Cầu Bo qua phố
Những năm qua, thành phố Thái Bình phát triển khá nhanh, khoác lên mình diện mạo mới, hiện đại, văn minh. Dấu tích của phố thị xưa hầu như không còn rõ nét, những nếp sinh hoạt mộc mạc đậm hồn quê giờ chỉ còn trong ký ức của các bậc cao niên.
Cầu Bo năm 1963.
Tái hiện lại phố thị xưa, Tập ký “Cầu Bo qua phố” đã lột tả
những địa danh, những câu chuyện về những con người có danh và vô danh trong thị
xã bé nhỏ để tri ân người xưa, trả nghĩa quê hương, giữ lấy văn hóa sống và yêu
quê.
Để bạn đọc hiểu hơn về cuộc sống ở làng Bo, Kỳ Bá…, chợ Gốc
Mít, dãy phố An Tập… xưa, Báo Thái Bình điện tử giới thiệu Tập ký “Cầu Bo qua
phố” của nhà văn Võ Bá Cường.
Làng lúa
Phố thị xưa đất hầu hết nằm trên làng Bo, đình Bo. Dân sống
chủ yếu bằng nghề trồng lúa. “Lúa vào tận phố, lúa vây tận nhà”. Câu thơ ấy ai
viết vào đầu năm 1970 quả không sai.
Cứ như người xưa truyền lại, thuở ấy làng Bo thưa vắng bóng
người, trên dưới chục nóc nhà, nhà nào cũng chỉ tranh tre, mành liếp. Phần lớn
ruộng vườn là của đất đình, đất làng. Đàm lạch, lau sậy miên man chạy từ phía
Đông sang phía Tây, gặp đê sông Trà Lý dừng lại. Đất thở, người thở sau cuộc
phát cây, cuốc cỏ khai khẩn. Vài chục năm sau, đất trở nên trù phú, con cháu
ngày một đông vui, chen chúc nhau sống, tạo thành làng, thành phố. Đình Bo to
lên, chùa chiền nhiều hơn. Để nhớ người đi mở đất chốn lau đầm và những bà mẹ
tiên phong cầm cuốc. Họ là những người nhiều nếm trải, nhiều cay đắng, được dân
làng tôn thành ông hoàng, bà chúa vùng đất lúa.
Thành phố nằm giữa làng lúa, làng hoa. Đồng quê Thái Bình đã
cho thứ quà thần tiên là cốm giã. Người thưởng cốm lịch thiệp trang nhã, khi
búp tay son mở gói cốm bọc trong lá sen tơ chùa Tiền. Họ luôn giữ lấy chất quê,
như rượu quê, sông quê, gạo quê, ổi quê (làng Bo), chuối quê (Cổ Tiết), ấu Sa
Cát quê, gà quê, cá quê, gái quê. Lời quê chắp nhặt thốt lên tự đáy lòng, quý
như hương cốm. Chúng tôi quê đấy, nhưng đố ai vất được quê đi. Mất quê, quên
quê là vong ân bội nghĩa. Hãy đến Thái Bình mà chạm vào tiếng trống chèo quê
làng Khuốc, chạm vào miếng ăn làng Ngói. Các cụ xưa dạy: “Ăn Ngói, nói Khuốc”,
nó là đỉnh cao văn hóa Thái Bình. Dân phố thị đến được đỉnh cao chữ quê đâu dễ!
Quê cho ta cái gậy chống đi muôn nơi, như cây tre hàng nghìn
năm chịu giông bão giờ mới nên thành nên lũy. Dân phố thương quê, nhớ quê xây dựng
biết bao chùa chiền để giữ lấy lòng người đi ở lại. Ta hãy dạo quanh ba phố Đệ
Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam ngắm chùa Tiền, chùa Bồ, chùa Ngàn, chùa Lộng, chùa Trung,
chùa Hai Bà Trưng với hai con voi đặt cửa ra vào. Rồi đi xem đền Mẫu, đền Quan
Lớn, đền Tân Lợi, đền Cảnh Binh, đền Bà Chúa (Bản tỉnh), đền Quang Tự (thờ Trần
Hưng Đạo), đền Chưởng Nga, đền Gốc Mít. Ta hành hương về quá khứ, gom nhặt lại
thời gian thưởng vị ổi Bo, nghe tiếng trống chèo, tiếng sóng khua động trên
dòng Trà Lý. Được nếm trải mùi vị đắng cay, buồn vui ngõ chợ Bo, chợ Gốc Mít,
phố Cô Đầu, xóm Nước Đen mà nghĩ đến quê, đối diện với hiện tại nghĩ về quá khứ,
cùng nhau tiếc nuối những ngày xa quê, thiếu quê. Đêm nằm ngẫm ngợi câu thơ của
Vũ Hoàng Chương dạy ở Trường Phan Thanh (làng Khuốc): “Ta hàn sĩ, nửa đời luân
lạc mãi/ Xót cho người cùng lạnh giấc tha hương”.
Ngẫm ngợi sâu lắng câu thơ trên, càng thương thân phận Nguyễn
An (A Lưu), người nước Nam ta, một trong số trẻ em (con trai) mỹ tú bị Trương
Phụ bắt về Trung Quốc. Nguyễn An có công xây dựng thành trì Bắc Kinh. Ông đã
xây Tử Cấm Thành.
Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn, người Thái Bình viết:
“Nguyễn An là người khắc khổ, liêm khiết, giản dị, cứng rắn, giỏi tính toán
trong việc tu tạo thành Bắc Kinh gồm chín cửa, hai cung, ba điện, năm phủ đến
các đường nha môn”. Người thiết kế đào con sông Tùy nối liền Nam Kinh với Bắc
Kinh, thuận lợi cả đường thủy, bộ cho Trung Quốc. Trước khi chết, vịn vào cành
cây ngân hanh, ngẩng mặt lên trời cao, nhìn về nước Nam với nỗi nhớ quê mà than
rằng: “Này ai, nếu ai về Nam hãy cho ta về với”. Lời than như dòng nước mắt
khôn cùng.
Những người như chúng ta được sống với quê, tắm nước ao quê,
ngủ với mẹ nơi giường cao, chiếu sạch ở quê sung sướng biết nhường nào.
Một ai đó khi sấn bước vào chốn giang hồ hoặc may ra chạm vào
ngưỡng cửa chốn thượng lưu, được ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa, một mình
một ghế chẳng biết đến quê hỏi đã hơn ai?
Anh Tàu chạy sang chiếm đất ở phố thị cũng vội vàng lập đền
thờ để cầu may, bỏ rủi, gọi là đền Hậu Quản, chẳng qua anh ta cũng cố gắng giữ
lấy cốt cách quê mình. Ở đây cũng cây xanh bóng mát, hương khói vàng mã
quanh năm nhưng đền anh Tàu thiếu hương bông hoa móng rồng, bông ngọc lan… Các
cụ ngày trước lo dựng đình để bàn việc nước. Đình của các cụ ông, chùa của các
cụ bà. Ngôi đình nằm ở trung tâm phố như đình Bồ Xuyên, đình Bo, đình Hàng Phố.
Sau này, mỗi ngôi đình đều có công đóng góp cho việc giành nước, giữ nước. Trước
cảnh cây xanh bóng nước giữa phố phường, ai mà nhớ hết tên hồ, tên đầm, ao
chuôm, ngòi lạch của phố. Giữa chốn đông đúc bỗng hiện ra cảnh sóng nước của hồ
Ti Rượu như bức tranh thủy mặc giữa phố phường. Hồ nằm ngay xưởng xẻ cũ, sát với
nhà rượu của Pháp, giờ thuộc đất phường Bồ Xuyên, chân cầu Thái Bình phía sang
làng Bo. Hồ Ti Rượu luôn được tiếp nhận sương sa buổi sớm từ dòng Trà Lý thổi
vào, tạo ra sự dịu dàng và yên tĩnh cho người qua kẻ lại. Mỗi lần bọn trẻ lội
xuống hồ tắm đều thiết tha hương vị sen hồ. Người rời khỏi cổng tỉnh ai cũng bồi
hồi nhớ đến tiếng ếch kêu, tiếng con bồ nông, con bìm bịp vào buổi sáng. Nhìn
cánh chim bay vội biết đất đã trở mùa sau lưng mình rồi. Bỗng nhắc lòng mình nhớ
quê: “Mưa bay trắng lá rau tần/ Thuyền ai bốc khói xa dần sông mưa”.
Những ngày giá rét, mặt nước hồ Ti Rượu lăn tăn, bèo xô, gió
thổi tạo ra cảnh ảm đạm. Nhìn thật sâu vào góc ao thấy trứng nước con bọ ngoáp
trắng như bọt xà phòng bám vào đầu cành tre nhỏ kéo xuống nước, thấy sự sinh nở
của nó trong bóng tối, như phận người lúc đó xa quê càng thương quê, nhớ quê. Bởi
nơi đây là mảnh đất nuôi ta, là Tổ quốc ta, là hồn ông bà, cha mẹ ta lưu giữ.
Những ngày đông ken, bấc thổi, con người dúm dó, với chiếc thuyền nan mỏng như
chiếc lá tre khô, một ông già cong mình thả lưới xuống lòng hồ giữa chốn hoang
vu lau lách. Tiếng chèo khua thong thả, tiếng gõ mạn thuyền, chỉ tiếc trước cảnh
ấy thiếu tiếng đàn trong gió thoảng. Bốn mùa ông già vẫn sống như thế. Đầu đội
nón lá, mình mặc áo ngắn, đôi lúc đầu quấn khăn rìu màu nâu thẫm, ông già đánh
bạn với hồ sâu, như đôi bạn tri âm tri kỷ, để đến con rái cá cũng quen tiếng động
mái chèo, tức thì nó ngoi lên mặt hồ theo thuyền ông luồn trong lau lách.
Ông già không hề bận tâm đến nó, tay già bụm cái chén tợp hớp rượu, đôi mắt lim
dim. Vừa buông chén, mắt ông đăm đăm nhìn vào cõi không cùng, như người suy tưởng
trước cảnh hồ quê. Khuôn mặt ưu tư của già rung lên từng thớ thịt. Bằng động
tác khéo léo kỳ lạ, ông chèo thuyền đi như vào miền cổ tích.
Cây gạo trên bờ lặng lẽ, mùa đông cành lá khẳng khiu như đời người thả lưới, thương nhau, quyện vào nhau, bận rộn với nhau. Do ân đức cây và người trở thành đôi bạn thật là “tương tri lại gặp tương tri”. Hồ Ti Rượu không sóng vỗ mênh mang, không mù khơi tít tắp, không gợi cảm cho người yêu thơ như cảnh Tây Hồ với bóng chim sâm cầm mùa đông. Nhưng ông già gầy, lưng thẳng vẫn để lại mấy câu: “Lưới ta giăng khắp mặt hồ/ Rượu say mượn chén cây khô bóng lồng/ Nước hồ không gạn mà trong/ Sào ta không dựng mà trông cao vời/ Đây hồ Ti Rượu rong chơi/ Đêm tung lưới đắp cho người tỉnh say”.
Giữa phố Lê Lợi, chỗ bể bơi Nhà Văn hóa thiếu nhi tỉnh, các cụ
cho đào hồ Pissine (sân vận động thị xã). Hồ không to, nằm ở nơi đắc địa “làng
lúa làng hoa” đón nhận bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, đủ ngày nóng, cóng ngày rét
và có chiều mặt hồ xanh trong mù sương, có ngày đỏ tía hừng đông đổ xuống mặt hồ.
Sau những ngôi nhà phố Lê Lợi, liên tiếp hồ, ao, đầm của nhà
cụ Cửu Mùi - Tư Nhu. Hướng lên phía Bắc ta gặp ao sâu nước cả (chỗ xưởng miến)
đằng sau Trường THPT Lê Quý Đôn. Có thêm chiếc đầm, đấy là nơi hoang cư của những
“bần nhân tiện tử” thời xưa trú ngụ. Rồi trước cửa chùa Tiền các cụ thả ao sen
rộng tới vài sào. Ao đó nay vẫn còn, dù nó bị lấn chiếm nhiều phía, xây dãy
ngang nhà dọc, còn đâu thấp thoáng câu thơ của Nguyễn Khuyến: “Ao thu lạnh lẽo
nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...”. Những ngọn sóng xanh, những
âm thanh không vào đây được nữa. Ta dễ nhìn thấy những thân sen khô rỗng ngủ
trên đầm, cảnh buồn làm người ta dễ nhớ tới thu xưa...
Ao hồ phố thị như mắt ngọc, nuôi màu xanh bất tận đất đai,
làng mạc. Nước ao hồ thầm lặng, làm nên màu vàng của lúa, mùi hương trái cây, tạo
nên vương quốc trù phú. Đất trời thông minh, cho ta dải đất màu mỡ, vì con người.
Dải đất ấy đã tạo ra những món quà quý nuôi sống con người. Đấy là ân huệ bất tận.
Người Thái Bình biết ăn, biết chơi. Họ là người thư thái, vừa
tĩnh lặng vừa an nhàn, lại có lòng nhân hậu. Cảnh ấy nằm bên kia cầu Bo, chạy
dài từ đền Quan lên cầu mới Thái Bình. Vùng đó người xưa quật đất đắp đê Hoàng
Diệu, sau dân tạo thành đầm sen trắng, hồng đủ sắc. Vào mùa, lá sen, ngó sen,
thả hương tạo ra cảnh tình đẹp đẽ như một nương thôn đứng nép mình bên rặng
trúc trên bờ ao vắng. Thường những đôi trai gái từ phố thị đạp xe sang, du lãm
thưởng ngoạn hoa sen. Trong tâm tưởng bỗng nhớ lại thời hồng hoang với con dải
nước, con thuồng luồng nằm sâu đáy hồ dễ rút chân người, chẳng may sa xuống...
Thưởng sen, nghe tiếng sóng vỗ sông Trà, nước từ cửa Tuần Vường
đổ về. Khi gió nồm thổi đưa lại chút man mác của nước sen hồ, nghe hơi thở lá
sen, hương sen thì cái ngột ngạt ôi nồng biến đi đâu mất. Đường phố Thái Bình
trở thành “đường thơm”, “ngõ thơm”, đến mái tóc người con gái cũng thơm. Tiếng
sóng sông Trà là tiếng sóng quê hương vỗ vào lòng phố thị. Sông Trà là một con
sông miên viễn, với tư tưởng nhân đạo làm nên tên tuổi của dòng sông. Chúng ta,
mọi lớp người được tắm gội trên dòng sông Trà. Dòng sông đã nuôi dưỡng tâm hồn
ta và chính ta đã khám phá ra được chất thơ phú trong dòng nước đỏ.
Tự hào thay, Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, khi cầm quân
là danh tướng, lúc làm thơ đến bậc thi hào, đời làm quan thì thăng trầm đủ cả
nhưng sự nghiệp khẩn hoang lập làng lưu công đức muôn thuở thì lại ở trên
đất Tiền Hải (Thái Bình); ngay cả làm “tay chơi” cũng đến độ lưu danh hậu thế.
Ngài cùng thời với đại thi hào Nguyễn Du, kém Nguyễn Du mười tuổi. Cả hai
danh nhân này đều tìm về đất của nhà bác học Lê Quý Đôn!
Nguyễn Du ẩn thân mười năm gió bụi ở Quỳnh Hải trước khi đi sứ Trung Quốc. Nguyễn
Công Trứ đi mở đất Tiền Hải.
Ngày xưa các cụ đấng bậc thường xuyên đi thuyền hoặc cưỡi ngựa,
chí ít cũng nằm võng ra đây. Xem ra các đấng tài ba ấy có thể đều đến làng Bo,
chao chân trên dòng sông Trà Lý rửa đi lớp bụi đời và nỗi đau nhân thế, tạo nên
cảm hứng viết nên những tuyệt tác văn chương.
Mọi thế hệ Việt Nam đều được đọc Truyện Kiều, tâm hồn tràn đầy
nỗi xót thương. “Đau đớn thay phận đàn bà”, tư tưởng nhân đạo ấy đẹp như một
chuỗi ngọc trong cổ lục xa xôi.
Nguyễn Công Trứ làm quan chỉ có ba mươi năm, sao ông làm được
nhiều việc thế? Trong đó mấy năm dành cho Thái Bình. Trước khi chết, cụ nói:
“Con cháu đã nghèo, dân lại nghèo hơn” nên cụ đã đào sẵn cái huyệt dưới cái
chõng tre, chôn cụ ở đấy và trồng trên mộ một cây thông.
Đất bác học Lê Quý Đôn đã hội tụ được anh em tài cả nước. Những tác phẩm và cốt
cách, kẻ sĩ Bắc Hà đã thấm đậm vào người và đất Thái Bình. Mọi thế hệ được nhào
nặn, tiếp thu cái ánh sáng văn hóa đó, làm nên một Thái Bình, nơi có đường cây
xanh, có hồ nước, có vườn hoa, có phố An Tập, có tiếng hát cô đầu, có chợ Bo,
có phở Xừ, phở Phớn, có kẹo kéo, có bánh cuốn Minh Hương, có chả ngóe Minh Tân.
Ôi quê hương, phố xá nhiều điều thương nhớ. Con người muôn thuở luôn bị vật chất
vật vã, ám ảnh, cám dỗ hết sức nặng nề. Cái văn hóa tinh thần và triết lý Phật
giáo phần nào bị lãng quên và có phần cản trở.
Ao hồ, đầm nước, sông ngòi dần lấp đi, thật tiếc hận! “Con
người với con người là tinh hoa”. Họ liên kết với nhau như mạch máu để nuôi sống
con người. Sông ngòi, đầm lạch, ao hồ là một thực thể như một con người, nếu bị
phá vỡ sẽ biến thành phố như một vật thể chết cứng.
Ba sông Bồ Xuyên, Kỳ Bá, sông 3-2 (là con sông đào) bắt nguồn
từ sông Trà Lý, nó như tấm lụa trắng từ thác cao chảy xuống tinh khôi, thơ mộng,
nằm vắt ngang thành phố. Đã có thời con người lãng quên nó, để dòng chảy ứ nghẹn
rác bẩn. Một nhà văn đã viết “Chảy đi sông ơi”, sau sự đánh thức các nhà chức
trách “phải để mắt” tới con sông được thức dậy với hai hàng dừa xanh và sóng nước...
Sông Kỳ Bá có Trường Kỳ Giang của cụ giáo Châu, nơi Nam Cao từng đứng chân dạy
học lớp E’lenentavic.
Ông trọ nhà cụ Từ Ngọc Liên, cùng họ với nhà thơ Trần Lê Văn (Thợ Rèn) phố Lê Lợi, trước cửa đền Mẫu, cạnh đó nhà sách Mậu Hiên. Nhà văn nằm trên cái gác xép ọp ẹp, có cửa tò vò nhìn ra phố xem người và ngựa. Những lúc “bạc đời”, nhà văn thả bộ sang bên kia cầu Bo, vào lối ngõ của làng mạc, quanh quanh là bờ tre, dậu ruối, cá quẫy, trăng lên rặng nhãn, vườn chè với những con đường cát mịn rợp bóng quanh năm. Cái không gian thật tĩnh lặng, yên bình tràn vào những căn nhà mái rạ thơm hương lúa mới. Nó rất Thái Bình và đẫm chất đồng bằng Bắc Bộ. Có thể đêm nào đó, nhà văn lại được nghe tiếng trống chèo, hay xem vở diễn Trương Chi. Làng quê ấy đã cho nhà văn một cảm nhận về phận người, giọt lệ… Sau này mang nặng tấm lòng yêu quê, theo cuộc kháng chiến rồi làm báo Vệ quốc quân (do Trần Độ người Tây Giang - Thái Bình đứng chân thư ký). Ông đã gặp Xuân Oanh ở báo. Biết Xuân Oanh gốc người Thái Bình, sau này chuyển ra Quảng Yên. Cho đến một chuyến đi công tác, trong cái không gian miền quê trăng tỏ, giếng trong, nhà văn đã gợi ý cho Xuân Oanh viết bài hát về quê hương mình. Nhạc phẩm “Quê hương anh bộ đội” được ra đời trong hoàn cảnh đó (1949 - 1950). Theo nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha, dù nhạc phẩm Xuân Oanh ít nhưng ông cứ lừng lững trước mặt mọi người. Ông có tài bẩm sinh về ngoại ngữ, lại có cái “tai” âm nhạc. Ông vẽ tranh, làm thơ “Quê hương anh bộ đội”, đã đóng vị trí quan trọng trong âm nhạc. Nó đi trong dòng chảy âm nhạc cùng với “Ngày mùa” rồi “Tiến về Hà Nội” của Văn Cao. Nhạc Xuân Oanh có hơi thở nhạc phương Đông, gần thơ của Chính Hữu. Ca từ của ông đẹp khiến người hát vừa cất giọng đã làm động lòng, đồng cảm người nghe: “Nơi ấy có con đường tắm nắng vàng tươi/Bờ tre nhà tranh vách mới/Nơi ấy có cánh đồng mênh mông ngát hương/Mùa lúa chín tiếng hát vang khắp đường...”. Chỉ từng ấy ca từ, ta hiểu Xuân Oanh khích lệ người nghe yêu quê hương mình dường nào? Bởi anh hiểu “Làng còn thì nước mới còn”, để thế hệ hôm nay dẫn dắt trong “Giai điệu tự hào”, khiến người nghe như muốn sống lại thời tiền chiến.
Xuân Oanh (1924 - 2010) kém Nam Cao 11 tuổi, quê gốc Thái
Bình, ra tá túc ở Quảng Yên, đi theo cách mạng làm báo cùng với Nam Cao - Thâm
Tâm - Thôi Hữu, họa sĩ Dương Bích Liên và Mai Văn Hiến. Tòa báo đóng ở bản Púc
- Định Hóa - Thái Nguyên. Cuối đời, ông ở trong cái hầm người Pháp xây gần Đài
Tiếng nói Việt Nam. Nguyễn Thụy Kha có phòng làm việc gần đó. Hàng ngày, hai
người tài hoa vẫn chén nước, điếu thuốc đưa nhau. Nhiều lúc Xuân Oanh cầm đàn
hát bài “Quê hương anh bộ đội”, hẳn lúc đó ông day dứt một thời quá khứ của
mình ở làng quê Thái Bình.
Sau này, làng Bo dần bé đi, mất đi. Trong làng thấp thoáng thấy phố. Phố đông, người chật. Tự nhiên ai lấy mất cái hồn quê trong ta mà những năm 1930 - 1940 Nguyễn Bính đã dự cảm thấy, rồi thảng thốt kêu than: “Cái hôm em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều...”. Ai không biết, riêng tôi vẫn nhớ rau “tần”, thứ rau muống ngoại thành Hà Nội. Nhà thơ Trần Huyền Trân có lần nhắc đến kỷ niệm loài rau ấy của người tần tảo Hà thành. Nhiều người nơi khác đã mất quê. Những hiền nhân Thái Bình không thế. Họ luôn giữ lấy rường cột quê hương, dù bàn chân đã đi khắp bốn phương, miệng thưởng nhiều miếng ngon vật lạ. Ấy thế mà vẫn nóng lòng về ăn bát cơm quê, cắn quả ổi Bo, tắm nước sen hồ Hoàng Diệu. Họ vẫn nhớ dâu già, tằm chín, cua mẩy, gà tơ, nằm trong ngôi nhà mái tranh của mẹ. Sau bao cuộc hành trình tha hương nay mang về quê danh giá, công tích, bảng vàng bia đá. Vào đầu xuân đội nón lá áo the xem hồ đồng đền Mẫu. Có mấy ai đem bệnh tật tuổi tác già nua về trình quê, kêu khổ với quê.
Trong môi trường văn hóa Việt của người phố thị, họ giữ lại cảm
xúc khi xem hồ đồng. Người ta nhớ bà Bích Thuận ngồi đồng từ năm 16 tuổi, bà Hảo
(bán trầu vỏ) là người thứ hai, có thâm niên ngồi đồng không kém bà Thuận, quê
bên Xuân Trường, Hải Hậu, Nam Định, quê mẹ ở chùa Keo Thái Bình. Khi ngồi hồ đồng
ai cũng muốn đến, muốn nghe. Câu hát chạm vào trái tim. Trong cách đi đứng, ngồi
hồ, bà không để lộ ra sự dung tục. Bà là người nết na, đẹp đẽ. Người đi theo hồ
xem hồ đều khen “dáng bà, da bà, rồi khuôn mặt thanh tú cô hồ Bích Thuận”. Bà
ngồi có phong cách riêng, khó có người học được cái ý nhị trong lúc ngồi hồ đồng
cô, bóng cậu. Người xem hồ đồng “Áo mộc tà bay trước cửa thiền” khác gì như người
đi thưởng hoa. Dân mình chú ý để tâm đến cái hương vị trong hoa, không như người
phương Tây chú ý đến màu sắc hoa. Hương vị nằm bên trong nội tâm còn màu sắc là
cái phô phang bên ngoài. Ngày rằm, đền Mẫu đông nghẹt. Người theo hồ đồng có lớp
lan từng hội, chọn bạn? Người cao sang quyền quý thường chọn ngày chọn tháng,
chọn cô hồ đồng Bích Thuận, đâu có xô bồ.
Đền Mẫu có 36 giá đồng bà Thuận đều ngồi hết, nghe tiếng hát
cung văn người cầm đàn là ông Vũ như khuấy động tâm hồn. Cô hồ ngồi từ đầu đến
cuối. Bà thường được mời hầu tam tòa thánh Mẫu. Hầu năm quan lớn hoặc hầu hàng
Trầu, hầu ông Bảy, ông Hoàng Mười. Ai hợp cung nào bà ngồi hồ cung đó. Khi rước
bà theo kiệu võng hoặc kiệu long đình, người phố thị rước từ đền Mẫu ra đền Hai
Bà rồi quay về. Những cô gái thanh tân mười sáu, mười bảy khênh kiệu như bay
trên không, mấy khi chân đặt xuống đường.
Gái Thái Bình đẹp cả dáng lẫn da. Mấy cô đâu tô son thoa phấn
mà vẫn đẹp. Các cô mặc áo mỏng bó sát thân, người ta mê cái lớp da trắng thấp thoáng
trong tà áo xẻ. Cô Ba, cô Bốn, cô Hồng nức tiếng yến anh ở phố Đệ Nhị. Còn có
cô giọng khơi khơi ngòn ngọt ngồi trong lữ quán.
Phải kể đến tay Bang Cắm (người Tàu) chuyên làm cao dán nhọt.
Mặt ông ta như quả nhót chua cắn vào đầu hè. Ai cũng nhớ, cao Bang Cắm nổi tiếng,
nhọt sưng cương đỏ bằng cái chén chỉ cần dán một lá cao Bang Cắm vài ngày nhọt
tự cắn mủ, người ta “khêu” lấy đầu nọc mủ xanh lè ra. Nọc nhọt độc, nhổ được nọc
tất khỏi bệnh. Cả tỉnh những người lên bắp chuối đều đi tìm cao Bang Cắm. Rồi đến
ông Thuận Thiên Đường bắt mạch kê đơn người ốm chuẩn xác. Con ông sau trở thành
lang Thìn theo nghề của bố. Đến lão Phoóc (Tàu) xe ba gác và những nhân vật ấy
tư rằm mồng một đều có mặt xem hồ đồng Bích Thuận. Những người giàu có trong phố
như ông Hàn Phú (đường Lý Thường Kiệt), ông Hàn Bản (buôn bán), ông Hào Thùy
(tiệm gạo đường Lê Lợi), ông Nghị Quỳ, ông Nghị Luận (làm ruộng) nhà ở Sở Công
an cũ, ông Nghị Xương (buôn gạo) rồi Nghị Mấm có lăng ngựa đá, voi đá... Vợ con
các vị đều thích đến xem hồ đồng để thấm câu hát cung văn của anh Vũ. Anh Vũ đã
nói: “Lòng không vui không gẩy đàn, người sạch sẽ mới cầm đàn, lúc cầm đàn quần
áo tề chỉnh, lúc gẩy đàn thắp trầm khêu nến. Nghĩa là người cầm đàn phải thanh
- kì - u - nhã...”.
Văn hóa Việt sâu lắng, nó tựa mạng sống âm ỉ, che chở, nuôi
dưỡng con người. Mỗi lần gặp được nhau, bàn tay nhẹ úp, ép bụng, đầu hơi cúi xuống...
Chào người trên, hỏi người dưới, bao giờ cũng ngỏ lời bằng câu nói lịch thiệp.
Những câu chào mời nhẹ nhàng ấy dễ chạm vào trái tim con người. Người quê thường
nói: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”, họ đề cao văn hóa tinh thần, bền bỉ đánh thức sự
tử tế, hiếu thảo đem đặt lên bàn thờ tổ tiên nhà mình rồi đi chầm chậm vào chữ
viết dân mình. Văn hóa Việt nghiễm nhiên được vinh danh là vậy. Người Thái Bình
dù đi tứ chiếng mười phương vẫn giữ được nếp nhà. Khi trở về quê, nhập hồn nhập
cốt vào quê mới thấy cuộc sống tinh thần quê mình sâu sắc hơn nhiều. Người phố
ngày một đông lên. Các phố đâu còn lèo tèo vài nếp nhà cũ kỹ. Có phố cô đầu An
Tập, có nhà hát, người ở đã hai ba đời. Người mới đến tự nhiên phố xá biến
thành đường ngang lối tắt, từ đó sinh ra đường cài xương cá. Dân mới đến đi làm
thuê, chạy chợ. Dân mình thường không có nghề độc như anh Tàu cho nên mỗi nhà mỗi
cảnh, miếng sống miếng chín đầm đìa nước mắt.
Sau này, mấy người biết cách làm ăn, giàu có dần lên. Họ thay
đổi cách nói năng, ăn mặc, đi đứng. Họ tự nhận mình là thị dân, gọi nhau là cậu
mợ. Có ông học cách đeo caravat, đội mũ phớt, giày đánh xi bóng lộn. Những cô
con gái nhà giàu lúc đó đâu còn như chiếc lá dong xanh nền nã, ngày tết gói bọc
những hạt gạo nếp cái hoa vàng... Ngày ấy, người ta thèm cảnh “Tìm đâu thấy lại
bông hoa cỏ/Dưới cành cơm nguội thuở bình yên”.
Năm 1944, phát xít Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay, tay ném
bom xuống rạp hát Eden. Rạp thứ hai mang tên OĐE’ON do Nguyễn Thúc Quýnh đứng
chân chủ rạp. Ông này còn làm Hiệu trưởng Trường Monguyllot. Ngày ấy, tối đến cửa
rạp người ầm ầm chen lấn mua vé vào xem diễn xướng, xem hát tuồng, xem diễn
chèo. Dân phố thị một thời nhớ đến những buổi gánh xiếc Tạ Duy Hiển từ Hà Nội về,
trẻ con reo lên khi nhìn thấy chú khỉ đạp xe, mặt nhăn nhở, đít đỏ choét, vừa
chạy xe vừa làm trò cười kiếm tiền cho chủ. Mấy đứa con gái phố thõn thẹn mặc
áo tứ thân màu cánh sen, đi guốc “phi mã”, cặp tóc con bướm chảy dài đến gót. Đến
cửa rạp chưa chịu vào mà bíu ríu nhau thầm thì chuyện cũ chuyện mới…
Trong phố đố ai tìm ra được một từ đường của một dòng họ để con cái cháu chắt hàng năm về bái vọng. Cây xanh bóng mát một màu xanh bất diệt chim về cất tiếng. Phố thị thật tĩnh lặng. Nhà sách Mậu Hiên nằm ngay góc đường Phan Bội Châu ngõ nhà thờ tỉnh rẽ sang. Một căn nhà nhỏ, mái ngói xếp, màu ngói gợi mưa nắng thời gian đi qua. Ngôi nhà đó như một cuốn sách chữ viết rung rinh mềm mại nảy nở bao điều hay các đời để lại. Muốn kiếm cuốn “Tiểu thuyết thứ bảy” của nhà xuất bản Tân Dân do Vũ Đình Long làm chủ hãy đến đấy. Ông Long đã tập hợp những cây bút nổi tiếng thành lập “Tiểu thuyết thứ bảy” Văn Đoàn nhưng không thành. Cô chiêu cậu ấm tìm đến cảnh sống “Cơm thầy cơm cô” của Vũ Trọng Phụng cũng từ đấy mà ra. Có cô thích áng văn mướt mát trong “Đồi thông hai mộ”, “Lá ngọc cành vàng” cứ tìm vào nơi tĩnh lặng hiệu sách Mậu Hiên. Người sưu tầm sách, mua sách đều gặp người bán sách, ông là Phan Cao Phan, anh ruột nhà văn trinh thám Phan Cao Củng. Ông bán sách thường rao lên những trang văn hay nhất ông đã đọc thuộc cho người mua nghe. Giọng đọc của ông mượt mà, đằm thắm, làm trang văn đã hay càng hay hơn, đã sinh động càng sinh động thêm. Ông đã thổ tận can tràng vừa đọc vừa ngẫm ngợi những câu thơ cho mấy cô gái đồng trinh trường mẫu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”.
Người ta nhớ những cuốn sách ông chủ chưng diện, những tờ báo
từ Hà Nội chuyển về còn thơm mùi mực giãy nảy tin tức nóng hổi. Sau này, ông Mậu
Hiên bỏ lên Hà Nội cùng với ông Tô Thủy Nguyên, ông Văn Kiện mở Nhà xuất bản
Minh Đức ở phố Phan Bội Châu, có mưu sĩ Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ. Nguyễn Hữu Đang
người làng Trà Vi, Vũ Công, Kiến Xương, là trưởng ban tổ chức lễ Độc lập
2/9/1945. Một nhà văn hóa, một nhà văn có bí danh Phạm Đình Thái, một trong những
người sáng lập hội truyền bá quốc ngữ. Tháng 8/1945, ông được Đại hội Quốc dân
Tân Trào bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng trung ương gồm 15 ủy viên. Ông qua đời
ngày 8/2/2007 tại Hà Nội.
Đối diện nhà sách Mậu Hiên là hiệu sách Thanh Sơn. Cái quán
mái vảy lợp rạ tường gạch kiến bò trát nham nhở, một vài vệt chổi quét lên tường
màu thổ hoàng, trông hoang sơ quá. Ông chủ Thanh Sơn bán và cho thuê sách, chủ
yếu cho lớp trẻ. Ông bán các thứ linh tinh đồ tạp hóa, có cả thuốc dán, thuốc
đánh chuột. Buổi sáng trẻ đến lớp trường Mẫu thường rủ nhau góp tiền thuê sách,
thay nhau đọc rồi hôm sau trả. Hôm nay đứa này ra tiền, hôm sau đứa khác ra.
Ngày ấy, văn hóa đọc thành cao trào, không có sách cầm trên tay đứa đó dễ trở
thành đứa “quỷnh” nhất lớp. Hai hiệu sách đó như một ông già dẫn dắt tuổi thơ
chậm chạp đi vào tri thức nhân loại giữa miền cổ tích.
Một người cao lớn tóc cắt “bốc”, nhà văn Nguyễn Công Hoan đó.
Bọn trẻ thì thầm vào tai nhau: “Thầy vừa từ trong Trường Monguyllot thả bộ ra đấy”.
Trường này sau Cách mạng Tháng Tám đổi tên thành Phan Thanh Giản rồi sau nữa
chuyển thành Trường Tiểu học Lê Hồng Phong. Hàng ngày nhà văn ra đó đón đọc báo
“Vịt đực” cụ thường xuyên cộng tác. Những bài cụ viết với cách nói sắc sảo, hóm
hỉnh phản ánh cuộc sống xung quanh nơi mình ở. Mỗi sáng lên lớp cụ thường lôi
bài viết trong cái cặp to tổ bố đọc cho học sinh mình nghe trước. Có lần cụ viết
bài cho báo “Tiếng chuông”, nhân vật chính là bà Vũ Thị Nhãn ở phố Đệ Tam đi
bán dầu “Tây” (dầu hỏa). Cụ có chiếc chuông luôn lắc trong tay kêu loong coong.
Dáng cụ dò dẫm đi thật khổ hạnh trong mưa bụi... Dân phố nghe tiếng chuông lâu
thành quen. Biết đó là chuông cụ Nhãn bèn giục con cháu chạy ra ngõ mua lấy một
“cút” về thắp đèn. Cụ Hoan chơi thân với thầy giáo Đoàn Văn Đăng, mỗi lần ông
Đăng vắng cụ Hoan đứng chân dạy thay. Cụ Hoan ghét Đốc Quýnh là hiệu trưởng trường
bám đít Tây làm việc cho Tây. Cụ đã lấy những nét sinh hoạt và tính cách con
người Đốc Quýnh để viết truyện. Đốc Quýnh biết cụ chơi xỏ mình nên hay gây chuyện
và theo dõi nhà văn. Cụ dạy học sinh vẽ người lúc đi “xịa” bằng một nét phấn nối
liền chạy ngang sổ dọc. Những đứa bám đít Tây được vẽ lên tường khắp các chuồng
xí. Đốc Quýnh tức đến hộc máu khi nhìn thấy tranh châm biếm chửi Tây, chửi Nhật
ám chửi mình mà không làm sao được. Học sinh trong phố quen biết cụ Hoan ở cửa
hàng sách Mậu Hiên, có lúc bên hiệu Thanh Sơn. Học trò thầy giáo, nhà văn gần
gũi, yêu thương nhau trong văn hóa đọc, qua trang văn, câu chuyện cụ Hoan kể.
Lão Sởi bán bả thuốc chuột tuổi già rụng hết tóc, mặt đỏ tròn như chiếc mâm son, môi hàm ếch chìa hai chiếc răng cửa khỏi môi trên trông buồn cười lắm. Hàng ngày lão đến “bỏ mồi” thuốc chuột cho hiệu sách Thanh Sơn. Nhân vật này cũng không qua khỏi con mắt nhà văn. Nhiều chi tiết trong truyện sau này của cụ cũng từ lão Sởi mà ra. Đọc văn của cụ người ta biết dân tình phố thị ăn mặc, nghỉ ngơi ra sao. Câu văn của cụ bao giờ cũng đứng về nhân dân.
Nếu không nói tới hiệu ảnh Hồng Phát là không đủ. Hiệu ảnh Hồng
Phát nằm chỗ ngã tư nhà thờ đâm ra đường Lê Lợi. Ông Hồng Phát lúc đầu làm
thông phán tỉnh Thái Bình đứng tên hiệu ảnh. Ông biết dán cái mác để dọa người.
Sau này đổi thành hiệu ảnh Á Đông. Vũ Ngọc Nhạ đã chọn cái mác dởm làm vỏ bọc để
chụp tấm ảnh làm thẻ căn cước đi vào nghề tình báo. Tấm ảnh chụp hiệu Hồng
Phát, cửa hàng thấy đẹp đem phóng to làm mẫu quảng cáo. Ông Nhạ coi đấy là một
tai họa đã giao cho anh ruột Vũ Ngọc Khoa và ông Vũ Đăng Bính cùng cụ Ý lý trưởng
xã Vũ Ninh tìm cách gỡ xuống. Thật vất vả. Từ tấm ảnh ấy, ông Trúc và ông Mai
Roãn Thăng, Chánh phó hội làng Cọi mang lên phủ Kiến Xương khai cho hợp thức
theo mẫu quốc pháp có đóng triện chữ nhật phẩm xanh hẳn hoi. Tấm ảnh đó đưa ông
Khoa vào cuộc đối đầu với Chánh Tuân bên Niềm. Nhìn ảnh, Chánh Tuân bảo: “Tao
nhìn ảnh biết chắc đây là thằng Nhạ. Sao nói ảnh mày được”. Chánh Tuân nói khi
nhìn ảnh cũng nhang nhác ông Khoa, hắn nói khi cái đầu hói gối chiếc nệm bông
trên sập gụ nằm kéo thuốc phiện. Tay hắn đưa ra cầm 500 đồng Đông Dương cho
tráp khóa lại, tay kia ký giấy liền với giọng hách dịch: “Mày cùng thằng Sáng
Chánh bảo an xuống bót Niềm cho đồn trưởng ký, rồi về phủ Kiến Xương xin dấu nổi”.
Vào bót, ông Khoa còn biếu 20 đồng Đông Dương cho tên đồn. Đồn trưởng nói: “Học
ở trường Iétxanh tốt đấy. Sau này công thành danh toại nhớ đến tôi”. Tấm ảnh
màu vàng nhạt chụp ở góc phố nhà thờ tỉnh ghi rõ người trong ảnh 20 tuổi. Về
nhà, Vũ Ngọc Nhạ đã vặn nhỏ đèn kỳ, bên nhà cụ Ý tự tay ngoặc thêm cái móc vào
đầu số không, thành con số sáu. Tấm căn cước ấy làm bước đệm của ngài cố vấn
thi vào Trường Kế toán Dembigaro rồi lọt vào phòng nhì Pháp, sau leo lên tàu
Esferanel cùng bà Nhẫn ôm theo đứa con nhỏ vào Sài Gòn bước vào nghề tình báo.
Cuộc sống đẹp như vệt sáng luồn qua vòm cây, bóng lá um tùm hiện rõ từng chân
dung con người. Nó như các loài hoa, có loại lăng nhăng bờ bụi, có bông đi về gác
tía lầu son. Qua thanh lọc, cây lại ra cây, người ra người, hoa ra hoa. Những
bông hoa có hương có sắc, gió trời thổi đi muôn nơi tạo nên sức Phù Đổng. Họ lo
bắc cầu qua sông, mở các cửa ô, đường Quang Trung đi Tân Đệ, Kiến Xương đi Tiền
Hải, Hoàng Diệu đi Hải Phòng, mở đường đối ngoại 84, làm sân bóng đá, xây dựng
bảo tàng. Từ hai bàn tay trắng, người thành phố cùng nhân dân cả tỉnh đứng lên
xây dựng lại cơ đồ. Ba mươi tám hợp tác xã thủ công nghiệp như Tiền Phong, Đoàn
Kết, Đồng Lợi, Phương Đông… Hàng hóa Thái Bình được chở đi muôn nơi, đâu chỉ có
lúa gạo. Những chiếc xe cải tiến nổi tiếng từ hợp tác xã Cộng Lực góp phần giải
phóng đôi vai. Những chiếc thuyền sắt của Trần Phú được ra khơi tham gia vào việc
vận chuyển hàng hóa. Phố thị đã bước vào cuộc sống mới. Họ ra sức kiến tạo quê
hương mình đẹp như “làng lúa làng hoa”. Người phố vẫn giữ được cốt cách người
đi mở đất, giản dị, mộc mạc, chân tình, thủy chung bằng hữu, cao thượng. Nhiều
nhà văn, nhà khoa học, chính khách trưởng thành qua trang sách đọc ở thư viện
nhà bác học Lê Quý Đôn. Họ thường nói với nhau rằng: “Thái Bình không có một ngọn
núi nhưng chúng tôi có một ngọn núi cao nhất không nơi nào có được đó là nhà
bác học Lê Quý Đôn”.
Những gương mặt sang trọng mọi thời đều được tắm gội nước
sông Trà, ăn ổi Bo, nằm giường hòm, đắp chiếu Hới, có chút hào sảng, lãng mạn.
Nói đến đó ta không thể quên lớp thế hệ vàng, biết bao người có công với cách mạng
đều trướt nước thị xã Thái Bình ra đi... Họ được nhân dân đón nhận, tên tuổi họ
sống trong lòng nhân dân bởi người với người là một tinh hoa. Họ làm nên thương
hiệu Thái Bình như những câu thơ: “Lòng người làng như trăng/Ruộng cấy như
tranh/Sông làng chảy miền quê yên tĩnh lạ/Sống chân thật ruột mềm như lạt mạ/Gối
đầu lên chữ nghĩa với mùa màng”.
Người Thái Bình tự vẽ chân dung mình, viết gia phả mảnh đất
nơi mình sống bằng những tháng ngày vất vả nhưng anh dũng. Bằng những vồng
khoai, khóm lúa, tạo nên gương mặt phố phường như đồng xanh màu lúa: “Những lá
biếc, như chiều nay mây biếc/Em tận cùng hương sắc có như em…”.
Đấy là thương hiệu Thái Bình biết bao thời tạo lập mới có.
Ngày 4/2/1895, Kinh lược sứ Bắc Kỳ sáp nhập làng Kỳ Bá và Bồ Xuyên (làng lúa, làng hoa) vào phủ Kiến Xương, lập thị xã Thái Bình.
Một góc phố Lê Lợi, thị xã Thái Bình những năm cuối thế kỷ
XX.
2. Đệ Nhất phố
Ngày 4/2/1895, Kinh lược sứ Bắc Kỳ sáp nhập làng Kỳ Bá và Bồ
Xuyên (làng lúa, làng hoa) vào phủ Kiến Xương, lập thị xã Thái Bình. Ngày
20/1/1906, Thống sứ ra Nghị định hoạch định chu vi thị xã; ngày 20/10/1932 ra
Nghị định điều chỉnh ba con đường cho thẳng phố Đệ Nhất nằm ở phía Bắc, người
Tây gọi là Duyn-pic-kê, chạy qua cửa đền Mẫu, hay còn gọi là phố Mẫu (nay là phố
Lê Lợi). Phố ấy nhiều cỏ cây, gió lá đầy vẻ suy tư bởi đền Mẫu lúc nào cũng
hương khói mơ màng với tiếng đàn giọng hát. Phía Nam gọi là Đệ Nhị, Tây gọi là
Ác-măng-rút-xô, có nhà Vọng Cung, nơi Nam Triều tế lễ vào các ngày sóc vọng. Cửa
Vọng Cung có bụi tường vi, quanh năm hoa nở như những cụm mây màu hồng nhạt. Một
vài gốc đào cuối tháng Giêng hoa chưa nở hết. Cây mơ đầu ngõ nhà Vọng quả non
phơn phớt lông nhung khiến mấy cô gái dùng dằng không muốn cất bước xa…
Phố Đông mơ mộng nằm từ đền Trần Lãm (sau dinh Công Sứ) ra bờ
mương dài 300 mét, gọi là phố Đệ Tam. Ở đấy, cạnh bờ sông bán nhiều tre nứa,
còn gọi là phố Giá Nứa. Đệ Tam, phố vắng người thưa...
Từ năm 1954, phố Đệ Nhất đổi thành phố Lê Lợi, Đệ Nhị đổi
thành Tô Hiệu, Đệ Tam đổi thành Đề Thám. Theo thông số về Thái Bình (1936), người
Pháp khi mới lập tỉnh có 22 khẩu (kể cả vợ con), người Hoa đã có 251 khẩu, hầu
hết ở phố Đệ Nhất, phố đó được mệnh danh là phố Khách. Phố Khách chạy từ cầu Bo
cũ tới ngã tư gối đầu với phố Hai Bà, chỗ vườn hoa chéo.
Tòa sứ Pháp - Chánh sứ kho bạc - Lục Lộ - Sở Cẩm - Nhà Đoan -
Nhà dây thép (Bưu điện) cũng nằm trên phố Lê Lợi. Người đi lễ vào đền hoặc ngồi
hầu đồng, hát chầu văn, cầu phúc lộc thường ngâm ngợi câu thơ ai viết: “Mẫu ngồi
gương mặt trầm tư thế/Khắc khoải nghìn năm đến bây giờ”. Ông Đào Huấn người Bồ
Xuyên trông coi đền, con gái ông Huấn tên là Nga, ngày sóc vọng dẫn đầu đoàn lễ.
Phía tay trái đi từ cầu Bo vào là đền Tam Thánh, sau này cảnh
sát Pháp chiếm giữ, rồi đến thời cách mạng công an ở. Trước cửa đền Mẫu và đền
Tam Thánh, hàng ngày khách đến lễ thường gặp ông Đàn, người Nam Định, đeo kính
đen với cái tráp then sơn ta ngồi trên chiếc chiếu hoa, hai tay lần giở trên
hai tờ giấy “tiền” (trang kim) xem bói.
Ông xem “trúng” lắm. Người xem ngày càng đông. Sau năm 1945,
có anh cán bộ đằng mình cho bắt ông Đàn vào nơi làm việc xem cho chính mình.
Ông Đàn nói: “Tôi xem cho ông nếu không đúng ông cho người bắt tôi vào trại
giam. Nếu đúng, ông tính sao”.
“Đồng chí” đó đồng ý. Ông Đàn xem đi xem lại, quả quyết rằng: “Ông chết vào năm 49 tuổi. Chết không trọn vẹn”. Người thị xã ngẫm lại, quả ông đó chết năm 49 tuổi và phải mổ vì bệnh tim. Phải nói ông Đàn là người biết trọng chữ tín, lại thật thà. Cái đó cũng từ văn hóa sống mà ra. Nghe chuyện ông Đàn, thấy sự hiểu biết của mình bằng mắt muỗi còn sự chưa biết như trời sao mênh mông...
Ba cửa hiệu buôn thuốc bắc Đức Mỹ - Đức Xương - Đức Hợp ở liền
vách nhau. Chủ hiệu đều từ làng Đa Ngưu, Văn Giang, Hưng Yên chèo thuyền chạy lụt
sang Thái Bình mở hiệu buôn thuốc sinh sống.
Những cửa hiệu lớn của người Tàu ở xen kẽ với các hiệu buôn lớn
Tế Xương - Tiến Đức - Hàn Bản - Nghị Luận đều nằm trên phố Lê Lợi cùng với cửa
hàng người Pháp Ba-rông (Baron) bán bia chai, nằm sát Trường Thành Chung - Trường
Mẫu (Modele).
Theo cụ Đức Phúc, số nhà 527 phố Lý Bôn - con trai cả cụ Đức
Mỹ người phố Lê Lợi, hồi nhà cụ chạy sang thị xã chưa có mấy người. Dân chủ yếu
là người Tàu chạy loạn. Đất rộng, ai muốn ở đâu cắm cọc chăng dây dựng nhà mà ở,
không phải tranh đoạt đất đai của nhau. Đất là thứ vô chủ, ai thích thế nào tùy
ý. Dân Tàu đặt đòn gánh lên vai, hoặc bỏ đòn gánh xuống đều tìm cách mở hiệu. Vốn
to sạp to, vốn nhỏ sạp nhỏ, không vốn đi bán hàng rong như pháo sáng, ô mai, nước
thạch găng, kẹo… Có anh chỉ vài trăm hạt lạc rang, vài gói ô mai cũng mở cửa
hàng hoặc khoác đi rong trên phố. Họ thạo việc, không chịu ngồi yên nên chỗ anh
Tàu ở bao giờ cũng đông vui sầm uất, nhiều tiếng cười nói, đèn đuốc dập dìu.
Người ta nhớ, phía tay phải phố Lê Lợi có nhà buôn Quảng
Nghĩa Hòa - nhà buôn Hậu Hưng - nhà Di Hưng Long (bán tạp hóa) - nhà Hiền Kí -
hiệu Phúc Kiến - hiệu Kì Xưng Cư (hay gọi tửu lầu) - hiệu Vạn Phát Tường. Chỗ
giáp đài truyền hình có nhà Tống Sáng buôn rượu rồi đến nhà tiệc Tàu. Trong phố
có bà Dân Tàu ăn chơi nổi tiếng. Kế bên nhà Chấn Sinh Đường chuyên bán thuốc bắc,
hiệu Cát Tường chuyên bán vải. Hiệu Lim Tan (người Phúc Kiến) bán đồ hộp, rượu
tây. Hiệu Vạn Phát Tường chuyên làm bánh trung thu, nặn lợn bột nướng, kết đèn
kéo quân.
Hàng của Vạn Phát Tường nổi tiếng, lan sang cả Nam Định, người
ta biết đến ông Vạn Phát Tường đâu phải là môi lưỡi chào mời. Ông không mang
thân xác của mình ra giễu cợt bằng sự giả dối với đời. Tiếng nói chất lượng là
hàng hiệu. Ông Tường chết, bà vợ một tay chèo chống vẫn giữ được gia sản kếch
sù cho tới lúc rời khỏi Thái Bình.
Mấy anh “Tàu vô sản” nghèo nhảy ra làm nghề phu kéo xe, nổi
tiếng là Thọ Tàu, tính nết hiền lành, chăm chỉ, biết chăm lo cái đệm cho khách
mỗi khi họ ngồi lên xe mình. Đệm dù có rách đôi ba miếng nhưng lúc nào cũng sạch,
không hạt bụi.
Anh Phoóc Tàu ở cuối đường làm thủ môn bóng đá, các cuộc đấu
ít khi anh để bẩn lưới.
Dân cư phố Đệ Nhất thường nhắc đến Tống Sáng. Ông ta từ Đống
Năm chạy về mở cửa hàng rượu, hai vợ chồng đều trẻ đẹp, nghe đâu ông là con
nghiện nặng, cũng là tay chơi đáo để. Căn nhà Tống Sáng nghe nói trước đẹp như
cánh chim bay, sau này trở nên túng bấn xập xệ, đứng chơ vơ trong gió như cái tổ
quạ ở sát vườn hoa chéo.
Thuốc Tống Sáng dùng vào loại tốt của người Tày từ ngược chuyển
về. Họ Tống lúc nào cũng cầm quạt thong thả dạo chơi trong vườn rộng, đầy cây
xanh. Ông ta mặc áo “xường xám”, đội mũ gấm đen, có quả bông đỏ trên chóp. Hàng
ngày nắm tay vợ dắt vào thư phòng. Bà mặc quần thoa, áo đẹp, cổ đeo vòng bạc
thường có con A Đẩu theo sau rập đầu nghe sai bảo. Cuộc sống sớm sớm hàn thực,
tối tối nguyên tiêu, thoắt cái đã bước vào cảnh khốn khó. Những năm gia cảnh
tiêu điều, ông vẫn ăn mặc như thế nhưng cái áo đã đổi màu, da mặt Tống Sáng đâu
còn là “Tống Sáng”. Có mấy quả bầu nậm treo trên giàn ngoài sân, cứ sáng ra lão
cắt xuống sai gia nhân cho vào nồi luộc, cả nhà xúm xít bốc chấm muối vừng ăn
trừ bữa, không còn cảnh tối tối đưa ông lên giường, cởi áo ngủ, không còn cảnh
bà Tống sớm sai bày rượu và món canh nóng tự thân bà đi vào thư phòng lên tiếng
mời ông.
Lúc còn máu mặt, lão nằm kéo thuốc, chuột từ góc nhà chạy ra
ngửi mùi thuốc rồi quen, chuột cũng nghiện. Có lúc nó tìm cách rúc vào người
lão kêu rinh rích, đuổi không chạy. Lão bảo vợ con: “Chuột cười ta đấy!”. Trong
nhà lão nuôi con sấu cá bạc má, cổ dài, mỏ nhọn. Họ Tống làm dáng cho con sấu bằng
sợi dây vải lanh đỏ buộc ở cổ. Loại chim này mỗi vùng miền có tên gọi riêng, có
nơi còn gọi là con cốc, “cốc mò cò ăn”.
Nhiều thuyền chài cũng nuôi sấu cá, nó là con vật gần gũi,
trung thành với chủ. Chủ đi trước, với đôi chân cao ngẳng “tớ” dò dẫm theo sau.
Chủ ngồi ăn cơm, “tớ” ngồi cạnh đớp ruồi. Ở Bến En (Thanh Hóa) hiện nay còn vài
con sấu cá được vợ chồng lão chài nuôi cẩn thận.
Có người kể sông Ly thuộc Quế Lâm, Trung Quốc cũng có loại
chim bắt cá. Nó chẳng khác gì sấu cá bên ta. Khi bắt được cá dưới sông nó không
ăn. Chim bay lên đậu trên cành cây ngân hạnh, nhả cá xuống cho người đi qua. Ai
nhặt được con cá đó coi là điều may mắn, gặp khách sang trọng nấu cá đãi đằng.
Nên tài tử giai nhân các nơi đến đều muốn về Quế Lâm, mong được ăn cá sông Ly.
Một lần được làm người sang trọng.
Sấu cá bao giờ cũng đỗ ở đầu thuyền, phóng mắt xuống nước sâu
một vài mét. Khi phát hiện mồi nó như con cắt lao xuống dùng mỏ cặp cá bay lên.
Con nhỏ ăn ngay, con lớn mang về cho chủ bởi trong cổ sấu cá có chiếc xương
vòng tròn nên không nuốt được cá lớn. Loài chim này thường ở đầm hoang kiếm sống,
khi bắt được cá to thường nhường cho bác cò trắng nên mới có câu ca trên để người
đời nói về sự bất công trong xã hội.
Sấu cá Tống Sáng nuôi to con, màu đen, bạc má, chẳng bao giờ
xa chủ. Nhiều bữa đồ đánh nhắm của Tống Sáng do sấu cá mò về, có hôm miệng sấu
cá cặp cá bay tới đầu sân, con mèo định “cướp” nó liền vọt lên ngọn cây đậu chờ
Tống Sáng bước ra sân mới sà xuống nhả cá cho chủ.
Đầm lầy chung quanh thị xã vô chủ, cá tôm nhiều vô kể. Sáng
nào sấu cá cũng đi kiếm mồi sớm, gần trưa mới bay về. Ngày ngày sấu cá lần mò
chăm chỉ như thế. Chẳng biết tại sao? Sau này sấu cá không kiếm được mồi, họ Tống
tức giận đuổi đi, cũng không dám ra tay đập nó. Chủ tớ chia tay nhau trong cảnh
bần hàn. Đi nhưng vẫn nhớ mùi thuốc, có sáng nhớ chủ bay về đậu trên ngọn cây
thầu dầu trước ngõ. Tống Sáng sai con vác sào đập đuổi. Sấu cá giận bỏ đi hẳn...
Phố Đệ Nhị là của người tứ chiếng, của dân giang hồ và dân “cu lít” sống chen vai. Nhưng không ai quên được cảnh tình của chú Bái, thân phận ông lão thắp đèn đường, ông già còi bán thuốc chuột và bà lão lắc chuông bán dầu hỏa.
Ảnh: Duy Đông
3. Đệ Nhị phố
Bà Lủ ngồi so đũa rồi mở gói bún rối bọc trong lá sen. Cút rượu
ông già thắp đèn đường đưa từ cái túi vải rách với mấy quả ớt đỏ được khoe dưới
ánh trăng suông. Bà lên tiếng: Hôm nay mời mấy cụ đến uống rượu nhà chú Bái. Gọi
là nhà cũng chưa đúng. Đây là nơi chú ở nhờ người ta, để chứng kiến việc tôi
cho chú Bái thửa ruộng khu Nấm Bo. Có tới hơn một sào. Việc chuyển đất cho chú
có bà con nghèo khổ, chân đất ngồi bệt, có trời đất trăng sao chứng giám. Bà Lủ
nói, tay luôn gắp thức ăn cho mọi người. Bà tìm cái chân con ba ba bỏ vào bát
cho ông già thắp đèn đường, anh bán thuốc chuột. Bà giục: “Hai ông ăn đi, cho
khỏe chân phục vụ bà con lối xóm”. Chốc chốc bà lại vòng ra sau nhà, múc một
gáo nước mưa trong cái vò đất, uống một hơi cho mát bụng, bà bảo chén rượu của
ông lão ép bà làm bụng dạ bà nóng ran... Hôm nay bà Lủ nói hơi nhiều. Bà bảo,
lòng dạ con người chỉ biết đau, biết xót. Cái bụng con người mới tốt, có vậy mới
nuôi được con trong bụng mẹ. Có ai nói tốt lòng, tốt dạ đâu? Họ đều nói: Người
nghèo tốt bụng. Bụng chú Bái cũng tốt như mọi người ngồi đây. Ngày mai tôi ra đồng
giúp chú mấy buổi làm cỏ rồi cuốc xới đất, bừa đi bừa lại. Mười ngày nữa sẽ đưa
mạ xuống cấy.
Từ hôm đó bóng bà Lủ đổ trên ruộng bùn. Rõ là hai sương một nắng. Ngày nào bà
cũng gánh hai cái nồi chân đi sang các nhà xin nước giải đem ra đồng. Ủ phân
xanh lá mục, tro đốt, bùn phơi trộn lẫn nhau làm phân bón ruộng. Vụ gặt năm đó
lúa tốt ngập. Chú Bái phải nhờ mấy người gánh lúa về ngõ Vọng Cung. Lũ trẻ con
chạy theo người gánh lúa hát:
“Ruộng chú Bái/ Nước đái bà Lủ/ Chúng mày ơi”. Xong vụ đó bà Lủ đi đâu không ai
biết nữa.
Những người biết nghĩ bảo bà Lủ chẳng những tốt bụng lại còn biết nghĩ... Có
người bảo bà đi ăn mày ăn xin ở đâu xa. Có người kháo bà chết đắp chiếu nằm ở
góc chợ quê... Những chuyện lôi thôi của bà trẻ con đồn khắp phố đều sai hết.
Bà chọn ngày sạch đi xuống đồng Lôi, giáp sông Trà Lý. Ở đấy có người phụ nữ
góa như bà, được hai đứa con, một câm, một điếc. Bà giúp chúng nó khai phá đất
đai, toàn là nơi đất khó, lau lách, rắn rết nhiều vô kể...
Hôm ba bà cháu cuốc đất, thằng câm móc lên cái lọ sứt miệng. Chúng nó lặng lẽ
hai tay nâng lên rồi xoa hết bùn đất trơ ra lớp men hơi trắng ngà. Chúng nó
nhìn vật, chẳng biết gì hết. Lại giáp tết rồi, bà Lủ bảo chúng “mang về mà đựng
nước”. Những người lam lũ quê mùa lầm than ai biết đâu là cái đẹp của lọ. Khi
lũ trẻ mang về đình Bo, có một ông lão đi qua nhìn thấy dáng lọ, men lọ, ông gật
gù nâng lên đặt xuống bảo: Là của hiếm. Nó có giá bằng mấy con trâu mộng ở Niềm
Đác đưa lên. Ông trầm trồ khen màu men thúy hồng, các nét vẽ tay chìm mờ như
sương tuyết các cụ để lại. Đâu phải là vật tầm thường, khoe khoang màu sắc?
Càng nhìn cái lọ càng sang...
Từ lúc vật báu được ông cụ chạm tay vào ai nhìn cũng thấy linh thiêng, trang trọng.
Bà Lủ nghe vậy, lên tiếng: Nếu là vật quý các cụ nên đưa vào trong đình Bo để
thờ.
Cái lọ sứt miệng xuất hiện trên bàn thờ từ đó. Thế là nó được lên ngôi. Tự
nhiên tên tuổi bà Lủ cũng được lên ngôi. Hồi đó, dân phố thị có lời nói về bà
như chiếc lọ sứt bị bùn đất vùi lấp hoặc bị người ta vất lăn lóc ở góc bếp, xó
chợ. Ai mà biết đến. Bỗng một ngày được con mắt tinh tường của nhân dân để ý đến,
tên tuổi bà trở nên có giá trị vĩnh hằng cùng xứ Sơn Nam Hạ. Bà mất cách đây đã
hơn trăm năm rồi. Tên tuổi bà vẫn còn ở lại trong dân gian “cánh đồng bà Lủ”.
Tên tuổi bà không ngự trong đền chùa, miếu mạo. Nó như mây gió, cách đồng Lôi,
đồng Thượng Lạc, Hạ Lạc. Dân phố Đệ Nhị hay nhắc đến người có công đi mở đất.
Cái bến xe cũ Thái Bình nằm ở góc ngã tư (chùa Trung) cũng lắm chuyện. Bến đó
thuộc khu đất vàng phố Đệ Nhị. Trong bến có ông Dực chữa xe dưới sự quản lý của
Chánh Cẩm - Đội Kiện. Đội Kiện thường mặc áo “véc” thủng, nhấp nháy bộ râu dê.
Người phố đùa “râu dê Đội Kiện” trông lão vừa “đĩ” vừa vui. Các hãng xe tranh
nhau làm ăn như hãng Ngựa Vằn chủ ở Hải Phòng, hãng Con Voi của ông Lê Văn Định.
Ngoài ra còn số công ty ăn theo của ông Thái. Tài Định có chân trong đảng Đại
Việt mua ba bốn chiếc xe chạy đường dài Hà Nội - Thái Bình. Năm 1933, Tài Định
làm ăn phất lên như diều, cụ xây dinh cơ nằm ở rạp Vĩnh Trà, cơ ngơi thứ hai nằm
mãi dưới Niềm Đác. Năm đó cụ độ 60 tuổi, chơi thân với trưởng phố Tống Văn
Xuân. Hai ông đều là tay quảng giao, lo cho người nghèo. Năm vỡ đê, Thanh Nga -
Tài Định đưa cả đàn trâu 20 con lên Phú Chử đầm, cứ mỗi ngày ông cho thui một
con để dân phu ăn lấy sức quật đất đắp đê. Đê xong đàn trâu cũng hết.
Khối thằng buôn lậu từ khu bốn ra, Việt Bắc xuống, thập thò làm ăn với dân phố
thị không qua được mặt Tài Định. Nhất là cánh đưa thuốc phiện về nhà thổ ở cầu
Đổ. Đất ấy Sở tơ tằm đóng. Có lần Tài Định nói với cánh tuần đường dân phòng:
“Tôi nằm trong bến cả ngày, ai làm gì tôi chả biết. Những thằng nghiện mà vớ được
mấy con đĩ buôn lậu, lên mặt bảo vệ nhau cốt để “đĩ” “xí” cho một hào mà sống.
Thối không chịu được”. Tính Tài Định thích huỵch toẹt mọi chuyện đời nên bị bọn
“vặt vẽo” ghét lối “tranh tối tranh sáng”. Có lần cái xô múc nước của nhà xe
cũng bị đứa nào “xia” vào. Bọn nó chứ ai. Rồi những cây sấu, cây thầu đâu nhà
xe trồng quanh bến cho đỡ nắng bị chém cành bẻ ngọn... Tài Định biết cánh buôn
lậu sắp về, bến xe lại xảy ra chuyện gì đây.
Thêm bà Quang ở nhà rạp Vĩnh Trà nhảy ra mua xe tải đưa vào bến. Có xe, thêm
người, thêm việc, thêm chuyện. Cánh bốc vác xe tải vốn khỏe mạnh, nhanh nhẹn,
nó “vác” thì ít nó “bốc” thì nhiều. Chuyện mất hàng, mất khách bắt đầu xảy ra với
nhà Tài Định. Ông Tống Văn Xuân coi số tử vi cho nhà Tài Định nói rằng: “Sau
này cuộc sống của nhà đó khổ lắm”. Thật hư thế nào không rõ, chỉ biết đầu thập
kỷ 60 bố con ông ngược đường lên Đại Từ - Thái Nguyên làm ăn rồi mất ở đó.
...Phố Đệ Nhị là của người tứ chiếng, của dân giang hồ và dân “cu lít” sống
chen vai. Nhưng không ai quên được cảnh tình của chú Bái, thân phận ông lão thắp
đèn đường, ông già còi bán thuốc chuột và bà lão lắc chuông bán dầu hỏa. Chuyện
phố Đệ Nhị bao lần đổi thay cả phong cảnh và con người. Có lúc phố xá chỉ còn
là đống gạch vỡ, con người cũng xơ xác, hoang tàn như phố xá. Biết bao người ra
đi không trở lại... nhưng có lớp người với áo tứ thân, chân đất, nón lá tập hợp
thành những đoàn quân ra đi cứu nước. Ra đi nặng lời cậu mợ dặn dò. Những tiếng
nói thân thương vẫn vang vọng, khắc sâu trong tâm trạng thanh niên mới lớn: “Hồn
anh như hoa cỏ may/ Gặp chiều cả gió bám đầy áo em”.
Từ đống gạch vụn phố Đệ Nhị, họ đứng lên làm cuộc tiêu thổ kháng chiến đánh đuổi
bọn Pháp tràn vào phố. Qua sự thăng trầm của phố xá, nay thật đã “thay da đổi
thịt”. Qua các cuộc cách mạng, cuộc sống có lúc mây mưa, rồi người còn kẻ mất
nhưng những hàng cây, hồ nước ven đường mãi mãi in đậm trong lòng người dân phố.
Con sông Trà Lý, chiếc cầu Bo vẫn còn kia, mái trường tiểu học, đền Hai Bà, eo
phố Vọng Cung... như đang nói điều gì với nắng mới. Tiếng hát vẫn vang vọng và
hôm nay cả phố “thay da đổi thịt” bước sang vận hội mới. Con đường “dây thép”
xưa chật hẹp với hai hàng đèn mờ của ông lão thắp đèn đường giờ là hai hàng đèn
cao áp. Đường mở rộng đâu còn chật hẹp. Phố ngang Lê Quý Đôn - Phan Bội Châu
hàng hóa san sát chen nhau, người xe nườm nượp kéo nhau ra khu đình Bo - chợ Bo
là nơi trung tâm buôn bán của phố thị.
Không gian yên tĩnh một vùng quê tạo nên vẻ đẹp hài hòa đón chào khách muôn
phương về thăm phố thị. Rồi ai cũng khen: “Thái Bình như một An Trang”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét