Huế xanh cho thơ
Mấy năm qua, Huế đã được tặng những danh hiệu quốc tế
sang trọng: “Huế - Thành phố Văn hóa ASEAN giai đoạn 2014 - 2015”. Huế được
vinh danh danh hiệu Thành phố Xanh đầu tiên của Việt Nam “Thành phố Xanh quốc
gia” năm 2016 do quỹ bảo tồn Thiên nhiên Thế giới bầu chọn.
Đó là chứng chỉ của thành phố xanh cho thơ! Vâng, thành phố
xanh là thành phố xuân. Theo thiển nghĩ của tôi, Huế là thành phố đáng sống nhất!
Những cảm nhận đó biểu hiện rất rõ trong thơ viết về Huế. 700 năm thơ Huế đã tạc
nên sức Xuân vĩnh cửu của vùng đất Huế - Phú Xuân.
Không biết tự bao giờ, mọi người Việt Nam mỗi khi nhắc đến Huế thường gọi một
cách trìu mến: Huế thơ! Có lẽ Huế là xứ sở duy nhất trên thế giới tên gọi lại
được kèm với chữ Thơ như một biểu tượng nghệ thuật. Vâng, đã có một Huế thơ
trong tâm thức người Việt bao đời. Điều gì đã tạo cho Huế có cuộc kết duyên
cùng thơ kỳ diệu như thế? Bài viết này muốn cùng độc giả đi tìm đôi điều lý giải
hiện tượng văn hóa đó.
Nếu có sự đo đếm, Huế hẳn không thua kém bất cứ thành phố nào trên thế giới về
số lượng thơ ngợi ca vẻ đẹp huyền bí của mình hoặc nhờ vẻ đẹp đó mà có! Bởi thế
mà Huế đã trở thành chiếc nôi sinh thành, mái nhà trú ngụ, lớn lên của nhiều thế
hệ thi nhân Việt Nam gần 200 năm qua. Từ các vị vua thi sĩ như Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức... đến các ông hoàng như Miên Thẩm, Miên Trinh, các bà chúa như Mai
Am, Huệ Phố... đến các bậc quan lại nho gia như Cao Bá Quát, Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ... Từ Phan Bội Châu đến Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn
Mạc Tử, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư,... đến Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,Lâm
Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Trọng Tạo... Dường như tất cả các thế hệ thi nhân Việt Nam
không ai là không có đôi ba bài thơ tặng Huế. Người ở Huế làm thơ về Huế, người
xa Huế làm thơ nhớ Huế, người chỉ lần đầu đến Huế thôi cũng tức cảnh sinh tình
mà có thơ...
Không biết chuyện địa danh có quan hệ gì với thuyết âm dương hay không, mà bao
nhà thơ đến Huế đều cảm nhận được một điều bổi hổi: Huế thuộc về giống cái!
Trong thu khuya, lang thang cùng trăng trên những lối Huế thấp thoáng hương
long não, hương lài, hay sớm xuân qua Trường Tiền sương rối, bạn sẽ cảm nhận rất
rõ chất nữ tính trinh nguyên, quyến rũ của Huế! Vâng, Huế là con gái, là Nàng
Thơ! Đặc ân tuyệt vời này Huế dành cho các nhà thơ. Những sợi hương huyền bí ấy
len vào cõi sâu kín nhất của tâm hồn, thức dậy, làm thăng hoa những khát vọng
sáng tạo thơ ca tiềm ẩn. Mơ khách đường xa khách đường xa/Áo em trắng quá nhìn
không ra/Ở đây sương khói mờ nhân ảnh... Bao nhiêu hình ảnh trong cuộc sống hằng
ngày của cô gái Huế đã trở thành hình tượng thơ điển hình tới mức cổ điển, khảm
vào lịch sử văn chương dân tộc, như Tà áo tím Huế, tà áo dài trắng nữ sinh, nón
bài thơ, mái tóc thề, giọng hò... Cho đến cái bao la thăm thẳm như mưa Huế,
chuông chùa Thiên Mụ, vườn cây trái Kim Long, Vĩ Dạ... cũng như được sinh ra,
được đắp bồi, tạo dựng riêng cho thơ! Đoàn Phú Tứ đã phát hiện ra Màu thời gian
tím ngát - Đó cũng là màu Huế, màu của Thi Ca trường cửu. Cách đây hơn 10 năm,
Trần Dần vào Huế, ông kêu lên: “Ôi, nhân lọai tím”. Ông tâm sự rằng, sở dĩ ở Huế
dễ cảm xúc thơ là do có trời, có đất, đủ âm đủ dương. Có những cái đó mới có
thơ! Huế Thơ kết tinh trong con người Huế từ điệu đi, dáng đứng, kết tinh trong
núi Huế, cây Huế, vườn Huế, trong từng cơn chớp biển mưa nguồn đan chen trong
không gian nội tâm tình cảm, trở thành tiếng gọi từ nơi sâu kín nhất của hồn
người. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cho rằng chính cái nết đất nết người Huế như hòa
đồng với phẩm chất của thơ. Nhà thơ Lưu Trọng Lư, từng gửi cả thời trai đam mê
của mình trong con đò và tiếng đàn Huế, lúc sinh thời có lần Tạp chí Sông Hương
xin ông thơ để in, ông chép gửi vào một chùm bảo răng in bài nào là tùy ý tòa
soạn. Nhưng lại hồn nhiên năn nỉ: “... xin đừng gạt đi bài mưa của tôi. Cái trận
mưa Huế ngày này qua ngày khác... đã “giam hãm “cả tuổi xuân của tôi..”.
Mới đây nhà văn Trần Trị Trường ở Hà Nội và nhà thơ Dư Thị Hoàn ở Hải Phòng lần
đầu tiên đến Huế, sau chuyến thăm thú Di sản Thế giới, thưởng thức phong cảnh
và ẩm thực Huế, đã có một nhận xét vui mà sâu sắc: “Đến Huế chúng tôi mới phát
hiện ra rằng nhạc Trịnh Công Sơn quá hay, thơ về Huế quá hay không phải do nhạc
sĩ, nhà thơ quá tài mà chính Huế đã làm nên tâm hồn họ”! Vâng, chính Huế là nguồn
mạch vô tận cho thơ! Sông Hương chính là linh hồn của tâm thức Huế thơ. Nói đến
Huế là nói đến sông Hương, núi Ngự... Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ vẫn còn núi Ngự
bên bờ sông Hương (Bùi Giáng). Trong 20 thắng cảnh nổi tiếng đất Thần Kinh được
vua Thiệu Trị xếp hạng và đề thơ tranh gương cách đây 150 năm có Hương Giang:
Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh (Cây cối hai bên bờ
sông còn đẫm sương. Hoa trên núi còn vương vấn với mây đẹp đẽ - bài Hương Giang
Hiểu phiếm). Sông Hương sinh ra cho thơ, cho Huế. Con sông như một làn hương
thơm vào hồn phố. Trên dòng sông ấy có con đò thơ với những thú vui tài tử như
ca Huế, thả đèn, thả thơ...
Nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu thơ tuyệt đẹp về dòng sông quê ông: Trên dòng
Hương Giang/ Em buông mái chèo/ Trời trong veo/ Nước trong veo... Sông Hương mang
một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, bao đời nay là người mẹ phù sa của một vùng
văn hóa xứ sở. Nếu như chẳng có sông Hương/ Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh
rơi... (Huy Tập). Có tới hai phần thơ Huế là viết về sông Hương, hoặc sinh ra
trên dòng sông. Khi thì thật khí phách: Hương Giang như kiếm lập thanh thiên
(Cao Bá Quát). Khi chợt thốt lên lãng đãng: Hương ơi, e phải mày không/ Sông ấy
hóa ra mình có... (Phan Bội Châu). Thu Bồn đã phát hiện ra bản lĩnh và chiều
sâu tâm hồn Huế: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ sông chảy vào lòng
nên Huế rất sâu. Nhạc sĩ, nhà thơ tài danh Văn Cao lúc sinh thời đã viết nhiều
tác phẩm, nhạc thơ về Huế. Trong một bức tâm thư gửi Huế đã kể rằng, “Huế là
nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 1940. Thơ và nhạc tôi tìm nguồn từ đấy.
Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô là những điều gây cảm xúc cho sáng tạo”. Nhạc
của ông mang hồn Huế. Thảo nào, biết bao đêm thuyền ngược sông Hương mờ ảo
trong bóng núi mây, ta bỗng thèm được hát, được nghe “Thiên Thai”, “Suối mơ”,
“Trương Chi”, thèm đọc thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế đến da diết. Nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong bút ký nổi tiếng Ai đã đặt tên cho dòng sông đã viết
rất xúc động: “... hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông
Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya... toàn bộ âm nhạc
cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một
khoang thuyền nào đó,giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn
Du đã bao năm lênh đênh trên khoảng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó
những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già,
một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều “trong như tiếng hạc bay qua - đục như
tiếng suối mới sa nủa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi
chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ Đại Cảnh!”. Đối với
các thế hệ thi sĩ Việt Nam, Huế luôn luôn mới, sông Hương luôn luôn mới. Nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm, một đứa con của Huế, một chiều nọ bỗng phát hiện ra một
hình tượng đẹp chưa từng có trong thơ về dòng sông: Nhưng chiều nay con bò gặm
cỏ/Bên dòng sông như chưa biết chiều tan/ Tôi với nó lặng im bè bạn /Mắt nó
nhìn dìu dịu nước Hương Giang...
“Dạ thưa xứ Huế bây giờ. Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương” (Bùi Giáng)
Lịch sử Huế là lịch sử nước Việt, là lịch sử sáng tạo của nhân dân. Sương khói
Huế, Sông Huế, Núi Huế, văn hóa Huế, thơ Huế, cho đến điệu Nam Ai, Nam Bình đều
nằm trong tiến trình lịch sử người Việt đi mở cõi. Gần trăm rưỡi năm kinh đô nước
Việt đã đúc nên một Huế tài hoa, đài các và thâm trầm. Lịch sử cách mạng 50 năm
cuộn chảy, với tâm thức nhân dân đã lọc giữ cho Huế những giá trị văn hóa vật
chất mang trầm tích của triết lý nhân sinh, mang giọt nước mắt nóng hổi của lịch
sử. Huế là không gian cổ điển phương Đông thuần khiết. Huế là chốn của những
mái cong đền cổ thấp thoáng dưới bóng vườn xanh. Không gian cổ tích ấy là môi
trường lý tưởng của những chiêm nghiệm, những cảm thức làm nền tảng triết lý
cho thơ: Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ/ chén ngọc giờ chìm dưới đáy
sông sâu.../ em rất thực nắng thì mờ ảo/ Xin đừng lầm em với Cố Đô... Các
nhà thơ trẻ Huế hôm nay không chỉ biết hoài cổ mà đang vươn tới sự hiện đại
trong các hình tượng thơ về Huế. Tôi nằm dưới bóng râm thời trang/ kinh nghiệm
xanh rì rào thành phố/ Đất nước tôi/ những vùng môi mặn đỏ phù sa.../ Giấc
chiêm bao lịch sử nóng ran... (Văn Cầm Hải). Người lính đi qua chiến tranh, trở
về với đời thường, tưởng đã bị thời gian lãng quên, bỗng nhận ra mình trong
dáng phong sương cổ kính của những chú ngựa đá trong lăng tẩm cũ: Biết tìm đâu
người lính buổi xa xăm/ Ai đang còn bạc phơ râu tóc/ Nấm cỏ vô danh ai người đã
khuất/ Nhớ cuồng chân ngựa hóa đá đứng chờ… (NM).
Có một Huế thơ trong tâm thức. Huế dành đặc ân cho thơ. Và đến lượt mình, thơ
tôn vinh xưng tụng Huế thơ làm cho Huế lung linh hơn, thăng hoa hơn. Một thôn Vỹ
Dạ qua thơ Hàn Mạc Tử đã trở thành địa chỉ tâm hồn, tâm linh, địa chỉ hành
hương của hàng chục triệu người Việt Nam: Sao anh không về chơi thôn Vỹ?/ Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên... Cứ thế Thơ sinh sôi với Huế, Huế đẹp thêm với Thơ
với người, trở thành Bài - Thơ - Đô -Thị tuyệt tác của nhân loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét