Sông Thương - Cội nguồn
của nhiều cảm hứng nghệ thuật
Có một dòng sông xứ Bắc đã đi vào những áng thơ ca, âm nhạc bất
hủ, để hôm nay mỗi khi được thưởng thức những tác phẩm nghệ thuật đó tôi bỗng
chợt nhận ra dòng sông ấy không những tuyệt đẹp, lãng mãn mà còn có nhiều điều
kỳ lạ đến thế! Sông Thương chính là nguyên liệu, chất men xúc tác để nhiều tác
giả cho ra đời tác phẩm nghệ thuật để đời.
Dòng sông bên đục bên trong
Bao đời nay sông Thương vẫn cứ mãi êm đềm, mềm mại và yên
bình, là cội nguồn cảm hứng sáng tác vô bờ bến cho các nghệ sĩ. Một nhà
thơ đã từng viết: Đã sông Thương lại bến Than/Cội nguồn xưa chắc trái oan
điều gì? Không hẳn tác giả của câu thơ trên mà với nhiều người, trong đó
có giới văn nghệ sĩ đã từng “phải lòng” với con sông huyền thoại ấy, để cứ mải
mê đi tìm cái hay, cái đẹp lẫn cái khó hiểu của dòng Thương.
Sông Thương nằm cạnh Phủ Lạng Thương, nó không dữ dằn, cuồn
cuộn như sông Đà, sông Lô hay mênh mông như sông Hồng, trầm mặc như sông Hương
nhưng lại rất nên thơ, nên nhạc và chứa đầy trầm tích lịch sử, văn hóa, cũng
như thấm đẫm chất huyền thoại. Vẻ bình dị của dòng Thương đã khiến nhà thơ Lưu
Quang Vũ phải thốt lên rằng: Sao tên sông lại là Thương/Để cho lòng anh nhớ?
(Qua sông Thương). Có lẽ chẳng ai lý giải được câu hỏi ấy của nhà thơ và
hôm nay vẫn có những người nặng lòng, tha thiết với dòng sông “bên đục bên
trong”.
Dòng sông ấy khởi nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, huyện Chi
Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong con máng trũng có tên Mai Sao rồi chảy vào địa
phận tỉnh Bắc Giang, xuôi về đến Hải Dương, hợp vào sông Thái Bình, rồi đổ
ra biển Đông. Sông Thương còn có một chi lưu lớn là sông Sỏi chảy từ huyện Yên
Thế ra. Chúng hợp lưu tại nơi tiếp giáp của ba huyện: Yên Thế, Tân Yên và Lạng
Giang. Đến gần thành phố Bắc Giang, có thêm một dòng sông đào đổ nước vào sông
Thương. Nước sông Thương vốn trong xanh, nay có dòng nước đục từ sông đào hòa
vào, thành ra sông có hai dòng chảy song song, một bên trong, một bên đục rất
rõ. Hiện tượng này có thể quan sát được ở khu vực thành phố Bắc Giang. Trong ca
dao người xưa đã viết: Sông Thương nước chảy đôi dòng/ Bên trong bên đục em
trông bên nào?. Lưu Quang Vũ lại viết về quãng sông này như sau: “Người xưa
bảo đây đôi lòng lệ nhỏ/ Những suối buồn gửi tới mênh mang/ Đò về Nhã Nam/ Đò qua
Phủ Lạng/ Mưa chiều nắng rạng/ Đã bao năm? (Qua sông Thương).
Tìm sâu về quá khứ, vào thời Lý, sông Thương còn có tên gọi
là Nhật Đức "dòng sông mặt trời" cùng với sông Đuống (Thiên Đức),
Nguyệt Đức (sông Cầu) và Minh Đức (sông Lục Nam), đó là bốn dòng sông lớn ở miền
Bắc. Nhà sử học Lê Văn Lan trong một bài viết đã lý giải: Theo sách "Lĩnh
ngoại đại đáp" của Chu Khứ Phi đời nhà Tống bên Bắc phương cho rằng, vì thấy
mỗi độ xuân về, những cây đào phai lại nở hồng khắp đôi bờ nên sông Thương xa
xưa mới có thêm tên nữa là sông Đào Hoa. Ngày nay người dân vùng ven sông như
Dĩnh Kế, Dĩnh Trì, Tân Tiến, Đa Mai vẫn duy trì được nghề trồng hoa đào.
Giải thích từ dân gian lẫn các nhà nghiên cứu địa phương,
trong quá khứ khi quan, quân Đại Việt trên con đường thiên lý đi xứ phương Bắc
hay trấn ải biên thùy Lạng Sơn gia đình họ thường tiễn đưa đến khúc sông này.
Nơi đây diễn ra cảnh người đi xa, người ở lại, những cuộc chia tay bịn rịn thật
là thương cảm nên từ đó người đời gọi là sông Thương. Cạnh đó đến nay còn làng
Thương và có bến Chia Ly, cũng vì khi đến đây người thân đưa tiễn phải dừng lại,
phút ly biệt ngay trên bến sông. Đến thế kỷ XXI tên bến Chia Ly đã được đọc chệch
là bến Chi Ly. Bến Chi Ly ngày nay vẫn ở ngay khúc sông “nước chảy đôi dòng”
bên đục bên trong càng gợi nỗi thương cảm cho biết bao nhiêu thế hệ...
Sông Thương cũng gắn liền với địa danh Phủ Lạng Thương, thành
Xương Giang từng ghi dấu biết bao chiến thắng oai hùng nhưng cũng là dòng sông
đậm chất nhân văn trữ tình. Trong chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang lừng lẫy
chống giặc Minh, sông Thương là nhân chứng vĩ đại. Bài “Xương Giang phú” Lý Tử
Tấn đã viết: “Nơi đây vũ công lừng lẫy/ Giúp nên đất nước bình yên/ Lạch thiên
nhiên của trời Nam sẵn có/ Mở thái bình cho đất Việt khắp miền/ Ấy Xương Giang một
sông hình đẹp/ Mà dấu thơm muôn thuở còn truyền...”.
Viết về sự hào hùng ở sông Thương, sau này nhà thơ Lưu Quang
Vũ đã viết: “Sông Thương ơi, đang những ngày đánh Mỹ/ Nên đôi bờ nòng pháo hướng
trời mây/ Những cô lái đò súng khoác trên vai/ Đời đẹp vô cùng dòng lệ hóa dòng
vui”.
Dòng sông nghệ thuật
Dòng sông Thương gắn với những chiến thắng oai hùng nhưng
cũng là nguồn cảm hứng nghệ thuật vô tận. Nhiều tác phẩm nghệ thuật được ra đời
từ con sông ấy, các tác giả đều gắn bó, trải nghiệm thực tế sâu sắc với vùng đất
con người nơi đây. Vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) đã viết về con sông như
sau: Đứng bên bờ dốc ngắm sông dài/ Lặn với sao trời, ráng đỏ soi/ Sông xa
bát ngát buồm trăng xế/ Tiếng giặt đâu đây não ruột ai... (Xương Giang cảm
hoài). Nhà bác học Lê Quý Đôn trên con đường đi sứ qua đây có thơ đề rằng: Khói
tạnh đồng xanh, nương rẫy tốt/ Vườn hoang sương lạnh, lũy thành trơ... (Độ
Xương Giang).
Sau này, có thể kể đến tác giả Đặng Thế Phong với nhạc phẩm
“Con thuyền không bến” đầy tâm trạng, tình cảm tha thiết, lời ca, giai điệu đẹp:
“Đêm nay thu sang cùng heo may/ Đêm nay sương lam mờ chân mây/ Thuyền ai lờ lững
trôi xuôi dòng/ Như nhớ thương ai trùng tơ lòng... Về hoàn cảnh ra đời ca khúc,
năm 1940, Đặng Thế Phong tạm xa gia đình, người yêu để lên Bắc Giang ít ngày, một
buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào
trên sông Thương hàn huyên. Đang lúc vui thì có người đến đưa cho Đặng Thế
Phong một phong thư. Đó là thư của cô Tuyết (người yêu ông) từ Nam Định gửi
lên. Đọc xong thư, ông rất buồn vì biết tin cô Tuyết bị bệnh. Chính đêm hôm đó,
Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, ông đã sáng tác “Con thuyền
không bến” buồn não nuột... “Lướt theo chiều gió một con thuyền theo trăng
trong/ Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng/ Biết đâu bờ bến, thuyền ơi thuyền
trôi nơi đâu?. Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu”.
Tháng 6-1942 tại Nhà hát lớn Hà Nội, bài “Con thuyền không bến”
được nữ ca sĩ Vũ Thị Hiển trình bày đã làm xôn xao khán giả Hà Nội. Sau đó
chính Đặng Thế Phong thể hiện bài hát này tại rạp Olympia ở Hà Nội. Lúc này
công chúng mới thực sự hâm mộ và biết đến tài nghệ thuật của Đặng Thế Phong. Nhạc
sĩ Phạm Duy từng nhận xét: “Người nghệ sĩ không còn đứng trong khu vườn nhỏ của
mình nữa, anh dắt ta ra trước cảnh thu về trên một dòng sông. Dường như Đặng Thế
Phong đã nói lên được tâm trạng của thanh niên nam nữ trong thời đại. Họ sống
dưới thời cai trị của thực dân và họ bơ vơ lạc lõng như những con thuyền không
bến. Nhưng con thuyền này phải là con thuyền trôi trên một dòng sông dân tộc,
dòng sông Thương (ai ơi) nước chảy đôi dòng. Quan trọng nhất là con thuyền phải
trôi trong một mùa thu Việt Nam có gió heo may, có sương lam mờ chân mây, có
gió van thông ngàn và có ánh trăng mờ chiếu... Nếu là con thuyền trôi trong mùa
hè hay trôi trên sông Seine thì chưa chắc bài hát có thể quyến rũ và ám ảnh
chúng ta từ lâu và mãi mãi được”. (Lướt theo chiều gió/ Một con thuyền theo trăng
trong/ Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng).
Kể ra các sáng tác về sông Thương, cũng không thể không nhắc
đến “Chiều sông Thương” (An Thuyên, thơ Hữu Thỉnh). Ở đó con sông được khắc
họa như một miền dân ca thấm đẫm tình người, tình đất khiến ta cảm thấy như được
thương, được nhớ. Tiếng hát cứ ngân vang như dòng sông hiền hòa, êm dịu nâng
niu, tha thiết: Đi suốt cả chiều quê, vẫn chưa về tới ngõ/ Dùng dằng câu
quan họ, nở tím bờ sông Thương/ Nước vẫn chảy đôi dòng, chiều uốn cong lưỡi
hái/ Những gì sông muốn nói, cánh buồm giờ hát lên”. Một tình quê chan chứa
trong “Chiều sông Thương” đầy giăng mắc, vương vấn.
Và còn nhiều, nhiều nữa những tác phẩm nghệ thuật về sông
Thương vang bóng một thời như: “Qua cầu sông Thương” (Trần Chung), “Tấm áo mẹ
vá năm xưa” (Nguyễn Văn Tý)... Và thế, cũng không phải ngẫu nhiên mà nơi đây
hình thành một vườn nghệ thuật Sông Thương nằm bên dòng sông ấy đoạn chảy qua
thành phố Bắc Giang với diện tích trên 6ha do nhà văn Sương Nguyệt Minh giữ vai
trò sáng tạo và doanh nghiệp tư nhân Mười Duyên thực hiện. Theo nhà văn
Sương Nguyệt Minh, Giám đốc nghệ thuật Vườn nghệ thuật Sông Thương, lưu giữ những
nét đẹp văn hóa Kinh Bắc là một trong những mục tiêu của những người thực hiện
đặt ra. Các buổi diễn ca trù, quan họ hay những ca khúc, vần thơ về vùng đất
Kinh Bắc và sông Thương được ưu tiên trình bày tại không gian này. Vườn nghệ thuật
Sông Thương có nhà trưng bày văn hóa Kinh Bắc với những bộ bàn ghế thời bao cấp,
chiếc xe đạp thồ, nong nia, thúng mủng, giần sàng, cối giã gạo, cối xay lúa, bể
nước mưa, giàn thiên lý, rặng cúc tần, giếng nước cổ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét