Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ 2
Chương 2:
NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ
2.1. CẢM HỨNG VỀ ĐẤT NƯỚC - NHÂN DÂN
Trong lịch sử thơ ca Việt Nam, cảm hứng về đất nước là một nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn. Mỗi nhà thơ đều góp vào thi đàn những cảm nhận vừa đẹp đẽ vừa riêng tư khiến cho hình tượng đất nước được hiện lên trong thơ với vóc dáng sinh động, đa dạng và tươi đẹp đến lạ lùng.
Sinh ra và trưởng thành trong những năm chống Mỹ, Lưu Quang Vũ đã đi vào cuộc kháng chiến với sức mạnh của niềm tin và tuổi trẻ. cảm hứng về đất nước, nhân dân trong thơ anh tuy có sự chắt lọc từ sách vở (như các nhà thơ trẻ thời bấy giờ), nhưng với một cảm xúc mang cá tính sáng tạo riêng anh đã tìm được cách thể hiện để không bị nhòa lẫn trong dòng thơ lúc bấy giờ. "Đọc thơ Lưu Quang Vũ", Vũ Quần Phương đã nhận xét như sau: "Cảm hứng dân tộc, trong tiến trình lịch sử, trong vẻ hùng vĩ của đất đai, trong vẻ đẹp óng ánh của ngôn ngữ và nhất là trong đời sống làm lụng cực nhọc, trận mạc gian lao của người dân là một cảm hứng bền chắc trong thơ Lưu Quang Vũ" (20, 47). Chúng tôi xem đây là một sự gợi mở để đi vào tìm hiểu nguồn cảm hứng này trong thơ anh.
Trước tiên cũng cần phải khẳng định ngay rằng: cảm hứng về đất nước - nhân dân trong thơ Lưu Quang Vũ được chi phối bởi một quan niệm thơ hết sức thống nhất và mạnh mẽ mà chúng tôi đã đề cập đến ở chương 1: Thơ từ chối sự lý tưởng hóa hiện thực, không mỹ hóa hiện thực mà trung thực trước những đau thương, mất mát, hy sinh. 2.1.1. Cảm hứng về đất nước trong truyền thống văn hóa - lịch sử Cảm hứng về đất nước trong thơ thường được khơi nguồn từ những con người, sự vật rất đỗi thân thương, gần gũi, có thể là từ một miền quê, từ những dòng sông, cánh đồng, con đường, từ những người mẹ, người em gái,... cảm hứng về đất nước trong thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bắt nguồn từ không gian cư trú, từ những con người quê hương gần gũi thân thuộc mà còn là từ truyền thống văn hóa, lịch sử, là tất cả những gì thân thiết tạo thành cuộc sống Việt Nam.
Đến với thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta không dễ dàng bắt gặp cái hào hùng của những chiến công vang dội của lịch sử dân tộc như khuynh hướng chung trong thơ chống Mỹ. Điều mà Lưu Quang Vũ quan tâm chính là mạch ngầm văn hóa âm thầm, bền bỉ trong trường tồn lịch sử. Tất nhiên Lưu Quang Vũ không phải là người đầu tiên khai thác nguồn cảm hứng này, trước anh hay cùng thời với anh đã có nhiều nhà thơ thành công khi viết về đề tài này. Đặc biệt trong chương "Đất nước" (Trích "Mặt đường khát vọng"), Nguyễn Khoa Điềm đã có những khám phá, phát hiện độc đáo về đất nước trên nhiều bình diện: chiều dài thời gian (“thời gian đằng đẵng"), chiều rộng không gian ("không gian mênh mông"), và trong bề dày của văn hóa, của tính cách, tâm hồn dân tộc. Thế nhưng, phần lớn các bài thơ viết về đất nước với nguồn cảm hứng này thường mang chất trí tuệ, chính luận. Riêng Lưu Quang Vũ, anh diễn đạt nguồn cảm hứng dạt dào này bằng một chất giọng tràn đầy cảm xúc, "đắm đuối đến mê hoặc". Đất nước hiện lên trong thơ anh với nhiều bình diện, đó là với vẻ đẹp của không gian, của thời gian, của truyền thống văn hóa phong phú, sinh động, của ngôn ngữ, tính cách, tâm hồn dân tộc.
Cảm hứng về đất nước trong truyền thống văn hóa - lịch sử được thể hiện rất rõ trong bài thơ "Đất nước đàn bầu" (dài 238 câu, viết trong năm 1972 và 1983). Trong bài thơ anh đã dựng lại bầu khí quyển tinh thần bao bọc quanh đời sống của dân tộc từ thuở hồng hoang. Với trí tưởng tượng phong phú anh đã đi trên con đường dân tộc đã đi, từ thuở hoang sơ, đi để "tìm lại thời gian đã mất", đi để "tìm lại những bông hoa xanh biếc", đi để "tìm dòng máu của mình":
Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong đất...
Những rìu đá cổ sơ, những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại...
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng...
Không gian bao bọc quanh đời sống người xưa được vẽ với nét bút tài hoa khiến cho cái khung cảnh vùng nhiệt đới còn nguyên sơ, hoang dại ấy hiện lên trong thơ đầy sức sống:
Thuở biển cả điên cuồng gào thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng bạc
Cánh sừng sững trong hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng...
Cái khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ, bí ẩn mà nồng nàn, quyến rũ ấy còn hiện lên qua những câu thơ chất chồng những hình ảnh đẹp lạ kỳ:
Sôi trong máu những bầy voi nguyên thủy
Sáng trong mắt những rừng gươm chớp lóe
Những nỗi buồn tê dại ngón tay run
Chim Lạc bay, cánh rợp cả sườn non
Rùa đẻ trứng nồng nàn trên cát bể,
Rừng gầm thét, thác nguồn sao trắng thế
Đất mênh mông tràn ngập ánh mặt trời...
Gió thổi lồng những đốm lửa không nguôi...
Cũng như nhiều nhà thơ khác Lưu Quang Vũ đã ghi lại được sự hình thành, bước đường đi và bộ mặt tinh thần của dân tộc qua bao ngàn năm lịch sử. Chế Lan Viên từng tìm về truyền thống dân tộc với một cảm hứng dạt dào:
Ta đi từ nền văn minh trên lưu vực sông Hồng
Cả dân tộc bay theo hình chim Lạc...
Thế nhưng ở Lưu Quang Vũ, anh đã biết cách diễn đạt cảm hứng ấy bằng một bút pháp riêng. Với trí tưởng tượng phong phú của một họa sĩ tài hoa, các câu thơ đầy chất hội họa của anh đã tác động trực tiếp đến thị giác người đọc, nó có sức lôi cuốn mãnh liệt, dẫn dắt người đọc tìm về cội nguồn dân tộc, khêu gợi, đánh thức ở họ những tình cảm sâu kín qua sự hiện diện của nhiều hình ảnh đẹp, quyến rũ: Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhủi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người trên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền...
Lưu Quang Vũ còn mở ra trước mắt chúng ta những khung cảnh sinh hoạt yên bình, từ những "đêm ca dao", "đêm hội làng", đến những "ban mai" yên ả, những ban mai "cổ tích":
Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông.
Trong thơ anh, những làng nghề truyền thống - nơi thể hiện tập trung những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc - cũng sống lại thật phong phú và có hồn:
Những lò rèn phập phù bể lửa
Phường chạm bạc, phường đúc đồng
Phố hàng Hài thêu những chiếc hài cong
Những cô gái dệt the và phất quạt
Những hàng Điếu, hàng Buồm, hàng Bát
Rùa trao gươm chim lạ đến Tây Hồ
Lụa làng Trúc, rượu Kẻ Mơ...
Và đây là linh hồn dân tộc còn được lưu giữ lại trong những thớ gỗ tài hoa:
Xem trẻ mục đồng
Múa trên tượng gỗ...
Trên tranh khắc trong ngàn pho tượng gỗ
Còn nóng rực tay người trong gô đá
Lung linh chim múa hoa cười...
Đây là những hội hè, đình đám với "nón quai thao áo màu bay rực rỡ", đây là những điệu hát truyền thống với sênh tiền gõ nhịp, gánh chèo tỉnh Đông, làng quan họ, nón ba tầm,... Và tiếng đàn bầu khi tha thiết, khi nức nở, khi xanh biếc vang suốt dọc dài lịch sử đã trở thành biểu tượng của "đất nước đàn bầu":
Quả bầu khô là tâm sự của vườn
Mặt đàn gỗ là của rừng xanh thẳm
Điệu bát ngát là của đồng của đất
Điệu vụng về là tha thiết lòng tôi
Và trong vô số những hình ảnh được chọn làm biểu trưng cho Tổ quốc, từ cụ thể, gần gũi như: cây lúa, cây tre, hạt gạo, ổ rơm, con cò, hoa sen, dòng sông, cây đa, mái đình,... đến trừu tượng, khái quát như: trái tim, lương tâm, nhân phẩm, lòng tin nhân loại... thì Lưu Quang Vũ đã chọn đàn bầu như là biểu tượng độc đáo nhất của đất nước Việt Nam.
Như vậy, trong thơ Lưu Quang Vũ thiên nhiên đất nước vừa dữ dội, vừa nồng nàn, vừa thanh bình, thuần hậu bao quanh con người là nền tảng không gian để trên đó hình thành nên những đặc trưng, những nét đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc.
Cảm hứng dân tộc trong thơ Lưu Quang Vũ còn tìm được một điểm rất đẹp để bừng sáng lên. Đó là ngôn ngữ dân tộc. Trước Lưu Quang Vũ đã có những dòng thơ lục bát rất đẹp của Huy Cận viết về tiếng Việt: Êm êm tiếng mẹ đưa nôi
Hồn thiêng đất nước đã ngồi bên con
Và Lưu Quang Vũ không chỉ làm sống lại vẻ đẹp óng ánh, sinh động và thân thương của "Tiếng Việt", mà quan trọng hơn, anh còn tìm thấy ở tiếng Việt vốn đẹp như "đất cày, như lụa, óng tre ngà và mềm mại như tơ" ấy một tiêu chí, một điểm quy tụ vượt lên trên cả mọi sự chia rẽ, hận thù:
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc bể
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về
Tiếng Việt là nơi kết tụ hồn dân tộc, "rung rinh nhịp đập trái tim người", tiếng Việt "trong trẻo như hồn dân tộc Việt". Và tình yêu cùng niềm tự hào về tiếng Việt- ngôn ngữ dân tộc- cũng là tình yêu và niềm tự hào bền chắc nhất với truyền thống văn hóa ngàn đời của ông cha ta. Chính vì vậy nhà thơ đã hướng về tiếng Việt bằng trách nhiệm đau đau, tự nguyện:
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình, quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.
2.1.2. Cảm hứng về đất nước đau thương
Qua việc khám phá và thể hiện hình tượng đất nước với vẻ đẹp của truyền thống văn hóa - lịch sử lâu đời, biểu hiện cho nguồn sức mạnh bất diệt tiềm tàng của dân tộc, Lưu Quang Vũ đã thể hiện tình yêu đất nước của mình. Càng yêu đất nước với những điều tốt đẹp anh lại càng đặc biệt nhạy cảm với nỗi đau thương, cơ cực của đất nước. Tình yêu ấy có thể ví như tình yêu của con đối với mẹ. Người con yêu mẹ khi mẹ xinh đẹp, lộng lẫy thì lại càng yêu mẹ hơn khi mẹ lam lũ trong chiếc áo nâu sồng, đó mới thật là tình yêu bền vững. Với cái nhìn hiện thực và có trách nhiệm về đất nước, Lưu Quang Vũ đã nhìn thấy những nỗi đau xót trên đất nước do thiên tai, do nông nghiệp lạc hậu, do quân thù tàn phá,...
2.1.2.1. Cảm hứng về đất nước nghèo khó:
Trong thơ Việt Nam hiện đại, cảm nhận về đát nước nghèo khó là một môtíp khá phổ biến: "Đất nghèo nuôi những anh hùng", "Anh yêu em như yêu đất nước, Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần" (Nguyễn Đình Thi), "Đất nước mình nghèo lắm hỡi em yêu" (Chế Lan Viên), "Rễ siêng không ngại đất nghèo" (Nguyễn Duy),... Thế nhưng trong khi nói về sự nghèo khó ấy, chúng ta thấy hình như những câu thơ trên còn ẩn chứa một niềm tự hào sâu kín, với cảm hứng ca ngợi sự chắt chiu, nhường nhịn, sự hi sinh, chia sẻ,... Trong thơ Lưu Quang Vũ, đất nước nghèo khó được miêu tả trước hết bắt nguồn từ thực tế, anh dám thừa nhận cái nghèo khổ - giống như là định mệnh, như truyền kiếp của dân tộc mình. Anh hình dung đất nước như một cơ thể sống luôn chịu cảnh lầm than, cơ cực. Thơ anh viết về đất nước có những dòng thương đến xót xa:
- Đất nghèo thân bóng long đong
- Nước Việt đói nghèo thân cơ cực
Đất hẹp trụi trần vạn khổ đau
- Đất tả tơi trong định mệnh đói nghèo
- Đất gầy đói, đất bùn lầy cay cực...
Cảm hứng về đất nước nghèo khó trong thơ Lưu Quang Vũ được hội tụ ở hình tượng Đất. Với anh đất đai của tổ quốc là nạn nhân luôn phải gánh chịu mọi tai ương, thảm họa. Trước hết là thiên tai. Đất gắn chặt với mưa và gió:
- Mưa và gió ào ào trên mặt đất
- Gió lục địa tràn về như bão
- Bán đảo mưa rào gai ngút mắt
- Bán đảo mưa rào và gió mặn
- Đêm bão gầm cồn cát chạy lang thang...
Thiên nhiên còn dữ dội với "những đỉnh đèo buốt giá", "những mái nhà nắng lửa", với những cảnh lũ lụt kinh hoàng:
Những cánh đồng nằm trong lũ lụt
Những xóm làng tan hoang
Những người chết đuối
Những đê cao tưởng không gì phá nổi
Bây giờ tan vỡ trong đêm
(Mấy đoạn thơ)
Đất trong thơ Lưu Quang Vũ còn là "mảnh đất nghèo ứa máu". Bởi lẽ trên mảnh đất lam lũ này, đã bao phen "gót giầy ngoại bang, giẫm lên ngực đất". Đất không chỉ thấm mồ hôi của những người bao đời đi mở nước:
Mỗi mùa thu cùng cùng gió xuống phương Nam
Rừng dao rựa của những người mở đất
mà đất còn thấm máu của những người nối tiếp nhau giữ nước:
Đất chiến hào vẫn đồng đất quê ta
Máu đồng đội đã thấm vào đất ấy
Đất còn là nơi chôn giữ những người chết vì thiên tai, đói rét, giặc giã. Vì thế tiếng đất trong thơ Lưu Quang Vũ không mơ hồ, vang vọng từ cõi xa xăm như tiếng đất trong thơ Nguyễn Đình Thi mà nó cụ thể, mạnh mẽ và đau đớn: "Những đêm thức nghẹn ngào nghe đất gọi". Phải thật sự gắn bó và yêu thương đất nước mãnh liệt, Lưu Quang Vũ mới có thể lắng nghe được tiếng gọi nghẹn ngào của Đất mẹ, những dòng thơ như thế không phải ai cũng có thể viết được. Anh yêu đất mẹ không phải yêu các chiến công, mà yêu chính "những luống cày đất nâu tơi tả", yêu những mảnh đất lam lũ nắng gió mà chúng ta đã "mọc lên" từ đó, đã "ra đi" từ đó, yêu đến cả "những vệt bùn trên áo gió khô se". Tình yêu ấy ăn sâu vào tâm khảm anh, thậm chí cả người con gái anh yêu cũng được đem so sánh với vẻ lam lũ và tốt lành của đất:
- Như đất kia em độ lượng vô tư
- Em như đất này khó nhọc
Thành phố này gian truân.
- Em của anh chỉ đất này thôi
Lưu Quang Vũ đã bày tỏ tình yêu mãnh liệt của mình đối với đất:
- Ngực anh thở gắn liền với đất
Dẫu nhiều đêm khao khát những chùm sao
- Anh áp mặt vào đất
Thấy bao nhiêu mầm mạ lớn lên
- Tôi ra sông nằm soài trong bãi sú
Phù sa ướt lấm lem gò má
- Tôi thức suốt trong nỗi buồn của đất...
Chúng tôi có cảm giác tình yêu anh dành cho Đất mẹ không chỉ dừng lại ở một thứ trạng thái nội tâm thông thường. Mà đó là một thứ tình yêu tha thiết, mãnh liệt, phải huy động cả các giác quan để gắn bó, thâm nhập vào đối tượng mình yêu: tôi nằm soài, tôi áp mặt, tôi gắn liền,... Tình yêu loại này chỉ có ở những tâm hồn nồng nhiệt, nhạy cảm. Xuân Diệu cũng từng có sự ham mê táo bạo: "Giơ tay muốn ôm cả Trái Đất, Ghì trước trái tìm, ghì trước ngực". Cả hai đều không e dè, ngượng ngập khi bộc lộ với người đọc những khao khát khác thường của mình. Và tình yêu sâu sắc mà nhà thơ dành cho mảnh đất thân yêu mà nghèo khổ, cơ cực của mình được thể hiện qua những ước mơ, khát vọng đến cháy lòng:
Muốn làm mọi việc
Cho mắt em không còn phải khóc
Đất bao la lạnh giá buốt mưa phùn
Thóc chín vàng như một mặt trời con
(Đất)
Từ trạng thái nội tâm thông thường, tình yêu đất mẹ đã biến thành khát khao được hiến dâng. Đất là hình tượng đẹp đẽ, sâu sắc và rất riêng của Lưu Quang Vũ, đó là biểu tượng của đất nước lam lũ, đau thương, đói nghèo mà anh yêu đến đắm đuối, xót xa.
2.1.2.2. Cảm hứng về đất nước đau thương trong khói lửa chiến tranh Cảm hứng chủ đạo trong thơ viết về đất nước qua hai cuộc kháng chiến là ca ngợi truyền thống lịch sử oai hùng, bất khuất, ca ngợi sức mạnh tâm hồn, ý chí dân tộc, ca ngợi những chiến công vang dội,... Tuy nhiên mỗi bước đi của lịch sử, dù là tiến bộ thì bao giờ cũng đi kèm với những mất mát, hy sinh không thể nào tránh khỏi, với những tổn thất không thể nào bù đắp nổi. Vì thế bên cạnh dòng mạch chung với những bài ca phơi phới lạc quan vẫn lặng lẽ có một dòng mạch khác, âm thầm thể hiện những khám phá về đất nước, về nhân dân với những cung bậc trầm lắng, xót xa hơn. Mảng thơ viết về đất nước đau thương trong khói lửa chiến tranh của các nhà thơ thời chống Mỹ, đặc biệt là của Lưu Quang Vũ đã bổ sung phần còn khiếm khuyết để cho toàn cảnh bức tranh đất nước trong chiến tranh được hiện lên đầy đủ hơn, chân thật hơn.
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ đồng thời cũng là một chiến sĩ, và cũng như bao nhà thơ - chiến sĩ cùng thế hệ khác, giáp mặt với thực tế chiến đấu, anh ý thức sâu sắc vị trí, vai trò của thế hệ mình đối với đất nước, nhân dân trong hoàn cảnh bấy giờ. Tâm tư, tình cảm của anh bộ đội trong tập thơ đầu tay "Hương cây" của anh đã cho thấy quê hương, đất nước chính là nguồn sống nuôi dưỡng anh và anh đã trưởng thành trong lòng quê hương, đất nước. Tâm trạng của người lính trẻ không ngủ được vì bồi hồi nghe tiếng cuốc kêu mà tưởng như lời "khắc khoải của người xưa thương đất nước" đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín của anh. Hình ảnh người lính trẻ "Đêm sâu này thức trắng với quê hương" đã lưu lại một ấn tượng tốt đẹp ở người đọc.
Nhưng thơ Lưu Quang Vũ còn nói lên cái bi tráng của cả dân tộc trong những năm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh. Dân tộc ta đã phải cho những dòng máu trẻ trung nhất của mình ra mặt trận:
Những đứa trẻ con vô tư
Những đứa trẻ con 17 tuổi
Hôm nay tòng quân
(Lại sắp hết năm rồi)
Bao nhiêu con người chưa kịp sống hết tuổi thơ đã ý thức được nhiệm vụ của mình. Và bao nhiêu chuyến lên đường không về mà người người vẫn nối tiếp nhau:
Thôi nhé mai này tiễn Khánh đi
Đường xa bom phá tàu không về...
(Đêm đông chí uống rượu)
Dẫu biết rằng cuộc kháng chiến của chúng ta là chính nghĩa, được cầm súng đánh giặc dẫu gian khổ, hy sinh vẫn luôn là niềm tự hào của bao người. Song những câu thơ trên của Lưu Quang Vũ khiến người đọc không khỏi xót xa.
Và cũng chính vì đã từng đối mặt với hy sinh, gian khổ trong chiến tranh mà Lưu Quang Vũ đã không lý tưởng hóa cuộc kháng chiến của dân tộc. Nhất quán với quan niệm thơ "nói sự thực của lòng mình", "sự thực về đất nước mình", Lưu Quang Vũ đã trung thực phơi bày những đau thương mất mát của đất nước trong cảnh chiến tranh. Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi đã có hai câu thơ rất hình ảnh viết về đất nước đau thương trong chiến tranh từng làm nhức nhối tâm khảm người đọc:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều...
(Đất nước)
Và nếu như các nhà thơ cùng thế hệ với anh như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo,... thường viết về những đau thương, mất mát do sự huy diệt của chiến tranh nơi chiến trường thì Lưu Quang Vũ lại nhìn thấy những tổn thất của cuộc chiến ngay trong lòng cuộc sống của nhân dân.
Qua thơ Lưu Quạng Vũ, sự thảm khốc của chiến tranh được phơi bày trước hết ở thủ đô Hà Nội. Từ đầu những năm 70, cuộc sống thời chiến ở Hà Nội đã bắt đầu phô ra những khó khăn của nó. Hà Nội yên bình, trong trẻo với "cây bàng lên búp đỏ, xanh như là thương nhau'', với khung cảnh ấm áp của "những ngọn đèn đọc sách thâu đêm, những quán cà phê ngon, những bức tranh sơn dầu đầy nắng",... giờ chỉ còn là quá khứ xa xăm. Hiện tại bao trùm lên là vẻ nghèo nàn, khốn khó, cuộc sống của người dân nghèo khổ, túng thiếu:
Hè phố đầy hầm tường đầy khẩu hiệu
Quần áo và mặt người màu cỏ héo
Thiếu ăn thiếu mặc thiếu nhà
Người đợi tàu ngủ chật sân ga
Trẻ con thiểu nơi học hành dạy dỗ...
(Viết lại một bài thơ Hà Nội)
Mấy mươi năm vẫn mái tranh này
Dòng sông đen nước cạn
Tiếng loa đầu dốc lạnh
Tin chiến trận miền xa...
(Việt Nam ơi)
Người dân không chỉ chịu cảnh sống ngột ngạt túng thiếu mà còn là nạn nhân của sự chết chốc, huy diệt trong khói lửa chiến tranh:
Gió hú ầm ào qua gạch vỡ
Người chết vùi thân dưới hố bom
Kẻ sống vật vờ không chốn ở
Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường...
(Đêm đông chí uống rượu...)
Sự thảm khốc của chiến tranh còn được Lưu Quang Vũ diễn đạt bằng những câu thơ rất ấn tượng: "Bao nhiêu người chết, Tiếng súng đóng đinh trên ngực cuộc đời "Hạt mưa đen rơi trên ô kính vỡ",... Chỉ với hình ảnh "hạt mửa màu đen" cũng đủ để gợi lên cảnh tro than, ly tán, loạn lạc của chiến tranh. Phạm Tiến Duật cũng từng dùng hình ảnh này để miêu tả không khí dữ dội, ác liệt nơi chiến trường: "Tàn lá đầy trời như mưa tuyết màu đen" ("Những mảnh tàn lá").
Hình tượng đất nước đau thương trong khói lửa chiến tranh được Lưu Quang Vũ thể hiện tập trung nhất trong bài "Việt Nam ơi", cảm xúc của anh được thể hiện trong bài thơ tuy có hơi bi quan, tuyệt vọng nhưng nó rất chân thành:
Tổ quốc là nơi tỏa bống yên vui
Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất
Nhưng nghĩ đến Người lòng ta rách nát
Xin Người đừng trách giận, Việt Nam ơi.
Và giữa dàn đồng ca hào hùng ca ngợi đất nước, cổ vũ cho cuộc kháng chiến của dân tộc thì Lưu Quang Vũ lại riêng mình đau và lo cho đất nước:
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ?...
Đến bao giờ
Người mới được nghĩ ngơi
Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?
Đến bao giờ đến bao giờ nữa Việt Nam ơi?
Hàng loạt câu hỏi cứ vang lên dồn dập, xoáy xiết.
Viết về đất nước trong chiến tranh, Lưu Quang Vũ không chỉ thiên về miêu tả một đất nước đau thương mà anh còn thể hiện niềm tự hào sâu kín, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh bất diệt tiềm tàng của dân tộc:
Viên đạn thù độc ác
Bắn vào gương mặt yêu thương
Không ngăn được nước Hồ Gươm
Xanh thắm lòng người Kẻ Chợ
Viên ngói hoa dưới Tràng An đất cổ
Đến ngôi trường mới mở sáng tầm gương...
(Những người đi năm ấy)
Anh vững tin vào sự đổi thay của đất nước. Anh nhìn thấy "đất nước như con thuyền xuyên gió mạnh", và "Ngọn gió lớn hòa bình, Sẽ thổi dập đống lửa tàn dĩ vãng", "Mai gắn lại những vết thương xé thịt, Dân tộc mình mở tới một trang vui”... Và cũng từ hiện thực chiến tranh, Lưu Quang Vũ đã kêu gọi, thức tỉnh mọi người hãy phấn đấu để tạo dựng một cuộc đời mới:
Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng áp phích trên tường bằng những lời đanh thép
Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn
Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh...
(Viết lại một bài thơ Hà Nội)
Ngày nay chiến tranh đã qua đi, đọc lại những bài thơ này của Lưu Quang Vũ chúng ta càng thấm thìa cái giá mà dân tộc, nhân dân ta phải đánh đổi để có được độc lập tự do, càng thêm trân trọng những gì mà chúng ta đang có.
2.1.3. Cảm hứng về nhân dân - những người làm nên đất nước
Sau Cách mạng Tháng tám, viết về nhân dân là một đề tài khá phổ biến trong văn học, nhân dân được xem như là biểu tượng tập trung nhất của hình tượng Tổ quốc. Hình tượng nhân dân thường hiện lên trong thơ với sức sống bất diệt tiềm tàng. Nằm trong dòng mạch chung đó, Lưu Quang Vũ cũng ca ngợi sức mạnh của nhân dân vô danh nhưng vĩ đại, trong cả lao động sáng tạo và quật khởi vùng lên. Ở phần thơ "Hương cây", nhân dân hiện lên qua hình ảnh những con người vì tập thể, mang đậm chất lý tưởng (xem phần II.1 chương 1). Nhưng nhân dân không chỉ hiện lên qua hình tượng người mẹ, anh bộ đội, em gái hậu phương,... một cách riêng lẻ mà Lưu Quang Vũ còn xây dựng nên một hình tượng tập thể về nhân dân. Hình tượng ấy được thể hiện trọng bài thơ "Người cùng tôi" in trong tập "Mây trắng của đời tôi". Qua bài thơ chúng tôi thấy anh đã thể hiện nhận thức sâu sắc, từng trải hơn trong quan niệm về nhân dân so với thời kỳ "Hương cây". Trong bài thơ này bản lĩnh và nhân cách dân tộc được anh miêu tả với một cảm xúc nồng nàn:
Người cùng tôi bên bờ biển bão
Người cùng tôi đầu ngọn gió mùa
Người vỡ rừng mở đất bao la...
Mủn vải, mẫu đinh người đều nhặt nhạnh
Mất nắm rơm cũng cãi vả kêu ca
Nhưng khi cần mang tất cả đem cho
Xẻ áo nhường cơm, quên mình cứu bạn...
Những câu thơ mang tính chất cực tả nhằm ca ngợi vẻ đẹp cũng như sức mạnh quật cường tiềm ẩn của nhân dân đã khiến cho hình tượng nhân dân hiện lên cao đẹp hơn:
- Đi chân không người thêu vạn hài cong
Mặc áo nâu người dệt muôn sắc lụa
- Như gió điên, như nước phá tung bờ
Người vung tay cung điện hóa ra tro
Người xô khẽ, thế là nhào vua chúa
(Người cùng tôi)
Và nếu như Thanh Thảo mượn hình tượng "Ngọn sóng" để nói lên sự tồn tại vĩnh hằng và sức mạnh bất diệt của nhân dân thì Lưu Quang Vũ lại mượn hình tượng "Ngọn lửa" để biểu trưng cho sức sống trường tồn của họ:
Nhân dân có gì giống lửa phải không anh
Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt...
(Mấy đoạn thơ về lửa)
và hơn thế còn là biểu trưng cho sức mạnh để huy diệt lẫn tái sinh: Lửa của tình yêu khi tức giận
Sẽ ra tro mọi lồng củi mọi ngai vàng
Và những tên bạo chúa khôn ngoan
Hết ảo tưởng thôi van xin chờ đợi
Lửa sẽ bùng lên tự soi sáng cho mình...
(Mấy đoạn thơ về lửa)
Cái riêng của Lưu Quang Vũ là viết về nhân dân anh không chỉ ca ngợi một chiều mà anh còn thấy hết những nhược điểm của họ:
Người mài mực cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô
Người cùng Quang Trung đi đánh giặc
Quang Trung lên bành voi, Người cầm giáo
xông lên phía trước
Quang Trung lên làm vua, Người về nhà làm ruộng
Bị lão trương tuần quát nạt cũng run...
Lưu Quang Vũ còn bộc lộ nỗi xót thương, đồng cảm trước những khổ nhục, cay cực mà nhân dân phải chịu đựng:
Đất đẫm mồ hôi và máu của người
Ngàn năm bị khinh thường, đầy đọa
Trong bài thơ "Nhân dân", Pêtôphi - nhà thơ Hungari - cũng thể hiện cảm xúc tương tự:
Cày một tay
Gươm một tay
Đời nhân dân muôn nỗi đắng cay
Máu cứ đổ, mồ hôi cứ đổ...
Như vậy, nhân dân không chỉ là những con người hiện lên với sức mạnh phi thường: "Mỗi lần đất nước bị nguy vong, Người đều cứu cổ xe ra khỏi vực", với vẻ đẹp tinh thần cao cả đã trở thành biểu tượng của mọi thời đại mà còn là "phía khuất chìm của bên kia mặt trăng". Dù ca ngợi hay xót thương thì cái nhìn của Lưu Quang Vũ về nhân dân cũng đều chừng mực, trân trọng. Anh không rơi vào sự sáo mòn, ca ngợi nhân dân nhưng lại thờ ơ với nỗi đau khổ của họ. Với anh, nhiệm vụ rất rõ ràng: "Trước đau khổ của nhân dân thơ không gian dối". Bởi lẽ, anh xác định được vị trí của mình trong dòng thác vô tận của nhân dân:
Tôi cùng người chung lúa chung khoai
Chung cơn bão, chung cánh rừng lửa đạn
Chung ca nước dưới đường hào nắng gắt
Chung lá cờ, chung ngọn lửa ban mai.
Anh gắn chặt đời mình, hòa vào niềm vui nỗi buồn của nhân dân:
Tôi tìm đời tôi trong số phận của người
Tìm lẽ phải nơi trán người bình tĩnh
Hạt muối tôi trong biển người vô tận
Chỉ khổ đau vì đau khổ của người
Chỉ sướng vui trong vui sướng của người thôi.
Như vậy, với cảm hứng về đất nước - nhân dân Lưu Quang Vũ đã bộc lộ rõ nét bản sắc riêng của mình, anh có những khám phá riêng về đất nước, về dân tộc, về nhân dân trên mọi bình diện: vẻ đẹp của truyền thống văn hóa, của ngôn ngữ, của đất đai, của tính cách, tâm hồn dân tộc Việt và đặc biệt hơn cả là anh còn miêu tả vẻ đẹp của đất nước trong đau thương.
2.2. CẢM HỨNG VỀ TÌNH YÊU
Tình yêu bao giờ cũng là nguồn cảm hứng vô biên, là chủ đề quen thuộc và muôn thuở của sáng tạo nghệ thuật. Cuộc đời và nghệ thuật sẽ trở nên nghèo nàn nếu không có tình yêu. Từ xa xưa và mãi mãi về sau, nhân loại sẽ vẫn nói về tình yêu như một thứ tình cảm cao quý và đẹp đẽ nhất. Ngọn lửa của tình yêu vẫn mãi vĩnh cửu và trường tồn cùng sự sống vĩnh hằng của con người.
Từ trước đến nay đã có bao bản nhạc, bao bài thơ, bao trang viết dành cho tình yêu, dù là niềm vui hay nỗi buồn, nụ cười hay nước mắt. Và đặc biệt giữa tình yêu và thơ ca có sự gần gũi và đồng điệu đến lạ lùng. Trong các trang viết về tình yêu, hầu như mọi người đều đọc thấy dáng dấp mối tình của mình, hình bóng của mình trong đó. Và cũng rất lạ tình yêu lại là chủ đề mang tính chất riêng tư nhất và thường gắn liền với cuộc đời của chính tác giả. Và cũng như bất cứ một đề tài nào khác, tình yêu cũng cần đến vốn sống, cần đến chất liệu tâm hồn với những rung động mạnh mẽ và sâu sắc.
Hầu như người làm thơ nào cũng có thơ viết về tình yêu, có thể là không đặc sắc nhất trong các trang viết của họ nhưng đó là những tình cảm chân thành, trong lành, tha thiết của bản thân nhà thơ. Và Lưu Quang Vũ cũng vậy, trong số những nhà thơ trẻ lớn lên trong kháng chiến chống Mỹ, anh được đánh giá là một trong những nhà thơ thành công khi viết về đề tài này.
Qua thống kê trong 121 bài thơ, chúng tôi thấy thơ viết về tình yêu của Lưu Quang Vũ nổi trội hơn cả, chiếm đến 46 bài. Bên cạnh đó còn có 27 bài thơ có nội dung đề cập đến tình yêu. Qua đó, chúng tôi nhận thấy đây là đề tài mà anh tâm huyết nhất. Điều đó chứng tỏ đối với Lưu Quang Vũ nói riêng, đối với nghệ sĩ nói chung, tình yêu luôn là điều quan trọng nhất. "Nó là chỗ dựa về mặt tinh thần, là nguồn năng lượng dồi dào và quan trọng hơn nó còn là nguồn cảm hứng đối với người nghệ sĩ sáng tạo" [20, 54].
Theo năm tháng cuộc đời cùng với những được mất ở đời, thơ tình của Lưu Quang Vũ cũng được nâng lên những cung bậc mới. Cũng viết về tình yêu đấy, nhưng nó rất đa dạng, mang những màu sắc khác nhau của một con người đã từng nếm trải mọi buồn vui, mọi đau khổ lẫn hạnh phúc ở đời.
2.2.1. Tình yêu gắn với số phận
Không phải với tất cả những người có thơ tình, tình yêu cũng là số phận, kể cả những người viết rất thành công về đề tài này. Nhưng với Lưu Quang Vũ thì tình yêu là số phận. Trong cuộc đời lắm "đa đoan phức tạp" của anh, hầu như ở giai đoạn nào anh cũng tìm được những tình yêu chân thành, sâu đậm. Anh đã nếm trải cả hạnh phúc lẫn đắng cay, đổ vỡ. Và dấu ấn của những cuộc tình ấy đã được anh diễn đạt thành thơ với tất cả sự đắm đuối của mình. Vì vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà các nhà phê bình khi khám phá mảng thơ tình của anh, đều soi chiếu với những cuộc tình đã qua trong cuộc đời anh, vốn là nguồn cảm hứng sáng tạo dào dạt của người nghệ sĩ trong anh. Viết về tình yêu, chúng tôi thấy phần lớn các bài thơ của anh đều gắn với một người phụ nữ cụ thể, một mối tình cụ thể có trong tiểu sử của anh. Nối kết các bài thơ ấy lại, chúng ta sẽ biết được hành trình số phận, hành trình hạnh phúc của Lưu Quang Vũ.
Trong phần thơ đầu tay, "Hương cây", có hình dáng của Tố Uyên - diễn viên điện ảnh, người yêu đầu đời rực rỡ "như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa". Cô là nguồn cảm hứng chính để anh viết nên những bài thơ tình nồng nàn, say đắm như "Vườn trong phố", "Hơi ấm bàn tay", "Gởi em và con”. Tình yêu của anh lính trẻ nhiều mơ mộng dạo ấy thật trong sáng, nguyên sơ, luôn thấm đẫm hương vị của cỏ cây hoa lá. Gương mặt, dáng hình của người con gái anh yêu hiện lên tươi mát như cây trái: "Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài, Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ". Nhưng cuộc tình đầu đẹp đẽ và trong sáng ấy cuối cùng rồi cũng không kéo dài mãi được, khi đứa con của họ vừa chập chững biết đi thì những dấu hiệu rạn nứt cũng bắt đầu xuất hiện, rồi sự tan vỡ trong cuộc hôn nhân đầu đã đến. Lưu Quang Vũ đành đau đớn nói lời "Từ biệt":
Hai ta không đi chung một ngả đường dài
Không chung khổ đau không cùng nhịp thở
Những gì em cần anh chẳng có
Em không màng những ngọn gió anh trao
Chiếc cốc tan không thể khác đâu em
Anh nào muốn nói những lời độc ác
Như dao cắt lòng anh như giấy nát
Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tàu...
Đây cũng là thời gian bao tai ương của cuộc sống dồn dập đến với anh: rời quân ngũ, không nghề nghiệp, không việc làm, đất nước đang thời kỳ khó khăn,... Gia đình tan vỡ bồi thêm một đòn quyết định đẩy Lưu Quang Vũ đến bi kịch. Anh như một kẻ lạc lõng, long đong giữa cuộc đời vô định, anh đã làm thơ để ghi lại tâm trạng của mình: "Cớ những lúc tâm hồn tôi rách nát, Như một tấm gương chẳng biết soi gì". Và cuối cùng thì cuộc tình tuyệt đẹp một thời ấy cũng nhanh chóng rơi vào dĩ vãng: "Gương mặt em chỉ còn là kỷ niệm, Mối tình xưa anh cũng đã quên rồi "...
Rồi Lưu Quang Vũ cũng lấy lại được sự bình tĩnh trong tâm hồn khi đến với cuộc tình thứ hai, với một nữ họa sĩ. Khác với cô diễn viên đẹp rực rỡ "như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa" ngày trước, người con gái này có vẻ ngoài khắc khổ và gầy guộc "Em gầy như huệ trắng xanh", như hiện thân của cuộc đời lắm đa đoan, vất vả của anh. Và cảm nhận tình yêu lần này không còn thấm đẫm "hương cây" như trước mà gắn với những bức tranh, với những găm màu sáng tối. Anh tỏ tình lần thứ hai trong khung cảnh của: "Những khung tranh, những giá vẽ ngổn ngang", "Những bức tranh nổi gió ở trên tường" và trong một khung trời dữ dội: "Trời chuyển gió sắp quay cuồng bão lớn". Và tình yêu với người họa sĩ mà Lưu Quang Vũ gọi là "tình yêu những năm đau xót và hy vọng" cũng không đi đến một kết thúc có hậu. Phần lớn những bài thơ trong tập "Bầy ong trong đêm sâu" được anh viết trong giai đoạn này, "chua chát, sắc sảo và cay đắng" hơn, vì nó được thể nghiệm từ chính những được mất trong cuộc đời anh:
Nghĩ về em bao buổi chiều lặng lẽ
Tìm trong em bao khát vọng không ngờ
Môi tôi run những lời nói dại khờ
Em ẩn hiện sao còn xa lạ thế
Tôi ảo tưởng quá nhiều ư?
Có lẽ Em cần gì gió lốc của đời tôi...
(Lá thu)
Cuộc tình thứ hai đến quá nhanh để mong khỏa lấp những trống trải cô đơn, vì thế chưa kịp hiểu nhau thì đã vội chia tay: "Em đi tìm thế giới của riêng em", còn anh, nỗi đau cứ ngấm sâu, làm vụt tắt mọi niềm tin yêu cuộc sống: "Quen thất vọng tôi hồ nghi mọi chuyện, Tìm trong em náo động những chân trời". Và nỗi đau lần này lại được kết tụ trong những bài thơ tình da diết, cháy bỏng, trong đó có không ít bài "bắt nguồn từ trí tưởng tượng, thể hiện niềm mong ước về vẻ đẹp hoàn thiện của một người tình lý tưởng" [20, 60].
Và cuối cùng, sau bao cay đắng, lỡ lầm, hạnh phúc- tình yêu lại mỉm cười với anh. Anh đã tìm được một người có thể băng bó những vết thương lòng cho anh, giúp anh lấy lại niềm tin yêu và sức lực của tâm hồn sau hai cơn bão lòng. Người đó chính là nhà thơ Xuân Quỳnh. Và như có sự trêu đùa của số phận, cả hai quen biết nhau từ lâu và cùng ở trong một chung cư, thế nhưng họ chỉ thật sự nhận ra nhau- nửa người còn lại của mình - khi cả hai đều trải qua sự đổ vỡ trong hôn nhân và qua các cuộc tình không may mãn. Âu cũng là số phận. Lúc bấy giờ để đến được với nhau họ đã phải vượt qua nhiều rào cản, vì thế họ rất nâng niu, vun vén cho niềm hạnh phúc có thật trong cuộc đời mình. Bên cạnh những bức tranh, thì giờ đây trong căn phòng nhỏ của họ, "sách vở xếp ngổn ngang trên giá và cả dưới nền nhà". Và Xuân Quỳnh đã trở thành nguồn đề tài, nguồn chất liệu chính để anh viết nên những bài thơ tình nồng nàn yêu thương mà chúng ta có thể thấy trong tập thơ "Mây trắng của đời tôi" và các bài thơ sau đó của anh.
Trong 15 năm chung sống, hai người bạn đời, bạn thơ Lưu Quang Vũ -Xuân Quỳnh đã làm nên đối thoại thơ ca rất đẹp trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Lưu Quang Vũ vừa có trong tay một tình yêu lý tưởng lại vừa có trong tay một hạnh phúc đời thường. Âm áp lung linh trong các trang thơ của anh là hình ảnh một người vợ hiền thục:
Em của anh đôi vai ấm dịu dàng
Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương
(Và anh tồn tại)
Mọi tên tuổi vinh dự chỉ hư danh
Chẳng nghĩa lý bằng chiều nay em nhóm bếp
(Không đề)
Một người bạn đời nhân hậu thủy chung:
Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn
Anh lạc bước em đưa anh trở lại...
Người lo lắng chăm nom cho anh từ những việc rất nhỏ mà chỉ có tình yêu lớn mới có được: "Sao không cài khuy áo lại anh, Trời lạnh đấy hôm nay trời trở rét" (Xuân Quỳnh). Anh cảm nhận được cái ấm áp trong sự yêu thương ấy: "Em ở giữa lòng anh, Một ngày hè trở rét".
Và người ấy đã cùng anh trải qua mọi buồn vui, ấm lạnh của đời người cho đến phút cuối cùng theo sự an bài của số phận. Sự ra đi của họ có gì như anh đã linh cảm:
Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay
Ta đã có những ngày vui sướng nhất
Đã uống cả men nồng và rượu chát
Đã đi qua cùng tận của con đường
Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên...
(Bài hát ấy vẫn còn là dang dở...)
Như vậy thơ tình của Lưu Quang Vũ chính là kết tinh nỗi khổ đau và niềm hạnh phúc của một tâm hồn cao đẹp, nhiều trải nghiệm. Phải chăng vì thế mà những bài thơ riêng tư, những bài thơ số phận ấy có vẻ đẹp dung dị, chân thành mà cuốn hút, say mê.
2.2.2. Tình yêu với những đam mê và khát vọng
Theo nhận xét của nhiều người thì Lưu Quang Vũ là một chàng trai tài hoa và đa cảm, cái tài hoa đa cảm ấy được thể hiện trong thơ anh ngay từ khi anh còn là một cậu học trò 15, 17 tuổi - cái tuổi chưa đủ để thành người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con nữa. Theo quy luật của cuộc đời, chàng trai ấy đã đến với tình yêu và tìm đến nàng Thơ để giãi bày xúc cảm của lòng mình:
Anh vọng về em một sắc trời xanh
Ở nơi xa em có nhớ gió ân tình
Có phải mơ không mà anh thấy em trong tà áo
Một hương môi mận chín một lời thanh...
Từ đó dịu dàng mà chói chang em tới
Lúc hiện lúc đi ngẩn ngơ, chấp chới
Để anh thành nai lạc khát suối lành
Để anh thành nhạn lẻ vọng trời xanh.
(Bài thơ khó hiểu về em)
Dường như trong ký ức của các thi sĩ lãng mạn, ai cũng lưu giữ hình ảnh một mối tình đầu trong trắng, đẹp như "hoa hàm tiếu còn ngậm sương đêm". Đọc các câu thơ trên của Lưu Quang Vũ, ta như thấy ngân vang âm hưởng của thơ Puskin, cảm nhận lại cái phút giây choáng ngợp, say đắm trong tình yêu của con người được mệnh danh là "nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ" này:
Tôi nhớ mãi phút giây huyền diệu
Trước mắt anh em bỗng hiện về
Như hư ảnh xa xăm vụt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong
(Gửi K...)
Đến với tình yêu, Lưu Quang Vũ tìm thấy ở đó ý nghĩa của cuộc đời. Anh mang trong lòng nỗi đàm mê, khát vọng về một tình yêu chân thành, đầy hy vọng. Và anh đã diễn đạt nó bằng sự non tơ, rối rít của tâm hồn son trẻ: "Rối rít trong lòng một nỗi em em". Để rồi sau này, khi hồi tưởng lại bóng hình người con gái ấy, anh như vẫn còn cảm nhận được cái hương vị nồng nàn mà mối tình đầu để lại trong anh: "Em mà ngọn gió chiều nức nở, Em mà ngày xưa run rẩy cả lòng anh". Và mặc dù tình yêu đem đến cho anh không ít đau khổ, đắng cay, anh vẫn xem tình yêu như một cứu cánh còn lại của mình, anh nương tựa vào nó để "tâm hồn không lạnh giá", anh xem tình yêu như một thứ "hành lý để lên đường". Trong những lúc cô đơn, tuyệt vọng, hay bực dọc "bỏ nhà ra đi như ngọn gió", anh vẫn không nguội tắt lòng yêu: "Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em”. Và trong suốt cuộc đời lắm khổ đau, lận đận anh vẫn không nguôi khát vọng về một tình yêu lý tưởng: "Tôi bôi xóa rất nhiều thề ước đẹp, Riêng với em tôi chẳng phản bao giờ,... Em ở đâu bao năm tháng qua rồi?, Người ta bảo rằng em đã chết, Người ta bảo quên đi đừng phí sức, Em làm gì có thật mà mong,...Tôi làm sao có thể nguôi yên, Khi biết ở nơi nào em vẫn sống, Em sẽ đến như ngày rồi sẽ nắng, Tôi sống bằng khoảng rộng ở nơi em" (Thơ tình viết về người đàn bà không tên (III)).
Nếu như mỗi con người chỉ được sở hữu một sự sống hữu hạn, quá ngắn ngủi so với cái vô tận vô cùng, thì tình yêu là một cách để chiến thắng thời gian. Với tình yêu, Lưu Quang Vũ tìm thấy ở thơ niềm hạnh phúc vô tận, tìm thấy ở tình yêu "sức lực của đời anh". Vì "tình yêu là lời thử thách với thời gian và những tai ương của thời gian. Nhờ có tình yêu, từ cuộc đời này chúng ta tỏa sáng vào cuộc đời khác". Quan niệm này không xa lạ với các bậc thầy văn chương thế giới. Song đặt trong truyền thống biểu hiện có phần dè dặt của thơ tình phương Đông, cách tôn vinh tình yêu và người con gái mình yêu thành thật và mạnh mẽ thế này không hẳn là phổ biến:
- Anh yêu em và anh tồn tại
- Anh có lại niềm vui và sức lực
Nhờ em cho em đời sống của anh ơi
- Phải xa em anh chẳng còn gì nữa
Chẳng còn gì kể cả nỗi cô đơn
- Chỉ tin nơi nào có em đến ở
Của chỉ sống bằng hơi thở của em thôi...
Như vậy, Lưu Quang Vũ yêu đến đắm đuối, say mê, yêu bằng cả sự rối rít của tâm hồn, và cũng chẳng khác gì "ông hoàng của tình yêu"- Xuân Diệu, anh cũng công khai thừa nhận cái đắm đuối, say mê ấy. Và cũng chính vì yêu thương tha thiết bằng cả tấm lòng, nên có lúc anh cũng thật buồn bã cô đơn khi không được người thấu hiểu. Hành trình đi tìm hạnh phúc, đi tìm tình yêu đích thực của Lưu Quang Vũ thật lắm gian truân, nhưng với niềm đàm mê và khát vọng cháy bỏng, cuối cùng thì anh đã sở hữu được những điều anh hằng mong ước: "Dù sao cuộc đời đã dành em lại cho anh, Điều mong ước đầu tiên điều ở lại sau cùng, Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất, Dẫu chỉ riêng điều đó là cố thất, Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời". Có em, anh như có tất cả, cả "sớm mai và tuổi trẻ", cả "niềm tin và sức lực",... và đặc biệt hơn là cả nguồn thi hứng vô biên, vì em chính là "người nổi gió những vần thơ có cánh" trong anh.
2.2.3. Tình yêu và những vẻ đẹp của muôn mặt đời thường
2.2.3.1. Tình yêu trần thế mà lý tưởng
Tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ rất trần thế, ấm áp, gắn với một hình dung, dáng hình cụ thể: vai em, mắt em, ngón tay em, hơi thở em, áo em, nhành mi, tóc lòa xòa, vai trần, hàm răng, chiếc áo,... Nhưng trần thế mà không phàm tục vì nó có xu hướng vươn tới sự lý tưởng hóa, mỹ hóa trong thơ. Chúng ta hãy thử khám phá hình ảnh người con gái trong thơ anh.
Người con gái trong thơ anh bao giờ cũng đẹp, dù đó là những vẻ đẹp khác nhau. "Em" có thể là một nhành mi xanh biếc, là trái cây mùa hạ nắng, là dòng sông êm ả, là hoa hồng trong vạt áo, là mắt một mí, là con chim sẻ tóc xù, là con tàu xứ lạ, là bông cúc nhỏ hoa vàng, là bóng cây, là bếp lửa, là diệu kỳ như âm nhạc, là tia nắng, là như lụa và như lửa,... Nhất là như "lửa" với ý nghĩa là hơi ấm, là ánh sáng, là sự chở che. "Em" còn được hiện diện qua vô số những hình dung khác: em cô đơn như biển, em gầy như huệ trắng xanh, em xanh xao ốm dậy, em như con tàu sáng ra biến mất, em kỳ lạ tôi vừa yêu vừa sợ, em ẩn hiện sao còn xa lạ thế,... Có gì đâu, tình yêu mãi mãi là điều kỳ diệu, vừa bí ẩn, vừa rõ ràng, khám phá mãi không cùng. Cho nên, dù có đưa ra bao nhiêu so sánh, Lưu Quang Vũ vẫn luôn có sự ngỡ ngàng về người con gái đã tưởng chừng thân thuộc: "Sống bên em thấm thoát tháng năm trôi, Lòng sao vẫn ngỡ ngàng như mới gặp", và "Đã quen lắm anh vẫn còn bỡ ngỡ, Gọi tên em môi vẫn lạ lùng sao". Điều này lý giải vì sao Lưu Quang Vũ luôn đưa ra hàng loạt các hình ảnh so sánh liên tiếp để nói về "em", và nhân vật này bao giờ cũng hiện ra thật sinh động, thật lộng lẫy, say mê:
- Tóc của đêm dài mắt của trời xanh
Mắt của phương xa tay của đất nâu lành
- Người yêu như lụa và như lửa
Bản nhạc ngày xưa con tàu xứ lạ
Nắng cuối mùa đông hoa chớm thu
- Em gầy như huệ trắng xanh
Ngọn lửa nhỏ giữa hai bờ kiêu hãnh
- Em cô đơn như biển lạ lùng ơi
- Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa...
2.2.3.2. Tình yêu và nhân cách
Thơ tình Lưu Quang Vũ rất đa dạng trong các cung bậc biểu hiện: có hạnh phúc khổ đau, tuyệt vọng - hy vọng, hàm ơn - trách giận, gặp gỡ - chia ly, hoài nghi - tin tưởng,... Trong sự cảm thụ niềm hạnh phúc đã cho thấy nhân cách con người. Song nhân cách ấy hẳn nhiên bộc lộ rõ hơn, mạnh mẽ hơn khi phải đối mặt với những đau khổ do tình yêu mang đến.
Đây là sự muộn màng, tiếc nuối: "Chúng ta gặp nhau quá muộn trong đời, Chúng ta cách xa nhau như buổi sáng cách buổi chiều chẳng dám mong một lần gặp gỡ...". Đây là sự thất vọng, trách giận: "Sao chân em giẫm đạp, Lên những gì tôi yêu?". Lưu Quang Vũ sợ nhất hai tâm hồn thiếu sự sẻ chia, thấu hiểu: "Những chuyến tôi đi sao em không hiểu?", "Em có đi được với hắn không?", "Em đi em nghĩ gì?",... Những câu hỏi vang lên, xoáy xiết.
Khi hai tâm hồn không còn thấu hiểu, tình yêu sẽ tan vỡ cùng với vị đắng chát, cùng với khổ đau, thất vọng. Trong những tình cảnh ấy, nhân vật trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ muốn tung bứt lên, đối mặt với nỗi đau của chính mình:
- Tôi ảo tưởng quá nhiều ư?
Có lẽ Em cần gì gió lốc của đời tôi.
- Hai ta không đi một ngả đường dài
Không chung khổ đau, không cùng nhịp thở
Những gì em cần anh chẳng có
Em không màng những ngọn gió anh trao...
Những vần thơ chia ly có chua chát, đắng cay nhưng bao dung, chấp nhận:
Cánh chim vàng lạc đến đỉnh rừng hoang
Nay trở lại với cỏ mềm quả ngọt
Hãy ra đi sung sướng...
(Từ biệt)
Trong cõi miền riêng tư của Lưu Quang Vũ chúng ta không mong chia sẻ, song chúng ta có thể chia sẻ với sự dũng cảm đối mặt với nỗi đau, vượt lên trên đau khổ, để lại vươn lên, lại tin yêu ở cuộc sống và tình yêu.
Nhân vật trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ đã luôn giữ được sự bao dung nồng ấm của trái tim, không bị cằn khô đi trong tan vỡ, mất mát. Tôn vinh người con gái bao nhiêu anh lại càng khiêm nhường bấy nhiêu khi nói về bản thân mình:
Anh như sông cứ muốn chảy ngược dòng
Khi tuyệt vọng không muốn làm em khổ
Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió
Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em...
(Không đề)
Anh muốn có ích cho người anh thương mến, dù chỉ làm "ngọn gió nhỏ trên trán em kiêu hãnh, Làm cốc nước em cầm trưa nắng gắt, Làm con đường quen thuộc để em quà",... Tất cả là cho em, thậm chí "Không làm thơ anh sẽ làm lá cỏ, Chỉ xanh thôi cũng mát mắt em nhìn".
Yêu đến quên mình, mãnh liệt và bao dung. Vừa biết nắm trong tay một hạnh phúc đời thường, vừa khát khao một tình yêu lý tưởng. Những phẩm chất ấy của nhân vật trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ đã xây dựng nên chân dung một người tình lý tưởng. Chính vì vậy những bài thơ rất riêng tư, những bài thơ số phận của Lưu Quang Vũ có sức cuốn hút nhiều người, nó thể hiện khát vọng về một tình yêu vừa trần thế vừa lý tưởng, vừa nồng nàn chân thật, vừa lãng mạn bay bổng. Với Lưu Quang Vũ tình yêu là số phận. Tình yêu là sự đàm mê, là cứu cánh của cuộc đời. Thơ tình Lưu Quang Vũ đã minh chứng cho quan niệm nghệ thuật của anh: Thơ là phần đẹp nhất, bay bổng nhất của cuộc đời: "Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”.
Chương 3:
HÌNH ẢNH VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ LƯU QUANG VŨ
Thơ Lưu Quang Vũ là kết quả của một quá trình sáng tạo nghệ thuật đích thực, góp phần làm phong phú thêm gương mặt của nền thơ Việt Nam hiện đại. Để đạt được thành công này, không chỉ cần có vốn sống, tình cảm sâu sắc, nguồn cảm hứng sáng tạo mãnh liệt mà còn phải có khả năng lựa chọn được các hình thức biểu hiện thích hợp để tạo được sự hài hòa cao nhất với nội dung. Hình thức biểu hiện của thơ ca bao gồm nhiều mặt: ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, giọng điệu, kết cấu bài thơ,... Ở đây, trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến cách thức tạo dựng hệ thống hình ảnh và giọng điệu trong thơ Lưu Quang Vũ chứ không đi vào các yếu tố hình thức khác. Vì theo chúng tôi đây là hai đặc điểm hình thức nổi bật nhất, góp phần quan trọng trong việc tạo nên phong cách thơ độc đáo, không trộn lẫn của hồn thơ Lưu Quang Vũ.
Thơ Lưu Quang Vũ ra đời đã sớm nhận được sự quan tâm của nhiều nhà phê bình có danh tiếng, mỗi người có cách tiếp cận riêng về vẻ đẹp của hồn thơ này. Hoài Thanh nhận ra ở anh "một tiếng nói nhẹ mà sâu", với "ngôn ngữ nắm rất chắc. Chữ dùng chính xác mà uyển chuyển, rất Việt Nam" [20, 19]. Lê Đình Kỵ thấy ở thơ anh "một điệu tâm hồn riêng và không thiếu tâm tình, một tâm tình sâu sắc tự nhiên..." [20, 29]. Vũ Quần Phương lại nhận thấy đây là "một giọng thơ rất đắm đuối" [20, 37]. Còn nhà thơ Anh Ngọc thì nhận định: "Đó là một hồn thơ tràn đầy mẫn cảm, đằm thắm, tha thiết đến ngọt lịm" [18, 182]. Để thấy bản sắc riêng của hồn thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta hãy bắt đầu từ việc tìm hiểu khả năng tạo dựng hình ảnh của nhà thơ.
3.1. NHỮNG HÌNH ẢNH QUEN THUỘC VÀ ĐA NGHĨA
Đối với thi ca, hình ảnh là một yếu tố rất quan trọng, bởi nhờ có hệ thống hình ảnh nhà thơ mới có thể bộc lộ cảm xúc của mình. Hà Minh Đức cho rằng: "Một trong những hình thức phổ biến nhất mà các nhà thơ thường vận dụng là sự chọn lọc những hình ảnh cụ thể để nói lên cảm xúc. Hình ảnh ở đây vừa là một đơn vị của một nội dung có ý nghĩa khách quan, vừa là nhân tố để biểu hiện cảm xúc" [8, 145]. Trong thơ Lưu Quang Vũ, thế giới hình ảnh rất phong phú và đa dạng. Trong đó những hình ảnh quen thuộc như: Mưa, Gió, Biển, Ngọn lửa, Bức tường, Cửa kính, Con đường, Bến cảng, Con thuyền, Con tàu, Hồ xa, Quả chuông, v.v... thường được xuất hiện nhiều lần trong thơ anh. Những hình ảnh này là nơi để nhà thơ gởi gắm tâm tư, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình trước cuộc đời. Qua những hình ảnh này, người đọc có thể thấy được cá tính sáng tạo cũng như những trăn trở băn khoăn của bản thân nhà thơ. Trong đó có không ít hình ảnh tiêu biểu cho hồn thơ Lưu Quang Vũ. Bởi anh rất giàu cảm xúc nên những hình ảnh vốn quen thuộc xung quanh chúng ta khi đi vào thơ anh đều trở nên mới lạ, sống động và đầy ý nghĩa. Trong đó có những hình ảnh được lặp đi lặp lại nhiều lần với tần số dày đặc như hình ảnh mưa, gió, ngọn lửa, con tàu, cửa kính. Đặc biệt trong thơ anh còn có sự xuất hiện nhiều lần của hình ảnh quả chuông như là một sáng tạo độc đáo của anh. Chính sự xuất hiện của các hình ảnh này đã tạo nên một hệ thống hình ảnh "ám ảnh" trong thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ. Nó làm tăng giá trị gợi cảm, thẩm mỹ, nghệ thuật cho các tác phẩm của anh, tạo nên một bút pháp riêng biệt, khó trộn lẫn. Ở đây, trong khuôn khô của luận văn, người viết chỉ lựa chọn những hình ảnh quen thuộc nhưng mang nhiều ý nghĩa nhất, có giá trị tiêu biểu nhất nhằm biểu thị cho thế giới tâm hồn phong phú của nhà thơ.
3.1.1. Hình ảnh ngọn gió
Gió là một yếu tố của không gian vũ trụ, từng khuấy động và làm khao khát tâm hồn bao thi nhân đông tây kim cổ. Tản Đà đã từng cất lời than với gió: "Gió hỡi gió phong trần ta đã chán, Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong". Xuân Diệu lại thấy gió như một con người mang "bao điều ảo não của nhân sinh": "Gió vừa chạy, vừa rên, vừa tắt thở, Đem trái tim làm uất cả không gian",... Lưu Quang Vũ là con người nhiều ước mơ và khát vọng, anh luôn náo nức muốn khai phá, tìm kiếm "những chân trời chưa tới được". Vì thế, hình ảnh "ngọn gió" đã khơi nguồn sáng tạo mãnh liệt nơi anh, bởi bản chất của gió rất hợp với "cái tạng" của anh. Gió đã nói hộ anh biết bao điều. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh ngọn gió xuất hiện rất nhiều trong thơ Lưu Quang Vũ. Qua thống kê trong 121 bài thơ, chúng tôi thấy "gió" xuất hiện đến 122 lần. Có bài thơ gió là hình tượng trung tâm của cả bài "Mùa gió", "Chiều chuyển gió", "Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi",... Đặc biệt trong bài thơ "Giơ và tình yêu thổi trên đất nước tói", hình ảnh ngọn gió xuất hiện với tần số dày đặc, 25 lần, ngoài ra còn có từ "heo may", "nồm nam" cũng để chỉ gió. Gió xuất hiện trong thơ Lưu Quang Vũ với những biểu hiện rất phong phú: gió thổi, gió hú, gió chuyển, gió mát, gió nóng, gió lạnh, gió độc, gió lốc, gió bấc, gió dữ, gió điên, gió hoang, gió ngợp,... và nhiều nhất là gió lộng. Và nếu như "mây trắng" là hình ảnh được dùng để ví với thơ Lưu Quang Vũ, thì "ngọn gió" có thể dùng để ví cho đời anh, một cuộc đời trải qua nhiều gió bão, luôn không yên ổn...
Gió là một hiện tượng tự nhiên vô hình, luôn hiện diện xung quanh chúng ta nhưng không ai có thể nhìn thấy hay nắm bắt được, và Lưu Quang Vũ đã thể hiện bản chất này của gió trong thơ: "Như gió nước không thể nào nắm bắt", "Như gió hoang không hình không giới hạn, Chỉ có gió em làm sao thấy được". Gió như một vị thần linh "tung hoành trong ngang dọc không trung", không có ngỏ ngách hay xó xỉnh nào mà gió không đến được. Lưu Quang Vũ rất thích đặc tính này của gió. Bởi như gió, anh có thể bới tung những vấn đề mà người khác che đậy, dấu điếm, dám nói và dám làm những điều mình thấy cần thiết, những điều mà thậm chí không mấy ai dám nghĩ đến: "Khi bè bạn gặp nhau có người theo dõi, Thầm thì không dám nói to, Khi những bài thơ anh viết ra, Chỉ có mình anh đọc",... Như gió anh không thể yên ổn, bằng lòng trong những cái khuôn phép, lừng chừng: "Cửa kính đóng xong anh đưa tay đập vỡ, Đời anh ổn định rồi anh còn muốn phá tung'',...
Cuộc đời Lưu Quang Vũ gắn liền với gió, song hành với gió: “Tôi lớn lên trong ngọn gió nhà ga" và nếm trải "Ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt". Anh đến với tình yêu cũng với sức gió, mạnh mẽ và khoáng đạt: "Anh mở gió tâm hồn cho buồm thắm kéo lên". Khi được yêu: "Em có nghe đất trời đang náo động, Như tình em nổi gió giữa hồn anh". Những ngày chưa có em: "Anh như một toa tàu bỏ vắng, Rất nhiều gió thổi qua cửa lạnh". Và khi đã có em: "Em đã tới diệu kỹ như âm nhạc, Đất mênh mông chuyển gió tới chân trời", ở cuộc tình đầu tiên, đầy đắm say và mơ mộng, anh như bay bổng trong đôi cánh của gió. Gió như một thông điệp để gởi tới người anh yêu dấu: "Ở nơi xa em có nhớ gió ân tình". Và anh đến với cuộc tình thứ hai cũng trong khung trời đầy gió: "Trời chuyển gió sắp quay cuồng bão lớn". Để rồi khi thất bại anh lại buồn bã ẩn mình trong ngọn gió: "Bây giờ anh trong suốt như không khí, Như gió hoang không hình không giới hạn, Chỉ có gió em làm sao thấy được". Khi tuyệt vọng: "Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió, Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em". Khi hạnh phúc trong mối tình thứ ba, gió cũng hiện diện: "Mùa gió mới nhờ em tôi có lại", "Nằm bên em nghe gió suốt đêm dài",... Có thể nói cuộc đời Lưu Quang Vũ luôn quay trong gió. Đến nỗi có lúc bế tắc, tuyệt vọng anh đành thú nhận: "Đã có lần tôi muốn nguôi yên, Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng", nhưng đã là gió thì làm sao mà lặng được, nên anh vẫn sống đúng với con người của anh, với "những yêu thương khao khát" của đời anh.
Ngọn gió trong thơ Lưu
Quang Vũ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Gió trong thơ
anh biểu trưng cho sự hủy diệt của chiến tranh, gió đi liền với mưa bom, bão đạn
và lửa cháy:
Gió hú ầm ào qua gạch vỡ
Người chết vùi thân dưới hố bom
Kẻ sống vật vờ không chốn ở
Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường...
(Đêm đông chí uống rượu...)
Người chập choạng tìm nơi ẩn nấp
Gió ù ù trên mái ngói bom xô
Lửa cháy đỏ trời bốn phía ngoại ô...
(Ghi vội một đêm 1972)
Gió biểu trưng cho sự đói nghèo, đổ vỡ:
Phố nghèo hút gió
Dưới vòm cây run rẩy tối đen...
(Cầu nguyện)
Gió đã thổi ngàn cây nến tắt
Khói bay mù mịt
Gã thất nghiệp đi lang thang
Túi rách không tiền mua nến...
(Những ngọn nến)
Nhưng gió cũng là biểu tượng của sức mạnh hồi sinh:
Bếp lửa tắt, gió lại bùng than đỏ
Không hình dáng vẫn nhận ra ngọn gió
Khi ngàn cây bông lật lá sáng chiều...
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Vì gió đem lại sự tươi mát, hồi sinh nên Lưu Quang Vũ ước ao được hóa thành ngọn gió:
Ước chỉ được hóa thành ngọn gió
Để sưởi ấm những đỉnh đèo buốt giá
Để mát rượi những mái nhà nắng lửa
Để luôn luôn được trở lại với đời...
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Chúng ta tin rằng những ước nguyện của anh sẽ được "gió thổi bùng". Anh sẽ là ngọn gió mát để đêm ngày vẫn thổi quanh chúng ta, và thơ anh sẽ là mây để che mát tâm hồn chúng ta.
3.1.2. Hình ảnh mưa
Cũng như hình ảnh ngọn gió, mưa gợi nhiều cảm hứng sáng tạo cho người nghệ sĩ. Có thể nói không gian mưa rất thích hợp để con người phơi bày tâm trạng, đặc biệt là tâm trạng cô đơn, buồn bã. Đã đành, niềm vui hay nỗi buồn là do tự ở lòng người, không phải do ngoại giới chi phối. Nhưng nếu so sánh giữa tia nắng và giọt mưa thì tia nắng dễ đem lại cho con người niềm vui hơn âm thanh của những giọt mưa, tiếng mưa rơi "rả rích, tí tách" rất dễ bắt nhạy với phần yếu mềm của tâm trạng. Bởi thế mà Huy Cận - nhà thơ mang "nỗi sầu thiên cổ" trước cách mạng đã cho ra đời bài thơ một bài thơ rất nổi tiếng trong đêm mưa:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương giọt nước mái nhà
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chan xa vắng dặm mòn lẻ loi...
(Buồn đêm mưa)
Lưu Quang Vũ có nhiều bài thơ viết về mưa: "Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa", "Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa", "Mưa dữ dội trên đường phô trên mái nhà ", "Mưa",... và nhiều bài thơ khác có nhắc đến hình ảnh mưa. Mưa được nhắc đến 89 lần/ 121 bài thơ trong "Lưu Quang Vũ - thơ và đời". Vì thế Vương Trí Nhàn đã nhận định về Lưu Quang Vũ như sau: "Trong các thi sĩ cùng thời anh là người nhạy cảm và thân thuộc với mưa hơn ai hết" [20, 69]. Bởi, nếu so với các thi sĩ cùng thời, anh cũng là người mang nhiều nỗi niềm tâm trạng nhất: đau khổ, cô đơn, bế tắc, thất vọng,... Lẽ thường, mưa sẽ hợp với "cái tạng" của anh hơn cả.
Cảm nhận đầu tiên về mưa trong thơ Lưu Quang Vũ là mưa sẽ "xóa nhòa" đi nhiều thứ tốt đẹp mà con người luôn mong được giữ gìn, điều đó cho thấy sự trôi qua của thời gian mà con người đành bất lực, không sao níu kéo được:
Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Xóa nhòa đi những điều em hứa
Mây đen tới trời chẳng còn xanh nữa
Nắng không trong như nắng buổi ban đầu...
Cơn mưa rào nối trận mưa ngâu
Xoa cả dấu chân em về buổi ấy...
Cây lá với người kia thay đổi cả
Em không còn màu mắt xưa...
(Anh chỉ sự rồi trời sẽ mưa)
Mang tâm sự buồn nản ưu phiền nhìn mưa, Lưu Quang Vũ cảm nhận như mưa hiện thực thấm dần vào tâm trạng mình: "Mưa trên đường xa, mưa trên cửa sổ tâm hồn". Mưa cho thấy cái mong manh hữu hạn của hạnh phúc đời người: "Hạnh phúc con người mong manh mưa sa". Mưa gợi tâm trạng luôn phấp phỏng, âu lo: "Mưa cướp đi ánh sáng của ngày, Đường chập choạng trăm mối lo khó gỡ, Thức chẳng yên dề dang giấc ngủ...". Mưa trong thơ Lưu Quang Vũ còn gợi lên một ấn tượng về cảnh tro than, ly tán, đổ vỡ trong chiến tranh: "Hạt mưa đen rơi trên ô kính vỡ", hay gợi lên cảm giác về một không gian xám lạnh, âm u: "Những chùa cổ chiều mưa rêu ướt lạnh". Mưa còn là điềm dữ báo trước những số phận:
Mưa không mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn
Quyển sách cữ bài thơ nhòe nét chữ
Em đã tin trời xanh ngoài cửa sổ
Trời đen sầm sập cửa nát vai em...
(Gửi một người bạn gái)
Nhưng Lưu Quang Vũ không chỉ nhìn mưa với màu sắc bi thương một chiều như thế mãi. Nỗi buồn của tâm trạng đã thuộc về một thời đã qua, khi tìm lại được "niềm vui và sức lực", anh đã nhìn thấy ở mưa biểu tượng của niềm vui, hạnh phúc. Cũng là mưa, nhưng mưa bây giờ không còn gợi cho anh cảm giác thảng thốt, lo âu, lạnh lẽo như trước kia nữa mà ngược lại, anh nhìn mưa trong tâm thế lạc quan, ấm áp hơn. Trong bài thơ "Mưa" anh đã viết những câu thơ rất đẹp, thể hiện một cách cảm nhận mới về hình ảnh mưa: "Mưa rộng dài xóa những nỗi lo riêng", "Mưa mát lành cuốn sạch mọi buồn lo",... Mưa đem lại sự tươi mát, hồi sinh:
Anh hãy nghe tiếng mưa, tiếng mưa
Trên những cánh đồng đất nâu tơi tả
ướt đẫm cả tiếng cười ướt đẫm cả lưỡi cày
cả hạt ngô mầm mạ...
Các tường nhà trong một sắc áo chung
Chùm vải sẽ sai quả mận sẽ hồng
Cửa kính ướt sẽ thành gương trong trẻo...
(Mưa)
Và quan trọng hơn, mưa còn là khúc hát của tình yêu:
Em đưa tay hứng những hàng mưa
Bàn tay như đài hoa, như búp lá...
Thôi anh đừng nhìn em, đừng nhìn em nữa
Em hiểu điều gì đã gắn bó đôi ta
Em hiểu điều gì... Ôi tiếng mưa, tiếng mưa...
Qua hình ảnh mưa trong thơ Lưa Quang Vũ, chúng tôi thấy mưa không chỉ là một hiện tượng tự nhiên thông thường mà nó còn là một phương tiện để nhà thơ bộc lộ tâm trạng, thể hiện những rung cảm trong sâu thẳm tâm hồn, để từ nó anh nhìn vào chính mình và nhìn ra thế giới xung quanh.
3.1.3. Hình ảnh ngọn lửa
Ngọn lửa, từ bao đời nay luôn là biểu tượng thiêng liêng của sự sống, đem lại ánh sáng, sự ấm áp cho con người và vạn vật. Đi vào thơ kháng chiến, ngọn lửa trở thành biểu tượng của sức mạnh ý chí và nghị lực, là biểu tượng rực cháy của niềm tin và hy vọng chiến thắng,... Nhiều nhà thơ đã rất thành công khi lấy cảm hứng từ hình ảnh ánh đèn, ngọn lửa,... Tiêu biểu là Bằng Việt với bài thơ “Bếp lửa", Phạm Tiến Duật với bài “Lửa đèn", Chính Hữu với bài "Ngọn đèn đứng gác", .. Cũng như các nhà thơ khác, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được nguồn cảm hứng dạt dào xoay quanh ánh lửa. Hình ảnh này xuất hiện 60 lần trong 121 bài thơ với những biểu hiện đa dạng: ngọn lửa, ánh lửa, đám lửa, bếp lửa, đống lửa, đốm lửa, lửa cháy, lửa đạn, lửa thắm, lửa ấm, lửa đỏ, lửa hồng,... Và cũng như những hình ảnh khác trong sáng tạo thi ca, ngọn lửa đi vào thơ Lưu Quang Vũ cũng vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng, ẩn dụ.
Ngọn lửa trong thơ anh trước hết biểu trưng cho sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, lửa gắn liền với bom đạn:
- Lửa cháy bom rơi ta cầm súng lên đường
- Lá khô cháy mịt mù gió lửa
- Em xa cách trong cắt chia lửa đạn
- Sau căm giận, cách chìa, sau lửa đạn
- Lửa cháy đỏ trời bốn phía ngoại ô
- Lữ trẻ nhỏ ngập chìm trong đạn lửa...
Từ lửa, biểu trưng của sự hủy diệt sự sống trong chiến tranh, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho lửa một sắc thái nghĩa khác, lửa là biểu tượng của sức mạnh bất diệt, lửa là phương tiện để con người đấu tranh chống bạo tàn:
- Hồn bạo chúa nghiến răng trong bụi cát
Mọi ngai vàng theo lửa hóa tro than
(Trung Hoa)
- Lửa đường không có mặt
Trong tay kẻ đốt nhà
Sẽ là tai ương khủng khiếp
Nhưng lửa của tình yêu khi tức giận
Sẽ ra tro mọi lồng củi mọi ngai vàng
Và những tên bạo chúa khôn ngoan
Hết ảo tưởng thôi van xin chờ đợi
Lửa sẽ bùng lên tự soi sáng cho mình...
(Mấy đoạn thơ về lửa)
Và đặc biệt, trong thơ Lưu Quang Vũ hình ảnh ngọn lửa được gắn chặt trong mối quan hệ với thơ ca - lửa là phương tiện để các nhà thơ thực hiện sứ mệnh thiêng liêng và cao cả của mình. Đối với anh, lửa chính là hình ảnh ẩn dụ của tình yêu, của khát vọng vươn lên, là ánh sáng soi đường cho con người đến với nhau, sống tốt đẹp hơn. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà trong thơ, Lưu Quang Vũ nói nhiều đến vai trò và sứ mệnh của thơ ca qua hình ảnh ngọn lửa:
- Thơ là bó đuốc đốt thiêu, là bàn tay thắp lửa
- Để thơ anh mang lửa đến cho đời
Trên chữ tài, chữ tâm kia phải lớn
-Thơ không bao giờ câm lặng
Như nhịp đập của trái tim trung thực...
Là ngọn lửa trắng trong
Trên lịch sử tối tăm trên tro bụi...
Ngọn lửa trong thơ Lưu Quang Vũ còn mang những hàm nghĩa khác, lửa là biểu tượng của sự sống trường tồn, từ đó soi rọi vào nhân dân, anh thấy: "Nhân dân có gì giống lửa phải không anh, Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt". Ý nghĩa lớn lao này của lửa được Lưu Quang Vũ đúc kết lại trong đoạn cuối bài thơ "Mấy đoạn thơ về lửa":
Sự sống là lửa
Thiêu hủy và sinh nở
Bình minh là lửa
Mở ngày mới và xé toang ngày cũ...
Nhưng đối với Lưu Quang Vũ, lửa không chỉ là biểu tượng của những điều lớn lao, cao cả, mà lửa còn rất gần gũi, thiết thực trong cuộc sống đời thường. Nếu như mưa mát mẻ, xoa dịu, ru ngủ con người thì sự hiện diện của ngọn lửa khiến con người khao khát sống mạnh mẽ hơn, thực tế hơn. Hàng loạt từ "để" được lặp lại trong đoạn thơ sau đã gây ấn tượng về một trạng thái tinh thần đang căng thẳng, muốn tung bứt, vượt thoát khỏi những điều tẻ nhạt tầm thường:
Mưa mát mẻ trong thơ anh
Là bàn tay êm dịu vuốt xoa
Tôi chẳng thèm nghe nữa
Hãy cho tôi chút lửa
Trong ngôi nhà mùa đông
Để tôi nướng sắn ăn
Để tôi sưởi ấm
Để tôi đốt rừng gai đen rậm
Chống lũ rắn thiêu bầy muỗi độc...
Để tôi soi tỏ mặt người yêu...
Và quan trọng hơn, lửa còn là biểu tượng của tình yêu, của hạnh phúc gia đình. Nhiều lần anh đã ví: "Người yêu như lửa và như lụa", "Em là bóng cây, em là bếp lửa",... Ấm áp, lung linh trong các trang thơ anh là hình ảnh một người vợ hiền bên ngọn lửa hồng. Đây là nơi để tâm hồn từng cô đơn lạnh giá của anh được chở che và sưởi ấm:
- Anh đi lủi thủi trên đường
Đánh mất niềm tin tìm về bếp lửa.
- Em là bóng cây, em là bếp lửa
Che mát và sưởi ấm lòng anh
- Mọi tên tuổi vinh dự chỉ hư danh
Chẳng nghĩa lý bằng chiều nay em nhóm bếp...
Như vậy, qua thơ, Lưu Quang Vũ đã mang lại nhiều sắc thái nghĩa mới cho hình ảnh ngọn lửa. Ngọn lửa trong thơ anh không chỉ tượng trưng cho sự sống, ánh sáng, sự ấm áp mà còn là biểu tượng của chiến tranh, của hạnh phúc, tình yêu, của sứ mệnh thi ca,... Và một lần nữa, Lưu Quang Vũ không chỉ ao ước được hóa thành ngọn gió: "để được ôm trọn vẹn nước non này", mà anh còn có một ước vọng khác, ấy là: được làm ngọn lửa: "Cho ta làm ngọn lửa". Ngọn lửa với những hàm nghĩa tốt đẹp nhất của từ này.
3.1.4. Hình ảnh con tàu, bức tường, quả chuông
Ngoài những hình ảnh quen thuộc như gió, mưa, ngọn lửa xuất hiện nhiều lần với những nét nghĩa biểu trưng như trên, thì các hình ảnh khác như: Con tàu, Bức tường, Cửa kính, Quả chuông,... cũng xuất hiện với tần số cao trong thơ Lưu Quang Vũ. Hình ảnh Con tàu: 48 lần/ 121 bài, Bức tường: 1 lần/ 121 bài, Cửa kính: 12 lần/ 121 bài, Quả chuông: 14 lần/ 121 bài. Nhưng quan trọng hơn không phải ở số lần xuất hiện nhiều hay ít mà là ở ý nghĩa mà Lưu Quang Vũ đã gởi gắm qua các hình ảnh. Từ những hình ảnh cụ thể, khi đi vào thơ Lưu Quang Vũ nó đã trở thành những hình ảnh tượng trưng do được bồi đắp bằng sự liên tưởng phong phú và cảm xúc bay bổng của anh. Sự lựa chọn và sử dụng các hình ảnh này đã tạo nên một điểm tựa vững chắc để anh diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của mình một cách sâu sắc, tinh tế hơn.
Hình ảnh con tàu trong thơ Lưu Quang Vũ cũng rất đa nghĩa. Con tàu trong ý nghĩa cụ thể của nó là biểu hiện của sự chia xa: "Người đã lên đường, tàu đã đi xa", nhưng cũng là sự gặp gỡ sum họp: “Chuyến tàu vui vẫn sum họp đúng giờ". Đồng thời nó cũng mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Trước hết, con tàu được dùng để ví cho sự cô đơn, hoang vắng, của cõi lòng nhà thơ: "Đời cũng giống như biển kia anh lại giống con tàu, Tàu anh đi hoài trên biển vắng, Mong tìm gặp được một bóng hình bè bạn...", "Anh như một toa tàu bỏ vắng, Rất nhiều gió thổi qua cửa lạnh", "Những con tàu không lái buồm chí hướng", "Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tàu",... Cũng có khi con tàu được dùng để thể hiện khao khát muốn ra đi để khám phá, tìm kiếm một "miền xa xôi" nào đó: "Anh vẫn như con tàu, Luôn luôn bồn chồn ra đi”, "Đời tôi những chuyến ra đi, Tàu thủy kéo còi buồn bã", "Muốn lên tàu ra đi thật xa", "Một con tàu xuyên bóng tối, đi về miền xa xôi",... Nơi xa xôi mà anh mơ tới đó có thể là nơi "Không có lo âu buồn khổ, Con người được nghỉ ngơi ở giữa con người". Và con tàu chính là một phương tiện để đưa con người đến tới nơi ấy: "Tay chúng ta sẽ kết một con tàu, Cặp bến đẹp của những ngày vui sướng". Con tàu trong mơ ấy luôn lao tới phía trước trong ánh sáng của niềm tin và hy vọng: "Tàu lửa bay vụt sáng cánh đồng khuya", cái đích mà con tàu hướng tới cũng tràn đầy ánh sáng: "Những con tàu đang chạy tới một vầng trăng"...
Lưu Quang Vũ là con người rất nhạy cảm với nỗi cô đơn, trong thơ anh có nhiều câu được viết từ sự liên tưởng độc đáo giữa trạng thái nội tâm của anh với những hình ảnh như: bức tường, cửa kính, hàng rào,...: "Thế giới có bao nhiêu tường vách, Ngăn cản con người đến với nhau", "Những tường cao chia rẽ con người", "Những bức tường dựng đứng quanh tôi", "Phía nào cũng hàng rào trước mặt", "Mỗi con người một vật thể cô đơn, Nhìn rõ nhau qua cửa kính trống trơn, Không thể nghe nhau, không thể nói",... Điều đó cho thấy anh luôn bị vây bọc trong nỗi cô đơn và rất mong được giao hòa với con người và thế giới xung quanh. Hình ảnh bức tường, hàng rào, cửa kính,... tuy khác nhau nhưng khi đi vào thơ Lưu Quang Vũ thì ý nghĩa ẩn dụ của nó chỉ là một, nó tượng trưng cho sự ngăn cách, giới hạn giữa con người với con người mà anh luôn khát khao được xóa bỏ.
Trong thơ Lưu Quang Vũ còn có sự xuất hiện của một hình ảnh "tuy quen mà rất lạ" trong thơ, ấy là hình ảnh Quả chuông. Sự hiện diện của nó đã đem lại sự độc đáo, mới lạ cho các trang thơ của anh. Âm thanh ngân nga, vang vọng của tiếng chuông từng gợi cảm hứng sáng tác cho bao thi nhân, từ các nhà thơ cổ điển Việt Nam cho đến các thi sĩ lãng mạn phương Tây. Thơ Việt Nam hiện đại nói chung, rất ít thấy sự xuất hiện của hình ảnh này. Riêng trong thơ Lưu Quang Vũ thì lại xuất hiện nhiều câu thơ hay có hình ảnh quả chuông: "Tình yêu tôi như một tiếng chuông dài", "Tim anh đập như quả chuông bé nhỏ, Dưới hồi chuông vô tận của trời xanh", "Những quả chuông thủy tinh, Ngân vang trong ánh sáng", "Những quả chuông ghép từ ánh sáng, Dành cho em vang bóng của mùa hè", "Quả chuông vàng đang đánh ở nơi đâu", "Quả chuông nào đang đánh ở nơi đâu",... Sự hiện diện của những câu thơ này đã góp phần in đậm dấu ấn phong cách của anh. Nếu như trong thơ Lưu Quang Vũ hình ảnh bức tường, cửa kính, hàng rào,... đem lại cảm giác về sự cô đơn, ngăn cách, giới hạn,... thì hình ảnh quả chuông lại mang ý nghĩa ngược lại. Âm thanh của tiếng chuông gợi cảm giác reo vui, nó phá vỡ sự cô đơn, gieo vào sâu thẳm lòng người niềm hy vọng, tình thương và cao hơn nữa là lý tưởng. Sự hiện diện của hình ảnh quả chuông trong thơ Lưu Quang Vũ tuy không nhiều như những hình ảnh khác, nhưng nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện chiều sâu trong cảm xúc tâm hồn nhà thơ. Nó bộc lộ một khát vọng luôn vươn lên sống tích cực và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh. Tiếng chuông, bao giờ cũng là những tiếng gọi, đưa con người trở về với những chiều kích thiêng liêng nhất trong tâm hồn. Chính nhờ tiếng gọi này mà sự gặp gỡ giữa con người với nhau trong cuộc sống có ý nghĩa cao đẹp hơn. Và đó cũng là điều mà Lưu Quang Vũ hằng tâm niệm.
Sự hiện diện của các hình ảnh quen thuộc mà đa nghĩa trong thơ Lưu Quang Vũ đã góp phần quan trọng trong việc tôn tạo bản sắc và tâm hồn riêng của anh, không bị lẫn lộn trong vườn hoa đa sắc đa hương của nền thơ Việt Nam hiện đại. Nó góp phần tạo nên một chỗ đứng xứng đáng cho anh trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam.
3.2. GIỌNG ĐIỆU THƠ LƯU QUANG VŨ
Giọng điệu là một yếu tố cơ bản tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ, nó mang đậm tính chủ quan, cho phép ta nhận ra nét riêng, điệu hồn riêng của nhà thơ. Một nhà thơ tài năng bao giờ cũng tạo được một giọng điệu riêng, không trộn lẫn. Nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi thấy bao trùm phần lớn các trang thơ của anh là một giọng điệu buồn, da diết, đắm đuối. Chính giọng điệu này đã tạo ra nét riêng trong sáng tác của anh so với dòng thơ lúc bấy giờ. Cùng thời, Phạm Tiến Duật lại có giọng điệu mạnh mẽ, lạc quan, mang đôi chút khôi hài. Bằng Việt thì lại rất hồn hậu, nhẹ nhàng, thơ anh thường đan cài giữa quá khứ và hiện tại,... Vì thế, nằm trong dòng thơ chống Mỹ, với giọng điệu chung là hào sảng, lạc quan, Lưu Quang Vũ bị nhiều người coi là "lạc điệu" khi thể hiện cảm xúc của mình bằng một giọng điệu buồn, da diết và đắm đuối như thế. Nhưng hãy khoan vội "kết tội" thơ anh, khi có một "độ lùi" về thời gian, người ta sẽ thấy nỗi buồn ấy là chính đáng...
Như đã nói, cảm hứng trong thơ Lưu Quang Vũ là cảm hứng sự thực, thơ anh không tô vẻ, không lý tưởng hóa hiện thực mà trình bày nó với một cảm xúc rất thành thật, và vì thế anh cũng rất thành thực khi phô bày hiện thực tâm trạng của mình. Anh đã từng tâm sự với mẹ mình: "Tâm trạng con buồn, con không thể làm thơ vui. Còn nếu như có ai đó nghi ngờ thơ của con không trong sáng thì họ cứ việc đến đây. Con sẩn sàng đọc cho họ nghe tất cả những bài con đã làm" [20, 213]. Sự chân thực với mình và với mọi người là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Đem đến cho cuộc đời một tiếng nói chân tình, sâu sắc, bằng những rung động chân thực và sâu xa trong tâm hồn mình là đã thể hiện thái độ sống trung thực. Những bài thơ buồn, da diết và đắm đuối được toát ra từ tâm hồn thành thực ấy đã từng được viết trong sổ tay của nhiều người nhưng nó không làm cho ai cảm thấy bi lụy.
3.2.1. Giọng điệu buồn, da diết
Nếu như tập thơ đầu tay - “Hương cây" (20 bài) được Lưu Quang Vũ viết với giọng điệu trong trẻo lạc quan, thể hiện niềm vui của anh lính trẻ bước đầu đến với cuộc sống chiến đấu thì đọc những bài thơ Lưu Quang Vũ viết vào những năm đầu 70 ai cũng nhận thấy là nó buồn, nỗi buồn da diết dạn trải khắp các trang thơ. Thế nhưng, so với Huy Cận, giọng thơ sầu não bậc nhất trong phong trào thơ mới, thì Lưu Quang Vũ ít nhắc đến từ buồn hơn. Trong 50 bài của tập "Lửa thiêng", có đến 49 lần xuất hiện chữ "buồn", 33 lần xuất hiện chữ "sầu". Còn trong hai tập thơ "Bầy ong trong đêm sâu" (30 bài) và "Mây trắng của đời tôi" (40 bài) và khoảng 30 bài thơ riêng lẻ khác của Lưu Quang Vũ chỉ có 30 lần xuất hiện chữ "buồn". Dù vậy hầu hết các bài thơ này của Lưu Quang Vũ đều mang âm hưởng buồn, da diết.
Nếu như nỗi buồn bao trùm khắp không gian, thời gian trong thơ Huy Cận là vô duyên cớ, thì nỗi buồn trong thơ Lưu Quang Vũ lại có căn nguyên của nó. Thực tế đời sống của đất nước: chiến tranh, loạn lạc, đói nghèo,... khiến anh nhìn phía nào cũng chỉ thấy đau khổ, cơ cực. Nhức nhối, xót xa trước hiện thực làm cho các trang thơ anh luôn thấm đẫm nỗi buồn. Nỗi buồn trong thơ anh còn xuất phát từ hoàn cảnh riêng của cá nhân: gia đình tan vỡ, rời quân ngũ, thất nghiệp, phải trải qua nhiều nghề để kiếm sống,...
Tuy hội tụ nhiều nỗi đau buồn, nhưng thơ Lưu Quang Vũ không có những hình ảnh của nước mắt, không vật vã kêu than làm lây cái buồn sang cho người khác mà nỗi buồn ấy cứ lặng lẽ, ngấm sâu. Giọng điệu buồn thương, rách xé cứ canh cánh trong các trang thơ anh viết về đất nước, về chiến tranh, về tình yêu. Trong một bài thơ có cái tên rất dài "Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm, bác Khánh nói về những cuộc chùi tay thời loạn", tác giả đã dùng hàng loạt tính từ gợi cảm giác về sự lạnh lẽo, buồn chán, cô quạnh để dệt nên một không gian chiến tranh đầy bi kịch:
Nhang tàn lả tả rơi lưng cốc
Nhà lanh trần cao ngọn nến gầy
Chăn rách chiếu manh quần áo la
Chuyện dài đêm vắng rượu buồn say
Gió hú ầm ào qua gạch vỡ
Người chết vùi thân dưới hố bom
Kẻ sống vật vờ không chốn ở
Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường...
Trong không gian đổ vỡ, loạn lạc, tan tác của cảnh chiến tranh tàn khốc, các nhân vật chưa đầy 30 tuổi ấy trở nên già hẳn đi trong những nhận thức đau buồn về đời. Nỗi buồn bã, lo âu, thảng thốt hiện ra trên từng khuôn mặt:
Tối đen thành phố đêm lưu lạc
Máy bay giặc rít ở trên đầu
Ba đứa da vàng ngồi uống rượu
Mặt buồn như sỏi dưới hang sâu...
Lòng như vầng trăng nhọn
Chém giữa trời không nguôi.
Những điều trông thấy đã kết đọng trong lòng Lưu Quang Vũ một nỗi buồn không dễ nguôi ngoai. Nỗi buồn ấy còn được khắc hằn qua sự ám ảnh về "Những vườn dâu đánh mất". Vườn dâu đã mất, kéo theo sự dang dở một mối tình và bao nghịch cảnh éo le khác. cả bài thơ không có từ nào nói về nỗi buồn, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được một nỗi buồn day dứt xé tâm can qua những vần thơ ngắn gọn, súc tích nhưng dồn nén, chất chứa lắm ưu tư:
Trách nhau làm chi nữa
Người cùng em thành đôi
Bạn quen hay khách lạ
Em ở phía bên kia
Giữa ta là đạn lửa
Dẫu chồng em là kẻ
Dội bom xuống đất này
Anh cũng chẳng gọi em
Là kẻ thù cho được.
Trong cảnh chiến tranh, nhìn đâu cũng thấy chết chóc, tro than, loạn lạc, tối tăm,... thơ anh làm sao tránh được giọng điệu buồn thương, rách xé. Hiện thực thời chiến càng tăng sắc độ bi thương khi tương đồng với nỗi buồn của tâm trạng, và Lưu Quang Vũ đã diễn đạt nó trong thơ bằng chất giọng buồn thương, rách xé của anh: "Tôi chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh, Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao?", "Tôi lớn lên giữa thời bạo ngược, Biết trông đợi gì, biết tin cậy vào đâu?". Thơ anh có những câu gây ấn tượng mạnh với những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, liên tưởng thật độc đáo: "Hạt mưa đen ren trên ô kính vỡ", "Thếgiới xanh xao những sự thực gầy gò", "Thời đau khổ chung quanh đều đổ nát, Nỗi cô độc đen ngòm như miệng vực", "Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều, Rách tan cả những màn sương đẹp phủ, Chỉ còn lại nỗi buồn trơ núi đá", "Cỡ những lúc tâm hồn tôi rách nát, Như một chiếc lá khô như một chồng gạch vụn, Như một tấm gương chẳng biết soi gì",... Nhìn lại con đường mà dân tộc đã đi qua, Lưu Quang Vũ thấy một Việt Nam trải qua rất nhiều nỗi khổ: thiên tai, giặc giã, đói rét, lao động cực nhọc,... Đất đai thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của người dân. Trong bài thơ "Đất nước đàn bầu", cảm hứng về đất nước giàu có truyền thống văn hóa nhưng cũng lắm đau thương được anh thể hiện bằng một giọng thơ buồn, đắm đuối đến mê lòng.
Đặc biệt ở bài "Việt Nam ơi", trong nỗi buồn đến uất nghẹn, những câu thơ cứ tuôn trào cùng những câu hỏi vang lên xoáy xiết, dồn dập: Mảnh đất nghèo ứa máu
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ?
Đến bao giờ bông lứa
Là tình yêu của Người?
Đến bao giờ ngày vui
Như chim về bên cửa?
Đến bao giờ
Người mới được nghỉ ngơi
Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?
Đến bao giờ nữa đến bao giờ nữa Việt Nam ơi?
Từ cảnh ngộ của bản thân cộng thêm những nỗi đau chung đã dồn đẩy anh đến một trạng thái bế tắc, bất lực: "Tôi khao khát yêu người, Mà không sao yêu được", "Điều anh tin không có ở trên đời, Điều anh có không giúp gì ai được",... Nhưng trong lời than này ta cảm nhận được một sự trưởng thành trong nhận thức của anh, nó có tác dụng nâng đỡ những người cùng cảnh ngộ.
Và giọng điệu buồn, da diết còn được thể hiện rất rõ khi Lưu Quang Vũ viết về tình yêu, tạo nên những bài thơ tình đẹp và buồn. Nghiên cứu về cảm hứng tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy tình yêu ở đây mang rất nhiều sắc điệu: có trong sáng, đắm đuối, say mê, tin tưởng nhưng cũng đầy hoài nghi, thất vọng và đau đớn, nhưng bao giờ nó cũng có gì buồn buồn, lặng lặng. Tình yêu của anh dù trong sáng, đắm say cũng không tránh khỏi "gốc rễ" của giọng điệu buồn thương, da diết:
Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Xóa nhòa hết những điều em hứa
Mây đen tới trời chẳng còn xanh nữa
Nắng không trong như nắng buổi ban đầu...
Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Thương vườn cũ gãy cành và rụng trái
Áo em ướt để anh buồn khóc mãi
Ngày mai chúng mình ra sao em ơi?
(Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa)
Và đặc biệt trong đau khổ, mất mát thì giọng điệu buồn thương càng rõ nét hơn. Yêu thành thực và đắm đuối bao nhiêu thì tan vỡ, chia ly người ta lại càng đau buồn bấy nhiêu:
Hai ta không đi một ngả đường dài
Không chung khổ đau không cùng nhịp thở
Những gì em cần anh chẳng có
Em không màng những ngọn gió anh trao
Chiếc cốc tan không thể khác đâu em
Anh nào muốn nói những lời độc ác
Như dao cắt lòng anh như giấy nát
Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tàu...
(Từ biệt)
Giọng thơ buồn càng ám ảnh, khắc khoải hơn khi anh gặp phải sự tan nát, đổ vỡ một lần nữa. Sự đau buồn pha lẫn luyến tiếc, xót xa ở đây không cần che giấu:
Chúng ta gặp nhau quá muộn trong đời
Chúng ta cách nhau như buổi sáng cách buổi chiều
Chẳng dám mong một lần gặp gỡ...
Chúng ta gặp nhau quá muộn trong đời
Tôi chỉ là cây trong nỗi buồn bão gió...
Giọng điệu buồn còn được thể hiện ngay cả khi nhìn những sự vật, hiện tượng rất đỗi bình thường trong cuộc sống. Chỉ với hình ảnh chiếc "Áo cũ" thôi cũng đủ để gợi lên trong lòng anh bao kỷ niệm, bao cảm xúc thân thương và anh diễn dạt nó bằng những câu thơ rất xúc động: Áo cữ rồi mỗi ngày thêm ngắn
Chỉ đứt sờn màu bạc hai vai
Thương áo cũ như là thương ký ức
Đựng trong hồn cho mắt phải cay cay.
Kể cả những cảm xúc bâng khuâng, mơ hồ, dịu nhẹ của tuổi học trò được trang trải trong các trang thơ cũng thấm đẫm nỗi buồn thương: Hoa ti-gòn của T-T-KH
Bài thơ thời đi học nhớ không em
Bài thơ đắng cay tuy điệu mà buồn
Nay đọc lại chẳng còn rơi nước mắt
Hoa ti-gôn như trái tim vỡ nát
Chết âm thầm dưới những bước chân quen
(Hoa Ti-gôn)
Thơ Lưu Quang Vũ mang giọng buồn còn vì phần lớn các bài thơ được viết ra trong không gian mưa, hay trong thời gian đêm. Đêm và mưa là những hoàn cảnh sáng tác đặc biệt, nó luôn gợi cho con người cảm giác buồn, cô đơn, trống vắng.
Và giọng thơ buồn không chỉ được thể hiện qua hệ thống từ ngữ, hình ảnh mà còn được thể hiện qua nhịp thơ, thể thơ. Lưu Quang Vũ là người rất giàu cảm xúc, nên anh rất ưa dùng thể thơ tự do hoặc thể thơ 7 chữ, 8 chữ xen kẽ còn các thể thơ khác như thể lục bát thường gò bó về vần nhịp sẽ khó chuyển tải một cách chân thực những xúc cảm tuôn trào của anh nên rất ít được anh sử dụng (trong 121 bài thơ chỉ có 1 bài thuộc thể thơ lục bát). Ở thơ 7 chữ, 8 chữ Lưu Quang Vũ có thiên hướng sử dụng nhịp thơ chậm rãi, đều đều tạo âm hưởng êm ái, buông trôi khiến cho các bài thơ của anh đều có vẻ buồn buồn, lặng lặng:
Những ngày qua không thể dễ nguôi quên
Em lạc đến đời anh tia nắng rọi
Anh thuở ấy lòng thơm trang giấy mới
Mối tình đầu tóc dại tuổi mười lăm...
(Từ biệt)
Trong thơ anh ít thấy cái nhịp điệu gấp gấp, hối hả như thơ Xuân Diệu: Em phải nói, phải nói và phải nói
Bằng lời riêng nơi cuối mắt đầu mày
Bằng nét vui, bằng vẻ đẹp chiều say
Bằng đầu ngả, bằng miệng cười, tay riết.
(Phải nói - Xuân Diệu)
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ rất nhạy cảm với buồn đau của chính mình, nhạy cảm với những đau khổ của số phận con người, của đất nước, của nhân dân. Vì thế buồn thương là giọng điệu chủ yếu của nhà thơ. Nhưng cốt lõi trong tâm hồn tình cảm Lưu Quang Vũ vẫn là lòng yêu đời, yêu người, yêu cuộc sống, nến dù nhà thơ có buồn đến mấy đi nữa cũng không bao giờ buông tay, quay liửig lại với cuộc sống. Các câu thơ yêu đời, yêu người, khao khát vượt lên số phận có thể tìm thấy nhiều trong thơ anh: "Anh vẫn như ngày mười bảy tuổi, Ngực bồn chồn ước ao, Như chưa hề có chuyện khổ đau", "Anh đã khổ đau, khổ đau dài hơn số tuổi, vẫn trong lành khi em đến cầm tay", "Tôi chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn",... Chính nhờ những câu thơ này mà thế giới nghệ thuật thơ của anh trở nên cân đối, hài hòa hơn.
3.2.2. Giọng điệu đắm đuối
"Đọc thơ Lưu Quang Vũ", Vũ Quần Phương đã phát hiện ra chất giọng đắm đuối trong thơ anh. Ông viết: "Đắm đuối là đặc điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ. Vui hay buồn, tin cậy hay hoang mang... bao giờ anh cũng đắm đuối" (LQV- 36). Và chính cái chất giọng đắm đuối này đã tạo ra nét riêng cho thơ Vũ, vì nó ít thấy ở các nhà thơ cùng thời khác. Chất giọng đắm đuối này được tạo thành từ bút pháp riêng biệt của nhà thơ. Lưu Quang Vũ là con người rất nhạy cảm, vì thế thực tại được anh nắm bắt bằng giác quan rất tinh tế và phong phú. "Anh cảm thụ bằng cảm giác... Cảm giác gọi những ý thơ tuôn chảy. Tứ thơ tự hình thành trong quá trình cảm thụ" [20, 37]. Vì thế hầu như các bài thơ của anh đều được viết ra trong một cảm hứng ào ạt, liền mạch, không bị đứt nối, anh mãi mê với những cảm xúc của lòng mình mà ít "đếm xỉa đến các quy ước của ngoại cảnh". Điều đó đã tạo nên một chất giọng đắm đuối, lôi cuốn trong các tác phẩm của anh.
Vì Lưu Quang Vũ là người rất giàu cảm xúc và trí tưởng tượng, nên thế giới thơ anh đầy ắp các hình ảnh, cả cụ thể lẫn tưởng tượng, cả hiện thực và lãng mạn, cả thật và ảo,... Đặc biệt ở các bài thơ như: "Đất nước đàn bầu", "Trung Hoa", "Tiếng Việt", "Viết cho em từ cửa biển",... các hình ảnh này chất chồng, hòa quyện với nhau, tạo nên một chất giọng đắm đuối, lôi cuốn rất khó tả:
Trái sung non thì chát
Quả dọc già thì chua
Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa
Tóc hoang dại lòa xòa trên ngực nắng
Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn
Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê
Tôi thấm đầy nước mắt của trời khuya
Trăng đã hiện đêm ca dao vầng vặc
Những cô Tấm thử hài trong tiếng nhạc
Những nàng Kiều hồi hộp bấm dây tơ
Đêm sử thi náo động tiếng quân hò
Sôi trong máu những bầy voi nguyên thúy
Sáng trong mắt những rừng gươm chớp lóe....
(Đất nước đàn bầu)
Trong phần lớn các sáng tác của Lưu Quang Vũ, cái âm hưởng buồn buồn, da diết của các câu thơ bao giờ cũng khêu gợi, đánh thức vào hồn người đọc những kỷ niệm, những tưởng tượng của riêng họ. Đó cũng chính là chỗ tạo ra chất đắm đuối ở thơ anh. Chẳng hạn như các câu thơ sau:
Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông...
(Đất nước đàn bầu)
Ở nơi ấy có một đồi mua tím
Có con đường mát mịn bước chân đi
Ở nơi ấy có một rừng bưởi chín
Có người em bé nhỏ ngóng ta về...
(Nơi ấy)
Bên cạnh việc sử dụng hệ thống hình ảnh chi tiết, sinh động thì chất giọng đắm đuối trong thơ Lưu Quang Vũ còn được tạo nên do việc sử dụng hàng loạt những so sánh, liên tưởng rất trùng điệp. Những câu thơ này có thể tìm được trong rất nhiều bài thơ của anh như: "Mùa xoài chín", "Hoa tầm xuân", "Chiều chuyển gió", "Thu", "Nơi ấy", 'Vườn trong phố",...:
Nơi lá chuối che ngang như một cánh buồm
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
Se sẽ chứ, không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi
Dưa hấu bể ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa...
(Vườn trong phố)
Vẻ đắm đuối còn được gợi lên qua việc nhà thơ dùng hàng loạt những định ngữ nghệ thuật, tô đậm ấn tượng về sự vật: cỏ dại u buồn, ngôi sao bàng bạc, ngọn cỏ yếu mềm, rễ cây quằn quại, ngà voi nhọn hoắt, trời xanh đắm đuối, ngày đông xám ngắt, hồ xa vụt biến, đất trời náo động, hồi chuông nghiêng ngã,... Và việc nhà thơ dùng thể thơ tự do có dáng dấp văn xuôi, không theo những khuôn mẫu cố định mà do cảm xúc quy định cũng góp phần quan trọng trong việc thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của anh, khiến cho các câu thơ của anh đọc lên nghe thật tự nhiên, thoải mái như những lời nói tâm tình bình thường nhưng vẫn đầy chất thơ. Điều này cũng tạo nên sự lôi cuốn trong các tác phẩm của anh:
Những ngày chưa có em
Anh như suối lang thang trong núi
Chưa biết trung du chưa có bến thuyền
Những ngày chưa cổ em
Anh như một toa tàu bỏ vắng
Rất nhiều gió thổi qua cửa lạnh
Nhưng thiếu lửa thiếu tiếng còi không biết lối về ga...
(Những ngày chưa có em)
Như vậy, đắm đuối chính là bản sắc cảm xúc của Lưu Quang Vũ, giọng điệu đắm đuối đến trong thơ anh một cách tự nhiên, chân thành, giản dị mà da diết, nồng nàn. Điều ấy đã tạo cho thơ anh có sức lôi cuốn kỳ lạ ma không cần phải dụng công.
Trong dòng thơ lúc bấy giờ, với giọng điệu chung là hào sảng, ngợi ca thì việc xuất hiện một "hiện tượng lạc giọng" như Lưu Quang Vũ là một điều dễ gây chú ý. Và chính sự lạc điệu này một thời đã gây ra lắm vất vả cho đời anh. Thế nhưng Lưu Quang Vũ lại không mảy may quan tâm đến việc người ta bình giá về thơ anh như thế nào mà điều anh quan tâm chính là việc diễn đạt những cảm xúc chân thành của mình. Hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng được Lưu Quang Vũ đưa vào thơ với tất cả sự đắm đuối của tuổi trẻ. Thơ Lưu Quang Vũ lưu lại một ấn tượng khó phai trong lòng độc giả, vì đó là một hồn thơ với bút pháp riêng biệt, nó được tạo nên không phải bằng sự trau chuốt ngôn từ, mà bằng sự tuôn trào mãnh liệt của cảm xúc với những hình ảnh, những liên tưởng phong phú, bay bổng.
KẾT LUẬN
Bên cạnh những thành công vượt trội của một nhà viết kịch tài năng, Lưu Quang Vũ cũng tạo được một phong cách thơ độc đáo. Anh là một tài thơ "thuộc loại bẩm sinh", dễ dàng bày tỏ mọi vui buồn của mình trên trang giấy. Lấy sự chân thực làm điểm tựa cho cảm xúc sáng tạo, Lưu Quang Vũ đã tạo được sự đồng cảm và niềm tin mến vững chắc nơi người đọc.
Trong hành trình sáng tạo của mình, Lưu Quang Vũ luôn nghiền ngẫm cuộc sống từ nhiều mặt, "cả phần ánh sáng lẫn phần khuất tối". Có thể nói cái đa thanh, đa dạng của cuộc đời và tâm trạng con người hiện ra trong thơ anh thật đậm nét. Với ý thức sáng tạo mãnh liệt, anh đã xây dựng được một hệ thống quan niệm nghệ thuật rất phong phú và nhất quán. Với các quan niệm về thơ được thể hiện bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, giàu cảm xúc, và đầy ý nghĩa, anh đã đem đến cho người đọc sự nhận thức về vai trò và sứ mệnh của thơ ca, của người nghệ sĩ, cảm nhận được thơ chính là phần tinh chất nhất, phần cao đẹp và bay bổng nhất của tâm hồn.
Thế giới con người hiện ra trong thơ anh cũng hết sức đa dạng và sinh động. Trong đó có hình ảnh của những người công dân mang đậm chất lý tưởng, hình ảnh của những con người đời thường gần gũi với nhà thơ. Qua việc miêu tả những con người này chúng tôi thấy anh là một người rất giàu tình cảm, anh gần gũi và yêu thương tất cả mọi người sống xung quanh mình, dễ dàng thấu hiểu những đau khổ của người khác. Trong thơ anh còn có sự xuất hiện của những con người hiện lên trong cõi mộng, trong đó sự hiện diện của hình ảnh Nàng thơ, của những người tình lý tưởng đã tạo nên sự đắm say, quyến rũ và nồng nàn, tha thiết trong các thi phẩm của anh. Đặc biệt thơ Lưu Quang Vũ là loại thơ tự biểu hiện nên thế giới tinh thần của anh được thể hiện rất đậm nét trong thơ. Qua thơ, người đọc sẽ thấy được mọi vui- buồn, được- mất đã qua trong đời anh, cả những đàm mê và khát vọng trong tâm hồn anh. Và bức chân dung tinh thần của anh hiện lên trong thơ là một con người rất nhân hậu, thành thực, và đù trải qua nhiều bi kịch nhưng bao giờ anh cũng vượt qua để lại tin yêu cuộc sống.
Đọc thơ tình Lưu Quang Vũ chúng ta sẽ bắt gặp những cung bậc tình yêu với những sắc điệu khác nhau trong tâm hồn anh: có gặp gỡ - chia ly, có hy vọng - tuyệt vọng, có tin tưởng - hoài nghi, có hàm ơn - trách giận, có hạnh phúc - đau khổ,... Đó chính là sự song hành của những phạm trù đối lập ở một tình yêu đúng nghĩa. Song có một điều đặc biệt là dầu trải qua nhiều mất mát, đau khổ, Lưu Quang Vũ vẫn luôn khao khát và hướng đến tình yêu bằng tất cả sự trong sáng của tâm hồn. Tình yêu của anh đắm đuối, say mê nhưng cũng đầy bao dung, độ lượng.
Ngòi bút Lưu Quang Vũ không chỉ hướng đến việc khai thác và thể hiện những trạng thái tình cảm của một cái tôi cá nhân đầy bi kịch, mà nó còn bắt nhạy với các chủ đề rộng lớn như: đất nước, nhân dân, chiến tranh,... Có thể nói bên cạnh cảm hứng về tình yêu thì cảm hứng về đất nước, về nhân dân cũng là những nguồn cảm hứng dạt dào trong quá trình sáng tạo của anh. Viết về đất nước, về nhân dân Lưu Quang Vũ không đi theo mạch cảm hứng ngợi ca như dòng thơ lúc bấy giờ mà thơ anh âm thầm thể hiện những khám phá riêng về đất nước, nhân dân. Đất nước hiện lên trong thơ anh không chỉ với vẻ đẹp của truyền thống văn hóa phong phú, sinh động đến mê lòng, mà còn là một đất nước luôn phải gánh chịu bao đau thương, đói nghèo, cơ cực. Đất nước trong thơ anh không chỉ là đối tượng để tự hào, để yêu thương gắn bó mà còn phải hết lòng để gìn giữ, nâng niu.
Với một giọng điệu riêng giàu sức ám ảnh cùng với những biểu tượng nghệ thuật đẹp, sinh động và đa nghĩa, Lưu Quang Vũ đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo. Sáng tạo với nguồn cảm hứng dạt dào liền mạch, những câu thơ trào tuôn theo dòng cảm xúc không cần gò bó câu chữ đã tạo nên một vẻ đẹp tự nhiên nhưng thật quyến rũ. Âm hưởng buồn, thương, da diết pha lẫn đắm đuối của thơ Lưu Quang Vũ thật sự hấp dẫn người đọc, gợi lên ở họ những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Những bài thơ được viết ra từ những chiêm nghiệm tận thâm sâu trong tâm hồn nhiều trải nghiệm của anh đã từng nâng đỡ và an ủi nhiều người cùng cảnh ngộ. Thơ của anh không chỉ là tiếng nói của một cá nhân mang cảnh ngộ riêng mà trong chừng mực nào đó nó còn đại diện cho một thế hệ trong giai đoạn hào hùng và bi tráng của dân tộc. Những tác phẩm của anh hôm qua còn phải bàn cãi nhưng hôm nay thật sự đã được khẳng định và tồn tại trong lòng người đọc với những ấn tượng tốt đẹp.
Tài năng của Lưu Quang Vũ khép lại thật đột ngột giữa cái tuổi 40 còn rất sung sức không chỉ là một thiệt thòi lớn cho sân khấu kịch trường mà còn là thiệt thòi lớn cho thơ ca. Tháng 9 năm 2000, anh được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Phần đóng góp của anh đã được ghi nhận xứng đáng. Anh là một nhà văn trẻ nhất trong số những người được nhận giải thưởng cao quý này.
Là một trong những bạn đọc mến mộ thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi mong muốn qua công trình nghiên cứu nhỏ bé của mình sẽ góp thêm tiếng nói tâm huyết tôn vinh những thành tựu nghệ thuật cao quý của nhà thơ. Và đó cũng là thái độ trân trọng của chúng tôi đối với di sản của người nghệ sĩ tài hoa này.
Và đã là "Thế giới nghệ thuật thơ" thì nó có chiều sâu vô tận, mỗi người chỉ có thể chiếm lĩnh được một hay một vài khía cạnh nào đó, công trình này chỉ mới bước đầu tìm hiểu về thơ Lưu Quang Vũ vì thế sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn yêu thơ Lưu Quang Vũ.
PHẦN
PHỤ LỤC LƯU QUANG VŨ
I. VÀI NÉT TIỂU SỬ
Sinh ngày 17-4-1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện
Hạ Hòa (Vĩnh Phú). Quê ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Thuở nhỏ, sống cùng gia đình ở
chiến khu Việt Bắc. Hòa bình lập lại về Hà Nội và suốt thời đi học sống ở đó.
Năm 1965 xung phong vào bộ đội, thuộc binh chủng phòng không không quân. Cuối
năm 1970 xuất ngũ. Những năm sau đó làm nhiều nghề khác nhau. Từ tháng 8 năm
1979 cho đến khi mất làm phóng viên Tạp chí sân khấu.
Là hội viên Hội nghệ sĩ
sân khấu, hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Lưu Quang Vũ mất ngày 29-8-1988.
II.TÁC PHẨM CHÍNH
Kịch dài
1. Đôi bạn quê hương (1966) Chèo, Đoàn chèo Hà Nội dựng
1967
2. Sống mãi tuổi 17 (1979) Kịch nói (viết chung với Phạm Thị Thành, Đào Duy
Kỳ), Nhà hát Tuổi trẻ dựng 1980
3. T.15 về đâu (1980) Nhà hát kịch Trung ương dựng
1981
4. Mùa hạ cuối cùng (1981) Nhà hát Tuổi trẻ dựng 1981
5. Cô gái đội mũ nồi
xám Đoàn Kịch Hà Nội dựng 1982 (1981) Đoàn Kịch Hà Bắc dựng 1982
6. Người con
gái trở về Đoàn Chèo Hà Nội dựng 1982 (Trời xanh trên mái phố) (1981)
7. Những
ngày đang sống (1981) Vô tuyến truyền hình dựng 1983 8. Thủ phạm là ai? (1982)
Đoàn Kịch Công an Hà Nội dựng 1982 129 Đoàn Kịch Hà Nam Ninh dựng 1983 Đoàn Cải
lương Thanh Hóa dựng 1983 Đoàn Kịch Nghệ Tĩnh dựng 1983
9. Cây Ngọc Lan của Huyền
Đoàn Kịch Điện Ảnh dựng 1983 (1982) Đoàn Kịch Thái Bình dựng 1983
10. Nữ ký giả
(1983) Đoàn Kịch Bộ Nội vụ dựng 1983
11. Dạ khúc tình yêu (1983) Đoàn Cải lương
Kim Phụng dựng 1983
12. Nàng Sita (1982) Đoàn Chèo Hà Nội dựng 1983 Đoàn Kịch
Thái Bình dựng 1984 Đoàn Cải lương Hải Phòng dựng 1984 Đoàn Kịch Hải Hưng dựng
1984 Đoàn Chèo Quảng Ninh dựng 1984 Đoàn Cải lương Trần Hữu Trang dựng 1984
Đoàn Dân ca Đà Nẵng dựng 1985 Đoàn Dân ca Thuận Hải dựng 1985 Đoàn Cải lương Tuổi
trẻ TPHCM dựng 1985 Đoàn Kịch Hà Sơn Bình dựng 1985 Đoàn Chèo Bắc Thái dựng
1985 Đoàn Cải lương Vũng Tàu dựng 1985 Đoàn Dân ca Phú Khánh dựng 1985 Đoàn Dân
ca Bình Trị Thiên dựng 1985
13. Ngôi sao màu lá xanh Đoàn Chèo Hậu cần dựng 1984
(Giòng máu trắng) (1983)
14. Hẹn ngày trở lại (1984) Đoàn Kịch Hà Nội dựng
1984
15. Nguồn sáng trong đời (1984) Đoàn kịch Hà Bắc dựng 1984 Đoàn Kịch Hà Nội
(VTTH) phát 1985 Đoàn Cải lương Phước Chung Đoàn Cải lương Sông Hậu Đoàn Kịch
Quảng Đông (Sài Gòn) Đoàn Cải lương Tiền Giang Đoàn Cải lương Hậu Giang
16. Bên
sông Thu Bồn (1984) Đoàn Dân ca Đà Nẵng dựng 1985 Đoàn Cải lương Tuổi trẻ TPHCM
17. Tôi và chúng ta (1984) Đoàn Kịch Hà Nội dựng 1985 Đoàn Cải lương Thái Bình dựng
1985 Đoàn Cải lương Kiên Giang dựng 1985 18. Người trong cõi nhớ (1982) Đoàn Cải
lương Tây Ninh dựng 1985 Đoàn Cải lương Trần Hữu Trang dựng 1985
19. Vách đá
nóng bỏng (1983) Đoàn Dân ca Thuận Hải dựng 1985
20. Đường bay (1984) Đoàn kịch
Quảng Nam - Đà Nẵng
21. Hoa xuyến chi (1982) Chưa dựng
22. Hồn Trương Ba - da hàng
thịt Nhà hát Kịch dựng 1987 (1981) Đoàn ca kịch Bình Trị Thiên
23. Người tốt nhà
số 5 (1981) Đoàn Chèo Hà Sơn Bình dựng 1985
24. Ngọc Hân công chúa (1984) Đoàn
Chèo Hà Nội dựng 1987 Đoàn dân ca Thuận Hải
25. Lời nói dối cuối cùng Nhà
hát Tuổi trẻ dựng 1985 (Cuội và Bờm) (1985) Đoàn chèo Trung ương dựng 1985 Đoàn
chèo Hoàng Liên Sơn dựng 1985 Đoàn Cải lương Tiền Giang dựng 1985 Đoàn Cải
lương Long An dựng 1985 Đoàn Kịch Kim Cương dựng 1985
26. Đất sống của người
(1985) Đoàn Cải lương Sông Hàn dựng 1985
27. Vi khuẩn Han-Xen Đoàn Cải lương Hà
Nam Ninh (Hạnh phúc của người bất hạnh) Đoàn Kịch Phú Khánh (1985) Trường Sân
Khấu II
28. Đôi dòng sữa mẹ Nhà hát Cải lương Trung ương dựng 1985 (Hai giọt
máu) (1985) Đoàn Cải lương Sông Hàn dựng 1985 Đoàn Kịch Thái Bình dựng 1985
Đoàn Kịch Hà Nam Ninh dựng 1985 Đoàn Cải lương Hải Phòng dựng 1985 Đoàn Cải
lương Quảng Ninh dựng 1985 Đoàn Chèo Hải Hưng dựng 1985 Đoàn Kịch Hà Sơn Bình dựng
1985 Đoàn Kịch Nghệ Tĩnh dựng 1985 Đoàn Kịch Bắc Thái dựng 1985 Đoàn Kịch Hà Bắc
dựng 1985 Đoàn Dân ca Phú Khánh dựng 1985 Đoàn Dân ca Thuận Hải dựng 1985 Đoàn Cải lương Trần Hữu Trang dựng 1985 Đoàn Kịch Bình Trị Thiên dựng 1985 Đoàn
Nghệ Thuật Lâm Đồng dựng 1985
29. Ông vua hóa hổ (1985) Đoàn Chèo Hải Phòng
Đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh Đoàn Dân ca Phú Khánh Đoàn Dân ca Thuận Hải Đoàn Cải
lương Sài Gòn Đoàn kịch Vĩnh Phú
30. Khoảnh khắc và vô tận (1986) Đoàn Kịch Hà Nội
dựng 1986 Đoàn Chèo Hà Tuyên dựng 1986
31. Tin ở hoa hồng (1986) Nhà hát Tuổi trẻ
dựng 1986 Đoàn kịch Đà Nẵng dựng 1986 Trường ĐH Sân khấu Điện Ảnh dựng 1986
Đoàn Kịch Cửu Long Giang dựng 1986
32. Nếu anh không đốt lửa (1986) Nhà hát Kịch
Trung ương dựng 1986 Đoàn kịch Nghệ Tĩnh dựng 1987
33. Hoa cúc xanh trên đầm lầy
Đoàn Kịch Hải Phòng dựng 1987
34. Muối mặn của đời em Đoàn Chèo Hải Phòng dựng
1987
35. Đam San Đoàn Kịch Hải Hưng dựng 1987
36. Chết cho điều chưa có Nhà hát
Tuổi trẻ dựng 1987
37. Quyền được hạnh phúc (1987) Đoàn Kịch Hà Nội dựng 1988
38. Đôi đũa Kim Giao Đoàn ca múa Hà Nam Ninh dựng 1988
39. Ông không phải bố
tôi (1988) Đoàn Kịch Hải Phòng dựng 1988 Đoàn Kịch Vĩnh Phú dựng 1988 Đoàn Kịch
Thanh Hóa dựng 1988 Đoàn Kịch Trường ĐH Sân khấu Điện ảnh dựng 1988
40. Linh hồn
của đá Đoàn Chèo Hải Phòng dựng 1988
41. Bệnh sĩ (1988) Nhà hát Kịch Trung ương
dựng 1988 Đoàn Kịch Hà Nam Ninh
42. Lời thề thứ chín Đoàn Kịch nói Tổng cục
Chính trị dựng 1988 Nhà hát Tuổi trẻ dựng 1988
43. Chim Sâm Cầm không chết Chưa
dựng (1988)
44. Trái tim trong trắng Đoàn Chèo Hà Nam Ninh dựng 1988 (Vụ án hai
ngàn ngày) (1988) Đoàn Kịch Hải Phòng dựng 1988
45. Điều không thể mất (1988)
Đoàn Kịch quân khu II dựng 1988 Nhà hát Tuổi trẻ
46. Người bạn già (1984) Kịch bản
phim truyện Kịch ngắn
47. Juy-li-ét không trẻ mãi In báo Văn hóa nghệ thuật
48. Sống
giả chết giả Đoàn Kịch trẻ TPHCM dựng 1987
49. Con tò te In báo Công an nhân
dân, số Tết Mậu Thìn, 1988
50. Tẩy, bút chì và thước kẻ Chưa công bố
51. Ngọn
gió vô tình Chưa công bố
52. Đoàn thanh tra tới In báo Văn hóa nghệ thuật
53. Câu
chuyện chiều cuối năm
Các thể loại khác
- Diễn viên và sân khấu Tập chân dung
diễn viên (viết chung với Xuân Quỳnh, Vương Trí Nhàn)
- Mùa hè đang đến Tập
truyện ngắn
- Người kép đóng hổ Tập truyện ngắn
- Một vùng mặt trận Truyện vừa
(In chung)
- Hương cây
- Bếp lửa Tập thơ (In chung), 1968
- Mây trắng của đời
tôi Tập thơ, NXB Tác phẩm mới 1989
- Bầy ong trong đêm sâu Tập thơ 1993
- Thơ
tình Xuân Quỳnh
- Tập thơ, NXB Văn học, 1994. Lưu Quang Vũ
Ngoài ra còn một số
truyện ngắn, thơ đã in trên các báo, tạp chí và chưa công bố.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO:
1. Aristote, Nghệ thuật thơ ca, Nxb. Văn học, 1999.
2. Bùi Công Hùng, Tiếp cận
nghệ thuật thơ ca, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Chu Quang Tiềm, Tâm
lý văn nghệ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
4. Dương Ngọc Đức, Lưu Quang Vũ của
chúng ta, Báo Văn nghệ, số 36, Thứ bảy, 3/9/1988
5. G.N. Pôxpêlôp, Dẫn luận
nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục, 1998. 6. Hà Diệp, Về một mảng kịch của Lưu
Quang Vũ, Tạp chí nghiên cứu Văn hoa nghệ thuật, số 6, 1989.
7. Hà Minh Đức Thơ
và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, 1997.
8. Hà Minh Đức,
Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb. Văn học, 1979
9. Hoài Thanh - Hoài
Chân Thi nhân Việt Nam, Nxb. Văn học Hà Nội, 1996.
10. Hữu Đạt, Ngôn ngữ thơ,
Nxb. Giáo dục, 1996.
11. Lê Bá Hán (Chủ biên) Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb.
Giáo dục, 1992,
12. Lê Lưu Oanh, Thơ trữ tình Việt Nam, Nxb. ĐH Quốc gia, Hà Nội,
1998.
13. Lê Đình Kỵ, Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, 1998.
14. Lê Đình Kỵ, Thơ mới những bước thăng trầm, Nxb. TPHCM, 1993.
15. Lê Đình Kỵ, Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục, 2000.
16. Lê Quang
Hưng, Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kỳ trước 1945, Nxb. Đại học quốc
gia Hà Nội, 2002.
17. Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Nxb. Văn học, 1999.
18. Lưu Khánh Thơ Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ tình yêu và sự nghiệp, (Biên soạn),
Nxb. Hội nhà văn, 1994.
19. Lưu Khánh Thơ Lưu Quang Vũ - thơ và đời, Nxb. Văn
hóa thông tin, 1997. (Biên soạn)
20. Lưu Khánh Thơ Lưu Quang Vũ - tài năng và
lao động nghệ thuật, (Biên soạn), Nxb. Văn hóa Thông tin, 2001.
21. Lưu Quang Vũ
- Xuân Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, Nxb. Văn học, 1994. Quỳnh,
22. Lưu
Quang Vũ - Hương cây - Bếp lửa, Nxb. Văn học, 1968. Bằng Việt,
23. Lưu Quang Vũ,
Bầy ong trong đêm sâu, Nxb. Hội nhà văn, 1983.
24. Lưu Quang Vũ, Mây trắng của đời
tôi, Nxb. Tác phẩm mới, 1989.
25. Lưu Quang Vũ, Tuyển tập kịch, Nxb. Sân khấu,
1994.
26. Lưu Quang Vũ, 15 truyện ngắn, Nxb. Hội nhà văn, 2000.
27. Mai Hương,
Nghĩ về đóng góp của đội ngữ trẻ trong thơ chống Mỹ, Tạp chí Văn học, số 1,
1998.
28. Ngọc Bích, Điều không thể mất, Báo Sài Gòn giải phóng, số 4092, ngày
9/9/1988
29. Nguyễn Duy Bắc, Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại
(1945-1975), Nxb. Văn hóa dân tộc, 1998.
30. Nguyễn Minh Tấn, Từ trong di sản, Nxb. Tác phẩm mới - Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội, 1981.
31. Nguyễn Đăng Điệp,
Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb. Văn học, 2002.
32. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường
đi vào thế giới nghệ thuật của nhà vấn, Nxb. Giáo dục, 1996.
33. Nguyễn Thị Hồng
Nam, Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Xuân Diệu, Tạp chí Văn học, số
12, 1995.
34. Nguyễn Văn Hạnh - Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo dục,
Huỳnh Như Phương, 1998.
35. Nguyễn Văn Long, Tiếp cận và đánh giá văn học Việt
Nam sau cách mạng Tháng Tám, Nxb. Giáo dục, 2001.
36. Nhiều tác giả, Kỷ yếu khoa
học, Khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Tp. HCM, tháng 5/1999
37. Nhiều tác giả, 50
năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội,
1996.
38. Phan Trọng Thưởng, Kịch Lưu Quang Vũ - những trăn trở về lẽ sống, lẽ
làm người, Tạp chí Văn học, số 5, 1986.
39. Phong Lan (Biên Chế Lan Viên - người
làm vườn vĩnh cửu, soạn), Nxb. Hội nhà văn, 1995.
40. Phong Lê, Một số gương mặt
văn chương học thuật Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, 2001.
41. Sóng Hồng,
Thơ, Nxb. Văn học, 1996.
42. Tất Thắng, Vĩnh biệt một tài năng, Văn nghệ số 36,
Thứ bảy, 3/9/1988.
43. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb. Đại học
quốc gia, Hà Nội, 2001.
44. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2001.
45. Trúc Chi, 30 năm một nền thơ cách mạng, Nxb. Thanh
niên, 1997. 46.Vân Long (Biên soạn), Xuân Quỳnh - Thơ và đời, Nxb. Văn hóa, Hà
Nội, 1998.
47. Võ Gia Trị, Nghệ thuật văn chương và chân lý, Nxb. Văn học, 1999.
48. Vũ Duy Thông, Cảm hứng lãng mạn qua hình tượng tổ quốc trong thơ hiện đại, Tạp
chí Văn học, số 5,1996.
49. Vũ Hà - Ngô Thảo, Lưu Quang Vũ - một tài năng, một đời
người, Nxb. Thông Tin, Hà Nội, 1988.
50. Vũ Quần Phương, Thơ với lời bình, Nxb.
Giáo dục, 1998.
51. Vũ Tuấn Anh, Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định,
Nxb. KHXH, 2001.
52. Vũ Tú Nam, Tiếc nhớ Xuân Quỳnh, Báo Văn nghệ số 36, Thứ bảy,
ngày 3/9/1988.
53. Vương Trí Nhàn, Cánh bướm và đoa hướng dương, Nxb. Hải Phòng,
1999.
Theo http://lib.hcmup.edu.vn:8080/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét