi thọ đó Bé Tư’’. Điền vẫn muốn thân thương gọi tên em như hồi còn sống với cha mẹ ở quê nhà. Bé Tư bây giờ đang học thêm khóa tiếng Việt ở Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội trong các kỳ Hè với mơ ước được trở thành cô giáo không phải chỉ ở Trường Đại Học Cần Thơ theo lời mời của Hộ mà cả nơi ngôi trường quê từ bao năm Bé Tư và các bạn từ thời còn sinh viên đã dốc công yểm trợ.
Hai anh em về tới Sài Gòn, đường đâu đã xa chi mấy mà cũng đã rất ít ai biết tới chuyện lũ lụt, kể xa chi tới đồng bào tận hải ngoại, hoặc giả nếu có nghe nói thì cũng dửng dưng và xa xôi ở tận trời Âu hay Bắc Mỹ nếu có ai động lòng bạo miệng bàn tới chuyện cứu lụt thì cũng sẵn có người bảo một đồng cũng không giúp phải để cho chế độ ấy nó lộ hết bộ mặt xấu của nó ra...
Bé Tư thì có những nỗi bận tâm riêng của cô, không phải chỉ có các tràm chim, cô còn sôi nổi bàn với anh về dự án dựng lại ngôi trường làng sao cho các Thầy Cô vẫn có thể tới trường và trẻ con không phải bỏ học trong suốt mùa lũ lụt.
Xúc cảm trước sự hồn nhiên trong trắng của em, Điền hiểu rằng bản thân anh rồi ra cũng như mọi người, rồi cũng phải cố quên đi những thù hận, những ngày đen tối của chiến tranh bom đạn, vũ khí hóa học với chất độc Da Cam, những Cánh Đồng Chết, cảnh đầy máu me chết chóc của những chiếc ghe vượt biên bị B-40 bắn tan trên các ngả sông lạch...để trở về với con nước ấy tắm gội và rũ sạch bụi trần, để sống hạnh phúc với những con lũ đổ xuống mỗi năm với hai mùa mưa nắng bên bờ con sông thiêng không bao giờ bị tát cạn. 

CHƯƠNG X
EL NINO VÀ RẮN THẦN NAGA
TRÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
 
Cửu Long giang mở chín lần cửa rộng 
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca 
Nguyên Sa

Nơi rồng thiêng đáp xuống. Từ trên trời cao Tây Tạng, nơi rồng thiêng đáp xuống con sông Mekong hoang dã khởi nguồn và bắt đầu cuộc hành trình xuôi dòng, con sông vốn dũng mãnh luôn luôn đúng hẹn hàng năm không bao giờ thiếu những cơn lũ chết người.
Nhưng với hơn sáu mươi triệu dân cư sống suốt dọc hai bên bờ con sông có chiều dài hơn bốn ngàn cây số ấy cho dù chọn Rồng Thiêng thay Rắn Thần Naga thì những con vật linh ấy bấy lâu vẫn ngậm cả khối nước sông Mekong trong mùa lũ và phun ra trong mùa khô khiến nông dân không bị lụt và quanh năm bốn mùa có đủ nước để gieo trồng.
Cũng vì vậy mà hàng năm luôn luôn có những ngày hội lễ truyền thống đầy thanh âm và màu sắc để ăn mừng các Mùa Nước Giựt, Mùa Nước Nổi, để vinh danh và cả cầu nguyện con sông thiêng thôi cơn cuồng nộ luôn luôn giúp họ được mùa tôm cá dưới sông và lúa gạo trên khắp ruộng đồng.
Ngày Hội Đua Ghe Mừng Mùa Nước Nổi. 

Trên Đồng Bằng Sông Cửu Long, họ là nhóm người Khmer tới sớm men xuôi theo dòng sông Mekong chiếm cứ đất Phù Nam vào Thế Kỷ thứ 7, ban đầu sống rất thưa thớt trong các phum mỗi nơi chỉ có năm mười mái lá. Sau đó họ sống tập trung vào những giồng cao hợp thành những sóc lớn để cùng hợp sức khẩn hoang canh tác. Để rồi mười Thế Kỷ sau, Vương Quốc Phù Nam cũ lại đổi chủ, Thủy Chân Lạp lại bị Việt Nam xâm chiếm và nay vẫn còn lại khoảng 900 ngàn người Việt gốc Khmer sống ở vùng tây bắc châu thổ. Họ sống khá biệt lập trong những nhà sàn mái gồi đơn sơ tụ tập chung quanh một ngôi Chùa Miên thếp vàng nguy nga với mái cong đỏ.
Cũng bao năm rồi, từ hai bên bờ con sông Mekong từ Cam Bốt xuống tới Đồng Bằng Châu Thổ, nơi mỗi ngôi chùa bên trong các Sóc Miên đều có một chiếc ghe ngo được cất giữ trên cao với đôi mắt rắn thần Naga được chạm nổi hai bên mũi ghe trông dữ dằn như lúc nào cũng sắp chực bung mình phóng xuống dòng nước.
Đức Phật và rắn thần Naga là hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật tạo hình dân gian Khmer. Tương truyền rằng khi đức Thích Ca đang ngồi tịnh tâm giữa rừng bên bờ hồ, gặp rắn Naga rất linh hiển vốn là hiện thân của thần ác, vậy mà Đức Thích Ca đã cảm hóa được rắn thần.
Gặp hôm đó là ngày mưa to gió lớn, rắn Naga cuộn tròn mình bảy vòng và đầu ngẩng cao ngậm hết gió mưa để làm thân che cho Đức Phật. Từ đó về sau người Khmer tìm cho được những thân cây gỗ sao dài đục làm Ghe Ngo biểu tượng cho rắn thần Naga và hàng năm người Khmer sống nơi Đồng Bằng Châu Thổ Cửu Long có tục lệ đua Ghe Ngo để mừng Mùa Nước Nổi...
Tới Mùa Rước Nước, ghe được đem xuống sơn phết và vẽ lại cho thật sắc hai con mắt rắn thần trước khi đưa tới bến sông mà đua với ghe của các chùa khác. Trước đó Nhà Sư đọc kinh làm phép cho Ghe Ngo. Trước mũi ghe có đặt một mâm quả với nải chuối rượu và nhang cúng rắn thần để cầu cho thắng giải. Sáu mươi bốn trai tráng lực lưỡng trong làng được chọn, mỗi người tay cầm một cây dầm lần lượt bước xuống ghe sắp thành hàng hai, chiếc ghe khẳm tưởng chừng như muốn chìm. Người điều khiển ngồi phía mũi ghe gõ nhịp trên một chiếc cồng nhỏ phát ra những âm thanh thúc giục rộn rã. Phải chờ ghe ra tới giữa dòng, cùng một lúc cả 64 mái dầm mới bắt đầu vung lên nhịp nhàng khoát nước bắn ra hai bên trắng xóa. Chiếc ghe nổi dềnh lên nhẹ tênh và dũng mãnh lướt tới như rắn thần lướt bay trên mặt nước.
Trên một Ghe Ngo khác, bày ra một cảnh tượng ngộ nghĩnh lạ mắt chỉ có trong thời kỳ Đổi Mới: Các tay chèo đầu đội mũ lưỡi trai vàng, đồng phục quần xanh áo T-shirt ba màu có in hình Con Sò quảng cáo xăng dầu cho Công Ty Shell.
Nơi bến chợ, Cao như bị thất lạc trong đám đông người chen lấn hò reo, lẫn với mùi thức ăn có cả mùi rượu mùi mồ hôi người và cả rất nhiều bụi bặm. Phải chăng đó cũng là một thứ mùi vị khác của con sông Mekong?
Những đổi thay chính trị và xã hội gần đây cũng làm thay đổi luôn cả những tập tục của cư dân hai bên bờ sông Mekong tưởng như thiêng liêng đã có trước đó cả nhiều Thế Kỷ. Những điều mất mát ấy được các nhà nhân chủng mĩ miều mệnh danh là ‘’thích nghi văn hóa-Acculturation.’’ Đua Ghe Ngo không còn thuần túy là ngày hội đón Mùa Nước Nổi mà đã trở thành trò mua vui trong trong những dịp lễ lạc như ngày Quatorze Juillet thời Pháp thuộc rồi tới những ngày gọi là Quốc Khánh luôn luôn đổi thay của các chánh quyền Miền Nam sau này...
Năm nay cũng là lần đầu tiên Ghe Ngo của chùa nhà bị thua, lại thua cả chiếc ghe bảo trợ bởi công ty dầu khí Shell. Đám mấy chục thanh niên thì buồn ra mặt, họ đưa ghe ngo về chùa rồi cùng nhau tụ lại uống rượu giải sầu, say quá thì nằm lăn ra ngủ ngay trên bãi.
Riêng với Nhà Sư thì vẫn an nhiên tự tại, chuyện được thua không khiến ông mất đi nụ cười. Trong chùa có cả nước Coca Cola đóng chai, nhưng Nhà Sư sai Chú Tiểu Thạch Sary đi lấy nước thốt nốt tươi để mời khách. Chưa lần nào Cao được thưởng thức nước mật tươi của cây thốt nốt. Theo chân Chú Tiểu ra khu vườn sau tới bên một gốc cây thốt nốt giống cây dừa nhưng cao hơn mọc thẳng đứng khó trèo nên phải dùng một thang leo buộc vào thân cây. Thạch Sary đang là một sinh viên khoa học Đại Học Cần Thơ, Chú chỉ vào Chùa tu một tháng trong năm theo tục lệ của người Khmer, chú nói:
- Trồng ngoài 30 năm thốt nốt mới bắt đầu trổ buồng kết trái. Khi trái còn non trong mo người ta đã dùng nan tre kẹp lại cho tới khi chín mềm mới cắt chót buồng rồi gắn vào một ống tre để hứng mật, mỗi buồng có thể rỉ rả cho mật tới cả tháng nhưng mỗi lần hứng mật là một lần phải cắt thêm vào chót buồng.
Cao hỏi chú về cây thốt nốt đực kế bên, chú giảng tiếp:
- Cây thốt nốt đực không kết trái nhưng vẫn trổ buồng đâm bông và cũng cho nước mật. Ngoài cách uống tươi, nước thốt nốt còn dùng làm đường, khoảng 7 lít nước thốt nốt thì cất ra một ký đường được đúc thành tán. Ở Vĩnh Bình, Châu Đốc người ta có nấu đường thốt nốt. Đậu xanh xát nấu chè với đường thốt nốt không những thơm ngon hơn đường mía mà còn rất mát.
Chú Tiểu Thạch Sary đã cho Cao một bài học thực vật sinh động tại chỗ. Chú đem xuống từ buồng cây một ống tre hứng đầy nước mật thốt nốt. Chú giảng tiếp, mật thốt nốt ngọt trong và thơm hơn nếu lấy qua đêm.
Như mới sực nhớ ra, chú bổ túc thêm:
- À mà tôi quên chưa nói tới công dụng của lá thốt nốt. Theo cổ tục trẻ em vào Chùa học chữ Khmer được viết trên lá thốt nốt. Trong một số Chùa Khmer ngày nay còn giữ được những bản văn gọi là Satra viết trên lá thốt nốt...
Tối hôm đó lần đầu tiên trong đời Cao được thưởng thức món ăn quốc túy của người Khmer là thả cốm dẹp vào trong mật thốt nốt, một kết hợp tuyệt diệu như tặng dữ tinh khiết của con sông Mekong.
Cao không được biết mối thâm giao giữa ông Khắc với vị Sư Cả đã có trong bao lâu, nhưng qua giới thiệu của ông Khắc ngay lần gặp đầu tiên Cao đã được Nhà Sư đối xử trong sự chân tình. Vị Sư Cả còn có tên gọi là Chao Athica, được bầu lên để cai quản Chùa trông việc hành đạo. Vị Sư Cả này không chỉ phải tu hành lâu năm, đạo đức cao trọng mà còn phải có học thức uyên bác nữa. Nhà Sư tốt nghiệp từ một Viện Phật Học bên Cam Bốt dĩ nhiên ra rất giỏi tiếng Phạn, ngoài tiếng Khmer tiếng Việt ông còn nói thông thạo tiếng Pháp và còn đang học thêm tiếng Anh.
Nhà Sư nói:
- 95% người Khmer theo đạo Phật Tiểu Thừa hay còn gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada chịu ít nhiều ảnh hưởng Bà La Môn.
Như đoán được câu hỏi thắc mắc của Cao, bằng một giọng thanh thản không đượm vẻ hài hước, Nhà Sư tiếp:
- Chắc anh muốn hỏi 5% còn lại chứ gì ? Họ là giới Sư Sãi Tăng Lữ như chúng tôi. Theo truyền thống chùa còn là một trường học nên không chùa nào mà không có Sãi Giáo chuyên dạy học cho các em...
Và cũng đêm đó, hòa trong tiếng nước ròng của con sông Mekong, Cao đã được vị Sư già giảng cho nghe ý nghĩa sự tích những ngày hội lễ của dân tộc Khmer.
Lễ Vào Năm Mới, Ngày Hội Rước Đầu Lâu.
Người Khmer ăn Tết Chôl Chnam Thmây khoảng giữa tháng 4 tính theo lịch thiên văn của họ với ngày giờ thay đổi mỗi năm. Hội lễ Tết được tổ chức trong Chùa với lễ rước Đầu Vị Thần Bốn Mặt, ảnh hưởng thần thoại Bà La Môn.
Tương truyền rằng thuở Indra tạo ra Trời Đất, có một vị Vua cùng Hoàng Hậu sanh được một Hoàng Tử tên là Thommbal vô cùng thông minh. Mới lên bảy mà Hoàng Tử đã thông thuộc mọi bộ sách thiên văn và kinh điển. Hoàng Tử đem điều hiểu biết truyền bá khắp dân gian. Dân chúng vô cùng ngưỡng mộ và tôn vinh Hoàng Tử là nhà hiền triết tí hon. Danh tiếng Hoàng Tử bay tới tận thiên đình khiến cho vị thần bốn mặt Kabinh Mahaprum rất ganh tức. Thần bay xuống trần gian gặp Hoàng Tử mà nói rằng:
- Nghe đồn Hoàng Tử vô cùng thông thái nhưng ta chưa tin. Ta chỉ hỏi Hoàng Tử ba câu và cho hẹn trong bảy ngày phải có lời giải đáp. Nếu đáp trúng ta sẽ cắt đầu ta trước mặt Hoàng Tử còn nếu không Hoàng Tử phải dâng đầu cho ta. Ba câu hỏi đó là cái duyên con người ở đâu vào buổi sáng, vào buổi trưa, vào buổi tối?
Hỏi xong thần bay ngay về trời. Tuy được tôn vinh là nhà hiền triết thông thái nhưng suốt năm ngày khổ công suy nghĩ từ sáng tới trưa từ trưa tới tối mà vẫn không sao tìm ra lời giải đáp. Sợ hãi bị mất đầu sang ngày thứ Sáu Hoàng Tử trốn khỏi hoàng cung chạy sâu vào trong rừng từ sáng sớm cho đến giữa trưa, thân mệt chân mỏi bụng đói Hoàng Tử phải tựa mình vào một thân cây nghỉ mệt.
Bỗng lúc đó Hoàng Tử nghe được từ trên ngọn cây cuộc nói chuyện của cặp thần ưng tên là Sat Angry. Chim mái hỏi: Ngày mai mình sẽ ăn ở đâu? Chim đực đáp: Chắc chúng ta sẽ ăn thịt Hoàng Tử vì mai là ngày hẹn của Thần Kabinh Mahaprum, Hoàng Tử sẽ bị chặt đầu vì thần đố ba câu mà Hoàng Tử không đáp được. Chim mái ngạc nhiên hỏi: Ba câu hỏi ấy ra sao mà người thông thái như Hoàng Tử không đáp được, ông có biết không? Chim đực đáp: Thần chỉ hỏi buổi sáng trưa tối cái duyên con người ở đâu. Có gì khó đâu mà không biết. Này nhá buổi sáng cái duyên ở mặt nên khi thức dậy người ra rửa mặt cho sạch, buổi trưa cái duyên ở ngực nên người ta xuống sông tắm mát, còn buổi tối cái duyên ở chân nên người ta mới rửa chân trước khi đi ngủ.
Nghe được như vậy Hoàng Tử vô cùng mừng rỡ vội vã trở về Kinh Đô. Sang ngày thứ Bảy đúng hẹn thần Kabinh Mahaprum cầm gươm vàng bay xuống. Hoàng Tử quỳ lạy thần và trả lời đúng cả ba câu hỏi. Thần thua cuộc, cho gọi bảy Tiên Nữ là con gái của Thần tới và căn dặn:
- Cha đã thua trí Hoàng Tử, cha phải tự cắt đầu theo lời hứa. Các con hãy đem đầu cha để trong một ngôi tháp và không cho một ai được đụng đến vì nếu để đầu ta trên mặt đất thì đất khô cứng. Bỏ xuống biển thì biển cạn khô, quăng lên trời thì trời sẽ hết mưa.
Nói xong Thần rút gươm vàng tự chặt đầu rồi cầm trao cho người con gái lớn là Tungsa xong biến thân thành luồng khói xanh bay vút lên trời cao. Tungsa đặt đầu cha trong trên cái mâm vàng rồi đưa vào một ngôi tháp trong khu rừng yên tĩnh trên đỉnh cao của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó về sau, mỗi năm một lần đúng vào ngày Thần Kabinh Mahaprum tự sát, bảy cô gái xuống trần luân phiên vào tháp bưng đầu vị thần bốn mặt đi theo hướng mặt trời mọc đến núi Meru được coi là trục của ta bà thế giới. Đi xong ba vòng chân núi, Tiên nữ lại đem đầu của cha cất vào trong tháp.
Cứ như vậy cả ngàn năm sau, ngày lễ rước đầu lâu Thần bốn mặt Kabinh Mahaprum được kể là ngày ‘’Vào Năm Mới’’ và người Khmer tin rằng tùy theo tánh tình của mỗi vị Tiên Nữ mà sẽ có một năm hạnh phúc vui buồn ra sao. Và họ cũng tin rằng đây là dịp để mọi người tẩy sạch những bợn nhơ năm cũ để bước vào một năm mới vui tươi hơn năm qua. Trong suốt 4 ngày đầu năm họ chuẩn bị và kiêng cử kỹ lưỡng. Dọn dẹp nhà cửa, đốt nến sáng suốt đêm, thắp nhang thơm, trưng bày hoa tươi, giữ hòa khí để suốt năm gặp được điều lành.
Tuy là thần thoại nhưng cái cảnh chặt đầu và rước đầu lâu để đón mừng năm mới vẫn gợi cho Cao một cảm giác thật ghê rợn. Rồi tới chuyện Thạch Sanh chém đầu trăn mà sau này anh được biết gốc là cổ tích Khmer. Người ta nói rằng ngày nào không được nghe chuyện Thạch Sanh chém đầu trăn thì ngày hôm ấy người Khmer ăn cơm không ngon...
Cao tự hỏi những cổ tích và thần thoại máu me đầy giết chóc ấy có liên hệ gì tới bản năng hung dữ thích chém giết của những người Khmer có bề ngoài thường ngày vốn hiền lành và đôn hậu hay không? Những vụ ‘’cáp duồn (chặt đầu)’’ đám người Việt rồi thả trôi trên con sông Mekong luôn luôn xảy ra có phải do ngẫu nhiên hay không? Cao muốn nêu điều thắc mắc đó với ông Khắc ở lần gặp sắp tới. Và ông Khắc cũng sẽ là người đầu tiên được Cao thông báo sự phát hiện của anh về tính biểu tượng của huyền thoại Rồng Thiêng hay Rắn Thần Naga và những khu rừng mưa dọc theo hai bên bờ con sông Mekong.
Tin từ Việt Nam. Hạn hán và ngập mặn khắp nơi đang đe dọa Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và cháy Rừng ở Cà Mau.
Năm nay lượng mưa giảm gió to nắng gắt, mực nước sông xuống thấp hơn nửa mét. Chưa qua nỗi khổ cơn bão Linda, bây giờ người dân Cà Mau lại phải chịu cái nắng cháy da. Nước trong các đê bao rừng tràm U Minh Thượng U Minh Hạ đã xuống ở mức thấp nhất.
Cà Mau chỉ còn 60 ngàn hecta rừng tràm đang thiếu nước lại thêm cành lá gãy đổ sau cơn bão khiến cháy rừng lớn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, trong khi hàng ngàn dân nghèo vẫn không ngưng vào rừng ăn ong, chặt cây tràm và cả đốt đồng để kiếm sống cho dù đã có lệnh cấm.
Cao có cảm tưởng bây giờ thì như chuyện thời thượng trăm dâu đổ đầu tằm, cái gì cũng đổ cho hiện tượng El Nino là xong. Các chuyên gia khí tượng thủy văn trong nước và cả quốc tế, họ họp ở Singapore, Bangkok dự báo El Nino chưa qua cực điểm, rằng lượng nước mưa còn ít hơn trong vòng hai tháng tới, rằng sẽ có hạn hán trong Vùng Đông Nam Á dĩ nhiên trong đó có Việt Nam. Điều rõ ràng là mùa mưa đã dứt sớm hơn so với mọi năm, tiếp theo là nắng hạn khắp vùng Nam Bộ và mực nước các nhánh Sông Cửu Long xuống tới mức thấp nhất, tình huống này đã tạo ra một hậu quả dây chuyền làm cho ít nhất 10 ngàn hecta lúa Tỉnh Long An bị nhiễm mặn, hơn 6 trăm hecta lúa Tỉnh Tiền Giang bị đỏ phèn. Do thiếu nước khiến nước mặn tràn vào sớm hơn, như Sóc Trăng vành đai mặn lấn sâu vào hơn mấy chục cây số tràn cả vào các Huyện xưa nay vốn là vùng ngọt. Nhiều ao hồ chứa nước ngọt cũng cạn kiệt, dân phải mua nước bằng giá gấp đôi...
Riêng Cao đã đọc bản tin ấy với cảm xúc và cái nhìn rất khác. Trong bức tranh lớn và toàn cảnh vùng Đông Nam Á, Cao nghĩ rằng El Nino hay hiện tượng gì đi nữa thì vẫn con sông Mekong ấy luôn luôn là nguồn nước chính của Đồng Bằng Châu Thổ.
Những năm gần đây do ảnh hưởng nạn phá rừng tự sát (suicidal deforestation), của các quốc gia trên Thượng Nguồn: Của người Hoa ở Vân Nam, của người Lào người Khmer ở Vùng Hạ Lưu Sông Mekong với hai đồng lõa là Thái Lan và Việt Nam, khiến cho người dân Việt nơi Đồng Bằng Châu Thổ khốn khổ: Tới mùa mưa lũ đổ về sớm hơn, nhanh hơn lại lớn hơn khiến nhà nông trở tay không kịp gây tổn hại nặng mùa màng và cả về nhân mạng. Và tiếp đến mùa khô không còn những khu rừng mưa như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước nên hậu quả là hạn hán. Xa hơn nữa rừng mưa còn có khả năng hấp thu thán khí của bầu khí quyển và chống lại hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Câu chuyện Rắn Thần Naga sau khi được Đức Phật cảm hóa đã giúp cư dân sống hai bên bờ con sông Mekong bằng cách ngậm cả khối nước lũ của con sông trong mùa mưa giúp họ tránh lụt rồi nhả nước ra trong mùa hạn để họ có đủ nước cấy cầy và gieo trồng. Khi đi tìm ý nghĩa của thần thoại, Cao chợt nhận ra rằng hiện thân của rồng thiêng hay Rắn Thần Naga chính những khu rừng mưa (rainforest), rừng lũ (flooded forest), đang bị chính những con người vô ơn hãm hại.
Tin Reuters gửi đi từ Nam Vang, ‘’Nhóm Môi Sinh Anh (Global Witness) tố cáo các nhà lãnh đạo chánh trị quân sự Việt Nam đã dính líu đến vụ đốn rừng lậu đại quy mô, đe dọa hủy hoại các khu rừng cấm của Cam Bốt. Những cây gỗ quý bị đốn bừa bãi ấy được đưa qua ngả Gia Lai, Sông Bé để chuyển xuống Cảng Quy Nhơn hay Sài Gòn trước khi xuất cảng’’. Bản tin ấy viết tiếp: ‘’Một vụ làm ăn buôn bán lớn lao như thế, bất chấp luật pháp phải là kết quả của sự tham ô và đồng lõa ở cấp chánh quyền cao nhất của hai nước...’’
Cao cũng biết rằng một tình huống không kém tệ hại cũng đang diễn ra trong các khu rừng mưa trên đất nước Lào.
Đồng lõa phá rừng mưa, ký những hợp đồng bất bình đẳng cho ngoại quốc thiết lập các nhà máy đổ ra những chất độc phế thải, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang trực tiếp ‘’tự gây ra một thảm họa môi sinh (Self-Inflicted Ecological Disaster)’’ với hậu quả lâu dài không chỉ ở Đồng Bằng Châu Thổ mà trên khắp ngả sông rạch và nguồn nước của cả nước.
Made in China.
Từ Nữu Ước tới California, từ Thái Lan qua Lào Cam Bốt sang đến Việt Nam xuống tới mũi Cà Mau, đi tới đâu Cao cũng thấy tràn ngập các món hàng Trung Hoa. Có bao nhiêu trong số những món hàng ấy xuất phát từ những khu chế xuất Tỉnh Vân Nam dọc hai bờ con sông Mekong? Con sông vốn trinh nguyên trong suốt cả ngàn năm ấy, đang có những đổi thay thật mau chóng. Với 28 khu hầm mỏ đang được triệt để khai thác nơi Thượng Nguồn con sông Mekong, trong đó có cả những mỏ chì, mỏ kẽm là nguồn gây ô nhiễm nặng nề nhất. Các khúc sông nơi Hạ Nguồn không chỉ nhất thời thêm lắm phù sa do nạn phá rừng đất lở mà còn đầy những rác rến và cả những mảng dầu đen do từ các nhà máy trút xuống và cứ thế mà tự do xuôi dòng. Trong chuyến thăm Trung Hoa thời mở cửa, Cao đã phải chứng kiến hai con Sông Hoàng và Sông Dương Tử ô nhiễm ra sao. Khiến một người bạn cùng chuyến đi đã nói ra một câu mà Cao rất tâm đắc. Một Trung Hoa với Hiện Tại không đuổi kịp được Quá Khứ.
Khi mà chính người Trung Quốc đã không quan tâm gì tới sự tinh khiết của những dòng sông chảy dài trên suốt lãnh thổ Hoa Lục thì kể gì tới khúc sông Mekong chảy ra ngoài lãnh thổ của họ phía dưới Hạ Nguồn. Khởi nguồn từ một vùng cao tuyết giá mười lăm ngàn bộ trên cao nguyên Tây Tạng với cuộc hành trình diệu vợi hơn bốn ngàn cây số băng qua bao nhiêu vùng khí hậu và dân cư soi bóng bao nhiêu nền văn minh, xuống xa tới vùng nhiệt đới xích đạo là Đồng Bằng Châu Thổ để rồi Cao tự hỏi, không lẽ những Rồng Thiêng Zjiadujiawangzha biến thành thuồng luồng và Rắn Thần Naga hóa thân thành đàn rắn độc. Con sông Mekong đang mất đi sự tinh khiết, đang đổi thay toàn diện khiến không phải chỉ có những nét đặc thù văn hóa sắc tộc đang mai một mà từng bước rất chậm nhưng cũng rất chắc, chính con người đang tự đầu độc nguồn nước từ con sông thiêng, từng ngày mỗi ngụm nước sông sẽ bớt ngọt hơn và khó uống hơn.
Những cơn đau thắt ngực.
Đã tới lúc người nông dân Nam Bộ bắt đầu cảm thấy tác động của những con đập từ xa, tưởng như rất xa. Chỉ riêng Trung Hoa với Man Wan là đập đầu tiên trong chín đập bậc thềm đã chiếm tới 20% nguồn nước trên dòng chính con sông Mekong. Rồi với những con đập phụ bên Thái và Lào cũng đã chiếm thêm 10% nguồn nước. Chưa tính đến chuyện Trung Quốc Thái Lan đổi dòng lấy nước sông Mekong dẫn tưới cho các Vùng Cao Nguyên bao la quanh năm khô hạn của họ. Cho dù chưa có mấy con đập Pamong Cao ở Lào, Sambor và Stung Treng ở Cam Bốt dự trù chiếm thêm 20% lưu lượng nước nữa và rõ ràng ngay từ bây giờ đã có những cơn đau thắt ngực (angina) nơi Đồng Bằng Châu Thổ vì sự khô cạn của các phụ lưu (tributaries), như những mạch phụ collaterals. Từ lưu lượng 40 ngàn mét khối giây mùa lũ xuống chỉ còn 2 ngàn mét khôi giây mùa khô 20 lần thấp hơn, nay còn thấp hơn nữa do hiện tượng El Nino. Làm sao mà Đồng Bằng Cửu Long không bị nạn hạn hán?
Đến với Nhóm Bạn Cửu Long. Như một đam mê không mỏi mệt khi tìm đến với con sông Mekong, Cao không biết mình đã khởi hành từ đâu đi xa tới đâu nhưng biết chắc rằng sẽ chẳng bao giờ có điểm kết thúc.
Với Cao quê hương thứ hai của anh bây giờ là cả một dòng sông và con sông ấy luôn luôn như một sợi chỉ đỏ nối kết tương lai hiện tại với cả quá khứ hoang sơ của thời khai thiên lập địa khi chưa có rặng Hy Mã Lạp Sơn, chưa có Cao Nguyên Tây Tạng và chưa có cả giọt nước đầu tiên cho con sông Mekong.
Giữa cái khoảng vô thủy vô chung ấy, Cao đang là một hạt bụi đi tìm về cội nguồn: Của lịch sử địa chất với những địa tầng Việt Nam từ các vùng đất nền cổ, các vùng kết tầng tam điệp và các lớp phù sa mới ở Đồng Bằng Bắc Phần, chuỗi đồng bằng Trung Phần và phần lớn đồng bằng Nam Phần.
Cũng trong khoảng thời gian hàng triệu năm ấy, Việt Nam cũng đã chịu sức địa động hình phẩy xảy ra liên tiếp qua nhiều thời kỳ chồng chất lên nhau với hiện tượng tạo phay và uốn nếp làm thay đổi hình dạng lục địa để tạo nên địa thế phức tạp của Việt Nam ngày nay.
Từ lịch sử địa chất ấy đã khai sinh ra những rặng núi hùng vĩ từ trung tâm lục địa Á Châu chạy dài xuống Bán Đảo Đông Dương tạo nên một địa hình ba miền rất đặc biệt.
Từ Trung Hoa đổ vào Bắc Việt Nam là dãy núi hình nan quạt cao trung bình trên 2 ngàn mét cùng với hai con Sông Hồng và Sông Thái Bình tạo nên vùng tam giác châu.
Qua tới miền Trung phía Tả Ngạn con sông Mekong là dải Trường Sơn trùng điệp ngăn vùng duyên hải thành những thung lũng hẹp. Đến Miền Nam dãy Trường Sơn như lặn xuống để chỉ còn chỏm núi lẻ loi Bà Đen ở Tây Ninh, riêng rặng Thất Sơn ở Châu Đốc, núi Ba Thê núi Sập ở Long Xuyên là phần cuối của rặng Đậu Khấu (Cardamoms) nổi bật trên một Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long bát ngát chỉ mới được tạo hình từ đáy biển từ Nguyên Đại Đệ Tam.
Tới bờ Vịnh Thái Lan, những vách đá nhô ra biển là phần cao nguyên bị sụt xuống nay còn sót lại. Còn nhiều đảo nhỏ cũng là phần của rặng núi Đậu Khấu từ phía Tây Cam Bốt. Phú Quốc là hòn đảo có núi cao như núi Bãi Dội núi Chùa, rồi tới hòn Phú Dự hòn Nân, Quần Đảo Hải Tặc, xa nhất là Quần Đảo Thổ Châu.
Lãnh hải và các Đảo trong Vịnh Thái Lan luôn luôn đã là nguyên nhân tranh chấp có khi đẫm máu giữa Việt Nam và Cam Bốt. Năm 1957, Cam Bốt tự ý nới rộng hải phận tới 6 hải lý bao gồm luôn cả Đảo Phú Quốc. Năm 1958 Phái Đoàn Thường Trực Cam Bốt ở Liên Hiệp Quốc đã phổ biến cuốn bạch thư khẳng định ‘’Nam Phần Việt Nam là Lãnh thổ của Cam Bốt’’ đòi thu hồi các Tỉnh Nam Phần, Đảo Phú Quốc, Đảo Thổ Châu sát nhập trở lại vào Cam Bốt.
Trên dải đất định mệnh hình chữ S, chỉ riêng khúc từ Đèo Ngang trở vào, đã mang trong nó quá khứ của hai quốc gia hoàn toàn bị xóa tên. Một nước Lâm Ấp còn có tên Champa bị Việt Nam từng bước xâm lấn và cuối cùng tiêu diệt vào đầu Thế Kỷ 19 (1832). Một nước Phù Nam với nền văn minh Óc Eo bao gồm Tây Nam Phần và Tây Nam Cam Bốt bị Đế Quốc Angkor Khmer tiêu diệt vào Thế Kỷ thứ 7, lập nên xứ Thủy Chân Lạp, để rồi mười Thế Kỷ sau đó, Việt Nam xâm chiếm Thủy Chân Lạp và mở mang thành vùng đất Nam Bộ ngày nay.
Bao nhiêu nước mắt và máu me trong suốt cả ngàn năm ấy tính ra thì cũng chưa là một cái chớp mắt trong cái hỗn mang của trời và đất ấy.
Tìm về thời gian đã mất
Một Vương Quốc Phù Nam tiêu vong.
Việt Nam có sự tích Trăm Trứng Trăm Con, xứ Phù Nam cũng có cội nguồn từ huyền thoại.
Thuở rất xa xưa có một ông Hoàng Ấn tên Kaudinya nằm mơ thấy vị thần ban cho một cây cung và khuyên đi lập nghiệp ở một vùng đất Phương Đông. Tin điềm báo mộng, sáng hôm sau Kaudinya tới Đền Thờ Thần và quả nhiên bắt gặp một cây cung dựng bên một thân cây quý. Ông Hoàng đóng thuyền vượt biển đi về hướng mặt trời mọc tới Vương Quốc tương lai. Khi tới Phù Nam thì tại đây đã có một bộ lạc do một nữ chúa đang trị vì. Bị đoàn chiến thuyền của nữ chúa xông ra nghênh chiến, ông đã dùng cây cung thần bắn ra những mũi tên thiêng khiến nữ chúa phải đầu hàng và sau đó còn chịu kết hôn với ông và lập nên Vương Quốc Phù Nam.
Khoảng cuối Thế Kỷ thứ 5, Jayavarman được kể là vị Vua dũng mãnh nhất của Triều Đại Kaudinya với các đội thương thuyền và cũng là những đội hải tặc hung hãn luôn luôn đánh phá các đoàn tàu buôn và các nước lân bang trong đó có Việt Nam.
Cao tự hỏi phải chăng là ngẫu nhiên hay có mối liên hệ nào đó, trong cách tống táng người dân Phù Nam cũng có tục lệ để cho chim chóc ăn thây người chết giống như tục điểu táng của xứ Tây Tạng nơi đầu nguồn con sông Mekong ngày nay?
Trước cả Đế Quốc Angkor Khmer, Phù Nam đã có liên hệ giao thương bằng đường biển với các quốc gia lân bang về phía bắc sang tới tận Trung Hoa. Óc Eo là một hải cảng quan trọng nằm trên thủy lộ giao thông giữa Ấn Độ và Trung Hoa từ Thế Kỷ thứ nhất, nay di tích còn lại chỉ là những nền nhà và các cổ vật chìm sâu dưới mặt đất. Di chỉ Óc Eo với cả vô số vỏ sò hến tìm thấy ở chân núi Ba Thê Long Xuyên nay đã cách xa bờ biển khiến các nhà khảo cổ cho rằng từ nhiều Thế Kỷ trước Óc Eo đã từng là một Hải Cảng do bị phù sa bồi mà nay lùi sâu vào trong đất liền.
Nếu đã có sự tích người Chăm bị mất nước do Nhà Vua say mê nàng Công Chúa người Việt thì cũng có huyền sử về một nước Phù Nam suy vi chỉ vì Công Chúa say mê chàng dũng sĩ đến từ Vương Quốc Champa. Tương truyền rằng giữa cảnh thái hòa và cực thịnh của Vương Quốc Phù Nam, Vua Kaudinya và Hoàng Hậu sanh hạ được một Công Chúa xinh đẹp. Do vị Vua gốc Ấn thờ Thần Vishnou nên Vua cho xây một ngôi đền ngoài hoàng cung với một cây cầu đá ngang qua ngọn suối. Nơi được coi là hết sức linh thiêng ngoài Vua và vị Tu Sĩ ra, tuyệt đối không ai được phép bước qua cầu, nếu phạm lời nguyền thì Vương Quốc Phù Nam sẽ bị tiêu diệt. Nhưng rồi một hôm có chàng dũng sĩ Chăm tên Sarrida lái thuyền vượt biển tới được đất Phù Nam, chàng bị binh lính bắt và giải vào trình Vua. Bị nghi là do thám cho Vua Champa nên chàng bị tra tấn với bao nhiêu cực hình nhưng vẫn một mực kêu oan. Sarrida được Hoàng Hậu thương tình xin Vua tha cho tội chết. Vốn là một dũng sĩ võ nghệ cao cường lại có biệt tài bắn cung nên chàng được tuyển dụng vào Đội Ngự Lâm bảo vệ Hoàng Gia. Do một hôm hộ tống Công Chúa ra ngoài
Hoàng Cung, chàng đã cứu sống Công Chúa thoát khỏi một con trăn lớn đang quấn nàng. Công Chúa đem lòng yêu Sarrida.
Nhưng chàng dũng sĩ Chăm thì lại quá nhớ nhà chỉ mong sao có ngày ‘’quy cố hương.’’ Sarrida đóng một chiếc thuyền lấy cớ là để du ngoạn trên dòng sông nhưng thực sự là muốn dùng đường thủy để thoát thân. Biết ý đồ của Sarrida, Vua truyền lệnh cho dân Phù Nam phải lăn đá núi xuống làm bảy bậc thềm ngăn ngang con sông.
Vô vọng vì chẳng còn lối về, chàng ngày đêm sống trong một túp lều nhỏ và làm một cây sáo trúc để mỗi đêm thanh vắng thổi lên những điệu nhạc Chăm bi ai áo não. Tuy vậy Sarrida cũng không ngừng dò hỏi và chàng vô cùng mừng rỡ khi biết được rằng từ Ngôi Đền Thần Vishnu nếu băng qua cây cầu đá thiêng sẽ có một con đường bộ xuyên rừng giúp chàng trở về đất Champa. Chuẩn bị hành trang nửa đêm chàng băng mình chạy qua cầu nhưng chẳng may bị toán lính canh Phù Nam bắt lại. Được tin này, Vua Kaundinya vô cùng tức giận vì cho đây là một điềm đại họa, nên bất chấp lời khóc lóc van xin của Công Chúa, Vua truyền lệnh cho giải Sarrida lên bực đá cao giữa dòng sông và dùng cung tên xử tử chàng. Do hết lòng thương nhớ người yêu, Công Chúa ban đêm vẫn ra ngồi ngoài bực đá mà than khóc khiến cả dân chúng vô cùng phẫn nộ kéo tới Hoàng Cung để xin Nhà Vua phân xử. Trước điềm họa quá to lớn là Vương Quốc Phù Nam có thể bị tiêu tan, Vua buộc lòng phải xử tử Công Chúa con gái mình ngay nơi bậc đá mà Sarrida từng bị thọ hình.
Ngày nay di tích Thất Thạch Thang vẫn còn đâu đó trên sông Phước Long và nơi Thác Trị An còn một mỏm đá mà người ta cho rằng đó là bóng dáng nàng Công Chúa ngồi khóc chàng dũng sĩ Chăm.
Phù Nam đã từng là một Vương Quốc cường thịnh trong Vùng Đông Nam Á suốt bảy Thế Kỷ, đã phải đương đầu với nước Champa hiếu chiến tràn xuống từ phương Bắc và với Đế Quốc Angkor Khmer hùng mạnh từ phía Tây. Phù Nam đã không còn, cũng không còn cả những công trình kiến trúc như di tích của các triều đại, nhưng ảnh hưởng văn hóa của họ vẫn cứ còn bàng bạc đâu đó trên các nét kiến trúc của đền đài Angkor, các Chùa chiền và tượng Phật, trên cả những phong tục tập quán như thờ Rắn thần Naga của người Khmer ngày nay.
Những di dân không tới trễ.
Đợt di dân Hai Huyện vào cuối Thế Kỷ 17 do Nguyễn Hữu Cảnh chỉ huy đã đặt nền móng đầu tiên cho những Cộng Đồng thuần Việt tới Vùng Đồng Bằng Châu Thổ sau này. Sau khi hoàn tất giai đoạn chót cuộc thôn tính Vương Quốc Champa, Chưởng Cơ Cảnh là người có công đầu trong việc khai phá miền Nam trước cả Thoại Ngọc Hầu, mở đường cho việc thống lãnh đất Thủy Chân Lạp. Khi những lưu dân Việt đầu tiên khi tới vùng Đồng Bằng Châu Thổ Sông Cửu Long thì họ gặp những người Khmer đang sống trên những giồng đất cao canh tác trên những mảnh ruộng nhỏ hẹp có sẵn tự bao đời. Đất đai tưởng như mênh mông nhưng các vùng khô ráo ở được thì người Khmer đã chiếm cả rồi, chỉ còn lại những khu rừng trầm thủy các vùng đất thấp ngập nước và đẫm phèn. Đám người Việt mới tới chỉ còn một chọn lựa là phải tạm cư trên bờ những vàm rạch còn hoang vu với trên bờ muỗi kêu như thổi sáo dưới nước đỉa lềnh như bánh canh chưa có bóng người. Họ bắt đầu chặt cây giết cọp bắt sấu, trị thủy lên liếp, chế ngự thiên nhiên nói như nhà văn miệt vườn Sơn Nam, thì họ đã biến những ‘’vùng bùn lầy không chân thành những mặt nền vững chắc’’ để có đất đai canh tác.
Những di dân ra đi từ vùng đất khổ quê nghèo chỉ có một giấc mơ dựng nghiệp với đôi bàn tay không. Không có trâu bò chỉ có sức người. Dụng cụ thì tự chế chỉ có cây rựa để chặt cây, cây phảng để phát cỏ. Cây chặt rồi, cỏ phát ngã xuống chỉ có việc dọn sạch rồi cấy ngay lên đó, gặp đất cứng thì dùng những cây nọc xom lỗ rồi cắm mạ. Bằng phương thức nghèo ấy họ đã canh tác được ngay trên đất phèn. Bởi vì họ biết càng cầy sâu cuốc bẫm thì chỉ có đem thêm phèn lên mặt đất và chỉ đổ hại thêm cho mùa màng. Điều mà ba Thế Kỷ sau, các nhà nông học Hòa Lan khi tới Việt Nam nghiên cứu cũng không đưa ra được khuyến cáo nào mới mẻ hơn là chọn chung sống với đất phèn.
Chưa có đường xá, giao thông di chuyển chủ yếu bằng xuồng giữa một mạng lưới chằng chịt sông rạch. Hành trang cá nhân là chiếc nóp dễ dàng cuộn lại mang theo thay cho cả chiếu và mùng mền. Trên bờ hay dưới ghe chỉ cần lật nóp mà chun vô là qua được một đêm lạnh lẽo nơi rừng hoang hay rạch vắng với cả dày đặc những muỗi mòng. Nấu nướng thì chỉ có chiếc cà ràng chiếc lò đất nung thấp để vừa đặt nồi nấu cơm vừa có chỗ khươi than lùi khoai hay nướng cá, lại còn có cho khói để un muỗi nữa. Bước khởi đầu chỉ có vậy mà họ đã ngang nhiên tồn tại và phát triển, đã biến những khu rừng trầm thủy những đầm lầy hoang vu của Đồng Bằng Sông Cửu Long thành đất đai ruộng vườn trù phú như hiện nay.
Có một nền Văn Minh Sông Mekong. 

Người ta nói tới nền Văn Minh Sông Nil, Văn Minh Sông Hằng và phủ nhận sự hiện hữu của một nền văn minh thuần nhất của con sông Mekong. Nhưng thế nào là thuần nhất thực sự có riêng từng nền văn minh mà người gọi là văn minh Đông Á Cầm Đũa, Nam Á Ăn Bốc hay không? Cao thì muốn chứng minh ngược lại là trên vùng đất định mệnh ấy, dọc theo suốt chiều dài của con sông Mekong dũng mãnh chảy qua bảy quốc gia thực sự đã có dòng chảy của một nền văn minh khá thuần nhất, họ có chung một nền Văn Minh Lúa Gạo (Civilisation du Riz) và đã từng có chung nụ cười thanh thoát với cả rất nhiều nước mắt của Đức Phật Thích Ca.
CHƯƠNG XI
Ý MỚI CHIN THANAKAAN MAI
TỪ NHỮNG DÒNG SÔNG XÔN XAO
Mùa mưa như một trận mưa liền
Châu thổ mang mang trời nước sát.
Tô Thùy Yên
Cao có cung cách làm việc của một nhà báo cho dù nghề nghiệp chuyên môn anh là một Kỹ Sư về môi sinh. Tốt nghiệp ở Montréal nhưng chọn định cư ở Mỹ. Điều khiển một tổ hợp chuyên viên nhiều ngành, anh có uy tín và được biết đến như một công trình sư của những dự án lớn ngay trên đất Mỹ sự kiện khá hiếm hoi vì anh là chuyên gia còn trẻ lại gốc sắc dân thiểu số. Theo một nghĩa nào đó anh đã sớm thoát ra khỏi cái ghetto của một Cộng Đồng di dân còn rất trẻ mới tới Lục Địa Mỹ Châu này cho dù anh vẫn là một trong số người hiếm hoi vẫn cứ bơi ngược dòng.
Khi từ Montréal vào Mỹ, Cao đã không chấp nhận ngay từ đầu kinh nghiệm được gọi là khôn ngoan của người đi trước khuyên anh nên đổi cái tên khó đọc sang một tên Mỹ để tránh tình trạng mà họ gọi là ‘’discrimination raciale àl’ americaine’’ nhưng Cao lại coi đó như một chối từ (denial) đang hổ thẹn tấ căn cước đích thực về nguồn gốc của mình chỉ để có công ăn việc làm. Cho dù là sắc dân da màu lại có accent khá nặng khi nói tiếng Anh nhưng Cao hết sức tự tin cho rằng anh có bằng cấp, trí thông minh và cả óc sáng tạo nếu không hơn thì cũng chẳng thua gì các bạn đồng sự Caucasian da trắng. Đó không phải là thái độ bướng bỉnh mà Cao cho rằng nó bắt nguồn từ lòng tự trọng và thực tế đã chứng minh là anh đã không nhận định sai.
Gia đình gốc gác từ Châu Thổ Sông Hồng nhưng anh lại sinh ra và lớn lên từ Vùng Hậu Giang miền Nam. Có phải vì vậy mà Cao vẫn nói đùa ‘’chân anh đã dính phèn’’ và bấy lâu anh vẫn bền bỉ quan tâm tới tương lai Hệ Sinh Thái Sông Mekong.
Bản chất độc lập không ưa chánh trị, không thích bị ràng buộc vào những tổ chức nhưng anh lại có Nhóm Bạn Cửu Long, một tổ chức phi chánh phủ quan sát và bảo vệ môi sinh, để cùng nhau sinh hoạt. Nhưng rồi anh cũng sớm nhận ra rằng không có vấn đề phi chánh trị trong môi sinh.
Chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Lào lần đầu tiên, Cao vào Thư Viện tìm tới thư mục về Lào cũng chỉ thấy một số ít oi những tài liệu tiếng Pháp trong thời thuộc địa, viết về cuộc phiêu lưu hào hùng nhưng không kém phần bi thảm của Francis Garnier-Doudart de Lagrée ngược dòng sông Mekong thời hoang dã để tìm một thủy lộ từ Sài Gòn sang Trung Hoa, nói về Auguste Pavie viên Lãnh Sự Pháp ở Luang Prabang với giai thoại đi chân trần trên một xứ sở đầy rắn, các bài viết của Trường Viễn Đông Bác Cổ, của Hội Thân Hữu Pháp-Lào, và gần đây là mấy luận án Tiến Sĩ nghiên cứu về phong tục xã hội Lào bên cạnh các bản tường trình của UNICEF liên quan tới cứu trợ trẻ em. Còn tài liệu hướng dẫn du lịch thường chỉ như phần phụ trong danh sách các nước khác như Thái Lan. Chỉ riêng trang sử cận đại, Lào luôn luôn bị xâu sé bởi các thế lực ngoại bang. Năm 1820, Thái Lan xâm lăng Vạn Tượng chỉ để lại mấy ngôi chùa không bị tàn phá. Rồi Pháp Nhật và cuối cùng là Mỹ với cuộc chiến tranh bí mật của CIA với người thiểu số Hmong.
Cũng phải kể thêm là trong trận Chiến Tranh Việt Nam, những trận oanh kích ngày đêm dọc theo đường mòn Hồ chí Minh với hơn 2 triệu tấn bom trút xuống lãnh thổ Lào với số chết chóc không sao kiểm kê được và giới chức quân sự Mỹ chỉ gọi đó là ‘’tổn thất phụ (collateral damages)’’. Nhưng có lẽ điều mà ít ai biết là Mỹ đã can thiệp vào nội tình ‘’Vương Quốc Lào Trung Lập’’ sớm hơn nhiều.
Vào thập niên 50, không phải chỉ nước Mỹ mà cả thế giới biết đến Tom Dooley qua hình ảnh tuyệt đẹp của người Bác Sĩ trẻ dấn thân tận tụy chăm sóc những bệnh nhân nghèo khổ trong rừng rậm Á Châu. Nguyên là một Bác Sĩ Hải Quân Mỹ nổi tiếng như cồn do tham gia chiến dịch ‘’Hành Trình Tới Tự Do’’ di tản dân tỵ nạn trốn chạy cộng sản Bắc Việt vào miền Nam Việt Nam sau Hiệp Định Genève 1954, và đồng thời là tác giả một cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ. Nhưng sự thật đã không đơn giản khi mà bản thân Tom có điều bí ẩn cần che dấu. Đang trên đỉnh cao danh vọng thì anh bị phát hiện là đồng tính luyến ái, điều rất cấm kỵ trong Hải Quân Mỹ thời bấy giờ và có nguy cơ bị sa thải trong điều kiện mất danh dự.
Để bảo vệ bí mật ấy anh ‘’tình nguyện’’ ra khỏi Hải Quân và thỏa hiệp hợp tác tích cực với CIA trong các công tác tuyên truyền sai lạc (disinformation) về Đông Dương. Qua sắp đặt của Tướng Lansdale, Tom ‘’tình nguyện’’ sang Lào để mở một bệnh xá ở Nam Tha một vùng hoang sơ ở Bắc Lào gần biên giới Trung Cộng’ ‘’thể theo lời yêu cầu’’ của Bộ Trưởng Y Tế Lào. Bệnh xá của Tom được rầm rộ quảng cáo như một thứ ‘’tiền đồn của hòa bình’’ nhưng toàn thể bên trong là chuẩn bị cho chiến tranh. Bề ngoài là tiếp liệu y tế thuốc men nhưng Tom còn phải nhận cả vũ khí đã bí mật chôn dấu, tự hậu có thể dùng cho các lực lượng quân sự Lào sau này. Dự án bệnh xá chỉ là trá hình nên thiếu nhân viên chuyên môn, thuốc men thì quá hạn do hãng thuốc Pfizer cho không. Trong khi đó thì Tom không ngừng được báo chí và truyền hình quảng cáo rầm rộ như một người Mỹ chói sáng, một Schweitzer của Á Châu. Anh được sắp hạng ba trong số mười người được dân chúng Mỹ ái mộ nhất, nghĩa là chỉ sau có Tổng Thống Eisenhower và Đức Giáo Hoàng. Tom chết vì bệnh ung thư melanoma ở và tuổi 34. Ngày anh từ trần cũng là ngày bệnh xá ở Nam Tha bị quâ cộng sản Pathet Là tràn ngập và Hoa Kỳ thì đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến tranh Đông Dương, vùng đất mà trước Tom Dooley đã không được ai biết đến...
Rời Bangkok là rời xa một thủ phủ đã phát triển và ô nhiễm tới mức bão hòa. Chỉ nghe nói về tệ nạn hối lộ của nhân viên Hàng Không Lào, Cao không tin cho tới khi chính anh trở thành nạn nhân.
Cho dù đã có vé bay chánh thức nhưng Cao vẫn bị gạt ra khỏi danh sách để rồi phải đôi co hàng tiếng đồng hồ trước khi bước được lên chuyến bay 737 cũ kỹ không còn một chỗ trống. Hành khách đa số là những người Lào và cả Việt Nam từ Mỹ Pháp và Úc bắt đầu được phép về thăm quê hương. Chỉ khoảng hơn một giờ bay là đã tới không phận Vạn Tượng, máy bay giảm cao độ với tiếng động cơ phản lực thì cứ rung lên bần bật. Qua khung kính, bên kia là cao nguyên Isan Thái Lan, bên này là Lào xen giữa là con sông Mekong thắm đỏ phù sa trải ra tới tận chân trời xa trông như một tấm thảm hồng. Phi Trường Quốc Tế Wattay vốn đã nhỏ hẹp lại còn chật chội hơn với những bảng hiệu tuyên truyền ‘’Nông công binh đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội’’. Phòng đợi đông người lộn xộn với ngổn ngang những vali hành lý: Quà cáp cho người thân và dĩ nhiên cả những món hàng buôn.
Sau 15 năm kể từ ngày các nhà lãnh đạo Mácxít Lào xuất thân từ Trường Pháp rất biết thế nào là rượu chát và cigars ngon, họ từ các vùng hang động xuống Thành Phố áp đặt một nền kinh tế chỉ huy chỉ để làm lụn bại thêm nước Lào. Theo chân đàn anh Việt Nam nhưng bảo thủ và tàn bạo hơn, chánh phủ Pathet Lào ngay khi nắm chánh quyền đã thiết lập vô số nhà tù mà họ cũng gọi là ‘’Trại Cải Tạo’’ để bắt giam các thành phần thuộc chế độ cũ. Do khiếp sợ cộng sản một số trí thức Lào đã thoát chạy được ra khỏi xứ trước 75, chỉ có Vua Lào Savang Vatthana thì ở lại ông vẫn được nhắc tới như một con người học thức đức độ và giản dị. Vua và cả Hoàng Gia cùng với hơn 40 ngàn người khác đã bị bắt và đầy ải trong các trại tù trong rừng rậm. Nhà Vua đã chết tức tưởi trong một ‘’trại cải tạo’’ gần Sầm Nứa vì thiếu thốn bệnh tật và cả buồn bã, Hoàng Hậu cũng chết sau đó và khi bị các nhà báo ngoại quốc hỏi ráo riết thì được giải thích: ‘’Nhà Vua chết vì bệnh sốt rét còn Hoàng Hậu thì chết do nguyên nhân tự nhiên (natural cause)’’. Riêng Hoàng Thái Tử thì bao nhiêu năm không có tin tức gì. Một dân tộc Lào hiếu hòa đã chấm dứt chế độ quân chủ của họ bằng các trại tù cải tạo. Mười năm sau số người được tha về mới có một phần ba, đa số đã già yếu và bệnh hoạn. Không còn Hoàng Gia cũng chẳng còn Vương Quốc Lào nhưng Hoàng Cung sau đó được trùng tu và mở ra cho khách du lịch đến thăm viếng.
Được xếp vào hạng nghèo nhất thế giới, diện tích bằng nước Anh với dân số 4 triệu rưỡi người đa số mù chữ tuổi thọ trung bình 46, chưa có ô nhiễm kỹ nghệ, các bệnh tim mạch ung thư và bệnh AIDS nhưng tử vong vẫn rất cao do các bệnh sốt rét bệnh lao viêm gan nhiễm trùng đường ruột và 20% trẻ em Lào thì chết trước 5 tuổi vì suy dinh dưỡng. Với lợi tức đầu người chỉ 220 đô la một năm nhưng xem ra cuộc sống của người dân Lào vẫn cứ vô cùng nhàn nhã, họ an phận với cái hiện hữu, không có tham vọng và không ham gieo trồng nhiều hơn mức mà họ cần rồi thì ‘’ngả lưng nằm chờ xem những cây lúa mọc.’’ Đang từ Singapore Bangkok mà đặt chân tới xứ Lào, Cao có cảm tưởng như tới một hành tinh khác, thấy được che chở với mọi sự đổi thay. Lần đầu tiên tới Lào phải công nhận đây là mảng đất của Viễn Đông còn khá nguyên vẹn, với những khu rừng mưa (rainforest) gồm nhiều tầng thảo mộc xanh um với đủ loại thú hoang dã. Lào vẫn nổi tiếng về những đàn voi được mang tên là ‘’Xứ Lan Xang (Xứ triệu thớt voi)’’. Các khu rừng mưa ở Lào như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước sáu tháng mùa mưa để rồi suốt năm rỉ rả chảy dần vào vô số những con suối tạo thành các phụ lưu đổ vào con sông Mekong hùng vĩ chảy dài theo suốt chiều dài nước Lào. Rồi những sắc dân thiểu số sống rải rác trên khắp vùng cao nguyên trong các khu rừng già với trình độ bán khai chưa xa Thời Kỳ Đồ Đá.
Không khác bao nhiêu với những trang sách của Graham Greene, Vạn Tượng vẫn chỉ là một Thị Trấn nhỏ, với những tàng cây xanh và còn nhiều tiếng chim hót. Nơi mà thời gian gần như ngừng lại. Trên đường xe hơi thưa thớt: Mấy chiếc 4CV Renault cũ kỹ của Pháp, vài chiếc xe vận tải Molotova xốc xếch của Nga còn sót lại. Chỉ với bên kia sông thôi là Thị Trấn Nong Khai của Thái Lan với những tòa nhà cao sáng rỡ vào ban đêm thì Vạn Tượng vẫn còn những con đường nhỏ bụi bậm không tráng nhựa với những dãy phố trệt hoặc chỉ là những tòa nhà hai tầng màu gạch xây từ thời Pháp. Không thiếu những người Mỹ tới đây như tìm về một khoảnh khắc của Á Châu cổ xưa chưa bị văn minh Tây Phương làm ô nhiễm.
Lần thứ hai Cao trở lại Lào cùng với đại diện của 15 tổ chức phi chánh phủ (NGO’s) bảo vệ môi sinh nhằm quan sát tại chỗ về hậu quả tích lũy của các đập thủy điện trên xứ sở nhỏ bé này trước khi đưa ra khuyến cáo đối với Tổ Chức Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) và nhất là với Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asian Development Bank) đang chuẩn bị tài trợ rộng rãi cho 26 dự án đập trên hai con sông Se Kong và Se San cả hai cùng xuất phát từ Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam.
Từ Singapore bằng hãng Hàng Không Lụa tới Bangkok, thay vì bay thẳng tới Vạn Tượng, Cao chọn chuyến bay nội địa tới Udon, rồi bằng đường bộ tới Nong Khai. Và cũng là lần đầu tiên Cao vượt qua sông Mekong không phải bằng thuyền phà mà bằng cây cầu Hữu Nghị (Mittaphap) hai chiều đã được Úc xây nối hai bờ sông Mekong giữa Vạn Tượng và Nong Khai, đánh dấu một giai đoạn hợp tác và phát triển của hai nước Thái-Lào.
Ngày khai mạc cây cầu tháng 4 năm 94, Thủ Tướng Úc Vua Thái Bhumibol và Thủ Tướng Lào đã cùng tới cắt băng khánh thành. Bưu Điện Hoàng Gia Thái cùng ngày phát hành con tem mới với hình chiếc cầu đầu tiên bắc qua dòng chính sông Mekong trong vùng hạ lưu. Cho dù dự án đã có từ thập niên 50, nhưng do chiến tranh và sự thù nghịch giữa Thái-Lào nên phải hoãn lại cho tới khi cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc. Cây cầu dài 1200 mét là điểm nối then chốt của dự án xa lộ Liên Quốc từ Singapore tới Bắc Kinh. Với một nước cô lập như Lào thì chiếc cầu là bước mở đường sang Thái Lan rồi từ Thái ra biển. Với Thái thì đó là con đường trực tiếp để đi vào một nước kém phát triển nhất nhưng lại rất giàu tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác. Còn với Úc thì chiếc cầu là biểu tượng cho uy tín và ảnh hưởng của một nước vùng Nam Bán Cầu trong vùng Đông Nam Á.
Càng ngày Cao càng ý thức rõ không có vấn đề cục bộ hay biên giới quốc gia trong môi sinh. Đó là vấn đề của toàn vùng hay của cả hành tinh này. Và Cao đã không còn ngạc nhiên khi thấy những người bạn không phải chỉ từ Á Châu mà cả từ Bắc Mỹ, Úc và Âu Châu tới khu rừng mưa hoang sơ của xứ Lào này để bảo vệ sự thanh khiết của những dòng sông cho tới các giống cá. Lane Sang Hotel, trên Đường Thanon Fa Ngum. Đó là một tòa nhà 4 tầng lầu gồm hơn 100 buồng có gắn máy điều hòa không khí Liên Xô và được kể là khách sạn hạng sang so với tiêu chuẩn nước Lào. Bây giờ là tháng Tư mùa khô, bầu trời cao trong xanh, từ bao lơn khách sạn có thể nhìn ra sông Mekong với những chiếc thuyền nhỏ qua lại. Cao quay qua hỏi người bạn Thái: - Tôi nghe nói khúc sông Mekong này có loại cá Pla Beuk dài tới 3 mét nặng tới 650 cân Anh, có thật không?
Cham Sak thì rất am tường về hệ sinh thái sông Mekong kể cả những giai thoại dân gian Thái Lào sống hai bên bờ con sông ấy.
Cham Sak kể:
- Không phải chỉ có cá Pla Beuk mà còn có cả cá voi nữa. Cá Pla Beuk thì đã được các nhà ngư học Tây Phương khảo sát từ những năm 1930 nhưng thực ra nhà thám hiểm Anh James McCarthy thì đã nhắc tới giống cá này sớm hơn nhiều (1881) trong cuốn du ký ‘’Surveying and Exploring in Siam’’ ông ta cho biết trứng cá Pla Beuk còn có hương vị tuyệt ngon nữa. Ông ta còn ghi lại cả huyền thoại về giống thuồng luồng, như một loại rắn nước khổng lồ trên sông Mekong thân to tới hơn nửa mét dài tới 16 mét chuyên sống nơi vùng ghềnh thác. Theo người dân Luang Prabang kể lại thì khi thuồng luồng gặp người chết đuối con quái vật ấy sẽ vặt tóc nhổ răng và hút hết máu. Xác tìm thấy mà biến dạng như vậy thì người ta biết ngay đó là nạn nhân của con thuồng luồng ‘’nguak’’. Chuyện thật và cả không thật cứ thế mà thêm thắt thành cả một kho tàng chuyện dân gian về con sông Mekong.
Bây giờ thì Cham Sak kể về ngày hội truyền thống đánh cá Pla Beuk vẫn còn lưu hành trong một ngôi làng Thái bên Hữu Ngạn sông Mekong:
- Hàng năm cứ vào tháng Tư dân làng Had Kai Huyện Chiang Khong bên Thái đều có tổ chức Hội thi Pla Beuk. Đó là một loại Catfish khổng lồ, cứ vào mùa này rủ nhau bơi ngược dòng sông Mekong từ mãi phía Nam sang tới Hồ Nhĩ Hải (Lake Erhai) bên Cổ Thành Đại Lý Tây Vân Nam bên Trung Hoa để đẻ trứng. Buổi sáng ngày lễ hội dân làng tụ tập hai bên bờ sông đón xem các tay ngư dân thiện nghệ chèo thuyền ra sông thử vận may kiếm cá Pla Beuk. Ngư dân Lào thì kể rằng đoàn cá Pla Beuk khi ngược dòng sông Mekong đều hội tụ ở vũng sâu Luang Prabang phía Bắc Vạn Tượng để bầu chọn xem con nào sẽ tiếp tục lên hồ xa đẻ trứng, con nào sẽ hy sinh làm mồi cho ngư dân Hội Pla Beuk. Ngư dân Thái cũng như Lào đều tin rằng Pla Beuk là thứ linh ngư, năm nào bắt được Pla Beuk mà trên lưng nhiều vết đốm thì năm đó sẽ hên và lưới được thật nhiều cá. Nhưng những năm gần đây ngày hội của dân làng Had Kai đã kém vui vì ngư dân ít bắt được cá Pla Beuk và lượng cá đánh được hàng năm cũng ít dần đi.
Cao không ngớt ngạc nhiên về con sông Mekong, anh hỏi:
- Lại còn có cả cá voi trong sông sao?
- Có chứ, đó là giống cá voi mõm ngắn Irrawaddy Dolphin có tên khoa học là Orchaella brevirostris, dài trung bình từ 2m-2.5m tương đối nhỏ so với các chủng loại Dolphin khác. Theo ngư dân thì Dolphin sống từng cặp có khi từng đàn mươi mười hai con, săn bắt cá nhỏ nhưng do nước sông Mekong đục ngầu phù sa, cá Dolphin không thấy gì nên phải dùng một cơ quan đặc biệt như một máy siêu âm phía trước trán và định vị trí bằng sóng âm phát đi và phản hồi từ con mồi. Giống cá voi này còn thấy được trên mấy con sông lớn của Châu Á như Sông Hằng ở Ấn, sông Irrawaddy ở Miến hay trong các Vịnh Bengal Vịnh Thái Lan.
Cham Sak giọng trầm xuống tiếp:
- Chỉ trong 4 năm từ 1975-1979 là cả một giai đoạn phải nói là thảm sát cá Dolphin ở Biển Hồ, sông Tonlé Sap và hạ lưu sông Mekong của Pol Pot và Khmer Đỏ, cá Dolphin bị bắt giết hàng loạt để lấy mỡ cá ép ra làm dầu máy. Rồi sau đó là tiếp tục cái cảnh dùng chất nổ, điện giật để giết cá bất kể lớn bé hàng đàn trên các khúc sông từ Lào xuống Cam Bốt sang Việt Nam. Đánh cá kiểu tự hủy như thế thì chẳng bao lâu nhiều loại cá quý phải tuyệt chủng.
Cao quay sang hỏi Cham Sak:
- Nhưng chính anh đã thấy cá Dolphin trên sông Mekong chưa?
- Chỉ một lần trên bờ sông Se Kong nhưng là một cá Dolphin mới chết bị trôi dạt vào bờ. Anh cũng biết ngư dân không bao giờ lưới bắt cá Dolphin mà tiếng Lào gọi là Pakha hay là nhân ngư vì họ tin là giống cá thiêng. Có rất nhiều giai thoại trong dân gian Thái-Lào là Pakha luôn luôn giúp ngư dân trong mùa chài lưới, cả cứu người bị chết đuối. Họ tin rằng giống cá voi này gốc từ người nên có vú và âm hộ như đàn bà. Các ông già bà cả thường kể lại rằng thuở rất là xa xưa khi hai nước Tàu và Việt bị động đất rồi thiên tai thật khủng khiếp nên họ bị chết hết cả. Người Tàu tái sinh thành cá Pakha, người Việt thành loài giang nhạn. Khi trời yên biển lặng rồi thì cá voi gặp chim nhạn hỏi han nhau. Nhạn nói: ‘’Tôi sinh ra từ kiếp người nên chẳng bao giờ hại người ta cả.’’ Cá Pakha cũng nói: ‘’Tôi cũng vậy, sinh ra từ kiếp người nên chỉ biết có cứu người ta thôi.’’ Vào mùa mưa mực nước dâng cao, có khi dân làng thấy cá voi từ sông Mekong lội ngược lên con sông Se Kong. Nhưng rồi sau những năm bom đạn chiến tranh người ta rất ít con thấy cá voi xuất hiện trên sông Mekong nữa.
Cham Sak xuống giọng trầm buồn:
- Rồi ra khi con đập Pa Mong mà xây xong thì cũng chẳng còn đoàn di ngư hay ngày hội của dân làng Chiang Khong nữa. Ngày nay ngư dân chuyển qua đánh cá bằng tàu lớn, lại thêm lính Việt lính Cam Bốt dùng đủ loại chất nổ điện xoẹt sát hại cá bừa bãi chắc rồi cũng chẳng còn đủ cá ăn chứ nói chi tới loài linh ngư như cá Pla Beuk hay cá Dolphin Pakha.
Câu chuyện giang nhạn và cá Pakha, ngày truyền thống hội cá Pla Beuk như đưa Cao về một quá khứ rất xa của nền văn minh sông Mekong nay đang có nguy cơ bị tiêu vong.
Trong tâm cảnh đó, Cao và người bạn Thái Cham Sak rời khách sạn tới quán Nam Phou để gặp Fuji, viên đại diện của Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB). Nam Phou nằm trên Đường Thanon Pangkham, là nơi lui tới của khách từ các Tòa Đại Sứ, nhân viên Liên Hiệp Quốc, các chuyên gia Úc và các tay doanh thương Thái Lan, Nhật, Hồng Kông và dĩ nhiên cả bọn nhà báo. Nơi đây thực đơn Pháp là chính nhưng vẫn có thể gọi thức ăn Lào kiểu Hoàng Gia hay kêu món blue cheese hamburger kiểu Mỹ. Quầy rượu thì đủ thứ, nếu đã quá quen với rượu vang Pháp, khách có thể nếm thứ rượu nhập cảng từ Đông Âu, rượu chát Sofia rất ngon từ Bulgaria.
Chủ quán là một phụ nữ Lào lịch lãm kiểu Tây Phương. Cô ta ở cái tuổi xấp xỉ 40, vẻ đẹp điềm đạm và phúc hậu, mái tóc đen cuốn cao ngực tròn đầy nhưng vẫn thanh gọn trong chiếc áo lụa ngà mỏng và quấn quanh một chiếc váy bằng vải dệt theo lối y phục cổ truyền của xứ Lào. Nam Phou ngoài thức ăn ngon, khung cảnh thanh lịch và cách phục dịch thì ‘’impeccable’’. Giá trung bình một bữa ăn cho một người là 9 ngàn kip 180 tờ giấy bạc 50 đồng có hình đập Nam Ngum, nghĩa là khoảng 1/10 lợi tức hàng năm của người dân Lào.
Fuji người Nhật đầy quyền uy là nhân viên cao cấp ADB (Ngân Hàng Phát Triển Á Châu) cũng tới quan sát thực địa để tài trợ cho các kế hoạch Phát triển vùng Lưu Vực Lớn Sông Mekong GMS (Greater Mekong Subregion). Hắn không chống lại các khoản tài trợ cho nước Lào nhưng giọng nói thì đầy khinh bạc:
- Các ông biết chứ, Lào là xứ sở cuối cùng của Á Châu mà người ta muốn đổ tiền vào, hàng triệu Mỹ kim cũng chỉ để làm lụn bại thêm xứ sở này. Người Úc tới xây cầu, người Nhật đổ vào những đoàn xe bus, Thái Lan thì lập những đội phá rừng mở đường cho những Công Ty Liên Quốc (Consortium) giành giật những con sông xây đập thủy điện. Cuộc sống người dân Lào có khá hơn gì không thì chúng ta không cần biết miễn sao thấy lương tâm yên ổn...
Vẫn giữ bình tĩnh nhưng Cao giọng nghiêm khắc:
- Không phải cuộc sống người dân Lào có khá gì hơn không mà ông phải hỏi là họ sẽ cơ cực ra sao khi họ mất hết nhà cửa, sinh cảnh sông ngòi bị phá hủy bởi hàng chuỗi những con đập do ngân hàng các ông tung tiền vào rồi thật giản dị bảo các nhà thầu ‘’Làm đi’’.
Fuji rơi vào thế tự vệ và bào chữa
- ADB thì đã tài trợ và Ủy Hội Sông Mekong đóng vai điều hợp cuộc nghiên cứu của Tổ Hợp Tham Vấn về những ảnh hưởng tích lũy của các con đập trên hệ sinh thái và xã hội vùng lưu vực hai con sông Se Kong và Se San. Tổ hợp này có sự tham gia rộng rãi của UK Engineering Firm của Anh, Electric Power Development Co. International của Nhậ và MK Centennial của Mỹ họ đang đi vào cuộc khảo sát chi tiết để chứng minh ‘’sự bền vững hài hòa sustainability, khi sử dụng nguồn tài nguyên tái sinh renewable resourse, đã sản xuất năng lượng mà vẫn không gây hậu quả ô nhiễm trên toàn thể hay riêng trong vùng.’’
Đến lượt Tiến Sĩ Cham Sak giọng gay gắt: - Chắc ông Fuji phải thừa biết ngay từ đầu kết luận cuộc nghiên cứu kéo dài 20 tháng của Tổ Hợp Tham Vấn ấy sẽ ra sao chứ. Dựa theo kinh nghiệm quá khứ của nước Thái Lan chúng tôi với hơn 30 con đập đã hoàn tất, người ta có thể tiên đoán mà không sợ sai lầm là Nhóm Khảo Sát sẽ đi tới kết luận rằng hậu quả xã hội và môi sinh của tất cả những con đập trên lưu vực hai con sông Se Kong Se San ‘’sẽ không có gì là nghiêm trọng, có thể chấp nhận được và có thể giả thiểt’’ hoặc ‘’kế hoạch ấy là có giá trị bền vững hài hòa và có thể chấp nhận được về phương diện môi sinh (sustainable and environmentally acceptable).’’ Thiếu vô tư và thiên vị như vậy sẽ chỉ đưa tới thảm họa cho những người dân sống trong vùng.
Fuji quay sang hỏi ngược lại như một thách đố:
- Trước khi đầu tư hàng trăm triệu đô la vào xứ sở nghèo nàn đầy bất trắc này, ADB đã chi thêm hàng triệu đô la khác chỉ để làm yên lòng các nhà tranh đấu môi sinh như các ông, vậy các tổ chức NGO’s các ông còn đòi hỏi gì ở chúng tôi nữa chứ!
Không chút nhân nhượng, Cao đáp Lại:
- Có chứ! Thay vì các ông cứ đẩy tới tiến trình xây thêm đập, thì trước hết hãy tập trung nỗ lực hoàn tất một cuộc lượng giá ‘’trung thực và công khai hóa’’ có nghĩa là trong mọi trường hợp, chính người dân sống hai bên bờ những con sông ấy sẽ có tiếng nói cuối cùng rằng phát triển nào là hài hòa, dạng năng lượng nào là sạch, chứ không phải mọi quyết định là từ ADB...
Hai người rời quán Nam Phou vào trước nửa đêm. Fuji thì vẫn còn ở lại và uống rượu như hũ chìm. Bên ngoài trời mát dịu với những cơn gió nhẹ từ sông Mekong thổi vào, trên bầu trời là vầng trăng tròn tỏ, đêm nay là đêm trăng rằm. Nơi xứ Phật thì là ngày đi chùa ăn chay và tụng niệm. Sinh hoạt quen thuộc của mỗi buổi mai trên đất Chùa Vàng Xứ Phật là hình ảnh các vị sư áo vàng đi khất thực, dân chúng đứng hai bên đường cúi lạy và cung kính dâng xôi. Đấy cũng là cảnh cũ nơi ngôi làng Na Bon năm xưa nay đã chìm sâu dưới đáy Hồ Nam Ngum. Có điều mà dân làng Na Bon đã không hề biết là số phận của họ đã được người bên ngoài quyết định cách đây từ hơn 40 năm trước và họ cũng chưa bao giờ được hỏi ý kiến.
Và rồi đây liệu còn biết bao nhiêu ngôi làng như Na Bon trên Cao Nguyên Na Kay sẽ cùng chung một số phận do quyết định của những con người phũ phàng không tình cảm và xa lạ như Fuji.
Tiến Sĩ Cham Sak Giáo Sư Kinh Tế Đại Học Thammasat Bangkok được biết đến như một nhà hoạt động môi sinh cấp tiến. Theo ông qua kinh nghiệm Thái Lan, thì khác xa với những hứa hẹn khi xây đập lập các khu kỹ nghệ là để đem lại thịnh vượng cho nhân dân nhưng thực ra chỉ đem lại giàu có cho một thiểu số chủ hãng bóc lột với cái giá phải trả là sự tàn phá rộng lớn trên môi sinh. Ông đưa ra nhận xét tiếp:
- Như ông cũng đã thấy ở Thái Lan, phồn thịnh kinh tế chỉ là ảo tưởng. Nó che dấu tình cảnh bất lợi của đa số người dân. Nếu cứ khăng khăng cho rằng phát triển đất nước theo phương cách ấy là thật sự thành công: nhưng mà là thành công cho ai? Đúng là cho thiểu số các nhà kỹ nghệ doanh nghiệp nhưng cho đa số dân chúng thì dứt khoát là không.
Đập Nam Ngum trên tờ giấy bạc 50 kip. Như một trớ trêu của lịch sử, khi Tòa Đại Sứ vĩ đại của Liên Xô vừa mới xây xong ở Vạn Tượng, cũng là năm Lào phải chứng kiến sự xụp đổ của khối Đông Âu và Liên Xô. Không còn chọn lựa nào khác, một lần nữa các lãnh tụ cộng sản Lào lại theo chân đàn anh Việt Nam, cũng bắt đầu áp dụng một chánh sách mở cửa nhưng họ tránh không muốn gọi là Đổi Mới (Glasnost) mà được biết đến qua tiếng Lào là (Chin Thanakaan mai), có nghĩa là Ý Mới, Tư duy Mới: Bãi bỏ hàng rào mậu dịch, chuyển qua kinh tế thị trường và cho nông dân quyền tư hữu đất đai. Bức Màn Tre đã rơi xuống và dấu búa liềm đã được kín đáo xóa đi trên bảng quốc huy của Lào. Từ ngày có ‘’Tư Duy Mới’’ Nam Ngum trở thành một tụ điểm du lịch. Là đập thủy điện lớn đầu tiên trên đất Lào cách Vạn Tượng 90 cây số về hướng Bắc.
Cao chọn Quốc Lộ 13 thay vì 10 để có thể qua thăm làng Lai nơi nổi tiếng về thủ công nghệ và đồ xứ. Anh cũng kịp tới phiên họp chợ sớm của các sắc dân miền núi ở Thị Trấn Phon Hong, chợ sớm vì họp từ sáng tinh mơ và chợ tan lúc 9 giờ sáng.
Hồ chứa đập Nam Ngum lớn hơn một phần ba diện tích Đảo Singapore, là một cảnh tượng vô cùng ngoạn mục đối với du khách: Nước thì trong xanh, với thấp thoáng chấm phá hàng trăm những cồn và đảo nhỏ nơi cư trú của những loài chim và rắn nước và chân trời xa là cảnh sắc núi non như bức tranh thủy mạc không phân biệt được đâu là cuối bãi cuối bờ. Thật khó mà tin rằng đang có cả một khu rừng ở dưới đó với nguyên vẹn những cây gỗ trắc quý đã không được khai thác trước khi ngập nước và cả một ngôi làng Na Bon với hơn 600 nóc gia đã bị dìm sâu. Dân làng Na Bon thì thất tán đi tứ phương bắt đầu cuộc sống vô định và không được phần trợ giúp nào. Mất làng mất ruộng lại chưa quen canh tác trên rẻo cao, họ chỉ biết phá rừng bừa bãi để có đất làm rẫy. Hậu quả là những triền núi trọc bị nước mưa sói mòn hết lớp đất màu mỡ chỉ còn trơ lại những lớp đá. Đất liên tục trút xuống hồ mau chóng làm cạn con đập. Giống như số phận những con đập ở Thái Lan, đập Nam Ngum đã có triệu chứng bị thiếu nước và trở thành vô dụng trong một tương lai không xa.
Cảnh người đã vậy, số phận thú rừng cũng chẳng hơn gì. Nếu không bị chết chìm ngay thì cũng bị tù hãm trên những cồn nhỏ giữa hồ, nếu chưa bị chết đói thì cũng bị săn giết như những con thịt. Cá cũng không sống được khi mà lá cây rừng bắt đầu bị thối rữa, nước mất hết dưỡng khí và trở nên nặng mùi, đến cả ánh sáng mặt trời cũng không thể chiếu qua. Nhưng khối nước tù hãm ấy lại chính là thiên đàng cho những ổ muỗi lan truyền bệnh sốt rét sốt xuất huyết và của loài sên gây bệnh sán gan.
Cao được biết thêm là ngay dưới mặt nước trong xanh kia vẫn còn nguyên những ngọn cây không chỉ thường làm rách lưới của những ngư dân nhưng còn khiến việc di chuyển trên mặt hồ cũng trở thành bất trắc. Các tàu ngoạn cảnh chỉ chạy theo một thủy trình, đi qua những đàn sếu như đứng bất động trên bờ hay thỉnh thoảng gây động làm hoảng sợ những đàn diệc cất cánh tung bay kêu lên quàng quạc. Cao chọn ở qua đêm trên một khách sạn nổi và anh đã sử dụng tối đa insecte repellent xoa khắp các vùng hở của cơ thể để chống muỗi, thứ muỗi anopheles truyền bệnh sốt rét ác tính.
Nam Ngum được xây dựng trong những năm giông bão của chiến tranh, lúc ấy chẳng ai còn bụng dạ nào mà nghĩ tới ngôi làng nào hay khu rừng nào sẽ bị phá hủy. Con đập được hoạch định rất sớm bởi ECAFE (Economic Commission for Asia and Far East) của Liên Hiệp Quốc từ 1957. Các Cố Vấn Ủy Ban Sông Mekong, Ngân Hàng Thế Giới và nhóm chuyên viên xây đập, họ chỉ quan tâm tới kỹ thuật và những con số trong khi chánh phủ Vạn Tượng chụp ngay cơ hội để thu về ngoại tệ cho điều mà họ gọi là ‘’canh tân nước Lào’’. Và rồi con đập cũng được hoàn tất bằng tiền của Ngân Hàng Thế Giới và nhiều nước khác. Cũng khoảng thời gian đó, để hỗ trợ cho cuộc chiến tranh Việt Nam đang bước vào giai đoạn cao điểm, Hoa Kỳ ào ạt đổ tiền vào Isan xây dựng cầu cống xa lộ và cả 4 sân bay đồng thời giúp chánh phủ Thái cải thiện đời sông nông thôn bằng kế hoạch dẫn thủy, phát triển những khu trồng trọt kỹ nghệ và điện khí hóa. Mỹ cũng đổ thêm tiền vào giúp Lào hoàn tất xây đập Nam Ngum. Kết quả rất sớm là một đường cáp dẫn 30 ngàn Kilowatt từ Nam Ngum đã tới được Udon một Tỉnh Đông-Bắc Thái đang là Căn Cứ Không Quân chiến lược Mỹ thời bấy giờ. Năm 71, Nam Ngum hoàn tất giai đoạn một và đó là một ngày lịch sử khi hai Vua Lào-Thái đã gặp nhau trên một con phà lộng lẫy hoa đèn giữa dòng chính sông Mekong cùng bấm một nút nhấn để cùng một lúc điện và đô la chảy ngược chiều về hai quốc gia với những khuôn mặt quan trên rạng rỡ. Nam Ngum không những đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho Lào mà còn cung cấp điện cho vùng Trung Lào.
Lợi lộc đem về thì như thế nhưng còn cuộc sống của những dân làng Na Bon ra sao là điều rất ít được ai quan tâm tới nhưng đó lại chính là mối ưu tư của Cao. Bữa ăn chiều cũng trên khách sạn nổi trên Hồ Nam Ngum ấy, Cao được giới thiệu cho gặp Cham Thao, con chim lạc đàn của ngôi làng Na Bon ấy.
‘’Từ bao đời rồi chúng tôi quen sống và chết trên mảnh đất nơi chúng tôi sinh ra. Đang sống dưới một thung lũng phì nhiêu bên bờ con sông Nam Sane, chúng tôi đang có tất cả: Đất đai và lúa gạo, sông ngòi và tôm cá, với chùa chiền và trường học, chúng tôi đang có một cuộc sống thanh bình và hạnh phúc, chúng tôi đâu cần có con đập chúng tôi không muốn phải rời đi đâu cả! Làm sao mà chúng tôi quên được cảnh thanh bình nơi ngôi làng Na Bon ấy: Trẻ con thì bơi lội trên sông, phụ nữ trên bờ ngồi giặt rũ, đàn ông nếu không bận cầy cấy với các thửa ruộng xanh thì xuống những chiếc thuyền nhỏ đi lưới những thúng cá tươi đem về. Ngay cả những năm chiến tranh giữa quân Hoàng Gia và Pathet Lào, cả với quân cộng sản Bắc Việt, cuộc sống có khổ hơn nhưng chưa bao giờ dân làng Na Bon có ý nghĩ sẽ bỏ làng mà đi. Thế rồi một buổi sáng, tôi còn nhớ rất rõ, có Toán Kỹ Sư Nhật và một Tiểu Đội lính Hoàng Gia tới bảo chúng tôi phải dọn đi vì con đập sắp xây xong và Hồ nước sẽ phủ ngập cả ngôi làng. Chúng tôi thì vẫn không tin vì nghe nói đập xây cách xa làng tới cả trăm cây số. Lại thêm ban đêm những người du kích cộng sản Pathet Lào trở về trấn an chúng tôi rằng họ sẽ bảo vệ ngôi làng, rằng chuyện ấy chẳng thể nào xảy ra và họ sẽ cho đặc công đặt mìn phá vỡ con đập... Nhưng rồi thật là bất ngờ chỉ mấy tháng sau con nước từ xa đổ về dâng ngập hết cả nhà cửa và ruộng vườn, dân làng chỉ còn kịp chạy thoát lên núi với tay trắng.
Hai mươi lăm năm qua rồi, cuộc sống của chúng tôi cũng như bao nhiêu gia đình khác vẫn thật nghèo và chật vật. Chúng tôi nghe nói có kế hoạch bồi thường nhưng khi hỏi thì được trả lời là nhà nước không có tiền và chỉ hứa cho chúng tôi dùng điện nhưng do không có đường dẫn nên cho đến nay chúng tôi vẫn chỉ có những ngọn đèn dầu... Đấy ông xem, người ta nói cho chúng tôi nghe bao nhiêu điều lợi lộc khi xây đập thủy điện nhưng với dân làng Na Bon chỉ thấy toàn sự bất hạnh!’’
Wendy Chamberlin, Đại Sứ Mỹ hiện nay, từng là đoàn viên Đoàn Chí Nguyện Quốc Tế (IVS) vào những năm 70, nói thông thạo tiếng Lào, đã nhận định: ‘’Sau bao năm tự giam hãm sau bức mà tre, nhìn sang các nước láng giềng phát triển thịnh vượng, họ cũng muốn trở thành một thành viên trong đó’’ Họ đây là những nhà lãnh đạo cộng sản Lào già nua chỉ mong sao Lào thoát ra khỏi danh sách 25 nước nghèo nhất thế giới Đổi Mới, Tư Duy Mới (Chin Thanakhaan Mai), hay gì đi nữa chỉ thì vẫn chỉ là độc quyền của bộ chánh trị đảng cộng sản Lào. Cũng ý tưởng mới ấy nếu phát xuất từ người trí thức Lào thì bị kết án ngay là phản động. Đó cũng là tình cảnh của ba người Lào bị kết án đang bị đầy ải giam cầm trong điều kiện hết sức ngặt nghèo và có thể chết trong tù.
Chỉ với khoảng cách một thập niên, lần thứ hai trở lại thăm Lào, Vạn Tượng đang có dấu hiệu trỗi dậy sau một giấc ngủ dài. Như một con tằm vừa thoát ra khỏi chiếc kén, đất nước Lào mà biểu trưng là Vạn Tượng đang có những chỉ dấu của môt xã hội tiêu thụ với những bảng hiệu quảng cáo ‘’Xuất Nhập Cảng’’ bằng tiếng Anh treo khắp nơi, bắt đầu tràn ngập các hàng nhập từ Thái Lan Nhật và Trung Hoa. Thanh niên thiếu nữ Lào bây giờ thì biết là họ muốn gì: Thích phóng xe gắn máy Nhật, thích quần Jean Levi từ Mỹ và nhạc Rock từ Thái Lan, ban đêm họ rủ nhau ra bờ sông Mekong dạo mát uống cà phê uống bia và yêu đương. Thay cho mấy chiếc 4CV Renault cũ rỉ, xe hơi mới kể cả Mercedes bắt đầu xuất hiện trên những đường phố chật hẹp. Phi trường đang được mở rộng với đường bay mới. Chánh phủ Lào luôn luôn được các chuyên gia ngoại quốc nhắc nhở rằng tài nguyên của họ rất phong phú và chưa được khai thác: vàng đá quý than sắt và nhất là thủy điện, chỉ mới khai thác 1% của 18 ngàn megawatt và các nhà lãnh đạo cộng sản Lào đang ôm mộng biến Lào trở thành xứ ‘’Kuwait về thủy điện’’. Thái Lan vẫn là khách tiêu thụ điện chính của Lào và Ngoại Trưởng Thái đang viếng thăm Lào đã dục rã: ‘’Các dự án thủy điện của Lào cũng như nàng Công Chúa còn im ngủ, phải chờ có vị Hoàng Tử, phải hiểu là Thái Lan, tới đánh thức nàng dậy.’’ Và bây giờ không phải chỉ một mà có quá nhiều ‘’ông hoàng thô bạo’’ là các consortium liên quốc đang đổ xô vào Lào để chiếm hữu những con sông đang vui xôn xao và rồi bắt phải câm nín.
CHƯƠNG XII
BIỂN NGỌT Ở ĐÂU XA
KHÚC VĨ CẦM TONLÉ SAP
Biển hồ cực lắm em ơi
Ban đêm sẻ cá, ban ngày phơi khô
Tin AFP 3.6.98: Tổ chức UNESCO tuyên bố công nhận Biển Hồ của Cam Bốt là Khu Bảo Tồn Sinh Thái Quốc Tế (International Biosphere Reserve), cùng với 337 kỳ quan thiên nhiên khác trên thế giới. Sự công nhận này giúp bảo vệ Biển Hồ và cũng khiến chánh quyền Cam Bốt tham gia vào sự phát triển hài hòa trong vùng...
Phản ứng từ các thành viên Nhóm Bạn Cửu Long rất khác nhau, riêng Cao đón nhận bản tin ấy với niềm vui và cả sự lạc quan. Cao cũng không ngạc nhiên bởi vì anh cũng đã biết và theo dõi các bước vận động trong những năm gần đây của các nhà môi sinh Cam Bốt muốn Biển Hồ được công nhận là vùng bảo tồn của thế giới. Bảo tồn hệ sinh thái Biển Hồ cũng là gián tiếp bảo vệ môi sinh cho Vùng Đồng Bằng Châu Thổ Cửu Long. Kể từ khi con sông Mekong trở thành mối quan tâm của Cao thì tập hồ sơ về Biển Hồ của anh không ngừng ngày một dày thêm kể cả phần quan sát thực địa.
Chuẩn bị cho chuyến đi Úc, vẫn với phong cách làm việc của một nhà báo, Cao muốn cập nhật phần homework cho riêng anh và cũng là để giúp Bé Tư có một cái nhìn thoáng và toàn cảnh về Việt Nam trong vùng Đông Nam Á
Biển Ngọt trên vùng đất hồi sinh.
Bưng Tonlé Sap tiếng Khmer có nghĩa là Hồ Nước Ngọt, người Hoa đọc ra là Thôn Lôi Hồ người Việt gọi là Biển Hồ là Hồ thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á, cách Nam Vang 80 dặm về hướng Tây-Bắc giống hình số 8 theo ngôn từ của các tay đo đạc nhưng thơ mộng hơn thì bảo giống như thùng đàn vĩ cầm, một tặng dữ thiên nhiên quý báu không chỉ cho dân tộc Khmer mà còn cho nông dân vùng châu thổ. Hồ rộng mênh mông, bề dài 160km rộng hơn 30km đứng bên này ngó sang chỉ thấy trời với nước không thấy đâu là bờ bãi, điều hòa lưu lượng nước con sông Mekong dũng mãnh, như trái tim của Cam Bốt và là một kỳ quan thứ hai sau Khu Đền Đài Angkor. Phân nửa dân số Cam Bốt sống trong bảy Tỉnh bao quanh Biển Hồ, ngoài nguồn tôm cá phong phú thì lúa gạo cũng chiếm gần phân nửa tổng sản lượng của cả nước.
Có thể nói Biển Hồ chính là mạch sống của người dân Cam Bốt. Theo kế hoạch của Bộ Điều Hợp Môi Sinh Cam Bốt thì trong khoảng diện tích 300 ngàn hecta có ba phân khu rất đặc thù sẽ trở thành vùng bảo tồn (core areas) với hệ sinh thái được giữ nguyên vẹn và là đối tượng cho các cuộc nghiên cứu khảo sát khoa học: Khu Prek Toal gần Thị Trấn Siem Reap, Khu Boeung Chmaa một Hồ nhỏ phía Đông thông với Biển Hồ và Steung Sen là con sông phía Nam chảy vào Biển Hồ với rừng lũ và các loài động và thực vật rất đặc thù đang có nguy cơ bị tiêu diệt (endangered species), như giống báo vằn mèo đốm cầy hương, các loài chim lạ và cả giống cá sấu Xiêm La. Phần còn lại sẽ được quy hoạch thành các vùng đệm (buffer areas) và vùng chuyển tiếp (transition areas) với các hoạt động kinh tế ở những mức độ triển khai khác nhau. Quyết định của UNESCO như mặc nhiên công nhận giá trị lịch sử và môi sinh của Biển Hồ, đồng thời sẽ mang lại nguồn tài trợ phong phú và sự quan tâm của thế giới đối với các bước phát triển hài hòa trong vùng.
Mặc cho những toan tính lợi hại thiệt hơn của con người ra sao, con sông Mekong và cả Biển Hồ vẫn cứ tiếp tục nhịp điệu từ ngàn năm. Vào tháng 6, cùng với tuyết tan từ rặng Hy Mã Lạp Sơn và khối nước mùa mưa, con sông Mekong vốn trải rộng mênh mang nay càng thêm vẻ hùng vĩ, nước dâng cao tạo ra một hiện tượng kỳ lạ con sông Tonle Sap tự đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ đồng thời mang theo những giống cá tranh nhau đi tìm các khu rừng lũ (flooded forest) để sinh nở và diện tích hồ tăng gấp năm lần, khoảng 1.5 triệu hecta chiếm 1/7 diện tích đất đai Cam Bốt, mực nước có nơi sâu tới 15 mét. Dưới bầu trời sấm chớp và mây đen vần vũ, giữa gió to sóng lớn lênh đênh trên Biển Hồ mà tưởng như đang trôi dạt giữa một đại dương. Khi trời quang mây tạnh thì Biển Hồ và cả con sông Mekong vẫn cứ lênh láng, nhưng dưới làn nước màu café au lait ấy là sức sống bừng bừng xủi bọt của mầm non và cá.
Vào những ngày cuối tháng 10, gió đổi chiều. Trước đó là gió nồm thổi vào từ Vịnh Thái Lan, nay là những cơn gió bấc thổi mạnh xuống từ phương Bắc làm cuộn sóng Biển Hồ và con sông Tonlé Sap. Sang tháng 11 mùa khô Biển Hồ đã lại đầy nhung nhúc những cá, con sông Tonlé Sap trở lại xuôi dòng về Quatre Bras (tên do người Pháp đặt khi đến bảo hộ xứ Cam Bốt 1863) nơi hội tụ bốn dòng sông gần Nam Vang ba sông kia là Mekong Thượng, Mekong Hạ và sông Bassac hai nhánh sau này trở thành Sông Tiền và Sông Hậu khi chảy vào Nam Việt Nam.
Đợt cá sớm theo con nước rời Biển Hồ xuống Hạ Nguồn là loại cá trắng: Cá chép, cá hô, cá trích, cá linh, cá thu nước ngọt... đây là lúc nguồn cá thật dồi dào từ biên giới xuống tới miền trên hai con Sông Tiền và Sông Hậu, cá nhiều tới nỗi dư ăn và làm mắm cũng không hết nhất là cá linh phải chất đống để làm phân bón rẫy. Riêng loại cá đen: Cá lóc, cá rô, cá bông, cá trê...có mang hấp thu oxy từ khí trời sống được trong bùn nước cạn nên còn ở lại Biển Hồ và trong đêm sương lạnh người ta thường gặp loại cá đen đi bộ (Anabas Scandens), dùng vây ngực sau mang nâng mình lên và dùng đuôi trườn mình tới để di chuyển trên bộ tới trũng nước sâu hơn.
Vào tháng 2 mặt hồ co lại chỉ còn khoảng 300 ngàn hecta lúc đó Biển Hồ như ‘’một nồi súp đầy rau tươi và cá’’.
Sự co giãn của Biển Hồ đem lại vô số lợi lộc không những cho người dân Cam Bốt mà còn cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Biển Hồ giảm thiểu lũ lụt, đem lớp phù sa màu mỡ tới khắp ruộng đồng và sau cùng là nuôi dưỡng một vựa cá giàu có với hơn 300 giống cá năng suất lên tới 10 tấn trên mỗi km2 và là nguồn protein chính cho người dân Cam Bốt.
Hàng năm nơi Quatre Bras khoảng cuối tháng 10 khi con sông nước ngọt Tonle Sap trở lại xuôi dòng để ra biển mặn là lúc bắt đầu những ngày hội lễ Mùa Nước Giựt Bom Oum Touk khởi đầu cho mùa cày cấy và chài lưới rộn rã với những mẻ lưới nặng trĩu vẫn còn là một cảnh tượng kỳ diệu gây kinh ngạc đối với những barang, người ngoại quốc và chính Cao nữa.
Nhưng giữa sự sung túc đó là cả một hệ sinh thái rất mong manh đang có dấu hiệu ló dạng một thảm họa môi sinh (ecological disaster). Chưa tới mức ô nhiễm các chất phế thải kỹ nghệ nhưng theo Carbonnel thì Biển Hồ đang bị lấp cạn với tốc độ chưa từng thấy: 4cm mỗi năm, ngoài phù sa từ con sông Mekong còn thêm hàng tấn đất lở liên tục trút xuống hồ do các khu rừng lũ bị tàn phá.
Điển hình là trong khu Snuoc Tru đất lấp cao tới mức nước con sông Mekong đã rất khó khăn để có thể chảy ngược vào Biển Hồ.
Tình trạng thảm hại hơn dưới thời Pol Pot với chủ trương phá rừng lũ quanh Hồ để có thêm đất canh tác. Chưa bao giờ mực nước cạn như những năm qua, trong mùa khô có nơi chỉ còn sâu chưa tới nửa mét, nước thì quá nóng khiến loại cá trắng không sống nổi chết nổi phều hoặc phải thoát xuống dưới các khúc sông Hạ Lưu. Từ những năm 60, ông Hoàng Sihanouk không chỉ muốn biến Cam Bốt thành Thụy Sĩ của Viễn Đông mà ông còn muốn Biển Hồ nơi mà thời trai trẻ ông đã từng vùng vẫy bơi lội và trượt nước, một ngày nào đó sẽ trở thành Khu Di Sản Thế Giới (World Heritage Site) nhưng rồi đã gặp chống đối mạnh mẽ của các nhà phát triển vì quyết định ấy có thể cản trở các dự án xây Đập Thủy Điện trên con sông Mekong ‘’sẽ ngăn chặn sự canh tân nước Cam Bốt’’ [sic]
Xót xa ngoài biển mặn.
Hàng năm con sông Mekong đã phí phạm đổ ra biển 475 tỉ mét khối nước ngọt tạo ra hai thung lũng biển từ cửa sông ra tới ngoài biển sâu, cùng với lượng phù sa lớn lao bồi đắp thành một thềm lục địa hình bán nguyệt ra xa tới 400km.
Nước lũ Sông Cửu Long 40 ngàn m3/giây gấp đôi lũ Sông Hồng nhưng nhờ có Biển Hồ nên chỉ dâng lên từ từ để làm ngập trên cả triệu mẫu đất trong Vùng Châu Thổ. Lưu lượng con sông ấy mùa nước kiệt chỉ còn 2 ngàn m3/giây từ tháng 3 đến tháng 5 trong khi nhu cầu nước cho sanh hoạt châu thổ trong khoảng thời gian này là 4 tới 5 ngàn m3/giây và nhu cầu ấy dự trù tăng gấp đôi vào giữa Thế Kỷ 21. Nếu không có chương trình giữ nước ở thượng lưu như trên Biển Hồ để có thể cung cấp nước trong mùa khô thì sẽ có hạn hán, sẽ thiếu nước để làm vụ lúa mùa nắng, lại thêm nạn nhiễm mặn và sông cạn ngăn trở tàu bè giao thông lên tới Nam Vang.
Khác xa với những con sông khác trên thế giới, đã tới cuối Thế Kỷ này con sông Mekong với độ dốc và dòng chảy mạnh như thế, rất lý tưởng cho các đập thủy điện vậy mà tương đối vẫn là một con sông còn khá nguyên vẹn cho dù đã có những kế hoạch khai thác từ hơn nửa Thế Kỷ trước. Không kể các đập Vân Nam, đã có ba dự án vùng hạ lưu được coi là ưu tiên của Ủy Ban Sông Mekong từ những năm 60:
Dự án Pa Mong cách Vạn Tượng 15 dặm là đập chứa nước chính Vùng Hạ Lưu sông Mekong. Ngoài nguồn thủy điện với công suất 2000 MW, Hồ nước cao 360 bộ dung lượng gấp hai lần rưỡi đập Hoover của Mỹ, cung cấp nước cho 2 triệu rưỡi mẫu Anh trên cao nguyên Isan khô cằn, cải thiện giao thông và phát triển cho toàn vùng Đông-Bắc Thái.
Dự án Sambor cách Nam Vang 140 dặm về hướng Bắc mở ra thủy lộ giữa Lào và Cam Bốt, tạo nguồn thủy điện với công suất 1000 MW đủ cung cấp cho nhu cầu kỹ nghệ, dân dụng và bơm tưới các vùng đất Cam Bốt và Nam Việt Nam.
Dự án Tonle Sap được coi là hấp dẫn nhất không chỉ là đập thủy điện mà là một hồ chứa thiên nhiên đủ cung cấp nước cho hàng triệu mẫu đất trong mùa nắng. Công trình dự trù sẽ là một đập chắn nơi cửa sông giữa Nam Vang và Biển Hồ. Cửa đập mở ra trong mùa mưa để khối nước lũ theo con sông Tonlé Sap chảy ngược vào Biển Hồ tới mức dự trữ cao nhất như vậy sẽ giảm thiểu lụt nơi đồng bằng.
Đến mùa nước thấp cửa đập sẽ được mở ra từng phần duy trì lưu lượng nước đủ cho canh tác, ngăn mặn đồng thời giữ mức sông đủ sâu cho tàu biển lớn vẫn có thể ra vào sông Mekong. Và như vậy sẽ tăng thêm 2 triệu rưỡi mẫu Anh đất canh tác mà trước đây bỏ hoang vì muối phèn, hạn hán hay lũ lụt. Và mực nước Biển Hồ sẽ luôn luôn được giữ ở mức cao hơn một mét so với mùa nước thấp sẽ làm gia tăng lượng tôm cá đang có nguy cơ bị sa sút.
Trong khi dự án Tonlé Sap rất được Việt Nam quan tâm, một lần nữa được nêu ra trong hội nghị Ủy Ban Sông Mekong 1988 tại Sài Gòn thì Cam Bốt lại có quan điểm hoàn toàn khác, cho rằng dự án chỉ có lợi cho Việt Nam có nghĩa là hại cho Cam Bốt. Trước thái độ bất hợp tác của Cam Bốt, Ủy Ban Sông Mekong đã phải hết sức kiên nhẫn thuyết phục, một việc làm không dễ dàng gì khi mà gia tài thù hận Việt Khmer trong suốt ba Thế Kỷ chưa hề có dấu hiệu phai lạt nếu không muốn nói còn tích lũy thêm trong suốt chiều dài của cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Đặt dự án sông Mekong giữa những cuộc tranh chấp chánh trị giai đoạn trong vùng có thể làm tiêu ma mọi ý hướng tốt đẹp về hợp tác và phát triển hài hòa cho toàn vùng Đông Nam Á. Tinh thần sông Mekong phải là nguồn cảm hứng, chủ động và nhiệt tâm của chính các nước trong vùng chứ không để hoàn toàn bị khống chế bởi Trung Hoa Thái Lan hay bởi các thế lực tư bản bên ngoài như các Consortium liên quốc, Asian Development Bank hay World Bank với trụ sở ở mãi tận bên Nữu Ước.
Từ Phù Nam tới Chân Lạp và gia tài thù hận Việt Khmer.
Lịch sử lập quốc của Cam Bốt đã có rất nhiều khoảng trống và cả những khác biệt giữa các Nhà Sử Học Tây Phương. Cao thì có phần hồ sơ của riêng anh.
Từ Thế Kỷ thứ nhất nhóm người Môn Indo-Melanésien sống trong Vùng Hạ Lưu Sông Mekong với ảnh hưởng sâu đậm văn minh Ấn đã lập nên Vương Quốc Phù Nam. Sinh hoạt chủ yếu là thương mại với các thuyền bè từ Ấn ghé qua Hải Cảng Óc Eo, họ còn giao thương với các quốc gia lân bang phía Bắc sang tới tận Trung Hoa.
Để có thêm hàng hóa, họ tiến sâu vào lục địa khai thác bóc lột các sắc dân khác. Ảnh hưởng văn hóa Phù Nam có thể đã vươn xa tới Bán Đảo Mã Lai hay ít ra cũng tới U Thong cách Bangkok 60 dặm về hướng Tây-Bắc Jean Boisselier Đại Học Sorbonne 1964 đã phát hiện nhiều di chỉ của thời kỳ Phù Nam trong vùng này. Do bị áp bức quá mức, ‘’những người con Kambu’’ vùng Trung Lưu Sông Mekong đã nổi lên đánh đuổi người Phù Nam và đến Thế Kỷ thứ 7 đã tiêu diệt luôn quốc gia này và lập nên nước Chân Lạp. Do luôn luôn có tranh chấp giữa các dòng Vua Khmer, Chân Lạp bị phân chia thành Lục Chân Lạp Nam Lào hiện nay và Thủy Chân Lạp khu vực Biển Hồ và Hạ Lưu Sông Mekong, tới Thế Kỷ thứ 8 thì Chân Lạp bị phân rã thêm thành 5 lãnh địa khác nhau và bị người Mã Lai đô hộ.
Mãi đến Thế Kỷ thứ 9, một vị vương Khmer đã kết hợp dân chúng vùng dậy đánh đuổi người Mã Lai giành lại độc lập mở ra triều đại Angkor Jayavarman II, chọn Bà La Môn làm Quốc Giáo với Kinh Đô xa bờ sông Mekong để tránh các cuộc tấn công đường thủy của các nước lân bang. Nhưng các cuộc chiến vẫn xảy ra giữa Angkor Khmer với Champa, Xiêm La và cả với Việt Nam. Vào Thế Kỷ 12, cả một đoàn chiến thuyền dũng mãnh Champa đã ngược dòng sông Mekong vào Biển Hồ ngược dòng Siem Reap tấn công tàn phá Angkor Khmer. Phải tới những triều đại sau, đến đời Jayavarman VII, Angkor Khmer mới lại hồi phục. Những phù điêu trong đền Bayon còn ghi lại các trận chiến giữa Angkor và Vương Quốc Champa và người Khmer gọi người Chăm là yavana theo Sanskrit có nghĩa là rợ nước ngoài.
Vào cuối Thế Kỷ 13, một người Trung Hoa tên Châu Đại Quán (Chou Ta Kuan) trở về Trung Hoa, đã kể lại chuyến du hành từ Biển Đông theo sông Mekong lên Biển Hồ để tới thăm Angkor.
Các Vua triều đại Angkor đã luôn luôn tập trung một lực lượng nô lệ khổng lồ cùng với sưu dân Khmer để không ngừng xây dựng các khu đền đài cho ngày thêm tráng lệ và vĩ đại hơn. Cả nhóm người Thái từ cao nguyên Vân Nam trốn giặc Mông Cổ xuống lập nghiệp dọc Lưu Vực Sông Menam (Chao Phraya) cũng bị bắt về làm khổ sai. Angkor trở thành vùng đất thống khổ không chỉ của các nhóm nô lệ mà của cả chính những người dân Khmer nữa. Do bất kham nhiều người đã liều mạng phải trốn đi (they voted with their feet), nói theo các Nhà Sử Học Tây Phương.
Tới Thế Kỷ 14 do quá chán ghét tinh thần bạo lực của Bà La Môn, một số Vương Tôn Khmer đã hướng về triết lý hiền hòa của Phật Giáo, tranh chấp tôn giáo lại diễn ra và cuối cùng Phật Giáo thắng thế và trở thành Quốc Giáo nhưng chỉ ảnh hưởng tầng lớp trên cao.
Lịch sử Cam Bốt sau đó vẫn không ngừng là những chu kỳ của bạo lực và phân hóa. Cả Phật giáo và ý thức quốc gia dân tộc cũng không đủ là mẫu số chung để hóa giải những tỵ hiềm thù nghịch ngay giữa những người con Kambu với nhau.
Lợi dụng sự chia rẽ và cả thất nhân tâm của Triều Đình Angkor, từ Thế Kỷ 14 các Vua Xiêm bắt đầu tổ chức những cuộc xâm lăng đánh phá. Cuộc chiến kéo dài ngót một Thế Kỷ với kết thúc là sự thất trận của Angkor và cả Đế Đô đã bị Thái thiêu rụi phá sạch và người Khmer bị bắt hết đem về Thái làm nô lệ. Sự hủy diệt tàn bạo và triệt để của Xiêm La đã biến Vùng Tây-Bắc Biển Hồ thành khu đất chết vùng đất không người (no man’s land), khiến trong suốt mấy Thế Kỷ cả một nền văn minh Angkor rực rỡ và lầm than ấy hầu như hoàn toàn bị xóa nhòa trong ký ức của những người Khmer chạy thoát và sống sót.
Từ Thế Kỷ 15 hơn nửa lãnh thổ phía Tây Cam Bốt đã bị sát nhập vào Xiêm La. Tới Thế Kỷ 17 Chey Chetta II một vị Vương Khmer chạy sang cầu cứu Chúa Nguyễn, từ đó Việt Nam mới thật sự can thiệp vào nội tình Chân Lạp khiến Xiêm La không còn độc quyền làm mưa làm gió trên đất Chùa Tháp nữa.
Và điều ngạc nhiên là sự suy vong của đế quốc Angkor Khmer, một biến cố trong đại như vậy lại không được các tay thương lái hay giáo sĩ người Tây Phương biết tới trong suốt một thời gian dài.
Họ chỉ biết Nam Vang là Thị Trấn thương mại nhỏ rồi Vạn Tượng trên bờ sông Mekong xa hơn nữa về phía Bắc và cũng chẳng ai biết con sông Mekong dũng mãnh ấy khởi nguồn từ đâu. Mãi tới khi Louis Napoleon lên ngôi, nước Pháp mới thực sự xông xáo vào Viễn Đông để cạnh tranh với Đế Quốc Anh. Năm 1858, Pháp tấn công Việt Nam lấy cớ bảo vệ đoàn truyền giáo Pháp bị giết, nhưng chính là để mở mang thuộc địa đem lại vinh danh và quyền lực cho nước Pháp.
Bốn Thế Kỷ sau, người đầu tiên khám phá ra khu Đền Đài Angkor (1850) có lẽ là Bouilleveaux Linh Mục truyền giáo Pháp nhưng phải chờ tới Henri Mouhot Nhà Sinh Vật Pháp trong khi mê mải vào rừng sâu tìm kiếm loài côn trùng hiếm, ông đã bàng hoàng khi thấy hiện ra trước mặt cả một Khu Đền Đài tráng lệ bị lấp khuất trong khu rừng sâu. Chính Mouhot không tin rằng có thể có một kỳ quan như Angkor biểu tượng của nền văn minh sáng rỡ rất tương phản với một đất nước Cam Bốt còn ở trình độ man rợ thời bấy giờ.
Cuộc thám hiểm của Mouhot dở dang do cái chết đột ngột vào tháng 10 năm 1861, để lại cuốn nhật ký với mấy dòng chữ cuối cùng: ‘’Bị cơn sốt rừng...’’ và rồi bốn ngày sau đó: ‘’Thương cho tôi, Chúa ôi!...’’ xác Mouhot được vùi nông ngay bên bờ sông Nam Khan một phụ lưu sông Mekong với con chó trung thành vẫn không rời xa nấm mộ chủ và vẫn tru lên những tiếng kêu thảm não. Sau Mouhot là Doudart De Lagrée-Francis Garnier biểu tượng cho một thế hệ thanh niên Âu Châu của Thế Kỷ 19, can trường và khắc kỷ, đã lại ngược dòng thám hiểm sông Mekong trong một cuộc hành trình hào hùng và bi thảm với kết thúc thất bại trong nỗ lực tìm kiếm một thủy lộ giao thương với Trung Hoa.
Gia Tài Thù Hận Việt Khmer.
Bấy lâu bị điều kiện hóa trong cảm giác thường trực bất an và luôn luôn bị ám ảnh về quá khứ bành trướng của người Việt, nên mọi chiến dịch chống Việt Nam bất kỳ trong hoàn cảnh nào vẫn đáp ứng một phần tâm tư thầm kín của người dân Khmer. Đối với các nhà hoạt động chánh trị Cam Bốt mị dân hay không thì bài xích chống Việt Nam là một bằng chứng yêu nước. Không ai ngạc nhiên cứ thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm sát ‘’cáp duồn’’ người Việt sống trên đất Cam Bốt rất ư là kinh hoàng. Lâu lâu lại có hàng trăm xác người kể cả đàn bà và trẻ em bị người Khmer chặt đầu mổ bụng thả trôi trên con sông Mekong vẫn là cảnh tượng hãi hùng gây xúc động cho toàn thế giới. Không cần che dấu ngay giữa Thủ Đô Nam Vang trên những bức tường những dòng chữ khích động chiến dịch giết hết người Việt trên đất Cam Bốt, cả bằng chữ Pháp chữ Anh nhắm vào đám ký giả ngoại quốc: We must kill all Viets in Cambodia. Thời Khmer Đỏ, Pol Pot không chỉ giết Bọn Bắc (Yuon) tên gọi miệt thị người Việt, mà còn tra tấn sát hại rất nhiều người Khmer bị nghi là thân Việt Nam với tội danh bọn xác Khmer hồn Việt, như thứ cỏ dại cần phải tiễu trừ. Rồi cũng Pol Pot tố cáo ngược lại chính Việt Nam mới là thủ phạm của bấy nhiêu sọ người trên khắp Những Cánh Đồng Chết ở Cam Bốt và không phải là không có những người Khmer cả tin như vậy.
Câu chuyện kể hàng chục ngàn sưu dân Khmer bị Bảo Hộ Thoại Ngọc Hầu bắt làm khổ sai đào con kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc ra tới Hà Tiên vào đầu Thế Kỷ 19 với bao lầm than chết chóc, rồi chuyện quái đản của người Pháp về ‘’Vị Quan Triều Nguyễn Trương Minh Giảng chôn sống ba người Khmer ngập tới cổ rồi dùng đầu họ làm kiềng ba chân đặt nồi nấu cơm’’. Thật và không thật, các chuyện ấy vẫn được những người Khmer chống Việt Nam rêu rao như một bằng chứng hành hạ độc ác của người Việt.
Con số người Việt hiện ở Cam Bốt là 200 ngàn, 400 ngàn, một triệu, không ai biết chắc. Cũng như không ai biết chắc dân số Cam Bốt còn lại là bao nhiêu: 5 triệu, 7 triệu, có thể đã lên tới 9 triệu do sinh đẻ vụt gia tăng thời kỳ sau Pol Pot. Đám người Việt ấy cư ngụ dọc theo sông Mekong, là những bạn biển tập trung quanh Biển Hồ, khá giả thì sống trên nhà nổi còn không thì sống trên những nhà sàn tạm bợ chênh vênh trên những cây cột cao có thể gỡ ra chất lên ghe xê dịch trên mặt Hồ theo mùa nước lên xuống. Đa số sống bằng nghề hạ bạc đánh cá làm cá thuê vô cùng vất vả. Cực thì có cực nhưng họ đã đặt chân trên một vùng đất lên dễ khó về.
Nam Vang lên dễ khó về
Trai vô bạn biển, gái về tào kê
Số còn lại sống bằng những nghề thủ công khéo tay: Thợ mộc, thợ may, thợ điện hay mở các cửa hàng tạp hóa buôn bán nhỏ, cũng phải kể tới một con số khá lớn những cô gái Việt tào kê trong số ngót 20 ngàn gái điếm rải rác trên khắp lãnh thổ Cam Bốt. Mức sống của đám người Việt này cũng ở nghèo khổ không khá hơn bao nhiêu so với người Khmer. Trong khi người Hoa là giới thương nhân giàu có thao túng nền kinh tế và người Thái đã từng chiếm hơn nửa lãnh thổ Cam Bốt nay đang là thủ phạm phá rừng bừa bãi và tận dụng khai thác những mỏ đá quý của xứ Chùa Tháp, vậy mà chỉ người Việt mới là mục tiêu của mọi chiến dịch bài xích và cả bạo động quá khích. Giữa nội bộ người Khmer chưa bao giờ có đoàn kết nhưng trên mặt trận chống Việt Nam họ luôn luôn là một.
Trung Hoa luôn luôn là một ẩn số. Nhìn lại Con Đường Tơ Lụa cách đây 22 Thế Kỷ khi Marco Polo từ Ấn Độ tới buôn bán với Trung Hoa, cũng trên con đường ấy đang có dấu hiệu nhộn nhịp trở lại khi mà Trung Hoa nghiễm nhiên đang trở thành một siêu cường chánh trị quân sự và kinh tế tự cho quyền hành xử như một thiên triều chuyên quyết, đơn phương khai thác con sông Mekong vốn là một con sông quốc tế, chẳng cần ethos nào để tiến tới hợp tác phát triển hài hòa trong vùng.
Trong khi các nhà chánh trị cơ hội của bốn Tiểu Quốc Đông Nam Á cứ việc nghi kỵ chia rẽ và cãi nhau bất tận thì nước lớn Trung Hoa vẫn lẳng lặng đơn phương thực hiện kế hoạch khai thác con sông Mekong của họ. Cách đây 5 năm (1993) khi mực nước con sông Mekong đột nhiên tụt thấp một cách hết sức bất thường cho dù không phải vào mùa khô, chỉ lúc đó mọi người mới biết điều gì đã xảy ra trên Tỉnh Vân Nam: Hoàn toàn không thông báo gì cho các quốc gia láng giềng, Trung Hoa đã xây xong con đập Manwan có thể coi là con đập lớn đầu tiên trên dòng chính sông Mekong và lúc đó là thời gian họ bắt đầu lấy nước sông Mekong vào Hồ chứa Manwan. Và sẽ còn thêm 8 con đập bậc thềm sau đập Manwan.
Trong cuộc hội thảo mới đây về ‘’Phát triển vùng hạ lưu sông Mekong’’ ở Melbourne Úc Châu với tham dự đông đảo đến ngạc nhiên của các nhà chánh trị ngoại giao, giới doanh thương Úc và cả nhóm bảo vệ môi sinh.
Bé Tư với tư cách là một visiting scholar Đại Học Melbourne là chuyên viên môi sinh trong Ủy Hội Sông Mekong Việt Nam đã dõng dạc phát biểu:
- Là nước ở Thượng Nguồn, Trung Hoa nghiễm nhiên ở vào vị trí thượng phong. Chẳng ai có thể bảo Trung Hoa phải làm gì và không nên làm điều gì. Đồng ý hay không thì cũng không ai trong chúng tôi có thể tới Thiên An Môn để mà biểu tình phản đối (nhiều tiếng cười trong hội trường). Nhưng điều mà chúng tôi có thể yêu cầu phái đoàn Ủy Hội sông Mekong của Bắc Kinh có mặt hôm nay là khi khai thác con sông Mekong ở tỉnh Vân Nam, liệu Trung Hoa có biết được các con đập ấy sẽ ảnh hưởng dây chuyền ra sao trên hệ sinh thái vùng hạ lưu sông Mekong hay không?
Câu hỏi của Bé Tư đã mở màn cho một loạt những chất vấn đôi lúc gắt gao hướng về đoàn đại biểu Trung Hoa. Đại diện cho đoàn, Giáo Sư Wang Chủ Tịch Phân Cục Thủy Điện Vân Nam, đầy vẻ tự tin trả lời bằng một thứ ngôn ngữ ngoại giao qua thông ngôn:
- Dĩ nhiên trước khi khởi công chúng tôi đã khảo sát rất nghiêm túc về hậu quả và ảnh hưởng các con đập Vân Nam đối với các quốc gia Vùng Hạ Lưu sông Mekong.
Khi bị hỏi tiếp ảnh hưởng đó rao sao thì ông Wang chỉ nói một cách rất chung chung:
- Trước hết các con đập Vân Nam sẽ giữ nước để gia tăng lưu lượng trong mùa khô cũng có nghĩa là giảm lũ trong mùa mưa và cải thiện thủy lộ giao thông trên con sông Mekong.
Bé Tư đã gây một ấn tượng mạnh cho toàn hội nghị bằng kiến thức vẻ đẹp thông minh tự tin và tiếng Anh rất lưu loát của cô:
- Thế Trung Hoa có trao đổi những thông tin ấy với các thành viên Ủy Hội Sông Mekong chưa?
Thì ông Giáo Sư Wang không còn bình tĩnh và trả lời giọng thách đố:
- Trung Quốc không có trách nhiệm về tất cả nguồn nước của con sông Mekong, bởi vì dọc theo suốt chiều dài của con sông ấy luôn luôn được tăng cường bởi các phụ lưu và nguồn nước mưa. Còn việc sử dụng và khai thác khúc sông Mekong trong Tỉnh Vân Nam ra sao thì đó là vấn đề nội bộ và quyền hạn của Trung Quốc.
Cũng bên lề cuộc hội thảo ấy, một Giáo Sư về Trung Hoa Học Đại Học Melbourne đã nói với Cao:
- Đối với các chuyên gia am hiểu tình hình Á Châu thì ai cũng biết là Trung Hoa chưa hề có một hồ sơ theo dõi tốt (good track record) trong những công cuộc hợp tác đa phương. Kế hoạch khai thác con sông Mekong của họ là một điển hình.
Cao nhận xét các khuôn mặt nổi bật trên bàn chủ tọa quá bán là phụ nữ, như bước vào thời đại của nữ quyền, phải chăng đó là trào lưu để bước vào Thế Kỷ mới. Đến lượt Bà Đại Sứ Thái Lan tại Úc Châu được mời phát biểu, bằng một ngôn ngữ rất ngoại giao bà hướng về các doanh nhân Úc:
- Úc là nước phát triển với kho tàng kiến thức và kỹ thuật mà các nước Đông Nam Á đang rất cần. Đây chính là cơ hội của các công ty Úc tuy đó còn là một vùng khá xa lạ... Nhưng bù lại thì Thái Lan là một nước trung tâm có mối tương quan địa dư chánh trị mật thiết với các nước khác trong vùng và bấy lâu vẫn đóng vai trò chủ chốt (anchor role) trong kế hoạch phát triển Vùng Hạ Lưu sông Mekong.
Vậy sao chúng ta lại không nghĩ tới giải pháp ‘’Liên Doanh (Joint Venture)’’ giữa Úc và Thái trong mọi kế hoạch phát triển vùng?
Phát biểu của Bà Đại Sứ Thái đã được đón nhận nồng nhiệt từ phái đoàn doanh nhân Úc nhưng lại với nhiều ngờ vực từ các nhóm bảo vệ môi sinh.
Ngồi cạnh Bà Đại sứ Thái Lan trên bàn chủ tọa là Công Chúa Simone Norodom đến từ Nam Vang. Như những người Khmer lai bà có dáng cao đẹp khỏe mạnh mái tóc vấn cao đen lánh có nét quý phái của một người xuất thân từ Hoàng Gia. Công Chúa ở cái tuổi ngoài 40 nhưng vẫn thanh gọn trong chiếc áo lụa ngà với chiếc khăn rằn krama trên cổ và quấn một chiếc váy vải dệt dày y phục cổ truyền của xứ Chùa Tháp. Bà tới đây không với tư cách đại diện cho Cam Bốt mà là Chủ Tịch Văn Phòng Môi Sinh của UNESCO tại Nam Vang. Công Chúa được coi là người có công đầu thúc đẩy tổ chức UNESCO đi tới chấp nhận Tonlé Sap là vùng bảo tồn hệ sinh thái quốc tế, giấc mộng cách đây 20 năm phụ thân cô là Hoàng Thân Sihanouk đã không đạt được.
Mải mê nhìn chiếc khăn krama vốn gốc bình dân ấy nhưng nơi bà Công Chúa lại là một trang sức đẹp đẽ. Như một flashback chiếc khăn rằn krama đưa Cao về cả một bối cảnh xã hội của những tháng năm hạnh phúc và máu me của sáu triệu dân Cam Bốt. Tấm hình Pol Pot đã già và đau yếu chụp trong chiến khu xuất hiện trên tờ báo Sidney Tribune mới đây cũng không thiếu chiếc khăn rằn trên bộ black pyjama cố hữu. Cũng chiếc khăn rằn ấy đã rất gần gũi thiết thân với người nông dân Khmer và với cả người dân Việt nơi đồng bằng Nam Bộ. Khăn che nắng gắt ngoài đồng lúa, khăn bọc rau trái đem về nhà, bà mẹ dùng khăn rằn địu con trên đường đi, khăn che thân khi xuống sông tắm, khăn quấn quanh bụng trong chiều gió mát và nếu là một cô gái đang yêu thì thêu tên người yêu lên đó và khi xa nhau anh có thể ôm vào lòng hôn lên chiếc khăn rằn và nhớ tới nàng. Không phải chỉ có vậy, dưới thời Pol Pot, thời của chua chát và đắng cay (peal chur chat), trong hoàn cảnh bi quẫn thì chiếc khăn rằn biến trở thành sợi dây treo cổ cho thoát khỏi địa ngục trần gian này.
Chiếc khăn rằn ấy cũng đã từng được dùng để bịt mắt nạn nhân trước khi hành quyết. Và trên khắp Những Cánh Đồng Chết giữa vô số những sọ người lăn lóc bên những gốc cây thốt nốt vẫn còn một hai chiếc sọ mang nguyên chiếc khăn rằn bịt ngang mắt chưa bị khí hậu và thời gian làm cho tiêu đi. Và trong những hốc mắt sau mảnh khăn rằn ấy tưởng như vẫn thấy được ánh mắt kinh hoàng của nạn nhân ngay trước khi chết, cả những cây thốt nốt tưởng như vật chứng vô tri mà vẫn còn như đang ghê sợ rùng mình theo từng cơn gió thoảng. Trong các Khu Đền Đài Angkor và cả rải rác trên Những Cánh Đồng Chết vẫn còn đâu đó những cây thốt nốt trơ gan cùng tuế nguyệt sống cả ngàn năm vẫn cứ trổ buồng ra trái vẫn làm chứng cho bao Thế Kỷ máu me và bạo lực của dân tộc Cam Bốt. Với Cao thì chiếc khăn rằn krama là chiều sâu xã hội và cây thốt nốt ấy là chiều dài lịch sử rất ít hạnh phúc nhưng lắm lầm than của người dân Khmer.
Khi được mời phát biểu, Công Chúa Simone Norodom đưa ra nhận định:
- Áp lực thúc đẩy Lào và Cam Bốt phải tận dụng khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên đến từ nước láng giềng đang có nhu cầu về điện năng như Thái Lan. Trên Vân Nam Trung Hoa thì vẫn không ngừng xây thêm các đập, Thái Lan còn có thêm kế hoạch đổi dòng lấy nước từ con sông Mekong chảy xuống từ Trung Hoa.
Mối quan tâm hiện nay của các quốc gia Hạ Nguồn như Lào Cam Bốt và Nam Việt Nam chưa biết phải đối phó ra sao với hậu quả dây chuyền ấy. Nhưng rõ ràng đã có sự bất bình đẳng trong việc khai thác con sông quốc tế này: Đó là sự đơn phương hành động của Trung Hoa và Thái Lan trước sự yếu kém và thụ động của ba nước Việt-Miên-Lào... Riêng với nước bạn láng giềng Lào, theo chúng tôi được biết thì đang là thí điểm rộng rãi của kế hoạch 60 con đập với tài trợ của World Bank, Asian Development Bank, qua các consortium chủ yếu là từ Úc Châu?
Đại diện Cơ Quan Phát Triển Á Châu của Úc lên tiếng:
- Như quý vị đã biết do bị nhiều chỉ trích, World Bank không còn muốn tài trợ trực tiếp cho các dự án Đập lớn nữa. Thay vì bỏ tiền đầu tư trực tiếp thì World Bank đóng vai trò môi giới với các consortium tư bản liên quốc. Mẫu điển hình BOOT (Build, Own, Operate, Transfer) có thể thấy ngay trên đất Lào. Với bảo đảm rủi ro của World Bank, các công ty tư bản nhảy vào ký kết các hợp đồng Xây đập, Sở hữu và Vận hành để lấy lại vốn và lấy lời trong khoảng thời gian từ 20 tới 30 năm trước khi Chuyển nhượng lại cho chánh phủ Lào. Phải nói là các nhà lãnh đạo Vạn Tượng rất nôn nóng muốn đi tới ký kết càng sớm càng tốt các hợp đồng phát triển theo mô thức này.
Cũng lại chính Tiến Sĩ Cham Sak Giáo Sư Kinh Tế Đại Học Thammasat, người bạn vong niên Thái Lan của Cao trong chuyến viếng thăm Lào hai năm trước, ông luôn luôn được biết đến như một nhà hoạt động môi sinh cấp tiến lên tiếng phản bác:
- Người Úc đang rao bán cho Lào một huyền thoại myth rằng Lào không còn một chọn lựa nào khác ngoài dâng hiến những dòng sông để xây đập để biến nước Lào thành một Kuwait về thủy điện để có ngoại tệ và ngân sách. Theo tôi xâu xé nước Lào với 60 đập thủy điện là một quyết định tệ hại nhất. Điều ấy chỉ có lợi cho giới đầu tư và các công ty xây đập ngoại quốc. Họ đang bị phá sản thất nghiệp bởi vì không ai còn muốn xây các con đập lớn ngay như trên nước Úc hay các quốc gia Bắc Mỹ do hiệu quả kinh tế không bù đắp được cho những tác hại rộng lớn và lâu dài trên môi sinh.
Đến lúc này thì Cao không thể không lên tiếng với quan điểm của một Kỹ Sư Môi Sinh:
- Qua kinh nghiệm những con đập Thái Lan và con đập Nam Ngum ở Lào, hiệu quả kinh tế tới đâu và tác hại trên môi sinh ra sao không ai biết rõ bằng Tiến Sĩ Cham Sak. Rằng khác xa với những hứa hẹn ban đầu khi xây đập là để đem lại thịnh vượng cho nhân dân nhưng thực ra chỉ đem lại giàu có cho một thiểu số chủ hãng bóc lột với cái giá phải trả là sự tàn phá rộng lớn trên môi sinh.
Đồng ý rằng Lào là một nước nghèo nhưng có thật Lào không còn một chọn lựa nào khác ngoài các con đập thủy điện hay không?
Công thức BOOT mới xem ra có vẻ đơn giản và hấp dẫn vì chỉ cần thuận dâng hiến những dòng sông trinh nguyên với tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiên là sẽ được cho không for free các hạ tầng cơ sở. Tưởng vậy nhưng không phải vậy, cái gia sản cũ kỹ trao lại sau 30 năm ấy có còn giá trị gì nữa không? Những con đập với turbin đã mòn và Hồ chứa cũng đã cạn, đó là chưa kể tới cảnh điêu tàn của hệ sinh thái và nỗi điêu linh của những người dân sống trên đó...
Và như vậy đã có cả một khoảng cách đại dương giữa thực tế và lý thuyết của những dự án BOOT. Chủ quyền quốc gia và quyền tự quyết kinh tế của nước Lào sẽ ra sao? Hậu quả trên môi sinh sẽ ra sao? Người dân Lào có hạnh phúc gì hơn không? Chưa ai có lời giải đáp và vẫn còn là những ẩn số.
Giọng thiết tha và đầy tính thuyết phục của người Kỹ Sư trẻ Việt Nam đến từ Bắc Mỹ đã khiến cả hội trường như lặng đi. Cuộc hội thảo trong ba ngày với rất nhiều ý kiến và đã không đi tới một kết luận nào nhưng tất cả đồng ý với nhau về một nhận xét: Vấn đề cơ bản là chưa có sự phối hợp hiệu quả và đáng tin cậy trong kế hoạch sử dụng và khai thác liên quốc gia đối với con sông Mekong.
Bấy lâu nói tới Đồng Bằng Sông Cửu Long ngày cũ là nghĩ ngay tới những dòng sông bến nước, những cánh đồng thơm mùa lúa mới, là nghĩ tới gạo trắng nước trong vườn xanh trái ngọt tôm cá đầy đồng.
Bây giờ thì chỉ thấy mọi người Việt cũng như Khmer đều lam lũ mới thấy cái ảo tưởng về sự giàu có bất tận của Đồng Bằng Châu Thổ sông Mekong.
Có phải vì vậy mà Cao nuôi giấc mộng trăm năm sao cho Biển Hồ mãi mãi là trái tim khỏe mạnh với nhịp đập rộn ràng quanh năm đem nguồn nước mát cho cả Cam Bốt và Đồng Bằng Châu Thổ.
Với quy chế là một vùng bảo tồn sinh thái, dĩ nhiên sẽ có những cuộc khảo sát sâu rộng về chiều hướng thay đổi và phát triển Biển Hồ như một biển cá một hồ dự trữ nguồn nước ngọt để không phí phạm đổ ra biển mặn ngót 500 tỉ/m3 nước ngọt mỗi năm trong khi người dân Khmer cũng như người dân Vùng Đồng Bằng Nam Bộ vẫn cứ thiếu nước làm mùa thiếu cả những ngụm nước ngọt trong lành trong những ngày nóng ran mùa khô hạn. Bảo tồn và phát triển Biển Hồ hai điều ấy không có gì mâu thuẫn và triệt tiêu nhau.
Sự hợp tác trên căn bản thành thật và tin cậy trong kế hoạch phát triển Biển Hồ không chỉ thuần mục tiêu kinh tế mà còn mang ý nghĩa nhân văn để từng bước làm vơi đi cái gia tài thù hận Việt-Khmer tích lũy đã từ mấy Thế Kỷ.
Có những chủng tộc khi còn ở nước họ tưởng như có mối thù truyền kiếp như người Ấn và người Pakistan, nhưng cũng vẫn đám người ấy với tôn giáo khác biệt ấy khi họ gặp nhau và chung sống ở Mỹ nghĩa là bên ngoài quốc gia họ, họ dễ dàng thân thiện với nhau và cũng để thấy rằng mối thù tưởng như bất cộng đái thiên ấy là không có thật. Cao cũng có cảm nghĩ như vậy với người Việt và người Khmer và điều đó chỉ có thể bắt đầu đến từ bên ngoài.
Đêm nay tới dự buổi tiếp tân do Công Chúa Simone Norodom chủ tọa, mà Cao và Bé Tư là khách mời đặc biệt qua giới thiệu của Bác Sĩ Duy con gái duy nhất của Công Chúa là học trò của Duy ở Stanford. Đó cũng là một đêm ‘’grand succès’’ của đoàn vũ công Hoàng Gia Xứ Chùa Tháp. Cao và Bé Tư còn có thêm niềm vui đã cùng chia xẻ với Công Chúa ý tưởng về những bước hòa hợp có thể tới từ bên ngoài ấy.
Và cùng trên chuyến bay ngày hôm sau rời Úc Châu là đông đảo những người Việt và Khmer đang lũ lượt trở về quê hương họ với những giấy thông hành ngoại quốc, với đầu óc là những ý tưởng mới với kiến thức trí tuệ và cả tiền bạc để tham gia sinh hoạt trên mọi lãnh vực. Đã từng là nạn nhân của chiến tranh và thù hận, là những người sống sót nay sao họ lại không thể chia xẻ với nhau một giấc mơ chung cùng nhìn về một hướng trong khúc giao hưởng thái hòa của con sông Mekong với cây đàn vĩ cầm Tonlé Sap.
Ngô Thế Vinh
Theo https://thuvienhoasen.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...