Dưới mái học đường 1
Mỗi trẻ nhỏ được dạy dỗ là Một con người được thành thân - V Hugo
Lời soạn giả Để được góp một viên gạch nhỏ vào công cuộc xây dựng một nền giáo dục mới cho nước nhà đang bắt đầu chuyển hướng dưới chính thể Cộng Hòa, tôi viết cuốn:
DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG
Phỏng theo Grands Coeurs, cuốn tiểu thuyết trứ danh của nhà văn Ý Edmondo De Amicis. (Ông Hà Mai Anh đã trích một số chuyện trong đó để dịch sát nguyên văn).
Như tên đặt cho sách, tôi chỉ chọn và thêm vào những chuyện thuộc phạm vi nhà trường, và chung quanh nhà trường. Ở đây, các em sẽ thấy gần gũi với những nhân vật trong chuyện. Đó là những học sinh vẫn gặp ở các trường, là những bạn cùng chơi hàng ngày, là chính ngay các em, với những ý nghĩ, những tình tiết, những bổn phận làm trò, làm bạn, làm con…
Dành cho các em những phút giải trí lành mạnh, tiếp tay các vị phụ huynh trong công cuộc giáo dục con em, giúp cho các bạn nhà giáo một ít tài liệu giáo khoa xây dựng, viết với một tinh thần mới, đó là mục đích nhỏ mọn của tôi.
Song tôi vẫn phàn nàn rằng ngọn bút của mình chưa đủ tài tình sâu sắc đủ làm rung động tâm hồn người đọc.
Điều đó hẳn các Ngài, các Bạn cũng biết thế mà khoan thứ cho rồi.
SOẠN GIẢ
1. BUỔI TỰU TRƯỜNG
Ngày 1 tháng 9
Mới 6 giờ sáng mà trên hè phố tiếng giày guốc đã khua vang, báo hiệu ngày tựu trường đã tới. Hai tháng hè trôi qua mau chóng quá!
Từng đoàn học sinh lũ lượt đi, tay sách cặp, miệng bi bô kể chuyện. Tôi vội chải đầu, thay bộ quần áo mới rồi gọi em cắp sách cùng theo mẹ đến trường.
Tuy chân bước đi mà lòng tôi vẫn ngổn ngang trăm nỗi. Phần còn luyến tiếc những cảnh trăng nước đồng quê trong những ngày hè vui thú, phần hân hoan được gặp thầy, gặp bạn, lại pha nỗi lo âu, sợ lên lớp trên học khó.
Cứ thế, tôi dắt em, chân bước theo mẹ, óc đầy ý nghĩ vẩn vơ, rời đến cửa trường lúc nào không biết.
Quang cảnh trường học hiện ra náo nhiệt lạ thường!
Hàng quà, hàng bánh, nước mía, mực khô… không biết kéo đến tụ họp tự lúc nào, mà đũ cả, khiến cho đông lại thêm đông. Chỉ khổ cho bác gác trường! Mọi ngày đối với lũ trò nhỏ "oai vệ“ là thế, mà hôm nay, thêm người cảnh binh giúp sức, bác cũng phải luôn mồm hò hét, rát cổ bỏng họng, mới giữ nỗi trật tự lối ra vào.
Sắp sửa tiến qua cổng trường, tôi bỗng thấy có bàn tay vỗ nhẹ vào vai. Tôi ngảnh lại. Cô giáo cũ lớp Năm âu yếm nhìn tôi mà bảo:
- Năm nay Dũng học trên gác rồi nhỉ? Thế là cô lại không trông thấy Dũng qua cửa lớp cô nữa. Dũng chưa quên cô đấy chứ?
Tôi chẳng biết nói gì, chỉ nhìn cô mà lòng se lại. Mẹ tôi vội nói đỡ:
- Hôm nào rỗi mời cô lại chơi. Cháu vẫn nhắc đến cô luôn đấy ạ.
Cô mỉm cười, hứa hôm nào lại thăm mẹ tôi, véo má em Huyền, rồi lanh lẹn bước vào cổng trường. Trong sân, túm năm, túm ba, đủ các hạng người. Đây, một bà sang trọng dắt cậu con, mới từ đầu đến chân; kia một cụ già, tuy đứng dưới bóng cây mà vẫn chịu khó che ô cho cháu; nọ, một ông cúi xuống vỗ về cậu con trai, trông mặt mũi sáng sủa đáo để mà mồm cứ mếu sệch đi, định khóc.
Tôi đưa mắt nhìn ngôi trường sừng sững trước mặt: tường vôi mới quét, thềm gạch sạch bong, như hớn hở chào mừng chúng tôi, những người bạn cũ đã trở về. Trông thấy những nếp nhà rộng lớn mà suốt bốn năm trời dòng dã, tôi hằng ngày lui tới học hành, lòng tôi, bỗng rộn lên một niềm vui chan chứa. Bao nhiêu miễn cưỡng lo âu bỗng tiêu tán đâu mất cả!
Tôi hoan hỷ đưa mắt nhìn theo các bạn cũ của tôi đang tung tăng chạy nhẩy khắp sân. Bác nào trông cũng lớn hẳn lên. Có bác đen như củ súng, cơ hồ cháy nắng. Chả bù cho mấy chú "lính mới“, nét mặt ngơ ngác sợ sệt, cứ túm chặt lấy áo mẹ, nước mắt vòng quanh.
Vừa lúc ấy, ông Hiệu Trưởng đi tới. Trông ông vẫn thế. Chỉ có bộ ria trắng bạc hơn năm ngoái ít nhiều. Thấy bóng ông ra, các bà các cô vây tròn lấy ông, vẻ mặt giận hờn vì không còn chỗ học cho con, cho cháu. Song ông vẫn tươi cười, an ủi người nầy, cắt nghĩa cho người kia, giải thích những trường hợp không đúng với lệ của trường.
Nhưng một hồi chuông đã nổi lên… Các thầy giáo, các cô giáo cầm bản danh sách học sinh, đứng ra cửa lớp gọi tên.
Em Huyền tôi được vào lớp mẫu giáo của cô Đào. Còn tôi học lớp Nhất A của thầy Bích trên gác. Ngồi an vị rồi, tôi đưa mắt nhìn chung quanh.
Lớp học cũng chẳng khác lớp Nhì năm ngoái. Nhưng tôi tưởng như lạ hơn nhiều: căn phòng như rộng hơn, tấm bảng đen như lớn hơn; đến cái tranh bộ xương người, tôi coi cũng rắc rối hơn bức tranh học năm ngoái.
Mới cách đây có một phút đồng hồ, mà tôi có cảm giác như mình nhớn hẳn lên và cũng quan trọng hẳn lên! Chả gì cũng là học sinh lớ Nhất rồi cơ mà! Mà lớp Nhất, thì cái gì cũng phải nhất chứ: lớn nhất, giỏi nhất, đàn anh nhất… mà học cũng khó nhất. Thế rồi tôi bất giác giật mình lo sợ.
Còn đang lan man nghĩ ngợi, tôi thấy có tiếng gọi khẽ đàng sau. Tôi quay lại. Đó là anh Sinh, anh bạn bao giờ cũng ngồi đầu lớp, đang nháy tôi ra hiệu.
Tôi mỉm cười với anh, rồi đưa mắt một lượt nhìn các bạn. Vô số là bạn mới. Nhiều gương mặt thật đáng yêu, khiến tôi thoạt nhìn đã chan chứa cảm tình.
Qua cửa sổ, bóng lá chập chờn, đàn chim nhỏ lách tách chuyển cành. Tôi chợt nhớ đến cảnh non cao, biển rộng mà tôi đã sống mấy tuần vừa qua, rồi so với ngôi trường chật hẹp, trang nghiêm, tôi bỗng cảm thấy lòng buồn hiu hắt, thương nhớ vẩn vơ.
Chợt có tiếng nói oang oang. Đó là thầy giáo tôi năm nay, đặc biệt với dáng người mảnh khảnh, mái tóc hoa râm, với những đường nhăn trên vầng trán rộng. Giọng thầy to và đĩnh đạc. Thầy chẳng cười bao giờ. Thầy mới nghiêm làm sao! Thầy chăm chú nhìn vào tận mặt từng đứa chúng tôi như muốn soi rõ đến tận tâm hồn.
Tôi liên tưởng đến thầy giáo cũ lớp Nhì, lành như cục đất, lúc nào cũng nhìn tôi mủm mỉm. Những nụ cười trìu mến ấy tôi quên làm sao được?
Chả mấy chốc giờ về đã điểm. Tôi thu xếp sách vở, ngao ngán nghĩ thầm:
- Chà! đây mới là ngày đầu! Còn những 9 tháng nữa mới lại nghỉ hè. Rồi sắp sửa chúi mũi vào học bài, làm bài, rồi lại còn thi, còn cử… Chao ôi! bao nhiêu là khó khăn, bao nhiêu là cố gắng…
Thấy tôi uể oải ra về, vẻ mặt buồn thiu, mẹ tôi biết ý, ôm tôi vào lòng:
- Con mẹ chưa lên lớp mà đã nản rồi! Can đảm lên cho em bắt chước chứ con! Bài có khó đâu mà con sợ? Đã có Ba giảng cho con cơ mà! Học sinh lớp Nhất rồi còn làm nũng. Cười đi nào!
Tôi xấu hổ, rúc đầu vào ngực mẹ…
2. Lễ Chào Cờ
Mùng 4 tháng 9
Nhân đầu niên học nhà trường tổ chức buổi lễ chào cờ, có mời thêm phụ huynh hoc sinh đến dự.
Trên sân rộng, trước cửa lớp Nhất, một bồn hoa nhỏ, màu hoa đỏ, tím, chen lẫn sắc cỏ xanh rờn làm nổi bật cái cột cờ đang vườn mình thẳng tắp, sừng sững đứng ngạo nghễ và oai nghiêm!
Sát vào hiên trường, bàn thờ Tổ Quốc đã được dựng lên, cùng với tấm bản đồ Việt Nam. Bài trí tuy sơ sài mà không kém vẻ tôn nghiêm!
Một hồi chuông rung lên. Chúng tôi bỏ cuộc chơi, vội vã chạy lại dưới cột cờ. Trước mệnh lệnh của anh đoàn trưởng, lớp nào lớp ấy yên lặng bỏ mũ, xếp hàng ngay ngắn, tề chỉnh.
Lá quốc kỳ đã được buộc sẵn vào dây. Một anh lớp Ba, quần áo sạch sẽ, được chỉ định trước, đã túc trực sẵn bên chân cột. Bầu không khí lặng lẽ thêm uy nghiêm! Trên thềm cao, các vị phụ huynh cùng các thầy giáo và các cô giáo nghiêm trang nhìn xuống.
Ông Hiệu Trưởng đứng ra đọc một bài diễn văn ngắn nói qua ý nghĩa buổi lễ hôm nay. Ông cũng không quên nhấn mạnh rằng dưới sự lãnh đạo của tân Tổng Thống, nước Việt Nam Cộng Hòa đang cần nhiều thanh niên ưu tú. Bổn phận hoc-sinh chúng tôi lúc này rất nặng nề, phải cố gắng học hành để một ngày kia, ngược qua Bến Hải, thống nhất xứ sở.
Giọng ông trầm hùng mới cảm động làm sao, khiến cho một bà tới dự lễ luôn tay đưa mùi xoa chấm mắt. Rồi ông quay lại, hô to:
- Nghiêm!
Dứt tiếng hô dõng dạc, chúng tôi đứng ngay ngắn lại, ưỡn ngực, chụm gót chân, hai tay để sát vào đùi.
- Chào cờ! Chào!
Tiếng hô lại hùng dũng nổi lên. Chúng tôi đầu ngửng cao, mắt nhìn thẳng, lòng đầy tin tưởng.
- Quốc ca! Một! Hai!
Tất cả trường, ngót một ngàn học sinh cùng cất tiếng hát. Bài ca hùng tráng vang lên, lúc lên bổng, lúc xuống trầm. Quốc kỳ từ từ kéo lên. Nhịp với lời ca quyến rũ, bao nhiêu trái tim cùng xao xuyến đập mạnh: Vì non sông nước xưa
Truyền muôn năm chớ quên!
Giọng ca lanh lảnh, mắt chúng tô ngời sáng: hình ảnh các đấng tiền nhân hiện ra trong ánh hào quang chói lọi. Quốc kỳ reo mừng trước gió, phần phật tung bay, như ném ra muôn ngàn sóng lửa.
Thanh niên ơi! hăng hái đi tới cùng,
Thanh niên ơi! ta nguyền đem hết lòng…
Tiếng ca cứ thế, nhịp nhàng và hùng dũng vang lên, cuốn lên cao, tràn ra xa… Chúng tôi hồi hộp say sưa lòng đầy tin tưởng vào tương lai rực rỡ của Tổ Quốc và cảm thấy cái trách nhiệm nặng nề của đám Thanh Niên chúng tôi.
Tiến lên! cùng tiến!
Vẻ vang đời sống
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
Tiếng ca đến đây im bặt. Quốc kỳ cũng vừa lên đến đỉnh cột cao. Chúng tôi thong thả vào lớp, tâm hồn còn rung động nao nao, lời ca bên tai còn văng vẳng.
Quốc kỳ nào phải mảnh vải vô hồn! Đó là biểu hiệu của Tổ Quốc, tượng trưng cái ý chí quật cường của dân tộc. Chúng tôi hàng ngày đứng trước Quốc Kỳ như cảm thấy một sức mạnh thiêng liêng thúc đẩy chúng tôi cố chí học hành để sau nầy làm cho Quốc Kỳ được thêm rực rỡ.
Đáng giận thay những kẻ không biết tôn trọng Quốc Kỳ!
3. Thầy Giáo Tôi
Ngày mồng 8 tháng 9
Chúng tôi đi học thế mà đã được tuần lễ. Vậy mà chẳng thấy thầy giáo tôi cười bao giờ. Đôi khi còn thấy thầy thờ thẫn nhìn ra xa, xem như có điều phiền muộn.
Cứ xét cái bề ngoài ấy, ai chẳng bảo thầy giáo tôi nghiêm, mà đối với học trò như cũng ít cảm tình thì phải. Nhưng chúng tôi đã lầm. Câu chuyện sáng hôm nay chứng tỏ điều đó, và còn làm cho chúng tôi thêm bội phần cảm mến.
Lúc ấy là giờ Đức dục. Thầy đang giảng bài thốt nhiên ngưng lại, đi xuống giữa lớp, đặt tay lên trán một anh ngồi ngay đầu bàn tư. Tôi để ý thấy thầy khẽ lắc đầu, rồi móc túi lấy lọ dầu xoa lên thái dương cho anh. Còn đang hỏi han, thì đàng sau lưng thầy, một anh đứng lên, phồng má, trợn mắt, rồi giơ quả thụi ra để làm trò cười.
Bất ngờ thầy quay lại, bắt gặp cử chỉ hỗn xược ấy. Anh chàng sợ quá, mặt đỏ gay, ngồi thụp xuống ghế, cúi gầm mặt xuống mà chịu tội. Chúng tôi sợ hãi, lấm lét nhìn nhau, chờ cơn thịnh nộ của thầy.
Nhưng chỉ thấy thầy đặt tay lên vai chàng ta mà diu dàng bảo:
- Đừng dại dột thế nữa con!
Thế rồi thầy về chỗ, tiếp tục giảng bài, thản nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Bài Đức dục chép xong, thầy giáo yên lặng nhìn chúng tôi một lúc, rồi cất tiếng lên, cái giọng trang nghiêm, to tát, nhưng cũng âu yếm ngọt ngào làm sao, khiến tôi nhớ mãi không quên:
- Các con ơi! Nghe thầy nói đây! Thầy trò ta sẽ cùng nhau học tập trong một năm. Thầy biết những gì sẽ mang ra giảng dạy cho các con không tiếc, cả đến sức khỏe của thầy, thầy cũng không từ. Vậy chúng ta hãy cố gắng làm sao cho niên-học được nhiều kết quả.
Còn riêng thầy không có gia đình. Mẹ thầy năm ngoái hãy còn, nhưng giờ đây người đã khuất, bỏ lại thầy trơ trọi một mình. Các con ơi! Các con mới thật là con của thầy, mà thầy cũng chỉ còn có các con để làm khuây những giờ trống trải. Ngoài các con ra, hỏi thầy còn ai để mà thương yêu nữa?
Thầy yêu mến các con, và các con cũng thương mến thầy, cố tránh cho thầy những nỗi tủi phiền mới phải. Thầy chỉ xin các con có một điều là cố gắng học hành, đừng để phí thì giờ vô ích, để cho thầy đây và cha mẹ các con cũng được hả lòng. Có thế mới tỏ ra xứng đáng là những hoc-sinh của một nước Việt Nam độc lập và hùng cường. Trường ta chẳng khác gì một gia đình mà các con là nguồn an ủi, mối kiêu hãnh của thầy. Các con ngoan ngoãn nết na, thầy cũng vui lòng hả dạ; các con hư hỏng lười biếng, thầy buồn phiền chán nản.
Nếu rồi đây có phải trừng phạt một đứa con nào của thầy, ấy cũng là điều bất đắc dĩ và sẽ làm cho thầy phải đau lòng, sót ruột. Các con nên hiểu cho thầy như thế…
Vừa nói đến đây, có tiếng chuông rung. Giờ học đã hết. Chúng tôi yên lặng đứng lên, xếp hàng ra về.
Anh học trò hỗn xược ban nãy, rụt rè đến bên thầy giáo, cặp mắt đỏ hoe, cúi đầu khẽ nói:
- Thầy tha cho con… Không nói nhiều, thầy nâng cằm anh lên mà rằng:
- Thôi con về…
Đến bữa ăn, thấy tôi có vẻ âu sầu nghĩ ngợi, cha tôi gặng hỏi. Song tôi chỉ nói được một câu: «Thưa Ba, con xấu hổ vì đã có những ý nghĩ sai lầm về thầy giáo…»
Thế là tôi nghẹn ngào, không nói lên được nữa…
4. Anh Bạn Di Cư
Ngày 15 tháng 9
Bữa chiều qua, chúng tôi đang nghe thầy giảng bài, bỗng có tiếng gõ cửa, rồi ông Hiệu Trưởng tiến vào giữa lớp, theo sau một anh học trò mới, tóc ngắn húi cao, da ngăm ngăm đen, nét mặt khắc khổ đăm chiêu, nhưng vẻ đầy cương quyết. Anh ta đi một đôi giép cao su trắng và vận một quần ca ky ngắn cũn cỡn với một chiếc sơ mi nâu đã bạc mầu. Thấy anh cao lớn như ông Hộ Pháp, chúng tôi khúc khích bấm nhau cười.
Sau khi trao đổi vài lời khe khẽ với thầy giáo tôi, ông Hiệu Trưởng vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống, rồi ra đi. Ông đi khỏi rồi, anh học trò mới quay xuống, cặp mắt đen lay láy nhìn chúng tôi ra chiều bẽn lẽn. Thầy cầm tay anh thân mật dắt lên đứng trên bục, rồi hướng về chúng tôi, thầy nói:
- Các con ơi! những câu thầy sắp nói ra đây các con chớ lấy làm thường và mong các con ghi nhớ vào lòng… Bắt đầu từ hôm nay, các con có một người bạn mới, ở xa xôi lắm, tận miền Bắc di cư vào, tìm tự do bên chúng ta.
Người bạn ấy đã bỏ quê cha đất tổ, bỏ những phần mộ tổ tiên, bỏ lại tất cả những gì thân mến trên đời, để vào đây sống một cuộc đời mới, bên cạnh các con. Thầy mong rằng các con xem anh như người ruột thịt, và vui vẻ cùng nhau học tập. Mà có như thế mới phải. Thực dân phân chia Nam, Bắc, nhưng dù Bắc, Nam có khác, chúng ta cũng cùng một nòi, một gốc.
Các con ơi! Anh bạn mới này đây, sinh trưởng tại thủ đô Hà Nội, trung tâm hoạt động của bao vị anh hùng cứu nước, nơi phát sinh ra cả một nền văn hóa rực rỡ đã hàng bao thế kỷ làm chói lọi trang sử Việt Nam. Giờ đây, đất Bắc rên xiết đau thương, anh vào đây với một tấm lòng yêu nước thiết tha, cùng chúng ta sát cánh để một ngày kia xây lại Tự Do đang bị dày xéo.
Các con đừng xem anh là người xa lạ. Hãy coi anh như người trong thân tộc để cho anh khỏi tủi hờn vì nỗi chia ly và để cho anh hiểu rằng: «đất Việt đâu cũng là nhà, người Việt đâu cũng là anh em».
Giọng thầy run lên vì cảm động, còn anh bạn di cư tay mên mê cặp sách mà hai dòng nước mắt cứ chảy đầm đìa trên má.
Nhìn lên bản đồ Việt Nam treo cao trên tường ở trước mặt chúng tôi, thầy chỉ vào Bắc Việt, rồi lớn tiếng gọi to:
- Sinh! lên thầy bảo!
Anh Sinh đứng dậy, bước lên.
- Con là học sinh giỏi nhất lớp. Con hãy thay mặt anh em bắt tay anh bạn miền Bắc để tỏ tình thân ái nào!
Trong khi đôi bạn hai miền xiết chặt tay nhau, cuối lớp có tiếng hô lớn:
- Nam Bắc một nhà! Di cư là yêu nước!
Thế là chúng tôi vỗ tay hoan nghênh rầm rĩ. Thầy giáo nghiêm nét mặt, ra hiệu bảo im:
- Thầy vui lòng thấy các con biết đoàn kết. Chỉ có Đoàn Kết mới diệt được thù trong giặc ngoài, đem lại tự do cho dân tộc. Nhưng làm ầm ỹ trong lớp như thế là phạm kỷ luật…
Tuy thầy nói như vậy, nhưng trong thâm tâm, xem chứng thầy cũng cảm động vì mối tình nồng nhiệt của chúng tôi. Riêng anh ban di cư, hẳn cũng vui lòng, vì thấy anh nhìn chúng tôi bằng cặp mắt cảm ơn. Thầy chỉ một chỗ cho anh ngồi xuống, rồi lại nói:
- Đất Bắc với những núi non hùng vĩ, thắng cảnh danh lam, phản ảnh sự sống còn của dân tộc; người Bắc với tinh thần bất khuất, tượng trưng cho sự đấu tranh của chính nghĩa. Tám mươi nhăm vạn người Bắc di cư, cùng với mười triệu người Nam vùng lên, sẽ đem lại ngày mai huy hoàng cho đất nước.
Các con hãy coi nhau như anh em một nhà. Kẻ nào nhạo báng anh là di cư thế nọ, di cư thế kia, là vô tình mắc bẫy tuyên truyền của địch. Kẻ ấy không xứng đáng là con Rồng, cháu Tiên, và sẽ tủi hổ trước lá Quốc Kỳ.
Anh bạn di cư vừa ngồi xuống ghế, các bạn đã xúm lại tặng anh nhiều vật: bút, thước, bi ve,… Một anh ở cuối lớp cũng góp vào phần ấy một tập ảnh ô mai để làm kỷ niệm.
Không hiểu tại sao, lòng tôi thấy thương anh, rồi phục, rồi mến anh quá. Tôi bỗng có cảm tưởng gần người bạn đau khổ nhưng hiên ngang ấy rồi đây sẽ học được lắm điều hay!
5. Anh Hùng Dân Tộc
Ngày 21 tháng 9
Anh bạn di cư tên là Tôn. Anh mới vào được có mấy hôm đã làm chúng tôi mến phục vì bài Việt Sử sáng nay với đầu đề: «Anh Hùng Dân Tộc».
Mọi lần, anh Sinh vẫn nhất bất cứ môn nào, nhưng vì hôm thi anh nghỉ, nên thầy đọc đến tên anh Tôn cả lớp đều ngạc nhiên, quay xuống nhìn.
Đây là bài của anh đã được thầy sửa lại. Tôi mượn chép về cho cha tôi xem.
«Trang sử nước nhà ngày thêm rực rỡ bởi sự nghiệp lớn lao của biết bao đấng anh hùng liệt nữ! Quần thoa như bà Trưng, bà Triệu đã đem tấm thân đào tơ liễu yếu bảo vệ non sông. Nam nhi thì nào Lê Lợi, Nguyễn Huệ, xuất thân trong đám người áo vải; nào Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, Trần quốc Tuấn, những bậc danh tướng; cả những kẻ đầu xanh như Trần Quốc Toản cũng hết sức đem thân mình đễ trả nợ non sông. Lại còn Phan đình Phùng, Nguyễn thái Học, cùng nhiều chiến sĩ vô danh khác nữa, cũng đã đem xương máu mình để mưu sống còn cho dân tộc.
Tất cả các vị nào đó, vị nào cũng nêu gương muôn thuở, đáng cho ta kính phục cả. Riêng theo ý tôi, tôi cho ông Nguyễn Huệ là hơn hết. Trước sự tham tàn, phản quyền lợi dân tộc của Trương phúc Loan làm cho máu căm hờn sục sôi giữa đám người nông dân bần bách, ông đã vùng lên, dựng cờ khởi nghĩa.
Hạ được kẻ thù chung rồi, ông không quên đem binh diệt Trịnh để trả nước cho vua Lê, bấy lâu khuất phục dưới nanh vuốt quyền thần. Hành động cao thượng thay!
Cho tới khi ông vua vong quốc Lê chiêu Thống nhục nhã sang Tàu, cõng rắn cắn gà nhà, thì 20 vạn quân Thanh, binh hùng tướng mạnh, giả danh phù Lê để cướp nước, thế mạnh như vũ bão, ầm ầm kéo xuống chiếm đóng Thăng Long. Quân Tàu từ đó đã gây bao tàn hại, reo rắc bao nhiêu tang tóc trên đất Việt thân yêu của chúng ta.
Người Việt thủa ấy đã rên xiết dưới sự áp bức của ngoại bang. Dân tộc Việt Nam tính mạng treo trên sợi tóc! Giang sơn Việt Nam quằn quại dưới gót thù! Già, trẻ. Lớn, bé, ngày đêm cầu nguyện an ninh, mong nuốt sống kẻ thù truyền kiếp.
Trong cơn giông tố đó, với một đạo binh bằng nửa, với cách chuyển vận thần tốc, Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng Đế, và chỉ trong 5 ngày, từ Trung Việt kéo ra đánh tan lũ quân Thanh tàn ác. Các danh tướng Tàu đều tử trận; Tôn sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy lấy thân. Giữa tiếng reo hò vang trời dậy đất của nhân dân, quân ta trèo qua xác địch, đuổi theo cho đến tận biên thùy.
Vinh quang thay!
Thanh thế của Ngài rực rỡ đến nỗi vua Thanh phải mờisang xem mặt, hết lòng trân trọng tiếp đãi. Trong lịch sử ta, từ xưa đến nay chưa từng được rạng rỡ đến như thế.
Võ công của Ngài thì như vậy, chính sự của Ngài cũng chẳng tầm thường.
Là người của dân, Ngài luôn luôn nghĩ đến dân, lo mưu đồ hạnh phúc cho dân. Ngài lại bắt dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán, để được độc lập về văn hóa. Ngài còn có mộng tưởng chiếm phá nước Tàu để mở mang bờ cõi.
Nhưng than ôi! Nghiệp lớn chưa thành, người con cưng của lịch sử đã mất, trong khi dân tộc Việt Nam còn cần đến Ngài. Dẫu sao, sự nghiệp của Ngài cũng còn lưu lại muôn đời, khiến cho ngườisau, mỗi lần nhắc đến tên Ngài, ai cũng phải kính cẩn cúi đầu.
Nước Việt Nam ta ngày nay trong cảnh chia hai đất nước, chẳng khác gì thời Lê Chiêu Thống. Còn nhỏ, nhưng chúng ta sẽ là một lực lượng hùng hậu để rồi đây đúng trong hàng ngũ các bậc đàn anh, thống nhất xứ sở»
Tôi còn nhớ sau khi đọc xong bài anh, thầy bảo:
- Bài này đủ ý, câu gọn, lời hùng. Anh Sinh nếu có đi, chưa chắc đã hơn… Các con ạ, QuangTrung anh hùng như thế mà lũ người vong bản ngoài kia dám xuyên tạc công trạng của Người, có đáng giận không?
Cha tôi, lúc xem xong, cũng chép miệng nói:
- Bạn con tay ngồi đây làm bài, nhưng hẳn lòng vẫn hướng về đất Bắc. Khí khái như anh quả không thẹn là con dân nước Việt.
Mà trong số những anh hùng dân tộc ta đừng quên anh Tôn cùng với tất cả đồng bào di cư với một niềm tin mãnh liệt, đã can đảm vượt dòng Bến Hải với bao nỗi gian lao nguy hiểm. Con nên chọn anh kết bạn mà chơi!
6. Các Bạn Tôi
Ngày 24 tháng 9
Từ đầu năm đến giờ, tôi mới có dịp giới thiệu các bạn.
Quả như lời tôi ức đoán, anh Tôn sau bài thi Việt Sử đã hoàn toàn chiếm được lòng tín nhiệm của toàn thể chúng bạn. Lớn nhất, lại tỏ ra hoạt động nhất, anh được tất cả chúng tôi bầu làm đoàn trưởng và được thầy giáo cho giữ sổ điểm. Thật là cái vinh dự cho anh.
Anh năm nay 17 tuổi, nhưng trường hợp đặc biệt của anh long đong vì chiến sự, sự học luôn luôn bị gián đoạn, nên ông Hiệu Trưởng cũng thuận cho anh ngồi học lớp Nhất.
Người anh lớn, đầu to, vai rộng. Với nụ cười thường nở trên môi, người ta cũng biết là anh tốt bụng. Tuy vậy xem ra anh lúc nào cũng như tư lự, mơ màng, có lúc ngồi gốc cây đến hàng giờ không nói. Biết anh nhớ vế quê cũ, chúng tôi bảo nhau không ai đến làm rộn anh.
Anh là người tôi mến nhất lớp, mà coi như anh cũng nhiều cảm tình với tôi thì phải.
Ngoài anh, tôi còn được làm quen với vô số bạn khác. Trước hết phải kể đến anh Tý, là đội trưởng đội tôi. Lúc nào chân anh cũng đi guốc đệm cao su, đầu đội cái mũ nồi lệch sang một bên. Cha anh là một hạ sĩ trong quân đội cộng hòa, vì bị thương trong cuộc tiễu trừ phiến loạn miền Tây nên mãn lính trở về. Gom góp được ít vốn liếng, cha mẹ anh mở một cửa hàng bán than, củi, làm kế sinh nhai.
Ngồi bên cạnh anh là anh Ninh. Tội nghiệp cho anh quá, chẳng may mang tật từ buổi lọt lòng, nên người anh bé bằng cái nắm tay, lại thêm một cái bướu nặng trên lưng.
Sở dĩ rôi chú ý đến anh chỉ vì những bài Việt Sử. Thật thế khi chép bài, viết đến tên những vị anh hùng như Ngô Quyền, Phạm Ngũ Lão,… anh nắn nót như viết tập đồ. Vậy mà đến những tên Tô Định, Liễu Thăng thì anh bôi ra nguệch ngoạc, có khi lại còn rỏ thêm mực vào nữa.
Ngồi trước mặt tôi, ở đội Lê Lợi, là anh Bích, làm đỏm chẳng khác gì con gái, quần áo lúc nào cũng diêm dúa, tay luôn luôn vuốt lại nếp quần.
Bên cạnh anh Bích là anh «Tư Húi», sở dĩ có tên như vậy là vì cha anh làm nghề thợ cạo. Mặt anh tròn như mặt trăng và mũi thì tẹt dí. Anh có biệt tài làm «mắt lác» rất thần tình, khiến chúng tôi thường đem anh ra làm trò cười với nhau.
Ngồi phía bên kia là anh Phi, đội trưởng đội Quốc Toản, người cao như cò hương, với cái mũi nhòm mồm, đôi mắt tí hí. Luôn luôn anh ta mua đi bán lại chẳng từ một thứ gì: từ cái ngòi bút đến cái vỏ diêm. Thật là một bộ óc thương mại hiếm có!
Tôi còn làm quen với anh Vân. Anh Vân ngồi giữa hai anh bạn mà tôi cũng mến lắm: một bên là Côn, con một người thợ chữa xe máy, mặc cái áo chữa lại của cha, dài đến đầu gối, mặt xanh nhợt như người ngã nước, hai mắt buồn rầu ngơ ngác, chẳng dám nhìn ai lâu; một bên là anh Sỹ, đầu húi trọc, cánh tay bị liệt, đeo lên ngực. Anh lành như con gái và học chăm rất mực. Người ta nói cha anh sang Tân Thế Giới đã lâu, làm gì không biết; còn mẹ anh bán đậu phọng rang. Nhưng bà ta sợ con xấu hổ, không dám bén mảng đến cửa trường bao giờ. Hai anh hiền lành ngồi cạnh nhau thật là tương đắc!
Giới thiệu các bạn khác, tôi quên anh bạn ngồi ngay bên trái. Tên anh là Tác, một nhân vật kỳ khôi, mình tròn, cổ rụt vào đến tận vai, lúc nào cũng lầu bầu học bài trong miệng, chẳng trò chuyện với ai. Coi bộ anh đần độn, nhưng tôi chưa từng thấy ai chăm chú đến như anh. Trong khi thầy giảng bài, mắt anh nhìn thẳng, vầng trán cau lại, hai môi mím chặt lấy nhau. Liệu hồn bạn nào lúc đó hỏi anh cái gì! Miệng không trả lời, nhưng chân anh ở dưới thế nào cũng đạp ngầm cho mấy cái nên thân.
Phía bên kia, ngồi cuối lớp, là anh Pha, mặt mũi vênh váo, lúc nào cũng sừng sộ như muốn cà khịa với ai. Tôi thú thật cứ trông thấy anh ta là hãi, giờ ra chơi chẳng dám đến gần.
Con người thông minh và ngoan nết hơn cả là anh Sinh, người suốt bốn năm, bao giờ cũng ngồi đầu lớp. Anh được bầu làm đội trưởng đội Quang Trung, kiêm thêm chức trưởng ban Tương Tế Học Sinh của toàn trường. Ông Hiệu Trưởng mến anh lắm và thường gọi đùa anh là «viên ngọc quí của nhà trường», làm anh thẹn đỏ ửng cả mặt.
Trong số những bạn ấy, không biết sao tôi đem lòng quý mến anh Côn, con người thợ sửa xe đạp mà tôi đã nói ở trên. Tôi ở gần nhà anh nên biết anh phải đòn luôn và thầy anh dữ đòn đã có tiếng. Khốn nạn, vì thế anh trở nên rút rát, đến nỗi chưa chạm phải người ta mà đã ấp úng sẵn câu xin lỗi.
Nhưng thật ra, trong số từng ấy bạn, cũ và mới, theo ý tôi, anh Tôn mới là người hơn hết bọn chúng tôi. Cái đó tại sao? Tôi không rõ. Tôi chỉ biết rằng đã linh cảm thấy thế mà thôi.
7. Vì Bạn
Ngày 26 tháng 9
Chúng tôi quý anh Tôn, coi anh như người anh Cả trong trường, cũng không phải vô lý. Thực tế, sáng nay khi thầy giáo còn ở văn phòng ông Hiệu Trưởng chưa lên, thì ba bốn anh, nhân dịp vắng thầy, chọc ghẹo anh Sỹ, anh bạn bé nhỏ, có cánh tay liệt và bà mẹ bán đậu phọng rang.
Kẻ thì lấy vỏ hạt dưa ném vào mặt anh. Có kẻ hung tợn hơn, cầm thước gõ côm cốp vào đầu. Kẻ thì bĩu mỏ bĩu môi, gọi là «thằng què, thằng cụt», thôi thì đủ tình, đủ tội.
Sỹ sợ hãi ngồi nép mình vào đầu ghế, cặp mắt sợ sệt, hết nhìn người nọ đến người kia, như van lơn, như cầu khẩn, những mong các bạn để cho được yên thân.
Nhưng cái bọn tai ác kia đâu có biết thương người yếu đuối! Thấy anh nhút nhát, chúng lại càng làm già cho đến lúc anh không chịu nổi nữa, hai mắt đỏ ngầu rướm lệ.
Bỗng nhiên, anh Pha anh chàng có bộ mặt sừng sỏ đứng hẳn lên trên ghế, khèo hai cánh tay lại như người cắp thúng, miệng cất tiếng rao: «Ai mua đậu phọng ra nào!».
Trước điệu bộ ấy mọi người cười ồ lên. Anh Sỹ tái mặt đi, toàn thân run lên và tức giận. Rồi vớ lấy lọ mực trên bàn, anh thẳng tay ném mạnh. Nhưng anh chàng Pha nhanh mắt tránh được; mà lọ mực cũng không ném ra ngoài vì nó trúng ngay giữa ngực thầy giáo, lúc ấy vừa bước vào cửa lớp.
Mọi người đều sợ hãi, nem nép về ghế ngồi, im thin thít. Lớp học vừa đây ồn ào, bỗng yên lặng như tờ, không một tiếng động.
Thầy giáo giận tái mét mặt, kéo ghế ngồi vào bàn, cất tiếng hỏi:
- Ai ném? Ai?
Không một người lên tiếng. Thầy giáo lại càng giận:
- Ai ném nói ngay!
Ở cuối lớp, anh bạn di cư mạnh dạn đứng lên:
- Thưa thầy, con chót dại…
Thầy trừng mắt nhìn anh, trong khi chúng tôi nhìn nhau, hết sức ngạc nhiên. Nhưng đã hiểu, thầy bớt giận, lắc đầu thong thả nói:
- Không phải anh, ta biết!
Ngưng lại một giây, thầy tiếp:
- Ai ném cứ can đảm đứng lên thú đi. Ta tha không phạt…
Sỹ lúc ấy mới lập cập đứng lên, giọng đầy nước mắt:
- Thưa thầy… chính… chính con ạ… Các anh ấy chòng con, đánh con… Con chót lỡ tay…
Thầy giáo nhìn cánh tay đau của anh khẽ thở dài:
- Thôi con ngồi xuống. Còn những anh nào chòng ghẹo anh ấy hãy mạnh dạn đứng lên nào!
Ba bốn anh rụt rè đứng dậy, mặt xám như gà cắt tiết, chẳng dám ngửng lên.
- Các anh xúm nhau vào bắt nạt một người cô thế, không trêu ghẹo gì các anh. Các anh chế riễu một người bạn tàn tật, đánh đập người bạn yếu đuối… như thế có phải loài người không? Đêm nằm vắt tay lên trán nghĩ lại xem nào! Có xứng đáng là con dân nước Việt không? Thật là hèn nhát! Có học trò như các anh, ta lấy làm xấu hổ. Tổ quốc có những đứa con như các anh, Tổ quốc cũng nhục lây… Hừ! hỏi còn trông cậy gì được nữa!
Nói dứt lời, thầy bước xuống bục, đi xuống cười lớp, anh Tôn thấy thầy tiến về phía mình, sợ hãi, cúi đầu.
Thầy lại gần, lấy tay nâng cằm anh lên, nhìn thẳng vào mặt anh mà bảo:
- Thầy vui lòng có những hoc-trò như con!
Anh Tôn lúc bấy giờ mới yên tâm, nghiêng đầu về phía thầy, lắp bắp những gì không rõ. Lập tức, thầy quay về phía bốn kẻ tội-nhân, lên tiếng:
- Thôi ngồi xuống! Nể anh Tôn ta tha cho… Bận sau còn thế cứ chết đòn.
Lúc ra về, bàn tán về anh Tôn, thì anh Sinh thủng thẳng nói:
- Có như vậy mới xứng đáng với tấm lòng cao thượng của thầy.
8. Kiêu Ngạo
Ngày 1 tháng 10
Kiêu ngạo nhất lớp tôi là anh Bảo, vừa mới ở trường Lê Lợi đổi sang. Anh con nhà lịch sự giàu có. Nghe đâu cha anh la một y sĩ nổi tiếng về đức hạnh. Bởi giàu có, lại được cha mẹ nuông chiều, nên đi học mà anh ăn mặc sang lắm: giầy da, đồng hồ vàng, quần áo bảnh bao. Đầu tóc chải bóng mượt, bắt chước người lớn.
Cũng do đó mà anh tự kiêu, tự đắc, tưởng trên đời chỉ có mình anh. Anh Côn đi qua, chạm vào người anh một chút, mà anh vội lấy mùi xoa ra phủi, như sợ lây vi trùng độc. Có lẽ đó là do tính người, vì anh Lưu cũng con nhà sang trọng mà có khinh người thế đâu!
Như anh Bảo thì chẳng còn ai chịu nổi nữa! Anh chỉ muốn ngồi một mình một ghế, sợ ngồi chung, người ta rây bẩn vào người.
Lúc đi thì anh ưỡn ngực ra, vênh mặt lên, chẳng thèm nhìn ai. Ai anh cũng gọi là thằng; nói với ai cũng mày tao chi tớ, coi người bằng nửa con mắt. Hơi một tí là anh bỉ người ta, hoặc mang bố ra dọa.
Trong lớp anh chẳng thân với ai; chẳng ai thân với anh thì đúng hơn. Lúc anh đến cũng như lúc anh về, cứ cũi lũi mà đi, tưởng như mình có xe hơi thì ai cũng nể, ai cũng sợ!
Thực ra chẳng ai muốn hỏi anh. Cả đến khi anh không thuộc bài cũng vậy, không ai nhắc, mà có quên sách cũng chẳng ai cho mượn.
Thế mà anh còn ra bộ khinh bỉ mọi người, khinh anh Sinh vì anh học giỏi nhất lớp, khinh anh Tôn, vì anh được chúng bạn mến yêu, nghĩa là anh ghen với họ vì thấy họ hơn mình. Chỉ có thế!
Còn anh Sinh tuy vậy mà khá. Khi có người nói đến tai rằng anh Bảo nói xấu anh, thì anh điềm nhiên gạt đi:
- Không, tôi biết! Anh ấy nói đùa đấy mà!
Sáng hôm nay lúc anh Ninh xếp hàng ra chơi, lúng túng thế nào dẫm ngay phải chân anh bảo, anh cũng vào thưa thầy. Anh Ninh cứ tình thực trình với thầy rằng chót lỡ phải.
Thầy bèn bảo anh:
- Con đến là hay nhiễu sự! Bạn bè chơi với nhau phải tha thứ cho nhau mới phải chứ!
Bảo xấu hổ, lúc xuống sân bám ngay lấy tôi cho đỡ ngượng. Nể anh, tôi miễn cưỡng đi theo. Loanh quanh một lát, anh kéo tôi ra ghế, lúc ấy đã có anh Lãm đang chăm chú ngồi xem quyển chuyện Lỗ Bình Sơn. Thì ra anh rủ tôi ra đấy để khoe đôi giày mới đóng.
Giơ một chân lên, anh nói:
- Trông «tớ» đi đôi giầy kiểu «uy ních» này có được không?
Anh cố ý để cho anh Lãm ngồi bên nom thấy. Nhưng Lãm còn mải đọc, chẳng để ý. Bảo lại sắn tay áo rõ cao, để lộ chiếc đồng hồ vàng lẩm bẩm:
- Sáng nay giá không có cái đồng hồ vàng này thì tớ đi chậm mất năm phút… Đồng hồ «chiến» thế này mà hôm nọ chú mèo suýt làm vỡ của mình, có «oán» không chứ!
Bảo vừa nói vừa nhìn sang bên cạnh, nhưng vô ích, anh Lãm vẫn ngồi điềm nhiên đọc sách, chẳng thèm liếc mắt. Lần này thì xem Bảo ta bực mình lắm rồi! Anh rút kính râm ra, soi lên phía mặt trời. Tôi hỏi:
- Kính anh «mác» gì thế?
- Trông kính này mà cậu không biết mác «zét» à? Cậu xoàng quá! Có dấu hiệu ở mắt kính này!
Tôi nhìn theo tay anh trỏ, nhưng chẳng trông thấy gì cả. Được dịp ấy, anh quay ngay sang bên cạnh, dí cái kính vào tận mũi anh Lãm:
- Này nhìn hộ xem này! Có phải có chữ Z.O. ở đây không?
Anh Lãm giật mình, sửng sốt, bỏ sách xuống. Giữa lúc ấy có tiếng chuông vào học. Mọi người bỏ cả cuộc chơi, tất cả chạy đến cửa lớp xếp hàng.
Anh Bảo tức quá, tưởng phát điên lên được, vừa đi vừa lầu nhầu trong miệng:
- Hừ! Cái đồ nhà quê ấy thì còn biết cái gì nữa!
Vào học được một lát, thầy giáo đưa ra một tờ giấy để học sinh chúng tôi lần lượt kê khai tên tuổi, cùng nghề nghiệp, địa chỉ bố mẹ.
Người này, rồi người khác, tờ giấy được chuyển đến tay Bảo, ngồi cuối bàn ba. Anh trề môi ra nhiếc đọc nghề nghiệp của cha mẹ các bạn. Có lẽ anh thấy toàn những thợ thuyền, buôn bán mà anh khinh chăng? Rồi anh trịnh trọng rút bút máy ra, nắn nót viết:
Bùi Hữu Hữu, Y Sĩ…
Viết xong anh đắc chí xoa tay đọc lại, ra dáng thú vị lắm, rồi chẳng thèm đưa, quăng mạnh xuống bàn dưới cho anh Lãm.
Lúc anh Lãm đang viết, anh khẽ quay lại, ý chừng chờ xem anh Lãm thấy nghề nghiệp của cha anh mà giật mình chăng?
Nhưng chính anh đỏ mặt giật mình, vì anh vừa thấy Lãm đặt bút xuống bàn, dòng chữ hãy còn rành rành, chưa ráo mực: Đào Thế Thế Giám Đốc Nha Y Tế
Anh toát mồ hôi, ngồi đờ ra, cắm mặt xuống bàn.
Đợi hoc sinh khai xong, thầy thu lấy bản danh sách rồi bắt đầu cho thi vẽ.
Các bạn đã bắt đầu vẽ mà tôi vẫn thấy anh loay hoay mở cặp, lục hết ngăn nọ đến ngăn kia, rồi hết thục tay vào trong ô kéo, lại thò tay vào túi áo: thì ra quên mất bút.
Mọi người đã vẽ xong gần nửa, chẳng ai để ý đến anh. Anh cứ ngồi ngay ra. Anh biết có hỏi mượn cũng chẳng ai cho, vả lại anh đã chót tuyên bố không thèm nhờ ai. Thế mới chết!
Anh phát khóc đến nơi!
Mặt anh lúc tái, lúc tía, mồ hôi rỏ giọt.
Ngồi bàn dưới, anh Lãm vẫn nghiêng đầu cặm cụi nắn nót từng nét. Bất chợt anh ngẩng đầu nhìn lên. Lập tức anh cúi xuống ngăn bàn, mở hộp bút ra, rồi nhổm người, với tay lên bàn trên:
- Bảo ơi! Bút đây! Vẽ nhanh lên!
Giờ tan hoc, anh Ninh xếp hàng qua mặt anh, lúng túng đánh rơi quyển vở xuống dất. Anh Ninh chưa kịp cúi xuống thì đã thấy anh Bảo nhặt lên, bỏ vào cặp cho anh. Chúng tôi nhìn nhau, ngạc nhiên hết sức.
Lúc đi đường, anh Sinh bảo chúng tôi:
- Đấy, các anh cứ thường chê anh Bảo là xấu! Theo tôi, không phải ai cũng hoàn toàn xấu mãi, phải không các anh?
Nói xong anh cù tôi một cái, mà nói:
- Đã phục Sinh chưa?
Rồi anh nhoẻn miệng cười, rẽ sang phố khác…
9. Cô Giáo Cũ
Ngày 5 tháng 10
Như lời hứa, cô giáo cũ lớp Năm hôm nay đến chơi. Dễ đến một năm cô không lại chơi, nên vừa gặp, ai cũng tay bắt mặt mừng.
Cô vẫn thế, không khác chút nào, vẫn cái dáng người thon mảnh ẩn trong bộ áo giản dị, xẫm mầu. Mái tóc cô bắt đầu đốm trắng từ năm ngoái. Nước da xanh thêm một chút, còn bệnh ho quái ác vẫn deo dẳng chưa thôi.
Thấy cô ho luôn, mẹ tôi ái ngại, nắm tay cô:
- Cô mệt đấy! Cô phải chịu khó tẩm bổ, thuốc men vào chứ!
Cô mỉm nụ cười buồn:
- Được đến đâu hay đến đó mà!
- Cô thì lúc nào cũng nói thế được. Nghề dạy học vất vả lắm cô ạ. Đối với hoc trò, cô đã hy sinh nhiều quá rồi, đến lúc cô phải nghĩ đến sức khỏe của cô mới được…
Mẹ tôi nói đúng. Cô giáo chịu khó thật, ai cũng phải công nhận. Đi ngoài đường đã nghe thấy tiếng cô vang trong lớp. Nhưng lũ trò nào có biết thương cô! Chúng lơ đễnh nhiều quá, khiến cô cứ phải nói luôn mồm, đi luôn chân, chẳng lúc nào được nghỉ.
Cô hứa đến chơi, mà quả nhiên thật, vì cô không quên học-trò cũ bao giờ. Cô nhớ tên từng đứa một, có đứa nhớ cả ngày sinh, tháng đẻ. Như một người mẹ hiền, cô chăm nom săn sóc học trò chẳng khác con đẻ, vui khi chúng cười, buồn khi chúng khóc. Tôi chưa thấy một người nào dịu dàng, tận tụy hơn cô, cho nên thôi học đã mấy năm rồi, mà rồi còn nhớ mãi. Cả những anh học trò cũ đã lớn, tuy học lên trường trung học mà thỉnh thoảng vẫn còn ghé thăm cô với một lòng biết ơn tha thiết.
Hôm ấy, nhân ngày thứ năm, cô đưa hoc trò đi thăm sở thú. Đó là lệ thường của cô: cứ ngày đó, dù bận, cô cũng đưa chúng đi chơi, chỗ này chỗ nọ, để cho chúng có dịp trông thấy tận mắt những điều bổ ích. Cuộc đi chơi bữa nay không xa, nhưng lúc trở về cô cũng hơi thấy mệt trong người, nhưng không quên tạt đến thăm mẹ tôi như lời đã hứa. Khốn nạn, trông cô gầy yếu mà tôi thương quá! Thế mà, động nói đến việc trường, việc học, là mắt cô sáng lên, miệng nói thao thao không biết mỏi.
Ngồi chơi một lát, cô ngỏ ý muốn xem lại tấm hình mà cách đây hai năm, khi tôi bị ốm, cô đến thăm rồi chụp cho. Tôi cũng nhân dịp ấy đem ra mấy tập sách cũ để cùng cô ôn lại những kỷ niệm đã qua.
Rồi cô đứng dậy ra về, vì còn vội đến thăm một học sinh nghỉ đã lâu vì bệnh đậu mùa. Vả lại cô cũng còn lắm việc nhà: chồng sách phải chấm, áo len cho cháu đan dở chưa xong, rồi lại còn giờ dạy tối tại một nhà tư nữa.
Cô xoa đầu tôi:
- Dũng còn nhớ cô giáo nữa không? Giờ Dũng nhớn rồi, không khiến cô cầm tay tập viết nữa nhỉ!
Xuống đến chân thang, cô quay lại nắm tay tôi:
- Đừng quên cô, Dũng nhé!
Nhìn cô đi khuất, lòng tôi se lại. Cô ơi! Cô nói chi điều ấy cho tủi lòng con! Dù xa, dù gần có bao giờ con quên được cô! Rồi đây khi con khôn lớn, có lưu lạc phương nào, con cũng sẽ trở về nơi cũ thăm cô, người đầu tiên đã khai sáng khối óc còn tăm tối của con, người đã suốt một năm trời dòng dã, dạy bảo, khuyên răn, tập cho con đọc, tô cho con viết, uốn nắn con, khác nào chăm bón một cây non hoang dại.
Con quên làm sao được những nỗi khó nhọc vì con, những phút tận tụy của cô bên chúng con, để mong dạy dỗ cho chúng con nên người khá giả.
Cô quả là người mẹ hiền, đã sống cho chúng con, sống vì chúng con. Không! Con sẽ nhớ cô cho đến phút cuối cùng và công ơn ấy con xin ghi lòng khắc dạ.
10. Một Ván Bi
Ngày 14 tháng 10
Giờ chơi buổi sáng hôm qua, sân trường bày ra quang cảnh náo nhiệt, vui vẻ: các anh bé đánh vòng, đánh bi, chơi quay, chơi đáo, các anh lớn người thì dựa cột xem sách, người túm năm, tụm ba bàn chuyện thi cử học hành. Trên hè cao, các thầy thủng thỉnh đi đi lại lại, trông ra sân, âu yếm nhìn đàn con thơ dại nô đùa.
Đang lúc chạy ngẩy vui vẻ bỗng sau trường có tiếng huyên náo, người xúm lại vòng trong, vòng ngoài. Một vài bọn hiếu kỳ vội bỏ cuộc chơi chạy lại xem. Thì ra anh Phi, anh bạn có óc con buôn, và anh Vân, chả biết đánh bi được thua ra sao, đâm ra cãi lộn.
Lúc tôi len vào đến nơi, thấy hai anh quần áo sốc sếch, mồ hôi nhễ nhại, đỏ mặt tía tai.
Anh Phi gân cổ lên:
- Thế mà cũng đòi chơi! Bận sau thì đừng hòng…
Anh Vẫn không chịu kém:
- Ai ăn gian? ai ăn gian? đây không thèm…
Người đứng xung quanh, người bảo Phi phải, người cho Vân được. Anh Pha xấu bụng lại cố hẩy thêm vào cho hai anh cãi nhau, đánh nhau cho mà xem.
Anh Phi giơ hai tay như phân bua:
- Phải! không thèm! Đấy, anh em xem hộ… rõ cái đồ…
Anh Vân mặt đỏ gay như con gà chọi, hung hổ xấn vào:
- Đồ gì? Đồ gì? Có giỏi ra đây!
Mọi người sợ sảy ra sô sát, vội vã can hai anh ra, trong khi những anh bé reo ầm lên như vỡ chợ.
Thầy giáo nghe tiếng huyên báo, vội chạy ra. Thấy thầy đến, không ai bảo ai, mọi người xem lảng đi hết, còn trơ lại hai anh, phùng mang trợn mắt nhìn nhau, như chưa hả cơn tức giận.
Trước vẻ nghiêm khắc của thầy, hai anh sợ hãi, rối rít thưa thưa, bẩm bẩm. Thầy không nghe ai cả, bắt cả hai anh đứng quay mặt vào tường. Học sinh các lớp lại được dịp «ê, ê» ầm ỹ, cho đến lúc thầy phải quay lại, quắc mắt lên họ mới chịu thôi.
Anh Vân và Phi lúc ấy trông thật thảm hại! Mặt anh nào anh nấy xám ngoét vì sợ hãi, vì hổ thẹn, cứ cúi gằm xuống như hai kẻ tội nhân.
Anh Tôn gọi tôi ra một chỗ, chép miệng mà bảo rằng:
- Rõ thật là xấu hổ! Hai anh bây giờ có hối hận thì cũng đã muộn rồi… Anh em bạn học, cùng thầy, cùng trường phải nhường nhịn thương yêu nhau như anh em một nhà mới phải chứ, «gà cùng một mẹ đá nhau làm gì»
Tôi còn đang suy nghĩ về câu anh nói, thì chuông vào học đã bắt đầu.
11. Thư Xin Lỗi
Ngày 15 tháng 10
Vừa ở trường ra được mấy bước, thấy anh Phi lật đật chạy theo tôi, vừa thở, vừa nói:
- Dũng ạ, nhờ Dũng tí nhé!... nhờ Dũng đưa hộ cái thư này cho Vân nhé!... Đây là cái thư tôi xin lỗi… nhưng tôi ngượng không dám đưa… Dũng xem hộ viết thế này có được không? Hộ tí nhé!
Tôi mỉm cười bảo anh:
- Ai bảo cãi nhau cho lắm vào rồi lại viết thư cho tốn giấy mực!
Anh cười gượng:
- Thế mới là «thân nhau lắm, cắn nhau đau» chứ!
Tôi cầm lấy thư. Anh đi rồi tôi còn trêu anh.
- Này! Mai đãi tớ cái kem đấy nhé!
Anh gật đầu, rẽ sang phố khác. Tôi vừa đi vừa xem thư anh:
«VÂN»
«Sáng nay, chắc Vân giận tôi lắm đấy nhỉ? Riêng tôi về nhà nhìn lại chiếc áo nhầu nát, đứt khuy, tôi lại hối rằng đã quá nóng.»
«Vân thế nào không biết, chứ từ lúc ở trường ra, tôi băn khoăn nghĩ ngợi mãi về chuyện ấy. Từ xưa tới nay có cuộc đi chơi nào chúng ta không chơi cùng nhau? Mà có bao giờ xẩy ra giận dỗi, bất hòa đâu. Học cùng học, chơi cùng chơi, khác nào anh em ruột thịt? Vậy mà sáng nay chỉ vì một chút cỏn con, một ván bi không rõ được thua, mà chúng ta cãi cọ nhau, suýt sô sát nhau là đằng khác».
«Tôi nghĩ lại mà hối quá Vân ạ! Lúc đó chắc trông chúng ta khả ố lắm đấy nhỉ! Đứa nào đứa ấy trợn mắt, phùng má, giơ tay, giơ chân, giằng giằng, co co, chẳng khác gì hai kẻ say rượu, điên cuồng. Rồi mày tao chi tớ, văng tục, văng bẩn, không còn ra thể thống gì nữa. Ấy cũng chỉ vì tại chúng ta nhiều tự ái, chẳng chịu nhường nhau»
«Tự ái như thế thật là không đúng chỗ, có phải không Vân? Học hành hơn kém, ganh nhau cho bằng anh bằng em, đó mới là tự ái chứ! Tự ái vì mấy hòn bi, thật là quá đáng!»
«Nhớ lại những lúc chúng ta thân thiết với nhau mà tôi tự khinh tôi, tự trách tôi. Vẫn biết rằng câu chuyện này đã rồi, còn làm sao mà gỡ lại được nữa! Nhưng tôi thiết tưởng lòng hối hận có thể chuộc được lỗi xưa một phần, Vân nhỉ!»
«Tôi mong Vân nghĩ đến tình bạn của chúng ta, quên lỗi vừa qua để chúng ta nối lại sợi dây thân ái, và thư này, khi đến tay Vân, thì Vân đã quên hết rồi»
«Đó cũng là bài học hay cho chúng ta, để từ đây chúng ta sẽ thân nhau hơn, quý nhau hơn. Có thể thầy giáo, cha mẹ chúng ta biết chuyện mới được hả lòng, và sau này ra đời, chúng ta không đến nỗi trông thấy nhau mà phải quay đi»
«Vân ơi! Anh tha lỗi cho Phi nhé! Vân đừng giận Phi nữa nhé! Đừng giận người bạn đã tự biết mình trái và đang bị hối hận dày vò. Mong rằng tình bè bạn thiêng liêng của chúng ta rồi đây sẽ bền chặt mãi mãi, chẳng bao giờ phai lạt»
«Phi chờ Vân sáng mai đến rủ đi học như mọi khi, nhớ nhé, Vân nhé! Chúc Vân vui luôn» «Bạn Vân chờ Vân hết giận»
«PHI»
12. Cảnh Nghèo
Ngày 19 tháng 10
Mới có từ đầu tháng mà anh Sỹ để đến 10 lần bị ăn «trứng thối». Mà tôi cũng chẳng thấy ai to gan như anh! Bữa trước thầy đã dặn đi dặn lại, hôm nay phải trình bản đồ “Việt Nam sông ngòi” để thầy chấm.
Cả lớp ai cũng có. Riêng mình anh không. Chẳng những bản đồ anh không có, mà bài anh cũng chẳng thuộc được quá hai câu. Anh “ư, a ư ơ” được mấy tiếng, rồi đứng đực ra như tượng gỗ mặt đỏ bừng lên như gấc chín, nước mắt ứa ra dòng dòng.
Thầy đập bàn:
- Anh không biết xấu hổ, còn khóc hay sao? Dễ một tháng nay, ta để ý xem ra anh chán nản sự học, không bài nào anh học, không bài nào anh làm. Ta hết lời khuyên bảo, anh chẳng thèm nghe, anh khinh nhờn ta quá lắm!...
Anh Sỹ cứ gằm mặt xuống mà thút thít.
Thầy đang cơn giận, hầm hầm nói tiếp:
- Không biết xấu! Không biết nhục! Đi học mà không chịu học thì còn cắp sách đến trường làm gì cho tốn cơm cha mẹ!
Đến đây, anh Sỹ bật khóc thành tiếng, phải đưa vạt áo lên miệng cắn, mà vẫn cứ nức nở không thôi. Còn thầy thì thở hổn hển, rút mùi-xoa trong túi ra lau mồ hôi lấm tấm trên trán, rồi gập mạnh sách vào, dằn từng tiếng:
- Hừ! lười biếng!... hư thân!... học không học!... làm không làm!... Ngữ ấy rồi sau ăn cậy, sống nhờ, chứ còn trông mong gì được nữa! Thế mà ta cứ ngỡ anh khá…
Chúng tôi lấm lét nhìn nhau, ngồi im chẳng ai dám động đậy. Một lát sau, thầy quay lại nhìn anh, khẽ lắc đầu, giọng chán chường, mệt nhọc:
- Ta hết lòng răn dạy anh, nhưng xem ra anh không cần học, ta không biết làm thế nào bây giờ?... Ta làm nghề dạy học chỉ mong có cái vui thấy các anh chăm chỉ, vậy mà…
Anh Sỹ sụt sịt nói:
- Xin… thầy… thầy tha cho con… lần nầy…
- Ta đã tha cho anh nhiều lần. Rồi ngày mai, rồi ngày kia, anh vẫn chứng nào tật ấy, làm gương xấu cho anh em, làm khổ tâm cho ta, làm nhục lây cho trường, cho lớp. Sỹ ơi! Nếu con không thương ta thì con cũng thương cha, thương mẹ con mà sửa đổi đi mới phải… Người ta mỗi ngày một khá, một hay, còn con, mỗi ngày một hư, một đốn. Mà trước kia con có thế đâu!
Anh Sỹ, nhích lại gần bàn thầy, nghẹn ngào nói qua nước mắt:
- Bận sau… con… con xin chừa…
Thầy lại chợt nổi nóng lên:
- Đã nhiều lần anh nói với ta câu ấy, khiến ta quen tai quá rồi, nghe mà thêm bực. Thôi! Anh về chỗ, kẻo anh đứng đấy ta trông thấy mà đau lòng xót ruột…
Anh Sỹ lập cập cầm lấy sách, nước mắt, nước mũi chan hòa, lủi thủi về chỗ. Thầy nhìn theo chép miệng thở dài.
- Chẳng may có học trò thế ấy, ta cũng đành mang cái tiếng với đời. Chúng tôi ai cũng nửa thương, nửa giận. Thương vì nỗi thấy anh hiền lành, giận vì nỗi anh không chịu học, lời thầy khuyên, anh dường như bỏ ngoài tai. Từ ít lâu nay, anh bỗng đổi tính, đổi nết. Trước kia anh chăm chỉ bao nhiêu, thì bây giờ lười bấy nhiêu. Đến nỗi, cứ thấy gọi đến tên anh là chúng tôi đã bấm nhau, chờ xem anh ăn «trứng thối». Mới đầu còn thấy hay hay, nhưng rồi sau thấy anh vẫn chứng nào tật ấy, chúng tôi đâm ra có ác cảm, bảo nhau tẩy chay anh là dằng khác. Chẳng mấy chốc giờ học đã hết. Chúng tôi thu gọn sách vở, ra xếp hàng ngoài hiên. Anh Sỹ một mình đứng ở đàng cuối, vì chẳng ai chịu đứng với anh. Mặt anh tái mét. Nước mắt chưa ráo, anh cứ cúi gầm xuống không dám ngẩng lên. Tôi trông anh mà ái ngại.
Chờ cho mấy lớp dưới ra trước, thầy vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi, rồi bước vào văn phòng ông Hiệu Trưởng.
Vừa ra đến cổng trường, bỗng có tiếng đàn bà chu chéo đàng sau:
- Thằng trời đánh thánh vật kia, về mà xem nồi cá! Mày bỏ mày đi học để cá của tao cháy vụn thành than! Mày hại tao! Mày giết tao, mày có biết không?
Chúng tôi ngoảnh lại thấy một người đàn bà to lớn, bộ lông mày chổi sể, đôi mắt sắc như dao, đang nhẩy chồm lên mà sỉa sói vào mặt anh Sỹ:
- Rồi tao về tao bảo mẹ mày! Tao có nhờ mày không đâu! Chẳng qua mẹ mày nợ tao, cho mày sang làm trừ nợ. Tưởng mày đỡ đần tao, quét dọn, cơm nước cho tao, ai ngờ mày thiết việc học của mày cơ! Mày thiết làm ông trạng cơ, để đến nỗi tam tứ phen cơm sống, cá khê… Tao cần mày làm, chứ tao có cần mày học đâu. Mặt mũi thế kia có đáng cắp sách đến trường không, hử? hử?...
Rồi bà ta cứ chồm lên, túm lấy ngực anh mà lôi như con nhái bén. Khốn nạn thân anh! Anh cứ run lên cầm cập, mặt tái mét, chẳng còn hạt máu. Anh rên rỉ:
- Bà tha cho cháu… Cháu chót lỡ… Cháu van bà…
Nhưng bà ta không hề cảm động, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau ken két, rít lên những tiếng ghê người:
- Tha gì? Lạy gì? Thôi ở nhà đóng vai đứa ở mà trừ nợ cho xong, còn sĩ diện cắp sách đi học làm gì, không biết nhục!
Rồi bà ta túm lấy tóc anh định tát. Nhưng một người sấn vào, gỡ tay bà ra. Đó là thầy giáo. Cặp mắt sót sa thương cảm, thầy cúi xuống bảo anh:
- Nín đi con! Yên chí chớ hãi… Từ ngày mai con lại có đủ thời giờ để học bài như chúng bạn…
Rồi thầy nghiêm khắc quay lại bảo bà kia:
- Còn bà bớt nóng, theo tôi về nhà, rồi công nợ thế nào, đâu có đó, phân minh…
Bà ta cứ há hốc mồm ra, chẳng nói được câu nào. Rồi trước cái vẻ nghiêm nghị của thầy giáo, bà ta cúi mặt xuống, lùi lũi theo…
Chúng tôi đã hiểu đầu đuôi, nhìn nhau cảm động. Anh Tôn, anh Tý xúm vào, đưa anh Sỹ về nhà…
Lúc đi đường, mẹ tôi ngậm ngùi bảo:
- Con có trông thấy anh Sỹ đấy không? Nghèo mà thiết học. Còn con, nhờ trời cái ăn, cái mặc sẵn sàng, chỉ có một việc học thôi, mà lắm lúc chẳng chịu học cho, vẫn lấy sự học làm khổ. Dũng con ơi! Con theo gương anh Sỹ đấy mà chịu thương, chịu khó, học hành cho ba mợ vui lòng…
Nghe mẹ nói, tôi cúi đầu ngẫm nghĩ, vừa thương bạn, vừa tự nhũ thầm phải cố gắng hơn lên.
13. Làm Người Phải Học
Ngày 22 tháng 10
Ba tôi được mẹ tôi thuật lại câu chuyện hôm qua, nên sáng nay thấy trong nhật ký của tôi những dòng chữ sau đây:
Dũng ơi, «con lấy sự học làm khổ». Mẹ con nói vậy chẳng ngoa chút nào. Thật thế, chẳng mấy khi Ba thấy con đi học với cái dáng điệu tung tăng, nụ cười hớn hở.
Con thử tưởng tượng xem, nếu một ngày kia con ở nhà, trong khi các bạn con đi học cả, thì cái ngày ấy vô vị đến thế nào! Nếu có vui thì cũng chỉ được ngày đầu. Rồi chỉ một tuần sau, Ba chắc con lại đòi đi học ngay đấy. Là vì, với tuổi con, chỉ có đi học là vui thôi…
Dũng ạ! Con hãy nhìn ra chung quanh mà xem! Trẻ nhỏ ngày nay cắp sách đến trường, ông già bà cả buổi tối theo lớp Bình dân. Thợ thuyền, những ngày chủ nhật, binh lính, những lúc nghỉ ngơi, ai nấy đều mang sách học thêm.
Cả đến những trẻ câm, trẻ mù, tàn tật thế ấy cũng không chịu để thời giờ vô ích mà đều gia công, gắng sức học hành, cho đến biết đôc, biết viết mới thôi. Nào có ai chịu dột nát đâu hà con?
Tiếc rằng con sinh sau, ít tuổi, không biết rằng thời ông bà ta ngày xưa, các nhà nho đã treo gương hiếu học đến thế nào!
Có những trò nghèo, hàng ngày vào rừng kiếm củi đành treo sách vào đầu đòn gánh, vừa đi, vừa học. Lại còn chuyện ông Đào Duy Từ, ngồi học trên mình trâu mà rồi sau cũng được nổi tiếng danh sĩ một thời. Vậy mà các cụ ta ngày xưa, đâu được diễm phúc như các con bây giờ, có trường sở rộng mát, có đường đi lối lại phong quang, có xe hơi, xe máy đưa đón tận trường!
Các cụ xưa đi bộ năm, bẩy cây số mớ đến nhà thầy, mang theo cơm nắm, muối rang. Sách thì đựng vào trong ống tre đeo lủng lẳng trước ngực, làm gì có cặp da lợn, da bò. Ăn mặc thì thì quần nâu, áo vải, sang trọng lắm mới được đôi dép da trâu, còn thì chỉ guốc mộc, đi đất quanh năm.
Ấy trong cái hoàn cảnh thiếu thốn như vậy mà các cụ vẫn chịu khó học hành, óc chứa hàng trăm ngàn pho sách. Gần đến kỳ thi, có cụ buộc cả tóc lên xà nhà để khỏi ngủ gật, có cụ bắt đom đóm đựng vào chai thủy tinh làm đèn, vì nỗi không dầu.
Có biết bao nhiêu hàn sĩ, chỉ nhờ có học mà mà rồi sau nên danh, nên phận, mười tám đôi mươi, đã tiến sĩ, trạng nguyên, để lại tiếng thơm muôn đời: Chu văn An, ngàn năm treo gương tiết liệt, Mạc Đĩnh Chi sang Tàu làm rạng rỡ nước non nhà… và biết bao nam nữ danh nhân tài tử, nhiều không kể xiết, đã vìsự học tô điểm cho rừng văn hóa nước nhà, làm chói lòa sử cũ.
Xem như ông nội con, nào phải ai đâu xa! Nhà nghèo, suốt đời đi học không được manh áo lành. Lên đến trung học rồi mà vẫn hàng ngày kéo lê đôi guốc gỗ, với cái áo vải thâm bạc vai. Về nhà lại phải cắp rá ra chợ mua rau đậu về làm cơm. Sách thì chẳng có lấy một quyển, quanh năm đi mượn, đi chép; thế mà người cũng chịu thương, chịu khó, nên đỗ ra rất sớm. Có được tấm bằng rồi, người đành gạt nước mắt từ giã nhà trường, từ chối cả việc được cử đi du học để còn ra đời kiếm kế sinh nhai. Có thế mới nuôi được cha đây và các chú con ăn học, không đến nỗi phải thất học, lam lũ lầm than. So sánh với các con bây giờ thật là một trời một vực, vậy mà con không biết sướng hay sao?
Dũng con ơi! đã làm người thì phải học. Mà không phải chỉ có mình con. Buổi sáng, khi con bước chân ra, thì cũng trong giờ ấy, riêng một thành phố này có đến hàng nghìn, vạn đứa trẻ như con, cắp sách đến trường.
Lại còn biết bao nhiêu trẻ khác, khắp mặt thế gian, trên đất nước khác nhau, trong những bộ quần áo khác nhau và nói những thứ tiếng khác nhau, cũng đều nô nức kéo nhau đến lớp.
Con hãy tưởng tượng đến sự hoạt động vĩ đại của đám đông hoc sinh ấy, thuộc hàng ngàn dân tộc khác nhau, và con hãy tự bảo rằng:
- Nếu sự hoạt động kia có một ngày chẳng may ngừng lại thì tất cả nhân loại sẽ quay trở về vòng man dã, có khi bị tiêu diệt chẳng còn. Sự hoạt động ấy chính là sự tiến bộ đã làm cho loài người đứng đầu muôn loại, thắng cả thiên nhiên và đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn dân. Dũng ơi! Cố gắng lên con! Con cũng là một tên lính nhỏ trong cái đạo quân khổng lồ kia đấy. Nhưng dù là lính nhỏ, con cũng đừng là lính hèn.
Có thế con mới là con của Ba, Có thế con mới xứng đáng là mầm non đất Việt.
Ba của con chỉ mong con cố học.
14. Thằng Bé Đánh Giầy
Ngày 24 tháng 10
Sau khi chuyển giúp anh Phi cái thơ cho anh Vân, thấy hai anh đã hòa với nhau, tôi cũng vui lây.
Để giữ lời hứa và để cám ơn tôi, lúc ra cổng trường hai anh nhất định mua kem mời tôi. Ba chúng tôi vừa đi, vừa ăn, chuyện trò như pháo ran. Anh Vân rủ tôi sang bên trường nữ học để đón cô em gái. Đến nơi thì thì vừa gặp buổi học tan. Các cô gái nhỏ, cặp sách dưới tay, tóc xén ngang vai, áo màu sặc sỡ, tung tăng đi như đàn bướm lượn.
Bỗng tôi nhìn sang bên kia đường thấy có một đứa trẻ gục đầu vào tường, hai tay ôm lấy mặt mà khóc nức, khóc nở. Loắt choắt trong manh áo cũ, vá chằng vá đụp, hai vai nó rung lên sau những tiếng nấc. Hai ba cô nữ sinh vừa đi tới, dừng chân lại hỏi. Nhưng nó chẳng trả lời, chỉ cứ thút thít khóc hoài.
- Sao vậy em? Sao em khóc thế?
Hỏi đến ba bốn câu, nó mới ngẩng đầu lên, cặp mắt đỏ hoa còn ngấn lệ. Thì ra em nhỏ đó, làm nghề đánh giầy, từ sáng được gần hai chục bạc, vô ý đánh rơi mất cả. Khốn nạn thằng bé, ky cóp cả ngày được món tiền nhỏ, định mang về cho mẹ, lại thành công cốc.
Phần tiếc của, phần lo mẹ rầy, nó sợ chẳng dám về nhà, cứ đứng đấy mà tí tỉ khóc.
Giây lát, bọn nữ sinh đi sau đã tới, xúm quanh lấy nó, cô nọ nhìn cô kia. Bỗng một cô lớn tuổi nhất bọn, mặc áo dài xanh thấy gọi tên là Như Lan móc túi lấy ra hai đồng nói:
- Các chị ạ, tôi có hai đồng đây! Chúng ta chung nhau vào vậy. Giúp em làm phúc, tội nghiệp!...
Cả bọn hưởng ứng ngay. Cô nào cũng nắn túi, móc cặp, chả mấy chốc đã được đống tiền kha khá.
Như Lan đếm vừa được 15 đồng:
- Còn thiếu, các chị ạ! Ta cố gắng bớt tiêu đi thì có đủ…
Một cô nói:
- A! Các chị lớp Nhất ra kia rồi! Thế nào cũng đủ đấy…
Quả nhiên các cô lớn đến thì số tiền cũng tăng lên được ngót ba chục. Như Lan xếp tiền lại đưa cho nó. Nó đứng ngây ra như phỗng, chẳng dám cầm. Cô bèn cúi xuống, mở nắp hộp của nó ra, xếp xuống dưới đáy. Mấy em bé cũng cố len để vứt thêm vào hộ cho nó vài viên kẹo, mấy tấm ảnh “tác dăng”. Em Huyền tôi sờ túi còn dăm vòng cao-su, ném vào nốt.
Giữa lúc tíu tít ấy, có tiếng nói:
- Chị em ơi! Bà Đốc ra…
Thế là đám nữ sinh, tản nát mỗi người một phía, như đàn chim vỡ tổ. Còn lại một mình em nhỏ đánh giầy. Nó như người mê ngủ, đứng sững nhìn theo bầy “tiên non” đang khuất đi các ngả.
Nước mắt nó lúc nãy đã khô, giờ lại trào ra đẫm má.
15. Chọn Bạn Mà Chơi
Ngày 28 tháng 10
Ngày lễ vừa qua, chúng tôi được nghỉ có hai ngày. Vậy mà không được gặp anh bạn di-cư, tôi đã lấy làm sốt ruột. Càng biết anh bao nhiêu, tôi càng mến anh bấy nhiêu, mà xem ra anh cũng không đến nỗi vô tình với tôi.
Không phải riêng tôi quý anh. Tất cả các bạn khác cũng vậy, đối với anh đều có cảm tình nồng nhiệt. Trừ mấy anh đầu bò đầu bướu là không kể, vì họ bị anh luôn luôn thẳng tay phê bình.
Mỗi lần họ bắt nạt ai, đều thấy anh đứng ra can thiệp và cực lực phản đối, thành thử họ phải kiêng dè.
Thầy anh Tôn làm thợ máy ở sở Hỏa xa. Hiệp định Giơ ne cắt đôi nước Việt đã làm ông rỏ nhiều nước mắt. Và tuy chỉ là công nhân vô sản, ông không nghe người ta, nhất định đem gia đình vào Nam, và ở đây, ông lại được tiếp nhận vào làm sở cũ. Vì chiến tranh, sự học của anh luôn luôn gián đoạn, nên học chậm. Bởi thế trong lớp tôi, anh là người nhiều tuổi hơn cả, quá tuổi là đằng khác và cũng sức lực hơn hết. Chả thế mà cái ghế lim dài nặng, anh chỉ một tay nhấc bổng như chơi.
Tuy vậy anh lành như hòn đất, và tốt với tất cả mọi người. Ai cần thứ gì, anh cũng giúp ngay: chép hộ bài, mua hộ sách,… Đồ dùng của anh, ai mượn cũng được, không trả cũng thôi. Có lần tôi thấy anh sắp mua quà ăn sáng, lại nhịn để đưa tiền cho một chú bé lớp Năm mua bút viết.
Trong giờ học, không bao giờ thấy anh nói chuyện hay đùa nghịch. Trên cái ghế thấp quá đối với anh, anh ngồi thu hình như bụt mọc, cái lưng dài khom xuống, đầu thụt vào tận vai. Đôi khi tôi quay lại, thế nào cũng bắt gặp đôi mắt anh long lanh nhìn tọi như muốn nói:
- Anh em mình thân nhau, Dũng nhỉ!
Chưa ai dám chế nhạo anh bao giờ. Cứ trông cái thân hình lực lưỡng với quả phật thủ khổng lồ cùa anh là ai cũng phải kiêng dè. Anh lớn quá, nên quần áo của anh cứ là căng nứt ra, cơ hồ không đủ sức che đậy những bắp thịt rắn chắc bên trong. Đôi giầy «xăng đá» của anh mới lớn làm sao chứ! Giá có đá ai tưởng đến vỡ mông người ta ra mất!
Anh có một con dao con của người bạn tặng anh lúc di cư. Anh cất đi cẩn thận lắm. Thỉnh thoảng đem ra lau chùi ngắm nghía, coi như vật báu. Có hôm mang gọt bút chì, lỡ cắt phải tay, máu ra lênh láng. Thế mà anh vẫn cứ điềm nhiên như không, chẳng suýt soa nửa tiếng, e cha mẹ anh hoảng sợ.
Anh tha hồ cho các bạn nói đùa, chẳng bao giờ giận. Nhưng nếu bảo anh «nói dối» thì không được, nhất là khi anh kể chuyện miền Bắc cho nghe. Mắt anh quắc lên, nẩy ra lửa, tay anh đập xuống mặt ghế thình thịch, như sắp đấm vỡ đến nơi.
Về nhà, anh thường giúp cha mẹ anh những công việc: xách nước, giặt dịa. Tuy làm việc khó nhọc như vậy, anh chẳng hề thán nửa lời, lại còn lấy thế làm vui. Anh bảo:
- Chúng tôi di cư, phải chịu khó mới được chứ! Không thể sống bám, sống hèn được!
Thầy giáo thấy thế lại càng thương anh lắm. Mỗi lần đi qua, thầy lại véo má anh. Còn tôi, ngày nào không gặp được anh, tôi thấy như thiếu xót cái gì.
Người anh cục mịch, giọng anh khàn khàn, nhưng trong giọng nói, dáng người của anh, người ta nhận thấy cả một tấm lòng quảng đại, vị tha.
16. Bài Học Lý Thú
Ngày 3 tháng 11
Tôi dám đánh cuộc rằng chả bao giờ anh Tôn mở miệng nói những câu như anh Bích.
Anh Bích tự đắc là phải, vì anh vốn con nhà sang trọng. Cha anh làm Chánh án ở tòa Thượng Thẩm, hàng ngày đưa anh đến trường bằng xe hơi trước khi đến sở. Ông ăn vận lịch sự, dáng dấp trang nghiêm, khiến ai trông thấy cũng phải kính nể.
Buổi sáng hôm qua, anh Bích không hiểu vì đâu, cà khịa với anh Bá, anh bạn bé nhất lớp con một bà bán rau. Sau một hồi tranh luận, anh Bích đuối lý, phát khùng, chỉ ngay vào mặt anh Bá mà bảo:
- Hừ, không thèm nói với cái đồ ăn cắp, con thằng mõ!
Trước mặt mọi người, Bá xấu hổ quá, mặt đỏ nhừ, không biết trả lời sao, chỉ giàn giụa nước mắt, chạy ra chỗ khác. Buổi trưa về, anh đem chuyện thuật lại với cha, rồi nhứt định đòi ở nhà, không đi học nữa.
Bởi vậy, buổi học chiều, cha anh phải nghỉ hàng, đưa anh lên thưa thầy giáo. Vừa lúc ấy, ông Chánh án theo lệ thường, dẫn con vào học, chợt nghe nói đến mình, vội tiến vào cửa lớp.
Thầy giáo trông thấy, nói:
- Kìa may có ông. Cha của trò Bá đây vừa đến thưa tôi rằng cháu Bích bảo nó là «đồ ăn cắp, con thằng mõ».
Ông Chánh án ngượng quá, đỏ mặt lên. Ông nhíu cặp lông mày, quay lại hỏi con:
- Con có nói anh Bá thế không?
Bích đứng giữa lớp, cúi mặt xuống, không trả lời một câu. Ông Chánh án bèn đẩy con đến trước mặt anh Bá, mà bảo:
- Xin lỗi anh Bá ngay!
Cha anh Bá thấy vậy, đứng lùi sang một bên, ấp úng nói:
- Bẩm… thưa Ngài… thôi ạ!... cháu, cháu nó không dám ạ… Ông Chánh án gạt phắt đi, trừng mắt bào con:
- Xin lỗi ngay đi! Nói thế này «Tôi xin lỗi đã chót phạm đến Thầy anh, người mà Ba tôi muốn được hân hạnh làm quen».
Anh chàng Bích chẳng dám cãi lời, như cái máy, lắp bắp nhắc lại từng câu cha bảo.
Đợi con nói xong, ông Chánh án bấy giờ mới chìa tay ra, thân mật bắt tay cha anh Bá mà bảo: «Cháu còn dại lắm, có lớn cũng chẳng có khôn, Ông cũng đừng chấp».
Rồi quay lại nói với thầy giáo:
- Trăm sự nhờ ông rèn cập cho, chúng tôi cảm ơn ông nhiều lắm. Nếu không có điều gì bất tiện, xin ông cho hai trẻ được ngồi cạnh nhau. Chờ thầy giáo xếp chỗ xong, ông Chánh án lại xin lỗi một lần nữa, rồi mới đi. Trong khi cha anh Bá còn tần ngần đứng lại âu yếm ngắm hai anh bạn đã hết giận, đang ngồi sát bên nhau.
Chờ ông ta ra khỏi rồi, thầy giáo chậm rãi nói:
- Bài học lý thú này dành chung cho tất cả các con để các con nhớ rằng: chúng ta đến đây học chữ, chứ không phải để phân biệt sang, hèn…
Rồi thầy quay sang anh Bích, dịu dàng bảo:
- Con hãy chơi bời thân mật với các bạn đi nào! Trường học không phân biệt ai cả. Ở đây có con nhà lao động, con nhà buôn, con nhà giàu, con công chức… Tất cả cùng nhau đến đây học hành, coi nhau như anh em một nhà, thân yêu nhau như ruột thịt, tay chân.
Tại sao con không yêu chúng bạn như chúng bạn yêu con? Anh em chơi bời thế có vui vẻ không? Ra đời gặp nhau còn tay bắt mặt mừng, chào hỏi nhau chứ! Con nghe ta nói có phải không?
Anh Bích cúi đầu sẽ nói:
- Thưa phải ạ!
Nhưng bỗng thấy anh tủm tỉm cười: thì ra anh Tư Húi vừa quay xuống làm mắt lác trêu anh.
17. Cô Giáo Của Em Tôi
Ngày 7 tháng 11
Em tôi mệt, nghỉ học mới có 2 hôm, mà cô giáo em đã đến thăm.
Anh Bá trước cũng có học cô. Nhắc đến anh, cô vừa cười vừa thuật lại chuyện bà mẹ anh có lần mang đặt lên bàn cả một rổ xà lách đầy để biếu cô, chỉ vì tháng ấy anh được lên bảng danh dự. Rồi vui chuyện, cô lại còn kể có em mang đến tặng cô cả một cái lọ đựng cá vàng, mà cô còn nuôi được sống đến nay…
Cô giáo kể chuyện có duyên, ai nghe cũng không chán. Em Huyền tôi thấy nói cô giáo đến, ngồi nhỏm dậy uống ực một hơi hết cốc thuốc đầy. Chả bù với mọi khi, cô ả còn ưỡn ẹo mãi, chẳng chịu uống cho. Dạy lớp mẫu giáo như cô thật là vất vả! Một lũ lau nhau, động một tí thì nhè mồm ra. Suốt buổi «ê, a» vài chữ rồi thưa với gửi suốt ngày, nào đổ mực, nào quên bút, quên sách; chưa dỗ xong đứa nọ đã đến đứa kia, đứa đòi đi giải, đứa đòi uống nước, thôi thì bận bịu chẳng khác gì con mọn.
Mỗi chị vú chỉ phải coi sóc có một đứa, chứ còn cô trông nom cả một bầy hàng bốn năm chục trẻ, hò hét luôn mồm, dạy dỗ, uốn nắn thế nào cho biết đọc, biết viết, cho ngoan ngoãn, nết na.
Còn lũ trẻ! Ngoan cũng có, mà hư cũng nhiều. Cứ mở cặp chúng ra khám là đủ thứ: sỏi, kẹo, bi, rồi cúc áo, nút chai, chẳng thiếu thức gì… Có đứa vác cả ve sầu vào lớp để bất thình lình ve kêu ầm lên. Có đứa nghịch tinh đút châu chấu vào lọ mực để nó bay lên, vẩy mực vung cả lên tường, lên áo…
Thế đã xong tội đâu! Cô còn thay mẹ chúng làm đủ mọi việc: mặc áo, cài khuy, lau mũi, trông cho chúng học, coi cho chúng chơi, nhìn cho chúng lấy mũ, áo, kẻo lầm… chẳng còn thiếu việc gì không đến tay cô. Vậy mà thỉnh thoảng còn có bà mẹ đến phàn nàn rằng con mất bút, con dây mực, hoặc con học chậm. Thậm chí còn có bà đến trách rằng con bà học khá thế mà không được lên bảng Danh dự, hoặc không nhổ cái đanh ở góc bàn đi, làm con bà thủng cả đũng quần.
Một đôi khi, không thể nhẫn nại được nữa, cô có rầy la lũ trẻ, để rồi nhìn chúng khóc mà hối hận. Có đứa cô dọa mách ông Đốc đuổi ra khỏi trường, nhưng thấy nó sụt sịt, cô lại phải mất công vỗ về cho nín. Đôi khi cô còn trách cả những bậc phụ huynh nghiêm khắc, thường khi bắt chúng nhịn cơm.
Ngắm cô giáo xinh tươi, đôi mắt dịu hiền, miệng như hoa nở, mẹ tôi bảo:
- Học trò mến cô là phải…
Cô lơ đãng nhìn ra xa, chép miệng ngậm ngùi:
- Ấy thế mà có đứa lên đến lớp trên là quên cô giáo, gặp chẳng thèm ngả mũ nữa. Các em đó học lên cao tưởng chào cô giáo lớp dưới là xấu hổ. Riêng tôi, tôi cũng chẳng để ý; chỉ biết rằng gần chúng suốt một năm trời, chăm nom, dạy dỗ chúng, đến khi chúng lên lớp khác, không được trông thấy chúng hàng ngày, tưởng buồn đến héo ruột, héo gan. Có một vài đứa, tôi nghĩ thầm: «Ừ! Thằng bé này coi bộ nhớ đến ta mãi đây!» Nhưng năm sau, học lớp khác rồi, nó trông thấy tôi như gặp người lạ.
Nói rồi cô quay sang em tôi, hôn chụt vào má, mà bảo:
- Huyền của cô không thế nhỉ! Huyền nhớ cô giáo mãi phải không?
18. Lòng Cha
Ngày 11 tháng 11
«Dũng ơi! Sao con lại mặt sưng mày sỉa với cha như hôm qua thế nhỉ? Sở dĩ Ba cấm con xem tiểu thuyết nhảm vì nó rất hại cho trí óc còn non nớt của con, chẳng khác gì một liều thuốc độc.
Con có biết rằng mẹ thấy con cau có khi bị Ba mắng mỏ, mà mẹ chết trong lòng không? Con hãy nghĩ đến một ngày kia, lúc cha con hấp hối trên giường bệnh, gọi con vào mà bảo:
- Dũng ở lại, Ba đi đây!
Hỡi ơi! Lời vĩnh biệt cuối cùng của người cha sắp lìa bỏ cõi đời, con có can đảm bình tĩnh nghe không, hay sẽ làm con tan nát cõi lòng mà bật ra tiếng khóc?
Thế rồi, suốt đời con, cho đến khi con nhắm mắt, lời nói ấy sẽ theo rõi con hoài, ám ảnh con mãi mãi, làm cho con khổ sở, tự mắng mình đã có lúc bạc bẽo với cha.
Con chỉ biết cha con nghiêm khắc, đôi khi mắng phạt con, rồi tủi thân, con khóc; nhưng con không biết rằng, những lúc thấy con đau khóc, Ba con phải ngảnh mặt đi mà gạt thầm giọt lệ.
Con ơi! Hãy nhớ lại những năm sống vất vưởng ở ngoài hậu phương, một mình cha vất vả lo sinh kế cho cả gia đình để mẹ con ta được no ấm. Chắc con chưa quên những lúc trước làn súng giặc, cõng con trên lưng, Ba con lội bùn, vượt ruộng, đi hàng chục cây số. Như thế vì ai! Có phải vì con không? Nếu không có cha con thì mẹ con ta sẽ phải khốn đốn thế nào rồi?
Con đâu có biết những lúc Ba ốm đau sầu não, mà trông thấy con vẫm phải gắng gượng làm vui! Mà nếu Ba có lo, có sợ, ấy cũng chỉ vì nghĩ rằng, nếu chẳng may chết đi, thì để lại các con côi cút, bơ vơ, không nơi nương tựa.
Đã biết bao lần, ý tưởng đen tối ấy quay lộn trong đầu, kiến Ba con có những đêm thức giấc mà thở ngắn, thở dài. Mẹ còn nhớ, có một đêm nằm trong bệnh viện Bạch Mai, cha mơ thấy con đau nặng, thế là Ba tung chăn ngồi lên khóc nấc. Ấy chỉ mới tưởng tượng thấy con ốm mệt, mà cha con đã kinh sợ thế rồi, đủ biết cha thương con đến thế nào!
Những lúc phiền lòng, những cơn đau đớn hay những khi thất vọng trong công việc hàng ngày, cha con có các con để làm nguồn an ủi, và nếu các con hư hỏng, ấy là làm cho cha con chán đời, không thiết sống.
Đây là những lời Ba viết cho các con, để đề tựa một cuốn sách mà Mẹ muốn chép ra đây cho con suy nghĩ:
Các con,
Nhà ta, đã bao đời nay sống một cuộc đời thanh bạch. Nên đến cha cũng không còn có gì để lại cho các con.
Mà những người đau ốm như cha thì chẳng hy vọng sống được trên đời mấy nỗi. Như vậy các con sẽ phải bơ vơ, không người dìu dắt. Vậy cha phải để lại cho các con cái gì đây?
Không phải là nhà văn, cha chỉ có thể mượn sách nước ngoài, viết quyển sách này cho chị em con đọc. Cuốn sách này để lại, thì dù không còn cha nữa, các con vẫn hưởng được lời cha muốn nói.
Trong lúc viết, luôn luôn cha nghĩ đến các con, nên văn dù không hay, mà thực đã viết ra với cả một tấm lòng.
Nếu sau này lớn lên, chị em con hiểu được ý nguyện của cha qua những dòng chữ viết trong đây, biết thương Mẹ, yêu nhau, biết giữ gìn danh dự của nhà vả trở nên những người hữu ích, ấy là thỏa lòng cha mong ước.
Cầu cho các con nhiều nghị lực để chóng thành công!
Ba của các con
Ấy đó, con đã hiểu lòng Ba chưa? Con ngoan ngoãn bao nhiêu thì liều thuốc bổ cho cha công hiệu bấy nhiêu, để cho Ba con đủ sức chống lại với những nỗi thất vọng, ưu phiền.
Con ơi! Hãy thương cha, đừng làm cho cha con phải âu sầu phiền tủi. Cha con đã chẳng đau ốm lắm rồi sao? Nếu con chẳng nghe lời cha khuyên, mẹ dậy, cứ đọc sách nhảm nhí, cứ bướng bỉnh hư lười, ấy là con sẽ giết cha.
Nếu mất cha, thì gia đình ta sẽ tan nát, mẹ cay đắng, lầm than, các con cũng phải bơ vơ thiếu thốn. Nếu mất cha rồi, các con mới biết thương cha, thì ôi thôi! Muộn quá mất rồi, biết đời thủa nào con quên cho được?
Dũng ơi, hãy vào tìm Ba con đi, ôm lấy cổ cha con mà xin Người tha thứ, để chuộc tội lấy một phần trong muôn một.
19. Gương Hiếu Học
Ngày 26 tháng 11
Cha tôi đã nguôi giận, tha thứ cho tôi cũng như bao lần khác. Nhưng thấy tôi vẫn còn đứng ngồi áy náy không vui, mẹ rôi cho phép tôi đến chơi nhà bạn.
Tôi còn thẫn thờ ngoài phố, chưa biết đi đâu, bỗng nhiên có tiếng gọi. Tôi ngảnh lại. Anh Tý vẫn cái mũ nồi cũ chụp trên đầu, giơ tay vẫy tôi mà cười. Mồ hôi, mồ kê nhễ nhại, anh ta đang lễ mễ vác những bó củi từ trên xe bò xuống, để xếp thành đống ở góc nhà.
Gặp anh, tôi hoan hỷ tiến lại:
- Tý đấy à! Làm việc thú nhỉ !
Anh nhoẻn miệng cười, giơ tay đỡ bó củi của người đánh xe đứng trên chuyển xuống:
- Thú lắm chứ! Tý vừa làm vừa học cơ mà!...
Nghe anh tôi phát phì cười. Nhưng Tý không nói đùa, anh vừa xếp củi, vừa nhẩm lại bài Việt sử: Ông Lê Lợi người anh hùng áo vải đất Lam-Sơn…
Anh chạy ra xe, nhẩm tiếp: Thấy gặc Minh tàn sát dân ta khổ sở…
Anh lại ôm củi trở vào hàng… Ông đứng lên kéo cờ khởi nghĩa, quyết ra tay thu phục sơn hà, dựng nền độc lập…
Như cái máy, chạy đi, chạy lại, chỉ mười phút sau, xếp củi xong thì bài học đến câu cuối cùng.
Anh nghiêm nét mặt, xoa tay:
- Hôm nay mẹ Tý ốm, thầy Tý mắc đi lấy hàng, Tý phải trông nom hàng họ, cơm nước… vừa làm vừa học, không biết có xong được không? À có phải bài toán «đáp số 12 lít» phải không? Tý mới dáp thôi, chứ chưa chép vào sách… Lại còn bài Văn Phạm nữa, cha chả là khó!
Rồi anh quay bảo người đánh xe:
- Thầy tôi dặn đến mai tính tiền trả ông. Mai mời ông đến nhé!
Chiếc xe đi khỏi, anh nắm tay tôi:
- Vào đây đi, Dũng đi!
Tôi vui vẻ theo Tý vào trong nhà. Gian ngoài khá rộng, mỗi góc xếp một đống củi cao. Cạnh lối đi có một cái cân bàn.
- Gớm, hôm nay bận quá Dũng ạ. Tối tăm cả mặt mũi. Không lúc nào Tý ngồi yên được một chốc để làm cho xong bài. Học cũng tứng câu một, làm cũng từng mẩu một, ấy thế mà rồi cũng xong đấy! Tý còn đang lo ngày mai thi vẽ, cái tay khuân mãi củi, cứng nhắc thế này này… có chết không hả Dũng, chỉ lo «đội sổ» thì nguy!
Vừa nói anh vừa cầm chổi vun mấy đống rác vào một góc. Thấy anh nói làm bài, học bài mà tôi nhìn quanh quẩn chẳng thấy có cái bàn nào. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thế không có bàn, Tý làm việc ở đâu?
- Đây, Dũng vào đây mà xem.
Thì ra bàn kê sau cái tủ. Mặt bàn còn la liệt những sách cùng vở. Tý ngồi vào bàn, tay cầm bút, miệng nói:
- Bàn của Tý đây. Có sang không? Ấy cứ làm từng đoạn, hễ nghĩ được câu nào, chờ lúc rỗi thì mới lại viết…
Rồi anh lại lẩm bẩm đọc, tay hí hoáy viết:
- «Bổn phận chúng ta ở nhà phải giúp đỡ cha mẹ… gì nữa nhỉ ?... À, phải yêu mến và vâng lời cha mẹ…
Chợt có tiếng người gọi cửa:
- Có ai bán hàng đây không?
Tý vội đặt bút xuống, ngó ra. Đó là một bà đến mua củi. Cân kẹo xong, Tý nhận tiền đếm bỏ vào ngăn kéo:
- Khổ quá, thế này mai cũng chẳng xong…
Rồi Tý lại ngồi vào bàn, viết tiếp: Ở trường chúng ta phải chăm chỉ học hành…
Nhưng viết chưa xong câu, Tý đã đứng lên. Siêu thuốc của bà mẹ đặt ở góc nhà đang bị trào; bọt thuốc trong ấm trào ra, rớt xuống than hồng cháy xèo xèo.
- Có lẽ thuốc của mẹ Tý đã được. Để Tý mang vào cho mẹ Tý uống… Ta còn phải lễ phép với thầy, tử tế với bạn, phải thêm câu ấy mới đủ ý, Dũng nhỉ?
Rót thuốc ra cốc, Tý mở cửa đưa tôi vào ngăn trong.
- Thưa mẹ, thuốc đã được rồi đây ạ.
Mẹ Tý chống tay ngồi dậy. Anh giới thiệu tôi:
- Mẹ ạ, đây là Dũng, bạn cùng lớp với con.
Bà mẹ Tý, dựa lưng vào tường, nhìn tôi mệt nhọc nói:
- Cậu đến chơi với em đấy ư? Rót nước mời cậu sơi chưa con?
Tý nói «đã» rồi ngồi xuống bên giường, lấy gối đặt vào lưng cho mẹ dựa, tay cầm quạt phe phẩy. Chờ mẹ uống thuốc xong, Tý cầm cốc đứng lên:
- Mẹ nghe trong mình hôm nay thế nào? Có đỡ sốt không? Đến 7 giờ tối, mẹ lại uống một nước nữa. Mai con đi cân thuốc sớm cho mẹ. Lúc nãy họ xe củi đến, con đã xếp gọn đâu đấy cả rồi. Chừng 5 giờ con múc cháo mẹ sơi. Chốc nữa hang bún vịt đi qua con sẽ nhớ trả họ 3 đồng còn thiếu lại hôm qua. Mẹ cứ yên tâm nằm nghỉ mẹ nhé, mặc con.
Bà mẹ trìu mến nhìn Tý, chép miệng nói:
- Mẹ chẳng nghỉ thì mẹ làm gì được? Con mẹ ngoan quá!... Mẹ ốm chưa dậy được, để con vất vả, mất cả sự học, mẹ chẳng đành lòng. Nằm mãi sốt ruột quá đi mất!
Tý đứng lên, chỉ cho tôi xem bức ảnh của cha mặc binh phục, đeo lon hạ sĩ với chiếc anh dũng bội tinh ở trước ngực sau những chiến công lập được trong cuộc tiễu trừ phiến loạn. Hai cha con giống nhau như đúc, cũng cái trán dô, con mắt sáng, cái cầm vuông, không lẫn được. Chúng tôi trở ra cửa hàng. Bỗng Tý phát vào vai tôi:
- Còn thiếu Dũng ạ, phải nói thêm: sau này nhớn lên, giúp ích cho nhà, cho nước. Dũng nghe thế đã được chưa?
Nói xong, chẳng chờ tôi trả lời, Tý ngồi vào bàn, hý hoáy viết:
- Chỉ Dũng là khoái, đã thừa thì giờ để học, lại thừa thì giờ để chơi! Viết xong, Tý gấp vở vào:
- Thôi còn để đến tối, Tý làm nốt.
Nói rồi anh cầm mảnh ván mỏng, ngắm nghía một lát, rồi lấy cưa cắt ra làm hai, vừa cười vừa nói:
- Tý tập thể thao đấy Dũng ạ! Vận động thế này chỉ một loáng là “kiến bò bụng”, chốc ăn cơm ngon ra phết. Còn mấy tấm, Tý ráng làm cho xong, trước khi thầy Tý về. Tay chân cứng queo thế nầy chả trách chữ xấu, thầy giáo mắng là phải.
Tý chép miệng:
- Chà! Quý hồ mẹ Tý chóng khỏi là mừng rồi. Còn bài Văn Phạm sáng mai Tý dậy sớm học vậy. Tý nghiệm sáng sớm học bài chóng thuộc! Dũng cứ về thử mà xem, chóng lắm cơ!... À mà kìa, họ đã xe than đến, để Tý thu xếp cái của này cho xong đã. Thôi Dũng đi chơi nhé! Đi chơi cho vui nhé! Để bận khác ta nói chuyện lâu. Thôi chào Dũng “con ngườisung sướng”!
Anh mỉm cười, chạy ra xe than. Tôi còn đứng lại một lúc nữa ngắm anh làm việc, nhanh thoăn thoắt, nụ cười luôn luôn nở trên môi.
Tý bảo tôi là “người sung sướng”! Nhưng không, chính Tý mới thật sung sướng hơn tôi. Tý sung sướng vì Tý biết dùng thì giờ, có ích cho nhà, có hiếu với mẹ.
Tý gấp một trăm lần Dũng. Dũng chẳng đời nào bén gót Tý đâu!
20. Ông Hiệu Trưởng Trường Tôi
Ngày 19 tháng 11
Anh Tý sáng hôm nay hẳn lấy làm hài lòng được ông Hiệu Trưởng gọi xuống bàn giấy khen vì sự cố gắng của anh. Xếp hạng thứ 40 dạo đầu năm, tháng này anh đã lên thứ sáu, ai cũng phải ngợi khen.
Trường tôi có tất cả 18 thầy giáo, kể cả một thầy giáo mới còn trẻ lắm. Còn ông Hiệu Trưởng chúng tôi người cao lớn, đầu hói, vẻ người nghiêm nghị, lúc nào cũng đeo “nơ” hay “cà vạt” chỉnh tề.
Ông đặc biệt có bộ ria hoa kỳ lơ thơ điểm trắng, cặp mắt lanh lợi sau đôi mắt kính gọng vàng, và giọng nói oang oang như cái lệnh vỡ. Luôn luôn ông hò hét, đe phạt học sinh, có khi dọa bỏ tù chúng nữa; nhưng chẳng thấy ông phạt ai bao giờ, và trông thấy lũ nhỏ sợ xanh mắt lại thì ông khoái chí cười thầm.
Thoáng trông thì tưởng ông dữ lắm! Nhưng chỉ gần ông một lát là biết ông đầy lòng thương trẻ. Khi có đứa vì lầm lỗi phải đưa vào buồng ông. Trông thấy nó mặt mày tái mét thì ông không nỡ mắng bao giờ. Ông xoa đầu hay cầm tay mà hỏi. Ông cắt nghĩa cho chúng nghe, thế nào là phải, thế nào là trái, điều nào nên làm, điều nào nên tránh. Giọng ông ngọt ngào, nhưng thấm thía, khiến có đứa lặng nghe ông nói, rồi nức nở xin chừa.
Ở văn phòng ông ra, coi bộ chúng sầu não chẳng khác gì đã phải đòn, người ta có cảm tưởng rằng chúng đã ăn năn hối hận.
Đáng phục thay, ông Hiệu Trưởng của chúng tôi!
Ở trường, bao giờ ông cũng là người đến sớm nhất, và về muộn nhất! Lúc vào học thì ông đứng trên hè cao, tay chắp sau lưng, nhìn đàn học sinh lũ lượt kéo vào lớp. Buổi tan học, các thầy giáo về rồi, ông còn đi quanh trường, chỉ sợ có đứa mải chơi quên về, hay mang nhau ra đấy làm nơi đấu võ.
Cứ thấy thoáng bóng ông ở góc phố ra là y như người ta thấy một lũ trẻ chạy toán loạn như có ma đuổi, vất lại cả bi, cả cặp, cả mũ. Ngón tay của ông giơ lên dọa chúng từ phía xa, nhưng vẻ mặt từ bi, cặp mắt nhìn chúng buồn rầu, biểu lộ cả một tấm lòng trời biển bên trong.
Ba tôi bảo không thấy ông cười bao giờ từ ngày ông được tin con trai ông, một sĩ quan trẻ tuổi trong quân đội Cộng Hòa đã vinh dự bỏ mình ở ngoài mặt trận. Hèn nào mà có lần tôi bắt gặp ông, mắt đò hoe, chăm chắm nhìn vào tấm ảnh một người thanh niên tuấn tú đặt ngay trên bàn giấy.
Khi được tin đau đớn áy, ông thẫn thờ chán nản muốn xin từ chức ngay. Hôm cha tôi vào thăm ông, thấy đơn xin nghỉ để trên mặt bàn, cha tôi khuyên ông hết điều và tỏ lòng mến tiếc ông, cũng như bao vị phụ huynh khác.
Vừa khi ấy, chợt một người bước vào, tay dắt con đến xin học. Trông thấy cậu bé, ông giựt mình đứng lên, hết nhìn vào mặt nó lại nhìn vào tấm ảnh trên bàn: hai khuôn mặt giống nhau như đúc!
Ông ngồi xuống, vẻ mặt đăm chiêu. Cha tôi nhân dịp nói:
- Thôi cụ nghe chúng tôi! Đừng xin về nữa! Cụ có về mối buồn sẽ chẳng khuây nào, à sợ còn tăng thêm nhiều nữa. Cụ mất một người con thật, nhưng ở đây, cụ còn có bao nhiêu con khác….
Ông Hiệu Trưởng khẽ thở dài, ngây người ra một phút, rồi cầm đơn xé làm hai mảnh…
21. Vì Nước
Ngày 23 tháng 11
Con trai ông Hiệu Trưởng chúng tôi, trong một trận tấn công vào đồn địch, đã ngã trong danh dự. Vinh thay cái chết của người thanh-niên yêu nước!
Bởi thế người cha đau khổ ấy có muốn nhớ con chỉ còn cách là ngày ngày lượn qua cổng trại, ngắm binh sĩ ra vào. Nhất là những ngày quốc tế, có diễu binh, thì dù bận thế nào, dù xa đến đâu, người ta cũng thấy ông có mặt.
Bữa chiều qua, một đoàn chiến sĩ vừa đi tảo thanh đâu về, qua cửa trường, kéo theo sau một đoàn trẻ nhỏ. Bọn chúng tôi đủ mặt, đứng lố nhố trên hè nhìn theo: anh Tôn cái đầu to lớn lắc lư, miệng nhồm nhoàm ngoạm bánh, anh Bích quần lành áo tốt đứng cạnh anh. Còn lúng túng trong cái áo quá khổ, có cả anh Tư Húi, anh Vân, anh Sỹ đầu trọc tếu, anh Pha bộ mặt gân gỗ… Tất cả chúng tôi đứng trố mắt ra nhìn.
Bỗng có tiếng cười khanh khách: thì ra anh Pha nhạo một người lính chân bị thương, đang đi khập khiễng. Nhưng tiếng cười bỗng ngưng bặt. Một bàn tay đặt lên vai làm anh câm miệng: ông Hiệu Trưởng đã đứng sau lưng anh ta lúc nào không biết, nét mặt nghiêm nghị và lạnh lùng như sắt đá:
- Này con! Con có biết rằng chế nhạo một người lính như thế là hèn nhát không? Mà lại là người lính bị thương đi trong hàng ngũ, thì lại càng hèn lắm nữa.
Anh Pha đỏ bừng mặt lên, lung túng toan tìm câu chống đỡ thì ông lại trỏ những người lính xếp hàng tư, nhễ nhại mồ hôi, áo quần tơi tả, đang đi hùng mạnh trên đường, dịu giọng nói tiếp:
- Các con ạ! Các con phải kính trọng những người lính kia mới được. Phải mến yêu họ vì họ đem tính mạng để chống với quân xâm lăng tàn ác, bảo vệ chúng ta. Giờ đây, nếu các con được êm đềm sống dưới mái gia đình ở một góc trời Nam đất Việt này là công ở những người chiến sĩ anh hùng ấy. Không có họ, các con đâu có diễm phúc yên ổn ngồi đây mà học tập với thầy, vui đùa với bạn.
Hy sinh vì chính nghĩa, đấu tranh cho xứ sở, họ ngày đêm sống kinh hoàng ngoài mặt trận, kề bên cái chết sau lưng. Hỏi còn có gì đánh giá được không? Mà hy sinh như thế vì ai? Vì chúng ta. Hy sinh để đem lại tự do, cơm áo cho các con, cho tất cả chúng ta; các con có biết không? Sẵn sàng chết để bảo vệ cái sống cho giống nòi, còn gì thiêng liêng hơn những hành động cao cả ấy!
Họa xâm lăng đe dọa xứ sở trong khi dân tộc Việt Nam mới trưởng thành, vậy cần phải có những con người dũng cảm ấy để chận đứng mọi mưu mô xâm lược, đồng thời mưu hạnh phúc cho toàn dân. Các con sao lại đem lòng rẻ rung những bậc anh hùng như vậy?
Những chiến sĩ ấy cũng chỉ hơn các con chừng năm bẩy tuổi, đã từng đi học, hoặc còn đang đi học như các con, giầu có, nghèo có, thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, ở tất cả các miền kéo đến, cùng mang nặng tấm lòng yêu nước như nhau.
Lớp người này gục xuống, lớp người khác tiến lên, số người tuy thay đổi, nhưng chính nghĩa không đổi thay… Tất cả phụng-sự dưới một lá cờ, cho một lý tưởng cao siêu. Trước đây, và còn mãi nữa, bao nhiêu máu đã đổ để nhuộm thắm sắc cờ…
Bỗng anh Tôn reo lên: Cờ đây rồi!
Quả thật lúc ấy ngọn quốc kỳ đã tới, phất phới tung bay để lộ ra một hàng bội tinh long lánh.
- Nào các con, hãy cùng ta đứng nghiêm chào quốc kỳ!
Viên sĩ quan cầm cờ liếc sang bên cạnh, nhìn chúng tôi sẽ gật đầu. Bỗng có tiếng nói đằng sau:
- Hoan hô tinh thần yêu nước của các em!
Chúng tôi ngảnh lại. Đó là một cụ già, ngực đính mẩu huy chương. Cụ mỉm cười:
- Là cựu chiến binh, già rất cảm động trước cử chỉ đẹp ấy của các con! Kẻ nào còn bé đã biết trọng quốc kỳ, nhớn lên sẽ biết hy sinh cho xứ sở!
Chúng tôi còn đứng lặng nhìn nhau thì ông Hiệu Trưởng đã nói tiếp:
- Trọng quốc kỳ chưa đủ. Thấy một người lính đi qua, các con phải kính cẩn nhường bước và tự bảo rằng: “Đây là một anh hùng, sẵn sàng chết để bảo vệ chúng ta”.
22. Che Chở Bạn
Ngày 28 tháng 11
Anh Ninh hôm qua cũng có mặt lúc đoàn binh sĩ diễu qua. Trở vào trường, anh cứ suýt soa phàn nàn vì nỗi tàn tật, chẳng được diễm phúc như ai, khoác bộ binh phục trên vai, để đáp đền nợ nước.
Ấy cũng vì gày còm, ốm yêu mà anh học hành chậm tiến, tuy chăm chỉ vào bực nhất lớp. Thương con tàn tật, má anh ngày nào cũng đến đón anh, sợ lũ hoc trò ma quái chòng ghẹo.
Mấy ngày đầu năm, một vài anh ác tâm, thường va vào cái bướu sau lưng của anh; nhưng biết thân phận, anh cứ im thin thít, lùi lũi bước đi, chẳng nói nửa lời, mà cũng chẳng dám than phiền cùng mẹ, sợ mẹ buồn lòng. Chúng bạn chòng ghẹo anh bao nhiêu anh chỉ ấm ức khóc thầm bấy nhiêu.
Có lần anh Tôn bắt gặp anh đang dấu mặt đi lau nước mắt. Anh tức lắm, đe các bạn:
- Từ rày bác nào còn giở cái trò “bắt nạt gà nhà” với anh Ninh thì đừng có trách! Ra cổng trường, thằng Tôn này sẽ cho biết tay. Dù có cha mẹ các anh ở đấy ta cũng bất cần. Thử xem có bố mẹ nào bênh con như thế không?
Từ đó, dưới sự che chở của anh Tôn, anh được yên thân ở trường, chẳng ai dám đả động tới anh, mà anh cũng yên lòng chơi bời với chúng bạn.
Có một hôm, thầy giáo mắc đi họp, cho về sớm một giờ. Má anh Ninh vì thế chậm đón anh. Anh Tôn phải đưa về đến tận vườn hoa Đề Thám, bấy giờ mới chịu chia tay.
Có lẽ không được yên tâm, tôi cùng anh đã đi được một quãng xa, lại thấy anh rủ tôi quay lại. Vừa lúc ấy một lũ trẻ đang vây tròn lấy anh Ninh mà trêu ghẹo. Đứa thì giằng cặp, đứa thì xoa hai tay vào cái bướu của anh mà hát “Bà còng đi chợ trời mưa! Ha!... ha!... chúng bay ơi!”
Thế rồi tụi trẻ vỗ tay reo ầm ỹ. Anh Ninh chẳng biết làm thế nào, cứ đứng ôm mặt khóc hu hu, mặc tình cho chúng hành hạ.
Nhưng anh Tôn đã phi như ngựa tế đến. Anh vừa chạy, vừa gọi to lên:
- Đừng hãi! Tôn đây rồi!
Giữa lúc ấy, một đứa đang nhại anh Ninh:
- Hu! Hu! Khổ thân em bé quá nhỉ! Ra đây anh dỗ bé nào!
Anh Tôn hét lên:
- Này các chú! Bỏ cái kiểu bắt nạt nhau thế đi!
Cậy đông, một đứa lớn nhất trong bọn, cơ chừng là đầu đảng, vênh mặt lên:
- Gọi ai là chú thế? Việc gì đến cái nhà anh nào?
Mấy đứa khác châu châu lại:
- Thế mới là chõ mõm!
- Rọ sinh sự, sự sinh chửa!
Anh Tôn điềm nhiên mở cặp, rút cái thước sắt ra. Tôi sợ quá, cầm lấy tay anh. Nhưng anh gạt đi, đưa cặp cho tôi giữ. Rồi cầm ngang thước sắt trong tay, anh bảo:
- Coi đây này!
Rồi anh nghiến răng, bẻ cong cây thước, quăng xuống đường đánh «koong» một tiếng.
Tôi rùng cả mình. Lũ trẻ nhớn nhác nhìn nhau, toan chạy. Nhưng tên đầu sỏ có lẽ muốn sĩ diện là oai với đàn em, cầm ngay cái vỏ quít ném vào mặt anh Ninh.
Lập tức, Tôn sấn lại, nắm cổ áo gã, chẳng nói chẳng rằng, lẳng mạnh cho một cái, anh chàng ngã bắn đi ba vòng. Thế là cả lũ ôm đầu hò nhau chạy vào ngõ hẻm…
Chuyện ấy đến tai thầy giáo. Thầy bèn đặt hai anh ngồi bên nhau và cho anh Ninh vào cùng đội với anh Tôn. Từ bữa đó, trong trường, ngoài phố, chẳng còn ai dám chòng Ninh nữa, và hai bạn trở nên thân nhau.
Khi Ninh có đánh rơi quyển sách hay cái bút xuống gầm ghế thì anh Tôn đã nhanh nhẹn nhặt lên, sợ bạn cúi xuống mệt. Giờ về thì Tôn thu xếp hộ sách vở vào cặp, rồi lấy mũ cho, chẳng hôm nào quên.
Bởi thế, Ninh mến Tôn hết sức, với cả một tấm lòng biết ơn của một người em chẳng may tàn tật. Bao giờ về, Ninh cũng chào «Anh về nhé!» và Tôn thì bảo «Thôi Ninh về!» Câu ấy chẳng bao giờ quên. Thường khi nói chuyện, Ninh xưng «em» với Tôn, và nhắc anh, thì nói: «anh Tôn của tôi», coi Tôn chẳng khác gì anh ruột.
Mỗi lần Tôn được thầy khen, là mắt Ninh sáng lên vì sung sướng, rồi quay lại nhìn Tôn mỉm cười, tưởng như chính mình được khen vậy.
Có lẽ Ninh đã thuật lại với má anh về Tôn, nên buổi sáng hôm nay tôi được mục kích chuyện sau đây:
Lúc đó sắp tan học, thầy giáo sai tôi cầm tờ công văn xuống văn phòng ông Hiệu Trưởng. Chợt thấy má anh Ninh vào, xin cho gặp anh Tôn. Anh Tôn thấy gọi ngạc nhiên, tất tả chạy xuống. Má anh Ninh vừa trông thấy anh rơm rớm nước mắt hỏi:
- Anh đấy ư? Anh vẫn bênh vực em đấy phải không?
Nói rồi bà cởi sợi dây vàng đeo vào cổ cho anh:
- Anh nhận lấy sợi dây này để kỷ niệm lòng biết ơn của một người mẹ. Anh có biết rằng che chở bạn như thế là quý hóa không?
Bà chưa nói hết câu thì anh Tôn đã cầm sợi dây, lễ phép trao lại tay bà:
- Thưa bà, đó là bổn phận của cháu. Cháu xin cảm ơn, nhưng thật tình cháu không dám nhận.
23. Người Học Trò Đầu Lớp
Ngày 30 tháng 11
Anh Tôn chiếm được lòng yêu của mọi người, thì anh Sinh chiếm được giải nhất hàng tháng, làm vinh dự cho đội Quang Trung của anh. Bài thi nào anh cũng đứng đầu, tháng nào anh cũng đeo huy chương «HỌC GIỎI» và lĩnh cờ danh dự về cho đội. Anh giỏi quá, chẳng ai đối địch được với anh, nên chẳng những huy chương «HỌC GIỎI» mà đến cờ danh dự, từ đầu năm, cũng chưa đội nào cướp được.
Anh giỏi cả mọi môn, Sử, Địa, Toán, và nhất là Việt văn… cái gì anh cũng trội. Anh có trí nhớ phi thường và bộ óc thông minh xuất chúng. Đã thế, anh lại chăm học nữa, và bài khó đến đâu đối với anh chỉ là trò chơi.
Thầy thường bảo anh:
- Con được trời phú cho khối óc thông minh hơn các bạn, phải ráng học hành cho thành người hữu ích. Hãy cố tâm dìu dắt các bạn và đừng có tỏ ra là con người tự đắc.
Lời thầy dạy, anh cúi đầu vâng lĩnh và luôn luôn cố gắng. Vì thấy anh vượt tất cả mọi người, nên cũng như anh Vân, tôi thường ghen thầm với anh. Có nhiều lúc tôi cảm thấy tức tối, khổ sở. Nhất là những buổi tối, trước một bài tính khó, tôi còn nát óc chưa tìm ra đáp số thì tôi ấm ức nghĩ rằng có lẽ Sinh đã làm xong từ lâu rồi. Thế là tôi cứ lồng lộn lên vì ghen tức.
Nhưng đến lớp, khi trông thấy anh vui vẻ, tươi cười với tất cả mọi người, khi thấy anh ân cần, nhẫn nại giảng bài cho các bạn, thì lòng ghen tức bỗng tiêu tán mất cả, và tôi tự mắng thầm cho cái tính hèn hạ của mình.
Tôi những muốn gần anh luôn luôn, muốn được học cùng một lớp với anh mãi mãi để được noi gương anh, và để được thêm can-đảm trong việc học hành.
Nhất là hôm nghe thầy kể những chuyện đói năm Ất Dậu do Thực dân, gây ra, tôi thấy đôi mắt anh long lanh ướt lệ. Tôi tự bảo thầm:
- Đó là kẻ có lòng, đáng là bậc anh cả soi đường chỉ lối cho ta.
24. Lòng Thương Kẻ Khó
Mồng 1 tháng 12
Sáng nay lúc đến đón con ở trường về, mẹ thấy một người đàn bà nghèo khó, tay bế con thơ, tay ngả nón xin tiền, mà con cứ lẳng lặng bước đi, chẳng thèm ngoái cổ.
Con ơi! Chớ có thái độ lạnh lùng trước sự nghèo khó, nhất là trước một người mẹ ngửa tay xin miếng cháo cho con. Đứa trẻ ấy đang đói lòng, người mẹ ấy đang xót xa, sự thờ ơ của con làm cho họ tủi nhục nhường nào!
Có lẽ vì con còn nhỏ, nên quên rằng những năm gần đây, khi gia đình ta sa sút vì chiến tranh, lang thang lưu lạc ngoài hậu phương, nếu không nhờ được lòng từ thiện của đổng bào giúp ta nơi ăn, chốn ở, thì đâu còn có ngày nay!
Mỗi khi mẹ cho tiền kẻ khó, bao giờ họ cũng cám ơn và thành khẩn cầu chúc cho gia đình ta được Trời Phật độ trì. Cứ mỗi lần được nghe những lời thiết tha ấy phát ra tự đáy lòng kẻ khó, mẹ thường tự bảo:
- Kẻ khó ấy đã trả ta quá nhiều so với đồng tiền nhỏ mọn mà ta giúp họ.
Dũng, con ạ! Hãy bớt ra vài cắc ăn quà để đặt vào tay người già lão không nơi nương tựa, vào tay người mẹ đói cơm, hay vào tay đứa nhỏ bơ vơ côi cút.
Kẻ khó thường thích của bố thí của trẻ, vì của bố thí ấy không làm họ tủi lòng. Của bố thí của người lớn chỉ là bởi lòng nhân đạo, nhưng của trẻ mới thật do lòng thương yêu kẻ khó mà ra, cho nên đồng xu của đứa trẻ nhỏ đưa ra, tưởng như kèm theo một bàn tay mơn trớn.
Con nên nghĩ rằng: con nhờ ơn cha mẹ chẳng thiếu thức gì, nhưng họ, họ thiếu thốn đủ mọi điều. Trong khi con còn có những ước vọng cao xa, thì họ chỉ mong được bữa no lòng.
Này con! Trong đô thành này, nhà cao, cửa rộng san sát, ngựa xe lộng lẫy rập rìu, thế mà còn có biết bao người nghèo đói, cơm không đủ ăn, nhà không có ở, đấy con ạ! Mà những người ấy cũng là đồng bào ruột thịt với ta. Ta ăn no mặc đủ, trông thấy họ lầm than đói rách, ta nỡ nào ngảnh mặt làm thinh?
Dũng con ơi! Hãy nhớ lấy lời mẹ dậy. Đừng bao giờ quay mặt đi trước một người nghèo khổ, ngửa tay ra xin con bố thí!
25. Lá Lành Đùm Lá Rách
Ngày 2 tháng 12
Nghĩ lại lời mẹ tôi khuyên bữa qua mà tôi hãy còn hổ thẹn vì sự lãnh đạm của mình trước sự nghèo khó.
Bỗng tôi nghe ngoài cửa có tiếng quát tháo. Tôi tất tả chạy ra, thấy em Huyền tôi đang phồng má trợn mắt, hoa chân múa tay trước một bọn người lạ mặt, ngồi xệp dưới đất.
Thấy tôi ra, một bà cụ già trong bọn đứng lên phân trần:
- Cậu xem! Chúng tôi đâu có phải hạng người bậy bạ!...
Chưa hết câu, em tôi định sấn sổ toan nói. Tôi mắng cho em im, rồi đưa mắt nhìn bọn người trước mặt. Ngoài bà cụ già, da mặt dăn deo như quả táo khô, mình gầy như hạc, còn bốn người nữa: một người đàn ông, xanh như tàu lá, khoác chiếc áo tây vàng; tuy ốm yếu như vậy mà trông ông ta cũng không kém vẻ ngang tàng khí phách. Đàng sau, một thiếu phụ, mắt quầng thâm, vẻ cương quyết hiền hậu, đang ngồi cho con bú. Đứa trẻ, mắt dương thao láo, cố nhay cái vú đã hầu cạn sữa. Bên cạnh, một em bé lớn hơn, vẻ nhanh nhẹn thông minh, đang cầm bắp ngô mà gặm.
Nhìn đến đồ hành lý, mới thảm hại làm sao! Một cái rương đã mọt, mấy cái bị đựng quần áo cũ, một cái bồ lổng chổng mâm nồi, bát dĩa… Giang sơn chỉ còn có vậy!
Tôi còn đang ngơ ngác thì Huyền đã kéo áo tôi mà bảo:
- Nhà người ta đi vắng cả, cứ đến ngồi trước cửa là nghĩa làm sao? Tôi gạt em đi, rồi ôn tồn lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, xin cụ tha lỗi cho, chắc các cụ mới di cư vào Nam? Mời cụ quá bộ vào trong nhà cháu nghỉ chân, sơi nước…
- Thôi cảm ơn cậu, chúng tôi ngồi đây cũng được… Chúng tôi quê mãi tận Thái Bình cơ đấy, cậu ạ!... Vì loạn lạc, tôi đem gia đình chạy lên Việt Bắc, bẩy tám năm trời, đói khổ lắm. Hai thằng con trai lớn đi dân công chết bỏ xác trong rừng, còn lại thằng thứ ba ngồi kia, thì ngã nước, quặt quẹo đến hơn một năm nay. Nay chính phủ giúp đỡ di cư vào đây, chúng tôi vui mừng hết sức, nhất định gạt nước mắt rời bỏ quê hương, làng nước đi lập cuộc đời mới, chờ ngày Bắc tiến hồi hương. Nhân đi tìm người thân thích qua đây, chưa thấy, chúng tôi ngồi nhờ dưới mái hiên…
Có lẽ nhắc lại tình cảnh đau khổ của mình, bà cụ động lòng sụt sịt, đưa tay lên quệt ngang nước mắt. Tôi mủi lòng, quay lại bảo em:
- Đây là những đồng bào di cư đấy em ạ! Có lẽ em không biết chăng? Huyền vênh mặt lên đáp:
- Nhưng em trông họ có vẻ gian lắm cơ!
- Em lầm rồi! Vì em còn bé dại dột nên các cụ không chấp. Chớ có nói càn, Ba Mợ biết thì lại chết đòn. Đây là những người cùng nòi, cùng giống, cùng một ông Tổ với ta. Chỉ vì không may mà bị điêu linh khổ ải suốt mấy năm tời nay rồi. Em không động tâm hay sao?
Huyền nghe ra, cúi đầu nói:
- Thật quả là em tàn tệ!
Em đứng suy nghĩ một giây, rồi hớn hở bảo khẽ vào tai tôi:
- Anh ạ! Hôm nọ mợ cho em hai chục để mua “cúp bê”. Em biếu bà cụ một nửa nhé! Anh nhé!
Tôi cảm động, xoa đầu em mà bảo:
- Em biết thương người đồng loại như thế thì ngoan lắm. Nhân tiện anh còn tám đồng để trong ô kéo chưa tiêu đến, em cầm cả ra đây! Huyền sung sướng chạy ù vào. Chỉ một thoáng đã đem tiền ra cho tôi. Tôi hai tay cầm đưa cho bà cụ, thì bà cảm động bảo tôi:
- Cảm ơn cậu, chúng tôi vào đây đã có chính phủ giúp đỡ; chỉ ngồi nhờ tránh nắng một lát rồi đi. Cô cậu cần tiền mua sách, chịu khó học. Tổ Quốc trông chờ các cô, các cậu nhiều lắm đấy!
Chiều về, thuật chuyện lại với Ba Mợ tôi, thỉ mợ tôi bảo:
- Mợ khen các con lắm. Thế mới là “lá lành đùm lá rách”
Còn cha tôi thì ngậm ngùi nói:
- Các con ạ! Đó mới thật là những anh hùng áo vải đã treo cao gương tranh đấu cho nền tự do. Chúng ta thêm được những đồng bào ấy lo gì một ngày kia không thống nhất được giang san, xứ sở?
Tôi tuy không hiểu rõ cha tôi muốn nói gì, nhưng trông vẻ mặt người, rồi lại nhớ đến lời bà cụ nói, tôi bỗng cảm thấy có một cái gì nghiêm trọng, thiêng liêng, mà nghe như chúng tôi cũng có dự phần thì phải.
26. Anh Thủ Quỹ
Ngày 8 tháng 12
Hợp tác xã hoc sinh của chúng tôi khuyết chân thủ quỹ, và chúng tôi đồng thanh bầu cho anh Phi, anh bạn luôn luôn tính chuyện bán buôn trong đầu óc. Không một ai dám tranh cử với anh, vì tất cả đều tự thấy kém anh nhiều về phương diện ấy.
Luôn tôi thấy anh mang tiền ra đếm đi đếm lại, rồi cộng, trừ, nhân, chia, tính rất khéo trên đầu ngón tay, chẳng sai bao giờ. Tiền anh kiếm được do sự bán buôn riêng của anh, anh cất đi một chỗ, chẳng ai đoán được vốn liếng anh có bao nhiêu.
Nếu lỡ đánh rơi, chỉ một xu nhỏ thôi, thì anh tìm bằng được, dù nó nằm dưới đám cỏ dầy, hay lẩn trong khe tường kín. Gặp cái gì anh cũng nhặt: từ cái đanh ghim, lưỡi dao rỉ, cái thước gẫy, cái hộp không, cái tem thơ, bất cứ cái gì.
Ngòi bút hỏng thì anh kỳ cạch chữa lại, viết được mới nghe. Thước gẫy thì anh chắp, anh gọt; hộp không thì anh dán giấy xanh, giấy đỏ ra ngoài; lưỡi dao rỉ thì anh mài cho thật sáng, thật sắc. Có khi đem thứ này chế thành thứ khác để dùng, vì anh vốn có hoa tay.
Nhất là tem thì anh quý lắm, để riêng ra, chờ đủ bộ đem bán cho hiệu sách. Anh lại dẫn các bạn đến đó mua luôn, nên ông chủ tiệm càng chiều anh, mua gì cũng được bớt, còn giấy thẩm, nhãn vở thì anh chẳng phải mua cũng có.
Ở trường, anh luôn luôn bận việc mua bán. Ai có thừa thì anh mua lại, ai thiếu gì, anh bán cho. Mua bán thứ gì anh cũng vào sổ sách phân minh. Ngày nào ra ngày ấy, thứ nào vào thứ ấy, chẳng khác gì sổ hàng nhà buôn.
Thỉnh thoảng anh tổ chức cuộc xổ số lấy đồ, mỗi vé năm hào, mà kẻ được người thua, ai nấy đều hỉ hả.
Ở lớp, anh chỉ thích có môn toán, và anh cũng chỉ khá có môn ấy. Tính trầm anh làm rất nhanh, và công thức nào cũng thuộc lầu, nhất là về lỗ lãi thì anh thuộc trên đầu ngón tay, chẳng khác gì trông vào sách.
Các bạn bầu anh chức thủ quỹ thật là đúng chỗ! Tiền nong minh bạch, chẳng sai một đồng nào bao giờ. Điều mà chúng tôi phục anh là món hàng nào anh cũng thuộc giá, biết phân biệt thứ xấu thứ tốt, thứ cũ thứ mới, nên đồ hàng trong hợp tác xã, từ ngày có anh, bán rất chạy, số thu, số nhập vượt hẳn lên.
Anh gói ghém nhanh nhẹn chẳng khác gì nhà hàng, còn mặc cả lại càng khéo lắm, chẳng chịu mua hớ bao giờ. Có lẽ vì thế chúng tôi thường gặp anh đi chợ mua thức ăn cho mẹ.
Sở dĩ anh hay lại chơi với tôi, một phần cũng bởi cha tôi thường nhận thư của các nhà xuất bản các nơi gửi tới. Tôi vẫn xin những con tem ấy, cất đi để phần anh. Anh chỉ dẫn cho tôi biết loại tem nào quý, loại nào không, rành chẳng khác gì người trong nghề.
Những hôm anh lại chơi, cha tôi vẫn tủm tỉm ngồi nghe anh nói chuyện. Có lần anh giở cho xem cái cặp da khổng lồ của anh. Chẳng khác gì cửa hàng xén: thứ gì cũng có, xếp đặt đâu ra đấy. Anh thích nhất là quyển sách tem mà anh quý như vàng. Anh thường nâng niu nó trên tay mà bảo: “Biết đâu nó chẳng giúp Phi sau này thành triệu phú?”
Các bạn có người cho anh là biển lận, là “sét ty”, nhưng tôi, tôi không đồng ý. Gần anh tôi cũng học được lắm điều hay: sự dành dụm, sự khéo léo, sự xét đoán tinh tường…
Anh Pha thì lại càng ghét anh lắm. Anh bảo, nếu má anh Phi có ốm đau, thiếu tiền thuốc, chưa chắc Phi đã dám bỏ tập tem ra bán. Riêng tôi, tôi có cảm tưởng dù sao cái óc buôn bán của anh cũng không đến nỗi làm anh mất nhân cách con người.
Cha tôi biết chuyện, đủng đỉnh nói:
- Thì hãy chờ xem! Đã biết thế nào mà nói trước!
27. Tự Xét Mình
Ngày 17 tháng 12
Đêm đã khuya, vừa hoc bài, làm bài xong, chuông đồng hồ dõng dạc buông mười tiếng. Thế là ngày thứ Hai đã trôi qua. Tôi thu xếp sách vở đi nằm. Trước khi đi ngủ, như mọi hôm, tôi nhớ lại những việc đã làm ban ngày.
Sáng nay vì mải vui dọc đường, chợt nhớ giờ học đã tới, tôi cắm cổ mải miết chạy một mạch tới trường, thì các bạn đã bắt đầu vào lớp. Trước vẻ nghiêm khắc của thầy, tôi len lét cúi chào. May thầy tha không phạt, nhưng tôi cũng cảm thấy rằng thầy không vui lòng, và tôi tự trách mình đã quá ham chơi.
Nhưng tôi hết buồn ngay, vì đến giờ Toán tôi trả lời được nhiều câu hiểm hóc, lấy làm tự đắc được thầy khen, bạn phục.
Giờ Việt Sử, thầy giảng bài “Cuộc đô hộ của quân Minh”, tôi nghe mà lòng sôi uất hận, nghĩ xót xa cho Tổ Quốc thân yêu. Bài học ấy tôi thuộc không chơn. Tôi thề từ nay phải quan tâm thêm đến lịch sử nước nhà, để noi gương các bậc tiền nhân.
Đến bài Địa lý thầy dạy về nguồn lợi kinh tế của nước Việt Nam. Tôi cảm thấy nền kinh tế nước nhà trong thời đô hộ vừa qua đã bị ngoại bang bóp nghẹt. Tuy vậy, dưới chính thể Cộng Hòa, với những tài nguyên phong phú, nước Việt ta sẽ kiến thiết và khai thác mau chóng để có một tương lai vô cùng rực rỡ.
Giờ vẽ, tôi tìm đến bút chì, sực nhớ ra còn bỏ quên trong ô kéo ở nhà. Anh Tôn nhường cho bút chì của anh, còn anh thì dùng cái bút chì ở đầu “công pa”. Nhưng ai lại “ăn mày đòi xôi gấc” thế! Tôi mượn bút chì ngắn ấy vậy. Cầm đã khó, chì lại cứng, vẽ chẳng ra gì, điểm thầy cho xấu quá. Tôi lo cho điểm trung bình cuối tháng của tôi. Nhưng lỗi lơ đễnh tại mình, còn biết kêu ai!
Giờ ra chơi tôi cũng được vui vẻ với anh em. Duy lúc lên thang, chen nhau lên trước, thành bất hòa với anh Tác. Mai xin lỗi anh vậy.
Lúc tan học về nhà gặp một chiếc chai vỡ. Tuy đói bụng, đang rảo bước đi nhanh, tôi cũng dừng lại, nhặt bỏ qua bên đường. Biết đâu chẳng vì thế mà tránh cho bao kẻ lơ đãng cái nạn què chân?
Về đến nhà, các việc cha tôi dặn làm, tôi đều chu tất cả. Lúc chập tối, tôi vô ý đánh vỡ chiếc bát kiểu của mẹ tôi. Tôi hãy còn xếp vào một chỗ, định mai đổ tội cho chị Sen. Nhưng nghĩ ra, thế là không phải; chị thì bị mắng oan, mà mình thì mang tiếng trí trá. Thôi đành rồi sẽ thú tội, mẹ tôi chắc cũng rộng lòng tha thứ.
Cứ thành thực mà nhận xét, thì qua những buổi kiểm điểm như thế, tôi đã sửa đổi được nhiều thói xấu tật hư. Tôi mong mỗi ngày một tiến dần, quyết nghe lời thầy dạy, lời cha mẹ khuyên, không phí thì giờ, để mỗi ngày thêm hoàn toàn, cả Trí Dục lẫn Đức Dục.
Có thế kỳ thi này mới mong kết quả, và có thể sau này ra đời, mới thành người hữu ích.
28. Thú Tội
Ngày 19 tháng 12
Chiều hôm nay, khi tan học, trời còn sớm, lũ hoc-trò chưa chịu về nhà, rủ nhau ra bãi xa nô nghịch. Đá cầu, đánh quay chán, chúng xoay ra chơi tập trận giả.
Mới đầu còn ném nhau bằng đạn giấy, bằng vỏ chuối, vỏ cam, sau đến dùng sỏi, dùng gạch thay súng đạn. Một vài người đi đường, thấy lũ trẻ chơi đùa dại dột, sợ sẩy ra nguy hiểm, dừng chân ngăn cản. Nhưng không kịp nữa rồi! Bên kia đường, một ông cụ bỗng rú lên một tiếng, tay bưng lấy mắt, loạng choạng ngã. Cậu bé đi với ông cụ, khóc thét lên.
Mọi người đổ xô lại, nâng ông cụ lên. Thì ra ông cụ bị lũ trẻ ném đá trúng phải mắt, vỡ cả kính. Lũ hoc trò sô chạy tán loạn. Trong số đó, tôi thấy có anh Tôn, anh Tư Húi, anh Phi.
Một người túm được vài anh, tra hỏi xem ai là thủ phạm. Nhưng chẳng ai nhận cả. Anh nào cũng mặt xám như gà cắt tiết, tíu tít đổ lỗi cho nhau. Riêng anh Phi, chẳng nói chẳng rằng, mặt cứ tái nhợt tái nhạt. Viên cảnh binh đã tới, giơ tay lên dọa:
- Đứa nào ném? Nói ngay!
Một bà nói:
- Con cái nhà ai mà như lũ quỷ sứ! Cho nó lên quận, cho biết thân!
- Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò mà lị!... Có thế bận sau mới chừa! Mỗi người xúm vào góp một câu, rồi tra, rồi hỏi, nhưng chẳng ai nhận cả. Tôi thấy anh Tôn huých tay anh Phi khẽ nói:
- Nhận đi Phi!
- Nhưng tôi nhỡ phải, chứ có định tâm đâu!
- Cũng phải nhận. Đừng để bạn khác bị oan.
- Nhưng tôi sợ lắm!
- Để Tôn nói đỡ cho…
Viên cảnh binh vẫn trợn mắt trừng trừng:
- Không đứa nào chịu thú nhận à? Học trò gì mà hèn thế?
Một người nói:
- Cứ cho cả lũ lên bóp là xong!
- Không biết ông cụ có việc gì không?
- Mù chứ còn gì nữa! Mặt kính dâm vào con ngươi thì còn gì là mắt? Anh Phi nghe nói lại càng hoảng sợ, đứng dựa váo anh Tôn, tưởng như sắp ngất đến nơi.
- Cứ ra thú đi! Tôi bênh vực cho!
Vừa nói, Tôn vừa cầm tay anh Phi dắt ra. Vừa trông thấy Phi, người ta đã biết anh là thủ phạm. Vài người giơ tay lên định đánh anh. Anh Tôn vội sấn vào, đứng chắn, không cho phạm đến người bạn. Anh nói:
- Các ông người nhớn lại súm vào đánh một đứa trẻ là thế nào?
Viên cảnh binh cầm tay lôi anh Phi vào một cửa hiệu may, mà người ta vừa đưa ông cụ vào băng bó tạm. Tôi cũng theo vào, và nhận ngay ra đó là cụ Phán Ích ở gần nhà tôi! Cụ đang nằm trên giường, mùi xoa bưng lấy mắt. Đứa cháu đứng bên cạnh, sụt sùi khóc:
Phi nức nở:
- Thưa cụ… cháu… cháu nhỡ tay… dại dột…
Một người nóng tính, túm ngay lấy cổ anh mà dúi mạnh xuống:
- Quỳ xuống mà chịu tội!
Anh Phi khóc nấc lên, nắm chặt lấy tay ông cụ. Những giọt nước mắt thi nhau chảy xuống bàn tay ông. Thấy anh biết hối lỗi, cụ Phán giơ bàn tay xương xẩu sờ soạng, rồi xoa đầu anh mà bảo:
- Cháu nhỡ, ta biết! Thôi về đi, kẻo mẹ cháu mong. Ta chỉ hơi đau thôi chứ không hề gì.
Trên đường về, cha tôi hỏi:
- Như con, trong trường hợp ấy, con có can đảm thú tội hay không? Tôi trả lời rằng có. Cha tôi tiếp:
- Thế con giữ lấy lời nhé!
Tôi mạnh dạn trả lời:
- Thưa Ba vâng! Con xin nhớ!
29. Ba Bức Thư
Ngày 22 tháng 12
I.- Sinh thân mến,
Chủ nhật sắp tới, Ba Dũng sẽ cho Dũng đi về miền quê câu cá. Tuy vậy đi được hay không là còn nhờ Sinh. Chắc Sinh chẳng nỡ để Dũng hụt mất một cuộc vui.
Sinh có biết tại sao không? Là vì còn bài luận thứ Hai phải nộp, Dũng chưa làm. Sinh đừng cười nhé! Và chớ cho Dũng là cái đồ lười đấy! Dũng xin thề rằng không phải tại lười, chỉ vì không biết tại sao, Dũng ghét món Việt văn thậm tệ, ghét như đào đất đổ đi. Đối với Dũng, không có gì nhạt nhẽo và vô vị hơn cái món Việt văn! Hễ Dũng cứ cầm bút định làm luận là y như buồn ngủ.
Vậy nhờ Sinh làm giúp Dũng bài luận nhé, vì Dũng chả biết nhờ ai được nữa, mà ai giỏi Việt văn bằng Sinh được? Sinh đừng từ chối đấy! Xoàng của Sinh cũng bằng trăm của Dũng. Vậy ngoáy vài chữ hộ Dũng cho xong cái của nợ ấy đi nhé!
Cảm ơn Sinh trước và tin tưởng ở Sinh nhiều lắm đấy!
Dũng
T.B. Nhờ bí mật hộ, đừng cho ai biết đấy nhé.
II.- Dũng thân yêu,
Sinh đã nhận được thư Dũng. Cảm tưởng đầu tiên của Sinh là sự khoái trá, vì đó là một cái hân hạnh lớn cho Sinh. Hân hạnh được Dũng phục, lại còn tin cậy giao phó cho cái công việc ”vĩ đại” ấy. Sinh lại rất sung sướng được có dịp giúp bạn, điều mà cha Sinh luôn luôn căn dặn.
Sinh đã lấy giấy bút định làm để cho Dũng yên chí đi chơi. Nhưng chợt nhớ lại nhời thầy ngày nọ, Sinh buông bút xuống, đọc thư Dũng một lần nữa rồi Sinh cảm thấy cái sung sướng ban nẫy biến đi. Sinh không khoái trá nữa, mà trái lại thấy buồn buồn, mới lạ chớ!
Sinh buồn là vì không biết làm hộ như thế là giúp Dũng hay làm hại Dũng? Nếu làm cho Dũng lười thêm thì chẳng hóa ra làm ơn mà thành ra hại Dũng sao? Hại Dũng mà lại mang tiếng lừa thầy nữa, điều mà Sinh không có can đảm làm.
Không phải chỉ có thế mà thôi. Sinh còn buồn nhiều hơn nữa khi thấy Dũng ghét Việt văn, không muốn trau giồi tiếng mẹ. Theo Dũng thì đó là “môn học vô vị” là “cái của nợ”. Thực ra, thì thích hay không, đó là quyền của Dũng.
Nhưng còn tình bạn của chúng ta nữa! Chúng ta chẳng đã giao ước với nhau rằng sẽ tận tình khuyên bảo nhau là gì?
Dũng ạ, chúng ta là người Việt, chả lẽ lại khinh tiếng Việt để yêu tiếng ngoại quốc hay sao? Biết bao lần báo chí đã thẳng tay phê bình những ông người lớn có thói quen đệm thêm tiếng Pháp trong câu nói chuyện là gì.
Chúng ta ngày nay còn bé, phải tập nói tiếng mẹ cho thông, viết tiếng mẹ cho gọn, kẻo bị người chê là mất gốc. Một nhà văn tiền bối của chúng ta đã nói:
- Nước ta hay, hay dở, sau này là nhờ chữ quốc ngữ.
Dũng thấy không! Tiếng mẹ quan hệ đến vận mệnh nước nhà như thế đấy! Cho nên, với Sinh thì Việt văn là môn quan trọng vào bậc nhất. Ta có thể dốt tính, kém cách trí, nhưng sao nhãng Việt văn thì không thể được: ấy là một tội to đối với Tổ Quốc.
Trong thời nô lệ vừa qua Sinh viết mấy chữ này mà nóng bừng cả mặt ta vô tình coi thường tiếng mẹ đã đành. Nhưng ngày nay, nền độc lập đã được kiện toàn, người Việt đã làm chủ nước Việt, chúng ta cần phải trau dồi Việt ngữ, để dưới chính thể Cộng Hòa xây dựng một nền văn hóa mới.
Nhất là trong giai đoạn kiến quốc hiện tại, tiếng Việt lại cần hơn thế nữa. Trong chương trình giáo dục hiện nay, tiếng Việt đã đứng hàng đầu trong các môn học, lấy lại địa vị quan trọng, xứng đáng với nó, Dũng không thấy sao?
Chẳng có gì là khó. Cũng chẳng có gì là phiền. Trước hết cần phải đọc sách nhiều. Ba Sinh đã chọn mua cho một số sách, loại giáo dục lành mạnh. Đọc được đoạn văn hay, Sinh lại có sổ tay ghi chép, riêng ra từng loại: tả cảnh, tả người, thuật chuyện, v.v…
Quyển sách ấy Sinh xem đi, xem lại nhiều lần, đến nỗi thuộc lòng rồi đấy.
Đã có những tài liệu ấy rồi, Sinh cứ việc mang ra dùng, thay đổi lại cho hợp với đầu bài thầy ra trong lớp, chẳng lại mang tiếng là “cóp” nguyên văn.
Sinh lại còn một quyển nhật ký nữa cơ! Hằng ngày Sinh tập viết văn bằng cách ghi lại những kỷ niệm riêng, những tâm sự của mình. Còn những bài luận thầy ra thì về nhà Sinh cứ theo dàn bài làm ngay vào giấy dáp. Rồi mỗi hôm lại mang ra sửa đi, sửa lại. Đến kỳ nộp là Sinh đã sẵn có một bài kha khá mà Dũng thường nghe thầy đọc trong lớp làm mẫu.
Đấy, cách luyện Việt văn của Sinh đấy! Giản dị không? Nào có gì khó đâu! Có mất tiền, mất bạc gì đâu! Chỉ một chút kiên nhẫn, rồisau quen đi. Cái gì cũng do thói quen cả, Dũng nhỉ!
Có vốn rồi, lúc làm văn, tìm chữ cũng chóng, mà có muốn phô diễn ý tưởng gì cũng dễ, cũng thông.
Ấy chỉ có thế mà Sinh được tiếng khá Việt văn đấy, có chi lạ đâu!
Dũng cần phải kiên nhẫn một chút, chỉ một chút thôi vả lại có khó mới nhiều giá trị chứ! rồi sau sẽ thấy mình viết văn trôi chảy dễ dàng, và hưởng được cái thú viết văn. Ngoài ra lại chẳng ai bỉ được mình là nhãng sao tiếng mẹ.
Sinh không dám lên mặt dậy đời, chỉ thành thực mách Dũng cái phương pháp hay, mà Sinh đang áp dụng thấy nhiều kết quả. Dũng hiểu cho thế thì không có gì làm Sinh vui lòng hơn…
Bạn thân của Dũng
III.- Thân ái gửi Sinh
Đọc xong thư Sinh, Dũng cảm động vô cùng. Xin lỗi đã làm phiền Sinh nhé! Chủ nhật nầy Dũng chẳng đi câu nữa đâu. Sinh xin phép Ba lại nhà Dũng để chúng ta cùng làm bài nhé! Có Sinh bên cạnh, Dũng sẽ thêm nhiều nghị lực.
Dũng chẳng chịu hèn đâu. Rồi Sinh xem!
Mong đợi Sinh nhiều.
30. Lòng Tương Trợ
Ngày 24 tháng 12
Lớp học không một tiếng động. Mọi người đem hết tinh thần chú ý vào bài thi Đức Dục, về lòng tương trợ. Tôi còn đang mải tìm câu thí dụ, thì bỗng có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, rồi ông Hiệu Trưởng bước vào, tay cầm tờ báo.
Ông ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống, trao đổi vài câu gì với thầy giáo không rõ, rồi quay lại chúng tôi, ông cất giọng nói:
- Này các con! Hãy tạm dừng bút vài phút đồng hồ, nghe ta nói chuyện này…
Chúng tôi ngạc nhiên, hạ cả bút xuống, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn.
- Các con ạ, các con hẳn xem báo, hoặc được nghe kể lại cái thiên tai khủng khiếp vừa xẩy ra cho đồng bào chúng ta ở miền Huế. Đó là một trận bão lụt ghê gớm nhất chưa hề có trong lịch sử, chỉ có hai ngày, đã giết hàng chục người, cuốn trôi hàng trăm trâu bò, đánh đổ hàng trăm nhà cửa… Hàng vạn con người hiện nay không có cơm ăn, nhà ở. Đồng ruộng mênh mông những nước, tài sản gây dựng hàng bao nhiêu năm bị phá sạch trơn…
Một vài tiếng suýt soa nổi lên. Ông Hiệu Trưởng ngưng lại một giây như để nén cơn cảm xúc, rồi rầu rầu nét mặt kể tiếp:
- Trong khi các con yên ổn ngồi đây học tập, chốc nữa về dưới mái gia đình, vui vẻ hội họp quanh mâm cơm nóng dẻo, thì còn một số đông đồng bào của chúng ta ở miền Trung trong số đó có cả ông già bà cả, có người ốm, trẻ thơ, có cả trăm ngàn hoc sinh ngây thơ như các con nữa hiện nay sống cảnh màn trời chiếu đất, cơm không có, áo thì không, sống dở, chết dở, nỗi khổ cực không sao tả xiết.
“Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”
Chúng ta được diễm phúc sống trong cảnh thanh bình, sung túc, nếu không biết thương xót những người đồng loại, thì hóa chẳng bằng giống vật ru?
Lớp học yên lặng như nặng chĩu một tình thương xót. Mấy chữ “lòng tương trợ” viết trên bảng, lúc này như tô một nét vàng son chói lọi. Thầy trò chúng tôi nhìn nhau, lòng rào rạt một nỗi đau xót mênh mang. Ông Hiệu Trưởng ngậm ngùi nói tiếp:
- Tiếng than khóc của những người chẳng may mất nghiệp vang dậy cả một góc trời, tiếng kêu ai oán kia từ ngàn xa vọng lại, nghĩ đến mà héo ruột đứt gan. Này đây báo chí đô thành đang kêu gọi lòng từ thiện của tất cả mọi người. Ta nghĩ ngay đến các con. Đây cũng là một dịp để các con làm việc xã hội, đồng thời tỏ lòng yêu nước thương nòi, thực hiện một phần nào những điều thầy giáo con đã giảng dậy ở nhà trường.
Thầy giáo tôi tiếp lời:
- Tôi thay mặt học sinh trong lớp hoan nghênh ý kiến hay đó.
Các con ạ! Thầy tin rằng các con sẽ hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi của ông Hiệu Trưởng để chúng ta có dịp bắt tay vào cái công cuộc rất có ý nghĩa này. Chúng ta học về “lòng tương trợ”, nhưng nếu không thực-hiện được bằng việc làm thì những điều học ấy có hay đến đâu cũng bằng vô ích. Các con tuy nhỏ, tuy ít, nhưng thầy nghĩ rằng:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cậy chụm lại, nên hòn núi cao.
Chúng ta đông người họp lại, thì kết quả chắc chắn sẽ được khả quan. Các con nghĩ thế có phải không?
Thầy chưa nói dứt lời, cả lớp đã nhao nhao lên:
- Vâng ạ, thầy cho chúng con đóng tiền ạ…
Anh Tác vừa được cha cho tiền mua sách hấp tấp đứng lên:
- Con xin quyên 10 đồng ạ! Thầy cho anh Tôn thu ngay ạ…
Thế rồi mỗi người một câu, lớp học ồn ào như cái chợ. Thầy đập mạnh thước xuống bàn ra hiệu cho im:
- Thầy lấy làm vui lòng thấy các con biết thương yêu đồng loại và nhiệt thành với công cuộc hữu ích, nhưng cần phải bàn bạc trong vòng trật tự, không được làm loạn lên như thế. Từng anh một, ai có sáng kiến nào hay, thầy cho đứng lên tự do phát biểu ý kiến.
Anh Sinh giơ tay đứng lên:
- Con muốn xin thầy cho cả trường tổ chức “một tuần lễ nhịn quà” để lớn bé chúng con đều được làm việc thiện. Nếu có thể, thì mỗi lớp một hộp tiền riêng, để thi đua cho được nhiều. Thưa thầy, nếu cả trường cùng gom lại chắc cũng được món tiền khá…
Ông Hiệu trưởng ghi chép đề nghị của anh vào sổ tay rồi hỏi:
- Thế còn anh nào có ý kiến gì khác không?
Đến lượt anh Tý:
- Thưa, con muốn xin phép các thầy cho từng đội chia nhau ra, đi từng khu phố để quyên quần áo. Nhà con đã có xe bò chở củi. Chúng con chở lấy được, không phải thuê mướn gì cả ạ…
Tiếng vỗ tay lại nổi lên để hoan nghênh sáng kiến của anh Tý.
Nhưng tôi thấy anh Phi không vỗ tay, cứ ngồi im như pho tượng. Vầng trán anh cau lại. Anh cắn chặt lấy môi, như có điều gì suy nghĩ mà chưa giải quyết xong.
Rồi tôi thấy anh quả quyết mở cặp, đứng bật người lên, giọng run run nói:
- Thưa thầy… con có tập… tập sách tem… Con xin biếu đồng bào để bán lấy tiền sung vào quỹ… Có một vài tiếng cười lẻ tẻ, nhưng rồi im bặt. Ông Hiệu Trưởng ngơ ngác nhìn thầy giáo.
Chúng tôi ngạc nhiên nhìn nhau. Thầy giáo nói nhỏ với ông Hiệu Trưởng vài câu. Rồi thấy ông Hiệu Trưởng đi xuống, âu yếm đặt tay lên vai anh:
- Cảm ơn con đã có lòng thương xót đồng bào. Nhưng ta không muốn riêng con phải hy sinh cái kỷ vật quý báu của mình. Con cứ giữ lấy, rồi sau đây cùng đóng góp chung vào với anh em trong trường là đủ… Chúng tôi cảm động nhìn nhau. Thì ra để giúp đồng bào gặp nạn, anh đã vui lòng xa tập tem quý, vui lòng hiến cả nửa phần hồn, lẫn phần xác của mình.
Còn đang xì xào vế anh Phi, thì thấy anh Tôn giơ tay lên xin nói. Thầy mỉm cười bảo:
- À anh Tôn! Chắc con có ý kiến hay thì phải…
- Thưa thầy, hai ý kiến đưa ra mới rồi đều hay cả. Con còn muốn làm to chuyện hơn một chút nữa: không những để mọi người chú ý đến trường ta, lại chắc chắn kiếm được món tiền khá lớn. Thầy xin phép cho chúng con được tổ chức một buổi chiếu bóng có ca kịch. Phần chiếu bóng thì nghe đâu có phim “Một Tâm Hồn Trong Trắng”, loại phim giáo duc, hấp dẫn lắm. Còn phần ca kịch thì đã có chúng con xin đảm nhận; chúng con đã có sẵn mấy vở kịch tố cộng rồi ạ.
Thế là cả lớp vỗ tay rầm lên; thầy phải hai ba phen làm hiệu mới chịu im…
Hai tuần lễ sau, những ai đi ngang qua rạp Độc Lập ở đường Lý Thái Tổ đều thấy hàng ngàn người chen chúc nhau vào lấy vé, dưới tấm băng dài, kẻ rõ mấy hàng chữ lớn:
Buổi Ca Kịch Chiếu Bóng
Giúp Đồng Bào Miền Trung
Do Học Sinh Trường Trần Quốc Tuấn Tổ Chức
31. Kiên Nhẫn Là Mẹ Thành Công
Ngày 27 tháng 12
Sáng hôm nay, lớp tôi có hai kẻ sung sướng, phải nói là ba nới đúng: một là anh Phi được ông Hiệu Trưởng gọi xuống buồng giấy thưởng cho ba chiếc tem Liên hiệp Quốc mà anh ao ước từ lâu; hai là anh Tác, tháng này được đeo huy chương “Cố Gắng”, đứng thứ nhì sau anh Sinh.
Còn người thứ ba là anh Sỹ được cờ danh dự đem về cho đội. Anh Sỹ, từ khi được thầy cấp đỡ, anh luôn luôn tiến. Nhưng còn Tác thì thật là điều không ngờ. Vài tháng trước, cha anh đến lớp thưa với thầy giáo:
- Thưa, cháu nó đần độn lắm; mong thầy thương cháu, rèn cập cho. Anh em đều chế anh, gọi là thằng “óc bùn”. Còn anh, anh tự bảo: “Thà chịu chết cho rồi, chứ nhất định không chịu kém ai!”
Thế rồi anh học đêm, học ngày, ai ngăn cũng không được, học cả lúc đi đường, học cả lúc giờ chơi, chịu khó và kiên nhẫn chẳng khác con trâu cày ruộng.
Thế rồi, ngày này sang ngày khác, sau bao nhiêu cố gắng, nhẫn nại, bỏ ngoài tai những lời chế nhạo, tiếp tục tặng những cái đá ngầm cho những anh bên cạnh đã quấy rầy anh, anh tiến dần, tiến mãi, cho tới tháng nầy, vuợt lên hàng đầu chúng bạn. Thật là chuyện bất ngờ.
Thực tế, còn nhớ hồi nào vào học, anh viết chính tả hàng tá lỗi, cứ bài tính nào khó là lĩnh “số tròn”, chẳng bài học nào là không ấp úng, vậy mà bây giờ chính tả anh viết đã sạch lỗi, tính khó đến đâu cũng làm được, bài dài đến đâu cũng thuộc lầu. Cứ trông thấy cái thân hình cục mịch của anh, cái đầu to vuông vắn, ngón tay như quả chuối mắn, người ta đoán được lòng cương quyết, sự nhẫn nại vô bờ cùa anh. Chẳng ai thấy anh ăn quà bao giờ! Có đồng nào, anh lại gom góp để mua sách. Mới có mấy tháng mà anh đã có đầy một ngăn sách. Được lúc khoái chí, anh ngỏ ý mời tôi hôm nào lại thăm “thư viện” của anh. Đấy là anh coi tôi là thân lắm đấy! chứ ở trường anh cứ lầm lầm, lì lì, có chơi với ai, có nói với ai bao giờ đâu! Ngồi thì như đóng đinh xuống ghế, hai tai vểnh lên nghe thầy giảng.
Sáng nay, thầy đang giận, mà lúc thưởng huy chương cho anh, thầy cũng tươi cười nét mặt dịu dàng nói:
- Thầy có lời khen anh: “kiên nhẫn là mẹ thành công”. Nhưng cũng đừng học quá. Học mà đến nỗi nhồi sọ, rất là nguy hiểm, không nên. Các anh nên lấy anh Tác làm gương. Trời cho khối óc thông minh, cũng chưa đủ để thành công. Cần phải nhẫn nại nữa mới được.
Anh Tác vẫn lạnh như tiền, không lấy thế làm tự đắc, lùi lũi về chỗ, tay chống cằm, lại ngồi nghe giảng bài, chăm chú hơn bao giờ hết.
Lúc tan hoc, cha anh đến đón, thấy anh đeo huy chương trên ngực; ngạc nhiên hết sức, cứ hỏi đi hỏi lại mãi. Thầy giáo phải nói ra cho nghe, bấy giờ ông mới chịu tin, vỗ vai con, cười ha hả:
- Con thầy giỏi thật! Cha chả là giỏi! hà, hà…
Mọi người tủm tỉm cười. Riêng anh, vẻ mặt vẫn như không, miệng nhẩm lại bài học ngày mai…
32. Ơn Thầy
Ngày 2 tháng 1
Dũng con!
Ba lấy làm phiền lòng thấy bữa qua con phàn nàn với chúng bạn rằng thầy giáo con hay nóng giận.
Thầy giáo con lúc nổi nóng không phải là vô cớ. Đã hàng bấy nhiêu năm, chỉ vì lũ hoc trò mà thầy con tiêu hao biết bao sinh lực của tuổi xanh rồi, và nếu có may gặp được vài kẻ ngoan ngoãn nết na, biết nhớ công thầy, thì cũng lại có bao nhiêu kẻ vô ơn bạc nghĩa, nhìn thầy như khách qua đường.
Vậy mà tất cả các con làm thầy hài lòng thì ít, mà làm thầy buồn khổ thì nhiều. Ở vào địa vị thầy, người nào nhẫn nại đến đâu cũng nhiều khi phải bực mình, cáu giận.
Con có biết rằng đã bao lần thầy con gắng gượng chống với đau ốm, mệt mỏi để giảng dạy cho chúng con đến nơi đến chốn không? Quên cái đau của mình để chỉ nghĩ đến tương lai của kẻ khác, hẳn thầy phải đau xót thấy lũ hoc trò vô ơn, không hiểu lòng thầy, mà chỉ biết có làm cho thầy phiền não.
Con nên nhớ rằng dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm văn hiến, và lòng tôn trọng ông thầy của chúng ta chưa từng một nước nào ở trên thế gian sánh kịp.
Tiện đây tưởng cha cũng cần nhắc lại cho con một câu chuyện hãy còn ghi trong sử nước nhà. Ông Đào Duy Từ, thủa nhỏ, một hôm bị thầy quở trách dữ dội, mà nét mặt không hề hờn giận. Khi tan buổi học, bạn hỏi tạisao, thì ông buồn rầu trả lời:
- Phận sự chúng ta đi học là phải chăm chỉ để thầy được vui lòng. Ta đã làm thầy phải tức giận, ấy là cái lỗi của ta. Mà thầy có mắng, có phạt, ấy là muốn cho ta hay, lẽ nào ta lại oán thầy được? Tôi chỉ hối hận rằng đã chót làm cho thầy phải giận, thế thôi…
Ba mươi năm sau, ông Đào Duy Từ nổi tiếng là một người có đủ tài thao lược, và với thành Trường Dục, danh ông còn sống muôn đời với hậu thế.
Con cũng đừng quên rằng trong thời nho học, những học trò làm nên đến Thái Sư, Tể Tướng mà khi đến thăm thầy vẫn phải đứng chắp tay, châm đóm, rót nước hầu thầy, chẳng khác gì lúc còn cắp sách đến trường. Cả đến những khi có điều lầm lỗi, lỡ đến tai thầy, thì dù lúc ấy có làm đến chức gì chăng nữa, thầy vẫn gọi đến nhà trách mắng như thường.
Chính cái tình sư đệ của thời mực tầu, giấy bản ấy đã làm căn bản cho cái đạo đức của người Việt thời xưa và đã làm cho người thế giới phải kính phục ngạc nhiên.
Con ơi! Con đừng có dại dột bắt chước một vài kẻ vô giáo dục nhạo lại thầy mà làm cho cha đây phải tủi lòng có đứa con hư. Con nên nhớ rằng, hỗn xược với thầy, thì cũng như hỗn xược với cha, chẳng khác gì bôi tro trát trấu vào mặt mẹ cha, lại còn làm nhục cả đến vong hồn ông bà đã khuất.
Vậy Dũng ơi! Con phải kính trọng và yêu mến thầy giáo con. Yêu mến người, vì chính ông nội và cha con đây cũng làm nghề ấy. Hơn nữa, yêu mến người, vì thầy là người dậy dỗ, khai sáng con, đưa đường chỉ lối cho con. Yêu mến người, vì thầy đã hy sinh nhiều sức khỏe của thầy để gây cho các con một chút tương lai.
Đừng bao giờ bắt chước bạn mà xưng «tôi» với thầy. Thầy không phải là người «cha tinh thần» của con sao! Dù viện cớ nào đi nữa, học trò xưng «con» với thầy không phải là hèn. Chỉ có những kẻ hư lười bạc bẽo mới hèn, mới xấu thôi.
Cũng đừng coi thầy là một công chức ăn lương tháng để ngồi dậy học. Không! Thầy không phải là một công chức thường! Thầy cao hơn thế nhiều lắm, bởi thầy có cái nhiệm vụ tối thiêng liêng là đào tạo cho tương lai cả một thế hệ thanh niên lành mạnh, làm rường cột cho quốc gia sau này.
Nghĩ được như thế mới biết công thầy không phải nhỏ và sứ mệnh của thầy chẳng phải tầm thường! Chỗ của thầy trong xã hội cần phải tôn cao nhiều nữa, và tất cả mọi giai cấp, dù ở địa vị nào, cũng không sao sánh kịp.
Sau này khi con lớn lên, lúc thầy và ta không còn ở trên đời này nữa, hễ con nhớ đến cha thì cũng đồng thời tưởng niệm đến thầy. Lúc đó, dù có hàng 30 năm trời xa cách, tưởng tượng đến nét mặt đăm chiêu của thầy, con sẽ đau lòng hối hận vì đã làm cho thầy phiền não và đã không yêu thầy như thầy đã yêu con.
Nếu con chỉ yêu Ba mà không nghĩ đến những người đã làm ơn cho con mà thầy là người có công hơn cả thì Ba đây thật chẳng vui lòng. Thực thế, Ba chỉ có công nuôi dưỡng, còn thầy mới là người «cha trí tuệ» có công giáo huấn, uốn nắn cho con thành người. Trong hai cái công ấy, thì công của thầy bao giờ cũng vẫn nặng hơn, đến nỗi không còn gì để mà so sánh cả.
Không thầy đố mày làm nên
Câu ấy con phải thuộc lấy làm lòng, nếu con muốn nên người khá giả. Và sau này, dù được địavị nào trong xã hội, con cũng phải nhớ rằng được như thế là nhờ có công của thầy nhiều lắm.
Dũng ơi! Yêu Ba thế nào thì con yêu thầy như thế. Yêu thầy khi thầy vỗ về con, hay cả khi thầy trách mắng con. Yêu thầy những lúc thầy vui cười hớn hở, và càng yêu thầy hơn nữa khi thầy rầu rĩ, ưu phiền. Bất cứ lúc nào con cũng phải nói tiếng «thầy» với tất cả một tấm lòng thành kính, và cùng với «cha», «thầy» phải là những người đáng cho con tôn thờ hơn hết.
Ba của Dũng hy vọng vào Dũng.
33. Một Lời Cảm Hóa
Mồng 6 tháng 1
Ba tôi nói thật có lý. Sau cơn ốm hôm nọ, thầy giáo tôi cứ gắng gượng đến trường, cho đến hôm nay thì thầy đã quỵ hẳn, đành chịu nghỉ nhà, chữa bệnh. Ốm đau như thế, hèn nào mà thầy chẳng hay bực bội, gắt gỏng với lũ học trò lười, nghịch như chúng tôi?
Đã ba ngày hôm nay, thầy giáo trẻ lên dậy thay. Hai ngày đầu, học-sinh luôn luôn làm ồn, nhưng thầy chỉ ngọt ngào bảo:
- Im đi các em! Ngồi yên, mà học đi các em!
Nhưng đến sáng nay thì quá lắm! Lớp học chẳng khác gì cái chợ. Anh đứng, anh ngồi, anh cười, anh nói, chẳng còn ra cái thể thống gì. Thầy hết sẵng, lại ngọt, hết ngọt lại sẵng, cũng như nước đổ đầu vịt. Chả ai thèm để ý.
Hai ba lần ông Hiệu Trưởng phải chạy lên, nhưng ông đi khỏi rồi thì đâu lại hoàn đấy. Luôn luôn anh Tôn và anh Sinh làm hiệu khuyên anh em bớt nghịch, đừng lợi dụng lòng tốt của thầy, nhưng nào có ai để ý cho đâu! Người ta còn mải đùa. Người ta còn mải nghịch.
Chỉ có anh Tác là như pho tượng, vẫn ngồi yên chống vào cằm, có lẽ đang mơ màng đến cái "thư viện“ của anh, và anh Phi đang rủ rỉ kể lại với anh Vân về cuộc đi thăm cụ Phán Ích bữa chiều qua. Anh vui mừng thấy mắt cụ không việc gì, đã gần khỏi hẳn.
Trong khi ấy, các bạn khác vẫn thi nhau nghịch, chẳng khác lũ giặc non. Khắp lớp, đạn giấy vun vút bay từ góc nọ đến góc kia, tiếng dây cao-su bật tanh tách.
Thầy giáo lắc vai anh này, bắt quỳ anh nọ, nhưng đôi mắt dịu hiền kia không đủ làm cho chúng sợ. Thầy hét, rồi thầy đập tay xuống thình thịch:
- Im! Im ngay!
Tiếng kêu lạc vào trong tiếng đùa ầm ĩ, chẳng gây được một hiệu lực nào. Anh Pha liệng ngay cái tàu bay giấy lên bàn thầy. Một anh tung mũ lên đến tận sát trần, trong khi anh khác bịt mũi giả tiếng mèo kêu.
Giữa lúc ấy, người tùy phái bước vào:
- Thưa ông xuống ngay, cụ đốc hỏi gì ạ.
Thầy giáo phụ tái mặt đi, hấp tấp theo xuống cầu thang.
Tiếng cười đùa lại nhân dịp nổi lên ầm ỹ.
Bỗng anh Tôn nhẩy sổ lên bàn thầy giáo, giơ hai tay lên như có điều gì muốn nói. Mọi người chưa biết chuyện gì, nhưng thấy anh thì đều reo lên:
- A! Tôn! Hay lắm! chuyện gì thế?
Tôn lại giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng, rồi cất tiếng lên:
- Anh em này! Yên lặng để Tôn kể chuyện này cho mà nghe!
Anh Bích, anh Bảo reo lên:
- Hoan hô! Yên lặng nghe anh Tôn kể chuyện!
- Suỵt! Suỵt! Im nào! Kể đi Tôn! Kể đi!
Đứng trên bục cao, anh Tôn đưa mắt nhìn khắp lớp:
- Muốn nghe thì về chỗ ngồi cả xuống đã nào! Xong chưa? Bắt đầu kể đây này!
Mọi người ai đã về ngồi nguyên chỗ đó, khoanh tay để lên bàn, yên lặng chờ nghe…
Anh Tôn xoa tay, rồi lên tiếng kể:
- Cách đây 500 năm, cũng ở ngay chỗ chúng ta đang ngồi này là một khu rừng rậm. Ở đó có chừng năm chục tên cướp vẫy vùng ngang dọc. Tất cả đều tinh thông võ nghệ và có một sức khỏe phi thường: một tay búng chết cọp, đẩy ngã voi.
Mọi người nhìn nhau kính phục. Anh Tôn tiếp:
- Một hôm, lỡ ăn phải nước suối độc, cả bọn bị mù. Thế là hết đời oanh liệt. Thế là cuộc đời bỏ đi. Chúng buồn rầu, thất vọng đau đớn, chẳng còn thiết sống. Nhưng rồi có một ông lang trứ danh động lòng nhân đạo đến xin chữa cho chúng, với một điều kiện là bắt chúng trở về với đời lương thiện một khi sáng mắt.
Chúng reo mừng ưng chịu. Nhưng mắt chưa khỏi, chúng nuốt lời thề cũ, hùa nhau vào hành hạ ông thầy…
Có tiếng sì sào bất mãn:
- Ồ quân bạc ác! Quân bất nhân!
- Đồ vô ơn! Giết hết chúng đi mới đáng tội…
- Hay quá! Kể nốt đi Tôn!...
Tôn đằng hắng một tiếng, kể tiếp:
- Tôn cũng đồng ý với các bạn là muốn lên án chém đầu bọn cướp vô ơn… Thế lũ kẻ cướp ấy, các bạn có biết là ai không? Là chúng ta bây giờ đó. Còn ông lang tức là thầy giáo ta đó. Thầy giáo dạy dỗ ta khác nào mở mắt cho kẻ mù? Vậy mà chúng ta nỡ hỗn hào với thầy như thế, hỏi có đáng tội hay không? Có đáng chém hay không? Riêng Tôn, Tôn nhục nhã, xấu hổ lắm…
Cả lớp im lặng. Một bầu không khí ngượng nghịu bao trùm. Cả mấy anh đầu sừng, đầu sỏ cũng thấy ngồi yên.
Anh Sinh đứng lên:
- Thay mặt các bạn trong lớp, tôi xin cám ơn anh Tôn đã cho chúng ta một bài học quí giá. Vậy tôi đề nghị từ giờ hút này phải hết sức ngồi nghiêm chỉnh, cho thầy vui lòng. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, dù là thầy phụ, chúng ta cũng phải coi thầy như cha mới được!
Giữa lúc ấy, thầy giáo chán nản bước vào cửa lớp, cặp mắt đỏ hoe. Lớp học không một tiếng động nhỏ. Anh Tôn thì vừa ngồi xuống ghế, mặt còn đỏ gay. Thầy còn đang sửng sốt thì anh Tý đứng lên:
- Chúng con chót dại…, Xin thầy tha cho…
Thầy không nói gì, sẽ nhếch mép cười trong khi một hạt lệ từ từ lăn trên gò má…
Còn tôi, đã phục anh Tôn, tôi lại càng phục anh hơn nữa.
34. Hiếu Thảo
Ngày 10 tháng 1
Mọi sáng anh Côn vẫn đến rủ tôi đi học, vì anh ở ngay đằng sau nhà tôi. Thầy anh mở một cửa hiệu nhỏ chữa xe đạp.
Anh người nhỏ bé, yếu đuối, cặp mắt buồn rầu, sợ sệt, luôn mồm nói câu “xin lỗi”. Anh tuy thế xem ra mà chịu khó học đáo để.
Chờ anh mãi không thấy, tôi cắp cặp bước ra, thì thấy anh lại, một bên má tím bầm, mắt còn ngấn lẽ. Thì ra anh vừa phải đòn. Anh phải đòn là sự thường lắm. Cha anh nát rượu nên đánh đập anh luôn. Lắm khi chỉ vì những cớ không đâu mà anh bị những trận đòn thừa sống thiếu chết.
Không buổi chiều nào mà thầy anh không say bét nhè. Cứ ở trường về, thấp thoáng bóng cha là anh chết khiếp đi rồi, sẵn sàng chờ vài chiếc bạt tai hay mấy câu chửi rủa.
Gặp cơn say của cha anh thì hãi lắm! Đi học về muộn cũng phải đòn, mà về sớm cũng phải đòn, nghĩa là khi ấy phải có cớ gì đánh đập anh, hay ít ra cũng quăng sách vở, hò hét vài câu thì cha anh mới yên. Nó đã thành cái lệ, mà trong bao nhiêu năm rồi, anh phải cắn răng chịu đựng. Tội nghiệp má anh! Có thương con cũng chỉ đành khóc vụng, khóc thầm!
Do đó, anh trở thành nhút nhát, ra đường sợ từ đứa bé trở đi. Nhiều khi, anh đến trường mặt mày thâm tím, mắt sưng húp lên vì khóc. Nhưng không bao giờ, chưa bao giờ, người ta thấy anh tỏ lời kêu ca, oán hận cha.
Có lần thầy giáo thấy sách anh rách nát, hỏi anh. Anh sợ hãi, run bắn người lên, đứng dậy thưa:
- Thưa thầy… thưa… con chót nhỡ tay…
Nhưng tất cả chúng tôi đều biết là anh không nói thật, muốn che lỗi cho cha, và riêng tôi, tôi cảm thấy thương anh vô hạn. Nhất là hôm em Huyền tôi nghe thấy thầy anh quát tháo chửi mắng rầm rĩ rồi cầm roi đuổi anh khắp xóm, chỉ vì anh cứ nhũng nhẵng xin tiền mua quyển Đia Lý.
Ấy cũng bởi bê tha rượu mà thầy anh chẳng chịu làm ăn gì cả phải đóng cửa hàng. Có mấy chiếc xe đạp cho thuê, cứ bán dần, bán mòn để lấy tiền ăn, rồi hết cả, đành nằm khoèo, chờ cái đói sau lưng.
Bởi thế, anh thường đến trường với cái dạ dày lép kẹp. Thỉnh thoảng được anh Tôn chia cho mẩu bánh, hoặc cô giáo cũ thưởng cho ít tiền ăn quà. Thế thôi.
Nhưng cũng chẳng ai biết anh đói, vì có bao giờ anh phàn nàn rằng thầy anh để tiền uống rượu, không đong gạo đâu!
Một đôi lần, lúc tan học, thầy anh đi đâu về ngang qua, đứng đón anh, quần áo sốc sếch, đầu tóc rối bù.
Anh Côn nhác trông thấy bố sợ xanh mặt đi! Nhưng anh cũng cố thu lấy can đảm, làm bộ mặt tươi tỉnh. Thế là cha anh lững thững đi trước, chẳng hỏi con lấy một lời, còn anh cắp cặp thất thểu đi sau.
Khổ thân anh, sách vở đã thiếu thốn, lại bị cha quẳng xé luôn, anh khâu, anh dán mãi cũng không kịp. Anh hết mượn sách người này đến người khác. Được cái anh Tác, anh Tôn cũng sẵn lòng với anh, không thì anh cũng chẳng biết xoay sở thế nào.
Quần áo anh mới lại tang thương! Vá đằng trước thì rách đằng sau, lắm khi phải lấy ghimbăng mà gài cho kín, trông đến là thiểu não.
Tuy vậy mà anh chăm chỉ lắm, luôn luôn cố gắng, ít khi chịu nghỉ học. Chưa bao giờ tôi thấy anh bỏ bài không làm, hay không học. Giá có hoàn cảnh như ai, thì tương lai anh cũng chẳng đến nỗi nào.
Sáng hôm nay, trông thấy anh bên má tím bầm, tôi biết ngay mà không dám hỏi, sợ anh tủi thân. Nhưng lúc anh đến trường, thì chúng bạn xúm lại lục vấn:
- Thầy “đằng ấy” lại say rượu rồi “choảng” chứ gì?
Anh đỏ mặt lên mà cãi:
- Bậy nào! Tôi ngã đấy chứ! Hỏi Dũng xem…
Nhưng lúc giờ chơi, có người bắt gặp anh đứng ở góc sân, đang chùi nước mắt!
Tội nghiệp anh! Tôi thương anh quá! Ngày mai, các anh Sinh, Tý, Ninh,… đến chơi, tôi phải rủ anh nhập bọn mới được. Tôi sẽ nói với mẹ tôi làm bánh để cùng ăn. Tôi sẽ chọn mấy cái tranh đẹp, mấy quyển sách vui để tặng riêng anh.
Thôi thì cũng cố làm cho anh được hưởng một giờ vui với bạn, cho bõ những lúc anh sống âu sầu bên người cha hung dữ!
35. Họp Bạn
Ngày 16 tháng 1
Hôm nay thật là ngày vui của tôi! Đã xin được phép của Ba tôi, nên đúng ba giờ, theo lời hẹn trước, các anh Sinh, Tý cùng đến với anh Ninh gù. Chỉ có anh Côn không xin được phép, còn anh Tư Húi thì hẹn đến sau.
Tới cửa, anh Sinh và anh Tý còn rúc rích bàn tán về anh Sỹ, con bà bán đậu phọng rang. Đâu họ gặp anh cắp rổ trứng gà mang ra chợ bán. Con gà mái của má anh đẻ được 15 trứng, bà cụ tiếc không dám ăn. Anh bèn xin đem bán lấy tiền mua sách. Anh vừa đi, vừa ti tỉ hát, có dáng vui lắm, vì mới nhận được thư cha anh ở Tân thế Giới báo tin sắp về.
Hai anh vừa đến, chưa ngồi nóng chỗ thì anh Tư Húi bước vào. Chưa trông thấy tôi, anh đã làm “mắt lác” khiến cả nhà phải tủm tỉm cười. Em Huyền thấy anh đến thì thích lắm, cứ níu lấy anh mà bắt làm mắt lác cho xem. Rồi em mang hộp chơi chắp hình ra khoe.
Anh Tư Húi chưa chắp bao giờ mà anh chắp rất khéo, cả những cái khó như tầu bay, ô tô,… cũng đúng, chẳng sai chút nào. Tôi không ngờ, ngoài cái tài làm mắt lác, anh còn có tài chắp hình đến thế, tỏ ra là người thợ khéo, có nhiều sáng kiến.
Anh vừa chơi, vừa kể chuyện gia đình cho nghe. Nhà anh ở ngoại ô, trong một căn nhà tôn, nhưng sạch sẽ. Cha anh làm thợ cạo, buổi tối vẫn theo lớp Bình Dân. Cứ trông cách ăn mặc của anh, cũng biết cha mẹ anh thương anh đến thế nào! Quần áo anh bằng thứ vải nội hóa rẻ tiền, nhưng giặt trắng bong, không một cái khuy thiếu, một cái khuyết đứt. Tuy mát trời, má anh cũng bắt anh đội mũ, sợ con đi nắng nhức đầu.
Lại được hai anh Sinh, anh Tý, bản tính hồn nhiên, hay pha trò, nên cuộc họp mặt của chúng tôi thú vị lắm. Ba tôi thấy chúng tôi vui, cũng lấy làm hỉ hả.
Anh Tý, cái mũ nồi luôn luôn sùm sụp trên đầu, cười nói to hơn cả. Ấy là buổi sáng, anh đã dậy từ năm giờ, chẻ đỡ cha anh đến gần một tạ củi rồi. Anh cười đùa, nhảy nhót như con thỏ. Lúc qua bếp, anh không quên hỏi mẹ tôi về giá than củi để so sánh với giá nhà anh, và mời mẹ tôi mua giúp. Thì ra, chơi thì chơi, anh vẫn nghĩ đến việc nhà!
Anh Sinh thì không thế! Anh nghĩ đến việc học của anh. Thấy quyển sách nào của cha tôi, anh cũng xin phép mở xem. Tài nhất là anh thuộc Địa Lý, chẳng kém gì thầy giáo. Giở bản đồ Việt Nam ra, anh nhắm mắt lại mà chỉ cho biết đâu là Hà Nội, đâu là Sàigòn, dẫy Trường Sơn chạy từ đâu đến đâu, sông Cửu Long chảy qua những miền nào, rất đúng, chẳng sai một ly.
Khi tôi đố anh chỉ dòng Bến-Hải thì anh sịu mặt lại, nói lảng đi chuyện khác. Rồi như chợt nhớ ra điều gì thú vị, anh thọc tay vào túi mà bảo:
- Tí nữa quên mất cái này! Tuyệt lắm cơ! Ai muốn xem phải nhắm chặt mắt vào đã. Khi nào đếm xong “một, hai, ba”, mới được mở mắt ra đấy! bằng lòng không?
Tất nhiên là chúng tôi bằng lòng, vì tất cả đều tò mò muốn biết. Để trêu chúng tôi, tay anh giữ túi, miệng chậm rãi đếm:
- Một!... Mới có một thôi đấy nhé! Xin các bạn chớ nóng ruột đấy!... Một rưỡi!... Hai!... ấy, không được!... Tư Húi ti hí mắt… Không chơi thế đâu!... Nhắm mắt vào, để tôi đếm lại đấy!
- Anh Tý tức quá càu nhàu, còn anh Tư Húi thì hi hi cười xin nhận lỗi. Lúc đếm xong “ba”, chúng tôi mở mắt cả ra, thì thú chưa! Một quả địa cầu tí hon bằng thủy tinh tuyệt đẹp đang nằm gọn trong lòng bàn tay anh Sinh. Chúng tôi reo lên, rồi vồ lấy xem. Đó là món quà của chú anh đi chơi Hồng Kông về tặng cho, anh mang đến cho chúng tôi cùng chơi.
Quả cầu tròn đặt trên cái đế nhỏ xíu bằng bạc, và quay chung quanh một cái trục. Có cả năm châu, lại đủ cả năm đại dương nữa, chiếu ra mặt trời óng ánh muôn phần. Chúng tôi chuyền tay ngắm xem mà không chán mắt. Anh Ninh lanh chanh thế nào tuột tay đánh rơi ngay xuống đất lăn long lốc! Mọi người kêu lên một tiếng! Anh Ninh luống cuống chẳng biết làm thế nào, mặt cứ tái đi chực khóc.
Anh Tư Húi nhanh nhẹn chui tuột xuống gầm giường nhặt lên: quả cầu gẫy mất cái đế. Anh Tý luôn mồm xuýt xoa tiếc rẻ, còn anh Ninh thì cứ lấm lét nhìn anh Sinh. Anh Sinh cầm quả cầu lên tay, chắp thử, rồi điềm nhiên nói:
- Không sao! Cái này đưa cho thợ bạc chắp lại được ngay đấy mà!
Rồi để anh Ninh khỏi buồn, anh liền tổ chức cuộc chơi đố chữ, tìm hình, rồi vẽ thi một nét…, nhiều trò vui lắm, mà lại có ích nữa, chơi mãi cũng chẳng biết chán. Nhất là anh Ninh, thấy anh Sinh không giận thì mới yên tâm, cứ ngồi xem mà mủm mỉm cười.
Chơi mãi đến năm giờ, ăn quà bánh xong, chúng tôi mới tan cuộc. Thấy anh Côn không sang, em Huyền bảo:
- Các anh gói bánh lại để phần anh Côn mấy. Em mang sang cho!
Nói rồi em cầm gói bánh le te chạy đi. Chúng tôi nhìn theo mỉm cười, rồi vui vẻ chia tay từ giã…
Sài Gòn 1955-1956
Edmondo De Amicis
Cao Văn Thái
Theo https://downloadsachmienphi.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét