CHƯƠNG VI
NHỮNG NGÀY SINGAPORE VÀ MẶT TRẬN Ở CHIANG RAI
Buột tiếng kêu vô vọng thinh không
Như con nước cuồng lưu mùa lũ.
Thanh Tâm Tuyền
Khu đường bay quốc tế chiều thứ Sáu nhộn nhịp cảnh
tiễn đưa: Họ là đám sinh viên đi du học, đa số là tự túc tới các Đại Học lớn ở
Mỹ. Đi Tây, sang các nước Âu Châu không còn là giấc mơ cao nhất như của những
chàng trai đất Việt hơn nửa Thế Kỷ trước. Và bây giờ chỉ có Mỹ là nhất, nếu có
một giấc mơ phải là Giấc Mơ Mỹ Quốc (The American Dream) nếu được quyền lựa
chọn.
Trên một đất nước Việt Nam gọi là đổi mới thì đế quốc
Mỹ vốn là kẻ thù nay trở thành chỗ dựa vững chắc; và đám tư sản người Hoa vốn
là giai cấp phản động thì nay lại là người bạn đồng hành đáng tín cẩn trong các
vụ đầu tư làm ăn lớn.
Và trưa nay Hộ cũng chẳng ngạc nhiên khi gặp lại đồng
chí Sáu Dân tổng cục trưởng tổng cục lúa gạo ra tiễn đứa con thứ tư đi du học
UC Berkeley bên California. Ba đứa kia thì một ở Canada và hai đứa ở Úc. Như
các gia đình cán bộ khác, Sáu Dân thấy mình chưa thể hãnh diện nếu chưa gửi
được một đứa con nào sang học ở Mỹ cho dù phải tốn kém tới đâu. Và nhìn xa hơn
thì đó là những đầu cầu an toàn để chuẩn bị cho cái ngày cuối của ‘’diễn tiến
hòa bình’’ có thể thấy trước là bất trắc.
Và Hộ cũng gặp chú Quách chủ Công Ty Bột Ngọt Vivan
đưa cô gái út đi Mỹ. Cuộc đời chú Quách phải nói là thăng trầm theo với vận
nước Việt Nam. Trước 75, khởi từ một cửa hiệu chạp phô nhỏ chú Quách trở thành
chủ thầu Quân Tiếp Vụ rất có uy tín với các bà Tướng trong dịch vụ cung cấp
lương khô nuôi sống hơn một triệu tay súng của Quân Đội Miền Nam. Sau 75 chỉ vì
bịn rịn với cô vợ bé măng tơ mà bị kẹt lại để rồi sau đó bị tan tác trong đợt
đánh tư sản người Hoa nhưng rồi gia đình chú cũng thoát sang được Hồng Kông.
Cũng chỉ mấy năm sau ngay khi bắt đầu có chánh sách Đổi Mới người ta thấy chú
trở lại như một doanh nhân người Hoa tung hoành không phải chỉ ở các Tỉnh Miền
Nam mà còn ra tới ngoài Bắc nữa. Bạn làm ăn của chú Quách bây giờ là những tỉnh
ủy viên tới cấp trung ương đảng hay tổng giám đốc các công ty quốc doanh. Làm
chủ một hãng sản xuất bột ngọt lớn nhất nước với nhà máy xây và hoạt động ngay
bên sông, chú được sự ủng hộ của các Tiến Sĩ Viện Sĩ Viện Sinh Học Nhiệt Đới và
Cục Môi Trường cho tự do tha hồ đổ chất phế thải xuống sông xuống biển với lý
do ‘’để thực hiện thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng lên môi trường của các chất
phế thải trong chu kỳ sản xuất công nghiệp sinh học’’ nhưng đó chỉ là mặt nổi,
chứ tầm ảnh hưởng làm ăn của chú thực sự vươn xa tới Hồng Kông, Đài Loan
Singapore. Và cũng dễ hiểu tại sao Singapore là nơi ưa được lui tới của các
đồng chí cao cấp thuộc trung ương đảng.
Không có vé bay chính thức mà chỉ là khách stand-by,
Hộ bước vội sang khu của hãng Singapore Airlines không kém sầm uất. Trên những
chuyến bay shuttle hàng tuần đi Bangkok Singapore, người ta thấy nhiều khuôn
mặt quen thuộc của các đồng chí thuộc câu lạc bộ Ba Đình, không phải đi công
tác mà là đi chữa bệnh. Đủ thứ bệnh kinh niên mạn tính do thiếu ăn kham khổ di
chứng còn sót lại sau những năm dài chiến tranh và bây giờ là các căn bệnh tệ
hại nhất của no đủ dư thừa trong một đất nước đã có hòa bình.
Họ ra nước ngoài để được hưởng một chế độ điều trị
hiện đại nhất của nền y khoa Âu Mỹ. Điều ngạc nhiên là tỉ lệ mắc bệnh rất cao
về tim mạch và gan: Nghẽn mạch tim, sơ gan do rượu, viêm gan siêu vi. Điển hình
là trường hợp đồng chí Bảy Thủ thuộc tỉnh ủy Đồng Nai, nơi có nhà máy bột ngọt
của chú Quách, mỗi tuần đều bay sang Singapore ở khách sạn trên Đường Orchard
chỉ để cho một mũi chích Interferon alpha trị bệnh viêm gan C.
Bác Sĩ Duy đầy ngạc nhiên quay sang hỏi Hộ:
- Chỉ cần thuốc gửi về chứ đâu có phải sang tận
Singapore để được chích từng mũi thuốc!
Không biết phải giải thích với Duy ra sao khi mà câu
trả lời gần như hiển nhiên, Hộ nói:
- Đúng là như vậy, nếu chỉ là về phương diện y khoa.
Trước đây trong chiến tranh thì đã có ủy ban bảo vệ sức khỏe trung ương, viện
quân y 108 để chăm sóc cho các đồng chí lãnh đạo, cao hơn nữa thì sang Đông Đức
hoặc Liên Xô. Sau chiến tranh, bước vào thời kỳ kinh tế thị trường các đồng chí
lãnh đạo không ai còn tin vào tính ưu việt của nền y tế xã hội chủ nghĩa ở
trong nước nữa. Chưa thể đi Mỹ thì Singapore được coi là cánh cửa mở rộng để
bước vào nền y tế tư bản. Các đồng chí ấy bây giờ đặt hết niềm tin giao phó sức
khỏe cho đám Bác Sĩ của ông Lý Quang Diệu cho dù cũng đã có người sang đây và
chết ở bên đây: Chắc anh cũng có nghe cái chết của một ông tướng ngay sau một
cuộc mổ tim...
Trong số những con cọp con rồng Á Châu thì Singapore
được các đồng chí lãnh đạo đánh giá cao nhất và được coi như mô hình lý tưởng
để vươn tới cho Việt Nam trong tương lai.
Hộ ngưng lại giọng trầm tư:
- Theo tôi thì đó là một ‘’giấc mơ không thể được’’
bởi ai cũng biết về phương diện địa dư chánh trị, Singapore và Việt Nam là hai nước
hoàn toàn khác nhau về mọi phương diện....
Duy bổ túc thêm ngay ý của Hộ:
- Điều khác biệt cơ bản là Singapore không có được một
chánh quyền tham nhũng từ trên xuống dưới như ở Việt Nam.
Phát biểu của Duy không có vẻ gì là mỉa mai nhưng Hộ
vẫn tìm cách giải thích tiếp:
- Vả lại anh cũng biết, trong trận đấu tranh giành
quyền lực giữa những người cộng sản thì sức khỏe cá nhân cũng là điều tối mật
thuộc phạm vi an ninh quốc gia.
Mới vừa tới Bangkok hai ngày, đang bề bộn với công
việc chuẩn bị hội nghị, Hộ lại được điện gọi sang Singapore để làm việc với ông
Ngoại Trưởng một tuần lễ trước cuộc họp bốn nước thay vì sáu sắp diễn ra ở
Chiang Rai trên vùng Đông-Bắc Thái. Sự kiện Bangkok muốn thêm Trung Hoa và Miến
Điện cho dù hai nước này ở vị trí Thượng Nguồn và từ 1957 chưa hề là thành viên
của Ủy Ban Sông Mekong Mekong River Committee (MRC) là cả một nỗ lực vận động
ngoại giao bền bỉ của Thái nhưng đã không thành công. Một người bạn Cam Bốt
cũng là thành viên lâu năm của MRC, đã tâm sự với Hộ: Cho tới bây giờ chúng tôi
vẫn biết ơn người Pháp, bởi vì nếu không có sự can thiệp của họ vào cuối Thế Kỷ
19 thì cũng chẳng còn hai nước Cam Bốt Lào và biên giới giữa Việt Nam và Thái
Lan chỉ còn là con sông Mekong. Câu nói tuy không hàm ý ám chỉ nhưng chính Hộ
cảm thấy hết sức băn khoăn như đứng trước một trường hợp lương tâm. Đâu phải
chỉ có Vương Quốc Thái Lan, lịch sử cận đại Việt Nam là một liên tục phát triển
bành trướng xuống Phương Nam.
Gắn bó với sông Mekong, con sông ấy bao giờ cũng đem
lại cho Hộ nguồn cảm hứng và cả những tình cảm lớn lao. Bảo vệ sự nguyên vẹn
tinh khiết cho dòng sông ấy không chỉ vì Vùng Đồng Bằng Châu Thổ Cửu Long mà
chính là bảo vệ mạch sống cùng với hệ sinh thái của toàn vùng Đông Nam Á Châu
nhìn về một tương lai xa.
‘’Surmenage’’ là lý do chính thức được đưa ra khi ông
Ngoại Trưởng phải vào bệnh viện, nhưng bên cạnh đó lại là tin đồn khác rằng ông
mới bị một cơn đau thắt ngực, rất có thể là một cơn nhồi máu cơ tim. Trừ viên
Bác Sĩ điều trị gốc Singapore, không ai biết gì hơn về tình trạng sức khỏe của
ông.
Hộ thắc mắc quay sang hỏi Bác Sĩ Duy:
- Tôi nghe nói bệnh tim mạch ở Việt Nam bây giờ còn
cao hơn cả Âu Mỹ, làm thế nào mà giải thích về phương diện dịch tễ học ? Không
trả lời ngay vào câu hỏi của Hộ, Duy nói:
- Mới đây có một cuộc nghiên cứu nhỏ về Cộng Đồng
người Hoa sống ở Nữu Ước, đặc biệt nhóm di dân từ lục địa Trung Quốc. Khi mới
đặt chân tới Mỹ chỉ số cholesterol của họ thấp gần như ở mức lý tưởng, vậy mà
chỉ trong vòng ba năm sau họ đã vượt xa người Mỹ về lượng cholesterol cao và tiếp
đó là tỉ lệ cao hơn nữa về bệnh tim mạch vốn là rất hiếm hoi ở những người nông
dân Trung Hoa.
Từ một chế độ ăn uống thanh đạm chủ yếu là rau đậu ở
bên nhà nay chuyển ngay sang thịt thà bơ sữa thừa mứa ở Mỹ: Yếu tố môi trường
phải được kể là một nguyên nhân.
Không thỏa mãn với ‘’yếu tố môi trường’’ của Duy, Hộ
hỏi thêm:
- Nếu chỉ có vậy thì cũng chưa giải thích được tại sao
tỉ lệ bệnh tim mạch của họ qua mặt người Mỹ vốn đã sống lâu dài trên sự thừa
mứa ấy! Phải chăng stress cũng là một nguyên nhân?
Duy thì rất thú vị với câu hỏi của Hộ và có ngay lời
giải đáp:
- Nói về stress thì không ai qua mặt được người Mỹ. Do
đó phải tìm cách giải thích khác. Đám di dân từ Trung Hoa Lục Địa ấy cũng như
các ông Tư Bản Đỏ Việt Nam bây giờ, đã quen thích ứng với môi trường sống
thường xuyên thiếu thốn, cơ thể họ như bộ máy chuyển hóa chậm (slow
metabolizer) nay thả họ vào một nơi ăn uống thừa mứa, chỉ có đồng hóa mà không
kịp giải hóa dẫn tới tình trạng tích lũy và thặng dư mà cholesterol là chỉ số
phản ánh bộ máy chuyển hóa chậm ấy...
Duy phát biểu thản nhiên không lộ chút cay đắng:
- ‘’Chết Đói và Chết No’’ đang là hai thái cực của một
nước Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi Mới, có phải vậy không ông Tiến Sĩ Lúa
Honda?
Duy sắc bén nhạy cảm, tâm lành nhưng miệng thì lại cay
độc. Phủ nhận chế độ hiện tại nhưng vẫn có thái độ dấn thân xây dựng. Cùng với
Phái Đoàn Giáo Sư Mỹ, Duy vừa hoàn tất khóa thỉnh giảng ở hai Đại Học Y Khoa
Sài Gòn và Hà Nội và cũng chờ chuyến bay đi Bangkok trước khi trở lại Mỹ. Mới
quen nhưng rất hiểu Duy nên Hộ không giận. Khi mà thường ngày phải sống trong
một xã hội chai lì với những con người mang trạng thái tâm thần phân lập, luôn
luôn với hai bộ mặt thì mẫu người như Duy là hình ảnh vô cùng hiếm hoi như một
chất xúc tác làm tươi tắn lại cuộc sống. Nằm gần xích đạo, nguyên chỉ là một
hòn đảo đầm lầy không tài nguyên thiên nhiên vậy mà với chưa đầy 200 năm,
Singapore đã trở thành một quốc gia tân tiến và phồn thịnh của Châu Á. Đã qua
rồi hình ảnh cũ xưa của một Đảo Singapore thời thuộc địa với những ổ hút thuốc
phiện, những chiếc xe do người còng lưng kéo, bến cảng với những chiếc thuyền
buồm nơi tung hoành bọn thảo khấu. Ngày nay du khách đã phải choáng mắt với hệ
thống xa lộ, những tòa nhà kính, các Khu Shopping Mall, những khách sạn sang cả
trên Đường Orchard, thưởng thức món ăn Ý, uống rượu chát ủ lâu năm từ vùng
sương muối nắng ấm Napa California, mua sắm các y phục thời trang mới nhất của
Paris. Lúc ấy chẳng ai nghĩ mình đang viếng một hòn đảo rất nhỏ của Châu Á.
Singapore được kể là một trong bốn con rồng Á Châu với
lãnh tụ Lý Quang Diệu đích thực là một nhà độc tài với nền dân chủ tập trung
nhưng được dân chúng mến yêu và tiếng nói của ông ta luôn luôn được các nhà
lãnh đạo thế giới quan tâm và lắng nghe.
Chỉ thực sự độc lập từ 1965, trong vòng ba thập niên
ấy là một tốc độ phát triển tới chóng mặt: đến cả những tòa nhà đồ sộ còn vững
chãi và tốt đẹp cũng bị triệt hạ chỉ để đáp ứng nhu cầu xây dựng thành những
khu mới hiện đại nguy nga hơn. Đổi mới, luôn luôn đổi mới gần như là một ‘’chu
kỳ bất tận’’ trên khoảng diện tích nhỏ hẹp 646 cây số vuông ấy khiến người dân
Singapore lưu truyền một giai thoại: Chỉ cần quay lưng đi một lát thôi là bạn
đã không tìm ra đường về nhà vì cảnh phố xá đã đổi thay quá chừng.
Cuộc họp diễn ra tại khách sạn Shangri-La sang trọng
bên trong một khu vườn rộng năm mẫu tây trên Đường Orange Grove, chỉ cách vài
phút đi bộ từ cuối Đường Orchard về hướng tây bắc. Từ mỗi buồng khách nhìn qua
một bao lơn rộng thênh thang là khu vườn đầy hoa lá rực rỡ màu sắc miền nhiệt
đới.
Hộ bắt đầu bài thuyết trình:
- Trung Quốc sau đập Man Wan với công suất 1500
megawatt sẽ hoàn tất thêm tám đập thủy điện nữa như những bậc thềm trên dòng
chính sông Mekong nằm trong lãnh thổ họ và không ai được quyền can thiệp hay
dòm ngó tới. Thái Lan thì cũng đã làm xong hệ thống đập trên các phụ lưu Hữu
Ngạn sông Mekong trong hai thập niên qua đập Pak Mun nổi tiếng vì đã gây nhiều
tranh cãi và cho dù Việt Nam phản đối nhưng họ vẫn xây thêm hệ thống tiêu tưới
bao gồm một con kinh dài 200 cây số nhằm chuyển khoảng 400m3/s nước từ sông
Mekong mùa nắng vào hồ Lam Pao và họ ráo riết điều đình với Lào xây cất thêm
nhiều đập thủy điện trên các phụ lưu Tả Ngạn sau đập Nam Ngum và Nam Theun 1
với công suất 150 và 200 megawatt và rồi tới các đập lớn trên dòng chính sông
Mekong nhằm tăng cường điện cho các Thành Phố và kỹ nghệ của Thái. Chỉ riêng
năm 1988 Thái Lan đã có công xuất điện trên 5000 megawatt và dự trù tăng đến
trên 11 ngàn megawatt vào năm 1996, nghĩa là gấp 10 lần công xuất tối đa của
đập Hòa Bình... Tưởng cũng nên nói thêm rằng kinh nghiệm hơn 20 năm xây đập
thủy điện của Thái tuy chỉ ở các nhánh phụ lưu nhưng cũng đã gây tác hại nghiêm
trọng trên môi sinh và là tấn thảm kịch cho những người dân sống trong vùng
trước sự lãnh đạm đến tàn nhẫn của chánh quyền Thái, của các đại diện Ngân Hàng
Thế Giới World Bank.
Từ bục thuyết trình, với cây ‘’pointer’’ cầm tay Hộ di
động hướng mũi tên sáng vào các điểm dự án chín đập thủy điện trên bản đồ sông
Mekong và tiếp:
- Các đại diện WB thường chỉ biết ngồi ở văn phòng
Bangkok làm việc với quan chức chánh phủ Thái mà chẳng cần biết nguyện vọng của
dân chúng địa phương ra sao. Cho dù chưa có những nghiên cứu sâu rộng và đứng
đắn nào về ‘’cơ bản hệ sinh thái (ecosystem baseline)’’ vùng Hạ Lưu sông
Mekong, nhưng khi nói tới các con đập lớn, Tiến Sĩ Sato đại diện cho WB vẫn
tuyên bố một cách vô trách nhiệm là dự án ấy sẽ không gây ảnh hưởng nghiêm
trọng nào trên môi sinh.
Viên đại diện người Nhật này còn có thái độ bất chấp
đối với các phong trào chống đối của dân chúng và các nhà hoạt động bảo vệ môi
sinh Thái, ông ta lạnh lùng phát biểu: ‘’Để họ ngăn chặn đập Pak Mun là khuyến
khích mở đường cho các tổ chức vô chánh phủ khác thêm sức mạnh cản trở các dự
án đập thủy điện lớn và thiết yếu khác trên dòng chính sông Mekong’’. Và quả
nhiên với hậu thuẫn tiền bạc của WB kết hợp với bạo lực chấn áp, chánh phủ và
Bộ Thủy Lợi Hoàng Gia Thái đã thắng.
Hộ tiếp:
- Trong một tương lai gần, nếu Thái Lan thực hiện được
đập lớn đầu tiên trên dòng chính sông Mekong như Pa Mong Cao, thì chỉ riêng với
đập này đã đem lại cho họ công xuất điện 1200 megawatt với hứa hẹn lợi lộc cho
Việt Nam chỉ là ‘’cái giả thiết’’ bớt lũ lụt!
Hộ dừng lại như nén xúc động trước khi có thể nói
tiếp:
- Kinh nghiệm học được từ các đập thủy điện lớn khắp
thế giới trong vòng 100 năm nay đã chứng minh rằng thủy điện không nhất thiết
là nguồn năng lượng rẻ nhất và trong lành cho loài người. Các đập thủy điện
thường phải đi đôi với những tác động môi sinh độc hại rộng lớn trên hệ sinh
thái và đời sống dân cư không lường được.
Nó ngăn chặn việc chuyển vận điều hòa và tự nhiên các
lớp phù sa màu mỡ về vùng Đồng Bằng Châu Thổ đe dọa vựa lúa của hàng triệu nông
dân và nền kinh tế nông nghiệp trong lưu vực. Thủy điện tạo phát triển thêm
những khu kỹ nghệ sẽ gây ô nhiễm sông ngòi độc hại tới các loài chim cá và cây
cỏ tác hại trên sức khỏe của hàng triệu người phải dùng nguồn nước sông đề sinh
tồn. Thảm họa ‘’Con Rồng Đen’’ tháng 3 năm 92 với chín ngàn tấn mật mía của nhà
máy Khon Kaen đổ xuống sông Nam Pong khiến không còn giống tôm cá nào sống sót,
để cứu nguy chánh phủ Thái phải cho sả hàng triệu mét khối nước từ đập Ubolrath
nhưng chỉ có tác dụng đẩy chất thải độc hại ấy vào hai con sông Chi sông Moon
tiếp tục giết hại hơn 140 giống cá trước khi đổ ra con sông Mekong...Đó cũng là
lý do tại sao chánh phủ Hoa Kỳ gần đây đã bỏ ra hàng nhiều triệu đôla cho kế
hoạch không phải để xây mà là phá các đập thủy điện để phục hồi sinh cảnh sông
ngòi và cứu những loài di ngư cá hồi sắp có nguy cơ hoàn toàn bị tiêu diệt.
Vẻ xác tín của Hộ không chỉ từ nguồn trí tuệ uyên bác
mà cả sức mạnh thuyết phục của con tim nên giọng nói càng thêm thiết tha:
- Xây thêm các đập thủy điện trên dòng chánh sông
Mekong là sẽ cắt giảm thêm khối lưu lượng nước sông cần thiết cho vùng châu thổ
vốn đã thiếu nước trong mùa khô, khi đó người nông dân Việt Nam sẽ không có
nước tưới ruộng rửa phèn, nước mặn sẽ lấn sâu vào nội địa phá hủy nguồn cung
cấp nước uống và canh tác của họ.
Và bây giờ không phải là ông tuyên huấn mà là chính Hộ
đã đưa ra một ‘’cái nhìn chánh trị từ góc độ Việt nam’’:
- Đã có nhiều ngộ nhận về mức độ an toàn của các đập
thủy điện trên các vùng dân cư quanh và dưới chân đập. Nhưng rõ ràng về phương
diện chánh trị ở một giai đoạn nào đó khi nước bạn trở thành thù nghịch họ có
thể hoàn toàn chủ động gây ra một cuộc chiến tranh môi sinh trong vùng: chặn
nước trong mùa nắng gây đại hạn cho vùng châu thổ hay tệ hại hơn là tháo đập
làm ngập lụt quốc gia dưới Hạ Nguồn và dĩ nhiên là thập bội lần khủng khiếp hơn
các trận lụt lội tự nhiên...
Sang phần thuyết trình của Giáo Sư Đoàn Minh Triết,
Trưởng Khoa Địa Chất Viện Đại Học Cần Thơ. Ông đã chọn một phương thức ‘’dẫn
nhập’’ độc đáo để trình bày đề tài. Đèn trong phòng vụt giảm sáng, trên màn ảnh
là bản đồ không phải sông Mekong mà là sông Nile, nối tiếp sau đó là các hình
ảnh cận cảnh của con đập Aswan. Bằng một giọng Nam trầm ấm, Giáo Sư Triết bắt
đầu bài thuyết trình:
- Chấn động của hơn 160 tỉ mét khối nước bất chợt bung
qua khúc vỡ của con đập cao hơn 100 mét. Trong khoảnh khắc lượng nước khổng lồ
trong hồ chứa dài 500 cây số đã đồng loạt trút xuống. Thị Trấn đầu tiên cách đó
chưa đầy ba dặm bị ngay sức đập trời giáng khủng khiếp như sức tàn phá của một
ngọn sóng thần.
Thế rồi bức tường thành nước cao hơn 30 mét ấy cứ lừng
lững đi tới dìm ngập phố xá ngập cả những tòa nhà cao mười tầng băng qua và
cuốn đi các vùng dân cư. Ngày thứ sáu con nước cuồng nộ ấy tới được.
Thủ Đô Le Caire bên đông ngạn con sông Nile, vẫn với
nguyên sức mạnh của 15 mét nước cao...
Đó là scenario từ cuốn tiểu thuyết Aswan của Nhà Văn
Đức Michael Heim. Đó không phải chỉ là hư cấu mà dựa trên những khảo sát cơ học
vững chắc.
Các nhà địa chất khảo sát những con đập lớn nhận thấy
sức nặng thường trực của khối nước khổng lồ trong hồ chứa đã gây ra tình trạng
mất cân bằng địa chấn, gây đứt đoạn lớp địa tầng dưới đáy gây tổn hại trên cấu
trúc toàn con đập. Hiện tượng này được gọi là ‘’động đất do hồ chứa (reservoir
triggered seismicity)’’.
Có thể kể ra đây hai trong số những vụ động đất do
đập. Đó là đập Tân Phong Giang (Xinfengjian) gần Tỉnh Quảng Đông bên Trung Hoa
có cấu trúc giống đập Aswan, đã bị một cơn địa chấn 6.1 vào năm 1961. Thứ đến
là đập Koyna gần Tỉnh Poona Ấn Độ đã chịu cơn địa chấn khác 6.5 gần muốn sập
vào năm 1967.
Lioyd Cluff là Kỹ Sư đầu tiên được chứng kiến tại chỗ
những tổn hại của đập Koyna. Đến năm 1981, khi xảy ra cơn địa chấn khác gần đập
Aswan nơi mà lớp địa tầng được coi là rất ổn định, Cluff đã được Tòa Đại Sứ Mỹ
chỉ định lập ngay một toán nghiên cứu, và sau hai năm khảo sát họ đã nhận thấy
‘’có mối tương quan giữa mực nước trong đập và trận động đất xảy ra mới đây’’
và đồng thời đi tới kết luận: ‘’Theo các lượng giá về kỹ thuật cơ học, có thể
thận trọng mà tiên lượng rằng...động đất có khả năng sẽ tái diễn ở mức độ tương
đương hay lớn hơn.’’
Trong tường trình ấy cũng đã mô tả chi tiết về khả
năng một thảm họa do vỡ đập nhưng bị cấm phổ biến vì giới quân sự Ai Cập rõ
ràng là lo sợ đó như gợi ý cho một âm mưu khủng bố khiến Thứ Trưởng Bộ Thủy Lợi
Ai Cập đã mô tả, ‘’Nó giống như trận hồng thủy kéo dài suốt 40 ngày đêm đã được
ghi lại trong Thánh Kinh’’...
Giáo Sư Triết tiếp:
- Gần gũi với chúng ta hơn là bài học Trung Hoa. Đây
là một thảm họa có thật tại Hà Nam năm 1975. Đó là hai con đập Bản Kiều
(Banquiao) và Thạch Mãn Đàm (Shimantan) trên sông Hoài (sông Huai), một phụ lưu
của sông Dương Tử. Đập Bản Kiều do Liên Xô xây dựng, được coi như một con đập
sắt thép kiên cố có khả năng đứng vững với trận lụt ngàn năm. Nhưng chỉ với cơn
mưa lũ lớn suốt hai ngày, mực nước trong đập đã ngập tới mức tối đa cho dù các
ống thoát được mở ra nhưng lại bị nghẽn bởi các chất lắng và hậu quả là đập Bản
Kiều bị vỡ với năm triệu mét khối nước từ hồ chứa đổ ập xuống các thung lũng
cuốn phăng đi các làng mạc và Thị Trấn phía dưới, con đập sắt thép thứ hai cũng
bị vỡ ngay sau đó... Tổng cộng có 62 đập bị vỡ trong trận bão lụt năm đó làm
thiệt mạng 230 ngàn người vừa chết đuối lẫn chết vì bệnh dịch lan tràn.
Sự tổn hại ấy được coi là thảm khốc hơn vụ nổ nhà máy
hóa chất Bhopal ở Ấn Độ hơn cả vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Chernobyl ở Nga cho
dù nhà nước Trung Quốc đã dấu nhẹm đi trong suốt hai thập niên...
Bài thuyết trình hấp dẫn như một khúc phim, Giáo Sư
Triết kết luận:
- Không có gì bảo đảm rằng một thảm họa như vậy sẽ
không thể xảy ra trên sông Mekong. Nếu con sông Mekong là mạch sống của Đồng
Bằng Châu Thổ thì mỗi con đập là một gót chân Achilles cho toàn vùng. Và hiển
nhiên là thảm họa do con người gây ra sẽ lớn hơn gấp bội so với tai ương từ
thiên nhiên...
Cả phòng hội thật tĩnh lặng chỉ còn vang vang tiếng
nói của ông Giáo Sư. Bây giờ thì đến lượt ông Ngoại Giao hướng về thuyết trình
đoàn và đặt câu hỏi:
- Nếu không ngăn chặn được các nước bạn tiếp tục thực
hiện các dự án của họ, thế còn giải pháp nào cho Việt Nam?
Câu hỏi đã hàm ý như một nhượng bộ và hòa hoãn nhưng
Hộ đã sẵn sàng lời giải đáp:
- Chúng ta đã không làm được gì với chín đập bậc thềm
chiếm 20% nguồn nước trên dòng chính sông Mekong trong lãnh thổ Trung Hoa,
chúng ta cũng đã không làm gì được với hơn 30 con đập trên các phụ lưu trong
nội địa Thái Lan và Lào, nhưng với hai ngàn cây số dòng chính sông Mekong vùng
hạ lưu, do là một con sông quốc tế nên theo quy định của Ủy Ban Sông Mekong từ
1957, thì mọi dự án đập thủy điện lớn trên dòng chính phải được đa số tuyệt đối
đồng thuận (unanimous decision) và mỗi nước hội viên đều có quyền phủ quyết
(veto power). Có lẽ đây là điểm cơ bản cần duy trì trong mọi văn kiện ký kết
trong tương lai điểm này tối quan trọng đối với Việt Nam vì ở vị trí cuối Hạ
Nguồn...
Hộ tiếp:
- Trong các dự án từ những năm 60-70, thì chỉ với hai
con đập lớn Pa Mong Cao ở Lào Stung Treng ở Cam Bốt cũng đã chiếm thêm 20%
nguồn nước chảy xuống Đồng Bằng Cửu Long, duy có dự án Biển Hồ được coi là hữu
ích cho Cam Bốt và Việt Nam với triển vọng giảm lũ lụt vào mùa mưa và tăng lưu
lượng nước cho hai con sông Bassac và Mekong trong mùa khô nên dự án ấy lại
được nhắc tới trong cuộc họp năm 88 của MRC diễn ra ở Việt Nam nhưng đã bị Cam
Bốt quyết liệt từ chối vì cho là chỉ có lợi cho Việt Nam và có hại cho Biển Hồ
mà họ so sánh giống như cắt rời một trái tim đang đập ra khỏi cơ thể nước Cam
Bốt.
Hộ tiếp:
- Chúng ta sẽ không mù quáng như Thái Lan xây hàng
chuỗi đập thủy điện chỉ để đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ nghệ trước mắt mà bất
kể cái giá phải trả do hủy hoại lâu dài trên môi sinh. Nhưng trong hoàn cảnh
Việt Nam hiện nay, do ảnh hưởng dây chuyền của hàng loạt các đập đã được xây
trên khắp các phụ lưu của Thái Lào, rõ ràng đã có dấu hiệu khô hạn trong mùa
khô ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Để bảo đảm đủ nước cho vựa lúa vùng châu thổ,
‘’đặng chẳng đừng’’ chúng ta không còn một chọn lựa nào khác là phải gấp rút
nghiên cứu tính khả thi các đập phụ lưu sông Mekong trong lãnh thổ Việt Nam. Do
là các đập nhỏ trên dòng phụ trên vùng cao nguyên hoang dã nên không có mối
hiểm họa trực tiếp rộng lớn do đập trên hệ sinh thái hay trên các vùng dân cư.
Trước mắt cần xúc tiến việc xây đập ‘’Đại Yali’’ trên sông Sesan, một phụ lưu
sông Mekong ở phía tây giáp giới hai tỉnh Gia Lai và Kontum, đập này sẽ tiếp
nối với hệ thống đập Mang Giang An Khê để đưa nước về tưới vùng đồng bằng Bình
Định Quy Nhơn. Tiếp theo là nghiên cứu thiết lập các dự án cho những đập mới
trên các phụ lưu như sông Sekong, Sebang Hiên... không chỉ sản xuất điện mà còn
nhằm việc tích trữ nước bảo đảm lưu lượng tối thiểu mùa nắng cho vùng châu thổ
ngoài ra các đập này còn có khả năng chuyển nước từ Trường Sơn Tây sang phía
Đông tưới cho các Đồng Bằng miền Trung vốn khô cằn và phát triển mạng lưới điện
cho các Thị Trấn dọc theo quốc lộ 1 ra tới tận Vinh...
Điều mà Hộ kìm hãm không nói ra là anh không mấy tin
tưởng ở trình độ xây đập của Liên Xô sau đập Hòa Bình và nay là Đại Yali, mà
anh cho là lỗi thời obsolete, nếu không muốn nói là thứ kỹ thuật hạng hai
(second class technology), so với thế giới.
Vẽ nên bức tranh hoành tráng ấy, Hộ nắm vững từng chi
tiết trên những tấm bản đồ như một viên sĩ quan ban ba bộ chỉ huy hành quân
quen thuộc với một sa bàn. Vẫn có thói quen nhìn thẳng vào mặt người đối diện,
Hộ thấy trên nét mặt phương phi ông Ngoại Trưởng ngoài cái vẻ làm như tập trung
chú tâm nhưng sao trong chiều sâu ánh mắt ấy vẫn là cái vẻ lạnh lẽo quan sát
pha một chút gì đó như ngờ vực tra hỏi, nhưng Hộ cũng lại chợt nhận ra đó là
nét quen thuộc mà anh vẫn bắt gặp nơi những con người Cộng sản. ‘’Chiang Rai
Mekong Meeting Spells Disaster (Cuộc họp về sông Mekong) tại Chiang Rai báo
hiệu Thảm Họa’’ là nhan đề bản tin phổ biến của Nhóm Quan Sát và Bảo Vệ Môi
Sinh Thế Giới số tháng 5.95 ngay sau hội nghị cấp Ngoại Trưởng của Ủy Ban Sông
Mekong nay đổi danh xưng thành Ủy Hội Sông Mekong (Mekong River Commission) và
Việt Nam thì mất quyền phủ quyết (veto power). ‘’Call To Stop Large Scale
Hydropower Development On The Mekong Basin (Yêu cầu Ngưng ngay các Dự Án Thủy
Điện Lớn trên Sông Mekong)’’ của Nhóm Bạn Cửu Long trên mạng lưới Internet với
luận cứ vững chắc và những lời phản bác thì mạnh mẽ: ‘’Các đập thủy điện lớn sẽ
phá hủy hệ sinh thái của con sông Mekong đe dọa sự sống còn của hơn 50 triệu
dân trong vùng với hậu quả tệ hại chết người cũng giống như chôn mìn trong các
ruộng lúa hay thả thủy lôi trên sông...Chúng ta không ngang nhiên bác bỏ toàn
bộ kế hoạch của Ủy Hội Sông Mekong hay coi nhẹ nhu cầu phát triển của các quốc
gia Thượng Nguồn nhưng chúng ta có quyền đòi hỏi phải có những cuộc nghiên cứu
nghiêm chỉnh về hậu quả của các đập trên hệ sinh thái phong phú vốn đã có tự
ngàn năm của con sông Mekong và riêng đối với người Việt là bảo vệ chính ấm
nước, bát cơm, nồi cá, cánh đồng phì nhiêu, nền kinh tế và cả di sản trong lành
cho thế hệ mai sau...’’
Nhưng chỉ sau này Hộ mới được biết thêm rằng trong
giai đoạn ấy, vì sự sống còn của chế độ theo hướng nghị quyết của bộ chánh trị
bằng mọi giá Việt Nam phải được vào khối ASEAN chuẩn bị cho bước gia nhập Tổ
Chức APEC Hợp Tác Kinh Tế Á Châu Thái Bình Dương có nghĩa là không thể để mất
lòng Thái Lan, nên mọi chuyện khác kể cả tương lai sông Mekong ra sao chỉ có
tầm quan trọng thứ yếu và thuộc về một tương lai xa vời. Mối quan tâm của đám
chuyên viên như Hộ Triết ở trong nước và của Nhóm Bạn Cửu Long ở hải ngoại được
đánh giá như ‘’một phản ứng xúc động quá mức (overeaction), một thứ nhãn quan
hạn hẹp nếu không muốn nói là thiếu nhận thức chánh trị’’.
Tháng 7, 95 trên trang nhất của tờ nhật báo nhân dân
đăng tin cột lớn như một chào mừng thắng lợi: ‘’Việt Nam được chấp nhận gia
nhập ASEAN-Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á.’’ Tháng 11.97 tin thông tấn xa AP
từ Vancouver: ‘’Việt Nam cùng với Nga và Peru chính thức được nhận làm hội viên
của tổ chức APEC.’’
Hộ hiểu rằng cái ghế hội viên ASEAN và APEC ấy sẽ được
trả giá bằng tương lai bất trắc của con sông Mekong và cả Vùng Đồng Bằng Châu
Thổ.
CHƯƠNG VII
TRỞ VỀ - PATTIVATTNA VỚI NHỮNG CÁNH ĐỒNG CHẾT
Chúng ta sẽ đốt hết cánh đồng cũ và cỏ cây mới sẽ mọc.
Pol Pot
Ông Khắc thì vẫn thích Malraux ngay từ cuốn sách đầu
tiên La Voie Royale. Sách Malraux không những ông đọc mà còn có đủ bộ.
Rất tiếc là một thời gian dài ông đã chỉ làm quen với
một Malraux nhà văn nhà chánh trị đã thành danh. Nhưng mới đây trong chuyến
sang Pháp vào các Thư Viện tìm tài liệu cho cuốn sách viết về các phong trào
cách mạng Việt Nam từ 1920 tới 1945, như một cơ duyên, ông Khắc đã có khám phá
kỳ thú về ‘’một André Malraux khác’’. Đó là một Malraux ở cái tuổi 23, cách đây
hơn 70 năm lần đầu tiên tới Sài Gòn. Những bước đầu xông xáo của Malraux đã bị
tờ báo địa phương L’ Impartial (Vô Tư) gán ngay cho tội danh ‘’tên phá hoại, kẻ
ăn trộm các phế tích’’ và đồng thời bị tòa án ở Nam Vang kết án ba năm tù và
năm năm cấm cư trú ở Đông Dương về tội ‘’ăn cắp những phù điêu gỡ từ đền
Angkor’’.
Ông Khắc thì vẫn thích con người hành động của Malraux
nhưng đồng thời ông cũng biết thêm về ‘’một Malraux của đời thường’’ không phải
chỉ qua bản án bị coi là trù dập của chánh quyền thuộc địa Pháp thời bấy giờ mà
là qua một tác giả Mỹ Walter Langlois André Malraux: The Indochina Adventure
(New York 1966) đã rất khách quan tường thuật diễn tiến vụ đánh cắp cổ vật có
dự mưu chứ không chỉ là một hành động ngẫu hứng acting on a sudden impulse…do
điên cuồng của tuổi trẻ folie de la jeunesse như lý lẽ bạn bè muốn đưa ra để
bênh vực Malraux ngay lúc đó là cả những năm về sau này… Malraux trước đó ra
Hà Nội cũng đã gặp các thành viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Francaise
d’Extrême-Orient) đã biết Khu Đền Đài Angkor như một kỳ quan cần được bảo vệ và
Malraux không thể không biết điều mà ông dự tính làm là phạm pháp. Vào Sài Gòn,
Malraux vẫn cùng với vợ là Clara và một người bạn là Louis Chevasson, bằng
đường sông Mekong tới Nam Vang, từ đó họ đi ngược dòng Tonlé Sap vào Biển Hồ
lên tới Siem Reap rồi bằng đường bộ tới Angkor. Malraux đã chuẩn bị rất chu
đáo, thuê xe bò kéo và có cả các công nhân Khmer đi theo để phụ giúp. Tại Đền
Banteay Srei, Malraux đã cho dùng cưa đá cắt ra từ tấm phù điêu một tiên nữ
apsaras tuyệt đẹp, ông còn cho gỡ thêm một số tượng nhỏ khác rồi cho đóng thùng
chất lên xe, ngụy trang là ‘’các thùng hóa chất’’ để đưa xuống tàu ở Biển Hồ
trước khi chuyển về Sài Gòn.
Mọi việc tưởng yên thấm và nếu thành công thì đó là
những cổ vật rất có giá ở đối với các Nhà Sưu tập ở Nữu Ước và chàng tuổi trẻ
Malraux lúc đó cũng chẳng dư dật gì. Nhưng điều mà Malraux không biết là họ đã
bị theo dõi từng bước ngay từ đầu, nên khi vừa về tới Nam Vang họ bị bắt cùng
với đầy đủ tang vật. Trừ Clara là phụ nữ được miễn tố, còn lại hai người đàn
ông: Malraux bị án 3 năm tù và Chevasson là 18 tháng.
Viện cớ đền Banteay Srei không thuộc
vùng cấm được bảo vệ nên cả hai kháng án và được đưa về Sài Gòn tái thẩm. Do đã
có chút danh tiếng trong giới văn học lúc đó, Malraux được các bạn văn ở Paris
lên tiếng bênh vực khiến vụ án mang vẻ văn học và chánh trị. Chánh trị hay
không thì tòa án ở Sài Gòn cũng vẫn xử Malraux là có tội nhưng với án giảm
xuống còn một năm tù treo và sau đó không một ngày ở tù, Malraux trở lại Paris.
(Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về một điều quá trớ trêu (the rich irony), theo ngôn từ của
Milton Osborne, là chính con người đã phạm tội phá hoại di tích (cultural
vandalism) ở Đông Dương lại trở thành Bộ Trưởng Văn Hóa của chánh phủ De Gaulle
trong nhiều năm sau).
Một năm sau là một André Malraux hoàn toàn khác trở
lại Sài Gòn với quyết định ra tờ báo L’ Indochine nhằm khởi đầu một chiến dịch
tố cáo chánh quyền thuộc địa, đấu tranh cho sự cởi mở chánh trị cho người ‘’An
Nam’’. Malraux muốn đặt lại vấn đề Đông Dương trong bối cảnh Viễn Đông với cuộc
cách mạng Tân Hợi đang diễn ra ở Trung Hoa. Tờ L’ Indochine không những đả kích
tính lộng hành xấc xược của các nhà lãnh đạo thuộc địa người Pháp mà còn phơi
bầy tệ nạn luồn cúi và tham ô của đám quan lại bản xứ.
Cũng vẫn viên giám đốc tờ L’ Impartial, công cụ của
chánh quyền bảo hộ đã tố cáo Malraux là thiên Cộng. Với cái nhãn hiệu ấy qua sở
mật thám, tờ L’ Indochine bị mất đi nhà in. Nhưng không tương nhượng, Malraux
tìm mọi cách tục bản tờ báo với một tên mới nhiều ý nghĩa L’ Indochine Enchaine
(Đông Dương Xiềng Xích) nhưng báo chỉ ra thất thường vì vô số những khó khăn
không vượt qua được. Chính giai đoạn này Malraux đã nhận ra cái ảo vọng của
cuộc đấu tranh ngoài nước Pháp nơi mà thành lũy thuộc địa còn quá ư vững chắc.
Không chậm trễ, Malraux quyết định rời Sài Gòn với một bài viết cuối trên tờ
Đông Dương Xiềng Xích trước khi đình bản hẳn: ‘’Tiếng nói quân chúng cần phải
được cất lên, đòi hỏi giới chủ nhân phải thanh toán những nỗi khổ sai cực nhọc,
nỗi quạnh hiu kinh hoàng đang đè nặng lên các cánh đồng Đông Dương... Rồi ra
chúng ta có giành được tự do hay không, chưa thể biết được... chính vì vậy mà
tôi phải về Pháp.’’ Lúc đó Malraux chỉ mới vừa 24 tuổi.
Bao năm xa rồi, khi còn là một phóng viên chiến tranh
theo chân những đơn vị quân Miền Nam trên khắp vùng cao nguyên, trên Đồng Bằng
Châu Thổ Cửu Long với chằng chịt những sông cùng rạch rồi cả hành quân sang Cam
Bốt cũng trên Con Đường Vương Giả ấy, ông Khắc đã không thể không ngưỡng mộ và
thán phục sức chiến đấu dũng cảm và can trường của những người lính. Họ thắng
những trận đánh nhưng lại chẳng có quyền quyết định gì về cuộc chiến tranh. Để
rồi ba mươi năm ròng rã hy sinh, đã phải tủi hận kết thúc vội vàng bằng Một
Tháng Ba Gãy Súng.
Cũng bao năm sánh vai với đám nhà báo ngoại quốc tứ
xứ, không thiếu những tên vô lại như một lũ lính lê dương đánh thuê: Mấy ngày
gần chiến trận cũng được gọi là gần với cái chết, rồi trở về Thành Phố với rượu
thuốc phiện và gái, rồi thách đố nhau về labia majora của gái Khmer và gái Việt
khác nhau ra sao: Rằng của gái Khmer nảy nở hơn vì do di sản Ấn Độ còn của gái
Việt thì nhỏ hơn do từ truyền thống Mông Cổ. Ông Khắc cũng hiểu rằng đã có hàng
ngàn phóng viên nhà báo thuộc đủ quốc tịch trước sau đi vào cuộc Chiến Tranh
Việt Nam và cũng đã có 320 người không bao giờ trở về, họ được kể là tổn thất
phụ (collateral damages), nói theo ngôn từ giới quân sự Mỹ. Ông Khắc thì được
kể là người sống sót.
Đi giữa mênh mông Những Cánh Đồng Chết, ông Khắc vẫn
không sao hiểu được mối tương quan giữa nền văn minh Angkor rực rỡ và rồi nền
giáo dục Pháp với những tên tuổi Jean Jacques Rousseau, Montesquieu đầy tính
khai phóng mà sản phẩm của nó lại là những trái đắng dẫn tới một chánh sách
‘’tự diệt chủng (self inflicted genocide)’’ tàn bạo hơn cả thời Trung Cổ và ban
đầu người ta không thể tin là sự thật.
Tên Pol Pot gần như đồng nghĩa với Khmer Đỏ. Như những
người cộng sản khác, khó mà có một lý lịch rõ ràng của Pol Pot: ‘’Sinh năm 1928
tại Kompong Thom với tên Saloth Sar, bố Khmer mẹ người Hoa, gia đình Đạo Phật
nhưng học Trường Dòng ở Nam Vang, sau đó du học Paris theo Ngành Vô Tuyến, hoạt
động chánh trị với nhóm sinh viên Khmer ở Pháp cùng Khieu Samphan, Ieng Sary,
về nước đổi tên dạy học, tiếp tục hoạt động và lãnh đạo đảng cộng sản Khmer hay
Angkar chỉ có nghĩa là Tổ Chức của Khmer Đỏ’’.
Đối với thế giới ngày nay tên Pol Pot như biểu tượng
của tội ác nhưng thực ra tư tưởng chỉ đạo là từ Khieu Samphan xuất thân từ Đại
Học Sorbonne. Trong luận án Tiến Sĩ 1959 Khieu Samphan sau khi đã phân tích
những hậu quả của chánh sách Thực Dân Cũ và Mới đối với Cam Bốt và ông ta đi
tới kết luận ‘’để bảo vệ độc lập thật sự về chánh trị và kinh tế cho Cam Bốt
thì cần phải hoàn toàn cô lập quốc gia này và trở về một nền kinh tế nông
nghiệp tự túc.’’
Trước thời Khmer Đỏ, nói tới cách mạng ở Cam Bốt có
nghĩa là ‘’Nổi Dậy (Bambahbambor)’’. Thời đại Pol Pot, cách mạng lại có nghĩa
là ‘’Trở Về Quá Khứ (Pattivattna)’’, đó là ước vọng trở về với nền văn minh
Khmer cổ xưa, xoay ngược chiều kim đồng hồ đưa đất nước Cam Bốt trở lại thời
đại nguyên sơ ‘’Niên đại Số Không (Year Zero)’’ phủ nhận mọi giá trị của nền
văn minh hiện đại: Không có giáo dục, không có khoa học kỹ thuật, không có báo
chí và cả tiền tệ trao đổi cũng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Khieu Samphan ngay khi trở thành Quốc Trưởng Cam Bốt
đã tuyên bố: ‘’Chúng ta không cần máy móc. Chúng ta làm mọi thứ chủ yếu dựa
trên sức mạnh của nhân dân. Chúng ta hoàn toàn tự túc. Điều này phản ánh tính
anh hùng của dân tộc ta. Nó cũng chỉ rõ sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta. Bằng
tay không chúng ta làm nên tất cả.’’ Khẩu khí những người cộng sản lãnh đạo
thường giống nhau như vậy.
Và cũng bằng tay không ấy bao nhiêu sọ người bị đập
vỡ, bao nhiêu hố chôn người tập thể được đào lên và cũng đã mọc ra hàng loạt
những con đập thô sơ trên sông nhằm mục đích thủy lợi nhưng rồi ruộng đồng thì
chẳng thêm nước mà cá thì không vào được Biển Hồ. Không có chất xám của trí
tuệ, không có kỹ thuật cơ giới, chỉ có sức người vắt ra bằng bạo lực nên đê đập
chỉ là những mảnh nhỏ vụn thô sơ vô dụng và không còn đứng vững sau một hai cơn
lũ. Hậu quả là các nông trường bị hạn hán, để cứu vãn, hàng chục ngàn máy bơm
được nhập cảng từ Bắc Hàn nhưng chỉ một thời gian ngắn tất cả trở thành những
đống sắt han rỉ vứt rải rác trên khắp những cánh đồng chết. Và bây giờ thì dân
chúng Cam Bốt đang trở lại cùng nhau đập phá những ‘’con kênh Pol Pot’’ để cứu
ruộng và cứu lấy cá.
Lần thứ hai, cùng với Cao người bạn trẻ, trở lại với
con sông Mekong hùng vĩ, như ngược dòng-sông-lịch-sử, ngược dòng-sông-thời-gian
vẫn còn đó trên bờ lộ, nơi cửa rừng, cả trên những cánh đồng, những khối sắt
thép vô tri của cuộc chiến tranh đã qua, tất cả vẫn chậm chạp han rỉ và mục
ruỗng trong cái khí hậu ẩm thấp của lục địa Á Châu gió mùa.
Bằng Đường Số 6 đi Siem Reap phía Bắc Biển Hồ, ông
Khắc cũng có dịp trở lại thăm Angkor giữa khoảng cách thời gian ngót 30 năm, để
chứng kiến những khu Đền Đài đổ nát hơn. Ông cũng tới nơi mà cách đây hơn 70
năm André Malraux đã đặt chân đến và sau đó bị chánh quyền thuộc địa kết án tù
với tội danh ‘’ăn cắp các phù điêu gỡ từ đền Banteay Srei ở Angkor.’’ Cảnh tịch
liêu của Angkor gợi nhớ câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: ‘’Nền cũ lâu đài bóng
tịch dương’’. Thành quách Điện Đài Angkor vẫn còn đó, vẫn là ‘’chứng nhân vô
tri’’ cho những năm tháng máu me của người dân Cam Bốt. Chẳng ai có thể nghĩ
được rằng chỉ mấy năm trước đây thôi đã có những chú lính Khmer Đỏ tuổi chưa
quá 15 vẻ mặt dại khờ nhưng ánh mắt thì lạnh tanh lòng rực thù hận đã hướng
nòng súng AK vào những pho tượng tiên nữ Apsaras tuyệt mỹ như những tấm bia để
tập bắn. Tiếp nối sự suy tàn của đế quốc Angkor, lịch sử dân tộc Khmer là một
tiến trình bạo động và tự hủy khiến Henri Mouhot Nhà Thám Hiểm người Pháp đầu
tiên ngược dòng sông Mekong năm 1861 đã phải rất sớm đưa ra nhận xét: ‘’Hình
như người Khmer họ chỉ có phá hủy mà không bao giờ biết xây dựng lại.’’
Câu hỏi của Cao người bạn trẻ cũng là câu hỏi mà chính
ông Khắc chưa có lời giải đáp. Rằng một nền văn minh Angkor rực rỡ như thế mà
sao bị tiêu vong? Đã không chỉ có một mà bao nhiêu câu trả lời của các nhà
nghiên cứu và cũng chỉ là bấy nhiêu giả thiết.
Dễ dàng thì cho rằng đế quốc Angkor đã bị tiêu diệt do
một cuộc chinh chiến xâm lăng bởi một nước lân bang bị đội quân hùng mạnh
Champa tàn phá rồi sau đó bị Xiêm đánh. Rằng chánh sách tàn bạo bóc lột sức lao
động suốt 30 năm để hoàn thành công trình Angkor khiến dân chúng phải bỏ đi
(voted with their feet), nói theo kiểu nhà báo Tây Phương. Rằng chánh sách sai
lầm về dẫn thủy đã phá hủy toàn thể nền nông nghiệp và trung tâm kinh tế đã
phải di chuyển từ trong lục địa ra vùng duyên hải... Cam Bốt ngày nay là một
đất nước rộng gần gấp 30 lần diện tích Đảo Singapore với một vùng châu thổ phì
nhiêu, là một trong những vựa lúa của Đông Nam Á. Hậu quả những năm chiến tranh
do Mỹ ném bom, sự tàn phá của Khmer Đỏ khiến người dân Cam Bốt nay không đủ gạo
ăn. Đói kém thất nghiệp, gái quê đổ về Battambang và Nam Vang để kiếm sống. Các
cô hoặc quần quật làm việc 16 giờ một ngày trong các khách sạn tiệm ăn phục vụ
cho hơn 20 ngàn lính mũ xanh Liên Hiệp quốc UNTAC (United Nations Transitional
Authority in Cambodia), nhân viên các tổ chức cứu trợ, các doanh nhân ngoại
quốc và dĩ nhiên cả du khách. Hoặc nếu không muốn phải vất vả con số này thì
không ít, các cô chọn con đường bán thân mau có tiền nhất là khi gia đình nghèo
khó của họ ở quê hoàn toàn sống nhờ vào những đồng tiền ấy. Vẫn còn cảnh buôn
người của thời Trung Cổ, có cả những cô gái được mua từ Việt Nam đem sang Cam
Bốt để phục vụ chốn lầu xanh. Mean touk mean tray, mean luy mean srey (có nước
có cá, có tiền là có gái). Ngạn ngữ Khmer đã nói như vậy.
Như từ bao giờ, con sông Mekong hùng vĩ vẫn không thay
đổi vẫn tiếp tục nhịp điệu ngàn năm, tiếp tục là mạch sống của dân cư sống hai
bên bờ. Nó cũng là con sông thời gian soi bóng sự thịnh suy của những nền văn
minh, những buổi bình minh rồi lại hoàng hôn.
Từ Lào qua khỏi Thác Khone hay Tứ Thiên Đảo, nơi chấm
dứt rất sớm giấc mơ của Francis Garnier cách đây hơn một trăm năm khi thám hiểm
ngược dòng sông Mekong để tìm một thủy lộ giao thương với Trung Quốc. Chảy vào
lãnh thổ Cam Bốt con sông Mekong còn phải qua thêm một khúc ghềnh thác Sambor
giữa Stung Treng và Kratié trước khi thực sự thả mình hiền hòa trên Vùng Châu
Thổ, mênh mang trải rộng ra từ ba tới năm cây số. Trên khúc sông nơi phụ lưu Se
Kong bắt nguồn từ Việt Nam đổ vào, vẫn còn thấy xuất hiện những con cá voi hiếm
hoi. Trước đây phỏng định rằng còn khoảng hơn 100 con, nhưng do lính và cả
thường dân Cam Bốt sử dụng chất nổ bừa bãi giết cá hàng loạt và đồng thời cũng
sát hại luôn cả giống cá voi này. Tương truyền rằng cá voi cũng đã từng được
nuôi trong các Hồ của Điện Đài Angkor từ nhiều Thế Kỷ trước. Chao Phraya con
sông duy nhất ở Thái Lan có cá voi thì nay cũng đã bị tiêu diệt do nước sông
quá ô nhiễm.
Cư dân sống hai bên bờ sông Mekong luôn luôn bị tri
phối bởi khí hậu Gió Mùa Tây-Nam thổi vào từ Vịnh Thái Lan. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng Năm đến tháng Chín, kết hợp với mùa tuyết tan từ rặng núi Hy Mã Lạp Sơn,
nước sông Mekong dâng cao từ 2 tới 8 mét mênh mông tràn bờ làm ngập lụt một
phần ba diện tích đất đai, phủ lớp phù sa màu mỡ mỗi năm lên khắp ruộng đồng.
Đó cũng là thời gian con sông Tonlé Sap đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ, tăng
diện tích mặt hồ tới 10 ngàn cây số vuông, gấp bốn lần so với mùa khô và làm
ngập hết các khu rừng lũ (flooded forest). Đây là Hồ nước ngọt lớn nhất Đông
Nam Á. Các đàn cá từ sông Mekong cũng lội ngược dòng sông Tonlé Sap tới các khu
rừng lũ chọn nơi trú ngụ an toàn để sinh đẻ và tăng trưởng.
Rồi mùa mưa qua đi để bước sang mùa khô từ tháng 1 tới
tháng 5. Đây là thời gian mực nước bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại
chảy xuôi dòng với vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong và diện
tích Biển Hồ bắt đầu co lại. Đây cũng là Ngày Hội Nước Giựt Bom Oum Touk truyền
thống của quốc gia Cam Bốt, được tính theo tuần trăng vào khoảng cuối tháng 10
đầu tháng 11 diễn ra tại khu mà người Pháp gọi là Quatre Bras (nơi bốn nhánh
sông hội tụ). Cánh tay thứ nhất Mekong Thượng là dòng chính sông Mekong chảy từ
hướng Đông-Bắc xuống tới gần Nam Vang và bắt đầu chia làm hai: Mekong Hạ và
sông Bassac là cánh tay thứ hai và ba cũng là sông Tiền và sông Hậu khi chảy
vào Việt Nam. Còn cánh tay thứ tư là Con sông Nước Ngọt sông Tonlé Sap bắt
nguồn từ Biển Hồ. Trong dịp hội Lễ Vua và Hoàng Hậu tới đây chung vui với thần
dân, khai mùa cho ngư dân đánh cá thu hoạch, cho nông dân bắt đầu mùa gieo
trồng. Bị gián đoạn nhiều năm vì chiến tranh cho mãi tới năm 91 khi Thái Tử
Sihanouk vẫn được dân chúng yêu mến trở lại Cam Bốt và mở lại ngày hội lễ Bon
Oum Touk trên một vùng đất còn dấu vết hoang tàn của những Cánh Đồng Chết. Cao
hỏi ông Khắc đã nghĩ sao về Sihanouk. Với cái nhìn của một nhà báo, ông Khắc
cho là Sihanouk đã bỏ lỡ những vận hội của lịch sử (Il a manqué les rendez-vous
de l’histoire). Ông ta luôn luôn là vấn đề nhưng cũng lại là giải pháp cho Cam
Bốt. Bàn tay ông ta không trực tiếp vấy máu nhưng chính ông đã im tiếng thỏa
hiệp với Khmer Đỏ trong những năm tắm máu của những người dân Cam Bốt.
Theo tục lệ những ngày trước hội lễ, thuyền đua giữ
trong các chùa được đem ra sơn phết lại và vẽ mắt rắn thần Naga, Naga là tên
con rắn huyền thoại ngậm cả khối nước lũ của con sông Mekong giúp nông dân
tránh lụt và có thể canh tác ruộng đồng. Vào ngày hội hàng trăm con thuyền như
vậy với đủ tay trèo tụ tập trên mặt sông. Dân chúng đứng đông đảo hai bên bờ và
luôn luôn được giúp vui bởi các tay hề hát những bài ca riễu. Lẫn vào đám đông
ấy có không ít những người cụt chân vì mìn bẫy phải đi ăn xin. Hội vui kéo dài
đến ngày thứ ba và kết thúc vào buổi tối sau hoàng hôn với đủ các thuyền đua và
quan khách. Vua và Hoàng Thái Hậu ngự trên một cung điện nổi để chứng kiến con
thuyền thắng giải vinh dự tiến ra khánh thành ngày hội lễ Bom Om Touk. Riêng
Hoàng Thái Hậu thì tay cầm một vỏ sò mang đầy nước ngọt của con sông Mekong vẩy
lên má lên tóc theo nghi thức Chào Đón Trăng Lên, trong muôn tiếng vui reo hò
của đám đông dưới ánh sáng rực rỡ của pháo bông: Để thực sự khởi đầu cho một
mùa gieo trồng và những ngày chài lưới rộn rã. Bị cuốn hút vào cuộc vui đầy
sinh lực ấy người ta dễ dàng quên đi Khmer Đỏ quên đi Cánh Đồng Chết.
Không phải chỉ có đền đài Angkor, những Cánh Đồng
Chết, Cam Bốt còn được cả thế giới biết đến với những bãi mìn lớn nhất thế giới
và hàng tháng vẫn tiếp tục gây què cụt cho hàng chục ngàn người khác. Không có
một gia đình nào còn nguyên vẹn và cũng không có một gia đình nào mà không có
kinh nghiệm thật đau thương không thể nào quên. Con số bốn triệu trái mìn rải
ra trên khắp lãnh thổ Cam Bốt không phải là xa với sự thật và vẫn là một vũ khí
tuyệt hảo để tiếp tục cuộc chiến tranh hao mòn. Cao hỏi ông Khắc:
- Nhưng mìn ở đâu mà lắm thế hả anh?
- Đó là di sản của các phe phái tham chiến tại Cam
Bốt. Mìn bẫy đã được gài vào Cam Bốt từ nhiều năm trước bởi các Toán Lực Lượng
Đặc Biệt Mỹ từ Việt Nam xâm nhập, rồi từ 67 Không Lực Mỹ thả mìn dọc theo biên
giới Việt Cam Bốt, rồi tới hàng ngàn tấn mìn khác gài bởi quân cộng sản Bắc
Việt, nhưng nhiều nhất vẫn là mìn Trung Cộng do Khmer Đỏ gài lại trước khi tháo
chạy. Phỏng định rằng chỉ riêng Khmer Đỏ không thôi đã để lại khoảng ba triệu
trái mìn chống cá nhân. Do đó nơi nào cũng có thể là cạm bẫy chết người đối với
người dân Cam Bốt.
Cảnh thường gặp đối với du khách là nhan nhản những
người què cụt đi ăn xin trước những quán ăn và các khách sạn trong Thủ Đô Nam
Vang.
Phía biên giới Tây-Nam giáp với Thái Lan là hai rặng
núi Đậu Khấu và núi Voi (Cardamons - Elephants mountains), nơi của rừng già
với những cây gỗ quý, cũng là nơi mà trước đây có đủ loại cọp voi trâu rừng báo
vằn và cả một loài thú rất hiếm kouprey đã được chọn làm biểu tượng cho World
Wide Fund for Nature, nhưng nay thì chắc đã bị tiêu diệt do bị săn làm con thịt
phần còn lại thì bị giết hay què cụt bởi vô số mìn bẫy.
Ông Khắc nhận định:
- Đâu phải chỉ có nỗi kinh hoàng quá khứ mà là cả ở
tương lai: Những bãi mìn ấy vẫn tiếp tục phá vỡ cuộc sống thanh bình của người
dân Cam Bốt, nó gieo thảm họa chết chóc bất cứ lúc nào trong cuộc sống hàng
ngày của họ, nó ngăn chặn mọi triển vọng hồi phục của quốc gia này.
Rồi ông Khắc chuyển mối quan tâm xuống Đồng Bằng Sông
Cửu Long:
- Đồng bào châu thổ mấy năm gần đây khốn khổ vì những
con lũ do tính bất thường của nó: Lụt tới sớm hơn đổ về nhanh hơn lại lớn hơn
nên thiệt hại rất cao kể cả về nhân mạng. Người ta nói tới thời tiết bất thường
khắp thế giới do ảnh hưởng của El Nĩno, có phải vậy không?
Cao tìm một cách giải thích khác:
- Trực tiếp nhất vẫn là do hậu quả phá rừng trên
Thượng Nguồn mà các nhà bảo vệ môi sinh gọi là ‘’lối phá rừng tự sát (suicidal
deforestation)’’. Ở Lào thì quân đội độc quyền khai thác gỗ, ở Miên thì Khmer
Đỏ, năm 92 đã có hơn một triệu hecta rừng mưa (rain forest) và rừng lũ bị phá.
Dân đen Cam Bốt thì đói khát chứ lính Khmer Đỏ thì mập ú, chỉ riêng khu rừng
Pailin họ đã kiếm hàng triệu đôla mỗi tháng do phá rừng bán gỗ cho các con buôn
Thái Lan... Mà rừng thì như một tấm bọt biển khổng lồ giữ nước của những tháng
mưa để rồi suốt năm rỉ rả chảy vào các phụ lưu trước khi đổ vào con sông
Mekong.
Cao còn bổ túc thêm:
- Chủ trương phá rừng lũ quanh Biển Hồ của Pol Pot còn
làm sút giảm nghiêm trọng nền ngư nghiệp của xứ này. Mực nước cạn tới mức báo
động, khiến các đoàn di ngư từ sông Mekong vào Biển Hồ đã không còn nơi trú ngụ
để sinh sôi nảy nở.
Ông Khắc nói giọng cảm xúc:
- Phải chăng đó là cái vòng luẩn quẩn của các nước kém
phát triển, đã nghèo khó lại phung phí nguồn tài nguyên nên càng nghèo khó hơn.
Thế còn các dự án thủy điện thì sao?
Đây là lãnh vực rất am tường của Cao, anh nói:
- Trước đây là Ủy Ban sông Mekong (MR Committee), nay
là Ủy Hội Sông Mekong (MR Commission), đã hoạch định dự án một chuỗi 17 con đập
trong lãnh thổ Cam Bốt mà người ta tin rằng có vai trò thiết yếu trong nỗ lực
canh tân đất nước này. Nó cũng đáp ứng với kế hoạch xây đập của các quốc gia
Thượng Nguồn: Trung Quốc 9 đập bậc thềm, Thái Lan hơn 40 đập và Lào 56 đập, nếu
không phát triển đồng bộ Cam Bốt là nước Hạ Nguồn sẽ phải chịu những hậu quả
rất bất lợi về kỹ thuật kinh tế và cả môi sinh.
Cao tiếp đi vào chi tiết:
- Đã có hai dự án lớn được hoạch định từ nhiều năm
trước: Dự án thủy điện Sambor công suất 1000MW phía Bắc Thị Trấn Kratié cách
Nam Vang 140 dặm có khả năng tiêu tưới cho hơn 90 ngàn mẫu Anh, mực nước dâng
sẽ làm ngập 800 cây số vuông ghềnh thác sẽ mở ra một thủy lộ giao thông giữa
Lào và Cam Bốt. Nhưng nó cũng khiến cho 60 ngàn người mất hết nhà cửa đất đai
với hậu quả môi sinh không sao lường trước được. Riêng về dự án Tonlé Sap là
một ý niệm khá sáng tạo của Ủy Ban sông Mekong trước đây. Biển Hồ sẽ được sử
dụng như một hồ chứa thiên nhiên. Cửa đập được mở ra trong mùa lũ suốt 5 tháng
để nước chảy ngược vào Biển Hồ tới mức dự trữ cao nhất trước khi được đóng lại
và như vậy sẽ giảm lũ lụt dưới vùng châu thổ. Trong mùa khô hay mùa nước thấp,
cửa đập được mở ra từng phần, có khả năng điều hòa mực nước sông Mekong đủ sâu
cho tàu lớn có thể tới tận Nam Vang. Do giảm thiểu nước mặn vào vùng châu thổ,
từ đó tăng thêm hai triệu rưỡi mẫu Anh đất canh tác mà trước đây bỏ hoang do bị
muối phèn, khô hạn hay lũ lụt. Ngoài ra mực nước Biển Hồ vốn đã bị cạn, nay sẽ
có mực nước cao hơn một mét trong mùa nước thấp sẽ làm gia tăng lượng cá Biển
Hồ đang có nguy cơ bị sa sút.
Cao tiếp:
- Hứa hẹn bao nhiêu điều lợi nhưng thiếu tiền, thiếu
nhân lực lại thêm tình hình chánh trị luôn luôn bất ổn nên các dự án của Ủy ban
sông Mekong từ hơn 40 năm qua vẫn chỉ là trên giấy. Duy có dự án Prek Thnot đã
được khởi công từ những năm 60 phải bỏ dở vì chiến tranh rồi sau đó còn bị
Khmer Đỏ phá hủy thêm nên chẳng ai mà dự liệu được đến bao giờ mới hoàn thành.
Cho đến nay Nam Vang vẫn là Thành Phố lớn nhất bên bờ con sông Mekong, được
hình thành cách đây hơn sáu Thế Kỷ. Tương truyền rằng khi thấy hình bốn bức
tượng Phật nổi trôi trên mặt nước sông Mekong tới đây thì dừng lại, Nhà Vua cho
đó là điềm lành nên chọn nơi đây làm Thủ Đô để xây dựng hoàng cung. Nam Vang
ngày nay với ngót một triệu dân, cũ kỹ và nhếch nhác, với dấu vết thời thuộc
địa còn lại là những biệt thự của người Pháp trước đây nhưng đã rêu phong.
Những con đường chính mang tên các vị Vua Chúa và cả những nhà lãnh đạo thế
giới đương thời như De Gaulle, Nehru, Mao Trạch Đông thì cũng đã luôn luôn đổi
thay theo bước thăng trầm của những chế độ chánh trị. Chiếc cầu sập không được
sửa chữa, bến cảng hoạt động cầm chừng với những cần trục hoen rỉ. Chỉ mấy năm
trước đây thôi, Phó Tổng Thống Mỹ Spiro Agnew tới Nam Vang tặng Tướng Lon Nol
một ‘’Con Voi Trắng’’ vật linh biểu tượng cho vận may nhưng cũng đã không cứu
vãn được chế độ cực kỳ tham nhũng ấy không xụp đổ. Để rồi vào tháng 4 năm 75,
đoàn quân chiến thắng Khmer Đỏ với đồng phục đen đội nón Mao mang dép râu Hồ
chí Minh đi vào Thủ Đô Nam Vang với dân chúng đứng hai bên đường hoan nghênh
chào đón. Tập đoàn Lon Nol thì đã bỏ chạy sang Hawaii mang theo hàng triệu đôla,
duy chỉ có Long Boret và Sirik Matak Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng ở giờ phút chót
đã không chịu bước lên trực thăng Mỹ mà can đảm chọn ở lại và cũng biết là để
nhận lấy cái chết chắc chắn từ tay Khmer Đỏ.
Sirik Matak cũng là một ông Hoàng, người đóng vai trò
then chốt trong vụ đảo chánh của Lon Nol năm 1970 đã bị Khmer Đỏ lên án tử hình
với tội danh là ‘’tên đầu sỏ trong 7 tên phản bội’’. Trong bức thư tuyệt mệnh
gửi Đại Sứ Mỹ John Gunther Dean, trao tay đám ký giả ngoại quốc, Sirik Matak
viết: ‘’... Tôi cám ơn ông Đại sứ có nhã ý giúp tôi phương tiện thoát tới tự
do. Tôi không thể ra đi trong một tình huống hèn nhát như vậy... Tôi không
tưởng tượng được rằng một nước lớn như Hoa Kỳ mà lại có lúc đang tâm bỏ rơi một
dân tộc chọn tự do. Các ông đã từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi không làm
gì khác hơn được. Các ông ra đi, chúc ông và nước Mỹ tìm được hạnh phúc dưới
bầu trời này. Nếu phải chết tại nơi đây trên quê hương mà tôi yêu mến, thì cũng
để nhớ rằng tất cả chúng ta sinh ra và một ngày nào đó đều phải chết. Riêng tôi
chỉ có phạm lỗi lầm là đã đặt tin tưởng vào Người Mỹ các ông...’’
Khác với giới lãnh đạo của miền Nam Việt Nam, hô hào
người khác ở lại cầm súng chiến đấu còn họ thì trước sau cúi mặt ra đi, Sirik
Matak và Long Boret chọn ở lại, cả hai đã bị hành quyết ở Olympic Stadium, nơi
mà trước đó vài ngày các đoàn trực thăng đã di tản số tướng lãnh và viên chức
cao cấp chế độ cũ còn lại qua hết Thái Lan. Ông Khắc cho rằng một đất nước Cam
Bốt còn những con người như vậy họ vẫn có lý do để mà hy vọng. Có người kể lại
rằng một ngày trước khi lực lượng Khmer Đỏ tràn vào Thủ Đô, họ đã thấy một con
Cá Sấu Trắng nổi lên trên một khúc sông gần Nam Vang. Sấu trắng là vật thần
thoại của dân tộc Khmer và tương truyền rằng loại cá này chỉ xuất hiện khi đất
nước có biến cố trọng đại. Và chẳng ai có thể tưởng tượng được biến cố ấy sẽ ra
sao. Nhưng chỉ ít lâu sau đó thì dân chúng bị lùa hết ra khỏi Thủ Đô nếu chưa
bị sát hại ngay thì cũng bị đưa tới các trại tù lao cải chết dần mòn vì đói
khát bệnh tật. Theo các nhân chứng sống sót kể lại thì những nạn nhân bị giết
rất ít bằng súng mà đa số bằng búa, ống sắt hay Xiêmn nhọn hay bị chôn sống
trong những nấm mồ tập thể ngay trên những ruộng nước. Cả chục năm sau trên
những thửa ruộng lúa xanh nhiều nơi những miếng xương sọ người những mảnh quần
áo rách còn vương vãi trên nền đất vẫn là một cảnh tượng hãi hùng.
Rồi hàng sư đoàn quân Cộng sản Việt Nam tràn qua Nam
Vang năm 79 cho điều mà họ gọi là giải phóng Cam Bốt, Khmer Đỏ bị đánh bật, một
chánh phủ mới thân Việt Nam được hình thành nhưng rồi mười năm sau ‘’cái ngày
không tránh được (the inevitable day)’’ là quân cộng sản Việt Nam phải rút ra
khỏi Cam Bốt. Một hiệp ước ngừng bắn được ký kết giữa các phe. Một lần nữa ông
Hoàng Sihanouk trở lại hoàng cung. Sau Việt Nam và Lào, Cam Bốt bắt đầu theo
chánh sách đổi mới, chấp nhận quyền tư hữu. Đã có những dấu hiệu của một đất
nước hồi sinh. Những tàu hàng lớn của Singapore vào bến bỏ neo đổ lên bờ những
hàng hóa và xe hơi mới của Nhật. Khách sạn Cambodiana bên bờ sông Mekong mới
xây xong, đã lại đầy ắp du khách và các doanh nhân Thái Lan, Singapore, Hồng
Kông tới tìm cơ hội làm ăn.
Cho dù có hơn 20 ngàn lính mũ xanh nhưng bạo động vẫn
tiếp diễn bên ngoài Nam Vang. Trộn lẫn chiến tranh và niềm hy vọng hòa bình,
tại Thủ Đô khách sạn tiệm ăn mọc ra như nấm. Đường xá bắt đầu kẹt xe, Phi
Trường Quốc Tế Pochentong tấp nập những chuyến bay tới từ Singapore, Bangkok,
Sài Gòn. Các chuyến bay shuttle đi Angkor đã tăng lên 5 chuyến mỗi ngày cho dù
có xảy ra vụ bắt cóc và sát hại du khách. Như một truyền thống của các nước Á
Châu, xây dựng và tham nhũng đã cùng một lúc phát triển ở Cam bốt: Tương lai
chỉ là một chút ánh sáng le lói rất xa ở nơi cuối đường hầm.
Đường lên Biển Hồ, theo Đường số 5 dọc theo Hữu Ngạn
con sông Tonlé Sap, trong bầu không khí thật nóng ẩm nhưng hai bên đường lúa
vẫn xanh. Xa xa là làng mạc nhà cửa thưa thớt, với các cây trái vùng nhiệt đới
soài chuối dừa và cả những cây thốt nốt thẳng cao. Trên đường chỉ gặp những
người đàn bà Khmer trong những chiếc sarong sậm màu gầy ốm da nâu mắt sâu đen
buồn bã và rất vắng bóng dáng đàn ông. Vài chiếc cầu sắt cũ rỉ với mấy người
lính Cam Bốt trẻ măng lụng thụng trong bộ quân phục màu xanh cũ sờn duy chỉ có
cây súng AK với băng đạn cong giết người là vẫn mới. Không có gì bảo đảm là con
lộ ấy có an ninh ban ngày, lại càng kinh sợ hơn vào ban đêm. Sau nhiều vụ phóng
viên mất tích, như một ‘’golden rule’’của đám nhà báo ngoại quốc trên xứ Chùa
Tháp, là không bao giờ di chuyển bên ngoài Nam Vang từ sau bốn giờ chiều.
Thị Trấn Kompong Chhnang bên bờ sông Tonlé Sap vẫn là
Bến Cảng lớn của những vựa cá. Nơi dốc bến đá, từ những chiếc ghe chài được đưa
lên hàng tấn những cá tươi, được đổ vào những thùng nước đá hay những chiếc
thúng trước khi được chất lên các xe tải hay những chiếc xe ngựa thồ để chuyển
về các làng mạc xa xôi. Sin Heang thành viên Ủy Ban Sông Mekong Cam Bốt cho
biết cứ 4 ký cá trong các bữa ăn của người dân Cam Bốt thì đã có 3 ký đánh lên
từ Biển Hồ.
Phần đường còn lại thì bụi mù với bầm rập những ổ gà.
Khu rừng lũ quanh Hồ đã bị phá hủy rộng rãi trong thời Pol Pot, không có cây
lớn mà chỉ còn những khu đầm lầy (mudflat) với những bụi cây thấp rậm rạp. Tám
ngàn cây số vuông rừng lũ nay chỉ còn chưa tới một phần ba. Hậu quả không có
cây chống lũ bờ hồ bị sạt lở bao nhiêu lớp đất màu mỡ trút xuống đáy hồ. Chỉ
trước đây ít năm thôi vào mùa khô mực nước Hồ sâu trung bình hai mét thì nay có
nơi chỉ còn chưa đầy nửa mét. Mùa hè nước cạn lại rất nóng khiến loại cá trắng
cả ngàn con chết nổi phều, chỉ có giống cá đen có mang thở có thể trốn rúc
xuống bùn sâu nên chịu được và sống sót. Có những con cá đen phải dùng vây lội
bộ (walking fish), trên cạn nhiều giờ chỉ để di chuyển từ vũng cạn tới các
trũng nước sâu. Mất nguồn cá không chỉ là mối đe dọa trên sự sống của ngư dân
Biển Hồ mà còn làm mất đi nguồn chất đạm chính trong mỗi bữa ăn của người dân
Cam Bốt. Các nhà môi sinh báo động Biển Hồ đang có nguy cơ về một ‘’thảm họa
môi sinh (ecological calamity).’’
Bằng thuyền chúng tôi tới khu làng nổi, với sặc mùi cá
khô phơi trên mái những căn nhà đủ dạng đủ kiểu: Các tiệm ăn tiệm tạp hóa tiệm
làm tóc và cả trạm xăng nhớt, chỉ có khác là di chuyển thì bằng xuồng. Lại còn
những khu nhà lồng (floating cages), nuôi cá giống như ở Châu Đốc. Không thiếu
những gia đình ngư dân Việt Nam mà người Khmer gọi là ‘’Youn (người Bắc)’’ sống
ở đây nhưng khó mà phân biệt được họ với người Khmer trong sinh hoạt. Chỉ ngủ
qua đêm trên Biển Hồ, cảm giác thật kỳ lạ vào buổi sáng tinh sương bên ngoài
trời còn tối, Cao chợt nghe thấy mấy người trong bọn họ loáng thoáng nói với
nhau bằng mấy câu tiếng Việt khi chuẩn bị ghe tàu ra khơi. Cáp Duồn (chặt đầu)
thả trôi sông vẫn là mối ám ảnh kinh hoàng của các gia đình ngư dân Việt không
phải chỉ với Khmer Đỏ mà ngay với những người Miên sẵn có ác cảm bắt nguồn từ lịch
sử nhưng xem ra đám người Việt ấy chưa bao giờ có ý định bỏ về nước hay sẽ vĩnh
viễn rời xa Biển Hồ.
Thuyền máy lớn đưa đoàn ra khơi, phía trước là trời
nước mênh mông không thấy đâu là cuối bãi cuối bờ. Trên bầu trời mây vần vũ,
dưới mặt hồ thì cuộn sóng, cho người ta cái cảm giác đang ngoài biển khơi chứ
không phải trên một mặt hồ trong đất liền. Khi nhắc tới dự án đập thủy điện
Tonlé Sap thì Sin Heang có thái độ chống đối quyết liệt với lý lẽ không phải là
thiếu vững chắc: Con đập sẽ gây trở ngại cho các đoàn di ngư từ ngoài Biển Đông
lội ngược dòng 4-5 trăm cây số để vào Biển Hồ, mà mỗi giống cá có một thời điểm
và không gian riêng nên sẽ không có một cửa đập hay thang cá nào (fish ladder),
đáp ứng được những yêu cầu khác biệt ấy.
Nhưng liệu có được mấy người như Sin Heang? Cho dù đã
có lệnh cấm, nông dân vẫn tiếp tục phá nốt khu rừng lũ để có thêm đất canh tác.
Số người không có bao nhiêu nhưng sự tàn phá của họ trên thiên nhiên thật đáng
kể. Chính con người đã biến biển Aral ở Trung Á thành sa mạc. Không phải chỉ có
Pol Pot, mà ngay chính những người nông dân Cam Bốt sẽ quyết định có giữ trái
tim Biển Hồ đang thiếu máu ấy còn đập nữa hay không?
CHƯƠNG VIII
BÊN TRỜI TIẾNG HẠC KÊU THƯƠNG
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh dây thì về
Ca Dao Nam Bộ
Là thành viên Ủy Ban Sông Mekong, Hộ có dịp để thấy
được con sông ấy hùng vĩ nhưng cũng mong manh ra sao. Sinh ra và lớn lên từ
Vùng Đồng Bằng Nam Bộ, Hộ đã quá thân thiết với con sông ấy. Hồi nhỏ thì chỉ
biết gắn bó với khúc Sông Tiền nơi quê nhà qua hai mùa lũ hạn, lớn lên thì vươn
tới suốt chiều dài của dòng sông, thân thuộc với nhịp điệu của con sông Mekong
như nhịp đập của trái tim mình.
Con sông ấy tưởng như bất trị nhưng lại là nguồn sống
từ ngàn năm của người dân Đồng Bằng Châu Thổ. Mới hơn trăm năm trước người ta
cũng chưa biết con sông ấy khởi nguồn từ đâu.
Con sông xanh cuồng nộ ấy như một con rồng với đầu ẩn
khuất trên chín từng mây trên ngọn núi thiêng bên cao nguyên Tây Tạng với cả
thân rồng uốn lượn khi thì dũng mãnh sủi bọt gào thét xuyên qua những cao
nguyên và rừng già khi thì trải mình hiền hòa trên các bình nguyên rồi Đồng
Bằng Châu Thổ với chín cái đuôi không ngừng quẫy đập để vươn tới thềm lục địa
Biển Đông. Vào mùa lũ tháng Chín thì con sông ấy biến thành biển nước mênh mông
thắm đỏ mang đầy phù sa tràn bờ dìm sâu hết cả ruộng đồng, và nhà cửa thì chỉ
còn như những chiếc nón úp trên mặt nước. Tháng Tư mùa khô, con sông ấy vẫn phô
bày kích thước của nó: vẫn khối nước một màu nâu sậm trải rộng ra từ hai tới ba
dặm, cảnh trí quạnh quẽ, làng mạc thì thưa thớt. Ngược dòng xa hơn về phía Bắc,
không xa con thác Khemerat, đã mấy tháng sau mùa mưa, Hộ đã không thể không
ngạc nhiên khi thấy vẫn có những khúc sông cạn như sắp khô kiệt tưởng chừng có
thể lội bộ băng qua. Hộ cũng hiểu rằng nếu chưa có hạn hán dưới Đồng Bằng Châu
Thổ, chưa có những cơn đau thắt ngực phía Hạ Nguồn nơi quê anh là do còn các
dòng phụ lưu (tributaries), như những mạch phụ (collaterals).
Sông Mekong với Hộ bây giờ còn mang ý nghĩa của những
mô hình cơ thể học, hơn thế nữa còn là một mô hình toán học (Mathematic Model),
với đầy rẫy những con số: 40 ngàn mét khối giây lưu lượng mùa lũ, chỉ còn 2
ngàn mét khối giây mùa khô, 20 lần thấp hơn, lòng sông không những thiếu độ dốc
mà lại góc độ âm nghĩa là cao hơn khi tiến gần ra biển. Rằng chỉ mới hơn mấy
chục ngàn năm trước đây thôi, con sông Mekong hoang dã mới bắt đầu tạo hình
Vùng Đồng Bằng Châu Thổ từ đáy biển, do chất pyrite có trong trầm tích phù sa
và cả thêm từ chất sắt trong phù sa kết hợp với sulphur trong nước biển để tạo
thành hợp chất pyrite. Với thời gian tính bằng thiên niên kỷ, dần dần đất nhô
lên khỏi mặt biển và để rồi hàng năm được các con nước lũ đổ về phủ lên tầng
tầng lớp lớp phù sa ngày mỗi dày thêm để trở thành những ruộng đồng mênh mông
và màu mỡ.
Nhưng dưới lớp phù sa tân bồi ấy, chất pyrite còn đó,
bị dìm sâu trong đất hay dưới làn nước. Chỉ khi phơi ra ngoài dưỡng khí, nó trở
thành chất phèn chua acit sulphate, thẩm thấu lên mặt đất, bắt đầu hoành hành
và là nguyên nhân nỗi khổ của người nông dân Đồng Bằng Nam Bộ. Hộ sau này cũng
được biết thêm rằng tính thổ nhưỡng vùng châu thổ cũng rất thay đổi ngay trong
một khoảng cách gần. Ở một nơi này thì rất chua trong khi cách đó khoảng một
trăm mét đã hoàn toàn đổi khác, do mực nước (thủy cấp), độ dày đất tân bồi và
các loài thảo mộc trên đó. Chính Hộ đã học được biết bao nhiêu kinh nghiệm từ
những người nông dân. Họ hiểu rõ hơn ai hết vùng đất đai mà họ đang sống như
biết rõ dấu chỉ trên bàn tay của họ và đã khôn ngoan tìm ra cách gieo trồng
trong những điều kiện tưởng như vô phương tìm ra lời giải đáp. Họ cũng hiểu
rằng đất phèn như con cọp ngủ trong hang và chẳng bao giờ nên đánh thức một con
cọp đang im ngủ!
Cho dù chẳng phải là một trí thức trong tháp ngà, từng
là tác giả của một luận án đồ sộ về ‘’Hệ Sinh Thái của Vùng Hạ Lưu Sông
Mekong’’ nhưng chính Hộ đã bị thực tế dạy cho những bài học đích đáng. Khởi đi
từ lề lối suy nghĩ kinh điển cho rằng để tăng năng xuất lúa thì phải ngăn mặn
trong mùa khô và trong mùa lũ thì cần những đập lớn trữ nước để sả ra trong mùa
khô, rửa muối rửa phèn cho đất và dẫn tưới ruộng đồng. Nhưng thay vì ngăn mặn
thì người nông dân Vùng Nam Đồng Bằng Châu Thổ lại cho dẫn nước biển vào ruộng
trong mùa hạn mà ban đầu ai cũng cho là điên khùng. Nhưng thực ra họ đã áp dụng
kỹ thuật ‘’trầm thủy’’ với kết quả thật kỳ diệu: Đất bớt phèn, đến mùa mưa thì
đã có nước rửa mặn cho đất khiến mùa màng tốt tươi, chưa kể thêm cái lợi khác
là nước biển đã đem tôm cá vào ruộng đồng và mương rạch. Chính người nông dân
đã sáng tạo ra một ‘’nền nông nghiệp lúa-tôm (rice-shrimp culture)’’ phù hợp
với hệ sinh thái phức tạp của Vùng Đồng Bằng Châu Thổ.
Và đã trong nhiều kỳ trên kênh đài truyền hình, không
phải ‘’thày Hộ’’ mà là người nông dân đầy sáng tạo ấy lên đài hướng dẫn bà con
làm sao tận dụng cả nguồn nước mặn trong kết hợp trồng lúa và nuôi tôm. Sự kiện
bà con nông dân phá vỡ con đê ngăn mặn ở Gò Công Tây là bài học thấm thía và
nhớ đời cho chính Hộ và đám kỹ sư thủy lợi đến từ trung ương.
Rồi lại còn thiên tai lũ lụt mỗi năm, ai cũng cảm thấy
bất an khi đương đầu với con rồng bất kham ấy. Với bài học ngàn năm từ con Sông
Hồng, người ta muốn chế ngự nó bằng những con đập với hệ thống đê điều vững
chắc. Sơn Tinh (Thần Núi) biểu tượng cho sức mạnh của đê điều, Thủy Tinh (Thần
Nước) là sức tàn phá của những cơn lũ. Cả hai đều muốn chiếm đoạt nàng Công
Chúa xinh đẹp là Vùng Đồng Bằng Châu Thổ.
Nước dâng cao thì núi vươn cao và cuối cùng Sơn Tinh
đã thắng. Đó là chiến thắng của sức người với hệ thống đê điều hai bên bờ con
Sông Hồng.
Nhưng xem ra người nông dân Đồng Bằng Cửu Long có cái
nhìn Lão Trang hơn, thay vì trấn áp thì họ chọn sự thách đố chung sống với
những cơn lũ. Không đắp đê cao mà đào thêm những rạch sâu để thoát lũ ra Biển
Tây, Biển Đông và cải thiện giao thông, tiếp tục truyền thống từ nhiều ngàn năm
trước của nền văn minh Ốc Eo Vương Quốc Phù Nam cho dù cả Vương Quốc ấy đã tiêu
vong do một cơn hồng thủy tràn ngập vùng châu thổ vào khoảng giữa Thế Kỷ thứ
sáu.
Con thuyền máy chạy băng băng giữa lòng một con kinh
đào mới, gọi là mới chứ cũng đã hơn năm năm rồi. Sẽ có thêm hàng ngàn cây số
kinh rạch nữa được hoàn tất vào cuối Thế Kỷ này. Cảnh tượng nổi bật là màu vàng
của rỉ sắt đã nhuốm lên mọi cảnh vật: Từ gốc những cây tràm, tới thân ghe, cầu
tầu, lưới cá và cả chân người ta nữa, nghĩa là bất kể vật gì nhúng vào làn nước
ấy. Người ta đã thấy ngay được nanh vuốt con cọp đang im ngủ trong hang vừa bị
đánh thức. Trừ đợt tôm cá trong mùa mưa do cơn lũ đổ vào, đã không có sinh vật
nào sống được dưới làn nước trong leo lẻo đẫm chất phèn chua ấy, có chăng chỉ
là lưa thưa mấy đám cỏ xúng chịu phèn. Người nông dân chỉ cần nhận ra giống cỏ
nào là họ biết đâu có thể là khu đất gieo trồng. Và cho đến bây giờ thì họ vẫn
kiên nhẫn chờ đợi những trận mưa to những con lũ lớn tới rửa phèn cho đất và họ
vẫn không ngừng phá rừng, tiếp tục đào kênh và lên liếp.
Những vùng đầm lầy như Tam Nông càng ngày càng thu hẹp
và đã chẳng còn bao nhiêu nữa và tương lai của các Tràm Chim đang bị thả nổi.
Hay rồi ra Đồng Tháp Mười chỉ còn là những cánh đồng chua nước mặn với mấy khu
nuôi tôm xú, mấy khoảng ruộng lúa xanh hay những căn nhà ngói đỏ. Và rồi cũng
chẳng còn một cánh hạc nào bên bờ con sông thiêng đang dần bị tát cạn.
Thuận giục chúng tôi trở lại ghe để có thể tới Huyện
Tam Nông trước khi trời đổ tối. Con thuyền máy tăng thêm gia tốc vươn tới bỏ
lại phía sau những đợt sóng vàng muôn sắc dưới những vạt nắng của ráng chiều.
Do yêu cầu xã giao, Hộ tới gặp Mười Nhe bí thư huyện ủy Tam Nông. Cùng đi với
Hộ có Bé Tư và Điền, đặc biệt lần này có cả Thuận con trai Mười Nhe. Thuận mới
tốt nghiệp Đại Học Cần Thơ đang phụ trách khảo sát thủy văn của vùng Tam Nông.
Rất khác với người cha, Thuận cao lớn vạm vỡ trong khi
Mười Nhe gầy khô và thấp nhỏ. Mười Nhe thuần nhất là con người thực dụng, trong
khi Thuận thì mơ mộng, say mê công tác bảo tồn thiên nhiên và các Tràm Chim. Có
thể nói Thuận là âm bản của con người cộng sản Mười Nhe. Thuận thấy lạc lõng
với quá khứ của người cha và không thấy có liên hệ gì tới cuộc chiến tranh đã
qua và cũng không muốn được nghe ai nhắc tới. Thuận học giỏi nhưng chưa bao giờ
được điểm A về môn chánh trị Mác Lê, gốc gia đình cách mạng nhưng Thuận chưa
bao giờ coi đó là điều đáng hãnh diện. Bản thân Thuận chưa hề có biểu hiện phấn
đấu vào đoàn thanh niên cộng sản thì nói chi xa xôi tới đối tượng đảng. Về
phương diện hồng, có thể nói Thuận là nỗi thất vọng ê chề của Mười Nhe.
Qua sự bảo trợ của Bé Tư, Thuận được Hội Hạc Quốc tế
ICF cấp học bổng du học Âu Châu hoặc Hoa Kỳ. Không cần suy nghĩ Thuận chọn ngay
đi Mỹ vì theo Thuận cái gì ở Mỹ bây giờ cũng là nhất thế giới. Không bộc lộ hay
nói ra nhưng là một hiện tượng khá phổ quát từ Nam ra tới Bắc, nhất là ngoài
Bắc gia đình nào cũng có một ‘’Giấc Mơ Mỹ Quốc’’ ước muốn làm sao gửi cho được
một người con sang Mỹ.
- Nhưng em còn phải qua được kỳ thi Anh văn trước đã!
Sao mà khó trần ai!
Họ thì đòi điểm phải trên 550 mà điểm em thì cứ 540
rồi 530 không sao nhích hơn lên được.
Bé Tư an ủi Thuận:
- Em vậy là khá lắm rồi, cô biết có người Mỹ chính gốc
thi còn bị failed đó em!
- À mà em muốn hỏi cô, tình hình các giống hạc bên Huê
Kỳ bây giờ ra sao cô?
- Toàn Mỹ Châu chỉ có Bắc Mỹ còn lại hai giống hạc.
Whooping và Sandhill Cranes. Loài trên thì gần như sắp bị tiêu diệt nên đang
được hết sức bảo vệ, loài Sandhill thì còn khá hơn. Hạc mới trông thì thấy
giống loài Diệc (Herons) nhưng hoàn toàn khác, hạc thuộc họ Grudae. Hạc bay với
cổ vươn ra phía trước, nhịp cánh đập chậm hơn nhịp cánh vung lên với tiếng kêu
âm vang Kar-r-r-r-o-o-o có thể nghe thấy từ rất xa. Không khác mấy với Hạc Đông
Phương ở Việt Nam (Eastern Sarus Cranes), nói chung hạc ưa sống ngoài trời, làm
tổ trên mặt đất và chỉ đẻ hai trứng, thích kiếm ăn tôm cua sò hến và ăn thêm cả
cỏ lá trên đầm lầy và mặt bùn nước cạn (mudflats) ở Florida, ở California tương
tự như vùng đầm lầy Tam Nông.
Thuận khá thông minh lại rất hiếu học, luôn luôn đem
theo bên mình cả băng cassette, không phải chỉ để thâu tiếng chim mà còn để
luyện giọng tiếng Anh nữa. Bé Tư rất mến Thuận ở cái biệt tài giả giọng hót của
nhiều loại chim muông, kể cả tiếng hạc. Trên đường đi, Thuận tâm sự:
- Em rất muốn được làm việc lâu dài ở đây nhưng phải
cái hai cha con cứ đụng nhau hoài, thiếu điều ông ấy muốn đuổi em ra khỏi nhà!
Nhưng không phải ổng hoàn toàn vô lý khi làm mọi chuyện chăm lo cho đời sống bà
con.
Thuận chỉ nói được tới đó, dáng kìm hãm và không muốn
nói gì thêm. Trên đường đi cảnh tượng thường xuyên bắt gặp là những bãi cây
tràm bị đốn chất đống ngổn ngang dọc theo mé kênh và cả ở hai bên vệ đường, kể
cả những đám tràm con còn tươi rói cũng bị đốn bỏ bừa bãi không chút thương
sót.
Thuận giọng bùi ngùi nói:
- Từ ngày có ‘’Đổi Mới’’ dân nghèo từ khắp các Tỉnh đổ
xô về đây ngày một đông. Họ đang thi nhau đốn bỏ rừng tràm để có thêm đất trồng
lúa hay diện tích nuôi tôm, ‘’vì lúa hay tôm đều rất có ăn, lại còn mau ăn
nữa’’. Cứ cái mửng này chẳng bao lâu nữa cả Đồng Tháp Mười sẽ cạn kiệt cây
tràm. Mà hết rừng tràm thì cũng chẳng còn cái gọi là tràm chim Tam Nông, Thày
Cô ạ.
- Bộ không có chánh sách bảo tồn khu thiên nhiên Tam
Nông sao em? Bé Tư nôn nóng hỏi.
- Có chứ, Thưa Cô. Trung ương cũng đã có chỉ đạo việc
quy hoạch và bảo tồn ‘’làng cổ Đồng Tháp Mười’’ nhưng nói ra thì kỳ phép vua
vẫn cứ thua lệ làng, nghĩa là không có luật pháp gì rõ ràng, vẫn cứ tùy tiện
như hồi còn chiến tranh, bao nhiêu quyền hành vẫn nằm trong tay đảng ủy địa
phương. Mà Tam Nông có thể coi là trường hợp điển hình.
Bé Tư thấy xa lạ với những từ mới:
- Điển hình là sao em?
- Là mẫu tiêu biểu, giống như chữ role model trong
tiếng Anh đó cô.
Cả Hộ, Điền và Bé Tư cùng bật cười vui vẻ. Qua Hộ Bé
Tư mới được biết thêm rằng Mười Nhe là hình ảnh hiếm hoi của những người cộng
sản chân chính còn vương sót lại. Sinh ra và lớn lên trong Vùng Đồng Tháp, chưa
xong Tiểu Học đã vô bưng, được vinh danh là dũng sĩ diệt Mỹ thời còn chiến
tranh, gan lì không ai bằng, bị hư mắt trái do mảnh bom trong một trận càn. Nay
làm huyện ủy Tam Nông, không thể nói là Mười Nhe không yêu thương quê hương
Đồng Tháp. Duy chỉ có cái nhìn của hắn ta thì rất khác. Môi sinh với Mười Nhe
là cái môi trường sống sao cho ‘’dễ thở’’ đối với bà con. Cứu cánh ấy biện minh
cho mọi phương tiện hiện đại được đem ra áp dụng ‘’đại trà’’ cho khắp vùng Tam
Nông. Phá rừng tràm không phải chỉ có dao quắm mà còn có cả máy cưa, đánh cá
không phải chỉ có lưới mà với cả chất nổ hay điện xoẹt, săn chim không phải chỉ
có bẫy mà còn là đủ loại súng với đạn ghém và cả ống nhắm. Cảnh quanh Tam Nông
quê hương Mười Nhe phải nói là thay đổi từng ngày, rừng khuyết từng mảng, cá
tôm bất kể lớn bé bị giết hàng loạt nổi phều, chim thường hay hiếm quý cũng giống
nhau bị lùng săn như những con thịt. Nói tóm lại Mười Nhe không những đem lại
cho đồng bào một đời sống ‘’dễ thở’’ mà còn rất sung túc và cả hy vọng mau giàu
nữa.
Khách thăm được mời một bữa ăn ê hề rượu thịt cả món
hạc tiềm thuốc bắc chắc là để kéo dài tuổi thọ, bởi vì theo quan điểm Đông Y
của Mười Nhe, đó không chỉ là món nhậu mà còn là vị thuốc nữa.
Bọn du mục Tây Tạng thì tin rằng trên đỉnh núi thiêng
nơi khởi nguồn con sông Mekong có một vị thần linh là con rồng Zjiadujiawangzha
bảo vệ cho nguồn nước luôn an lành và nếu uống được nguồn nước ấy người ta sẽ
sống lâu. Nhưng với Mười Nhe, thay vì tin phép mầu từ ngụm nước sông thì nay là
miếng trần gian hiếm hoi của các ‘’sứ giả môi sinh’’. Bữa ăn nấu bằng thú hiếm
gợi cho Bé Tư cả một giai đoạn tranh đấu sôi nổi thời sinh viên. Lúc ấy Bé Tư
là hội viên hoạt động tích cực của ‘’Hội Bảo Vệ Thú Vật Thế Giới’’ đã cùng các
bạn qua Tòa Đại Sứ Liên Xô ở Hoa Thịnh Đốn cực lực chống đối việc cho phép một
nhà hàng ở Mặc Tư Khoa chuyên cung cấp các món ăn nấu bằng các loại thú gần
tuyệt chủng. Thực khách phải trả cả ngàn đôla xanh cho một đĩa món ăn lạ như
vậy, giá càng cao hơn với loài thú hiếm hoi hơn. Có lẽ lúc đó thực đơn của nhà
hàng ấy chưa có được món Hạc Đông Phương như của Mười Nhe bây giờ... Mãi sau
này Bé Tư mới được biết thêm có một đường dây từ các Tràm chim cung cấp đủ loại
chim kể cả loại hiếm quý cho Quán Chim, nơi lui tới ăn nhậu nổi tiếng kén chọn
của giới thượng lưu ở Sài Gòn. Dưới mắt Bé Tư thì cho dù ở đâu và bao giờ, lùng
kiếm ăn thịt các con thú hiếm quý sắp tuyệt chủng trên hành tinh này thì đó
hành vi tội phạm man rợ.
Chỉ trong một ‘’kế hoạch ngũ niên tự phát’’, Mười Nhe
đã đạt thành tích kỷ lục về những con số: dân số tăng khủng khiếp gấp đôi, diện
tích rừng tràm nổi tiếng phong phú của tỉnh Đồng Tháp thì nay chỉ còn một phần
ba, trong Tràm Chim chỉ riêng loài hạc con số trước đây đã lên tới cả ngàn thì
nay chỉ còn khoảng 500 con. Dưới mắt người nông dân nghèo thì ‘’đồng chí’’
Mười Nhe đã có công rất lớn biến vùng đệm ngập nước
quanh Tam Nông mau chóng thành một quận huyện đi lên cảnh trù phú. Mười Nhe
tiếp khách trong một trụ sở quận mới xây cất rộng và khang trang. Trên tường là
lá cờ đỏ chói lọi làm nền cho một bàn thờ hương án với tượng bán thân ‘’Bác
Hồ’’ lớn bằng thạch cao trắng. Không còn treo la liệt những khẩu hiệu là điều
mới đáng chú ý. Mười Nhe vóc người ốm nhỏ, có nước da sạm đen hơi tái của người
thiếu máu do bệnh sốt rét kinh niên, khuôn mặt xương xẩu vẻ cằn cỗi và khắc
khổ, có thêm nét dữ tợn do vết sẹo lớn nơi đuôi mắt trái. Không còn nón cối dép
râu như hồi nào, Mười Nhe mặc áo sơ mi trắng tay cụt với quần sậm, cổ tay với
đồng hồ Seiko vàng, chiến lợi phẩm thu hoạch do thành tích đánh tư sản và người
Hoa sau giải phóng, tay xách cặp da và đi giày da. Nơi góc phòng trang trí nổi
bật là chiếc máy Tivi màu Sony 19 inches có cả ‘’đầu máy’’ VCR để coi băng.
‘’Chuyện máy móc điện tử thì phải nhờ thằng con trai
tui nó lo cho hết chơn. Cả bà con lối xóm cần chi về kỹ thuật cũng chạy sang
kiếm nó.’’ Vừa nói vừa nhìn sang Thuận, Mười Nhe không dấu được vẻ kiêu hãnh,
nhưng ngay sau đó thì trấn áp thằng con ngay: ‘’Nó chỉ được có dzậy, chứ chuyện
chánh trị chánh em thì coi như zêro. Nó quen sống trên tỉnh chỉ biết có sách
vở, nghe theo người ta rồi cũng bày đặt nói tới nói lui chuyện tào lao môi sinh
môi tử với tui’’.
Mười Nhe được thể nói giọng xác tín với khách:
- Trước khi nghe các ông bà từ xa xôi lại đây bàn
chuyện bảo vệ hạc với chim thì tui phải nói ngay rằng nhân dân Huyện Tam Nông
phải có một cuộc sống ngày hai bữa ăn cái đã. Những người dân đổ về đây là đám
bần cố nông nghĩa là vô sản chân chính, không có lấy một tấc đất cắm dùi, quanh
năm đổ mồ hôi sôi nước mắt để đi làm thuê cắt lúa thuê mà vẫn thiếu ăn. Vấn đề
cấp bách đặt ra là làm sao có đất cho họ để cấy lúa nuôi tôm. Đó cũng chính là
quan điểm đảng ủy chúng tôi chấp thuận cho thu hẹp các khu rừng tràm mở rộng
khu đệm để có thêm đất cấp cho nhân dân. Mười Nhe không dấu được kiêu hãnh nói
thêm:
- Diện tích trồng lúa và nuôi tôm tăng đều và nhanh
hơn mỗi năm, thuế nông nghiệp nạp cho nhà nước thì vượt chỉ tiêu so với các
Huyện khác trong Tỉnh Đồng Tháp. Đáng nói là tinh thần tự nguyện của đồng bào,
không cần phải o ép ai bởi họ biết đảng ủy thì hết lòng chăm lo cho họ.
Không mấy xa trụ sở huyện, Mười Nhe chỉ cho khách mấy ngôi
nhà mới mái ngói đỏ au với cao vút lên nền trời xanh là những cột ăng-ten để
bắt các kênh đài truyền hình. Ghé thăm gia đình bác Tư Trung gốc bộ đội phục
viên quê ở tận Ấp Phú Hòa Chợ Lách Bến Tre, tới đây chỉ với hai bàn tay trắng
vậy mà chưa đầy ba năm sau đã có một cuộc sống không những đủ ăn mà còn sung
túc nữa. Chỉ riêng tay Tư Trung đã chém ngã hơn năm hécta rừng tràm đem bán
được cả chục triệu đồng, không những dư tiền cất nhà mới lại còn thêm đất để
làm lúa hai vụ mỗi năm rất có ăn, mau thu hoạch hơn cây tràm nhiều.
Điều ngạc nhiên với Bé Tư khi về Việt Nam là đi tới
đâu cũng nghe nói ‘’chuyện ăn: Làm ăn nhanh, thu hoạch nhanh và làm giàu nhanh
ngay cả trong lãnh vực nghiên cứu khoa học’’. Hình như sau chiến tranh mọi
người chợt nhận ra rằng họ chỉ có một cuộc đời này để sống nên chẳng còn ai tin
vào cái thiên đường cộng sản hứa hẹn ở mãi tận đời sau. Cũng theo Mười Nhe thì
gia đình bác Tư Trung được coi như hộ tiên tiến điển hình của Huyện Tam Nông
bước vào thời kỳ ‘’Đổi Mới’’ để cùng cả nước tiến lên ‘’hiện đại hóa, công
nghiệp hóa’’.
Chính Hộ đã giúp Mười Nhe đưa lúa thần nông HYV (High
Yield Variety) vào khu đệm Huyện Tam Nông với hy vọng giống lúa cao sản này sẽ
cải thiện đời sống bà con mà không cần phá thêm rừng tràm. Nhưng mọi chuyện diễn
ra sau đó hoàn toàn ngoài dự kiến của Hộ. Khoa Thủy Văn Đại Học Cần Thơ với dự
án xây bốn ống dẫn thoát lớn từ con kinh bao quanh khu bảo tồn, thay vì để điều
hòa mực nước trong Tràm Chim thì lại bị bà con nông dân tận dụng để rút nước ra
khỏi khu đầm lầy để tưới ruộng trong suốt mùa khô. Đã thế do nước cạn bà con
còn phá rừng mau hơn, vì ai cũng thấy trồng lúa nhất là thứ ‘’lúa cao sản của
Thầy Hộ’’ rất có ăn. Nhưng cũng do là giống lúa rất khát nước nên mùa hạn bà
con không chỉ lấy nước từ tràm chim mà còn be bờ không cho nước xuống vùng dưới
khiến bà con nông dân miệt dưới thiếu nước phải kêu trời. Chẳng cần ai điều hợp
hay trọng tài, Mười Nhe đã thành công phát triển riêng cho huyện Tam Nông bằng
cái giá của Tràm Chim với sinh mạng của cả ngàn cánh hạc và mùa màng khô hạn
nơi miệt dưới.
Mười Nhe vẫn giọng tâm sự:
- Trong chiến tranh, đồng bào hy sinh xương máu quá
nhiều rồi. Chỉ mong có ngày hòa bình độc lập, đảng ta có dịp chăm lo hạnh phúc
bù đắp cho bà con. Hạnh phúc nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu của huyện ủy chúng
tôi. Vậy mà vẫn có các đồng chí ở trung ương xuống, còn dẫn theo cả mấy ông Mỹ
tóc vàng mắt xanh, có ý chê trách cách làm ăn của chúng tôi mà họ gọi là ‘’tùy
tiện’’, là phá hoại môi sinh. Chứ tôi hỏi các đồng chí môi sinh là cái chi chi mà
bắt chúng tôi phải hy sinh cả miếng cơm manh áo của nhân dân?
Đời thuở nhà ai chỉ là khách tới nhà mà người ta bắt
mình phải kê bàn thờ ông bà ở đâu sắp xếp lại hết đồ đạc trong nhà ra sao! Bọn
thực dân đế quốc bao năm rồi như con đỉa nhiều vòi hút kiệt tài nguyên các nước
Á Phi, bọn chúng giàu có dư ăn dư mặc rồi nay lại muốn thú vui chơi kiểng chơi
chim. Chúng trở lại Việt Nam, chẳng cần biết dân ta đói no ra sao mà còn chơi
cha dạy mình phải ‘’giữ màu xanh’’ phải bảo vệ rừng tràm để dưỡng mấy con hạc con
nông. Như dzậy đâu có được!
Rồi bao nhiêu căm thù tích lũy bấy nhiêu năm, Mười Nhe
giọng sắt đá:
- Mà nói phá hoại môi sinh thì ai bằng đế quốc Mỹ
trong chiến tranh vừa qua. Hồi đó tụi tôi đâu có biết sợ là cái chi nhưng đụng
với chiến tranh hóa học thì chỉ biết bó tay. Để xua bọn tôi ra khỏi rừng, chúng
đã không từ nan một thủ đoạn nào: Dùng máy móc cơ khí hiện đại nhất cho đào
kênh mương để tát cạn đầm lầy, cho máy bay rải bom Napalm và chất độc Da Cam để
đốt rừng và diệt hết cây cỏ. Sau chiến tranh rừng thì còn đó nhưng hoàn toàn bị
nhiễm độc và tan hoang.
Mười Nhe vẫn giọng đanh thép:
- Mất bao nhiêu xương máu, hòa bình mới đó mà đã có
các đồng chí nhiều bộ phận đảng ta đã để mất cảnh giác. Bản chất đế quốc trong
chiến tranh hay trong hòa bình thì cũng dzậy thôi. Đồng chí tổng bí thư sáng
suốt đã dạy phải đề phòng âm mưu diễn tiến hòa bình của kẻ địch, dzậy mà sao
nhiều người vẫn không thấy.
Rồi Mười Nhe còn bày tỏ mối ưu tư:
- Phải chi được như hồi còn chiến tranh, muôn lòng như
một chỉ biết nghe theo đảng. Chứ như bây giờ ai cũng có quyền nêu ý kiến, nhất
là mấy ông tự nhận có học ở nước ngoài về, tuổi đảng thì không biết được bao
nhiêu mà đã mau chóng được cất nhắc. Hồng thì chưa, chỉ có chuyên thì làm sao
mà nói chuyện lãnh đạo xuyên suốt cho được.
Rồi Mười Nhe xuống giọng buồn rầu:
- Tôi là thương binh tuổi cũng đã gọi là cao, kể ra
đảng cho về hưu cũng là phải rồi, tôi cũng muốn dành phần cuối đời lo cho gia
đình mẹ già chứ không lẽ cứ như dzậy mãi sao... Nhưng rồi như vẫn còn nghe đâu
đó tiếng gọi của bác và đảng, tôi thấy mình vẫn còn phải bám trụ hy sinh thêm
nữa. Đấu tranh nội bộ như hiện nay khó lắm, bởi vì không thấy đâu là trận
tuyến. Tôi vẫn nói như dzậy ở mỗi lần về họp trên Tỉnh hay với các đồng chí đến
từ trung ương...
Mười Nhe mắt long lanh hướng về phía bàn thờ nơi có
tượng ông Hồ vẻ thành kính tưởng nhớ, giọng tiếc nuối:
- Phải chi nếu Bác còn thì đâu có tình trạng lãnh đạo
chao đảo đến như dzậy... Như thằng Thuận con tui đây, không có một ngày trưởng
thành trong chiến tranh khói lửa, ngoài chuyện sách vở thì nó biết cái chi mà
dám lên tiếng dạy khôn tui.
Mười Nhe gầm gừ như một con cọp dữ trong khi Thuận chỉ
là một con nai tơ chịu trận và ngồi nín khe. Trên đường về, Hộ kể lại:
- Không phải là không có lý khi có một đồng chí từ
trung ương rất hiểu Mười Nhe bảo rằng chỉ có mỗi một cách duy nhất ngăn được
hắn thôi không phá rừng tràm là phải khêu gợi lại lòng căm thù, nêu lý do mất
cảnh giác về an ninh quốc phòng ‘’phá hết rừng tràm là phá hoại chiến khu...’’
Điền đưa ra nhận xét với Hộ:
- Có lẽ cho đến hết Thế Kỷ này, không chỉ những người
cộng sản Tư Bản Đỏ tha hóa mà đến cả nhóm người cộng sản ít oi được coi là chân
chính còn sót lại như Mười Nhe, thiếu học lại cuồng tín họ vẫn còn là nguyên
nhân nỗi khổ không phải chỉ trên những con người mà còn với đám cây cỏ và chim
muông.
Với con mắt nhà khoa học, theo Bé Tư thì vùng đầm lầy
và tràm chim không phải chỉ cống hiến vẻ giàu đẹp của quê hương thiên nhiên mà
đó còn là một kho tàng phong phú về sinh học, cái nôi của chu kỳ sinh sản và
tăng trưởng cho nhiều giống chim cá và các loài sinh vật khác. Đó là nơi lưu
trữ nước trong mùa lũ và điều hòa nước trong mùa khô, một yếu tố để cân bằng
môi sinh có từ bao lâu nay rồi, vậy mà đang có nguy cơ bị phá hủy nó.
Nhật Ký Của Người Chứng.
Bé Tư thấy mình đánh mất sự hồn nhiên, thay đổi cảm
xúc và cả cách suy nghĩ ở lần vội vã lên thăm con thím Ba trên bệnh viện Sài
Gòn. Giữa một Sài Gòn hoa lệ thì vẫn có một địa ngục trần gian: Nơi mà người ta
gọi là trại bệnh dành cho những đứa trẻ mang đủ thứ bệnh tật trong một căn bệnh
chung là suy dinh dưỡng. Bé Tư không thể nào quên được cảnh tượng những đứa trẻ
bụng ỏng da xương gầy gò nằm trơ trọi trong những căn phòng tường vôi thủng
loang lổ, trên những chiếc giường sắt tróc sơn cũ rỉ với manh chiếu đơn khai
nồng trải trên những vạt giường ọp ẹp, ngay bên một khu nhà vệ sinh ẩm thấp tối
tăm với một bể nước ngập phân nổi lều bều. Chỉ cách đó không xa, băng qua một
bãi cỏ tốt lút đầu, là một trung tâm Nhi Khoa khác mới xây kiêu kỳ và sang cả
với cửa kính và gạch lát sáng choang, các phòng đều gắn máy lạnh, dĩ nhiên với
đầy đủ thuốc men và các trang bị hiện đại dành cho con cái cán bộ nhiều tiền và
thiểu số các gia đình giàu có, giá thật đắt tính bằng đô la xanh vậy mà không
bao giờ còn chỗ.
Khi Bé Tư tới nơi thì đã quá trễ để mà chuyển trại cứu
mạng sống cho đứa con thím Ba. Một cái chết không đáng chết chỉ vì thiếu thuốc.
Có bao nhiêu đứa trẻ mỗi ngày đã chết một cách âm thầm và oan khiên như vậy.
Chỉ cách nhau có một bãi cỏ mà sinh cảnh đã là hai thế giới của ánh sáng và
bóng đêm.
Ngày... tháng...
Bé Tư theo thím Ba Xuân đi thực tế cắt lúa thuê trong
vụ Hè Thu. Từ Bến Tre ‘’tập đoàn’’ thuê chung chiếc ghe bầu đi Đồng Tháp Mười.
Trừ thím Ba, họ là đám thanh thiếu niên được sinh ra ngay trước sau năm 75: Lứa
tuổi của hơn nửa dân số bảy chục triệu người trên cả nước, họ hồn nhiên và
giống nhau ở chỗ nghèo ít học không tham vọng. Đều khiến Bé Tư ngạc nhiên tới
sững sờ là trong số họ có người không biết đọc biết viết lại còn sớm mắc tật
hút sách và rượu chè. Thời tiết khô nắng đẹp không có gì báo hiệu là sắp có lũ
lụt. Do chỗ quen cũ đoàn lại được tới ở trọ nhà chú Mười Tân, nhà trống trơn
nhưng được cái rộng nên họ chia thành các toán nhỏ phân khoanh nằm ngay trên
sàn nhà Bé Tư và thím Ba thì được chú dành riêng cho một tấm phản ở trái bên.
Còn bao nhiêu toán khác, họ cứ theo ghe lớn ghé vào mé kinh nơi có ruộng thuê
gặt là đổ bộ lên bờ tách ra thành các nhóm nhỏ dựng nên những căn chòi tạm lợp
bằng tấm nylon kiểu dã chiến, chỉ tạm che nắng chứ không đủ che mưa. Ăn thì đổ
gạo nấu chung, tắm giặt vệ sinh thì trai gái từng toán kéo nhau xuống sông. Cả
trăm nhóm như vậy từ khắp nơi đổ về trải ra khắp cánh đồng còn ngập nước. Vì
cắt lúa chạy lũ nên họ phải làm tất bật từ sáng sớm tới trời tối mịt. Nắng mưa
gì thì suốt ngày cũng cứ phải ngâm mình dưới nước mà cắt. Gặp lúa đứng thì còn
đỡ chứ phải đám lúa ngã lẫn lội bùn đất, thì còn phải đem xuống sông rửa trước
khi đem phơ. Cứ sau một ngày thì mọi người đều mệt lử không có ai mà tay chân
không lạnh móp, bị cứa rách vì liềm hái và lúa cắt. Hạnh phúc trông chờ là cố
chịu cực một tháng để có tí giạ lúa để dành ăn không phải lo đói trong một năm.
Họ có khác gì đâu đám người Mễ những công dân hạng hai và mùa hoa trái trải ra
khắp các cánh đồng bên California dưới cái nắng cháy sa mạc, để bán sức lao
động với tiền công dưới cả mức tối thiểu.
Đi đâu Bé Tư cũng chứng kiến đa số người dân phải sống
trong một cảnh nghèo khôn tả với vẻ chấp nhận cam chịu một cách thương tâm. Nơi
phô bày vẻ sang cả thì chỉ làm cho vẻ lầm than càng tăng thêm. ‘’Chứng nhân cho
Thiên nhiên: Sinh Thái Giữa Giàu Nghèo Trên Một Quê Hương Chia Lìa (Witness for
Nature: A Divided Country, The Ecology of Rich and Poor)’’. Là bài viết gây
chấn động của Bé Tư của một người vẫn yêu mến thiên nhiên với giọng văn đam mê
nhưng chừng mực, rốt ráo về những vấn đề xã hội nhưng vẫn dịu dàng. Trong khi
môi sinh đang trở thành vấn đề tranh luận gay gắt trên toàn quốc, thì những
dòng chữ viết đầy tình tự ấy như một dòng suối mát ca ngợi hạnh phúc giữa con
người và thiên nhiên như một kết hợp hài hòa chẳng thể tách rời...
Đêm ấy ở Tam Nông, vẫn là một đêm dài vô minh, đêm bao
trùm khắp Việt Nam và cả lục địa Á Châu, hòa trong tiếng nước ròng của con sông
Mekong như nhịp điệu từ ngàn năm, văng vẳng bên trời giữa những tiếng hạc kêu
thương, Bé Tư còn nghe có tiếng trẻ con khóc.
CHƯƠNG IX
SÔNG THIÊNG MÀ TÁT CẠN
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Nước sông lai láng cá bầy đua bơi
Ca Dao Nam Bộ
Từ Ngọn Núi Thiêng 15 ngàn bộ trên cao nguyên Tây
Tạng, từ đâu đó trong vùng trắng mênh mông của triền núi tuyết, con sông Mekong
bắt đầu chảy róc rách khởi nguồn cho một con sông lớn của Châu Á, nhưng từ đây
còn phải mất bao lâu nữa, trải qua bao nhiêu ghềnh thác, ngang qua bao nhiêu
vùng khí hậu và dân cư để con sông xanh cuồng nộ ấy tới được Việt Nam mang tên
Cửu Long ôm ấp vùng đất thiêng tỏa thành chín con rồng sáng trải dài ra tới bờ
Biển Đông.
Mà Cửu Long Giang tên ấy có tự bao giờ? Theo Gia Định
Thông Chí là cuốn sách về lịch sử địa lý đất Gia Định hay là đất Nam Kỳ sau này
thì tên ấy là do Trịnh Hoài Đức đặt. Tổ tiên ông gốc người Phúc Kiến bên Tàu di
cư sang đất Trấn Biên (Biên Hòa) sinh năm 1765 cùng năm sanh với Nguyễn Du, đỗ
đạt làm quan dưới cả hai triều Gia Long và Minh Mạng lên tới chức Hiệp Biện Đại
Học Sĩ hiệu là Cấn Trai. Ông cùng với Lê Quang Định và Lê Nhân Tĩnh đều là môn
sinh của Võ Trường Toản, cả ba nổi danh thơ phú nên được người đương thời mệnh
danh là Gia Định Tam Gia Thi. Ông mất năm 1825, năm năm sau ngày mất của Thi
Hào Nguyễn Du. Ai cũng biết là hai con Sông Tiền Sông Hậu chỉ đổ ra tám cửa
nhưng số chín mới là con số hên nên cửa Tranh Đề cũng được kể thêm vào cho dù
chỉ là một thoát lưu phụ rất nhỏ. Cũng như Thất Sơn có nhiều hơn bảy ngọn núi
nhưng số bảy được chọn vì cũng là một con số hên.
Nói tới Đồng Bằng Sông Cửu Long quê Điền, người ta
nghĩ ngay tới lúa và lụt. Chung sống với lũ lụt thì có gì mới lạ đâu với những
ai đã từng ở hai bên bờ những con sông ấy với chằng chịt những kinh và rạch.
Rồi cứ hàng năm cùng với cơn lũ là tầng tầng lớp lớp phù sa tô bồi thì ruộng
đồng nào mà chẳng thêm phì nhiêu, lại thêm bao nhiêu là tôm cá. Chưa kể thêm
cái lợi con lũ rửa phèn cho đất, rửa bớt chất độc Da Cam còn nằm sâu lắng đâu
đó trong các khu rừng chết từ sau cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Không biết đã bao lâu rồi nhưng Điền thì không bao giờ
quên trận lụt lớn nhất năm đó khi Điền mới mười tuổi. Bấy giờ là khoảng giữa
tháng Năm, nước quay kỳ nhất từ Thượng Nguồn đổ về thật đậm một màu đỏ như son.
Màu đỏ không phải chỉ có phù sa, có năm còn trộn lẫn
máu người ta nữa. Cha Điền nói vậy không giải thích gì thêm và chỉ sau này lớn
lên Điền mới thật sự hiểu.
Với con nước ấy ai cũng biết sắp tới mùa lũ mà có lẽ
lũ lụt lớn bởi thêm cái điềm bày kiến vàng thì bỏ tổ tha trứng lên các ngọn cây
cao và cả bầy ong muỗi từ núi bay về cũng làm tổ trên cao hơn mọi năm. Rất khác
với con Sông Hồng dữ dằn, Sông Tiền Sông Hậu như từ bao giờ, do một phần lũ
chảy ngược về Biển Hồ nên cho dù có lụt lớn thì con nước vẫn ổn định dâng lên
từ từ tràn bờ rồi chảy ra chan hòa. Nhưng riêng năm ấy sao vẫn bất ngờ quá,
trận lũ không những đã lớn hơn, dâng lên nhanh hơn lại còn sớm hơn mọi năm tới
một tuần trăng khiến không có nhà nông nào trở tay cho kịp. Con nước cứ thế
chảy phăng phăng về suôi kéo theo những cành khô những giề lục bình man mác trổ
bông tím. Và cứ thế mỗi ngày mực nước dâng cao thêm hai ba tấc, ngay cả ruộng
sạ với lúa mù lúa nổi cũng không cách nào phóng ống kịp và đành chịu ngộp. Nước
ngập hết cả kinh rạch ruộng đồng, nước chảy mạnh tràn qua các lộ xe, không sao
phân biệt được đâu là sông đâu là đồng. Con nước năm ấy sao lên cao quá, ở vào
khu trũng nước dâng gần ngập tới nóc nhà, lại thêm cây lá bị sóng đánh te tua.
Trên mái nhà lá hay tôn, ngoi ngóp người và chó, cả thêm mấy con gà đứng cú rủ,
chỉ có mấy con vịt chịu nước thì lông cánh vẫn mượt mà. Điền và hai em cùng cúm
rúm ngồi trên đó, trừ Bé Tư là con gái mắc cở thì mẹ cho mặc quần, còn hai
thằng con trai thì ở truồng luôn cho khỏi bị quần áo ướt.
Bầu trời thấp xuống, lúc nào cũng sâm sẩm như sũng
nước, mãi tới giữa trưa mới thêm được chút nắng ấm, nhưng phía dưới vẫn là con
nước dâng cao lạnh lẽo bao la, chẳng còn bóng dáng đâu là ruộng lúa vàng, chỉ
còn lấm tấm trên mặt nước là những bông điên điển mới trổ một màu vàng tươi
nhấp nhô trên những gợn sóng. Điền theo cha từ sáng sớm xuống xuồng đi hái bông
điên điển rồi đi vớt mớ cá linh.
Lục bình bông tím
Điên điển bông vàng
Điên điển mọc ở đất làng
Lục bình trôi nổi...
như phường hát rong
Cây điên điển người Khmer gọi là Srock Snor thân cỏ
mọc khắp các mé rạch bờ sông, bông màu vàng hái sớm mà trộn gỏi tôm càng thì
hết sẩy, đem nấu canh cũng rất ngon. Nếu hái trễ khi nắng đã lên cao, ăn không
còn ngon nữa mà có vị đắng. Quên hết cả mưa lụt và gió lạnh, Điền thích thú với
những con cá trắng nhỏ ánh bạc vùng vẫy trong lưới. Mùa mưa ăn cá trắng, mùa
nắng ăn cá đen. Chỉ mới hơn nửa buổi mà cha con đã vớt được cả mấy thùng thiếc
cá; giữ chút để ăn và phần làm nước mắm còn bao nhiêu đem ra chợ bán. Gọi là
chợ chứ chỉ có lơ thơ mấy cái sạp gỗ tre tạm rời sát ra khúc lộ cao chưa ngập
nước để phục vụ kiểu dã chiến.
Có mấy giạ lúa đen do cha Điền hụp lặn dưới nước cắt
mót được trước đây ít hôm thì cha con ôm vác ra con lộ phơi. Cực thì có cực
nhưng không than thở mà vẫn cứ kiên trì chịu đựng đã cứ như vậy từ hơn 300 năm
nối tiếp các thế hệ những người lưu dân Thuận Quảng theo chân Chúa Nguyễn vào
khai phá những vùng đồng lầy hoang vu với trên rừng muỗi kêu như sáo thổi, dưới
nước đỉa lội như bánh canh và hai bên bờ là đầy những thần linh ma quỷ, lẫn cả
rắn độc và cọp sấu. Tới đây thì ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh dây thì về. Vụ
lúa hè thu kỳ ấy kể như mất trắng tay, chưa kể tổn thất về nhân mạng mà đa số
là con nít trong đó có thằng Sanh bạn học từ lớp năm kể như chí thân của Điền.
Mất mát đau thương, gì thì gì ai cũng lăm lăm chỉ chờ cho con nước giựt là sửa
sang dọn sạch nhà cửa, đem chút lúa giống còn sót gieo xuống và kể như làm lại
từ đầu. Mà có bao giờ trễ đâu để mà làm lại từ đầu.
Nói gì thì nói, kỷ niệm về tuổi nhỏ nơi quê Điền nhiều
điều vui hơn buồn. Thiên nhiên giàu có và cả vô tình, đôi khi khắc nghiệt nhưng
cũng rất chiều đãi con người. Không có lũ lụt thì lúa gạo lại thừa thãi, vườn
cây ăn trái trĩu nặng sum suê, tôm cá ếch thì đầy đồng. Chiều chiều quạ nói với
diều, cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm. Không những nhiều mà còn đầy hương vị
đặc sản thơm ngon của đồng nội cây vườn.
Điền nhớ mỗi lần hè sang thăm bà nội ở Bến Tre là kể
như đã nư, tha hồ ăn me dốp, uống nước dừa Xiêm, ăn kẹo dừa, bánh phồng dừa, ăn
tôm rang nước dừa, món đuông dừa chiên, lại còn món cá kho tộ, canh chua cá
bông lau nội nấu cho ăn thì khỏi chê.
Mãi những năm sau này sống ở nước ngoài, chưa bao giờ
Điền được ăn lại những ‘’món lạ miền Nam’’ ngon như vậy, uống một ly nước dừa
Xiêm có hương vị quê hương như vậy. Cùng với Bồng Sơn Tam Quan ở ngoài Trung,
thì Bến Tre quê nội Điền là xứ dừa trong Nam, thứ cây mà theo Điền thì từ rễ
tới ngọn đều có ích cho con người. Có phải vì vậy mà đồ án tốt nghiệp của Điền
ở Trường Kiến Trúc nổi tiếng San Luis Obispo không phải là một thương xá hiện
đại (big mall) ở Hà Nội hay Sài Gòn mà lại là một căn nhà ánh sáng toàn làm
bằng chất liệu từ cây dừa cho người nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long. Giai
thoại ruộng đồng với cò bay thẳng cánh sau này chỉ còn trong trí nhớ của Điền
bằng những lần đi săn chuột đồng hay đi bắt cò. Điền đã từng theo thằng Hộ ra
đồng, hai đứa lấy sình non trét đầy mình chỉ chừa có hai con mắt, xong rồi nằm
xuống giữa ruộng chờ cho bầy cò bay tới, thôi thì đủ thứ cò trâu cò ma lò
lửa... chỉ chờ con cò nào gần tầm tay nhất là chồm bắt ngay lập tức. Thằng Hộ
thì lì, không sợ bị cò mổ đui mắt nên nằm chờ bao lâu cũng không hề nhúc nhích
nên chỉ có nó là bắt được cò, riêng Điền thì không nhưng bù lại cùng với Bé Tư
hai anh em bắt được bao nhiêu là còng đem về cho bà nội nấu bún riêu hay làm
mắm. Bắt cò thì vui nhưng nghe nói thịt cò trâu thì tanh, thịt cò ma có ngọt
hơn nhưng cái khoản cháo cò hay ăn thịt chuột đồng thì Điền vẫn thấy nhợn và
không ham.
Gặp lại Hộ sau này, bây giờ đã có bằng Tiến Sĩ rồi chứ
ít sao, nhắc chuyên săn chuột bắt cò khi xưa thì nó chỉ cười. Nó vẫn cứ gắn bó
với ruộng vườn nhưng lại thêm đam mê khác. Nếu không bận dạy học nghiên cứu thì
cũng thấy nó suốt ngày với đám sinh viên Nông Lâm bất kể nắng mưa, loay hoay
ngoài các thửa ruộng, thăm nom mấy đám mạ mới cấy. Hộ đang thử nghiêm kỹ thuật
trồng lúa thâm canh bốn mùa rưỡi mỗi năm bằng cách luân phiên cấy và gặt hàng
tuần các lô được chia đều trên những thửa ruộng, với hy vọng nâng mức thu hoạch
mỗi mẫu từ 15 tấn tới 30 tấn bảo đảm nâng mức xuất khẩu và tiêu thụ cho Việt
Nam trong suốt Thế Kỷ tới. Chính Hộ đã có công đầu đưa giống lúa Thần Nông vào
Đồng Bằng Sông Cửu Long, cái công của nó chính là thuyết phục được bà con cô
bác nông dân bỏ được thói quen canh tác cũ bỏ lúa giống cũ mà chấp nhận thay
bằng thứ giống lúa lùn xấu xí nhưng lại là thứ lúa cao sản; để rồi sau này bà
con đặt thêm cho cái tên là ‘’Lúa Honda’’ bởi vì giống lúa ấy đã giúp bà con
làm ăn sung túc có tiền mua xe gắn máy Honda, máy phát điện Honda để có điện
buổi tối bắt coi các kênh đài truyền hình và chương trình được ưa chuộng nhất
vẫn là tuồng cải lương tối thứ Bảy thứ đến là tiết mục ‘’Thày Hộ’’ lên đài giải
đáp thắc mắc cho bà con nông dân...
Cái thành tích đưa Việt Nam lên hàng thứ hai thế giới
về xuất cảng lúa gạo phải kể tới công của Hộ với Phân Khoa Khoa Học Canh Nông
Đại Học Cần Thơ Điền thì nghĩ vậy nhưng Hộ bảo đó trước hết là công lao của bà
con, rồi tới công của Liên Hiệp Quốc và Viện Lúa Gạo Quốc Tế…
Nói gốc gác thì Hộ là trí thức cũ của Miền Nam người
Bến Tre quê hương của Đồng Khởi, xuất thân từ gia đình nông dân vạm vỡ khỏe
mạnh, nhà nghèo nhưng là học trò giỏi của Trường Trung Học Mỹ Tho, đậu Tú Tài
hạng ưu được học bổng Colombo du học Úc Châu. Tốt nghiệp Kỹ Sư Canh Nông nhưng
lại còn đậu thêm bằng Tiến Sĩ với một luận án đồ sộ về ‘’Hệ Sinh Thái Vùng Hạ
Lưu Sông Mekong (The Ecosystem of the Lower Mekong Basin)’’. Được mời ở lại
giảng dạy nhưng chưa bao giờ Hộ có ý nghĩ sẽ chọn sống ở nước ngoài. Con đường
trải qua của Hộ như một trí thức dấn thân có thể nói là lắm chông gai nếu không
muốn nói là gian khổ, để bám ruộng bám đất sống chan hòa với cây cỏ và cô bác
bà con.
Sau 75, rất ít quan tâm tới tình trạng một trí thức bị
‘’lưu dung’’ (chứ không phải ‘’lưu dụng’’ khác nhau lắm chỉ một cái dấu nặng,
một Bác Sĩ cũ ở Bệnh Viện Phủ Doãn ở lại Hà Nội sau 54 đã cay đắng nói với Hộ
như vậy, cho dù đã 25 năm sau). Hộ vẫn làm việc 14 tới 16 tiếng mỗi ngày, năng
nổ hơn cả đám được bình bầu chiến sĩ thi đua. Ngoài ra Hộ còn trực tiếp trông
coi tờ báo nhằm phổ biến những kiến thức khoa học phổ thông tới bà con. Từ
chuyện gần như viết bài về cây mù u, cây so đũa sau sân nhà tới chuyện xa như
phi thuyền con thoi bên xứ người ta. Chuyện phi thuyền con thoi thì có chi là
lạ, người ta đi đi về về như cơm bữa vậy mà Hộ cũng vẫn phải trả giá: Tên Năm
Lộc trình độ văn hóa lớp bảy, đảng viên tuyên huấn thì lúc nào cũng lên lớp về
sự tất yếu của tính đảng trong khoa học và bắt Hộ phải thêm vào cái tin ấy một
lời bình rằng, cho dù Mỹ có phi thuyền con thoi nhưng tiến bộ không gian của
Liên Xô thì vẫn hơn xa Mỹ tới nửa Thế Kỷ. Trong cuộc họp tòa soạn Hộ thẳng thắn
nói ra là chuyện đó không đúng, bằng cách dẫn chứng với những hình ảnh và tài
liệu. Kết quả là tin phi thuyền con thoi không được xuất hiện trên tờ báo. Hộ
bảo rằng chẳng thà như vậy chứ không thể có ‘’thông tin sai lạc
(disinformation)’’ trong lãnh vực khoa học. Hộ cho rằng đây không phải chuyện
đấu tranh giữa mới và cũ, giữa Tư Bản và xã hội chủ nghĩa mà là giữa sự thật và
gian dối. Cho dù chỉ một bước chấp nhận sự gian dối, chính Hộ cũng sẽ mau chóng
tuột dốc tha hóa như một số các bạn đồng sự ở ngoài Bắc. Theo cách suy nghĩ của
Hộ thì cho dù ở đâu và bao giờ thì mỗi người dân cũng phải chịu một phần trách
nhiệm về cái tốt cái xấu của cái chế độ mà mình đang sống. Vụ cải cách ruộng
đất đấu tố như ở ngoài Bắc khó mà thực hiện được với đồng bào ở trong Nam, nếu
có đi chăng nữa thì cũng không tệ hại tới mức như vậy. Hộ người Nam giao thiệp
rộng, có nhiều bạn Bắc Kỳ lẫn bạn ở ngoại quốc. Kể cả những người bạn Nhóm Cửu
Long chưa hề giáp mặt chỉ biết qua mạng lưới Internet với mẫu số chung là mối
quan tâm về tương lai con sông Mekong và môi sinh của Đồng Bằng Cửu Long. Trong
số những người bạn ấy phải kể tới Bác Sĩ Duy đang sống ở Mỹ, hiện là Giáo Sư về
Sinh Học Phân Tử và Di Truyền thuộc Đại Học Stanford. Duy sinh đẻ ở Bắc, lớn
lên trong Nam, tốt nghiệp ở Mỹ. Gốc Bắc chay nhưng Duy có cái nhìn rất quá
khích về nền văn minh sông nước của Đồng Bằng Cửu Long. Theo Duy thì bước vào
thiên niên kỷ tới, trung tâm nền văn minh Việt Nam không còn là châu thổ Sông
Hồng hay Sông Mã mà là Vùng Châu Thổ Sông Cửu Long. Có những nền văn minh một
thời huy hoàng nhưng cũng không tránh được quá trình già cỗi qua thời gian và
cả không gian với ảnh hưởng môi trường mà chính con người đã tác động lên đó.
Dùng thuật ngữ di truyền học thì bảo rằng ‘’gene’’ của nền văn minh ấy đã bị
suy kiệt và biến thể ‘’defective gene’’.
Chỉ trong vòng 50 năm trở lại đây, cuộc chiến tranh
kéo dài và đất nước phân chia, con người và ngôn ngữ bị tận dụng cho những mục
tiêu chính trị phân hóa và dối trá nên đã làm cho nó bị kiệt quệ. Chữ không còn
mang nghĩa thật của nó nữa, tâm và thân đã không còn là một. Đến cả những con
người tử tế bình thường cũng đã trở thành một hình tượng văn học hiếm hoi. So
với chiều dài của lịch sử thì khoảng thời gian đó không nghĩa lý gì nhưng lại
có một tác dụng ‘’đột biến hủy hoại (detrimental mutation)’’ trên cội rễ của
nền văn minh ấy. Vẫn theo Duy, thì cái ‘’gene’’ trẻ trung khỏe mạnh của nền văn
minh sông nước Châu Thổ Sông Cửu Long sẽ chinh phục thay thế và có cả tiềm năng
phục hồi cái di sản khánh kiệt của cả nước...
Không chia xẻ quan điểm phủ nhận triệt để của Duy
nhưng cái nhìn quá mới mẻ ấy cũng khiến Hộ phải suy nghĩ. Riêng Hộ thì vẫn cả
tin về về một nền Văn Minh Lúa Gạo (civilisation du riz) hay nói rộng hơn là
nền Văn Minh Miệt Vườn, cái nôi của những thế hệ tiên phong khai phá, với những
con người chất phác thẳng thắn nhưng hào sảng chưa bị khô cứng méo mó đi vì
những hủ tục hình thức lễ nghi ràng buộc.
Cả đất nước muốn phục sinh đang cần một thứ trật tự
đơn giản và hồn nhiên như vậy. Vào mùa lụt, nhiều khúc đường ngập nước không di
chuyển được bằng đường bộ nên phải dùng thuyền.
Vẫn là khí hậu nhiệt đới với những cơn mưa rào chợt
tới cũng như chợt tạnh. Không thiếu những cơn gió mát thổi vào mặt mang theo
những hạt bụi nước từ các con sóng bạc đánh tung tóe vào mạn thuyền. Không phải
là lần đầu tiên Bé Tư về thăm quê, nàng đã nhiều lần về thăm các Tràm Chim mà
bấy lâu nàng đã dốc công vận động từ các Nhóm Bảo Tồn Hoa Kỳ ACG, Quỹ Môi Sinh
Thế Giới WWF, Hội Hạc Thế Giới ICF... để có tài chánh hỗ trợ. Say mê khảo sát
đời sống chim muông, tốt nghiệp Đại Học Colorado, Bé Tư trở thành nhà nghiên
cứu rất trẻ và uy tín về ngành Điểu Học (ornithologist), và bảo tồn môi sinh.
Tràm Chim Tam Nông với Bé Tư là hình ảnh một thiên đường trong trí tưởng, gần
gũi ngay trên quê hương nhưng cũng lại là một Shangri-La rất xa xôi kỳ ảo còn
vương sót lại trên hành tinh này. Bé Tư cũng sớm nhận ra Tam Nông không chỉ là
sinh cảnh của những rừng tràm mênh mông với đủ loại cây cỏ nhiệt đới trên một
vùng đầm lầy, nhưng đó còn là cái nôi của chu kỳ sinh sản của hàng trăm loài
nhuyễn thể (invertebrates), cộng thêm với bao nhiêu loài tôm cá được con lũ
sông Mekong hàng năm đổ thêm vào, như một nguồn thức ăn vô tận cho các loại
chim muông. Bé Tư cũng không tránh được ngạc nhiên khi thấy những con sếu non
đã tăng gấp đôi sức nặng chỉ trong vòng ít tuần lễ về sống ở Tràm Chim. Đã từ
mấy năm rồi, cứ vào khoảng mùa khô từ tháng mười tới tháng năm, Bé Tư thu xếp
về đây như chuyến hành hương để chiêm ngưỡng các đoàn di điểu từ những phương
trời xa, rất xa lũ lượt hội tụ về đây. Mỗi lần về thăm để thấy vui thêm khi
thấy các đoàn di điểu về ngày một đông hơn... Đây là lần đầu tiên Điền theo
chân Bé Tư trở lại Việt Nam nhưng thời tiết bây giờ thì đã bước qua mùa mưa.
Tâm cảnh Điền khác xa với em, đã từng khổ sở về những năm lính tráng, rồi trầy
trật với những chuyến đi vượt biên đổ bể bị bắt vào tù, từng bị công an xả súng
bắn vào ghe, bị tra tấn dã man còn để lại những vết sẹo hằn phải khâu trên má
trên trán. Biết khác chánh kiến, hai anh em dứt khoát không bàn sang chuyện
thời thế. Chuyến đi của Điền có chủ đích rõ rệt và cũng theo lời yêu cầu của Hộ
là khảo sát tính khả thi của dự án căn nhà nổi đầy ánh sáng làm toàn bằng chất
liệu cây dừa trong Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Điền đã hoàn tất bước đầu nghiên cứu sử dụng sơ dừa
trộn đất sét với trữ lượng gần như vô tận từ mỏ sét Bến Cát, đều là những
nguyên liệu tại chỗ, cộng thêm với các hóa chất tạo ra một loại vách tiền chế
(drywall), chịu đựng được khí hậu khô-ẩm và cả không thấm nước trong mùa lũ
lụt. Điền hoàn toàn chia xẻ quan điểm môi sinh của Hộ. Chống lại quan điểm Nhóm
Thủy Lợi Trung Ương qua kinh nghiệm Sông Hồng với kế hoạch dự chi hàng tỉ đô la
để làm đê chống lũ: Tức là cắt đứt nguồn sống từ ngàn năm của Vùng Đồng Bằng
Châu Thổ.
Hộ chủ trương thích nghi chung sống an toàn và hạnh
phúc với lũ, tận dụng các nguồn lợi vô tận của lũ về phù sa, thủy sản cũng như
mượn lũ làm vệ sinh đồng ruộng. Hộ còn đi xa hơn khi say mê nói về cảnh quan
đẹp hùng vĩ của Đất Phương Nam vào mùa lũ như một tiềm năng phát triển ngành du
lịch trong tương lai. Theo Hộ thì Đồng Bằng Sông Cửu Long kể cả hai mùa mưa
nắng đều có những nét chấm phá độc đáo không giống với bất cứ khúc sông nào
trên Thượng Nguồn và cảnh quan tràn đầy sức sống ấy sẽ là những hình ảnh hấp
dẫn ống kính của du khách: Những khu nhà vườn quanh năm xanh rợp bóng cây trái,
những chợ nổi ở Vàm Rạch Cái Bè, chợ nổi Phụng Hiệp hay Ngã Bảy nơi hội tụ của
bảy con kinh thẳng tắp tỏa ra như một ngôi sao nước sáng mà người Pháp từng gọi
là Les Etoiles, những làng nổi nuôi cá hiện đại nơi ngã ba sông Châu Đốc, Vùng
Thất Sơn với các Ông Đạo huyền bí một thời, rồi di chỉ Ốc Eo của nền văn minh
Vương Quốc Phù Nam, tới Tràm Chim Tam Nông với vũ điệu sếu và những đoàn di
điểu... Hộ cả quyết đó không chỉ là mơ ước mà đã là hiện thực trong kế hoạch
của Tổ Chức Du Lịch Thế Giới WTO khi quyết định chọn sông Mekong như một trong
10 địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới năm 2000... Khó mà ngưng được khi Hộ bắt
đầu nói về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long như một chân trời xanh mở ra bát
ngát.
Điền dự định sẽ dựng một căn nhà mẫu đầu tiên trên nền
nhà cũ của người cậu, vốn nằm trong vùng thấp lại là vách đất nền đất và mái
gồi nên siêu vẹo đến tiêu điều qua mấy trận lụt. Ông cậu nay là giáo viên hồi
hưu, nguyên là thày dạy của Hộ và Điền trước kia, bao năm vẫn sống thanh bạch
trong căn nhà ấy. ‘’Thời này sống như một người lương thiện cũng khó lắm con
ạ.’’ Như một lời răn, ông chỉ nói xa xôi như vậy, không than thở và chưa hề
trách cứ ai.
Điền có tâm nguyện căn nhà mẫu đầu tiên, công trình
tim óc của Điền bấy lâu sẽ đặc biệt dành cho một con người tử tế. Điền tưởng
tượng là sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu nếu như căn nhà mẫu ấy (cũng với cái sườn
ba gian hai chái không phá vỡ sự hài hòa của thiên nhiên nhưng hiện đại hơn)
được bà con nông dân chấp nhận và ưa chuộng để trong một tương lai gần có thể
đưa vào quy hoạch và phát triển cho toàn vùng.
Trước khi đi Tràm Chim, Hộ đưa hai anh em Điền đi thăm
khu chợ nổi ở Vàm Rạch Cái Bè trên Sông Tiền, như một tụ điểm du lịch hấp dẫn
trong tương lai. Buổi sáng sớm vào một ngày họp chợ trên sông quy tụ hàng trăm
ghe tàu lớn nhỏ. Khung cảnh náo nhiệt cứ như một ngày trảy hội. Những chiếc
xuồng tam bản chở đủ loại trái cây thổ sản rực rỡ màu sắc: cam vàng quýt đỏ
chuối dừa tươi rói như vừa mới hái từ trên cây còn dính theo cả lá xanh, có cả
trẻ thơ nữa theo mẹ ra chợ ngồi tụt thỏm giữa lòng ghe... Trên mỗi chiếc ghe
nhỏ thường do một người đàn bà trên đầu cuốn khăn rằn hay khuôn mặt khuất sau
chiếc nón lá đứng phía đuôi vừa chèo vừa lái hướng về những con thuyền buôn lớn
đang thu mua đủ các loại nông phẩm cây trái để đem về bán cho các vựa chợ Cầu
Ông Lãnh ở Sài Gòn hay các chợ bên Cam Bốt lên tận Nam Vang. Nhìn từ xa cứ
giống như một đàn heo con đông đảo quấn quýt bám lấy vú mẹ. Nếu là những chiếc
ghe có mui bít bùng thì hình thức tiếp thị (marketing) là một cây sào cao như
một thứ cây nêu trên đó có treo lủng lẳng mỗi thứ cây trái hay rau bắp có trong
ghe để bà con kiếm mua nhận biết.
Con thuyền của chúng tôi phải lách tới lách lui để
khỏi phải đụng vào những chiếc ghe khác. Bác tài công dẫn chúng tôi bước lên
một chiếc ghe lớn lót ván đủ rộng để làm quán cà phê, hủ tiếu, rượu và thuốc lá
kể cả thuốc lá ngoại ba số 5. Sau bao nhiêu năm Điền mới lại được thấy ly cà
phê đen bít tất đổ ra đĩa húp và ăn điểm tâm bằng một chiếc bánh bao vừa lấy từ
quả hấp ra nóng hổi.
Cảnh tượng tươi mát và bừng bừng sức sống ấy như một
phát hiện quá mới mẻ và hấp dẫn đối với Bé Tư sau bao năm xa quê nhà: Chỗ này
ghe máy đang bơm bán xăng dầu cho mấy chiếc thuyền đuôi tôm, nơi kia là ghe có
dấu chữ thập đỏ của y tá hành nghề chích thuốc dạo, lại còn cả những chiếc ghe
hàng trên sông bày đủ thứ đồ giống như tiệm tạp hóa lưu động, có cả ghe xay lúa
phục vụ dã chiến ngay tại chợ cho bà con.
Nền văn minh sông nước là thế đấy, Hộ nghĩ phải tạo cơ
hội cho Duy một lần về thăm, thăm cả Khoa Y của Đại Học Cần Thơ đang cần thêm
trang bị và cả nhiều chất xám. Thế rồi buổi chiều tan chợ thì cả cái Thị Trấn
nổi ấy như biến mất chỉ còn lại là một khúc sông dàn trải mênh mông và vắng
lặng, với thỉnh thoảng mới dội lên tiếng máy nổ của chiếc ‘’vỏ lãi’’ tốc hành
chở đầy hành khách vun vút ngang qua để lại phía sau là những đợt sóng lớn vỗ
vào bờ làm chòng chành cả chiếc ghe tam bản. Sau một ngày ở Cái Bè, chúng tôi
vẫn chọn đường sông như một thứ xa lộ nâu êm mát và trữ tình để di chuyển. Cảnh
đẹp bình minh rồi lại hoàng hôn trên sông.
Đêm xuống con thuyền đi ngược dòng vào khúc sông hẹp
chỉ thấy đèn dầu leo lét thưa thớt dọc hai bờ kinh, mảnh trăng non mới hé lên
cao, văng vẳng đâu đó tiếng hát hò như xa như gần, như âm vang từ đất từ một
quá khứ hoang sơ theo từng cơn gió thoảng. Xứ đâu có xứ lạ lùng, con chim kêu
cũng sợ con cá vùng cũng kinh.
Con thuyền phải len lách giữa những dấu đèn để tránh
những lưới cá trên sông và rồi cũng tới được Tràm Chim trên một vùng đầm lầy
lúc trời tảng sáng. Có người dẫn đường, chiếc ghe vẫn phải luồn lách giữa một
rừng tràm và lau sậy rậm rạp và cả gây động khiến đám vịt trời hoảng sợ rào rào
cất cánh tung bay và kêu lên quàng quạc. Cảnh quan kỳ lạ của một vùng sinh thái
nhiệt đới phong phú phồn tạp nhưng cũng đầy vẻ mong manh. Trong rừng cây là cả
một rừng chim và tổ chim với bao nhiêu ngàn tiếng chim lảnh lót xa gần.
Như âm vang từ vùng ký ức tuổi thơ, Điền còn nhận ra
tiếng con chim bói cá hay thằng chài và tiếng chim cu ghì đâu đó trong lùm cây
đằng xa. Rồi một cảnh tượng tuyệt diệu với trước mắt là từng đàn hàng trăm
những con sếu đầu đỏ với đôi chân cao hàng thước được bảo vệ sống thanh bình
trong tràm chim ngày ngày nhẩn nha đi kiếm cá ăn rồi từng đôi múa lượn khoe sắc
rộn rã.
Bé Tư kể cho Điền nghe tên những giống chim quý như
loài sếu cổ đen (Black Neck Stork), loài vạc Á Châu cổ đỏ (Greater Adjutant
Stork)... chỉ có ở Việt Nam mà trước đây ít năm tưởng có nguy cơ bị tiêu diệt,
thì nay đang dần được phục hồi. Lần đầu tiên chỉ mới những năm rồi người ta lại
thấy xuất hiện những Cánh Hạc Đông Phương (Eastern Sarus Cranes), đẹp mĩ miều
với chiếc cổ dài trắng muốt đầu đỏ có điểm trắng thân mình thon thả trên đôi
chân hồng thanh cao và dáng đi sang cả. Con số không phải chỉ hàng trăm mà là
hàng ngàn cánh hạc như những đàn di điểu cuối cùng còn sót lại của vùng Đông
Nam Á bay từ hướng Đông về sống trong các Tràm Chim... như một tin mừng không
chỉ cho Việt Nam mà với cả thế giới nữa. Các ông già bà cả ở vùng Đồng Tháp thì
cho đây là một điềm lành không chỉ là đất lành chim đậu mà hơn thế nữa với quý
điểu như loài hạc chỉ chọn tới ở vùng đất được coi là linh địa bên bờ những con
sông thiêng.
Họ cũng tin rằng Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có lẽ ở
Thất Sơn có một loại cây cực hiếm quý tên là Ưu Đàm có đặc tính là cứ ba ngàn
năm mới trổ hoa một lần và mỗi lần có Hoa Ưu Đàm là có một vị Phật ra đời cứu
rỗi cho cả nhân loại. Bây giờ tuy mới bước vào Thiên niên kỷ thứ ba nhưng theo
Phật Lịch thì đã là năm 2544 như vậy trong vòng chưa đầy 500 năm nữa Cây Ưu Đàm
sẽ lại nở hoa nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long trên vùng đất thiêng và riêng với các
tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương thì tin rằng Phật Thầy sẽ tái sanh ‘’để lâm phàm trợ
thế’’.
Cả Người và Đất như đang vật vã giữa cơn nắng hạn chỉ
cầu sao sớm có được ngọn nước mát từ một cơn mưa rào…
Điền miên man nghĩ tới thế hệ như Bé Tư, sinh giữa
những năm cao điểm của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, nó sinh vào ngày Tết Mậu
Thân, cuộc chiến ấy kết thúc khi nó mới vừa bảy tuổi, nên cũng khó mà bảo rằng
Chiến Tranh Việt Nam là cuộc chiến của thế hệ chúng nó. Và cũng dễ hiểu nếu như
chúng không phải mang trên lưng cái quá khứ u buồn nặng trĩu và cứ thênh thang
đi tới.
Bất chợt Bé Tư quay sang hỏi anh: ‘’Tiếng Việt, tuổi
hạc có nghĩa chi hả anh Hai?’’, ‘’Là tuổi thọ đó Bé Tư’’. Điền vẫn muốn thân
thương gọi tên em như hồi còn sống với cha mẹ ở quê nhà. Bé Tư bây giờ đang học
thêm khóa tiếng Việt ở Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội trong các kỳ Hè với mơ
ước được trở thành cô giáo không phải chỉ ở Trường Đại Học Cần Thơ theo lời mời
của Hộ mà cả nơi ngôi trường quê từ bao năm Bé Tư và các bạn từ thời còn sinh
viên đã dốc công yểm trợ.
Hai anh em về tới Sài Gòn, đường đâu đã xa chi mấy mà
cũng đã rất ít ai biết tới chuyện lũ lụt, kể xa chi tới đồng bào tận hải ngoại,
hoặc giả nếu có nghe nói thì cũng dửng dưng và xa xôi ở tận trời Âu hay Bắc Mỹ
nếu có ai động lòng bạo miệng bàn tới chuyện cứu lụt thì cũng sẵn có người bảo
một đồng cũng không giúp phải để cho chế độ ấy nó lộ hết bộ mặt xấu của nó
ra...
Bé Tư thì có những nỗi bận tâm riêng của cô, không
phải chỉ có các tràm chim, cô còn sôi nổi bàn với anh về dự án dựng lại ngôi
trường làng sao cho các Thầy Cô vẫn có thể tới trường và trẻ con không phải bỏ
học trong suốt mùa lũ lụt.
Xúc cảm trước sự hồn nhiên trong trắng của em, Điền
hiểu rằng bản thân anh rồi ra cũng như mọi người, rồi cũng phải cố quên đi những
thù hận, những ngày đen tối của chiến tranh bom đạn, vũ khí hóa học với chất
độc Da Cam, những Cánh Đồng Chết, cảnh đầy máu me chết chóc của những chiếc ghe
vượt biên bị B-40 bắn tan trên các ngả sông lạch...để trở về với con nước ấy
tắm gội và rũ sạch bụi trần, để sống hạnh phúc với những con lũ đổ xuống mỗi
năm với hai mùa mưa nắng bên bờ con sông thiêng không bao giờ bị tát cạn.
CHƯƠNG X
EL NINO VÀ RẮN THẦN NAGA
TRÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Cửu Long giang mở chín
lần cửa rộng
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca
Nguyên Sa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét