Phần 2: Chuyện kể năm 2000
Chương 33
Cả nhà đã ngủ. Ngọn đèn trên bàn thờ leo lét. Hàn vén màn
nhìn mẹ nằm cạnh con Nguyệt ngủ lăn ngủ lóc. Rồi lại vạch màn nhìn bố đang ngủ
trên sập. Hắn nhìn mái tóc bạc càt ngắn của bố. Sao mà giống đầu Lỷ Xìn Cắm thế.
Bình thường khi nhìn Lỷ Xìn Cắm, hắn không nghĩ đến bố. Nhưng đến khi đứng ở gốc
cây mào gà chỗ cửa trạm xá nhìn vào, khi ông Chắn, công an y tá, vén tấm vải trắng
che cửa lên, thấy xác Lỷ Xìn Cắm đắp chăn trên giường đầu quay ra phía ngoài.
Nhìn đầu Lỷ Xìn Cắm từ phía đỉnh, vuông vức, cắt ngắn, bạc trắng, hắn tưởng như
bố đang nằm.
Già Đô sợ chết trong tù. Còn hắn, hắn sợ bố mẹ chết mà hắn vẫn
ở trong tù, không được gặp mặt, thì thật khốn nạn quá. bất hiến quá, nhục nhã
quá.
May sao bố mẹ vẫn còn khỏe mạnh, chờ hắn trở về Bố mẹ thương
hắn, vẫn sống, tránh cho hắn cái tội bất hiếu ấy.
Hắn nghe tiếng thở đều đều của bố mẹ và con gái, mà chưa biết
được rằng đã lâu lắm rồi cả nhà mới có một giấc ngủ bình yên như đêm nay. Sau
này, khi bố mẹ đã mất, con Nguyệt đã lấy chồng, nhân một chuyện gì đó, nó bỗng
kể lại thời gian còn bé ở với ông bà, thời gian bố còn trong tù, đêm đêm lên
giường đi ngủ với bà, nó thấy ông đứng trước bàn thờ, thắp hương khấn vái. Nằm
nghiêng trong lòng bà, nó quay ra nhìn bàn thờ, chỉ thấy ngọn đèn vặn nhỏ, đầu
ba nén hương mới thắp đỏ hồng và bóng ông đứng im bất động. Nó biết ông đang khấn
trời phật tổ tiên, ông đang cầu xin cho bố. Hơn một ngàn đêm, đêm nào cũng vậy…
Hắn khẽ khàng tém lại màn cho bố. Đi ra sân. Một mình hắn đứng
giữa sân. Dưới ánh sao, cây cối trong vườn hình như cũng ngủ. Bên nhà anh Chân
cũng tắt đèn từ lâu rồi.
Trên đầu hắn là bầu trời yên tĩnh. Hắn lắng nghe sương xuống.
Và hắn nhìn sao. Đọc những dòng chữ ghi trong sổ tay của vợ, hắn biết Ngọc cũng
nhiều đêm nhìn sao và nói thầm với sao:
“Sao có biêt anh ta đã ngủ chưa? Hẳn sao nhìn thấy anh ta ở một
vùng rừng xa lắm… ”
“Không Ngọc ơi. Sao trời không nhìn thấy anh đâu. Anh cũng chẳng
thấy sao. Tối đến bọn anh chỉ quanh quẩn trong buồng giam hoặc đi vào nhà mét”
Hắn bỗng nhớ đến một tối cả trại được xem phim, hắn đã không
xem. Ngồi giữa sân ở cái chỗ mọi khi vẫn xếp hàng đi làm, hắn cứ ngửa mặt nhìn
trời. Hắn tìm những ngôi sao thân thuộc. Hắn nhìn những chỏm cây rừng chung
quanh đu đưa trên nền trời mịn như nhung. Muôn vì sao lấp lánh ánh sáng yếu ớt
và huyền bí. Ông Thần Nông đâu? Hai mắt con vịt nữa. Không thấy. Và chòm sao gì
như một hình tứ giác. Cái gầu sòng. Ngôi Bắc Đẩu. Sao Hôm đâu? Không nhìn thấy.
Khuất rừng chàng? Hay đã lặn mất rồi? Những ngôi sao bè bạn suốt tuổi ấu thơ. Mảnh
sân nhà hắn. Hắn và anh Văn đuổi bắt đom đóm. Hắn muốn đứng lên tìm hai ngôi
sao ở phía Đông, thấp gần đường chân trời. Dạo hành quân từ Thái Nguyên về tiếp
quản Hà Nội, hắn luôn gặp hai ngôi sao ấy. Trong ánh chiều tà, nó sáng và chênh
chếch như hai ngọn đèn pha ô-tô vừa nhô lên ở một đoạn đường dốc và cua lượn.
Hắn nhìn sao và thỉnh thoảng lại liếc nhìn ông quản giáo. ắn
nhìn sao vụng trộm. Sợ bị quy là chống đối, không xem phim. Mặc cho anh em thỉnh
thoảng lại ồ lên vì mọt cảnh gì đó, hắn cứ bí mật nhìn trời.
Không có nghệ thuật nào hấp dẫn được hắn (cái thứ nghệ thuật
mà hắn biết quá rõ), rứt hắn khỏi trời sao mà hắn đã phải xa cách mấy năm. Và
có lẽ cũng không ai nhìn sao như hắn nhìn hôm ấy. Nhìn và tự hỏi: Biết bao giờ
mới lại được một đêm nữa ngắm sao. Điều kỳ diệu là đang độ mưa dầm, đêm ấy bỗng
quang mây. Cả một trời sao mênh mông trên đầu hắn.
Hắn nhìn sao như người nhìn lần cuối. Hắn không dám nghĩ mình
sẽ còn được hưởng hạnh phúc lớn lao này một lần nữa. Cũng bởi vì dạo ấy hắn mới
từ 75 trở lại trại Q.N lần thứ hai, thực sự ngấm đòn của ba từ cửa miệng: án
cao-su.
Từ trên xà lim lưu động com-măng-ca Rumani đít vuông đã được
cải tiến, hắn khoác nội vụ vào nhà bếp. Đang giữa trưa. Ông Lâm chánh giám thị
đứng trong bếp, đang đọc cái bảng ghi tên từng mâm cơm, số người ăn, mức ăn của
từng mâm. ông lẩm bẩm:
– Mâm Tuấn. Tuấn nó về rồi, còn cứ để mâm Tuấn.
Hắn lặng lẽ đứng phía sau ông mà ông không biết. Hắn lại trở
về toán cũ. Toán tăng gia. Lại nằm cạnh già Đô. Lại gặp Giang, Lê Bá Di, Dự, Kỷ
Mình. Nhưng hắn được nhận công việc mới. Được là tù tự giác. Được gia nhập nhóm
tù quý tộc. Như Thắng nuôi ong, Thuận sứt chăn trâu. Như Cần trại cá. Như Quý
nhà bò. Hắn được coi vườn trong, một mảnh đất bằng phẳng giữa ba bề núi cao, ba
bề rừng cây vây quanh mà bọn hắn khiêng đá đắp đập ở con suối đầu vườn.
Cảm nhận bằng từng tế bào cái sự thật không có ngày về, hắn
không biết gì cuộc sống. Người rũ xuống như tên cướp trẻ bị trói vào cột bắn nằm
nào. Đó là sự kinh hoàng trước cái chết. Nỗi niềm càng đau khi vừa trở về trại
Q.N thì đã có một bức thư của Ngọc chờ sẵn. Thư viết gần hai tháng trước. Khi hắn
còn ở QN đợt một, khi hắn chưa về 75, hắn và Ngọc chưa gặp nhau trong những
ngày giáp Tết. Nếu không đi tù, tăng hai, hẳn hắn không phải nhận bức thư này
Anh thương yêu. Hôm qua Nôen, em về quê thăm bố mẹ, các con
và đón con Thương ra chơi.
… Không. Không thể nào đọc nổi lá thư. Nó như dao cứa vào
lòng. Bởi vì cứ nghĩ rằng lẽ ra mình đã về với con là mắt lại nhòa đi, tim co
thắt và lòng tan nát. Bức thư bình thường như mọi bức thư tù khác mà cho mãi đến
về sau hắn cũng không dám đọc lại. Nó đè nặng lên hắn trong những ngày ở lại
Q.N. Nhất là những ngày ấy lại đang độ mưa dầm, ướt sũng núi rừng. Mà ở vườn
trong lại càng hoang vàng.
Chỉ có một điều kích thích hắn là nghe anh em tù thì thào mảnh
vườn này có ma. Một anh chăn bò nằm ngủ trưa trong vườn cứ có người đến ngoáy
mũi, choàng mắt dậy chẳng thấy ai. Nhắ m mắt thiu thiu lại thấy tiéng cười
khinh khích và tiếng chân chạy thình thịch. đến đời anh chản bò sau cũng vậy.
Hai con bò đã buộc vào gốc cây núc nác, không biết ai cởi ra, đi giữa luống
rau, đầu cử nghênh lên như có người dắt, hết luống này sang luống khác, tịnh
không ăn một ngọn rau nào. Anh em bảo đó là hồn ma của hai anh tù đầu tiên chết
chôn ở đây trước khi có khu Gò Thằng Công (tên anh em đặt cho mảnh đất ven rừng
chôn những xác tù). Hy vọng càng âm ỉ khi hắn tìm thấy hai cái mả sau nhà ủ
phân đã đổ, giáp với bìa rừng. Hai cái mả chỉ còn là hai mô đất con con mọc um
tùm những cây cứt lợn.
Một buổi chiều, anh em trong toán đã về hết, một mình ở lại với
rừng, hắn lê tới đầu vườn, vịn vào một gốc cây to xù xì, rêu phong ẩm ướt, ngước
mắt nhìn trời, nhìn cây, nhìn hai nấm đất hoang thì thàm van vỉ:
– Ma ơi. Hai anh tù đã chết ở đây ơi. Hãy thương tôi! Giúp
tôi. Ra đây trò chuyện cùng tôi. Các anh muốn làm gì tôi cũng được.
Hắn ngồi xuống, khoanh tay gục đầu trên gối rất lâu. Bởi phải
nhắm mắt lại thì ma mới tới. ý nghĩ một bàn tay xương xẩu lạnh buốt đặt trên
vai, một người đã chết tự bao giờ đứng bên hắn, chờ hắn ngẩng đầu lên làm hắn ớn
lạnh. Nhưng vẫn nhắm mắt chờ. Vẫn cứ nhắm mắt chờ một khi đã quyết dấn thân vào
một thế giới chưa hề biết mà nay hay nghĩ đến và mong ước. Lâu. Lâu lắm. Như có
một cái gì tê lạnh trên vai, thế mà khi ngẩng đầu lên vẫn là một mình giữa rừng
già với bóng tối đang trườn rất nhanh trên thảm lá mục, quấn quanh những gốc
cây. Những giọt nước đọng trên tán rừng đều đều nhỏ giọt. Một tiếng chim còn khổ
rất trầm. Chỉ một tiếng còn khổ duy nhất buồn bã, mệt mỏi cất lên. Rồi đến tiếng
thở dài của rừng sâu.
Còn hơn cả sự cô đơn. Còn hơn cả sự tuyệt vọng. “Không ngờ đời
mình lại trải qua những phút như vậy” Đứng giữa sân nhà bố mẹ với bao kỷ niệm của
tuổi ấu thơ, trong im lặng sương rơi, hắn nghe rõ tiếng thở dài của rừng lúc ấy.
Một tiếng rên trong lòng hắn đáp lại tiếng thở dài của quá khứ.
Mà cái sân này, mảnh vườn này, cây cối trời sao này đẹp biết
bao! Bố mẹ, con gái đang ngủ trong nhà êm đềm, xót thương biết bao. Sáng hôm
sau ngủ dậy, hắn đã thấy bố đứng sân tập thể dục. Từ lúc lớn lên đến giờ hắn thấy
bố tập thể dục rất đều đặn. Mẹ thì ngồi ở cửa bếp băm rau khoai cho lợn. Và con
Nguyệt ăn cơm nguội với cá kho xong: “Cháu chào ông bà, con chào bố, con đi học”.
Hắn nhìn theo đứa con gái nhảy chân sáo đi trong bóng mát hàng cây, áo hoa bạc,
quần đen vải phíp ngắn, tay xách túi đựng sách vở, món tóc duôi gà với cái cặp
ba lá i-nốc trắng đập đập sau gáy, Hắn nghĩ: Con bé lớn quá rồi. Không có bố mẹ,
Ngọc xoay xở ra sao?
Sau khi uống trà, hắn cùng ông bà Chân ra vườn.
Làm vườn là một thứ lao động dễ chịu. Mệt thì nghỉ. Khát thì
uống. Nắng thì vào nhà. Tất nhiên với một điều kiện: Làm vườn nhà mình, chứ
không phải làm vườn của trại.
Vườn ông bà Chân thuộc loại đẹp nhất làng. Quất, cam, bưởi,
chanh, cau… giồng thành hàng thành lối, chia thành từng mảnh nhỏ. Phân chia từng
mảnh ấy là những rãnh sâu dẫn nước từ ao ngoài, tận phía nhà anh Chân. Những luống
thuốc lào lá dày dặn, ngọn nào ngọn ấy đều tàm tắp. Thứ thuốc lào bố vẫn trồng
và gửi vào trại cho hắn. Để hắn hút, hắn cho già Đô, Lê Bá Di hút, cho Dự bắt
tóp… Để hắn trở thành người có máu mặt trong tù, được anh em vì nể.
Hàng na anh Văn vãi hột ngày hắn chưa đi tù nay đã cao, đang
xòe lá, chĩa những nụ hoa cứng xuống phía dưới ngào ngạt hương thơm. Bà Chân bảo:
– Na tơ. Sai lắm. Đến mùa ăn không xuể. Con Nguyệt ngày ăn mấy
quả.
Mùi lá quất hắc. Mùi hoa cau nhè nhẹ. Mùi gió thổi qua cánh đồng
rộng, thoáng đãng. Tiếng những người đi trên đường làng trò chuyện với cách
phát âm rất riêng biệt của quê hương ngay bên ngoài bờ tre. Đúng là thế giới của
hắn, vương quốc của hắn. Hắn giẫy cỏ. Ông Chân đi ra cái rãnh to ở giáp bờ tre
nhấc đó. Được mọt đĩa con vừa tôm tép, vừa cá mại đòng đong. Vẫn nhỉ xưa. Vấn
như xưa dù nông thôn thay đổi rất nhiều, con người thay đổi rất nhiều.
Thế nhưng chẳng làm sao tìm được cái làng ngày xưa của hắn.
Làng hồi hắn đi thả diều. Hắn lấy lá tre làm thuyền. Có khi làm thuyền bằng cái
mo cau, trên đó thả những con cào cào châu chấu đã bẻ càng để chúng khỏi nhảy,
khỏi bay, giả làm những thủy thủ. Làng hồi hắn ở Nhi đồng cứu vong hội, đánh trận
giả tới tối mịt mới về nhà, sà vào mâm cơm.
Mảnh đất có hàng rào tre bao bọc bốn chung quanh, phía Nam là
nhà anh Chân, phía Bắc là nhà bố mẹ, nơi hắn đã lớn lên cũng không như trước nữa.
Không phải vì Tây đã đốt mất căn nhà gạch, cây mít ở sau nhà đã chết. Cái chính
là cuộc đời đã đổi khác rồi. Hắn đổi khác rồi. ứớc ao một lần thấy lại ngày
xưa, hắn nằm ngửa ở sân, nhìn trăng lên sau ngọn tre, lấp lánh trên đầm, đổ
bóng cây dừa và bụi tre xuống lối đi từ cổng vào. ở đó tối om, đom đóm lập lòe.
Trong mảnh vườn này, hắn đã chui vào vạt áo đoạn của bố tránh rét, đi quanh vườn
những sáng mùa đông, nghe bố đọc thơ:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi
Cái chết của hắn là ở đây. Là cứ nhớ mãi, nhớ đến tuyệt vọng
những cái đó. Cứ nhìn thấy mãi những chiếc thuyền bằng lá tre của hắn trên bờ đầm
dào dạt nước, nhìn thấy mãi những đêm trăng thuở nhỏ, nghe vọng mãi tiếng cha
ngâm thơ ngày trước. Vì thế hắn mới đi viết văn. Hắn mới được giải thưởng. Rồi
nghĩ rằng mình có tài, hắn mới về P, lao vào cuộc sống để viết tác phẩm của đời
mình. Vì thế hắn mới bị bắt. Không viết văn, không về P làm sao hắn bị đi tù.
Trong tù hắn đã nghíền ngẫm những điều ấy. Thì ra từ lúc còn
bé tý, từ lúc nghe mẹ kể Thạch Sanh, Tấm Cám, nghe bố đọc xuân du phương thảo địa
và sau này là hoàn quân minh châu song lệ thùy cuộc đời đã chuẩn bị cho việc bắt
hắn mấy chục nằm sau đó âu cũng là cái số hắn phải như thế.
Con Nguyệt chiều chiều bới tóc sâu cho bố. Hạnh phúc thật ngọt
ngào. Nó thủ thỉ kể chuyện trường, lớp:
– Tổ con học ở nhà bà Vách bán bún riêu, bố ạ. Đi xa lắm. Mãi
tận Bến Nải. Bốn tổ học bốn nơi. Tổ con tổ một là tổ Giỏi. Tổ hai là tổ Khá. Tổ
ba kém hơn là tổ Chăm. Tổ bốn kém nhất là tổ Ngoan. Thầy giáo là bác Minh. Đến
lớp là cắm cờ lên bàn. Thầy giáo dạy tổ này xong đi sang tổ khác. Chúng con lại
chơi. Nói chuyện. Nhảy. Hát. Xem bà Vách làm bún ngon lắm. Thèm lắm, bố ạ. Bà ấy
cứ khoanh khoanh thành từng lá. Rồi bà ấy nấu riêu cá mũn, gánh đi bán. Thỉnh
thoảng bà lại cho con năm xu được một bát chiết yêu…
Nó khoe nó học nhất lớp, thầy giáo nào cũng tranh nó về lớp
mình (chắc là để lấy thành tích), không được thì dỗi. Nó kể chuyện nó đi dỡ sắn
cho thầy hiệu trưởng, cả bọn ăn hết nhẵn nồi cơm to của thầy mà chẳng dỡ được
bao nhiêu sắn. Nó đã học lớp Ba. Sách giáo khoa của nó có cả một bài trích của
hắn. Sao thế nhỉ? Sao người ta vẫn còn in của hắn?
Có lẽ Sở Công an chưa kịp tư giấy đi các nơi chăng? Lại một lần
nữa hắn nghĩ hắn đã đánh một đòn nặng vào gia đình. Đi tù quả là một điều xấu
xa ghê tởm, đáng để mọi người khinh bỉ.
Gia đình hắn là gia đình cách mạng thời tiền khởi nghĩa, được
tặng bằng Có công với nước, một gia đình nề nếp gia giáo. Ông Chân lại là người
cao tuổi trong họ. Từ việc ma chay, cưới xin đến việc đắp đường, người ta đều hỏi
ý kiến ông. Ông làm chủ tịch xã ngay sau Tổng khởi nghĩa và làm chủ tịch Mặt trận
huyện cho tới năm 1947. Bốn người con trai đều đi làm cán bộ, đều đi thoát ly từ
hồi chống Pháp.
Thế mà lại có một đứa con bị bắt đi tù. Ô-tô công an về tận
quê khám nhà. Thật đau khổ nhục nhã cho bố. Câu chuyện hắn đi tù hẳn là ầm ĩ lắm,
nên mới xảy ra vụ thằng Hiệp đánh nhau. Dạo ấy cu Hiệp học lớp Bốn (nghĩa là hắn
đi tù được hai năm, đã chuyển lên trại Q.N). Trong lúc ra chơi, một thằng bé học
sinh người thôn Nội vừa nhảy lò cò vừa đânh vần: Tờ. Tờ u tu. Tất cả bọn trẻ cười
rộ và nhìn vào thằng Hiệp. Thằng Hiệp ức lắm, nhưng vẫn yên lặng, giả cách
không nghe tiếng. Đến lúc thằng bé thôn Nội quay lại nhặt mảnh ngói vỡ để chơi
tiếp, nó vòng qua mặt thằng Hiệp và được kích thích bởi tiếng cười của các bạn,
nó lại chõ vào mặt thằng Hiệp. Lần này thì: Tờ, Tờ u tu huyền tù.
Thằng Hiệp lấy hết sức bình sinh đấm vào mặt thằng bé thôn Nội
đã xúc phạm đến bố nó. Thằng kia ngã xuống đất. Hai cái răng cửa bị gãy. Máu đầy
mặt. Nó khóc. Nó lăn lộn dưới đất. Cả trường náo động. Cả hai thôn náo động.
– Cái thằng bình thường lành thế mà hóa ra cục. Ông Chân bảo
hắn như vậy. Hắn hình dung được hoàn cảnh bố lúc đó. Nhà thì có người đi tù, mà
bố mẹ anh em, chú bác thằng bé kéo đến chật ngõ, chật sân, đòi đưa thằng bé đi
bệnh viện, đòi bồi thường. Thầy hiệu trưởng, thầy chủ nhiệm đến nhà bàn bạc,
dàn xếp. Thằng Hiệp mặt tái xanh trốn xuống bếp. Cái khổ là có người muốn lợi dụng
hai cái răng gẫy của đứa trẻ ấy. Thôn Nội toàn họ Đào. Thôn Ngoại toàn họ Nguyễn.
Bí thư họ Nguyễn thôn Ngoại. Chủ tích họ Đào thôn Nội. Bí thư tóc đã bạc, nhưng
về họ hàng dây mơ rễ má còn là cháu hắn, gọi hắn bằng chú, gọi ông Chân bằng
ông. Về chuyện vai lứa ở làng phải nghe anh Văn kể. Anh Vản học ở nước ngoài,
nên ít khi về làng. Gặp một thanh niên, anh chào:
– Anh đi chơi đấy hở?
Anh thanh niên tươi cười:
– Anh là con ông Chân? Ta là chú anh đây.
Đến khi gặp một cụ già râu tóc trắng như cước, anh Văn lễ
phép:
– Chào cụ ạ
– Bác Văn phải không? Em đây mà.
Chẳng biết đâu mà lần. Thành ra đi đường gặp ai anh cũng “vở
vở “vở vở” trong họng, nửa như chào hỏi, nửa như vâng đáp lại lời chào. Ông bí
thư quyết tâm giúp em Hiệp, nhưng ông chủ tịch lại làm cho ra nhẽ. Mâu thuẫn giữa
hai thôn, hai dòng họ. Tranh giành quyền lực mà. Chủ tịch xă đưa giấy mời ông
Chân ra trụ sở. Dù sao ông chủ tịch họ Đào cũng chứng tỏ mình là người biết điều,
kính trọng ông Chân, kính trọng công lao gia đình ông, tuổi tác ông và thái độ
ăn ở, chấp hành chính sách của ông. Nhưng vẫn phải mất một số tiền bồi dưỡng,
thuốc men cho cháu. Ông Chân phải đưa cho bố thằng bé thôn Nội hai mươi lăm đồng.
– Thật là phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. – Không biết nó
đấm thế nào mà gẫy răng con người ta. Cái thằng gớm thế. Ông Chân vừa vun gốc
chanh vừa nói. Hắn cười. Hắn yêu thằng Hiệp. Con cả anh nào cũng chậm chạp, ít
nói, mà anh này gớm thế. Hắn nhìn ra cái ao, Tết năm nào hắn cho thằng Hiệp xuống
bắt cá. Rồi hắn chống cuốc đứng nhìn bố đang bỏ phân mục vào gốc chanh. Nhìn mẹ
hái chè xanh.
Không phải chống cuốc đứng ở vườn trại Q.N, vườn trại V.Q nhìn a Thềnh, Chống Xường, Kỷ Mình, Vũ Lượng, già Đô nữa.
Hắn ở nhà ba ngày. Ba ngày ấy, hắn sống bằng cả ba kiếp sống.
Cái hội chứng sống nhiều kiếp trong một lúc chỉ hắn mới có, chỉ những người mới
ở tù ra mới có. Thực ra hắn chưa biết có nó. Hắn chưa ý thức được rằng mình
mang bệnh ấy. Sống mà luôn nghĩ tới quá khứ, những ngày chưa bị bắt và nhưng
ngày ở trong ấy, từ chuyện này lan man sang chuyện khác. Đúng là từ chuyện này
lan man sang chuyện khác. Khi con Nguyệt nhổ tóc sâu cho hắn, thủ thỉ bên tai hắn,
hạnh phúc êm đềm đến thế, hắn lại nghĩ đến con Thương ngày nào còn bé hơn con
Nguyệt tẩm quất cho hắn. Và lại nghĩ đến Giang. Giang cũng nhổ tóc sâu cho hắn.
Rồi con Nguyệt kéo tay hắn hớn hở: “Con với bố đi đến xem có bao nhiêu quả dứa
đi. Năm nay dứa sai lắm, bố ạ”. Hắn dẫn tay con bé cùng đi dọc bờ những rãnh xẻ
trong vườn. Hai hàng dứa trồng hai mép rãnh đang ra những quả non. Hai bố con
cùng đếm.
Con Nguyệt liến thoảng:
– Một, hai, ba, năm, cây này hai quả đấy, bố ạ. Một quả chúc
xuống rãnh đây này, bố trông thấy không, sáu, bảy…
Hắn cũng đếm. Hắn chỉ đếm được đến mười thì nghĩ đến cái tên
Vịt Bầu. Nghĩa là chậm. Vì số 10 là niềm tự hào của Vịt Bầu. Vịt Bầu chậm,
nhưng cũng tạt được khoai khi xới khoai. Vặn củ khoai non lau vào vạt áo cho hết
đất cát phân gio, rồi tém gọn vào mồm ngậm nhai. Khi xới ngô cũng thổi
ác-mô-ni-ca, cho bắp ngô vào mồm xoay một vòng là hết mấy hàng hạt… Và nương dứa
của trại ập đến. Nương dứa mênh mông vạc vào một bìa rừng, cỏ mọc rậm rịt. Những
bụi le cao vút chen với dứa, lá sắc như dao cạo che khuất hắn. Nhưng dứa vẫn rất
nhiều quả. Lại nhiều quả đang bắt đầu chín. Hắn lại chỉ đi một mình. Thật là
thiên tải nhất thì, nghìn năm có một. Hắn trẩy đúng mười quả. Dễ lắm. Lấy chân
đá vào cuống dứa.
Gẫy ngay. Toàn những dứa thơm căng. Cho vào thùng, rồi quẩy lủi
vào một bụi rậm giữa rừng. Khợp. Không có dao, hắn tìm một chỗ gồ lên của rễ
cây. Đập Quả dứa vỡ đôi. Hắn gặm. Ngon. Thơm. Ngọt lịm. Đúng là cơ hội ngàn năm
có một. Quả thứ hai vẫn ngon. Quả thứ ba đă thấy rát lưỡi. Đã thấy lợi như bị
cào. Nhưng vẫn ngon. Nước dứa ngấm vào người rần rật. Rát lưỡi đấy, nhưng không
được bỏ. Có thể yểm vào một chỗ, để dành, nhưng biết bao giờ mới quay lại mà
ăn. Tù nay làm đồi này mai làm đồi khác. có khi vài tháng sau mới quay lại nơi
làm cũ. Hắn gặm. Tiếp tục đập. Tiếp tục gặm. Lợi đã chảy máu. Máu đỏ tươi khi hắn
quệt mép. Máu đỏ hồng ở chỗ thịt dứa dính vào mảnh vỏ hắn cầm trên tay.
Quả thứ bảy. Mỗi lần gặm đau như xé lợi. Máu tươi chảy xuống
tới càm.
Quả thứ tám. Lưỡi vừa chạm vào miếng dứa đã rụt ngay lại như
chạm vào sắt nung đỏ. Cố. Phải cố. Phải ăn hết. Không được bỏ. Đây là lượng.
Đây là chất. Nhai trệu trạo thôi. Rồi nuốt. Nhưng hàm ếch cũng chảy máu tươi rồi.
Cũng bong hết lớp da non, cũng rách toạc ra rồi.
Quả thứ chín. Khá lắm. Đã được tám quả. Còn quả này nữa. Hắn
đau đớn giàn giụa nước mắt. Giá có dao gọt, xắt thì đỡ hơn. Đằng này lại gặm. Dứa
tác động đến mồm miệng nhiều gấp mấy lần. Hắn thừ người nhìn quả dứa thứ chín
đã đập vỡ làm hai, Nước quả dứa bị giập trong khi đập ri rỉ, óng ánh. Nước dứa
dính bết tay hắn. ở miệng hắn, nước dứa dính lẫn máu hồng hồng.
Hắn gặm nửa quả dứa thứ chín. Tra tấn. Đúng là tra tấn. Giá
mà để dành được. Đau. Mồm như bị lở loét xối lên óc. Hắn gặm nửa quả dứa còn lại.
Máu chảy nhiều quá. Hắn giằng mạnh cái lõi. Nó bựt ra, kéo theo nhiều thịt dứa.
Hắn gặm chỗ thịt ấy. Đỡ đau hơn khi nó còn dính vào vỏ, lúc gặm thỉnh thoảng lại
có một cái mắt dứa cào vào lưỡi như dao cạo khía. Nhưng vẫn là tra tấn. Vẫn là
máu me nhầy nhụa. Hắn ăn hết quả dứa thứ chín và ngắm nghía cái lõi. Nó tròn
tròn phủ kín một lượt máu, hồng hồng như một khúc xương lợn còn dính thịt. Hệt
như khúc xương lợn còn dính thịt nham nhở. Hắn vất cái lõi hồng hồng ấy vào đám
vỏ dứa đã gặm. Hắn nhìn quả dứa thứ mười. Hắn thở dài, đứng lên, ném quả dứa
vào bụi. Không ai có thể làm được một việc quá sức mình. Hắn chỉ cố được chín
quả. Dù là nghìn năm có một vẫn phải vứt đi thôi.
Hắn lần mò xuống suối. Mồ hôi như tắm. Bỗng thấy ngứa ran khắp
người vì nóng, vì muỗi đói, ruồi vàng. Hắn ngâm mình dưới suối và thấy tỉnh táo
trở lại. Bữa trưa hôm ấy, hắn chỉ xúc vài thìa lấy lệ. Vì đau. Vì no. Chỗ cơm
còn lại hắn phơi khô, để dành cho những sáng chủ nhật bị treo mỏ.
Từ ấy Vịt Bầu không còn là Vịt Bầu nữa. Chỉ Vịt Bầu mới tạt
được một lúc mười quả dứa. Cứ bảo Vịt Bầu chậm mãi đi. Thần tạt đấy. Nhưng sự
đánh giá mới ấy không bền. ít lâu sau anh em trong toán lại trêu chọc Vịt Bầu,
vì Vịt Bầu cùng Dần đi tạt sắn bị Thuận sứt bắn rụng.
Hai người đã cẩn thận lắm. Không đi từ dưới lên mà tạt từ rừng
xuống. Chui vào giữa nương thì Dần bảo: Nghe như có tiếng mõ trâu. Khéo thằng
Thuận sứt ở đây đấy”. Hắn sợ. Thuận sứt chăn trâu không tha một ai. Hắn và Dần
nằm xuống thảm lá sắn nghe ngóng động tĩnh. Vẫn im ắng. Một đàn chim thiên đường
sặc sỡ từ đâu bay tới đỗ xuống bìa rừng. Nhớ đến một chuyện của Hemingway viết
về chiến tranh Tây Ban Nha, về con quạ trên cây thông lối đi vào trận địa bay
lên là bọn phát-xít tới, hắn bảo Dần theo dõi đàn chim. Con chim cuối cùng vừa
đáp xuống thì con đầu đàn đã tung lên kéo theo cả đàn. Hắn và Dần nằm im một
lúc nữa. Rồi cùng bò đến một gốc sắn mập đầy mắt. Đầu tiên là phạt đứt cái chạc
ba ngọn sàn đã. Để nó khỏi rung rinh. Và nhổ. Được gốc đầu tiên. Bốn củ gẫy. Xoắn
vặn bốn củ. Hơi tiếc vì phần ngon nhất còn nằm dưới đất. Gốc thứ hai. Đất rắn
quá. lâu không mưa. Cong lưng. Nín thở. Vãi cả rắm mà không suy suyển. Nào. Cố.
Hai ba nào. ị… ị… ự… ự… Bỗng Dần ngổi phịch xuống đất, đưa tay về phía lưng kêu
lên Khe khẽ:
– Bỏ mẹ rồi! Chết cha rồi! Sút lưng rồi!
Và nằm ngửa giơ bốn vó lên giời, quằn quại trên lớp lá sắn
khô.
Vừa lúc ấy một giọng khoái trá vang lên: “Các anh làm gì ở
đây. ”. Thuận sứt! Thuận sứt cười hề hề, nhặt bốn củ sắn gẫy về báo cáo cán bộ.
Trông rất đểu. Cái thằng chó má ấy chỉ chừa tật bẩm báo, khi Hỉn Sán bắt quả
tang nó đang “làm tình” với con trâu cái của toán ở dưới suối. Nó đã vào rất
sâu trong rừng. Nó đã tháo cả mõ trâu ra. Nhưng nó lại kêu họ, họ lúc làm tình.
Thế là Hỉn Sán túm được.
Mình chỉ bị hạ mức ăn. Dần còn bị sút lưng, nằm ngổi dặt dẹo.
Lẽ ra phải biết khi đàn chim văn công bay đi là chắc chắn có người ở bên dưới.
Lẽ ra để lùi lại Đừng tạt ngay hôm ấy…
– Nhưng làm sao chờ đợi được. Sắn đang xuống củ. Tất cả trí
tuệ hướng về nươhg sắn, mong được bữa bành.
– Bố bảo gì? Con đếm hết hàng này là một trăm hai bốn quả. Bố
đếm được bao nhiêu?
Con Nguyệt giật tay áo kéo hắn, ngước cặp mắt long lanh nhìn
hắn.
Hắn ép con vào sườn mình. Hai bố con cùng đi đếm tiếp mà lòng
hắn quặn đau. Con học giỏi mà làm gì? Đời con rồi khổ dấy. Con không còn là một
đứa trẻ bình thường nữa. Lỗi tại bố. Tất cả là tại bố. Con chưa hiểu gì đâu.
Nhưng bố thấy trước rồi. Đen tối lắm. Lý lịch của con sẽ ghi “Bố. Đi tù “. Các
cấp sẽ xác nhận: “Bố phản động. Đi cải tạo năm năm”. Dòng chữ ấy bám vào con suốt
đời. Không chỉ đời con. Đời con con nữa. Con là thịt xương của mẹ, của bố. Giá
con là con một người nào khác, đời con sẽ không đến nỗi…
Hắn ôm lấy con gái. Hôn vào má nó. Hắn cứ tưởng về quê với bố
mẹ, hắn có thể thư thái lại. Như trước đây “bước vào tới cổng là bỏ lại sau
lưng tất cả”
Khi mới nhận giấy tha từ tay ông Quân, bước những bước đầu
tiên trong trại V.Q thấy nhẹ băng băng, hắn đã nghĩ tới cái lực hút nhà tù
không còn tác động đến hắn. Thật ngu xuẩn và nông cạn. Nó là cả một từ trường
như từ trường quả đất, luôn kéo mũi kim la bàn chỉ về hướng Bắc. Có xoay la bàn
thế nào chăng nữa, kim chỉ rung rinh chuyển động, rồi lại im lìm một hướng quay
về phía Bắc.
Cái kim la bàn trí não hắn có nghĩ tới chuyện gì rồi cũng lại
quay về đó.
Những chuyện trong tù cứ tự nhiên nó đến. Nhiều khi chẳng cần
một mối liên hệ nào. Khi bà Chân ngồi ở cửa bếp mổ cá, bà gọi: “Nguyệt ơi! Trèo
lên hái cho bà mấy cái lá me đi”, hắn hiểu rằng mong ước của hắn đã biến thành
sự thật. Trong tù hắn đã ao ước được nhìn thấy mẹ đi chợ về biết bao. Và khi từ
75 lên Q.N lần thứ hai, được giữ chân coi vườn, đem màn xuống suối vây bắt cá,
bắt những con cá suối bé tý gầy nhom bỏ vào ca, vẩy cá bám vào tay, hắn nghĩ đến
đúng cảnh này.
Vậy mà ngay lúc ấy, ngay lúc lũ gà xông vào mổ vây cá, ruột
cá trên thớt, mẹ lấy dao huơ đuổi làm chúng giạt ra, hắn lại thấy trước mắt những
ô vuông trên cánh cửa xà lim và những đôi mắt xà lim đầu tiên nhìn hắn, hắn
cũng đăm đăm nhìn lại. Những đôi mắt xà lim 75 im lặng ướm chườm lên mắt hắn
vào cái hôm hắn từ 76 chnyển sang.
Sau nửa nằm 76 không một bóng người, sang 75 lần đầu tiên
nhìn thấy những đôi mắt ấy. Những đôi mắt trong những ô vuông xà lim đối diện
nhìn sang. Giống nhau. Rờn rợn. Câm lặng. Âm thầm. Khắc khoải. Dò hỏi. Rã rời.
Cam chịu. Nhẫn nhực. Chở đợi. Tò mò. Cảnh giác. Và hình như cả vui vẻ nữa, vì
có thêm người cùng chung cảnh ngộ. Những đôi mắt thoi thóp chút ánh sáng còn
leo lét bên trong. Những đôi mắt nói rất nhiều. Không thể diễn đạt bằng lời những
đôi mắt ấy. Chỉ có thể thể hiện nó bằng ống kính. Nhất là khi mới chân ướt,
chân ráo bước vào. Ngơ ngác vì sự chuyển buồng. Ngơ ngác với cái chuồng mới của
mình. Vất nội vụ vào một góc và bước ra cửa xà lim quan sát thế giới qua cái ô
vuông bằng bàn tay. Lom khom nhìn ra hành lang tối. Nhìn sang bên kia. Bắt gặp
những đôi mắt ở những ô vuông xà lim đối diện nhìn lại. Không thấy người. Chỉ
những đôi mắt. Lần đầu tiên thấy những đôi mắt xà lim. Những đôi mắt xà lim nhất
loạt hiện ra nhìn lại. Những đôi mắt từ đường chân trời bên kia nhìn lại.
Ai? Họ là ai? Người. Không. Con người không nhìn nhau như thế.
Những đôi mắt như những tấm gương soi, soi rõ cuộc đời mình. Mỗi ô vuông chỉ vừa
đôi mắt. Không thấy mặt Không thấy người. Không biết tuổi tác. Không thể chỉ bằng
đôi mắt đã biến dạng mà biết được già hay trẻ, cao hay thấp. Chỉ có hai con mắt.
Con mắt cửa sổ tâm hồn. Con mắt cửa sổ xà lim. Con mắt của những cuộc đời xà
lim. những số phận khác nhau, lần đầu gặp gỡ quan sát làm quen, bởi vì mãi sau
mới là câu chào đón tiếp đầu tiên: “Bị lâu chưa? ” Những đôi mắt mà hễ ai nhìn
thấy dù chỉ một lần cũng đủ cả đời ám ảnh.
Còn khi bố cầm chổi quét sân, tiếng chổi quèn quẹt trong mảnh
sân nhỏ còn vương lại ánh nhợt nhạt cuối cùng của một ngày và trong nhà con
Nguyệt đã châm đèn thì còn có thể nghĩ đến một cái gì khác, một ai khác ngoài
Sơn. Tiếng chổi cuối cùng của một ngày vẫn hứa hẹn một buổi tối bình yên, đầm ấm,
hạnh phúc, êm ả đến phẳng lặng của nông thôn sum họp bây giờ đây nghe mà buồn đến
tái lòng. Không thể tách bạch được dâu là tiếng chổi của bố, đâu là tiếng chổi
của Sơn.
Sơn kỹ sư bốc xếp, án ba nám, đêm đêm khoanh tay nhìn bó hoa
đen trên tường nhà mét, Sơn đã được giao quét trại khi anh tù chuyên quét trại
mãn án. Không thể không nhớ tới đôi lồ của Sơn. Nhớ tới cô giáo Hạnh vợ Sơn lên
thăm Sơn. Và nghĩ tới Phượng, dì Sơn. Người quen trong thời oanh liệt, người mới
biết trong nhà gặp mặt trại Q.N.
Lần đầu tiên gặp Hạnh hắn không để ý. Hắn chỉ gật đầu chào
Phượng. Lúc ấy Phượng đang ngồi cạnh Ngọc. Lúc ấy hắn mới biết Sơn là cháu gọi
Phượng bằng dì. Hai dì cháu chắc chỉ hơn nhau dăm tuổi. Thoạt nhìn thấy Phượng
hắn cảm thấy nhục nhã vì bộ quần áo tù hắn đang mặc trên người, vì dáng vẻ tiền
tụy của hắn trước các ông công an. Bởi Phượng là người đã chứng kiến hắn từng sống
như thế nào, bởi Phượng có một thời đã đem lòng yên hắn. Phượng đánh máy ở cơ
quan Ngọc. Ngọc vẫn nhờ Phượng đánh máy bản thảo cho hắn. Những bản thảo đã in,
chưa in, bị công an tịch thu đều do Phượng đánh máy hộ. Coi như Phượng đã đọc
toàn bộ sáng tác của hắn. Hình như Phượng quý hắn. Hắn cảm ơn Phượng về sự giúp
đỡ. Hắn ký tặng Phượng sách.
Ngọc mời Phượng đến ăn cơm những ngày chủ nhật, những khi hắn
có nhuận bút. Hắn để Ngọc tiếp chuyện Phượng. Hắn nấu án. Hắn nấu ngay ở lò sưởi
trong nhà và quay lại: Cô chủ, cô khách quay đi nhé. Tôi nếm đây. Dạo ấy Phượng
còn ở tập thể. Một mình Phượng trong căn buồng hẹp ở công ty. Chồng Phượng dạy
học trên Hà Nội thỉnh thoảng mới về. Cao lớn, nước da bánh mật, răng trắng đều,
lại được hai lúm đồng tiền bên má, đôi mắt lấp lánh, Phượng rất tươi tắn và quyến
rũ. Ngọc kể lại: ông phó chủ nhiệm công ty đã tán tỉnh sàm sỡ với Phượng bị Phượng
cự tuyệt thẳng thừng. Tuy nhiên để ông yên tâm, hoàn hồn, Phượng nói với ông sẽ
giữ bí mật cho ông chuyện đó, không báo cáo với lãnh đạo. Phượng đã giữ lời hứa.
Phượng chỉ nói với Ngọc thôi. Không biết Phượng đã nói với Ngọc những gì về hắn
mà một hôm đi làm về, Ngọc nửa đùa nửa thật bảo hắn:
– Cái Phượng nó yêu anh đấy.
Hắn cười. Hắn biết Phượng là người ham đọc sách, đã đọc hết tỉ
sách còm cõi của hắn. Đã đọc nhiều sách khác. Phượng yêu văn học. Phượng yêu những
trang hắn viết. Rồi Phượng có cảm tình với người viết những trang ấy. Có thể là
như thế.
Một buổi sáng, hắn ở nhà viết bài thì Phượng đến gặp hắn, chỉ
giữa hai người thôi, không có Ngọc. Lần đầu tiên chỉ có hai người, không có Ngọc.
Phượng đưa cho hắn những trang bản thảo quyển Hải đang mới
đánh máy xong. Cũng lại là lần đầu tiên Phượng tự mang đến. Những lần trước Phượng
đều gửi Ngọc cầm về. Hắn đỡ xếp giấy trong tay Phượng, cảm ơn Phượng và nói.
Phượng đánh máy đẹp quá.
– Anh viết đến đâu rồi. Đưa tiếp cho em.
Hắn đưa xếp bản thảo tiếp theo cho Phượng. Phượng cúi nhìn những
dòng chữ li ti của hắn, những chỗ hắn dập xóa, những chỗ hắn thêm vào.
– Chữ tôi có khó đọc lắm không?
– Đọc được. Em quen với chữ anh rồi.
Phượng nhìn thẳng vào mắt hắn trìu mến:
– Văn anh đẹp lắm.
Và hỏi hắn về quyển Hải đăng, về những dự định sáng tác của hắn.
Đôi mắt Phượng lấp lánh. Nụ cười của Phượng càng sâu hơn những vết lúm đồng tiền.
Phượng bỗng trở nên nhí nhảnh, duyên dáng, hóm hỉnh, nũng nịu. Hắn nhớ đến thời
hạn nộp bài cho ban biên tập và hỏi Phượng mấy giờ rồi. Phượng không trả lời.
Tay Phượng đang để trên bàn: đỡ xếp bản thảo. áo sơ-mi ngắn tay, bắp tay Phượng
tròn đầy màu bánh mật. Cổ tay Phượng đeo cái đồng hồ nhỏ xíu. Phượng hơi nhíu
mày về sự quấy rầy của hắn, càng như mải chăm chú đọc những trang mới viết của
hắn và đưa cả cánh tay tròn trĩnh có đeo đổng hồ sát về phía hắn. Để hắn xem giờ.
Để hắn cầm lấy tay Phượng đưa lên mà tự xem giờ. Đó là một kiểu mời yêu. Một kiểu
nói: “Em yêu anh. Em là của anh”. Hắn cầm lấy tay Phượng. Hắn cầm lấy cả cánh
tay mát rượi có đeo đồng hồ ấy kéo về phía mình. Phượng rời xếp bản thảo đứng
lên, ngoan ngoãn bước lại gần hắn. Hắn cũng đứng lên. Hắn ôm hôn Phượng. Hẳn
Phượng vẫn chờ đợi cái hôn ấy, vì Phượng ép chặt vào người hắn.
Hắn thở gấp. Phượng cũng thở gấp. Hình như mặt hắn tái đi, vì
mặt Phượng cũng tái đi. Hắn nhìn Phượng, thấy đôi mắt Phượng trong trẻo long
lanh như mắt thiếu nữ. Phượng bỗng trở thành thiếu nữ. Thiếu nữ đến tuổi yêu,
đang yêu và được yêu. Hắn nắm tay Phượng lần nữa, nhưng Phượng khẽ khàng gỡ ra,
lắc đầu chỉ ra cửa như muốn nói: “Chúng mình hãy cẩn thận. Nhỡ có người lên”.
Phượng vuốt lại tóc, cầm xếp bản thảo trên bàn, nhìn hắn gật gật như hỏli “Em về
nhé. Đồng ý nhé”. Và xuống thang. Phượng xuống thang như nhảy từng bậc một dù vẫn
nhẹ nhàng. Từng bước chân thiếu nữ nhún nhảy, nhí nhảnh, nghịch ngợm, vai khẽ
nhô lên hạ xuống theo từng bậc thang. Hắn nhìn theo mà thấy Phượng trẻ lại như
chỉ mời sáu mười bảy tuổi.
Câu chuyện xảy ra lúc mười giờ và kết thúc hai tiếng đồng hồ
sau đó khi Ngọc đi làm về. Không hiểu sao Ngọc đã biết tất cả. Đã lâu quá rồi.
Gặp Phượng ở nhà gặp mặt trại QN, những kỷ niệm ấy chỉ thoi thóp ở một nơi nào
đó của ký ức, không đủ sức cựa mình dưới chiều dày lớp chăn liệm của thời gian
và sự kiện. Cái hôn duy nhất thoảng qua của một thời đã chết và không bao giờ
còn tái sinh được nữa, chẳng gợi gì đói với một người đang sống trong tù ngục với
cái đói, với u uất, với xà lim, với lao động khổ sai, với tiên diệt cuộc đời. Hắn
chỉ cảm thấy xấu hổ vì tư thế súc vật của hắn. Và ngạc nhiên: Không biết Phượng
thăm ai. Nhà Phượng cũng có người sa vào thiên la địa võng này ư? Ngọc bảo:
– Phượng lên thăm cháu. Cũng ở đây. Em với Phượng cùng đi với
nhau lên hôm qua. Phượng gửi cho anh gói cà-phê đây này. Nhưng không biết các
ông ấy có cho nhận không?
Nhìn Sơn ngồi đối diện với Phượng, hắn mới hiểu vì sao hắn thấy
Sơn quen quen, như đã gặp nhau ở đâu rồi. Sơn rất giống Phượng. Ngày ấy Sơn đã
khoanh tay đàm đăm đửng nhìn ngọn đèn không bóng, nhìn bó hoa đen ở cửa nhà
mét. Từ ấy hắn và Sơn thân nhau hơn. Hai người rủ nhau đi xa kiếm vả. Không có
vả chín, họ ăn vả ương và cả hai cùng bị say, nôn thốc nôn tháo cho đến khi dạ
dày chỉ còn nước chua. Rủ nhau vào các nhánh suối cạn. Lật những hòn đá, bắt
cua. Bắt nhái. Tìm ráy. Ráy hay mọc ở đầu những nhánh suối cạn lúc nào cũng ẩm
ướt và bên trên là cây cối dây leo chằng chịt. Tìm món này có cái nguy hiểm là
sẵn vàt. Giống vắt cắn rất êm. Không đau. Chỗ nó cắn máu cứ chảy mãi. Phải lấy
lá nón dán vào mười cầm được máu. Thuốc lào cũng chẳng ăn thua gì. Có con cắn
no máu về đến buồng giam cũng vẫn không biết. Nó hút máu quá căng, nên rời ra
chiếu rồi mà máu từ mồm nó vẫn cứ ựa ra đỏ tươi. Sơn bỏ các thứ vào cặp lồng. Cả
nhái, cả cua, cả rau tàu bay, mẩu khoai lang, ráy nấu thành một thứ sền sệt.
Đúng là sột sệt. ôi! Đại tiệc.
Sau này đi làm miến với Giang, hai anh em ngồi ở chỗ làm, đêm
khuya nhìn con chim săn mồi vụt qua quầng sáng ngoài cửa sổ, cánh vỗ êm ru, hắn
lại nhớ đến Sơn. Vì hắn nghĩ đến những con chim rừng, những con sóc cũng bay êm
như thế. Rồi lại nghĩ đến tiếng vắt đo trên lá mục. Chim bay êm, còn vắt đo lại
nghe tiếng rào rào.
Hôm ấy, đang đi tìm ráy với Sơn, thì hắn thấy vắt ngay trước
mặt, chỗ hắn định đặt chân xuống. Hắn quay sang chỗ khác. Lại vắt. Chỗ nào cũng
vắt.
Hắn nhảy lên một gốc cây to bị cưa cụt gần đó. Một gốc cây
cao lưng lửng. Hắn đứng im trên gốc cây nhìn ra chung quanh. Nhìn xuống xem có
khóm ráy nào không. Nhìn lên xem có thấy dây gắm, quả vả nào không. Vì hắn bỗng
nghe như có tiếng rì rào. Hắn lắng nghe. Quả là có tiếng rì rào thật. Hắn chăm
chú nhìn xuống. Vắt. Vắt đói đo trên những lá mục. Cơ man là vắt nhỏ nhít như
những sợi tóc vàng vàng.
Bốn chung quanh, vắt ngóc đầu về phía gốc cây hắn đứng. Mỗi
chiếc lá mục phải đến mấy con vắt. Mà lá rừng thì nhiều vô kể. Vắt ngửi thấy
hơi người dồn đến. Vòng vây đang thít quanh hắn. Hàng vạn con vắt hăm hở hướng
tới quăng mình như những con sâu đo.
Hắn nhìn xuống gốc cây hắn đứng. Đoàn vắt tiên phong đang leo
lên gốc cây. Hắn hoảng sợ, nhún người nhảy vọt qua vòng vây của vắt, chạy xuống
suối, ngồi phệt trên một tảng đá, kiểm tra từng kẽ chân, vén quần lên xem chỗ
khoeo sau gối…
Hắn hú gọi Sơn. Có tiếng hú cúa Sơn đáp lại từ xa. Một lúc
lâu thấy Sơn xách về một củ ráy to. ở chân Sơn, mấy vết máu chảy: Vắt cắn.
Khi anh tù quét trại mãn án, Sơn được thay chân ấy. Hắn mừng
cho Sơn. Đó là một công việc được tin tưởng. Sơn quét không chê vào đâu được.
Quét suốt ngày. Từng buồng giam. Cọ rửa nhà mét. Cái đòn gánh luôn trên vai.
Khi gánh nước. Khi đôi lồ. Và chổi. Các loại chổi. Chổi cùn cọ nhà mét. Chổi
dài – làm bằng một loại cành cây mềm đã rụng hết lá – quét buồng, quét chung
quanh. Luôn chân luôn tay. Khi đã sạch sẽ tất cả, Sơn ngồi vào chỗ khuất nghỉ một
tý. Nhưng chỉ thoáng thấy bóng ông quản giáo ông vũ trang mãi ngoài cổng, Sơn
đã đừng lên vờ lấy cái chổi. Lại quét.
Rõ ràng Sơn quét trại tốt hơn anh tù trước. Rác rưởi cây que
quanh nhà xí công cộng cũng không còn (anh em tù người dân tộc chùi đít bằng
cây que, đóm, nứa… vương vãi khắp nơi). Gánh nước cọ gần chục nhà mét. Quét gần
chục buồng giam. Quét chmg quanh các buồng. Quét lối đi. Dọn nhà đái, nhà xí
công cộng… Khối lượng công việc thật đồ sộ. Sơn im lặng làm. Sạch sẽ. Cẩn thận.
Chu đáo. Nhặt từng đầu mẩu thuốc lá. Từng cái đầu đóm. Cải vỏ kẹo. Cái lá rụng.
Không một ông quản giáo nào chê Sơn. Sức lao động Sơn bỏ ra phải gấp mấy lần
khi Sơn còn đi làm cùng với toán.
Bù lại, Sơn được ra vào trại tự do. Và nhất là được biên chế
vào toán nhà bếp. Được ngủ được ăn với toán nhà bếp. Được bành. Bành, nhưng
trông Sơn vẫn chẳng thấy khác đi tý nào. Vẫn cứ xanh bóng. Vẫn khó đám đăm.
Không biết về toán nhà bếp Sơn có còn đứng ở cửa nhà mét nói chuyện với bó hoa
đen nữa không? Cái vụ anh-giếch-tơ, béc vòi phun, Sơn kiếm được bao nhiêu? Cái
giá phải trả thật là ghê gớm. Rồi hắn cười chua chát:
– ít ra Sơn còn kiếm được tiền để phải trả giá ba năm. Còn gần năm năm của mình là cái giá phải trả vì mình đi viết văn, đi làm báo, vì những ý nghĩ ngu xuẩn, dại dột, ngông cuồng của tuổi trẻ. Đáng đời thằng cáo!
Những ý nghĩ bi quan nhất rồi cũng qua đi. Hắn từ biệt cha mẹ
ra phố với quyết tâm của một người lính xông vào cuộc chiến đấu mới. Hắn tự nhủ:
Tất cả đã qua rồi. Năm năm tù đã qua rồi. Nỗi đắng cay của Ngọc đã qua rồi. Những
lo nghĩ xót xa đau đớn của bố mẹ cũng qua rồi. Cả chuyện thằng Hiệp đánh gẫy
răng thằng bé thôn Nội cũng qua rồi. Cuộc sống ở phía trước. Dối với hắn phía
trước là gì nhỉ Chắc chắn nhất phía trước của hắn là bốn đứa con. Là thằng Hiệp
đã thành một thiếu niên. Là con Thương chịu thương chịu khó. Là con Nguyệt quần
phíp vá tung tăng đến trường. Là bé Dương nằm trong lòng hắn hỏi hắn: “Bố ơi!
Sao bố đi lâu thế, Bố già chưa, hả bố”. Và còn dặn đi dặn lại “Bố mẹ bắt gà ra
cho con nhé”. Chính vì bốn đứa con mà hắn không thể lùi bước. Phải tìm mọi cách
khôi phục công lý. Phía trước của hắn là làm sao đền đáp được công ơn cha mẹ.
ông Chân đã bảo hắn, khi hắn trở ra phố.
– Bố mẹ chẳng mong gì hơn là con cháu khỏe mạnh, bình an. Con
về là bố mẹ mãn nguyện rồi. Con người ta tránh không khỏi số. Bố mẹ được như thế
này là quý lắm. Cảm ơn trời phật tổ tiên. Người ta còn ông, mất bà. Còn bà, mất
ông. Được song toàn hiếm lắm. Tuy tuổi cao, nhưng giời còn để cho khỏe mạnh,
kinh tế chưa phải nhờ đến con cái. Các cụ để lại cho mảnh vườn, còn gọ gẵng sống
được. Hơn người rồi. Bom đạn Pháp, Mỹ, gia đình ta nguyên vẹn. Thế là phúc cả mả
dày. Con ra ngoài ấy cố gắng cùng với mẹ Ngọc bàn cách làm ăn. Mẹ nó tốt thật đấy.
Có gian khổ mới thấy được. Làm dâu, làm vợ như nó hiếm đấy.
Phía trước của hắn là phải gặp được ông Trần, các ông thường
vụ. Phải đòi được bản thảo. Phải tìm mọi cách đòi lại cuộc sống đã bị tước đoạt.
Trở về P trên chiếc xe ô-tô khách hôm trước, hôm sau hắn sắp
xếp giấy tờ ra đồn công an đăng ký hộ khẩu. Hắn xem lại tờ lệnh tha mà cô trung
sĩ ở tổng trại V.Q đã đưa cho hắn. Có hai điều hắn nhớ:
– Tha hắn về địa phương hắn ở trước (thành phố P).
– Hắn được tha vì cải tạo tốt.
Điều thứ nhất là vô cùng quan trọng. Người ta có thể tha hắn
về nguyên quán, nghĩa là về quê, nghĩa là hắn không thể đăng ký hộ khẩu ở thành
phố, nghĩa là không sổ mùn, không sổ gạo. Nghĩa là hắn phải ở chui với Ngọc, với
các con hắn. Điều thứ hai mang tính chất thủ tục nếu không nói là hài hước. Ai
được về mà không cải tạo tốt.
Ngày hắn trở lại 75, nếu được tha thì cũng đã cải tạo tốt từ
ngày ấy rồi. Về chữ cải tạo này, Dần lái xe kẹp chết người đã có ý kiến nghe
cũng có lý: “Cải tạo là thay đổi bản chất. Những người bản chất tốt vào đây sẽ
được xấu đi. Có đúng không nào? ”
Hắn suy nghĩ: Sao người ta lại tha hắn nhỉ. Hắn vẫn làm đơn
kêu oan. Hắn vẫn không chịu nhận những gì người ta muốn hắn nhận. Người ta có
thể kéo dài thời hạn đi tù của hắn. Làm gì được? Có thể họ vẫn còn một chút
lương tâm, một chút lòng trắc ẩn. Có thể có người nào thấy năm năm ông ta sống
với vợ con đã là lâu, nên sực nhớ ra năm năm tù của hắn cũng là quá lâu rồi so
với cái tội chủ quan, tự kiêu tự đại, viết nhiều, không muốn vào Đảng của hắn.
Kể ra năm năm cũng là lâu chứ. Quá nửa cuộc trường kỳ chống Pháp còn gì. Hẳn phải
có ý kiến ông Trần. Chắc ông Trần trong một cuộc họp nào đó đã cười bảo bọn ông
Quảng, ông Lan:
– Thằng Tuấn tù thế cũng đủ rồi đấy. Các cậu liệu làm thủ tục
cho nó ra đi.
Thế là hắn được tha. Được về, được thoát khỏi tù tội. Hắn nộp
giấy tờ ở đồn mà lo. Nhiều người đi tù về không được đăng ký hộ khẩu đấy. Dù lệnh
tha có ghi rõ. Người ta nhận giấy, nhận sổ hộ khẩu và bắt hắn làm đơn hứa sẽ
nghiêm chỉnh chấp hành chính sách sửa chữa khuyết điểm… Hắn làm đơn. Người ta bảo
hắn chờ.
Hắn chờ.
Đó là thời gian nhiều bạn bè đến thăm hắn. Họ đã biết hắn về.
Người ta đến thăm hắn cho phải dạo. Để có thể nói với người khác: “Tuấn về rồi,
biết chưa. Mình mới đến thàm xong ” Câu ấy có nghĩa: Mình là người trung thực.
Không sợ hãi. Thtỉy chung như nhất.
Hắn biết vậy vì những người đó chỉ đến thăm hắn có một lần
thôi. Rồi biệt tăm. Cái máu sĩ của anh em văn nghệ vốn rất nặng.
Tiếp những người bạn cũ hắn nghi nghi hoặc hoặc. Ai cũng có
thể là đặc tình của công an. Đặc tình là chữ hắn học được ở trong tù. Đó là cộng
tác viên (lâu dài hay một vụ việc cụ thể) của công an. Hắn nghi có cơ sở. Hắn vấn
không hiểu vì sao các ông công an đến khám nhà hắn lại thông thạo như vậy. Vào
nhà là kéo ngay cái hòm đựng sách. Mãi sau này mới biết cỏng an có bộ phân kỹ
thuật, chuyên mở khóa trộm, hắn nghĩ: Cũng có thể công an đã mở khóa vào nhà hắn
nhiều lần khi hắn đi vắng. Trong những ngày chờ đợi hộ khẩu, hắn và Bình tha hồ
trò chuyện cùng nhau. Đó là hai người bạn hiểu nhau, hiểu từng chân tơ kẽ tóc,
đến từng cái xấu của nhau, có thể nói hết mọi chuyện cùng nhau như nói với
chính mình. Và dù có phải xa nhau bao lâu, khi gặp lại, họ vẫn có thể nói chuyện
với nhau về tất cả, như chỉ mới chia tay nhau hôm trước và tiếp tục câu chuyện
dở dang.
Giờ đến lượt Bình kể về những ngày Bình sống xa hắn. Nỗi nhớ
hắn mỗi khi heo may về.
– Những ngày ấy tao sờ thấy kỷ niệm. Thèm được kéo mày ra một
quán cà-phê. Uống và im lặng nghe heo may. Thế thôi. Những lúc ấy tao càng thấy
thiếu mày.
Hắn cũng đã biết tình cảnh của Bình khi hắn bị bắt qua những
thông tin vắn tắt vào trại và những câu chnyện bập bõm Bình nói mấy hôm trước
đây. Nhưng hắn không ngờ người ta làm ghê gớm thế. Bmh bị gọi hỏi, căn vặn. Hẳn
rồi. Người ta nói với Bình rất đúng:
– Hai anh là một mà lại. Có điều gì các anh không nói với
nhau.
Người ta hỏi Bình về bài thơ chống thuế nông nghiệp của hắn.
Bmh cả quyết không có bài thơ nào như vậy. Đến khi các ông công an đưa ra những
bằng chứng cụ thể, thì Bình ngớ người vì đó là một bài nhại thơ Chinh phụ ngâm
của Yên Thao. Hắn đọc. Để cười. (Con người ta cũng cần cười chứ).
Thuở trời đất nổi cơn thuế má
Bọn nhà nông nhiều gã lao đao
Xanh kia thăm thẳm tầng cao.
Vì ai gây dựng nên tao thế này
Trống ngoài đình lung lay bóng nguyệt…
Hắn cười:
– Đúng! Đúng. Trong ấy họ cũng hỏi tao về bài thơ ấy. Tao nói
rõ đầu đuôi và khẳng định, nếu bài thơ có nói về thuế thì đó là thuế chế độ cũ
vì có câu Trống ngoài đình lung lay bóng nguyệt. Chế độ ta không có trống thúc
thuế.
Hắn chẳng thể nào nói được với các ông ấy về tài nhại thơ của
Yên Thao, là người hắn không quen mà chỉ nghe Vũ Mạc nói lại. Hắn bảo Bình:
Trong ấy họ hỏi tao rất nhiều về mày.
– Họ hỏi những gì?
– Không chịu rèn luyện, lập trường tiểu tư sản bấp bênh. Coi thường
đảng viên. Tự kiêu tự đại. Tự do vô tổ chức. Nhưng hỏi nhiều nhất là truyện Người
chết không cô độc của mày.
Bình cười nhạt. Anh lại cảm thấy mình rơi vào một trò ngu ngốc.
Đó là truyện đạt tới giá trị nhân bản cao của anh. Và người bạn bao giờ cũng khắt
khe với những gì anh viết là hắn cũng đánh giá nó cao. Truyện viết về một người
bị bệnh ung thư, biết rõ thời hạn sống còn lại của mình. Trong những ngày cuối
cùng ấy anh ta sống như thế nào với những người chung quanh, kẻ xấu người tốt,
người anh yêu, người anh ghét. Truyện chưa in. Không hiểu sao họ cũng biết và hỏi
anh dữ thế.
Gọi hỏi Bình là một việc. Họ còn cử hàng đoàn trinh sát theo
Bình không rời. Đó là điều đến bây giờ hắn mới biết. Hắn tròn mắt, nhớ lại câu
nói của Vũ Lượng về điều gì cũng có thể xảy ra, kể cả có một ông trời gõ cửa đi
vào nhà mình uống chè. Bình bàng hoàng khi biết mình có “đuôi “. Đến lúc ấy anh
mới thực sự hiểu điều bạn anh đang chịu là sự mất tự do. Anh như ngửi thấy cái
mùi của nhà tù. Anh bắt đầu biết anh bị theo dõi vâo một buổi chiều thứ bảy,
khi đèo Thao về một làng ngoại thành thăm hai đứa con trai sơ tán ở nhà chú em.
Anh đang mải miết đạp, Thao ngồi ở poócbaga bỗng bấu vào tay anh, nói khẽ:
– Hình như đang có ai theo dõi chúng mình.
Đó là đòn đánh ngang đầu. Là đất sụt nơi mình đứng. Là cuộc đời
bỗng nhiên không còn là cuộc đời nữa.
Trời đất đảo lộn. Cuộc sống dù sao cũng là cuộc sống. Vẫn có
trời. Có gió. Có mây. Có cánh đồng, có đường phố. Có lúc giận vợ. Có lúc nô đùa
với các con. Và viết. Nay sắp mất tất cả. Không. ăn bánh nắp hầm, ăn ngô bung
cũng được. Sống với sự giả dối cũng được. Nhưng đừng bị vào tù. Bởi vì còn sống
còn hy vọng. Bị bắt là chết. Chết cả chút hy vọng cuối cùng. Cuộc sống với bao
vất vả khó khăn lo lắng, nhiều lúc đến mụ mị đi của anh có thể bị tước đoạt bất
kỳ lúc nào. Giờ đây anh tính từng ngày, như người ung thư trong Người chết
không cô độc. Nghe vợ báo tin có người theo, anh thấy trống rỗng ở ngực. Cảm
giác ấy anh đã thấy một lần vào buổi sáng thứ sáu họp cơ quan, nghe Phan Lâm
nói: Tên Tuấn đã bị bắt
– Em để ý lâu rồi. Hai đứa.
Giọng Thao run run:
– Cứ thấy họ đi cách mình một quãng. Mình đạp nhanh, họ đạp
nhanh. Mình đạp chậm, họ đạp chậm. Đừng. đừng quay lại. Cứ thế. Kệ em.
Thao áp hẳn vào lưng anh mà nói. Anh nghe rõ từng tiếng, dù
gió mùa đông bàc ào ào qua tai. Anh sôi lên vì sợ hãi, tuyệt vọng. Và có cảm
giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không sao thoát được.
Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng
Iồ để hại mình. Đạp xe đi, anh cứ thấy vương vướng ở phía lưng. Dinh dính ở
gáy. Một cảm giác lạnh ở phía sau. Lạnh. Và bẩn. Và dính. Anh thở dài. Cuộc đời
đến thế là hết. Lẽ ra mình phải biết trước. Mình chủ quan như thàng Tuấn chủ
quan. Cứ nghĩ rằng mình hoàn toàn vô tội thì không bị bắt. Lẽ ra phải biết người
ta có thể bắt mình bất cứ lúc nào. Anh điên lên đạp như người mất trí. Thao kêu
khẽ:
– Anh làm gì thế? Chậm thôi!
Thao biết chồng đang nghĩ gì. Thao biết Bình đang sôi sục.
– Họ cũng đạp nhanh. Hoàn toàn đúng rồi.
Bình đột ngột phanh xe, bảo vợ:
– Đái
Anh đưa xe cho Thao giữ, bước những bước thong thả và đưa mắt
nhìn rất nhanh về phía sau. Cách chỗ anh đứng khoảng năm mươi mét có hai người
vừa dừng xe đang làm ra vẻ thản nhiên giơ tay chỉ trỏ về phía làng xa… Anh bật
diêm châm một điếu Trường Sơn. Thứ thuốc này đắng ngắt và anh cũng chẳng thèm
thuốc, nhưng anh cần kéo dài thời gian để xem những người bạn đồng hành kia diễn
những trò gì, diễn bao lâu nữa. Anh thấy họ vẫn đứng múa chân múa tay như đang
tranh luận sôi nổi lắm. Anh lững thững xuống bờ ruộng và đi mươi bước. Anh làm
cái việc tiểu tiện. Tiểu tiện thật. Thong thả anh quay trở lại Lúc này tha hồ
nhìn. Hai người, áo bông xanh cả. Một quần xanh công nhân. Một quần màu sáng.
Xa quá. Vả lại đã chiều tà. nên anh không nhìn thấy mặt họ, nhưng trông dáng
người anh biết họ còn trẻ.
Họ đang chụm đầu lại. Cũng hút thuốc lá. Hình như họ chuẩn bị
lên xe vì thấy anh đã nắm vào ghi-đông và ghếch một chân qua yên. Đúng lúc ấy,
anh bảo Thao: Em đi giải đi.
Thao hiểu ý anh. Thao đi. Đi xa hơn Bình. Tìm chỗ khuất. Bình
đứng trên vệ đường làm ra vẻ bình thản. Anh quay nhìn tứ phía cho có vẻ vô tư,
rồi mới nhìn phía sau. Họ đã lên xe đạp. Đạp được mấy vòng một người xuống xe.
Người kia cũng xuống. Họ cúi cúi như kiểu lồng lại cái xích bị tuột. Đó là vở
diễn của họ. Nghiệp vụ của họ.
Đủ quá rồi. Hiểu quá rồi. Khi Thao khẽ ngồi lên xe, anh đạp một
mạch. Không thèm quay đầu lại. Thao cũng im lặng. Chỉ một lần anh nghe Thao
nói:
– Chúng nó vẫn theo.
Cái cảm giác mình như một con mồi và họ như những người thợ
săn đến với anh lúc đó. Anh biết anh chưa bị bắt thôi, chứ anh đã bị mất tự do
rồi. Không thể gọi là tự do khi mình đi đâu, làm gì (kể cả đi đái), gặp ai, trò
chuyện bao lâu cũng có người quan sát và ghi vào sổ: “Đối tượng P2 về thăm con.
Không đi la cà các nhà hàng xóm. Ngủ ở nhà… ”Vì chắc anh cũng phải có một bí số.
Nhưng không biết họ đặt cho anh bí số gì nhỉ? P2 hay A18? Hay T5? Thật là một
trò chơi chết người. Và thật buồn là mình lại ở trong vòng chơi đó.
Vợ chồng anh dắt xe vào căn nhà quen thuộc của chú em. Anh ôm
hai đứa con trai và nghĩ đến những đứa con của Tuấn. Nghĩ đến bạn anh lúc bị bắt
mà không biết trước rằng sẽ bị bắt như anh. Từ nay cái gì cũng nhắc anh nghĩ đến
nhà tù, đến những hình phạt bạn anh đã chịu và anh sắp phải chịu.
Anh uống trà với chú em mà không biết mình uống gì. Anh đang
nghĩ đến những cái đuôi. Cẩn thận thật. Những hai cái đuôi. Hai cái đuôi hôm
nay cũng có mặt ở đây. ở làng này. Mà không ai biết. Vậy là họ đã theo anh lâu
rồi. Từ bao giờ nhỉ? Mình đã mất tự do từ lâu rồi, nhưng vẫn cứ tưởng là mình tự
do. Mình vẫn vô tư, vẫn cứ tưởng mình như những người bình thường khác. Được là
người bình thường sung sướng biết bao.
Anh ra sân, đứng nhìn trời đêm. Làng quê ban đêm thật im ắng
và buồn tẻ. Mới chập tối đã chẳng thấy tiếng động nào. Ngoài tiếng chó sủa. Cả
làng không ai biết có một cuộc săn đuổi chết người, một trò chơi chết người
cũng êm ả như thế này đang xảy ra ở đây. Những người dân quê bao giờ cũng chất
phác và đơn giản. Anh thèm được như họ. Anh thèm đánh đổi những hiểu biết của
anh, cái đầu của anh lấy cái đầu của họ. Anh thèm đánh đổi số phận của anh lấy
số phận của họ.
– Tao thấy Đông và Tây gặp nhau. Bố tao nói: Ngu si hưởng
thái bình. Còn Gribôiêđôp có vở kịch Nỗi khổ vì có trí tuệ. Tao đã bao lần căm
thù cái trí tuệ ít ỏi nghèo nàn mà mình trót có. Giá tao cứ ở quê cày ruộng thì
sao bị bắt.
Hắn tạm ngắt câu chuyện Bình kể. Bình cười:
– Và trước đây chính chúng mình đã phê phán nộị dung tiêu cực
trong câu nói của các cụ. Nó mang cái bi quan của người làm nô lệ. Giờ đây
chúng mình là chủ. Không phải chỉ là chủ xã hội, chủ chế độ. Còn làm chủ khoa học,
làm chủ thiên nhiên và…
Hắn rống lên cùng với Bình, như song ca:
– Làm chủ bản thân mình
Cả hai được một trận cười. Hắn nói những điều đã nghiền ngẫm:
– Chúng ta quá rành việc phê phán. Chúng ta vạch những hạn chế
của tất cà những người, những chế độ, những chủ nghĩa đi trước chúng ta và chỉ
có chúng ta mới đúng. Chúng ta đứng cao hơn họ. Hêghen hạn chế. Cách mạng Pháp
hạn chế. Hugo hạn chế. Tolstoi hạn chế. Nguyễn Du hạn chế. Hạn chế bởi nhân
sinh quan. Hạn chế bởi giai cấp. Bởi triết học. Bởi lịch sử. Bởi thời đại. Vân
vân và vân vân. Chúng ta là chân lý. Chúng ta cao hơn họ một đầu. Nhưng người
ta đọc Hngo. Đọc hàng thế kỷ. Tất nhiên không phải ai cũng là Hugo, cũng là
Nguyễn Du. Nhưng cái điều phải soi lại mình thì không làm. Phải tìm xem tại sao
các nhà văn Việt Nam viết về những người đang sống, viết về người ta mà người
ta lại không đọc, hoặc đọc rất ít. Người ta xô nhau tìm đọc một ông Sha
kespeare đã chết từ đời nào bên Anh viết về những người L mã cách đây hàng bao
thế kỷ? Đó là cái gì?
Bình trở lại câu chuyện về những cái đuôi:
Đêm ấy tao đang đứng ở sân một mình, nhìn trời nhìn đất cho
tĩnh trí thì một bóng đen ở phía vườn bước ra. Tao giật mình. Tưởng họ đến. Tưởng
họ đến đọc lệnh bắt. Nhưng hóa ra Thao. Thao vừa đi vừa xem xét xung quanh nhà.
Tao nghĩ thương Thao quá. Mày đã biết từ trước tới nay tao chưa hề yêu Thao.
Thao chưa được tao đối xử một lần như mày đối với Ngọc. Tao ôm lấy Thao ở giữa
sân. Thao khóc. Tao đoán không phải Thao khóc vì sợ, mà khóc vì được tao thương
yêu. Thao thì thầm:
– Anh đừng nói gì với chú Tụy (thằng em tao) cả nhé.
Tao đáp:
– Tất nhiên rồi.
Đó là đêm ghê gớm nhất của Bình. Còn sau này anh cũng dần
quen với việc có đuôi. Dần quen với ý nghĩ sớm muộn mình cũng bị bắt. Anh hiểu
rằng nếu Tuấn bị bắt, thì anh cũng có đủ tiêu chuẩn để bị bắt. Tuấn có tội, anh
cũng có đủ số tội Tuấn mắc. Ai chả có lúc kêu ca mậu dịch. Ai chả có lúc kêu độn
nhiều ngô quá. Nhận xét các đồng chí đảng viên có thật còn là những người tiền
phong gương mẫu không là bậy bạ rồi. Lại còn đụng đến bí thư nữa. Người bí thư
bao giờ cũng đại diẹn cho một đảng bộ. Đụng đến bí thư Bách là đụng đến Đảng.
Ai chẳng thấy phần lớn những sáng tác hiện nay rơi vào công thức sơ lược, minh
họa một chiều. Ai cũng muốn viết hay hơn, nhữg nhân vật với những số phận, những
kẻ thù có thực, những nhân vật với chiều sâu nội tâm, chứ không phải là những
người phát ngôn chính sách, hoặc những người lười chuyển biến. Nhưng không ai
nói gì. Còn mình thì cứ bô bô. Sau khi Thao phát hiện anh bị theo dõi chặt chẽ,
không rời nửa bước, anh hiểu tai họa có thể ập xuống bất cứ lúc nào.
Càng choáng váng hơn trong tinh mơ thứ hai, khi hai vợ chồng
đạp xe về thành phố. Dậy sớm. Đồng hồ báo thức để lúc hai giờ. Cả hai đều mới
chợp mắt. Cả đêm trằn trọc suy nghĩ, sợ hãi và căm phẫn. Khẽ khàng ra khỏi
chăn. Hai đứa con vẫn ngủ. Đánh răng rửa mặt. Pha một ấm trà. Nước phích từ tối
qua ngưội. Nhưng không sao. Đã thành thói quen. Cứ phải uống một tý vào buổi
sáng. Tuy cũng đã dậy. Nhìn các con đang ngủ mà quặn lòng. Đưa tay nhẹ lên má
chúng, ấm sực. Bụng nghĩ: “Nếu chưa bị bắt thì hết học kỳ này phải đưa chúng về
phố thôi. Nếu mình bị bắt thì vẫn phải để chúng ở đây, một mình Thao trông sao
nổi” Lại nghĩ: “Không biết cá chìm còn ở đây không? ”
Cả ngày hôm qua chủ nhật. Thao trong khi chợ búa đã để ý,
nhưng không bắt gặp họ. Họ lặn ở đâu? Rất kỹ. Sương xuống. Xuyên qua áo bông.
Buốt vai. Trăng tròn và to chênh chếch đỉnh đầu. Hai vợ chồng đạp xe đi áo
bông, khăn bịt tai mà vẫn run. Cả làng còn ngủ. Thanh bình quá. Con đường trục
chạy qua làng, trăng sáng gập ghềnh. Không một ai. Đi trong hun hút. Sớm thế
này chắc đuôi chẳng biết. Hai vợ chồng không nói, nhưng cùng chung một cặp mắt
dò tìm. Hoang vắng. Không cả tiếng chó. Chỉ có sương và trăng đỏ chênh chếch
phía Tây. Tiếng Thao xuýt xoa ở ngay lưng.
Đã qua một chỗ ngoẹo và sắp tớí nơi họp chợ. Một người đang
đi bách bộ trong ánh trăng suông ở giữa đường. “Kia rồi”, Với mẫn cảm của người
bị săn lùng, cả hai cùng nghĩ như vậy và cùng bấu vào nhau thay lời nói. Im lặng
đạp xe đi tới. Người ấy vẫn đi bách bộ, như không quan tâm đến ai, như đang
mang trong lòng một nỗi phiền muộn lớn. Nhìn thẳng vào người ấy từ xa. Lúc đi
ngang qua cố nhìn rõ mặt. Đó là tự nhiên thôi. Đêm hôm gặp người, ai chẳng cố
nhìn cho rõ mặt. Không nhìn mới là không tự nhiên. Người ấy cũng nhìn mình.
Một khuôn mặt trẻ, bình thản nhẫn nại trên đôi vai so lại dưới
sương. Đã vượt qua người ấy. Hẳn Thao nhìn rõ hơn. Họ theo dõi mình ghê quá.
Như một đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Một con thú lớn. Bình không ngờ bộ máy
chuyên chính mà anh vốn kính trọng và lãng mạn hóa qua những cuốn tiểu thuyết
phản gián lại huy động đến mức này để thực hiện sự chuyên chính với anh. Chắc
Tuấn cũng bị theo dõi chặt chẽ như vậy mà không biết. Có lẽ như nó lại hơn. ít
nhất nó vẫn được sống bình thường cho tới khi bị bắt.
Đi quá chợ mươi mét, anh thấy thấp thoáng sau bờ tre thưa một
ngôi nhà có ánh lửa. Một người đang đi ở sân. Quần áo tề chỉnh. Rõ ràng người
thành phố. Thì ra họ chốt ở nhà này. Nhà ai nhỉ? Nhà thằng Tâm, một ngụy binh
đã bị ta bắt, nhưng cho “hướng lượng khoan hồng”. ở nhà này thật tiện. ít khách
khứa ra vào. Bất ngờ. Lại sát ngay đường cái.
Bình đạp xe thong thả. Để cho hai cái đuôi khỏi vội vã. Để
cho họ thấy anh chẳng biết gì, hoặc có biết nhưng rất bình tĩnh, tự tin. Khỏi đầu
làng, quay lại, thấy hai cái đuôi đen đen đã ở một cự ly thích hợp. Cự ly theo
dõi đường trường.
Sao đêm ấy trăng to đến thế. To đến mức kỳ lạ. Quá ác. Và đỏ.
Đỏ như máu đỏ. Sương xuống. Giá buốt. Cánh đồng đất ải trắng mờ. Im lặng tuyệt
đối. Đi mãi vẫn một vầng trăng to, đỏ như máu. Một cánh đồng đất ải vắng tanh,
sương giăng mù mịt. Và hai bóng đen im lặng phía sau.
– Chúng tao sang phà. Còn vắng. Thấy hai bạn dắt xe xuống. Đứng
xa chỗ chúng tao. Chúng tao đạp xe đi quành lối phà K sang Nhuế. Phà K vắng.
Không thấy bọn họ. Tưởng là nó thôi không bám nữa. Hai vợ chồng đạp xe và không
thấy có người theo. Bắt đầu trò chuyện, nhưng đến gần Ngọ Đường, dắt xe dọc đường
tàu, lại thấy sau lưng mình hai cái bóng ấy. Mày hình dung được không?
Bình nhăn mặt vẻ ghê sợ. Cho đến bây giờ anh vẫn còn thấy rõ
mồn một cảnh tượng kỳ quáỉ đó. Nó kỳ quái như một chuyện của Jack London: Trên
Bắc cực mênh mông tuyết trắng, không một sinh vật, một con sói bò theo một con
người. Cả hai im lặng bò. Quyết bò đến chết. Quyết bò đến sống. Như đó là mục
đích sinh ra ở đời này.
Anh đã quen với những cái đuôi. Và anh dễ dàng nhận ra nơi họ
đạt vị trí để theo dõi anh khi anh về nhà anh ở thành phố. Một lần anh đạp xe
ra cổng và bất chợt thấy cánh cửa chớp ngôi nhà bên kia đường hơi giật mình.
Thoáng một bóng người sau khe hở dọc cánh cửa sổ và bờ tường chỗ bản lề. à, họ
đứng rình mình ở đó. Thản nhiên, anh đạp xe đi. Và đưng lại mua một điếu thuốc
lá. Anh nhìn thấy đuôi. Đuôi đưng mỗi khi anh đưng. Nhưng cũng có lúc đuôi đạp
xe qua và chờ anh ở phía trước. Có lần thử cắt đuôi. Đạp nhanh, rẽ vào những lối
ngoắt ngoéo. Anh đã làm được. Nhưng chỉ để thử thôi. Chứ anh biết đó là cả một
thiên la địa vọng, không thể nào thoát được. Anh phát hiện ra đặc điểm dễ nhận
nhất của đám trinh sát này là: Trẻ. Dép nhựa Tiền Phong trắng, có quai hậu, thứ
hàng cực hiếm và sang trọng, giá mậu dịch chỉ có mấy đồng, nhưng giá chui những
hai mươi nhăm đồng, nửa cái cán sự mỗi , nửa cây xoan của anh. Vậy là móng trắng.
Thế rồi một hôm Bình thấy một thanh niên đi vào nhà ông bà
Toàn ngay bên cạnh nhà Bình. Còn trẻ, dép nhựa trắng Tiền Phong có quai hậu.
Móng trắng dắt xe đạp. ở poóc ba-ga có buộc một cái hòm gỗ thông còn mới đánh dầu
bóng màu đỏ, đi thẳng từ bậc cấp qua mảnh sân nhỏ bên nhà ông bà Toàn vào nhà
và ở lì trong đó.
– Mày còn nhớ bà Toàn không nhỉ?
Bình hỏi. Hắn vừa cười vừa gật đầu:
– Nhớ. Nhớ chứ.
Một chuỗi hồi ức sống lại. Bà Toàn, răng đen, ngoài năm mươi,
chỉ cao một mét ba thôi, nhưng tất cả mọi người trong căn nhà đông hộ Bình ở phải
kiêng nể. Cái miệng bà quang quác, quang quác. Giành nhau một tý đất. Một chỗ để
sọt rác Chửi mèo mắng chó. Nghe xem nhà ai động dao thớt, nhà nào rán mỡ. Ai
mua đâu mà được cả xe mùn. Cây chuối nhà sát cửa gầy gò mà ra một buồng quá to…
Bà chẳng sợ ai, sẵn sàng đấu khẩu lẫn phê bình… vũ trang. Bà quắc mắt hỏi một
bà ở dãy nhà ngang:
– Tay bo à? Tay bo thì tay bo!
Bà vỗ đùi nhảy lên để nhấn mạnh cho lời thách đấu. Sự phẫn nộ,
vẻ khinh bỉ lộ rõ trên nét mặt bà đang hừng hực ý chí quyết thắng.
Bình đã tổng kết: Trong một số nhà trước đây chỉ có một chủ,
nay lúc nhúc nhiều tổ ấm, những tổ ấm này lại đang sinh sôi nảy nở, ắt phải xảy
ra tình trạng thập nhị sứ quân và sẽ tiến lên “thế chân vạc”.
Rồi đến tập quyền. Một vị có đủ phẩm chất, sẽ chiến thắng các
sứ quân khác, trùm lợp lên tất cả. ở chỗ Bình, người chiến thắng là bà Toàn.
Nhà Bình và nhà bà Toàn là hai căn buồng liền nhau, vuông vắn,
xinh đẹp nhất chỗ đó. Hai căn buồng ở và tiếp khách của chủ Tây ngày trướẹ,
thông nhau bằng một cánh cửa, phía dưới bưng bằng gỗ, phía trên là những ô kính
nhỏ. Những ô kính vỡ đã được bịt kín bằng giấy. Tuy nhiên văn không ngăn được
tiếng động. Bên kìa kéo ghế, bên này nghe tiếng. Nghe được cả tiếng ho. Để kín
hơn nữa, bên ông bà Toàn căng một cái rèm. Bình đặt vào chỗ hõm của bờ tường
(cánh cửa ở phía ông bà Toàn nên phần bờ tường hõm là của anh) những thanh gỗ
làm giá sách. Và để những thứ linh tinh: ống đựng bàn chải đánh răng, phin pha
cà-phê, gói thuốc lào hút dở, lọ thuốc đau mắt… Đôi bên cách biệt hơn trước.
Cách âm cũng tốt hơn trước.
Phía trước nhà hai người có một mảnh sân. Cuộc đàm phán ngăn
đôi mảnh sân kéo dài, vì ở phía nhà Bình có hai cây xoan. Nhà bà Toàn chẳng có
cây nào. Cuối cùng anh đồng ý chia đôi: mỗi người một cây. Anh bắt chặt ngay. Để
khỏi muỗi. Bà Toàn đẵn xoan mang về. Còn cây xoan của Bình, Bình bán. Bà Toàn bảo:
“Để tôi mua cả một thể”. Ông Toàn bảo: “Tôi giả anh cái cán sự mỗi”. Nghĩa là
năm mươi đồng, tương đương với lương cán sự một. Bình đồng ý ngay, tuy cây xoan
giá những cán sự ba, nghĩa là sáu tư, sáu nhăm đồng. Đẵn xoan xong, đến việc
rào ngăn. Bà Toàn bảo bà chưa có điều kiện, chưa có tiền mua cây que, vì bà biết
một mình Bình, Bình cũng làm. Qnả nhiên, đúng vậy.
Không chịu được cách khôn lỏi, quá đáng của bà Toàn, Bình quyết
phản công. Phản công êm dịu. Một cách tấn công hòa bình. Hay đúng hơn, một thứ
tâm lý chiến. Bình xuống bếp (làm ở ngoài sân, gần bếp nhà bà Toàn) đem dao thớt
ra chặt nhát một như người chặt thịt gà. Những nhát đanh. Lại gọi vợ:
– Sang bác Tuấn suốt mấy cái là chanh nhé. Thịt gà không lá
chanh như anh không nàng.
– Mua ớt chưa? Cơm không ớt như quật thớt vào mặt.
– Lần sau mua con gà non non tý nhé. Con này khí cao tuổi đấy.
Làm một tý “rạo ” (rượu) nữa chứ nhỉ?
Bình cứ oang oang những mệnh lệnh “âm sâm ” như vậy. Và phải
nói Bình ứng tác nhưng câu tục ngữ về ăn uống rất cừ. Thao và hai cậu con giai
chết lặng vì cười. Vừa thở như sắp đứt ruột vừa rên rỉ, lại phải cố trả lời với
một giọng điệu tự nhiên, sao cho đừng có tiếng nào vỡ toác ra vì cười.
– Con xin lá chanh rồi.
– Làm gì cứ ầm ĩ lên thế?
Bình không cười. Bình vẫn tỉnh khô. Anh đang tưởng tượng ra một
con gà nằm trên thớt và tập trung tư tưởng vào những nhát dao. Những nhát dao
đúng là chặt thịt gà, những nhát dao nhói lòng hàng xớm.
Nhà Bình có mọt con gà. Kể ra nó cũng có vẻ gà trống thật. Trụi.
Trụi cả lưng, cả bụng. Da đỏ hon hỏn. Mào to đỏ đọc rủ về một bên mắt, trông
càng dữ. Như một chú gà trống choai choai. Thế nhưng nó đẻ trứng. Hai cậu con
giai gọi bố í ới ngay chỗ chuổng gà cạnh hàng rào thưa mới ngăn hai nhà:
– Ơ, bố này, con gà sống nhà mình nó đẻ, bố ạ!
– Đâu?
– Trứng đây này, to không?
Ba bố con cầm con gà trụi, da đỏ, mào đỏ rủ về một bên măt ấy
lên, vuốt ve âu yếm như nó là một con gà đẻ ra vàng vậy. Nó đẻ cách nhật, nhưng
ngày nào ba bố con cũng reo:
– Lại một quả trứng nữa đây này!
Con gà đẻ mà cứ im thin thít, chẳng thấy cục ta cục tác. Đúng
là gà trống đẻ thật rồi. Trứng lại to, đỏ au.
Bà Toàn giả điếc, không thèm để ý đến chuyện vặt ấy. Nhưng rồi
bà không chịu được. Như chính bà vừa bị mất cướp. Bà kêu lên:
– Nhà người ta trồng lau ra mía. Nhà mình trồng củ tía ra củ
nâu.
Mấy bố con lại cười. Cười lặng lẽ. Khi đó Bình đã bảo hắn:
– Chẳng còn gì vui nữa. Thì vui bằng sự đau khổ của người
khác vậy.
Hắn cũng đã bảo lại Bình:
– Và ngược lại, thấy người khác hơn mình thì mình đau khổ. Thế
mới bỏ mẹ chứ!
Khi thấy móng trắng vào nhà ông bà Toàn. Bình giật mình. Anh
cài trái cửa và rón rén đi về phía giá sách, áp tai nghe ngóng, êm ả. Chẳng
nghe được tiếng nói chuyện. Họ làm gì mà im ắng thế. Có tiếng kéo ghế. Rồi lại
im lặng.
Đứng lâu quá, mỏi chân, muỗi đốt. Bình lăn ra giường. Hẳn là
họ đến đặt máy ghi âm. Cái hòm gỗ thông quang dầu mới tinh ấy hẳn là đựng máy
móc. Không biết họ mới đến lần đầu hay đến nhiều lần rồi? Cũng có thể anh ta là
khách hay con cháu bà Toàn đến chơi. Bình tự tranh cãi. Nhưng anh này trông rất
lạ. Chưa thấy đến lần nào. Dù sao cũng phải cảnh giác. Chờ đến khi nghe tiếng
líp xe đạp giòn lách tách từ sân ra cửa, anh nhỏm dậy và nhìn thấy phía lưng
người đó. Đặc một dáng vẻ của những cái đuôi anh vẫn gặp. Cái hòm gỗ thông cũng
không còn trên poóc ba-ga xe đạp nữa. Cố trấn tĩnh, anh ra sân. Ông bà Toàn
cũng vừa bước ra. Bà Toàn hỏi anh:
– Anh Bình hôm nay không đi làm à?
Câu hỏi đầy ẩn ý. Nụ cười của ông Toàn cũng có vẻ thế nào ấy.
Rõ ràng họ đã biết hết chuyện về mình. Họ biết mình bị đình chỉ công tác. Biết
mình bị theo dõi.
– Không, hôm nay cháu mệt, nghỉ ở nhà.
Bình trả lời một cách thản nhiên. Anh quay vào buồng. Lại cài
trái cửa. Im lặng. Khẽ khàng nhấc từng quyển sách ra khỏi giá. Từng thứ trong
cái đống vạt vãnh của sinh hoạt gia đình. Đến lúc ấy anh mới biết cái rèm nhà
ông bà Toàn không treo nữa. Và thấy đầu một sợi dây đồng nhỏ, sáng từ bên ông
Toàn xuyên qua một tờ giấy dán thay cho một ô kính bị vỡ. Anh khom khom nhìn đầu
sợi dây đồng. Anh giơ tay định sờ vào sợi dây. Bàn tay anh chững lại khi gần chạm
vào nó. Có tiếng gõ cửa. Anh giật mình. nhìn đống sách vở ngổn ngang. Anh im lặng
nghe ngóng. Gõ cửa nữa.
– Ai?
Không thể để cho họ thấy cảnh anh đang dọn dẹp, tìm tòi này.
Tiếng Thao:
– Mở cửa cho em.
Bình thở phào. Bước vào nhà, Thao giật mình:
– Làm gì thế này, anh?
Bình giơ tay huơ huơ ra hiệu im lặng. Anh cài cửa và hỏi
Thao:
– Em về sớm thế?
– Còn sớm gì nữa. Mười một giờ hơn rồi.
Đến lúc ấy anh mới biết đã tan tầm. Đã trưa rồi.
Anh kéo Thao, chỉ cho Thao mẩu dây đồng mới sáng đỏ lên. Hai
vợ chồng xuống bếp nói chuyện. Thao im lặng. Rồi Thao thì thào:
– Có thể là một sợi dây ông ấy buộc cái gì đó. Nó đâm sang.
Nhưng mình cứ phải cảnh giác. Để em sang xem…
Vốn rất tháo vát nhanh nhảu, Thao vớ cái bát con và cái
cùi-dìa, xăm xăm sang ông bà Toàn. Bình chỉ biết nhìn Thao, lo lắng, không dám
gọi Thao lại dặn dò.
Anh nghe thấy tiếng Thao vui vẻ trong buồng nhà ông bà hàng
xóm:
– Ông bà còn mỡ không, cháu vay một thìa. Nhà chẳng có cái gì
ăn. Định chưng ít mắm tôm mà lại hết mỡ.
Một thoáng sau, Thao cầm thìa bát trở về, nói to từ sân bên ấy:
– Ông bà cũng hết mỡ rồi, anh ạ.
Và Thao kéo Bình ra góc xa nhất, ghé sát tai Bình, nhưng Bình
đã nói to:
Thôi, ăn mắm tôm sống cũng được.
Thao thì thầm:
– Cái hòm. gỗ thông để ở giáp cửa an sang nhà mình. Phủ vải.
nhưng em vẫn nhận ra. Cao đúng bằng đầu giường chúng mình.
Bình thót ruột. Tai họa đã đến gần lắm, sát đầu giường anh.
Thao im lặng. Cả hai khe khàng xếp lại sách vở trên giá. Không gây ra một tiếng
động nhỏ.
Bình và Thao định chuyển giường về đầu buồng kia, không kê ở
sát giá sách nữa, cho xa sợi dây đồng. Nhưng bàn đi tính lại, lại thôi. Cứ phải
giữ nguyên sự sắp xếp như cũ. Để không ai có thể nghĩ mình đâ biết, đã đề
phòng. Chỉ có điều bây giờ nằm trên giường chớ than thở về những khó khăn. Lại
càng không được kêu ca bất cứ chuyện gì. Đừng thở dài. Chỉ được nói chuyện vui.
Đúng. Tương kế tựu kế. Chỉ nói chuyện vui. Chỉ lạc quan cách mạng. Không bao giờ
bi quan. Lại càng không bất mãn. Nhưng cả hai đều rất vụng về. Năm ấy sương muối,
rét đậm. Lúa chiêm mới cấy chết khô. Hoa màu cháy lá. Cau rụng xuống gốc từng đống.
Nhưng vừa nằm vào giường Thao đã láu táu:
Năm nay thời tiết thế này được mùa lớn đấy anh ạ.
– Được mùa chứ. Các hợp tác xã bây giờ thâm canh ghê lắm. Có
những huyện đạt 5 tấn rồi. Bây giờ Thái Bình đang quyết tâm xây dựng toàn tỉnh
đạt 5 tấn.
– Được mùa vài năm chẳng mấy chốc mà sướng.
Bình định nói một câu đầy phấn khởi nữa tiếp theo, nhưng thấy
Thao cười rung cả chăn, anh cũng cười, hai vợ chồng cười không thành tiếng.
Bình trở mình ôm lấy Thao, thì thầm vào tai Thao: “Nói như cứt ấy”. Và luồn tay
vào người Thao. Hai vợ chồng càng cười dữ hơn. Vẫn không thành tiếng. Sức cộng
hưởng làm giát giường rung cành cạch…
Mỗi tối một chuyện. Họ phải thống nhất đề tài trước khi lên
giường, ai nói trước, ai nói sau, không quên rút kinh nghiệm vở diễn tối hôm
trước. Địa điểm hội nghị là giứa sân. Không phải trong bếp. Vì dưới bếp cũng sợ.
Biết đâu đấy. Hai người ngồi xổm giữa sân. Âu sầu, ủ ê lo lắng, nhưng cũng có
lúc tinh nghịch, hài hước, vì cũng cần cười lên tý chút, căng thẳng quá lâu rồi,
chán quá rồi.
– Báo cáo đồng chí chứ… – Thao nói khẽ với giọng phát biểu
trong các cuộc họp cơ quan, – đề tài chiến đấn hơi nhiều rồi đấy. Hay là chuyển
sang mục ngành thương nghiệp xây dựng tổ lao động xã hội chủ nghĩa đi. , thực
hiện điều Bác dạy: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, đưa hàng đến tận tay
người tiêu dùng.
Bình đáp lại lời vợ bằng giọng lưu manh đường phố.
– Tớ vẫn thấy cần phải nói về nông nghiệp. Vì nông nghiệp là
cơ bản. Nhưng đăng ấy phát biểu đếch ra làm sao. Đang sương muối bỏ mẹ đi. Lúa
chiêm xuân chết gần hết, đằng ấy lại bảo thời tiết thuận lợi…
Thế là trên chiếc giường sát với cửa ngách thông sang nhà ông
bà Toàn, hai vợ chồng tối nào cũng nói những lời ca ngợi, hôm nay là nhà máy
xi-mảng khôi phục sản xuất, ngày mai là giọng hát Tường Vi…
Bình cảm thấy không chịu đựng được nữa rồi. Nhiều lức anh
nghĩ: Thà bị bắt ngay còn hơn lo sợ phấp phỏng mãi thế này. Những lúc ấy anh
mong được như hắn.
Suốt ngày một mình quanh quẩn như một cái bóng trong căn buồng
im lìm vắng lặng. Không ai đến chơi với anh nữa. Người ta sợ anh như sợ bệnh
truyền nhiễm. Rất tự trọng, khinh bỉ cuộc đời đen bạc, khinh bỉ những người từng
xoắn xuýt, cởi mở với anh, nay tìm cách lánh xa anh, anh làm như không quen họ.
Cho nên anh thật sự sung sướng, cảm thấy hạnh phúc, một niềm an ủi lớn lao, khi
Lê Bàn xuống thăm anh.
Anh đang ngồi dựa lưng vào tường đọc sách và chờ đợi điều sẽ
phải đến thì có tiếng gõ cửa. Anh giật thót người. Nhìn ra: Lê Bàn. Lê Bàn từ
Hà Nội về. Anh bật dậy, ra đón. Lê Bàn nắm chặt tay anh, nhìn anh như không tin
vào mắt mình. Cái nhìn sung sướng, nhưng vẫn còn vẻ hoảng sợ của một người vừa
thấy người thân sống lại.
– Thằng Bình! Chúng nó đồn ầm lên là mày bị bắt rồi.
Tiếng Bàn xen lẫn tiếng thở ví xúc động. Bàn vẫn có kiểu nói
oang oang như vậy. Bình giơ tay lên miệng ra hiệu “suỵt” và ghé vào tai Bàn thì
thào:
– Khẽ chứ. Nói gì ra ngoài. Nhưng hãy vào đây uống nước đã.
Bàn nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn quanh. Anh hiểu Bình đang
bị theo dõi chặt chẽ.
– Thao đâu?
– Bà ấy đi làm chưa về.
– Thằng Vũ Mạc gặp tao. Nó bảo nó gặp thằng Lê Phong. Thằng
Lê Phong bảo nó là mày bị…
Bàn lại bỏ dở câu nói. Anh chưa quen được với cách nói chuyện
lúc to, lúc thì thầm, cùng một lúc diễn ra hai cuộc nói chuyện. Một cuộc nói
chuyện công khai để cho người thứ ba nghe và một cuộc nói chuyện bí mật chỉ có
hai người.
Bàn nhíu mày khe khẽ:
– Chúng mày gay quá nhỉ?
Và anh nói to:
– Uống nước đi, trà ngon quá.
Nhưng anh không nống nước mà ghé tai Bình:
– Thăng Vũ Mạc cũng định xuống thăm cái Ngọc luôn thể, nhưng
nó bị ngã, gẫy chân. Nàm bệnh viện năm ngày rồi. Bó bột. Khổ quá, anh em…
Bình nhìn Bàn và cười. Niềm vui của Bình quá lớn. Đã bao lâu
rồi anh không có một người bạn để mà trò chuyện, mà tâm sự, mà trút nỗi niềm.
Anh cứ đọc một mình câu thơ của Trần Dần. Câu thơ chưa in, anh chỉ được nghe Vũ
Mạc đọc lại:
Hãy chỉ cho tôi nơi nào tôi đổ bớt được tôi đi
Anh quen Lê Bàn, Vũ Mạc qua hắn. Cả đám bạn Hà Nội của hắn là
bạn anh. Tuổi trẻ, nghề nghiệp và nhất là cách sống đã gắn bó họ lại.
Sau khi hắn bị bắt, Lê Bàn đã về thăm Ngọc. Biết Ngọc đi học,
Bàn chọn ngày xuống thăm. Ngày lễ Noel. Bàn cùng Ngọc chuẩn bị đồ tiếp tế cho hắn.
Bàn gửi vào bọc quà của Ngọc tý chút của anh: Hai gói thuốc lá (Anh còn định gửi
nhiều nữa, nhưng Ngọc bảo thôi vì ở 75 người ta cho nhận ít. lắm). Bình làm cơm
mời Bàn và Ngọc. Lúc đó Bình chỉ blết là mình sẽ gay go thôi, chứ không ngờ lại
đến mức này. Bình kéo Bàn xuống bếp, nhưng rồi lại thấy không an toàn, anh và
Bàn ra giữa sân ngồi:
– Mày về đây cũng bị theo dõi đấy. Thôi, đừng về nữa. Nguy hiểm
lắm. Căng quá nhỉ”
Bình gật.
– Cái Ngọc có nhà không?
Bình lắc.
Bàn thở dài:
– Lâu quá tao không gặp cái Ngọc. Có tin tức gì về thằng Tuấn
không?
– Nó không có thư ra.
Vừa chuyện, Bình vừa để ý bên nhà ông Toàn. Bà Toàn đi xuống
bếp, rồi lại đi lên. Một cách rất đáng ngờ. Bình lại kéo Bàn vào trong nhà. Lấy
sách ra đọc.
Và đi chơi phố. Bình để ý: Có đuôi bám. Bình bảo Bàn: “Có
đuôi đấy”. Tức mình, vào một hiệu cà-phê bất chợt. Chẳng cần biết đuôi ngồi đợi
ở chỗ nào.
Bàn ở lại với Bình đến chiều và trở về Hà Nội bằng tàu tối.
Bình nhớ lời dặn của Bàn:
– Có gì bảo Thao báo chúng tao ngay nhé! Hai người chia tay
mà đều nghĩ không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau.
Bàn đi. ít ngày sau, lại một biên tập viên một nhà xuất bản ở
Hà Nội về công tác, gặp Bình ngoài phố. Anh ta gọi Bình rất to, vẻ mừng rỡ:
– Lên Hà Nội đi. Cần đấy. Thu xếp lên Hà Nội mấy ngày. Thật đấy.
Bình hiểu ý anh biên tập viên tốt bụng. Trên ấy đã ầm lên cái
tin anh bị bắt. Sự hiện diện của anh là một lời cải chính. Nhưng anh không lên
Hà Nội. Việc đó không cần thiết. Vả lại anh đã thoát khỏi hiểm nghèo đâu. Anh vẫn
chờ tai họa đến.
Anh có một thói quen mới: Tới đâu cũng phải nhìn trước nhìn
sau, quan sát xem họ có đặt máy ghi âm không. Kể cả nhà chú em ở ngoại thành.
Anh không được tự do trên chiếc giường anh nằm, ngay trong căn buồng của anh.
Những lúc ngủ với vợ, anh cũng không dám gây ra những tiếng động. Không dám thì
thầm vào tai vợ những điều anh bất chợt nghĩ ra lúc đó. Cứ lặng lẽ. Hùng hục.
Như những con vật Anh không nghĩ ra được điều gì nữa. Anh chỉ nghĩ đến cái máy
ghi âm. Anh không muốn làm trò cười cho họ qua cái băng ghi âm khi họ chụm đầu
nghe lại. Hóa ra anh đã phải làm vụng làm trộm cái việc này với vợ anh. Nhưng vẫn
có một cặp mắt lạnh lùng ở đâu đấy chăm chú im lặng nhìn anh. Một thời gian dài
anh không làm được việc ấy, mặc dù trước đây anh vốn là người chăm chỉ. Một thời
gian dài anh hoàn toàn bị liệt.
Đuôi vẫn bám. Họ thay đuôi luôn. Anh biết mình đang đứng sát
bờ vực thẳm. Chân trong nhà tù. Chân ngoài nhà tù. Anh nằm quay mặt vào tường,
lẩm nhẩm một mình, ca ngợi mậu dịch, những người làm dâu trăm họ. Chửi phim Số
phận con người, Bài ca người lính là sợ hãi chiến tranh, ca ngợi hợp tác xã
nông nghiệp là một biện pháp để làm giàu tập thể, đi lên sản xuất lớn.
Bình cười. Nước mắt, nước mũi giàn giụa, như đứt hơi:
– Lúc đó tao nghĩ đến mày. Nếu mày sang, thấy tao như vậy hẳn
mày lạ lắm. Tao sẽ giải thích mày hiểu tao đang luyện để khi nằm mơ cũng không
nói sai chính sách.
Bây giờ Bình cười. Chứ lúc đó Bình lo đến mụ người. Bản thảo
đưa về nhà chú em, hóa ra không ổn. Lại phải đưa đi nơi khác. Anh bảo Thao giắt
bản thảo vào người mang dần ít một đến gửi ở nơi bất ngờ nhất: Nhà ông anh họ
Thao làm giám đốc trưởng Đảng. Khi về, Thao bảo anh: “Xong rồi. Anh yên tâm.
Không có ai theo em cả. Em đã kiểm tra cẩn thận”. Anh sợ những bản thảo của anh
bị cơ quan đặc trách văn hóa thu, rồi để mục nát trong kho như hắn đã bị như vậy.
Người có thể bị bắt, nhưng cố cứu lấy bản thảo. (Sau này, một trong những bản
thảo ấy là quyển tiểu thuyết Năm tháng đã qua được giải thưởng viết về công
nhân).
Thao vốn đoảng, ít săn sóc tới Bình, nay bỗng trở nên chu
đáo. Thao mua thêm cái màn một. Thao mua vải bảo chồng cắt thêm bộ quần áo.
Thao xin ở đâu về cái ba-lô con cóc bộ đội cũ. Nhìn cái ba-lô, Bình hiểu ngay ý
nghĩa mục đích (Hai vợ chồng đã quen nói chuyện bằng cách nhìn nhau). Rồi quần
đùi, áo may ô. Khăn mạt, bàn chải, thuốc đánh răng. Bình im lặng nhìn vợ loay
hoay, nhấc ra xếp vào, chăm sóc cái ba-lô. Thao khẽ hất hàm như muốn hỏi anh:
– Được chưa?
Anh gật đầu.
Ngày nào Thao cũng phải mở ba-lô một lần. Hôm cho thêm vào đó
nắm thuốc lào, cái lược. Hôm chục bao diêm, dăm gói thuốc lá Berati. Hôm mấy tờ
báo để đi vệ sinh. Hôm gói tăm. Anh lục trong tủ sách lấy ra hai quyển Chuông
nguyện hồn ai anh thích. Anh cho vào ba-lô cùng với quyển học tiếng Nga. Chớ có
quên món sách. Vào trong ấy không có gì đọc, buồn chết. Thao xuống bếp cầm lên
cái ca, cái cùi-dìa. Rồi lại một thứ quan trọng: Cái chăn Nam Định. Chưa hết.
Hôm sau lại thêm một cân đường. Một gói thuốc APC. Chẳng khác gì một cửa hàng tổng
hợp. Anh nhấc chiếc ba-lô nạng và phồng căng, khoác lên vai, đi bách bộ quanh
nhà như đang tập hành quân. Anh toét miệng cười:
– Được rồi. Cứ thế này đi…
Anh bỗng im bặt và ghé sảt tai Thao thì thào: vào 75 được rồi.
Thao nói to:
-… đi biển. Kỳ này anh định đi biển bao lâu?
Đây là câu nói dành cho máy ghi âm, câu nói tiếp vào câu nói
dở dang của Bình. Không thể để máy ghi âm ghi câu nói lơ lứng của Bình: “Được rồi.
Cứ thế này đi ” mà không thêm vào đó một ý cho trọn nghĩa.
Hai vợ chồng cứ thế âm thầm chuẩn bị cho việc đi tù của Bình.
Và chính thời gian đó họ sống như trong tuần trăng mật. Rất ít khi đụng đến kim
chỉ, giờ đây Thao ngồi hàng tiếng đồng hồ đính lại những cúc áo bị đứt, khâu lại
những chỗ bị sứt chỉ trên quần áo của Bình. Rủ nhau đi ăn phở. Đi uống cà-phê.
Trong chuyện “sinh hoạt văn hóa ” (danh từ Bình gọi việc vợ chồng yêu nhau)
Bình đã xác định lại “Không thể để như người impuissant ” . Như thế là không được.
Là thua. Là đã bị nốc-ao. Không thể đo ván sớm thế. Tự do là sự nhận thức được
tất yếu khách quan và hành động theo tất yếu. Ta đã biết tất yếu khách quan. Ta
phải giành lại phần tự do tối thiểu. Họ lại yêu nhau chăm chỉ. Cả ban ngày lẫn
ban đêm. Họ tạm quên đi những lủng củng vẫn chia rẽ họ.
Cứ mỗi lần anh nhận đước giấy mời (và cả giấy gọi nữa) lên Sở
Công an thẩm vấn, anh lại nhìn cái ba-lô. Anh nghĩ mình có thể đi luôn. Không
quay lại nữa. Nhưng chẳng lẽ lại khoác ba-lô đi để người ta thẩm vấn. Người thẩm
vấn anh là ông Quảng, trưởng phòng đặc trách văn hóa. Ông Quảng hỏi anh về hắn.
Về anh. Cái logic ông Quẫng đưa ra là: Bọn anh là những kẻ bất mãn. Từ bất mãn
cá nhân đi đến nhận thức sai lạc về xã hội và bất mãn đối với chế độ. Thật là một
logic quái đản, quá sơ lược và hạ thấp con người. Nhưng anh không bắt bẻ cái
logic ấy. Anh trình bày rằng anh không bất mãn cá nhân. Anh được cơ quan đánh
giá đúng mức. Anh được tạo điều kiện thâm nhập thực tế, viết bài, sáng tác.
Họ hỏi anh về “Người chết không cô độc”. Anh nghĩ: Thật ra đó
là một chuyện rất lành, ca ngợi con người mới, nhưng nó trở thành con ngoáo ộp vì
cái tên của nó.
Ông Quảng cười nhạt:
– Anh và anh Tuấn đã nói với nhau là sẽ bẻ bút không viết nữa
cơ mà.
Anh lại thừ người suy nghĩ. Khi đã nhớ và hiểu ra, anh nói
cho ông trưởng phòng đặc trách văn hóa biết hai cảm giác đối lập của người viết
văn: Lúc tự cho mình là thiên tài, coi thường tất cả. Lúc lại thấy mình hoàn
toàn bất tài, bất lực, ngu ngốc: “Những lúc đó, chúng tôi tự thấy mình nên bẻ
bút, đừng tự huyễn hoặc mình. Nên chấm dứt hoàn toàn việc viết lách đi thôi”.
Ông đặc trách văn hóa lắc dầu, không che giấu thất vọng về sự
thiếu thành thật ấy:
– Anh đừng ngụy biện. Thái độ tốt, nhất của anh là chân
thành. Điều đó có lợi cho anh hơn Anh và anh Tuấn phản đối đường lối văn nghệ của
Đảng, phản đối viết “người mới, cuộc sống mới”
Anh nghĩ: Có lẽ ông Quảng muốn nói người thật, việc thật.
Đúng là văn chương nếu quá nhấn mạnh người thật việc thật như hiện nay thì thật
đáng buồn. Đó là chủ nghĩa thực dụng đến thô thiển, là giết chết nền văn học và
ngu xuẩn. Nhưng anh trả lời đúng vào câu hỏi của ông Quảng:
– Chúng tôi không phải là Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân để có thể
viết về cuộc sống cũ. Chúng tôi chỉ có thể viết về cuộc sống mới. Vì vậy chúng
tôi không có lý do gì phản đối viết người mới, cuộc sống mới. Và thực tế những
sáng tác đã in hay đang viết của chúng tôi đều viết về người mới, cuộc sống mới.
Họ kể cho anh nghe những tội lỗi hắn đã nhận trong tù (mà anh
biết ngay là bịa đặt). Anh lễ phép trả lời
– Đến bây giờ tôi mới biết.
Qua những buổi thẩm vấn, anh hiểu rằng họ không buộc tội được
hắn, không kết luận được hắn mắc tội gì. Khi Ngọc ở trường về anh sang nói cho
Ngọc biết mọi diễn biến chung quanh việc họ hành anh. Mặc cho đuôi bám. Mặc cho
việc đó đến tai Sở Công an. Anh không thể bỏ mặc Ngọc trong cơn hoạn nạn. Con
ngựa đau cả tàu chê cỏ. Anh cố gắng đối xử sao cho bằng một con ngựa. Anh đưa
cho Ngọc gói bích-quy, gói chè để Ngọc gửi vào cho hắn. Anh nói Ngọc cố học, đừng
bỏ dở. Ngọc biết anh lúc nào cũng như trước đây, thầm cảm ơn anh vì anh đã động
viên Ngọc rất nhiều. Nhưng Ngọc không biết rằng chính Ngọc đã có sức mạnh động
viên vợ chồng Bình sống. Nhìn thấy Ngọc, họ hiểu ngay rằng họ vẫn còn quá hạnh
phúc.
Anh nói cho Ngọc biết những suy nghĩ của anh: Hắn sẽ được tha
vì họ không buộc tội được hắn. Đến bây giờ họ vẫn còn đang tìm tội hắn. Tìm làm
sao được vì lẽ giản đơn: Hắn không có tội mà tìm. Bình hỏi: Tôi biết trong ấy
Tuấn rất triệt để và giữ vững nguyên tắc. Điều ấy là một bảo đảm an toàn cho
tôi. Đến giờ phút này tôi tin rằng họ không bắt tôi đâu. Đó là nhờ Tuấn.
Ngọc im lặng. Ngọc không tin ở điều gì nữa. Bình tiếp:
– Một hòn đá, không nhá được. Nhá thêm hòn đá nữa làm gì.
Nghe Bình kể, hắn bảo:
– Tính tao mày biết. Có thì nhận. Không có thì không nhận. Dù
điện giật, dùi đâm, dao cắt lửa nung . Dù phải ở năm năm, sáu năm xà lim như
người tù huýt sáo bài “Qũavez vous fait de mon amour” cũng vậy thôi. Chỉ có điều
các đồng chí đối với tao quá thể.
Bình không bị bắt. Không bị tù nội trú như hắn. Bình tù ngoại
trú. Hắn bật cười vì từ ngữ mới lạ ấy. Bình tròn mắt:
– Chữ ấy không phải của tao, của thằng Lê Bàn đấy. Không khác
gì tù thật mà. Chỉ không bị bắt thôi. Mày cô đơn trong tù thì tao cô đơn ở
ngoài tù. Mày suy nghĩ căng thẳng, tao cũng vậy. Mày bị nhốt thì tao bị giám
sát. Mày không được viết, tao cũng vậy.
Hắn biết Bình bị đình chỉ công tác gần một năm. Nhưng hết đợt
hỏi cung ấy Bình vẫn sáng tác. Quyển tiểu thuyết giải A của Bình được hoàn
thành trong thời gian ấy. Hắn hỏi:
– Quảng, trưởng phòng đặc trách văn hóa. Quảng người thế nào
nhỉ?
– Hơn tuổi chúng mình. Cao lớn, mặt mũi đầy đặn, phúc hậu.
Mãi gần hai nằm sau khi ra tù hắn mới gặp ông Quảng, ông trưởng
phòng đặc trách văn hóa trong buổi gặp ông Trần. Đúng như Bình nói: ông Quảng
cao lớn, đầy đặn, phúc hậu, đáp ứng được điều mong mỏi của hắn về diện mạo. Vì
trước khi gặp ông Quảng, hắn thấy những người sát hại hắn đều có vẻ mặt dữ dằn
độc ác. Ông Trần có dáng dấp gian hùng. Ông Lan thì mặt ngựa. Ông chánh giám thị
V.Q da sát xương… Mà nếu tả như vậy người ta sẽ bảo hắn là xuyên tạc, là bôi xấu
các ông ấy. Tự hắn cũng phản đối cách miêu tả như vậy. Văn chương ta hay rơi
vào công thức ấy. Vì sao lại tả Mỹ như con khỉ đột? Tả ngụy như con quỷ hiện
hình. Họ cũng như chúng ta, là những con người, là bố, là chồng, là anh, là em.
Họ có những khuôn mặt con người.
Những đao phủ thời nay, có những kẻ tai dơi mặt chuột, nhưng
nhiều người có lời nói dịu dàng, nhân đức, có bộ mặt đầy đặn, phúc hậu, nụ cười
của đức Phật tòa sen. Bát Lê hiện đại là như vậy. Bát Lê không hoa mắt. Bát Lê
chỉ cứu người. Khuôn mặt béo tốt, đầy đặn, dáng người bệ vệ của ông Quảng đã
đáp ứng được những điều hắn mường tượng về người đao phủ mới. Đình chỉ công tác
một năm, Bình lại được viết báo. Nhưng phải ký tên khác. Bình ký: Anh Lê. Có
nghĩa là anh Lê Bình. Tưởng rằng chỉ ký tên ấy một thời gian thôi. Ai ngờ lâu
thế. Hắn hỏi:
– Thế liệu bao giờ mày ký tên Lê Bình?
Bình cười:
– Cứ thế thôi. Anh Lê. Rồi ông Lê. Rồi Cụ Lê thôi.
Bình đã đem cho hắn mấy số báo “để có cái mà đọc cho đỡ buồn
“. Có số đăng bài của Anh Lê. Sắc sảo, súc tích, chữ nghĩa rất khá. Trau chuốt.
Bao giờ Bình viết cũng hơn hẳn các phóng viên khác. Tội nghiệp. Có anh còn chưa
biết đặt câu. Viết tin chưa xong. Phổ biến là kiểu này: Để hưởng ứng đợt thi
đua chào mừng ngày Quôc tế lao động 1-5. Chấm. Chấm luôn ở đây. Rồi mới đến xí
nghiệp X đã tổ chức đợt thao diễn. . So sánh Bình với nhứng người ấy là sỉ nhục
Bình. Hắn không bao giờ đi so sánh như vậy. Bằng những bài báo chất lượng, Bình
muốn nói với mọi người: đưng vùi dập một con người. Bình muốn tỏ rõ mình làm việc
tốt và bình tĩnh trước mọi biến cố. Bình vẫn là Bình. Như trước đây. Và tất
nhiên là vẫn như trước đây cả trong quan hệ với hắn. Khi hắn chuyển lên trại
Q.N, Bình lên thăm hắn. Phải có giấy tờ. Bình xin cơ quan, xin tổng biên tập
Phan Lâm. Phan Lâm không cho giấy. “Báo không làm việc này. Đồng chí xin giấy của
công an”. Đó là điều Bình không làm được. Công an không cấp giấy cho Bình. Công
an chỉ cấp giấy cho Ngọc. Bách bảo:
– Đồng chí định đi thăm anh Tuấn, cái đó tùy đồng chí. Nhưng
theo tôi thì không nên. Anh Tuấn phạm pháp, bị pháp luật xử lý. Đồng chí nên tỏ
rõ lập trường trong lúc thử thách này. Thử thách với đồng chí là nghiêm trọng đấy.
Báo chtúng ta là báo Đảng.
Có thể những điều Bách nói là chân tình. Anh cũng chân tình
đáp lại:
– Cảm ơn những điều đồng chí đã khuyên tôi. Tôi nghĩ: Nếu anh
Tuấn có tội là có tội với Nhà nước, với Đảng và đã bị Đảng, Nhà nước trừng trị.
Tôi với anh Tuấn là bạn. Tôi đi thăm động viên anh ấy cải tạo cũng là điều tốt
chứ ạ. Bình tới Q.N vớì thẻ nhà báo của mình. Đi với Ngọc. Dù anh biết đó là điều
nguy hiểm. Nó như một kiểu thách thức dư luận. Như một kiểu chọc tức các nhà chức
trách, mặc dù anh không nghĩ thế. Anh chỉ nghĩ: Nếu anh còn là anh thì anh phải
lên thăm hắn. Và chỉ đến lúc đó Bình mới hiểu nỗi vất vả, gian khổ trong mỗi
chuyến đi thăm chồng của Ngọc. Bình đã chuẩn bị cho cái xe Thống Nhất tòng tọc
của Ngọc ở trạng thái tốt nhất. Anh lau dầu, thay bi moay-ơ, trục, phuốc. Anh
rút lại dây phanh. Anh mang theo kìm, cờ-lê, nhựa vá. Anh bảo Ngọc: Yên tâm rồi.
Chỉ còn mỗi đứt xích là chịu thôi.
Lời Bình rất độc. Xe đứt xích. Đứt xích lúc Ngọc đầm đìa mồ
hôi gò lưng leo dốc, những cái dốc đường rừng ngủ mơ thấy cũng sợ. Cái xích quá
cũ. Đạp cứ cời lên. Lên dốc nó không chịu nổi. Chữa ở đâu đây. Bốn chung quanh
là rừng núi. Hai người dắt xe đi mãi mới thấy một quán sửa xe ven đường vắng vẻ.
Sung sướng, mừng rỡ như vớ được của.
Sửa xong xe lại mải miết đạp. Không ai nói một câu. Đường heo
hút, cô quạnh. Tới một chỗ gió mát. Bến đò kia rồi. Ngọc động viên anh:
– Qua bến đò đi bảy cây số nữa là đến thôi.
Hai người dừng xe thở. Triều xuống kiệt. Chỉ thấy một dòng nước
mãi xa. Một con đò cắm mãi xa. Còn là bãi sa bồi thoai thoải.
– Mày không thể hình dung được cảnh buồn như thế nào. Mặt trời
đã lặn. Phía xa một dòng nước không biết về đâu. Bãi sú… Tao cởi dép, xắn quần
vác xe có bọc tiếp tế lội xuống bãi lầy. Lút đến gối. Ngọc vác xe không. Rút
mãi mới kéo được chân lên. Cái xe đè ở cổ. Loạng choạng. Lội mãi tới nơi. Lúc
lên đò phù sa ở chân trơn suýt ngã. Ông lái đò cởi trần chít khăn đầu rìu, chắc
như nắm cơm, đen đủi, phong sương chống sào đẩy thuyền ra. Đến giữa sông mới hỏi:
“Sao cô chú đi muộn thế” Hẳn là ông ta đã chèo đò ở đây bao năm rồi và ông biết
những khách qua đò của ông sẽ đi tới chốn nào. Chúng tao vác xe lội bùn lên bờ,
còn nghe thấy ông ấy nói: “Đạp nhanh, không tối đấy, Hai thằng lại mải miết đạp.
Rừng chiều buồn thật. Càng buồn vì đường đi đến nhà tù. Tới trại, Ngọc còn phải
lo biết bao việc: Trình báo giấy tờ. Mượn nồi nấu cơm ăn tối và để sáng mai nấu
cơm nếp cho mày… Đêm ấy dù đạp xe mệt nhừ người, nhưng chẳng làm sao ngủ được.
Tao nằm gian đầu này. Ngọc nằm gian đầu kia. Chỉ mong trời sáng. Chưa sáng đã mở
cửa đi về đầu nhà phía Ngọc. Tao gọi: “Ngọc dậy chưa? ” Bà ấy trả lời ngay giọng
rất tỉnh táo: “Anh Bình đấy à? ” Và mở cửa ngay. Thì ra bà ấy cũng không ngủ và
đang ngồi chờ sáng.
Hắn cắn môi. Cắn chặt môi để khỏi thở dài. Vì hắn lại thấy
nhói đau. Lần ấy ra gặp mặt, trông thấy Bình mà nước mắt hắn cứ trào ra. Đấy là
lần duy nhất hắn khóc – mà khóc vì trông thấy Bình. Gặp Ngọc, hắn chưa khóc bao
giờ. Hắn khóc vì hắn đã làm bạn vất vả, vì những điều khổ ải hắn đã chịu vì
thương cho thân phận hắn và vì bất lực trong uất hận. Hàn khóc vì Bình lên thăm
hắn, vì cuộc đời vẫn dành cho hắn những điều tốt đẹp đến thế. Hắn cắn môi vì
thương Ngọc. Giá Ngọc lấy người khác thì đâu đến nỗi.
Theo chồng về biển, biển ly loạn
Thương cho đời mẹ, hận cho chồng
Những câu thơ của ai đó hắn vẫn đọc cho Ngọc nghe, không ngờ
lại là sự thật.
– Lần đần tiên tao thấy một trại tù. Tao cứ nhìn lối đi vào
trại mà nghĩ, mà tưởng tượng mày đang nằm trong ấy. Không biết trong ấy thế
nào. Đúng là một thế giới khác, bí mật, không ai có thể biết. Tao chỉ muốn được
nhìn thấy chỗ mày ngủ, được sờ vào cái bờ rào nhốt mày. Lại cái đận lên V.Q.
Tao choáng người vì nó bảo mày cải tạo không tốt, không được gặp. Tao công nhận
Ngọc bình tĩnh. Không có gì tỏ ra buồn hay thất vọng, mặc dù tao biết Ngọc
choáng như thế nào. Tao cũng choáng cơ mà. à, cái tay thượng sĩ ấy tên là gì nhỉ?
– Ông Thanh Vân.
– Tên hay đấy nhỉ! Nghe quê đặc. Cố làm ra tỉnh, nhưng vẫn lộ
chất quê ra. Ngẫm cho cùng tay ấy là người tốt.
Hắn cười:
– Khi tốt, khi xấu, chẳng biết ra làm sao. Giáo giở nhỉ thời
tiết vậy.
Ông Thanh Vân, ông Quân, ông Lâm… Những con người tạo thành
kiếp trước của hắn. Hắn mới xa các ông ấy chưa được nửa tháng mà như đã lâu lắm
rồi. ở đây thời gian không được đo bằng chiều dài thông thường. Một ngày không
phải tính bằng một vòng trái đất tự quay quanh trục. Thời gian được tính băng
chất lượng cuộc sống.
Hình như phải đến hai tháng sau khi được tha, hắn mới được hộ
khẩu. .
Anh hộ tịch cầm quyển sổ họ khẩu đến tận nhà đưa cho hắn, kèm
theo giấy mời hắn ra đồn. Đồn phó Nguyễn Thị Yên ký. Vậy là hắn đã được đăng ký
hộ khẩu. Quyển hộ khẩu do Ngọc đứng chủ họ. Dòng chữ ghi tên hắn ngay dưới tên
Ngọc đã bị xóa đi – Một dòng chữ bên cạnh: Đi cải tạo ngày 08- 11- 1968. Nay
tên hắn dưới tên bé Dương. Dòng cuối cùng Một hàng chữ ghi chú: Đi cải tạo về
ngày… tháng… năm… Bây giờ lại là một giai đoạn mới. Đến phòng lương thực xin
tiêu chnẩn gạo. Đến phòng thương nghiẹp xin tiêu chuẩn thực phẩm, công nghệ phẩm.
Rồi về cửa hàng gạo đăng ký, cửa hàng thực phẩm đăng ký… ở đâu cũng một chồng sổ
cao, ở đâu cũng dày đặc người. ở đâu cũng là khổ ải? Những chuyện đó làm được đến
đâu thì làm. Từ từ cũng được. Quan trọng nhất là hộ khẩu. Hắn đã làm xong. Và hắn
ra đồn theo giấy hẹn.
Chương 36
Hắn đến đồn đúng giờ. Cái giờ hẹn lửng lơ: Chín giờ sáng. Hắn
đưa giấy cho anh công an thường trực. Người thường trực chỉ vào buồng trong.
Phòng trong đông người. Những bộ sắc phục công an màu vàng bao giờ cũng làm hắn
nhớ đến những năm tháng vừa trải qua ở các nhà tù. Những giây, phút, giờ, ngày,
đêm, tháng, năm ấy dù đã qua rồi nhưng vẫn chưa đi vào kỷ niệm. Nó lừng lững
bên hắn. Đổ bóng xuống hăn như đỉnh Phan Si Pan chất ngất đổ bóng xuống người đứng
ở dưới chân.
Bà Yên một phụ nữ còn trẻ, thu lại cái giấy do chính bà ký và
đưa hắn vào một phòng bên cạnh. Một người mạc thường phục đang ngồi trước bàn
làm việc chờ hắn.
Hắn có trấn tĩnh để đứng vững.
Để khỏi ngã.
Để khỏi bật ra một tiếng kêu thảng thốt.
Để bình tĩnh nhìn vào định mệnh.
Ông Lan! Hắn lại nhìn thấy ông Lan. Hắn nhìn thấy ông Lan
đang ngồi chờ hắn. Bà Yên ngồi xuống chiếc ghế ở đầu bàn. Hắn ngồi xuống cái ghế
đối diện với ông Lan, theo lời mời của bà Yên. Hắn hiểu bà Yên- chỉ ký giấy mời
hắn ra dồn. Người đối thoại với hắn là ông Lan.
Ông Lan vẫn như vậy. Nghiêm khắc. Không có tuổi. Sắc lạnh.
Quyền uy. ý thức được công việc mình làm là cao cả thiêng liêng. Vững tin ở sức
mạnh trong tay để bắt hắn quy phục dù hắn có cựa quậy, chống đối. Ông hỏi thăm
tình hình hộ khẩu của hắn, tem phiếu của hắn. Đấy quả là điều quan trọng nhất đối
với cuộc sống con người, đối với hắn. Nhưng hắn hiểu ông Lan không quan tâm đến
điều ông vừa hỏi. Ông thừa biết hắn đã được hộ khẩu. Câu hỏi thăm nhập đề của
ông dịch nghĩa ra là lời kể ơn: “Chúng tôi đã tạo điều kiện thuận lợi cho anh”.
Hắn thành thật cảm ơn ông Lan, bà Yên, cả Sở Công an nữa về điều ấy. Khi cầm
quyển sổ hộ khẩu có tên hắn. hắn đã thấy nét mặt Ngọc sáng lên như thế nào. Điều
ấy mang giã trị to lớn về mặt pháp: công nhận hắn dủ tiêu chuẩn nhập hộ khẩu
thành phố bảo dảm mọi tiêu chuẩn cho hắn như những công dân khác, xác nhận hắn
được ở với vợ con hắn.
Có thể ông Lan tin những lời cảm ơn của hắn là thành thật vì
ai cũng biết điều ấy mang lại cho hắn nhiều thứ cơ bản lắm. Ông hỏi về dự kiến
tổ chức cuộc sống của hắn. Hãn thở dài. Hắn cũng chưa biết sinh sống bằng cách
gì. Vấn đề đó sẽ phải nghĩ đến, nhưng bây giờ thì chưa. Hắn cũng còn một ít tiền.
Tiền các anh chị cho. Bình cho. Mười cân gạo của bố mẹ mà Ngọc đèo đi. Một người
anh em kết nghĩa của anh Chân là thợ gò, rất quý hắn cho hắn những năm chục. Quần
áo cũng kha khá. Mỗi người cho một bộ. Hơn nữa hắn lại quen kham khổ. Ngọc cũng
vậy. Cả lũ trẻ nữa. Đều quen kham khổ.
Hắn chẳng cần thuốc men bồi dưỡng. Hắn chỉ cần nghỉ ngơi ít
ngày. Hắn lễ phép nói với ông Lan:
– Thưa ông, tôi cũng chưa nghĩ được rằng mình sẽ sống bằng
cách nào. Làm gì để sống. Không ngờ được gặp ông hôm nay, tôi xin ông cho tôi
xin lại số bản thảo của tôi. Đó là công sức mười năm lao động của tôi.
Ông Lan nghiêm khắc nhìn hắn:
– Chúng tôi sẽ trả anh vào một thời điểm thích hợp.
Đó là một cách nói không cho bàn cãi, van xin. Như cách nói của
một ngườl giàu có đuổi người ăn mày ngày nào cũng được mình cho của bố thí nay
lại đến quấy rầy trong lúc đang ăn.
– Đi đi, để lúc khác.
Hắn dị ứng với hai tiếng thời điểm của ông. Một cách hẹn trả
để không bao giờ trà. Hắn biết nói nữa cũng vô ích. Hắn ngồi im. Ông Lan động
viên hắn ở nhà tích cực chấp hành chính sách, nhìn về tương lai. Con cái hắn đã
lớn đang cần sự có mặt của hắn, của người bố. Chính vì vậy mà Sở đã để cho hắn
về. Và tin rằng hắn sẽ biết rút kinh nghiệm, trở thành người công dân tốt.
Điều nhân đức của ông làm hắn nhếch mép cười. Không kìm giữ
được, hắn nói thẳng với ông Lan.
– Thưa ông. Việc đầu tiên tôi phải làm là trình bày vấn đề của
tôi trước Đảng. Điều ấy chứng tỏ tôi còn tốt, tôi vẫn có lòng tin. Nếu tôi
không đặt vấn đề ra để Đảng xem xét lại nữa thì tôi xấu rồi, tôi mất lòng tin rồi.
ở đồn công an về, hắn cứ bàng hoàng mãi. Hắn không ngờ lại gặp
ông Lan. Không ngờ số phận hắn gắn chặt với ông Lan đến thế. Ông Lan vẫn không
buông. tha hẳn. Vẫn không quên hắn. Năm năm rồi ông vẫn không quên hắn. Cả khi
hắn đi các trại. Cả khi hắn được tự do, hắn được ra tù. Hắn hiểu quãng đời còn
lại của hắn thế là hết. Bởi vì nó gắn chặt với ông Lan, với Sở Công an. Họ
không rời hắn. Như Gia- ve không chịu rời Jean ValJean. Không. Không đúng. Sự
so sánh ấy khập khiễng. Jean Valjean ít ra còn có tội. Hắn thì không. Chưa ai
buộc tội hắn. ông Lan cũng không phải là Giave. Thật ra Giave là một cảnh sát rất
có trách nhiệm, tận tụy và vô cùng trung thực. Đất nước này đang cần những
Giave.
Gặp ông Lan hắn lại nhìn rõ những ngày hắn mới bị bắt. Hắn
cùng ông Lan soạn đống bản thảo. Phòng hỏi cung vắng vẻ. Dãy xà lim 76 hoang vắng.
Dãy xà lim 75 tối tăm. Những trại tù. Những người tù mòn mỏi và những vùng rừng
trùng điệp heo hút.
Và điều khủng khiếp nhất đã đến với hắn trong suốt một thời
gian dài sau đó. Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những
người đi trên đường, hắn giật mình: “Quái nhỉ. ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không
biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ”.
Những người đi trên đường khóng một ai cười. Giống nhau. Xam
xám. Đăm chiêu. Khắc khổ. Suy nghĩ. Uể oải. Mệt mỏi. Đi mà chẳng nhìn thấy gì,
chỉ thấy nỗi lo mang nặng trong lòng. Đi như co người lại. Như kéo lê quá khứ.
Và sợ hãi tương lai.
Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù
quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn.
Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí nhớ hắn suy giảm,
nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy.
Nhưng rồi hắn giật mình: “Chẳng lẽ lại nhiều người đi tù về đến
thế. Đất nước lắm người đi tù đến thế? ”
Và hắn hoảng lên: “Mình hỏng mất rồi! Đầu óc mình hỏng mất rồi”
Đã mấy chục năm trôi qua kể từ ngày hắn được ra tù.
Người kể chuyện này lấy làm khó xử trong cách gọi hắn, trong
cách đặt nhân xưng ngôi thứ ba cho hắn. Chả lẽ gọi hắn là ông, là ông ấy. Gọi một
thằng tù như vậy sợ hơi khó nghe. Hơn nữa chắc bạn đọc đã quen với từ “hắn”
trong suốt phần một.
Còn một lý do nữa: Cũng rất khó xác định tuổi tác của hắn.
Người đoán hắn năm mươi. Người bảo sáu mươi. Người nhìn mái tóc bạc và nét mặt
nhăn nheo của hắn, cả quyết: Hắn không thể dưới sáu mươi nhăm tuổi.
Vậy là hắn không có tuổi, như ông Lan không có tuổi.
Cứ gọi hắn là hắn, chẳng sao. Hắn không tự ái đâu. Nhưng đừng
bảo hắn sáu mươi nhăm tuổi, hắn buồn. Hắn buồn vì nghĩ rằng hắn sắp đến cõi rồi.
Hắn đã đưa bố mẹ hắn, nhiều bạn bè hắn ra nghĩa địa, ngắm
nhìn những dòng chữ ghi trên mộ chí những ngôi mộ không quen. Người chết đủ mọi
lứa tuổi. Già. Trẻ. Trung niên. Có cả các cháu bé. Những nấm mồ hoàn toàn yên lặng
mà sao nói nhiều đến thế.
Hắn cũng để ra nhiều đêm nhìn sao. Không. Không phải nhìn sao
như ở trại Q. N. Như cái đêm về nhà bố mẹ sau khi ra tù. Hắn không nhìn sao để
tìm lại những người bạn ấu thơ, tìm lại những gì đã mất. Hắn nhìn sao, nhìn vào
đêm sao thăm thẳm mà ngẫm ngợi về cuộc sống con người. Hắn phát hiện ra:
Nhìn lâu vào trời sao cũng có cùng một cảm giác như nhìn vào
mộ chí. Thấy rõ cái vô cùng của trời đất và cái hữu hạn của một kiếp người. Thật
vô nghĩa cho những cái bong bóng xà-phòng, những con côn trùng bé tí. Thế nhưng
những cái bong bóng xà-phòng ấy, những con côn trùng bé tí ấy chà đạp nhau,
hành hạ nhau, tiêu diệt nhau, mưu toan, dục vọng, lừa đảo, chém giết, đầy đọa…
nhau, thích thú vì đã ngoi lên, đã làm khổ được đồng loại. Những người ấy hẳn
chưa bao giờ nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời
thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng.
Hắn nghĩ chắc chắn ông Lan, ông Trần và những ông khác có
dính đến vụ án của hắn chưa bao giờ nhìn sao, nhìn các nấm mồ như hắn đã nhìn.
Bởi vì bất kỳ ai đã trò chuyện với các nấm mồ, đối thoại với các vì sao đều sẽ
tốt hơn, nâng cao được nhân bản, giảm đi sự tàn ác, bất công với đồng loại. Họ
đều sẽ hiểu cái phù du, cái vô nghĩa lý của một kiếp người.
Hắn đâm thương các ông ấy. Bởi vì chính các ông ấy – cũng như
hắn – sắp tới cõi rồi. Tuổi già đến. Ai cũng sẽ hiểu được cái hữu hạn của cuộc
đời. Cái cô đơn sẽ đến. Vợi cho ai được những gì đè nặng lương tâm? Trò chuyện
với con cháu cũng như trò chuyện với lương tâm. Không thể nào dối trá. Vậy thì
nói gì? ông Trần, ông Lan, ông Quảng (trưởng phòng của ông Trần mà sau này hắn
biết là một trong những người gây đau khổ cho hắn) tự nói gì với lương tâm mình
để sống được thanh thản. Rồi hắn lại lẩm bẩm: “Nhưng không biết các ông ấy có
lương tâm không nhỉ?”
Đấy hắn cứ nghĩ ngợi kiểu như vậy.
Nhiều lúc hắn tự biết hắn đã hỏng, và chấp nhận điều đó. Bởi
vì hắn đã cố chống lại nó nhưng không được. Hắn buồn rầu: “Mình đã bị tiêu diệt.
Tiêu diệt hoàn toàn”. Bây giờ hắn chia cuộc đời hắn thành những thập niên. Thập
niên thần tiên. Đó là thập niên đầu tiên khi hắn biết có hắn trên cuộc đời này.
Thập niên này dài lắm. Mong từng ngày đến Tết. Mong từng ngày đến mùng ba tháng
ba, ăn bánh trôi. Mong đến mùng năm tháng năm, giết sâu bọ. Mong đến xá tội
vong nhân, đến Trung thu. Mong bằng tuổi anh Văn mà không sao bằng được.
Thập niên thứ hai: Thập niên tin tưởng. Dù đi đâu, ở đâu. Bến
Tắm, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Thế. Thái Nguyên… Dù gian khổ đến mấy cũng không
lay chuyển được niềm tin của hắn. Niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ, niềm tin vào
cuộc kháng chiến, vào tương lai của chế độ xã hội chủ nghĩa, vào thắng lợi của
chủ nghĩa cộng sản.
Thập niên thứ ba: Làm việc. Hạnh phúc. Mộng du (Làm báo. Lấy
Ngọc. Viết sách). Thập niên thứ tư: Dưới đáy. Cố ngoi lên để khỏi bị nhận chìm
dưới đáy. Đấu tranh đòi hưởng sự công bằng, đòi hưởng luật pháp.
Thập niên thứ năm: Chiêm nghiệm. Xác nhận thực tại mình bị
tiêu diệt. Hiểu. Thập niên thứ sáu….. trò chuyện với vô cùng.
Mấy thập niên thôi là hết cuộc đời.
Tất nhiên nội dung các thập niên không tách bạch bằng một tiếng
kẻng. Như trong sách chính trị đã hướng dẫn: có manh nha và có tiền đề. Thập
niên sau manh nha ở thập niên trước. Thập niên trước tạo tiền đề cho thập niên
sau. Cuộc sống con người cũng như các giai đoạn của kháng chiến, của sự phát
triển sức sản xuất, quan hệ sản xuất.
Đến đây đầu óc hắn lại mụ mị đi. Cái chất phóng xạ ấy của hắn
mạnh lắm. Nên ít người nói chuyện với hắn.
Phải nhận rằng hắn rất tỉnh táo, nhận biết đtíợc điều nguy hại
đang đến với hắn: Sự hỏng từ từ. Và hắn quyết chống lại. Dai dẳng. Kiên quyết.
Dù thất bại.
Như cái hồi mới ra tù: Nhìn ai cũng thấy quen quen, ngờ ngợ
như đã gặp ở trại nào, nhìn ai cũng thấy như người mới ở tù ra, hắn tự cảnh tỉnh
ngay. Nhưng cảm giác ấy cứ bám vào hắn, xua đi không được. Giống người đi biển
lâu ngày, khi lên bờ, vẫn thấy mình đu đưa, bập bềnh theo nhịp sóng mà ta gọi
là say đất, hắn mắc chứng say tù.
Và cũng như người say đất, hắn phải có một thời gian mới rứt
ra được khỏi lực hút ám ảnh hắn. Lực hút của nhà tù, của gần hai ngàn ngày đêm
đóng dấu vào não hắn, vào từng tế bào hắn, bốc khói, cháy khét và ngấm đượm.
Không ai hiểu được điều hắn đang trải qua khủng khiếp đến thế nào. Hắn cảm thấy
một cái gì không an toàn. Một cái gì sắp nổ tung. Hắn thấy bọn tù mới được tha ấy
đông lắm. Nhan nhản. chen chúc lẫn lộn với những người bình thường và cũng làm
ra vẻ mình là người bình thường. Mọi người đều tưởng họ là người lương thiện.
Họ hệt những người hoạt động tình báo. Chỉ có điều đội quân
Z7, A15, B61 này đông quá. Hắn có cảm tưởng như sắp bị lật đổ đến nơi. Rất đáng
báo động. Nguy hiểm mà không ai biết được sự nguy hiểm. Vì không ai nhận ra họ.
Họ giống hệt mọi người. Họ giấu biệt quá khứ đen ngòm của mình, chuỗi ngày
tháng sống trong địa ngục của mình, sự đau khổ nung nấu tim gan mình, nhưng hắn
vẫn nhìn thấy, vẫn nhận ra. Vì họ đều đã bị đóng dấu nung đỏ.
Cảm giác ấy càng tăng lên khi một buổi chiều, con Thương đi học
về bảo hắn:
– Bố. Có ai hỏi bố ở dưới nhà ấy?
– Ai con?
– Con không biết, trông lạ…
Hắn xuống thang. Hai người quần nâu, áo nâu đứng dựa lưng vào
tưởng chỗ bể nước. Quen quen. Đúng rồi. Min: toán chăn nuôi, người đã giũa răng
cho hắn. Còn một anh nữa mặt loang, tay loang. Thấy hắn, cả hai cười rất tươi.
Người mặt loang bảo:
– Anh không nhận ra em à?
Trời ơi. Thì ra là Dự. Dự có con chuột được đem xử án. Dự hay
bắt tóp. Dự cũng đã được ra rồi. Dự bảo:
– Em bị cháy, bỏng.
Hắn mời hai người lên nhà, nhưng Dự lắc đầu:
– Thôi, chúng em đứng ở đây thôi. Hắn liếc nhanh vào cửa sổ của
gia đình gần bể nước. Những cặp mắt tò mò, khinh bỉ đang nhìn bọn hắn. Bọn hắn
thì chẳng lẫn vào đâu được. Bây giờ bè bạn hắn rặt một loại như vậy.
– Lên nhà! Lên nhà chuyện nào. Đừng đứng đây!
Hình như ba tiếng cuối “dừng đứng dây”có tác dụng. Họ rón rén
lên thang gác. Có lẽ cả đời hai người khách chưa được bước lên thang gác lần
nào.
Dự bảo:
– Em hỏi cô đồng hồ ngoài cửa. Cô ấy bảo anh ở trên gác.
Hắn pha nước và hỏi Dự:
– Còn thuốc hút không?
– Em còn.
Hắn lấy ra bọc thuốc của hắn, rứt cho Dự một nắm to. Vừa uống
hết chén nước thì Ngọc đi làm về.
Thấy Ngọc, cả hai sợ hãi:
– Thôi, chúng em đi đây.
Hắn rất muốn giữ hai người lại, ăn với hắn một bữa cơm và trò
chuyện đôi chút, nhưng hắn nể Ngọc. Đúng hơn là sợ. Hắn đưa mắt nhìn Ngọc và
nhìn hai người bạn tù. Ngọc thấy thương hắn và thương hai người bạn tù của hắn.
Chỉ trông vẻ mặt, dáng người cũng biết họ đang lâm vào hoàn cảnh như thế nào.
Nàng đau xót hiểu rằng thế giới của hắn – và cũng là thế giới của nàng – từ nay
đã hoàn toàn đổi khác, bạn bè đến nhà toàn những người cặn bã, mạt hạng. Nhưng
hắn hiểu và thương xót những con người ấy, nên nàng cũng hiểu và thương xót những
con người ấy. Nàng niềm nở như niềm nở với những nhà văn, nhà báo, nhà điện ảnh
trước đây vẫn đến chơi nhà:
– Mời hai anh ở lại ăn cơm với chúng tôi. Cơm rau mắm thôi,
có gì mà ngại.
Hình như hai người tù chỉ đợi có vậỳ. Hắn nhìn Ngọc, cái nhìn
biết ơn. Đúng là gặp Dự ngoài đường hắn không nhận ra.
Vì vết loang hồng hồng, trắng trắng chạy từ má chéo xuống cổ.
Cả ở tay nữa. Dự bảo:
– Suýt chết đấy, anh ạ.
Và Dự kể lại chuyện cháy chiếc xe ô-tô của trại. Dự xông vào
cứu. Bỏng cả mặt, cả người. Nằm trạm xá hàng tháng. Dự bao giờ cũng vậy. Coi vỉệc
trại như việc nhà. Làm hăng vì cái tính nó thế. Dự được giám thị kết nước da
nghĩa là có việc gì đột xuất lại gọi Dự đi. Chủ nhật. Ngày nghỉ. Làm đường. Chữa
lại đập Sửa lại cái bậc cấp ở khu cơ quan. Dự đều được gọi. Lúc về Dự chuyện
như pháo rang. Những là ông Quân nói gì, ông Vui, ông Thanh Vân đi bắn chim ra
làm sao. Rổi bà Mùi nhà – bếp – cán – bộ tốt lắm. Đắp lại bếp lò cho bà ấy, bà ấy
cho một đa thịt, bắt ăn hết, không được mang vào trại.
Đi làm mệt nhọc, nhưng Dự thuật lại ầm ĩ, sôi nổi, phấn khởi,
dù nhiều khi mất mồ hôi mà chẳng được gì, một nửa cân sữa bổi dưỡng cũng không.
Chỉ được xuống suối tắm. Tắm bồi dưỡng. Dự làm hắn liên tưởng đến một anh cố
nông, bỗng lạc vào nhà các quan, trở về huyên thuyên trò chuyện.
Hắn vẫn nghĩ Dự có một cái gì đó ngớ ngẩn. Không ngớ ngẩn mà
lại xông vào dập ô-tô cháy. Ai khiến? Ngộ nhỡ bỏng chết thì sao? Hay co quắp
chân tay, tàn phế thì sao? Hình như Dự hài lòng với cuộc sống trong tù. Chưa
bao giờ thấy Dự kêu ca phàn nàn. Chẳng ngớ ngẩn mà lại đưa đầu cho hắn cắt tóc.
Tù mà được cắt tóc thật như người bình thường được đi tắm Đồ Sơn. Trại vẫn có một
anh chuyên làm việc cắt tóc. Đừng tưởng việc làm của anh ta nhàn nhã hơn mọi người.
Tông-đơ cùn, bóp đến phát hạch ở nách. Đứng đến tụ máu ở chân. Khi anh ta mãn
án được về, ông Lâm có sáng kiến trao bộ đồ cắt tóc cho Thất quản lý. Các toán
mượn về cắt cho nhau ngày chủ nhật. Thế là ai cũng thành thợ cắt tóc. Hắn cũng
cắt. Mọi người nghi ngờ khả năng của hắn. Dự ngồi ngay xuống cái ghế ở nhà àn
thản nhiên:
– Anh cắt cho em.
Hắn cầm tông-đơ dũi tóc cho Dự. Tông-đơ cùn, đầu Dự bẩn, tóc
lại dài, cợp. Hắn bóp. Tóc đứt, tóc chưa đứt giắt vào tông-đơ, nhổ lên lịch phịch
nhưng Dự không kêu mà chỉ nhăn thôi. Dự ngồi cúi cúi. ngoan ngoãn. Hắn dũi và
thỉnh thoảng lại phải chờ, vì một anh mượn tông-đơ sửa lại cái mai. Nói chung
các đồ dùng cắt tóc được luân phiên sử dụng để ba bốn “ông thợ” phục vụ ba bốn
“ông khách” cùng một lúc.
Cuối cùng mái tóc đầu tiên trong đời hắn đã được hắn sửa sang
xong. Đó là một tác phẩm điển hình của những người mới tập cắt tóc: cóc gặm,
làn sóng, răng cưa, bên dướí trắng, bên trên xoè ra một vành như đống rơm bị
rút nham nhở. Dự đưa tay xoa lên gáy, phấn khởi:
– Nhẹ cả người. Anh cạo cho em.
Hắn lại phải chờ. Vì dao cạo còn bận. Cuối cùng hắn cầm dao,
liếc liếc vào bàn tay và cạo. Bấm mai cái đã. Hắn hoảng: Lưỡi dao khoét ngay một
lớp da trắng hếu và ở chỗ đó những giọt máu tươi rịn ra…
Hắn xuýt xoa:
– Chết rồi.
– Không sao, anh cứ cạo đi.
Đến lúc đó hắn mới biết cạo mặt còn khó hơn dũi tông-đơ. Lưỡi
dao cùn cứ nhảy nhảy băm băm trên trán Dự thành những vệt ri rỉ… Hắn bảo Dự:
“Thôi, xong”. Dự đứng lên lấy lược chải đầu, lấy tay cào tóc ở vai, ở cổ. Lấy
áo đập khắp người (nước đâu mà tắm) Lúc bấy giờ hắn mới thấy mệt, đầu nhức lên
vì qụá căng thẳng.
Dự được về sau hắn hai tháng. Đợt ấy về khá đông. Hắn nghĩ có
lẽ những câu đăng báo, nói trên đài đã bắt đầu được thực hiện chăng: “Xóa bỏ hận
thù, khôi phục tình thương”. “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước
phải thương nhau cùng”.
Hơn mười anh số lẻ về một lúc, xôn xao cả trại. Tuy toàn những
người trên ba lệnh. Phố đã về. Dân Cầu Giát vẫn chưa được về. Cả Cán nữa. Cán
thì về với ai? Cương nữa, gia đình Cương đi Nam hết từ năm 1954. Một mình Cương
ở lại. Đủ để người ta nghi vấn, đặt vấn đề và không thể tha Cương. Có ai tin được
rằng Cương ở lại miền Bắc chỉ vì một cô gái. Vũ Lượng, Cân, già Đô cũng còn ở
trên ấy. “Bọn lính mới ấy mà”.
Dự đã về quê, nhưng thấy không thể sống được ở quê. Bố mẹ Dự
đã mất. Không anh chị nào chịu cho Dự ở. Với lại làm công điểm cũng đói lắm.
Nông thôn rất đói. Đấy là chưa kể đi tù về, ở nông thôn chẳng ai coi mình ra
gì.
Dự chỉ đảo qua nhà một hôm. Rồi ra Hà Nội. Gặp Mỉn. Min rủ xuống
P “tìm anh Tuấn xem sao, anh ấy về được mấy tháng rồi”. Tất nhiên là nhảy tàu.
Tiền đâu lấy vé. Trên tàu họ kiểm tra vé thì chìa cái lệnh tha ra.
– Thế anh chưa làm gì à?
– Chưa.
– Gay go quá. Chúng em không biết xoay cách gì đây.
Cả ba cùng thở dài.
Hai người bạn tù nhìn căn buồng. Nhìn Ngọc và lũ trẻ bận bịu
đi ra đi vào, đong gạo, nhặt rau, giặt giũ, phơi phóng quần áo, mắt họ ánh lên
vẻ thèm thuồng. Dù bị bỏng, dù bị một vết loang đỏ và trắng chéo ngang mặt xuống
tới cổ, nét mặt Dự vẫn quê mùa, chất phác, Dự ngửa mặt nhìn lên trần, nhìn cái
quạt cóc quay xoe xoe, rồi nhìn ra cửa sổ lẩm bẩm:
– Nhà anh như động ấy nhỉ.
Hắn cố giữ để khỏi bật ra một nụ cười chua chát.
Hắn càng không hiểu vì sao Dự bị bắt. Lại là tù chính trị. Số
lẻ đàng hoàng. Hắn không tin Dự là tù chính trị. Cái số lẻ của Dự là một sự nhầm
lẫn. Cũng như hắn tù chính trị lại có số CR880. Số chẵn. Thì hàng vạn, hàng chục
vạn người tù, cũng phải nhầm lẫn chứ.
Nhà hắn mà được Dự khen như động. Một cái buồng hơn hai mươi
mét vuông. ưu điểm là cửa sổ nhiều và rộng. Trần cao, chỉ có một cái giường ba
xà, bộ bàn ghế…
Dù đang lâm vào hoàn cảnh bi đát nhất, hắn cũng hiểu Dự và
Min còn khốn nạn hơn hắn rất nhiều. Họ chỉ ao ước được như hắn.
Hình như Dự muốn hỏi cái gì đó mà không dám.
Hắn khe khẽ:
– Có cần gì không, hở Dự?
Dự lấy hết can đảm:
– Anh còn bộ quần áo cũ nào không?
Hắn đứng lên ngay. Quần áo hắn có. Nhiều người cho hắn. Quần
áo cũ của chính hắn cũng còn. Hắn tặng hai người hai bộ. Một bộ cũ nhưng còn
lành. Một bộ đã pích-kê ở đầu gối và ở mông. Hắn giục:
– Thay luôn đi, thử xem có vừa không?
Hình như cả hai đều không muốn mang trên người bộ quần áô
nâu. Họ ra nhà giải. Thay ngay. Dự mặc bộ lành, Min mặc bộ vá. Đúng là dễ trông
hơn. Bình thường hơn. Trà trộn với đời thường được rồi. Thế là hắn lại nhớ đến
những người quen quen, ngờ ngợ hắn gạp trên đường. Nhan nhản. Hệt như những người
thường. Chẳng ai biết rằng số người này đã trải qua những năm tháng nung luyện
đặc biệt. Nhiệt độ trong người họ khác hẳn mọi người. Hắn thấy lo. Hắn hoảng.
Sao mà đông thế. Hắn lại hơi mụ mị đi. Ngọc phải giục hắn:
– Anh nói các anh ngồi dẹp lại để con nó dọn cơm.
Cơm độn mì. Một bát canh rau đay. Một bát mắm tôm chưng. Chủ
khách quây quần. Cơm nước xong, hai người khách đứng dậy xin phép đi ngay.
Hắn biết Dự và Min chẳng có chỗ nào mà đi ở cái thành phố
này. Nhưng hắn không thể lưu hai người lại. Nhà hắn quá chật. Hắn cũng có quá
nhiều điều phải lo. Chính hắn cũng không biết phải làm gì để sống.
Tối hôm sau cô chữa đồng hồ ngoài cửa bảo hắn:
– Hai anh hôm qua lại đến.
Thấy hắn ngớ ra. Cô nói rõ hơn:
– Cái anh bị bỏng ở mặt với một anh nữa ấy…
Hắn ngạc nhiên. Cô đồng hồ nói tiếp:
– Hai người đứng suốt buổi chiều ở bên kia đường, nhìn sang
ngõ bên này.
Hắn thấy nhói lòng. Nhói lòng ở chỗ Min và Dự không dám vào
nhà hắn. Họ đói. Họ cần chỗ nghỉ ngơi, chỗ ngồi than thở.
Họ thèm nhìn vào một gia đình… Họ cứ đứng dựa bờ tường ngôi
nhà bên kia đường mà nhìn sang. Đứng suốt một buổi chiều ở vỉa hè bên kia đường
nhìn sang rồi đi. Đi đâu?
Cô chữa đồng hồ nói là đúng. Cô rất thông cảm với hắn. Cô rất
thương Ngọc và mấy đứa nhỏ. Ngày hắn đi xa, cô thấy con Thương ngồi khóc một
mình ở giữa cầu thang. Khóc từ bao giờ, sưng cả mắt. Thằng Dương đứng bên cũng
khóc. Cô hỏi nó vì sao. Thì ra nó đi xếp hàng mậu dịch mua thịt. Mẹ Ngọc đưa
cho nó một đồng. Nó cho vào túi, suốt trong lúc xếp hàng nó lúc nào cũng nắm chặt
cái túi. Nó oà lên: “Thế mà mất rồi, cô ơi”. Cô đồng hồ dỗ dành nó. Cô cho nó một
đồng.
Nếu không phải cô đồng hồ, mà là một ai khác trong số nhà này
nhìn thấy hai người ấy và biết họ là bạn tù của hắn, hẳn sẽ bàn tán, khinh bỉ hắn,
khinh bỉ họ, đó là chưa kể người ta còn dặn con, dặn vợ: “Cửa rả cẩn thận. Quần
áo kéo vào đi… “
Hắn cứ nghĩ Min và Dự còn đến nhà hắn một lần nữa. Nhưng hai người
biến mất. Lặn mất. Thỉnh thoảng hắn vẫn nhớ đến họ. Nhớ đến lúc hắn xuống nhà,
nhìn thấy Dự, Min dựa vào tường, sợ sệt nhìn hắn. Rồi hắn tưởng tượng ra cái
lúc hai người đứng bên kia đường nhìn sang bên này suốt một buổi chiều…
Không biết họ làm gì, họ sống ra sao.
Đó là thời gian rất khó khăn.
Một mình Ngọc di làm nuôi cả nhà: một người chồng thất nghiệp,
và ba đứa con (con Nguyệt đã có ông bà nuôi) với đồng lương ít ỏi: phụ kho 45 đồng.
Có ngày nàng đạp xe đi làm mà chưa nghĩ kiếm đâu ra năm xu để mua mớ rau đay
đem về nấu muối cả nhà chan húp. Cũng may mà có sự giúp đỡ của anh Thân – một
người quen nửa thành phố – sau ba tháng nghiên cứu, xem xét, phòng lương thực
đã cấp sổ gạo cho hắn. Hắn xuýt xoa vì ba mươi chín cân gạo bị mất ấy, nhưng Ngọc
thì mừng. Nàng sợ hắn không được cấp sổ gạo, hoặc còn phải chờ đợi nữa. Với
nàng điều gì cũng có thể xảy ra. Nàng hoảng sợ với tất cả. Đó là một nét mới hắn
thấy ở nàng. Hắn càng thương nàng hơn.
Hắn không muốn quàng thêm cái ách nữa lên vai nàng. Hắn muốn
san sẻ với nàng gành nặng nàng mang quá lâu rồi..
Nhưng làm gì?
Làm gì để sống?
Bình dạy hắn lau xe đạp. Lau cái xe đạp của Ngọc, Bình bảo:
– Nghề này sống được đấy, mày ạ.
Trước khi đi tù, Bình đã dạy hắn lau dầu xe đạp. Lúc ấy Bình
gọi việc lau dầu xe đạp là tập thể dục trí óc.
Nhưng hắn vốn là kẻ vụng về. Công việc mang tính chất kỹ thuật
nhất với hắn là đóng guốc cho Ngọc mà đinh không khoằm, không đóng vào tay.
Trong trại, những hôm đi rừng, hắn phải nhờ người mài dao hộ:
Khi Kỷ Mình, khi Sơn, khi Hỉn Sán, già Gọi. Hắn mà mài, con dao cứ sáng loáng
lên, chứ không sắc. Hắn lau xe đạp thì lau thôi, chứ hắn biết hắn chẳng làm được
nghề này. Chỉ móc lốp vào vành cũng thấy gay go rồi.
Hắn ra trước cửa thành đoàn, la cà ngồi chơi ở vườn hoa với một
anh tù V. Q. Anh này tên là Phúc mù, vì hai mi mắt trên có hai nốt ruồi đen sì
mọc ra thây lẩy như hai cái đầu vú. Phúc có kiểu nói tục không chịu được. ở
trong tù thì: Sáng ra chưa kịp, đ.mẹ… Đánh răng rửa mặt đã gọi đi làm rồi..
Và:
– Các chàng mà đèo các nàng đi chơi, đ.mẹ… Châm kim là chết với
em, đ.mẹ… Ba hào chứ năm hào cũng trả ngay. Hí hí…
– Bây giờ về, đ.mẹ… không biết con gái đã có cơm chưa đây.
Phúc có kiểu nói như vậy. Cứ đến chữ đ.mẹ là Phúc chấm câu. Hắn
tập sự thêm, nhưng Phúc gắt:
– Bố đ.mẹ. Làm hỏng hết rồi. Tôi bảo bố đ.mẹ nới ra cho tôi,
bố lại đ.mẹ đi vặn vào. Cháy hết sám của tôi rồi.
Hắn cãi:
– Không. Tôi vặn ngược chiều kim đồng hồ mà.
– Khổ lắm. Cái bàn ép của tôi làm ngược răng. Vặn ra tức là
đ.mẹ vặn vào. Vặn vào đ.mẹ tức là vặn ra, bố ạ!
Hắn về nhà nghĩ cách kiếm sống. Lại những ý kiến bàn tán:
– Hay là mua xe bò kéo. Sống lắm.
– Xe bò những ngày mưa còn phải lo cho bò ăn.
Có loại bò nghỉ làm là nghỉ ăn. Đấy là xích-lô máy. Cứ làm
cái xích-lô máy chạy bến Tắm – bến Rầng chẳng inấy chốc mà khá.
Nhưng lại có ý kiến gàn. Công an không cấp đăng ký cho hắn
đâu. Hắn cũng thấy là không được. Hắn lấy đâu ra tiền mà mua bò kéo, mua xe,
mua xích-lô máy? Không biết bao nhiêu ý kiến. Có hai người quen biết bình thường,
nhưng tỏ ra rất nhiệt tình trong việc tìm kiếm việc làm cho hắn. Một anh bàn đi
chụp ảnh ở nhà quê. Kiếm được. Một anh khác bảo: Có một việc bên Thanh Nguyên.
Trông máy bơm. Cách bến Tắm mấy cây số thôi. Nhà cửa có rồi. Tha hồ cất vó tép.
Một anh còn cho hắn cả một gói chè loại hai. Anh kia thì cứ đến nhà luôn, bàn
tính với hắn mọi khía cạnh trong nghề chụp ảnh.
Sao ngày xưa chỉ quen biết bình thường mà nay nhiệt tình như
vậy. Điều ấy làm hắn suy nghĩ. Hắn tin rằng họ đúng là người của xịa. Cho đến
bây giờ, cùng với thời gian, hắn càng tin rằng họ là đặc tình, được công an cử
đến gặp hắn. Xịa cũng muốn hắn có một việc làm do xịa xếp đặt, để xịa quản lý,
để hắn nằm trong sự quản lý của xịa. Hai người này cũng chẳng ác cảm gì với hắn,
họ có việc đến công an (một anh có ông anh ở Nhật sắp về, một người có đứa con
ngoài giá thú) thế là được công an bảo: “Anh Tuấn mới về, chúng mình phải giúp
anh ấy có việc gì làm ăn. Hiện nay có việc này… anh là bạn anh ấy, anh thử dến
thăm anh ấy… “
Hai người kia hiểu đây là nhiệm vụ được giao.
Họ vốn thông minh, hơn nữa việc này là việc thiện, không sợ
lương tâm cắn rứt…
Dứt khoát là như vậy. Hắn đang tù chính trị, người ta sợ hắn
như hủi, tránh hắn chẳng được, lại còn lo việc làm cho hắn. Có mà điên. Giữa
lúc ấy Thế Hùng đến.
Thế Hùng là một họa sĩ. Anh đã làm cho nhiều cơ quan xí nghiệp,
nhưng rồi anh phát hiện ra rằng: Đó là nơi chôn vùi tự do của anh. Lương thấp,
lại gò bó. Hùng vẽ nhiều đi nhiều. Và chuyến đi dài nhất là chuyến đi tìm mình.
Anh tìm anh. Tìm cả đời. Anh làm việc khỏe, không lúc nào không ghi chép. Anh vẽ
lụa, sơn dầu, sơn mài, phấn màu. Lúc mang một chút Rêpin. Lúc bốc lên, xoáy lên
một khoảng trời Van- Gogh. Lúc lại ngây thơ như Rousseau, người nhà đoan Pháp vẽ
tranh.
Hắn quý Hùng vì sự tìm tòi ấy. Dù hắn sợ sự tìm tòi ấy quá
dài mà Hùng vẫn chưa định hình. Hắn hay giễu Hùng:
– Thế nào, ông Gauguin còn dánh nhau với ông Van Gogh không,
mày?
– Hai ông ấy hoà với nhau rồi. Để về một phe xúm lại đánh
tao. Tao chấp tuốt.
Hùng đã rủ hắn và Bình làm triển lãm cho sở nông nghiệp:
chuyên đề về phân bón. Hắn đặt lời. Hùng vẽ tranh. Mấy chục chiếc. Tất nhiên
Hùng phải cáng đáng mọi việc quan trọng nhất. Hắn vụng chân vụng tay, hắn đi
mua sơn. Căng vải quét nền trắng. Chấm xanh làm bèo hoa dâu. Bình làm mảng.
Hùng tô nềt ngoài. Chính trong đợt làm ấy, Hùng vẽ tranh con Thương. Dạo ấy
đang chiến tranh bắn phá, chỉ có hai bố con ở phố. Hắn mang cả con Thương đi
làm tranh. Chú Hùng bắt cháu ngồi một ngày và kết quả là một bức tranh đẹp đến
mức không ngờ.
Hùng mới đi vẽ ở miền núi về, nên đến thăm hắn hơi muộn. Khi
hắn đi tù, Hùng lấy một cô vợ hai. Hùng kéo hắn sang nhà cô vợ mới này. Một cô
y tá nhà máy xi-măng xinh đẹp, đã ly dị và có một con với người chồng trước.
Hùng đến ở với cô vợ hai và thỉnh thoảng mới quay lại phố Cầu
Gỗ, nơi người vợ cả và sáu đứa con lúc nào cũng đón tiếp anh trong bầu không
khí trước lúc bão đến.
– Sao mày làm ăn lằng nhàng thế?
Hắn hỏi cho có chuyện. Vì hắn biết anh em Hùng đều đã khuyên
can Hùng. Vợ Hùng đã bao lần định “xé xác con đĩ”. Cơ quan không nói gì Hùng vì
Hùng không có cơ quan, nhưng nhà máy xi-măng hành hạ cô Hà (cô vợ trẻ của
Hùng), kiểm điểm lên xuống.
– Rất may. Cô ấy đã ly dị.
Hùng bảo hắn:
– Đi với tôi. Tôi sẽ có cách cho ông kiếm sống. Bao nhiêu năm
tôi có làm biên chế đâu mà vẫn sống.
– Mày còn có nghề vẽ. Chỉ riêng làm tranh cổ động thôi cũng
đã tươm rồi.
Hùng cười khì khì:
– Tươm chó gì. Không đủ tiền mua thuốc vẽ, mua vải. Không có
bà Cầu Gỗ thì chết nhăn răng.
– Thế sao lại đi với bà này. Bà ấy nuôi mày…
Hùng ngắt lời:
– Bi kịch. Bi kịch. Đừng hỏi nữa.
Bà “Cầu Gỗ” có một cửa hàng bán chăn bông, gối bông. Các loại
áo gối thêu chim bồ câu, hoa păng-xê, hạnh phúc, tuổi trẻ, ngủ ngon…
Hùng đưa hắn đến nhà Hà, một căn nhà bé xíu, nền vẫn còn cỏ
đâm lên. Chung quanh toàn là cỏ. Nhưng cũng có cầu rửa làm bằng một tấm sắt có
những lỗ thủng tròn rất đều bắc lên mấy viên gạch, có rãnh thoát nước. Và một
cái bếp xinh xinh. Hà cao dong dỏng, xinh và trẻ. Chỉ khoảng hai mươi nhăm tuổi.
Hùng cười chỉ vào vợ đang bế con, chỉ vào nhà:
– Một túp lều tranh, hai trái tim vàng.
Và bảo vợ:
– Anh Tuấn.
Hà cười với hắn như một người quen cũ.
– Em đi mua gì làm cơm.
Hà ẵm con nhỏ đi chợ. Hùng đòi bế con, nhưng Hà không nghe.
“Nó quấy, để hai anh nói chuyện”.
Hùng còn dặn theo:
– Cá rô nhé. Một món thôi. Cho nhanh.
Nhìn Hà, hắn hiểu Hà dám đánh đổi tất cả để có Hùng. Và hắn
lo ngại: Không biết Hùng có đáp ứng được tình yêu của Hà không?
Hà mang về một mớ cá rô và một bó rau muống. Hắn cảm thấy dễ
chịu vì Hà đối với hắn không có chút mặc cảm nào. Kính trọng. Tin cậy. Cởi mở.
Hẳn là Hùng đã nói nhiều về hắn với Hà. Hùng bế con cho Hà làm cơm:
– Thằng này vừa đầy năm đây. Hà có một đứa con với thằng chồng
trước. Nó ở đây. Nhưng hôm nay nó về nội. Cả nhà cô ấy phản đối việc cô ấy lấy
tao. Nhưng bạn mày không phải tay vừa. Cũng nhiều sức hấp dẫn lắm.
– ồ! Bạn tao, tao còn lạ gì. Nó là chú ruột Đông-Gioăng.
Bữa ăn ngon. Cá rô rán giòn tan. Có cả rượu. Hà bảo:
– Ngày anh còn đi vắng, em đã sang nhà với anh Hùng thăm chị.
Câu ấy làm hắn cảm động. Hắn cảm thấy Hà là người tuyệt vời.
Khi Hà bưng mâm bát xuống rửa, Hùng xốc xốc thằng bé lên lòng:
– Mình nghĩ cũng kinh. Ba thứ con. Đất nước có ba thứ quân
thì mình có ba thứ con. Con riêng của mình. Con riêng của vợ. Con chung. Hùng lại
cười khinh khích. Anh mở tủ, cái tủ sắt con, lấy ra một tập giấy sơn các màu,
đã xén thành hình chữ nhật.
Làm cái này được. Tí nữa đi với mình. Đến gặp mấy cô hiệu trưởng
quen.
Đó là giấy thủ công cho học sinh cấp một. Hắn và Hùng đạp xe
đi mấy trường nội thành. Các cô hiệu trưởng quen chào Hùng rất nhiệt tình. Hắn
xấu hổ vì cái trò đi gạ gẫm thế này. Nó có cái gì tư hữu, vụ lợi, đáng lên án,
nếu không nói đây là một hình thức đi ăn mày. Nhưng Hùng cứ nhe hàm răng chín
chín ba không ám khói vàng khè dẻo quẹo:
– Đây, ông bạn tôi, chuyên gia về mặt hàng này. Các chị có thể
ưu tiên cho chúng tôi.
Các cô pha trà mời bọn hắn và hứa sẽ trả lời sau. Bọn hắn lại
đi trường khác. Hùng luôn động viên hắn:
– Yên tâm. Chỉ cần được một trường thôi là tạm ổn.
Đi chào hàng như vậy hắn đã gặp những cô giáo quen, những cộng
tác viên của báo. Nhưng hình như cả đôi bên đều cố tình không nhận ra nhau.
Cũng như khi gặp Hạnh, vợ Sơn ở một trường cấp hai, hắn và Hạnh đều lúng túng.
Cả hai cùng muốn hỏi nhau một câu gì đó ngoài cái chào xã giao. Nhưng biết nói
gì, “Anh ra tù bao giờ?” “Sơn được ra chưa, hả chị?” Chẳng lẽ lại hỏi nhau như
vậy ở chốn đông đúc này. Chung quanh họ, các em nhỏ ríu rít, bọn chúng đều trạc
tuổi thằng Hiệp, con Thương. Và các thầy, cô, những nhà sư phạm đạo mạo, nghiêm
trang đứng nói chuyện ở sân hay đi vào các lớp. Hắn chỉ lí nhí: “Chị dạy ở trường
này ạ. “
Cô giáo Hạnh nhìn hắn với vẻ ái ngại. Đó là cái nhìn của Ngọc
nhìn bọn Min, Dự. Thế Hùng vẫn cười nhe hàm răng ám khói thuốc, liến thoàng:
– Chúng tôi chuyên sản xuất giấy thủ công, bảng – không – phấn
phục vụ ngành giáo dục. Các chị cần loại dày hơn cũng được, loại mỏng hơn cũng
được.
Thôi Hùng ơi Đừng nói nữa. Không bịp nổi ai đâu! Người ta thừa
biết mình vừa ở đâu về. Người ta thừa biết mình chẳng làm được trò gì, thừa biết
chúng mình là những tên bịp bợm. Hắn nở nụ cười gượng gạo với bà hiệu trưởng. Hạnh
cúi đầu chào tất cả và đi vào lớp. Thế là hắn lại nghĩ đến Sơn. Sơn có lẽ đã hết
ba năm. Được về rồi. Hắn muốn biết Sơn đã làm ăn gì chưa mà hắn chưa hỏi được.
Vừa lúc ấy có một người cầm cái chổi to dài hiện ra ở đầu sân
trường, lối đi ra khu nhà xí. Người ấy quét. Quét lia lịa. Chỉ nhìn người ấy
đưa một nhát chổi, hắn đã biết ngay là Sơn. Sơn đã được về. Sơn đã xin được việc
làm ở ngay chỗ vợ Sơn dạy học. Khi hắn chia tay bà hiệu trưởng và nhận ở bà một
lởi hứa hẹn, Sơn đã quét ra giừa sân. Sơn nhận ra hắn. Sơn gọi to:
– Anh Tuấn!
Sơn cầm chổi chạy tới. Tiếng gọi làm bà hiệu trưởng đang đi về
vàn phòng, quay lại. Như cảm nhận báng gáy cái nhìn ấy của bà, Sơn đứng khựng.
Hạ chổi. Quét. Nhìn trước nhìn sau. Quét. Dù sân trường sạch bong. Sơn vừa quét
vừa tiến lại hắn. Hắn rỉ tai Hùng:
– Một người bạn ở trong ấy.
Hai người nắm chặt tay nhau. Sơn kéo hắn về nhà. Vợ chồng Sơn
ở trong một căn buồng nằm trong khu tập thể của trường, phía sau ngôi nhà hai tầng
dùng làm lớp học, có tường vây quanh, cách biệt.
Cả khu tập thể, cả chung quanh trường, khu nhà vệ sinh đều có
những nhát chổi của Sơn. Sạch như ly. Không một mẩu giấy, một đầu mẩu thuốc lá,
một cục phấn vỡ, một mẩu ngói non chơi lò cò.
Sơn pha nước mời hắn và Hùng. Sơn cũng về được vài tháng nay.
Đúng rồi. Sơn tù sau hắn gần hai năm. Một năm giam cứu. Hai năm ở Q. N. Cũng ăn
đủ ở đủ Thế là Sơn được ra vào dịp tháng Năm. Khi hắn chuyển lên V. Q, Sơn đang
làm quét trại ở Q. N. Vậy là Sơn tham gia hội tù quý tộc khoảng mười sáu tháng.
Thật đại phúc. Cái nghề quét dọn ấy lại được tiếp tực khi Sơn đã tự do. Kể ra
cũng hơi khốn nạn, vì vợ Sơn là cô giáo dạy ngay ở trường. Nhưng dù sao cũng
còn hơn thất nghiệp. Dù sao cũng còn hơn ăn bám.
Hắn thực sự ngạc nhiên và hoảng khi biết Sơn vẫn thất nghiệp.
Trường có thuê Sơn đân! Không ai khiến Sơn quét. Vợ Sơn đã cấm Sơn không được
quét. Nhưng Sơn cứ quét. Vợ Sơn rầy la khóc lóc, đốt chổi, chặt chổi, giấu chổi.
Sơn lại có chổi mới. Bó buộc chặt chẽ vào một cái cán dài. Lại xênh xang di ở
sân, lia những nhát chổi khoáng đạt. Lại lúi húi ở sau khu nhà xí quét dọn, cọ
rửa… Đều đặn. Tỉ mẩn. Chăm chỉ. Các em học sinh đi làm vệ sinh trường lớp ngơ
ngác hỏi cô giáo:
– Thưa cô, sạch thế này có phải quét nữa không ạ?
Cô giáo Hạnh chỉ còn muốn độn thổ. Nhục nhã, thương chồng, Hạnh
phải cố gắng lắm mới có thể tiếp tục ở lại trường. Bạn bè khuyên. Bà hiệu trưởng
khuyên giải Hạnh. Hạnh đã nói với Sơn mọi lời. Nhưng cô không biết khuôn mặt chồng
đang ngây thộn kia nghĩ gì. Cô đã khóc biết bao đêm…
Những chuyện đó về sau hắn mới biết. Nhưng lần gặp Sơn ở trường
ấy, hắn đã nhìn thấy trước kết cục dù Sơn đã trở lại dáng hình ngày trước:
khuôn mạt đầy đạn, da nâu mịn, răng trắng đều. Sao mà giống Phượng Đang ngồi
trong nhà nói chuyện với hắn, thấy cái lá bạch đàn mới rụng ngoài cửa, Sơn vội
ra, nhặt cho vào sọt rác. Và khi nghe tiếng ồn ào của học sinh hết tiết học, biết
các cô giáo đã ra khỏi lớp, Sơn cứ lăm le đứng lên vớ lấy cái chổi, định ra
quét…
Hắn phải quát:
– Sơn! Ngồi đã nào!
Sơn miễn cưỡng ngồi lại, dáng vẻ bồn chồn đau khổ, lấm lét
nhìn sang phía trường học. Hắn kéo Thế Hùng ra về. Sơn không giấu được vẻ vui mừng,
cầm chổi đi theo hắn. Vừa tới sân trường, Sơn đã hạ chổi. Hắn nghe thấy “tiếng
chổi tre xao xác hàng me” của Sơn phía sau. Hắn cảm thấy những cái nhìn của bà
hiệu trưởng, của các cô giáo, của các em nhỏ bàn vào gáy hắn rát rạt. Hắn đỏ nhừ
mặt: Mọi người thừa biết hắn ở chốn nào về. Tiếng chổi của Sơn tố giác hắn!
– Vợ Sơn tốt thật đấy.
Hùng bảo hắn khi hai người ra khỏi trường. Hắn cũng công nhận
thế. Nhưng hắn nhìn thấy trước rằng Hạnh không thể chịu đựng được Sơn lâu hơn nữa.
Đúng như hắn đoán. Hạnh gặp Phượng, gặp mẹ Sơn khóc lóc, xin
ly dị. Hoặc ít nhất cũng phải ly thân. Phải để Sơn ở nơi khác. Không thể để Sơn
trong trường được.
Lúc đó Phượng đã về ở với chị. Hai chị em bán nhà ở Hải Liên,
mua một mảnh vườn ven phố. Đó là thời gian hắn làm miến thất bại, làm hợp tác
xã cơ khí thất bại và đang chầu chực ở công ty phế phẩm xin khâu bao tải.
Hắn đang đạp xe đi, lòng nặng trĩu thì Phượng gọi hắn. Đã dừng
lại, nhưng nhìn thấy Phượng, hắn uể oải đạp tiếp. Phượng chạy theo:
– Anh Tuấn! Dừng lại! Em bảo! Em không nghĩ gì khác về anh
đâu.
Hắn không quan tâm đến mọi người nghĩ về hắn như thế nào. Hắn
chỉ muốn chôn chặt quá khứ.
Không muốn nghĩ đến nó nữa. Nó đã chết rồi, còn khơi dậy làm
gì. Hắn đang tự nghiền hắn thành bột, nhào nặn lại mình, mà Phượng thì nhắc đến
cái hình hài của hắn ngày trước. Phượng gợi hắn nghĩ đến cái quá khứ hắn phải
chôn đi. Phượng nắm chặt ghi- đông xe hắn:
– Vào em đi.
Cái nhìn của Phượng van vỉ, cầu khẩn như chính Phượng là người
có lỗi với hắn. Hắn ngần ngừ.
Phượng nói tiếp:
– Em còn giữ một bản thảo của anh.
Câu nói ấy hơn mọi lời mời. Hắn ngoan ngoãn đi theo Phượng. Một
cái ngõ to, dài, sâu. Ao. Vườn. Một mảnh sân xinh xinh. Một căn nhà lợp ngói.
– Phượng ở đây à? Thích quá nhỉ.
Hắn chưa vào nhà ngay. Hắn đứng ở sân ngắm quanh. Vườn khá rộng.
Đánh thành từng luống. Ươm những cây gì đó, chưa mọc. Nhưng kìa! Một luống đã mọc
rồi. Lá to xoè ra. Hình tim. Bóng. Một loại cây quen thuộc với hắn. Hắn đã tìm,
đã thấy ở Q. N. Nhưng hắn vẫn còn ngờ ngợ:
– Trồng dọc mùng à, Phượng?
Phượng rầu rầu:
– Thằng Sơn đấy. Nó trồng ráy.
Như có tiếng sét đánh vào gáy. Hắn cố không thở dài. Đến lúc ấy
hắn mới biết Sơn đã về đây, không ở với Hạnh nữa. Hắn bước ra vườn, cúi xuống
những khóm ráy mơn mởn và hắn nghe tiếng Sơn gọi hắn. Hắn quay lại. ở dẻo đất hẹp
sau nhà, Sơn đang cởi trần, chặt những cây cam cuối cùng.
Làm sao thế Sơn?
– Chặt đi. Thứ này vô tích sự.
Hắn đứng như trời trồng trước cảnh tượng lạ lùng này: Những
cành cam đang mang quả bị chặt ngổn ngang. Sơn cầm con dao rựa giơ thẳng cánh bổ
vào những cành cam khác. Bên cạnh đó là mai, cuốc… Đến lúc ấy hắn mới để ý thấy
cái rãnh nhỏ bao chung quanh vườn đã mọc toàn ráy xanh um. Phượng kéo tay hắn:
– Thôi. Kệ nó. Anh vào nhà đi. Nó phá hết cả cái vườn này đấy.
Bao nhiêu là cam. Bây giờ toàn ráy.
Khi đã vào trong nhà, hắn lo lắng bảo Phượng:
– Cẩn thận, không nó hỏng mất.
Phượng bình thản như từ lâu đã chấp nhận một thực tế phũ
phàng:
– Nó hỏng rồi. Cho nó làm theo ý nó. Cho nó giồng ráy khắp
nơi còn đỡ. Cấm nó là nó bỏ nhà đi. Lang thang. Vườn cam khi mới dọn đến đẹp lắm,
anh ơi. Nó chặt hết. Chả lẽ lại gửi nó xuống Đặng Thất . à mà còn ghi chép nữa
chứ.
Và Phượng tìm đưa hắn quyển sổ của Sơn. Trang đầu Sơn viết nắn
nót:
PHụC Vụ CôNG CUộC KHáNG CHIếN
CHốNG Mỹ CứU NướC – CẩM NANG HàNH QUâN
Sơn viết cẩn thận, không xóa một chữ. Chắc là đã nháp rồi mới chép vào sổ:
– Vừa hành quân vừa nấu ăn. Bảo đảm yếu tố cơ động của trận
đánh và chiến dịch. Ông cha ta từ thời Lê Lợi, Quảng Trung đã rất chú trọng để
tạo nên yếu tố bất ngờ.
Thức nấu: Tốt nhất là sắn. Khoai lang lâu chín hơn. Cách làm:
Sắn bóc vỏ, xắt thành khúc vừa bằng chiều dài của gô. Khi hành quân, người đi
trước xách gô Người đi, sau dùng nứa đốt lửa, đưa vào đít gô. Từ chỗ làm về trại
đã sôi, chín. Chú ý: Cho ít nước để chóng sôi. Sắn chín bằng hơi.
Nướng sán trong năm phút. Thời gian nghỉ ngơi ít ỏi bên suối,
các chiến sĩ có thể nướng sắn bằng cách:
Đốt lửa. Cho củ sắn vào giữa ngọn lửa (không sợ cháy). Đốt
khoảng năm phút cho củ sắn nóng già. Rồi vất xuống suôí. Sắn nở tung. (Nguyên tắc
nóng gặp lạnh). Nêú địch đến cũng có thể áp dụng cách này để xóa dấu vết. Khi
quản giáo đi thì lội xuống suối vớt lên. Sắn bị nhã và nhạt. Nhưng ăn vẫn tốt.
Định kiến sai lầm về rau tàu bay: ăn mất máu, có hại… phải được
xóa bỏ. Rau tàu bay có tên khoa học là Gynura Crepidioides Benth. Rất nhiều chất
bổ. Mát. 2, 5% protit. 1, 9% glucid… Ngoài công dụng riêng, khi hỗn hợp với các
chất khác sẽ có tác dụng kỳ lạ (sẽ nói ở phần sau). Là nguồn sống quan trọng của
các chiến sỹ Trường Sơn.
– Cây ráy. Có tên khoa học là Alocasia odora. Chỉ có ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Nam Trung Quốc và châu úc (Có thể châu úc trước đây dính liền với Đông Nam á nên đã có đươc may mắn này). Sản lượng chưa điều tra. Là nguồn thực phẩm quan trọng, nhưng chưa được đánh giá đúng mức. Đã được cha ông ta đúc kết:
Củ khoai, củ ráy. Dễ trồng. Sản lượng lớn. Trong tương lai sẽ
cứu loài người khỏi nạn thiếu lương thực. Có thể trồng ở sa mạc. Phủ xanh xa mạc.
Nhưng phải giải quyết vấn đề nước vì ráy thích ẩm. ăn hơi ngứa. Cách khử ngứa:
Nâú lẫn với rau tàu bay, ếch (có thể thay bằng nhái), lá sắn non.
Hắn rời quyển sổ và im lặng nghe tiếng đánh gốc cam huỳnh huỵch
ở phía sau nhà. Đó. Tiếng những nhát cuốc của phu đào huyệt mai táng một con
người sống.
Đó. Sơn đang cởi trần, mồ hôi, đất cát, mím môi đánh bung những
rễ cam dưới đất với tất cả sự chăm chú thiêng liêng của người mở đường cứu vớt
nhân loại khổ đau. Huỵch. Huỵch… Phượng đứng sát vào hắn như che chở khi thấy hắn
run lên. Hắn lạnh sống lưng vì chợt hiểu rằng một điều gì còn khủng khiếp hơn
nhiều đang chờ đợi hắn. Lấy quyển sổ bưng mặt một lúc, hắn gập đưa trả Phượng.
Phượng nhìn hắn như muốn nói: “Em biết anh ở chốn nào về”. Hắn tránh cái nhìn
đăm đăm ấy và cảm thấy Phượng nắm hai bàn tay hắn. Phượng muốn chia sẻ với hắn
cái quá khứ ghê gớm hắn vừa trải qua. Cái quá khứ ghê gớm ở một chốn Phượng đã
tới nhưng không thể nào biết được. Cái quá khứ bí mật hiện hình thành Sơn dang
hùng hục ngoài vườn. Cái quá khứ bí mật hiện hình thành hắn đang ngồi trước mặt
Phượng dẫn đến thực tại này không thể nào thoát được. Phượng ôm lấy đầu hắn Phượng
cúi xuống ép má Phượng vào má hắn thương xót. Hắn thấy ướt ở má. Phượng khóc.
Không. Đã đoạn tuyệt với quá khứ, phải đoạn tuyệt đến cùng. Hắn đứng lên:
– Cám ơn Phượng. Phượng cho tôi xin lại bản thảo. Truyện gì đấy,
hở Phượng?
Phượng lau nước mắt, mở tủ, giờ một gói giấy bọc ni-lông cẩn
thận. Phượng đưa cho hắn một xếp pơ- luya đã đánh máy, phẳng phiu. Hắn nhìn: Vợ
chồng người thợ xóm Chiêu Thương – Truyện ngắn. Lại thấy choáng váng. Như cái
hôm ở trại trong, trước khi được tha, nhìn thấy quyển Người gác đèn biển. Lại
thấy chập chờn quá khứ. Những ngọn phi lao xanh. Khói xi-măng cuồn cuộn. Nắng
chiếu xoai xoải trên dòng sông chảy ra khơi.
Phượng biết những gì hắn đang nghĩ. Phượng bảo:
– Truyện này em thích. Em đánh thêm một bản. Đó là bản thảo
duy nhất còn sót lại trong số một nghìn năm trăm trang bản thảo của hắn. Hắt lật
từng tờ cho đến trang cuối cùng…
Hắn run run:
– Cám ơn em
Lần đầu tiên gọi Phượng bằng em. Và cũng là lần cuối cùng.
Phượng nắm chặt tay hắn, ngã hẳn vào người hắn. Hắn nâng khuôn mặt Phượng lên.
Lại một lần nữa nhìn thấy quá khứ trong gương mặt ấy.
Uất hận, đau đớn, cam chịu, hắn nói với vẻ của người trở về
cõi chết:
– Vĩnh biệt Phượng!
Cái cảm giác chán ngán của hắn cứ tăng dần theo với ngày
tháng. Hùng đã đưa hắn đi một số trường ngoại thành, nhưng vẫn không đạt kết quả,
mặc dù nếu có nơi nào nhận mua, hắn cũng chưa biết cách sản xuất loại giấy sơn
màu cho các cháu cắt hình, cắt chữ này.
Hết Kiến Quốc, lại Hổ Lao. Bữa trưa ăn ở Kiến Quốc. Nhà một
ông đảng uỷ. Cơm xoàng. Mắm cáy, tôm rang. Nhưng bữa chiều ở Hổ Lao thì khá. Tại
nhà một giáo viên. Một con gà thiến luộc. Nước xáo đập hành. Rau thơm. Thế
thôi. Cơm gạo quê nữa chứ. Rượu ngang. Ba người khà khướt. Iâu lắm mới được một
bữa ngon như vậy. Hùng cuộn mấy bức truyền thần chân dung vợ chồng chủ nhà vẽ dở
dang tự bao giờ đem về thành phố làm nốt. Hùng bảo hắn trên đường về: “Hay là cậu
học nghề truyền thần. Nhanh thôi. Chịu khó đi nông thôn. Làm quanh năm không hết
việc đâu!. Nhưng rồi chính Hùng lại gạt đi: “Được ăn cơm nữa đấy. Có khi cả thịt
gà như hôm nay. Nhưng nghĩ cũng khốn nạn lắm. Mình cứ như ông phó cối”.
Hắn vẫn nằm ở nhà, chờ đợi một cái gì chính hắn không biết.
Sáng ra, cả nhà mỗi người một bát cơm nóng rưới nước mắm, rồi Ngọc đi làm. (Con
Thương dậy sớm. Bao giờ nó cũng dậy sớm nấu cơm. Con bé khi trước leo lẻo cái mồm
mà nay chịu khó quá chừng, cứ lặng lẽ làm mọi việc, cả ngày chẳng nói một câu).
Mấy bố con ở nhà. Hắn hút thuốc lào vặt. Không có cả tiền mua diêm, hắn giữ lửa
bằng cái đèn con. Rồi bóng vỡ. Không có tiền mua bóng nữa, hắn để đèn khuất vào
chỗ lò sưởi, khoanh một tấm giấy cong cong chắn gió.
Ngọn đèn không bóng ấy làm hắn nhớ đến ngọn đèn trong tù.
Không phải ngọn đèn ở cửa nhà mét tạo thành bó hoa đen một thời Sơn vẫn đăm đăm
trò chuyện, mà là ngọn đèn không bóng cũng khoanh một mảnh giấy thế này đặt
trong thùng gỗ. Phía trên thùng là những cái nón úp chếch, úp nghiêng để không
lọt ra một tí ánh sáng nào, không làm cháy nón mà vẫn có thể thò đóm vào châm lửa
hút thuốc lào. Đó là những đêm đông rét cắt ruột ở V. Q, khi hắn còn ở toán văn
nghệ. Đó là thời gian Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội.
Máy bay bắn phá bay lượn cả đến đây, nên bọn hắn không bị nhốt
trong trại nữa. Mỗi toán sơ tán một nơi. Toán hắn ở một cái lán xa. Xa lắm. Sát
rừng. Đi làm là gần. Ngay cạnh. Không có ai gác. Và cũng chẳng ai trốn. Toàn bọn
tù mõm cả rồi. Với lại, trốn đi đâu được? Không hộ khẩu, không tem phiếu, sổ gạo.
ở đâu được lâu. ở đâu cũng lòi ra. Bấy giờ chẳng ai đủ sức nuôi người khác.
Nuôi mình còn khó nữa là. Tù hình sự, trộm cắp, lưu manh có trốn thì trốn. Tù
chính trị không trốn. Ông Vui quẫn giáo nằm ở một gian đầu nhà. Ông cũng khổ chẳng
kém gì bọn hắn. Đêm đêm, bọn hắn ở trong nhà hút thuốc lào vặt. Sột sệt. (Toàn
xài lá sắn non thôi. Thứ này ninh kỹ, ăn bùi, bã deo dẻo như cao-su). Vũ Lượng
nhớ kèn, nhớ đàn, Vũ Lượng đứng giữa nhà thét lên:
– Im lặng nhé, Palôma nhé.
Lượng ngửa đầu, cằm hơi đưa ra. Tay giơ ngang trước mặt. Tất
cả im phăng phắc. Tất cả nhìn vào cái bóng lờ mờ của Lượng đứng cạnh thùng gỗ,
nơi đặt ngọn đèn không thông phong, phía trên úp nón để chặn ánh sáng, đề phòng
máy bay Mỹ. Chỉ có tiếng gió mùa đông bắc lạnh lẽo thổi qua mái nhà, xô vào rừng
ào ào như tiếng suối lúc gần lúc xa. Ngoài ấy là rừng hoang vắng và đêm đen khô
buốt.
– Te… Te…
Tiéng kèn đột ngột vang lên. Đúng là tiếng kèn lanh lảnh và
chờ đợi. Tiếng kèn sang trọng, cung đình, như Lượng vẫn nói.
Chờ những âm thanh kỳ diệu ấy lan đi vào đến rừng sâu, chỉ
còn lại dư vang trong sự im lặng chờ đợi, Lượng mới cất lên những tiếng kèn đáp
lại.
– Tè te te…
Tiếp đó là những tiếng kèn đĩnh đạc, chậm rãi, tự tin của câu
mở đầu bài Palôma nổi tiếng:
– Te te té tè te…
Bỗng một bóng người nhỏm dậy và một tiếng kèn trầm hòa theo
như tiếng vọng của rừng xa…
– Te tè…
Đó là Tất Tình đã ở hết ba lệnh. Đó là Tất Tình, nhạc công của
một đoàn văn nghệ Hà Nội trước đây, nằm trong tổ chức quân thứ hành chính lưu động
của Pháp. Bây giờ ta gọi là bọn tâm lý chiến. Tình biết chơi nhiều nhạc cụ.
Nhưng trong trại chỉ có một cái mandoline của Cán. Khi Tình chơi mandoline, hắn
nghe tiếng đàn réo rắt như ở một đài phát thanh nào đó. Lượng bảo: “Chắc chắn
Tình là một trong hai người đánh đàn mandoline hay nhất Việt Nam”.
Cái đêm sơ tán B52 ấy, nhìn hai người kèn mồm vừa vui lại vừa
não lòng.
Sao mà giống. Sao mà thiết tha. Bị kích thích bởi khỏng khí
im lặng, thành kính của cả toán, Lượng không chơi kèn nữa. Anh đệm contrebasse.
Người Lượng gù gù xoay quanh cây đàn tưởng tượng.
Pùm. Púp. Pùm.
Dù ánh đèn bị che chắn, mọi người vẫn trông thấy cái bóng
cao, đứng thẳng của Tất Tình đang thổi saxo, và dáng gù gù của Lượng xoay quanh
cây đàn contrebasse tưởng tượng, một tay nắm cần đàn, tay kia bật dây: “Pùm.
Pum. Pùm”… Vừa rất thật lại vừa ma quái.
“Trời ơi!” Lượng kêu lên, ôm lấy Tất Tình. Cả hai đổ sụp xuống
đất, thở hổn hển. Hắn hiểu nỗi nhớ của họ. Trong bóng tối hắn đưa cho hai người
cặp lồng lá sắn hắn đã ninh đến nước thứ ba.
Lượng lúc nào cũng đói. Lượng ăn lá sắn chấm muối ớt. Hắn
cũng ăn. Tình ăn. Nói chuyện về những đêm ca nhạc. Về ngày về. Thế là Lượng lại
hát:
Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê, đến bên luỹ
tre.
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè chở đón người về.
Mẹ lần mò ra trước ao, nắm áo người xưa, ngỡ trong giấc mơ.
Tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ.
Tất cả nằm im trong bóng đêm như những xác chết.
Ai mà chẳng có một người mẹ đang chờ đợi và trong số này hẳn
cũng có những người mẹ chờ đến loà cả mắt. Cầu sao cho mẹ mình đừng loà vì chờ
đợi. Cầu mong khi mình về mắt mẹ còn sáng để nhìn thấy con của mẹ.
Một đêm cả bọn đang ư ử như vậy, có tiếng ông quản giáo quát ầm
ĩ. Tiếng mở khóa, tiếng xô cánh cửa và tiếng ông Vui thét lên:
– Chết hết cả bây giờ. Các anh định giết người đấy à? Các anh
định làm chết hết cả hay sao. Có ra ngay không? Máy bay nó đến bây giờ chỉ có
chết. Tù cả nút.
Bọn hắn chưa hiểu ra sao, nhưng phá lên cười.
Cười thoải mái. ông Vui gầm lên:
– Còn cười à? Ra mà xem
Trong cơn tức giận, hoảng hốt, ông không biết vì sao tù lại
cười, nhưng rồi ông hiểu. Ông nghe thấy một tiếng lầu bầu trong bóng đêm:
– Báo cáo cán bộ, chúng tôi đã tù cả nút rồi ạ.
Cả toán theo ông Vui ra cửa và quành lại phía sau, về phía rừng.
Quả đáng sợ thật. Bọn họ hiểu vì sao ông Vui cáu ghê thế.
Cả một cây cổ thụ khô ở sườn đồi bốc lửa đỏ hồng. Rừng rực.
Gió mùa đông bắc từng cơn vụt vào thung lung làm cho ngọn lửa tạt đi và những mảng
than hồng bị bóc ra bay, cuộn lên trời đêm. Buổi chiều bọn hắn đi làm, nhóm lửa
ở gốc cây. Ai ngờ nó lại bén vào cây như một cây đuốc khổng lồ. Đang là mùa
hanh, gió mùa… Cả bọn ngây ra ngắm, thích thú nhìn cột lửa giữa rừng. Bọn hắn
không sợ máy bay. Có máy bay càng vui. Chết được ngay đâu mà sợ. Mà có chết đã
làm sao. Có khi còn là điều may mắn. Anh em mang nồi, thùng, xô, cặp lồng xuống
suối xách nước ngược lên dốc. Mấy anh đứng đái vào cây rồi mới múc nước giội
“Cho nó khỏi phí bãi nước đái”.
Quả thật hắn chưa trông thấy cảnh gì ghê gớm như thế. Rừng
đen kịt. Trời đen kịt. Gió hú. Cây than cao vút. Đỏ từ gốc lên ngọn. Và trên
cao là một ít lửa bập bùng soi thấp thoáng vạt rừng già. Gió lồng lộn, lạnh buốt,
bóc từng mảng than ném đi vẽ thành những đường đỏ lừ tung lên, cuộn xuống.
Trong lần đến gặp Mi, vợ Lượng, hắn đã tưởng rằng mình có thể
nói cho Mi biết cuộc sống của Lượng trên ấy. Lượng đã đưa thư vợ, ảnh con cho hắn.
Mi viết thư cho Lượng kèm theo quà và cảm ơn ông Quảng. Ông trưởng phòng đặc
trách văn hóa – người đứng đằng sau ông Lan. Người đã dồn hắn và cả Lượng đến
thế giới bên kia. Mi viết cho Lượng, nhắc đến những đêm mưa, hai vợ chồng thức
giấc, nghe mưa, trò chuyện. Lượng bảo:
– Nếu anh được về trước Lượng, anh phải đến nhà gặp Mi nhé, kể
chuyện cho Mi biết Lượng sống trên này.
– Thằng lớn nhà anh. Lượng về, Lượng sẽ dạy nó thổi kèn. Lượng
đảm bảo việc đó.
Hắn về trước. Hắn đến nhà Mi. Hắn biết Mi đang làm ở một cơ
quan văn hóa của thành phố.
Nhà Mi có mẹ chồng và hai đứa con. Nhưng hôm hắn đến, mẹ và
con Lượng đều đi vắng. Hắn đến vào buổi tối. Cửa đóng. Hắn gõ cửa. Và chờ. Hắn
gọi: “Chị Mi ơi”. Hắn đã định về, thì Mi ra. Chỉ nhìn thoáng qua hắn cũng hiểu
rằng hắn đến không đúng lúc.
Một người đàn ông đang ngồi ngay ngắn, quá ngay ngắn trên ghế.
Chính vẻ cứng đơ ấy của người đàn ông và vẻ ngượng nghịu của Mi làm hắn biết hắn
đến không đúng lúc. Anh hỏi ai?
Hắn đứng ở cửa và nói khẽ nơi hắn đã sống, đã từ đó trở về.
Vũ Lượng nhắn hắn nói với gia đình rằng Vũ Lượng vẫn khỏe.
Mi đứng nghe. Lịch sự cảm ơn. Mi không mời hắn vào nhà. Mi
trông đẹp hơn bức ảnh Lượng giữ trong tù. Thoang thoảng mùi nước hoa. Hắn chào
Mi, chào người đàn ông. Mi nói: “ông anh tôi” để giới thiệu khi hắn đã quay
gót.
Hắn thở dài. Hắn lại nghĩ đến Lượng. Mi có quyền có bạn trai,
có người yêu. Hắn chẳng trách Mi. Nhưng hơi nhanh. Lượng mới tù được hơn một
năm chứ mấy. Hãy cố chờ thêm ít lâu nữa. Còn khối thời gian để lương tâm Mi khỏi
cắn rứt.
Ngày về của anh tập trung cải tạo là một dấu hỏi khoan mãi
vào thần kinh, vào tâm trí và không có lời giải đáp. Lượng sẽ còn ở đó đến bao
giờ? Lượng vẫn nghĩ Mi đang đau khổ vì xa Lượng. Lượng tự hào vì Mi. Trà Mi của
Lượng. Tấm ảnh Trà Mi và hai đứa con, gặp ai Lượng cũng khoe, Lượng cất rất cẩn
thận, bọc trong hai lần túi ni-lông.
Sau kỳ bị xà lim, Lượng phát khùng. Thích thì làm. Không
thích là nghỉ. Đi làm Lượng chú ý tìm rau tàu bay, bắt nhái hơn là làm. Hình
như đã được làm chánh án xử con chuột của Dự một lần, Lượng thích làm chánh án,
thích đối thoại với những con vật trước khi ăn thịt nó. Bắt được con nhái nào,
Lượng cũng giơ cao lên ngang mặt, quát nạt, rồi mới vất vào cạp lồng:
– à. thằng này. Mày còn định lẩn trốn hả. Định thoát khỏi tay
tao hả? Không được đâu, con ơi. Tội mày nhẹ, nên chúng tao không xử. Đó là
chúng tao chiếu cố đến mày. Tập trung thôi. Tập trung cải tạo.
– à, thằng này bé quá. Thiếu niên. Mày bảo mày chưa đến tuổi
chứ gì. Đúng là mày chưa đến tuổi, thằng nhóc. Thì tao cứ vay tuổi của mày. Trẻ
con tao cũng xài. Lớn tao cũng xài.
Lượng lại bẻ đùi vất vào cặp lồng.
Đến con khác Lượng lại giơ lên ngắm nghía.
– Được đây, vừa mắt bố đây. Bố kết nước da đây. Nhảy hở? Đã
sa vào thiên la địa võng này mà còn định trốn hả? Ngu thế hả con…
Và những tối đọc báo Nhân Dân (ông chánh giám thị nói: Các
anh phải quên dĩ vãng, hướng về tương lai, phải có báo đọc) Phổ cất giọng rành
rọt đọc tin tòa án Bertrand Russell xử án Nixon, anh em gào lên:
– Cho nó cái bọp
– Cho thằng Nixon đi tập trung cải tạo.
Tiếng Lượng gào to nhất. Và cười: “Có thằng Nixon ở đây cho
nó nếm mùi tập trung với anh em mình để nó biết thế nào là lễ độ”. Rồi Lượng lại
hát:
Ai có về trên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Sao đành nỡ dứt tơ vương…
Lượng có biết chuyện gì đã đến với vợ Lượng, với Lượng không?
Nếu biết, Lượng sẽ phản ứng ra sao? Hắn đã từng viết thư cho Ngọc, mong muốn Ngọc
được giải thoát, mong muốn Ngọc rời bỏ hắn, đừng gắn bó với cuộc đời chó má của
hắn, để hắn yên tâm đi tù, chịu cho hết cái án dê đực đẻ. Nhưng Ngọc viết thư
vào cho hắn với một giọng trách móc và đau đớn: “Có lẽ anh cho rằng mình có quyền
được cao thượng và muốn đối xử với người khác thế nào cũng được hay sao? Em
hoàn toàn không ngờ anh có thể có những ý nghĩ như vậy…”
Khi ấy hắn đã về 75 để được tha, nhưng rồi lại trở lại Q. N,
tiếp tục đi tù. Lượng và Mi chưa qua cái tận cùng thất vọng ấy. Lượng mới đi
tù, đến nay mới được hơn một năm thôi. Trà Mi vẫn còn nhớ những đêm mưa, hai vợ
chồng thức giấc trò chuyện. Hắn hiểu được những đêm mưa đối với những cặp vợ chồng
trẻ. Bồng bềnh không gian. Sạch sẽ. Tinh khôi. Mát rượi. Hai người song song
nghe mưa. Tiếng mưa kéo về một thuở hồng hoang.
Hắn không trách Trà Mi. Nhưng hắn thương Lượng. Hắn thương những
người như Lượng, như hắn. Biết bao người đi tù đã mất vợ, mất con. Vợ lấy chồng
khác. Con đi lang thang, ăn cắp, ăn trộm, vào tù. Họ bị bỏ rơi ngay ở trong tù.
Cái dinh lũy cuối cùng ấy để mình trốn tránh, để mình ẩn náu, để mình đêm đêm
tìm về cung không còn nữa. May mà hắn không rơi vào cảnh ấy. Nhưng sự buồn thảm
không vì thế mà không đầy ắp cuộc đời hắn. Bên cạnh nỗi đau bị tiêu diệt, việc
kiếm sống quá khó khăn. Cuộc sống không có chỗ cho hắn. Hắn không thể ngồi được
vỉa hè. Vì cái máu sĩ của hắn. Vì trước đây hắn đã khá nổi tiếng ở cái thành phố
này, mà bây giờ nếu hắn ngồi vỉa hè sẽ là một bằng chứng chứng tỏ rằng hắn đã bị
đánh gục. Hắn đã thua. Hắn đã bị trừng phạt, và chấp nhận trừng phạt.
Hắn không muốn thế.
Cuộc sống vỉa hè là cuộc sống rất bấp bênh và bị lên án: Thỉnh
thoảng người ta lại mở một đợt càn quét vỉa hè. Phải nói sức sống vỉa hè thật
là dai dẳng. Hàng đoàn công an, phòng thuế, quản lý thị trường, khu phố… giằng
từng quang rau muống, xách từng sảo cà chua, thu từ nồi bún riêu, rá xôi. Vỉa
hè sạch bách được vài ngày. Rồi như Phạm Nhan, nó lại mọc ra. Lại phải mở một đợt
càn quét mới. Biết bao giai thoại, huyền thoại chung quanh việc đó. Nào là một
anh quản lý thị trường kéo cái thúng của bà bán xôi đội trên đầu xuống, thế là
cả một nồi cứt ụp lên mặt anh ta. Rồi chuyện mấy anh liên ngành thu nồi bún
riêu vào trụ sở đang ngồi đánh chén với nhau thì bà bán bún vào, bà móc túi lấy
ra mấy quả chanh để các thủ trưởng dùng “vì riêu nhà em hôm nay ít chua”…
Thật láo toét. Đúng là phản ứng giai cấp, phản ứng của bọn tiểu
tư sản thị dân bị đụng đến quyền lợi. Điều đó dễ hiểu. Tiểu thương là phi xã hội
chủ nghĩa, là mảnh đất hàng ngày, hàng giờ phát sinh chủ nghĩa tư bản. Đó là sự
chống lại chủ nghĩa xã hội một cách tự giác hay không tự giác, là đối lập với
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh ai thắng ai vẫn chưa được giải quyết,
còn gay go quyết liệt, phừc tạp khó khản không phải một sớm, một chiều mà diễn
ra suốt thời kỳ quá độ. Cũng phải tính đến khả năng có bọn phản động, bọn phá
hoại đang đứng đằng sau giật dây chống phá. Phải tìm ra được bọn ấy. Phải liên
tục mở những đợt tiến công. Đó là tất yếu. Có cuộc đấu tranh cách mạng nào thắng
lợi dễ dàng. Càng gần thắng lợi lại càng gian nan.
Một trong những kết quả của đợt quản lý thị trường ấy là Phúc
mù không hành nghề ở cửa thành đoàn nữa. Cả mấy người bán thuốc lá ở đó cũng biến
mất.
May cho hắn, Ngọc xin được việc dán hộp giấy cho Công ty may.
Ngọc mượn cả xe cải tiến của Công ty. Mấy bố con hắn lên nhận.
Xuất hiện ở Công ty vợ trong một tư thế như vậy thật là khổ
tâm, nhưng biết làm sao. Ngọc cũng không muốn hắn đi nhận các-tông, nhận giấy,
nhưng một mình thằng Hiệp làm không nổi. Niềm vui có công việc làm át cả sự nhục
nhã xấu hổ. Với lại Ngọc đã chuẩn bị chu đáo, hai bố con hắn chỉ việc kéo xe đi
thôi. Cô Linh, thủ kho chính, một đảng viên, rất quý Ngọc. Cô cũng là một phụ nữ
“goá sống” còn lâu hơn cả Ngọc. Chỉ có cái khác là chồng Linh đi bê (Nam) còn hắn
đi tê (tù). Hai người thương nhau. Thời gian sơ tán, thời gian hắn còn đi xa, cả
hai trông coi hàng nhà len, hàng nhà vải. Có lấy đến cá tạ len cũng không ai biết.
Nhưng không ai nghĩ đến chuyện ăn cắp. Ngày ấy tiếng ăn cắp còn bị ghê tởm, còn
bị mọi người khinh bỉ và lên án. Một hôm Linh ấp úng bảo Ngọc, mặt đỏ lên như
chính Linh đang làm một việc xấu xa:
– Ngọc ơi, có ít len vụn tổ đan họ mới nộp lại đấy, hay là
mày lấy đan cho con Thương cái áo cộc tay.
Ngọc sợ hãi:
– Chết, ai lại thế
– Khoảng hơn lạng len vụn ấy mà. Đan cải hoa dâu cho con được
đấy.
Linh thương Ngọc. Hai người cùng xa chồng.
Linh còn được lương của chồng, lương đại uý với các tiêu chuẩn
mà vẫn thấy khó khăn.
Sau này cả Linh, cả Ngọc cùng xuýt xoa nhớ lại mà tiếc rẻ:
– Chỉ mình ngày xưa là ngu thôi. Chúng nó bây giờ không có gì
là không ăn cắp. Thằng to ăn cắp to. Thằng nhỏ ăn cắp nhỏ.
Hắn dán hộp. Và ngay lập tức tạo thành quy trình. Đầu óc hắn
vốn như vậy. Phải có một số kẹp bằng sắt. Phết hồ vào các-tông cứng và khuôn lại
hình hộp, phải có kẹp sắt kẹp cho đến khi hồ khô. Nhưng cái khó là phết hồ lên
những băng giấy dài để viền góc hộp và cái nhãn to có in chữ Tocontap cạnh hình
chiếc áo sơ-mi cổ cứng. Phết xong phải dán ngay. Để chậm giấy bị ẩm và mủn ra.
Dán được một lúc cả sàn nhà đầy hồ. Các giẻ lau tay đầy hồ. Bốn
chung quanh tường chất đầy toàn hộp rỗng. Có lúc tự nhiên chồng hộp đổ nhào, đổ
cả vào mâm cơm.
Khi đem đi trả hàng mấy bố con xếp lên xe mới khổ. Hộp rỗng cồng
kềnh, không thể ghì chặt, ghì chặt thì bẹp hộp. Để lỏng thì hộp rơi. Phải tháo
cả hai giát giường đặt lên thành xe cải tiến. Và xếp hộp lên. Ngọc nhất định
không cho hắn lên cơ quan Ngọc nữa. Thằng Hiệp, con Thương xe được rồi. Ngọc bảo:
“Hộp rỗng nhẹ thôi. Để bố ở nhà trông em”. Ngọc bảo vậy, nhưng hai đứa vừa xe
đi, xóc mấy cái đã đổ hết hộp xuống đường. Phải xếp lại và lấy dây đan từng mắt
như mắt võng, úp lên trên hộp.
Bây giờ hắn vẫn nhớ rõ ràng buổi trưa ấy. Hộp đổ ngổn ngang, cái lấm, cái nghiêng, nắp một nơi, hộp một nẻo. Mấy bố con mê mẩn nhặt, xếp và về nhà tìm thêm dây chằng buộc. May mà đường lúc ấy vắng ô-tô. Hắn đứng nhìn theo hai đứa con bé tý đứa kéo, đứa đẩy cái xe hộp cao ngất đi một quãng xa mới quay vào. Ngọc đang chờ hai đứa ở công ty. Chậm lắm là mai sẽ có tiền, thêm vào để Ngọc chi tiêu. Đó là món tiền đầu tiên hắn góp vào với Ngọc. Hắn cảm thấy yên tâm vì còn gần một nửa chỗ các-tông chưa dán. Còn ít ra là một xe hộp nữa.
Việc gia công ấy khi có khi không, rất thất thường.
Hết đợt làm hộp, hắn lại nghỉ. Cứ ngồi hút thuốc lào, châm lửa
từ cái đèn con đã vỡ thông phong. Cái đèn con mà Bình nói: “Ngày xưa nó đã từng
có một cái bóng”. Mỗi sáng, Ngọc xách xe đi làm, hắn lại cẫm thấy mình là người
có lỗi và đồng thời cũng nhẹ cả người vì Ngọc đã đi làm, ở nhà chỉ có hắn và mấy
dứa con. Hắn có thể nằm nghỉ vì hắn cảm thấy mệt mỏi. Dạo này hắn hay đau đau ở
ngực. Có vợ ở nhà, mình cứ năm ườn thân xác, thật bất tiện. Hình như cái lần
ngã khi khiêng đá ở suối trại Q. N vẫn cỏn ảnh hưởng…
Trong tù hắn là người khoẻ mạnh. Hắn cảm ơn bố mẹ đã cho hắn
hưởng khí huyết ấy của các cụ. Tiêu hoá tốt, không bị đường ruột, gánh gồng được…
Không ốm vặt.
Chỉ có chứng đau đầu. Một năm rưỡi giam cứu làm gì không đau.
Trong xà lim có mà đầu thép cũng đau. Trong xà lim, sợ nhất là lúc trưa, từ mười
hai giờ trở đi. Anh tù nào chẳng thức giấc từ sớm. Ba bốn giờ sáng đã thức rồi.
Nàm chờ trời sáng. Nghĩ. Nhớ. Lo. Ai vào đây cũng lo. Không có tội cũng lo. Lo
thót ruột. Lo sao thoát được cảnh tù tội. Lo có những kẻ hại mình, những kẻ ngậm
máu phun người. Thiếu gì những kẻ không bằng lòng mình, những kẻ ghen ghét. Và
bây giờ thì giậu đổ, bìm leo. Rồi tự vấn lại mình. Thấy mình cũng có nhiều câu
nói bậy bạ, cần phải chấn chỉnh. Như nói về nông thôn đang xuất hiện bọn cường
hào mới, như nói rằng những người có năng lực, sống bằng sự làm việc của mình,
không sống bằng đầu gối. Đảng thì bận gì đến mày mà mày lại nói: Nếu cứ đảng
viên mới được đề bạt vào cương vị lãnh đạo, thì tất yếu có một loạt đảng viên
cơ hội, quần chúng cơ hội sẵn sàng làm mọi việc để được vào Đảng. Rồi lại nói:
Bây giờ nếu có vợ bán gạo, người yêu bán thịt, một “dì” nữa bán bách hoá thì
không phải lo nghĩ gì.
Những câu nói đó có khi rải rác cách nhau hàng năm trời,
trong lúc nhiệt huyết bàn thế sự với anh em bè bạn nay được gom lại, để cạnh
nhau thì rõ ràng mình là kẻ bất mãn, chống đối thật rồi, không cựa quậy đi đâu
được. Cũng giống như những hoá chất bình thường để cạnh nhau sẽ nổ tung và biến
thành một chất hoàn toàn mới. Mà các vị công an, tác giả vụ án của hắn hẳn
không thể bao giờ mắc sai lầm bắt nhầm người. Họ vốn là những nhà hoá học đầy
tài năng. Không như những người khác, các ông ấy rút ngắn, cắt bỏ mọi khoảng
cách thời gian để những câu nói, những hiện tượng bất mãn rải rác ấy liền kề
nhau. Thế là nổi lên bản chất của hiện tượng. Thế là tổng hợp được điều cốt lõi
từ những sự việc bình thường nhất. Bộ mặt thật vẫn ngụy trang che giấu bỗng hiện
ra như tờ giấy ảnh ngâm vào thuốc hiện hình. Thế là nhìn vấn đề dưới con mắt
nghiệp vụ, được nhãn quan cảnh giác cách mạng chiếu sáng, vạch trần được một kẻ
bất mãn, một kẻ biến chất,, hoạt động chống phá tinh vi. Hết đường chối cãi. Có
ai khiến anh tâm huyết. Có ai khiến anh chõ vào những công việc không phải của
anh. Anh làm như anh sáng suốt hơn cả Đảng. Khoan hãy nói đến đúng sai, nếu anh
nhiệt tình, nếu anh xây dựng sao anh không nói có tổ chức? Sao anh không nói
trong cuộc họp? Sao anh không kiến nghị với Đảng? Đảng là của dân. Do dân. Vì
dân. Không lý gì có lợi cho dân mà Đảng không làm. Tôi nói có đúng không?
Thật dại dột. Cái trò chính trị xó bếp. Và cũng đáng đời
thôi, khi mày là một tế bào của cuộc sống bình thường. Hiểu nó. Thở hơi thở của
nó. Mày hiểu sự thật ở nhà máy cơ khí nổi tiếng toàn quốc đốt pháo mừng công
hoàn thành 110% kế hoạch năm trước hai ngày (và mày có được mời dự tiệc liên
hoan cùng với bao nhiêu chức sắc trong thành phố tại tầng hai mậu dịch Ngã Bảy),
nhưng sau đó lại có hàng đoàn thợ bí mật ra bãi để máy, sửa chữa, lắp thêm chi
tiết cho máy lô-cô, việc làm ấy kéo dài hết tháng Giêng, vì phần lớn chưa thành
thương phẩm. Số máy ấy còn nằm han gỉ ở bãi cho đến giữa năm sau, do chẳng có
nơi nào cần, hơn nữa chất lượng quá tồi. Mày hiểu chị Chân nguyền rủa hợp tác
xã khi ba lần chị đi nhận rạ, chầu chực cả tối, gọi tên từng người, cân từng
cân rạ chỉ được tòn ten một quẩy không đủ dọi mái nhà bị dột, không bằng chị vơ
một lúc rạ rơi dọc đường. Mày hiểu nỗi đau của những con đĩ ngựa mỗi khi mang từ
cửa hàng mậu dịch về ba lạng thịt bạc nhạc Và mày khẳng định Bách không đủ tư
cách là một đảng viên bình thường, đừng nói là bí thư, là biên uỷ…
Cũng tại mày thôi. Tại mày có cái đầu cứ biết tổng hợp, suy
nghĩ, không chịu để người khác suy nghĩ hộ. Nhưng cái đầu suy nghĩ cũng chẳng
việc gì, nếu cái mồm mày không nói ra. Chỉ tại cái mồm. Hoạ tự khẩu xuất. Bệnh
tòng khẩu nhập. Bố vẫn thường dặn như vậy. Lẽ ra không được nói những điều mình
nghĩ với bất cứ ai, kể cả vợ. Người thứ hai biết đã không là bí mật nữa rồi.
Chuyện ông vua có tai lừa hẳn mày còn nhớ. Rồi lại còn bè bạn xa gần cứ đến ăn
ngủ ở nhà. Hoàn toàn không nên. Sự lui tới của bè bạn từng làm mày yêu đời, yêu
nghề, kích thích mày làm việc đã giết mày. Sự quý mến của bè bạn đã giết mày.
ăn. Uống. Chuyện. Cười. Nói. Văn chương. Thế sự. Cái giá phải trả cho sự làm việc,
cho nghề nghiệp, cho thành công đắt quá. Bởi vì đã viết văn là phải suy nghĩ.
Đã có tí chút thành công và còn hứa hẹn một điều gì nữa, đã cởi mở chân thành lại
coi sáng tác là lẽ sống của cuộc đời, thì bạn bè sẽ đến với mình thôi. Chết là ở
chỗ ấy. “Nhà anh ngày nào cũng một khay bã chè cơ mà”. Họ biết hết. Không thể
giấu họ điều gì. Bài học này cay đắng quá. Lẽ ra không nên có bạn. Không nên
nói. Không nên suy nghĩ. Nhưng đã là con người phải có bạn bè. Có cái đầu phải
suy nghĩ. Và không thể không nói những điều suy nghĩ với bạn. Đừng ngụy biện.
Thế còn bao người khác, họ không có bè bạn hay sao. Họ không nói hay sao. Họ
không suy nghĩ hay sao. Chỉ có điều họ không nói như anh. Không suy nghĩ như
anh. Không kết bạn như anh. Ngưu tầm ngưu. Mã tầm mã. Bọn bất mãn các anh chơi
với nhau, câu kết với nhau. Không ai đứng ra tuyên bố thành lập tổ chức, nhưng
thực sự là tổ chức đấy. Thế là có tổ chức mà không có tổ chức. Không có tổ chức
mà vẫn có tổ chức. Tinh vi lắm. Nhưng không thoát khỏi con mắt nhân dân đâu.
Không che giấu được ai đâu.
Khó mà cãi được những tội sờ sờ ra như thế. Chút lòng trung
thực từ sau xin chừa. Đến bao giờ được ra. ôi! Quãng đời trước thật là hạnh
phúc, thật là tươi đẹp. Chẳng bao giờ còn quay lại nữa.
Cứ thế mà nghĩ. Mà chờ trời sáng. Chờ ông quản giáo tới mở cửa
để đi đổ bô. Rồi lại vào. Lại nghĩ. Di quanh quẩn, năm xuống, rồi lại nhỏm dậy.
Đứng lên, rồi lại nằm xuống. Chờ quản giáo mở cửa, lấy cơm. An xong, khoảng hơn
10 giờ chứ mấy. Nằm. Rồi lại ngồi dậy. Đứng lên. Sực nhớ đến mấy con rệp nhốt
trong túi giấy bóng kính bao thuốc lá Berati. Lại đem ra chơi dù hôm qua đã
chơi rồi.
Học Đỗ, làm thí nghiệm xem rệp nhịn đói được bao lâu. Đỗ bảo
nhốt ba tháng nó vẫn chưa chết. Chẳng biết có đúng không. Hắn mới nhốt con rệp
được đúng tám tuần lễ thì buồn quá, không chờ được, đã dem con rệp ra cho nó
hút máu. Tám tuần lễ nhịn đói, con rệp gần như khô đi. Mỏng và trong vật vờ như
tờ giấy bóng. Nhưng khi bắt ra để trên cổ tay chỗ mạch đập, chỗ các ông lang
hay bắt mạch, ngửi hơi máu, ngửi hơi người, cu cậu tỉnh ngay, bò, xoay xoay và
chổng đít lên cắn da hút máu. Đau, nhưng cố chịu để xem nó hút máu như thế nào.
Say sưa làm. Đứng im một chỗ. Chân gại gại trên da buồn buồn. Chỗ nó cắn không
đau nữa mà ngứa. Cứ bình tĩnh, không đi đâu mà vội. Cho mày hút đẫy bầu đấy. Hẳn
là một bữa đại tiệc. Cu cậu lịm đi. Nhìn rõ vệt máu đỏ tươi chảy xuống bụng lềp
kẹp mỏng tang của nó như dòng máu khi tiêm ven chảy vào xi-ranh. Thế rồi những
lần sau đó chẳng tính thời gian để kiểm tra thí nghiệm của Đỗ nừa, mỗi khi buổn
quá lại bắt nó ra cho hút máu. Khi một tuần. Khi nửa tháng. Lại còn xếp những
que diêm sóng hàng bắt ba bốn con rệp chạy qua que diêm, như kiểu chạy vuợt
rào. Chân bé xíu mà chạy rất nhanh, vượt qua que diêm rất nhanh. Cũng lồng lên
như ngựa.
Thú vị. Nhưng chơi lâu cũng chán. Nhất là những con rệp cứ rẽ
ngang, định chui vào kẽ ván. Cái giống rệp sống cuộc đời tăm tối âm thầm quá.
Lại nhốt rệp vào túi giấy bóng Berati. Lại đứng lên. Lại ngồi
xo ró một mình. Lại nằm. Lại nghĩ. Lại nhìn vết ố ở trên tường gần cửa xà lim,
nơi vẫn đứng lom khom nói chuyện với Đỗ. Vết ố giống hệt cái đầu Dostoiepski.
Cũng cái sọ to, đôi má hóp, cặp mắt sâu và chòm râu dài. Buồn bã. Khắc khổ.
Kiên nghị. Chịu đựng Nhẫn nại. Càng nhìn càng giống Đốt. Rồi nhìn chữ “Khánh”
khắc trên tường xà lim. Khánh nào nhỉ. Có phải Khánh cướp của giết người trên
thuyền ầm cả thành phố dạo hắn còn làm báo không? ông Tri viện kiểm sát ngày ấy
đã nói với hắn là vụ Khánh không xử được, vì Khánh treo cổ tự tử.
Khánh xé màn buộc vào gióng sắt chắn cửa sổ thông hơi, rồi
treo cổ chết, chân vẫn chạm vào sàn. Nếu là Khánh ấy thì Khánh đã chết ở đây,
trong xà lim này. Cửa sổ treo cổ Khánh, cái cửa sổ từ khi lắp đến nay chưa một
lần được mở. Mình đã bẻ một nan chớp, đu người lên, nhìn thấy B lao động, thấy
anh tù động kinh đang ăn cơm bỗng ngã vật xuống đất, rồi lại bò dậy nhặt bát
xúc cơm ăn tiếp. Nhưng Khánh lấy gì khắc vào tường bê-tông nhỉ? Phải là một cái
đinh to. Mình thì chẳng thể có cái gì. Mảnh sắt tây giết rệp cũng là của anh tù
trước để lại. Anh ta giấu rất khéo. Ngay dưới cái cùm. Anh ta là ai? Mắc tội
gì? Hẳn anh ta chẳng biết ai sau anh ta sẽ dùng con dao tự chế này. Cũng như
mình chẳng biết ai sẽ dùng con dao này sau mình. Chỉ cần mình yểm khéo. Và người
ấy tìm thấy. Nhưng người ấy là ai? Một tên giết người? Một phần tử chống đối?
Hay một kẻ buôn thuốc phiện lậu? Còn những ai sẽ đến đây. Cái xà lim này còn nhốt
những ai? Đúng tội Oan khuất? Người ấy chưa được sinh ra. Chưa là một tế bào
trên cuộc đời này. Già rồi. Hay đang là một em bé lẫm chẫm biết đi và sà vào
lòng mẹ.
Bởi vì đã có xà lim là phải có người bị nhốt. Bởi vì đã là cuộc
đời thì phải có những người lao tù và những người cao sang quyền quí, những tội
phạm và những người canh giữ tội phạm. Mình đến sau Khánh ba năm. Ba năm trước,
chẳng bao giờ mình lại nghĩ phải vào xà lim như Khánh và mình kinh tởm Khánh.
Bây giờ minh vẫn kinh tởm Khánh, nhưng mình hiểu những gì Khánh đã chịu, bởi
Khánh đã sống giống hệt mình ở đây, ngay trong cái nhà mồ này. Khánh tự tử chân
vẫn chạm sàn thì ghê thật. Hẳn Khánh rất quyết tâm và đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Vậy là người ta đã gỡ Khánh xuống, đặt Khánh nằm trên miếng ván gỗ này.
Hắn ớn lạnh, và gạt ngay những ý nghĩ khủng khiếp tiếp theo về
chuyện lưng hắn vẫn đặt lên những miếng ván lim đã đặt xác Khánh, về chuyện hắn
sống chung với một cái xác trong xà lim tối tăm như một nấm mồ. Hắn cảm thấy
Khánh vẫn có mặt ở đây Vẫn im lặng đi lại như hắn vẫn im lặng đi lại. Và vì cái
xà lim quá hẹp, quá tối, Khánh cứ phải né tránh hắn, nhưng sẽ đến một lúc hắn
và Khánh đâm sầm vào nhau.
Hắn tự bảo: Thôi. Không nghĩ đến chuyện ấy nữa. Hãy nhìn Đốt.
Giống quá. Khi khom lưng nói chuyện với Đỗ, cúi xuống vừa trông thấy vết vôi
tróc trên tường, mình đã nhận ra ngay là Đốt. Đốt có mặt trong xà lim với mình
vì Đốt biết mình đau khổ. Thế kỷ trước Đốt bị lưu đày. Đến thế kỷ này mình bị
lưu đày Rất nhiều người đã bị lưu đày. Đốt đến với mình, động viên mình sống.
Và Đốt hẳn cũng đã động viên Khánh treo cổ. Tôi không muốn chết Đốt ạ, tuy sống
thế này còn khổ cực hơn chết. Tôi vẫn muốn sống dù biết rằng cuộc đời thế là hết
rồi. Nhưng còn vợ, còn con, còn bố mẹ, anh em, bè bạn. Phải sống dù khốn nạn đến
đâu. Nhưng đã sống thì phải sống dai, sống lâu. Để thấy cuộc đời này thay đổi.
Tôi tin là sẽ phải thay đổi. Nhưng lâu. Rất lâu. Chỉ sợ tôi không còn sống đến
lúc ấy.
Hắn ao ước được sống đến lúc ấy. Để được “cô đơn ngồi bên giấy
trắng” kể lại những gì đã trải. Kể lại cuộc đối thoại với Đốt. Ngày xưa hắn
thương Đostoiepski tù đầy, nợ nần, nghèo túng. Và bây giờ hắn nghĩ hắn khổ hơn
Đốt về mọi mặt: Nợ nần, nghèo túng, tù đầy. Nhất là Đốt đã hết hạn lưu đầy. Hắn
chỉ mới bắt đầu.. Ông Lan đã bảo là ông có đủ kiên nhẫn. Đó là phẩm chất của
ông, mà dù khiêm tốn ông vẫn cứ nói ra, vì ông buộc lòng phải nói. Còn câu nói
nào táng tận lương tâm hơn, đểu hơn, khủng khiếp hơn. Hẳn là hắn sẽ phải ở đây
cho đến chết. Nhưng hắn không thể nhận những điều hắn không có. Cho dù ông Lan
có kiên nhẫn đến đâu chăng nữa. Cho dù hắn phải húc đầu vào thép. Cuộc đối đầu
giữa hai ý chí. Hắn quyết không để bị bẻ gẫy.
Thế là mọi ý nghĩ lại quay lại thực tế xà lim, thực tế hắn bị
bắt, mong đợi được hỏi cung. Và không biết ở ngoài kia người ta đang gọi hỏi những
ai, tìm những tội lỗi gì về hắn. Người ta có đủ mọi lợi thế. Người ta lại có cả
một tập thể tinh thông nghiệp vụ, trí tuệ sắc sảo, đang tìm kiếm và không bỏ
qua những sai sót nhỏ nhất của hắn. Còn hắn bị tước đoạt mọi thứ, cô đơn tại
đây. Buổi hỏi cung tới sẽ là những vấn đề gì. Hắn sẽ phải trả lời ra sao. Bắt
người dễ. Tha người khó. Rõ ràng các ông ấy không có ý định tha mình.
Lại bồn chồn. Lại cố nén một cái gì đó trong lòng. Lại nằm xuống.
Lại đứng lên. Thời gian cứa từng nhát vào thân thể, vào trí não, vào thần kinh
như vật chất cùn, rắn và gai. Cho tới một hai giờ trưa thì đã thức, đã suy
nghĩ, dằn vặt, quanh quẩn hơn mười tiếng đồng hồ liền. Thần kinh bị kéo càng hết
cỡ. Hắn đập đầu vào tường vẩy cách âm. Hắn đập thái dương, đập trán, dập gáy để
cái vòng đầu hắn được hưởng sự vỗ về của những con ốc xi-măng nhọn hoắt trên tường
xà lim. Đầu óc tê đi. Dại đi. Dịu đi. Hắn đã đập thế bao lần. Hàng tỷ tế bào thần
kinh đã chết. Mà cái giống ấy đã chết là không sinh lại. Thảo nào vợ hắn bảo hắn
mụ mị đi, bảo hắn như người ngớ ngẩn. Đại loại khi thấy đa rau muống luộc xanh
non và bát nước rau đánh giấm chua là hắn kêu lên:
– Rau ngon nhỉ! Xanh quá!
Trong tù có thể ăn thịt trâu nhưng không thể có rau muống luộc.
Bọn nhà bếp nó bảo luộc một bữa rau muống vất vả bằng mấy giết trâu. Vì phải luộc
từng mẻ, được mẻ nào vớt ra nong. Mấy mẻ lại phải thay nước. Nếu không nước rau
đặc thành cao mất. Luộc cho hàng nghìn người thì đến bao giờ. Thế mà ngọn rau
cũng cứ đen sì. Nàm năm tù chỉ được ăn mỗi bữa rau muống luộc.
Ngọc mang về cây nứa làm sào phơi là hắn lại nói:
– Đi rừng đẵn nứa là khổ nhất. Nứa mọc thành khóm, những cây
bên ngoài đã chặt rồi, mình phải chặt cây bên trong, gốc nứa xóc vào tay. Sợ lắm.
Và không có gì kìm hãm được hắn, hắn tiếp:
– Lại còn cái ngọn nứa mới khốn nạn cơ. Cao phải đến sáu bảy
mét, luồn vào cành cây cổ thụ, dây nhợ 6. 5 chằng chịt. Co người mà giật, rồi
đu người kéo xuống. Bọn đi rừng quen họ chém nứa để đầu mặt lại. Mình chưa có
kinh nghiệm chém mất đầu mặt, khi đu lên, cây nứa bị tay bóp mạnh giập đánh “rốp”
suốt vào lòng bàn tay…
Và hắn xoè bàn tay ra, những vết sẹo cắt ngang lòng bàn tay hắn.
Ngọc và lũ trẻ phải nhắm mắt lại. Ngọc gắt:
– Thôi, anh đừng nói nữa, kinh lắm.
Nhưng hắn không thể không nói. Cái gì cũng gợi những ngày tù.
Cái hôm mỗi sổ được mua một ki-lô bánh mì trừ vào tiêu chuẩn gạo, hắn vừa ăn vừa
nói:
– Có những cái bánh mì đỏ hồng. Như thắt lưng các cụ ngày
xưa. Mọt nó thôi ra đấy. Toàn mọt, nhưng vẫn phải ăn. Chẳng lẽ vất đi.
Ngọc nhìn hắn van xin:
– Em lạy anh. Anh đừng nói những chuyện ấy nữa.
Hắn biết Ngọc không mnốn nghe “những chuyện ấy”. Ngoài Bình
ra, hắn chẳng còn ai tâm sự. Mà Bình còn bận công việc, thỉnh thoảng mới đến.
Thì hắn tâm sự một mình. Hắn ngồi lâm bẩm một mình:
– Không phải ăn rau nấu chảo gang. Cứt của mình không đen sì
như cứt lợn nữa.
– Cái răng hôm nay lại đau mới chết chứ.
Thế là một chuỗi liên tưởng: Min đâu? Còn đi với Dự hay mỗi
người một phương rồi? Giang sắp được ra rồi đây. ăn đủ ở đủ cũng chỉ tháng sau
thôi.
Hắn có hàm răng chắc. Không đẹp nhưng chắc và tốt. Khi hắn nằm
xà lim 76, một cái răng hàm bắt đầu bị đau. Đó là cái thứ hai từ trong ra, hàm
dưới, bên phải. Hắn ăn bánh mì và một chút bánh mì giắt ở mặt nhai. Mỗi bữa một
tí. Mặt nhai thủng. Thỉnh thoảng lại đau. Xói lên óc. Đau đến vã mồ hôi. Ngọc gửi
vào lọ dầu cao sao vàng, hắn lấy tăm chấm cao vào lỗ đau cho tê đi. Nhưng cũng
chỉ được một lúc. Thế rồi hắn lên QN. Hôm ấy đúng ngày sinh nhật hắn, hắn đang
gánh nước tưới thì Sơn đến. Sơn dúi cho hắn chiếc ngô nướng. Một bắp ngô dài, đẫy,
vừa nướng xong: “Quà sinh nhật anh đấy”. Món quà sang trọng của người bạn chí
tình. Nó chứng tỏ mình vẫn là một con người. Dạo ấy Sơn chưa nhìn hoa đen, Sơn
chưa đứng ở cửa nhà mét như một cây cột mới trồng. Sơn chỉ gầy thôi, trán cao
bóng lọng, da mặt bóng lọng.
Hắn giắt vội cái bắp ngô vào cạp quần. Nóng bỏng. Cứ phải luồn
tay vào lăn từ chỗ nọ sang chỗ kia không thì chín thịt bụng mất. Nóng không chịu
được. Tưới hết gánh nước, cái bắp ngô đã nguồi nguội, hắn quẩy thùng đến trước
ông vũ trang:
– Báo cáo ông, tôi xin phép ông tôi đi ngoài. (Rõ ràng thừa một
chữ tôi nhưng đó là cách đạt câu của anh em tù để tăng cường sự lễ phép. Cách đặt
câu ấy sau này khi đi làm hắn vẫn dùng để nói với các sếp).
Ông vũ trang phẩy tay như có ý bảo: Đi đi. Hắn quẩy thùng xuống
suối. Đặt thùng ở bờ suối, rửa chân tay, rồi lội qua suối sang bên kia, vào trong
một bụi rậm, tụt quần và… lẽ ra ỉa thì hắn lại ăn. Hắn cầm bắp ngô đưa lên miệng.
Không được chủ quan với các ông ấy. Tù hay ỉa non đái ép. Có anh ngày xin đi ỉa
mấy lần, nhưng chẳng ỉa ra tí phân nào, mà cứ ngồi lì hàng nửa tiếng đồng hồ
trong rừng. Thế là các ông ấy mò tới tận nơi kiểm tra. Tụt quần, thò đít ra là
yên tâm dù có bị muỗi đói xô đến đốt, ngứa gãi mẩn đỏ cả hai mông. Các ông ấy từ
xa thấy vậy là không đi đến nữa.
Cái bắp ngô thơm lừng dù đã nguội hẳn. Hắn gặm một miếng và
nhai. Rắc. Chiếc răng hàm bị sâu vỡ đôi. Hoá ra là bắp ngô già, khi nguội cứng
như đá. Hoá ra cái răng hàm của hắn đã ruỗng hết bên trong. Cái răng hàm gẫy.
Adieu un dent.
Nó gẫy cũng được thôi, nhưng nó còn lại một nửa nhọn hoắt như
lưỡi mác. Khi nói chỗ ràng nhọn ấy cào vào lưỡi. Lưỡi nhiễm trùng. Sưng vù.
Không nói được. Cổ nổi hạch. Đau. Nuốt nước bọt cũng khó. Không ăn được. Uống
nước cũng đau. Hắn phải nhờ Giang ăn cắp một cái giũa trong xưởng mộc, bồng về
trại, đưa cho hắn. Rồi hắn lại mang ra chỗ làm. Lừa lúc gần trưa vắng vẻ, hắn
đưa giũa cho Min, làm ở toán chăn nuôi gần đấy. Hai người ngồi thụp xuống khuất
sau bờ tường chỗ con lợn đực giống ở phía cuối dãy chuồng lợn giáp với bìa rừng.
Thấy người, con lợn đực giống kêu “hộc hộc” “hộc hộc” rung cả
chuồng. Đó là một con tê giác thì đúng hơn. Có lẽ nó phải thọ vài chục tuổi. Nó
dài hơn hai mét, nặng khoảng dăm tạ. Da dày nặng trĩu như muốn tách ra khỏi thịt
chảy xệ xuống thành một thứ áo giáp đạn bắn chưa chắc đã thủng. Hai mắt húp híp
lúc nào cũng có hai cục dử bằng ngón tay. Lông nó cứng như dây thép và chỉ cần
nghe thấy tiếng một con lợn cái nào ở phía xa là nó ghếch chân lên tường thò đầu
ra “hực, hực”, rồi phóng tinh vào tường chuồng như tưới. Không một con lợn cái
nào chịu được nó. Khi nó ghếch hai chân trước lên làm cái việc truyền giống,
con lợn cái to nhất cũng sệp xuống đất bẹp rúm như con lợn hàng mã. Trưa hôm ấy
nó cũng ghếch chân lên tường, thò cái mõm bè bè, dài như gầu sòng ỏhộc hộc”,
mép vén lên, hai răng nanh trắng nhởn chĩa ra như răng lợn lòi và chăm chú quan
sát bọn hắn qua đôi mắt ti hí đầy dử.
Hắn há mồm bảo Min: “Đấy đấy. Thấy chưa” Min đưa giũa đè cái
lưỡi cứ cong lên của hắn:!Thảý rồi. Rồi. Thè lưỡi ra nhé. Thè dài ra. Thế. Min
giũa, “Kít kít kít kít” và dừng lại hỏi hắn: “Đau không?” Hắn lắc đầu, đưa đưa
lưỡi, rồi thò tay vào mồm kiểm tra:
– Cho thêm mấy nhát nữa đi.
Cẩn thận, Min nhỏm lên nhìn chung quanh xem có ông công an
nào đến không, rồi lại cầm giũa “Kít kít kít… “
Khi việc chữa chạy đã xong, hai người đứng lên, con lợn sợ
hãi “hộc hộc” mấy tiếng, hạ chân xuống đứng ở giữa chuồng im lặng, mắt híp nhìn
xéo bọn hắn và hoàn toàn bất động như một bức tượng. Hắn quay đi, nhổ ra một đống
nước bọt to lẫn với mùn răng và bước xuống suối. Hắn vốc nước suối, súc miệng,
rồi vứt giũa vào bụi rậm. Cái giũa sắc cực tốt. Giang lấy cắp cho hắn là Giang
sẵn sàng chấp nhận xà lim. Trong tù người ta kị nhất là trữ muối và ăn cắp
giũa. Đó là những thứ để trốn trại.
Mất cái đầu nhọn, chiếc răng không cà vào lưỡi nữa. Lưỡi hết
sưng, hạch cổ biến mất. Hắn lại ăn uống, nói nàng được bình thường. Nhưng chiếc
răng thỉnh thoảng vẫn đau, thỉnh thoảng vẫn hành hạ hắn. Một hột cơm rơi vào hốc
tuỷ là đủ chết. Đau vã mồ hôi. Đau lăn đau lộn.
Được tự do, chiếc răng ấy vẫn làm hắn khổ. Hắn tiếc hàm răng
chắc của hắn. Ngọc bảo: “Hay là anh đi nhổ đi. “Hắn nói: “Nhổ một chiếc là nó
xô cả hàm”. Thực ra hắn ngại. Ngại đến bệnh viện. Ngại đau.
Chương 40
Ngọc bảo hắn:
– Sắp dán túi ni-lông rồi. Em đã làm đơn xin công ty. Nhà
mình được một suất. Nhưng lần này không nhận cá nhân mà phải tổ chức thành một
tổ, do ông Quỳnh, phòng kỹ thuật, đứng ra chịu trách nhiệm trước công ty. Hắn
phấn khởi. Chờ. Phải chờ. Hắn đã quen chờ. Hắn đã học được bài học: Phải biết
chờ đợi. Cuộc đời là một sự chờ đợi. Cao hơn chờ đợi, cuộc đời còn là hy vọng nữa.
Hoàn cảnh dù khốn nạn đến đâu, cũng cứ hy vọng. Đó là cái phao bám vào để đủ sức
trôi dạt giữa đại dương số phận. Trong khi chờ đợi. trong khi hi vọng thì tất
nhiên là sống trong thực tại tối tăm.
Cứ mỗi sáng Ngọc đi làm hắn lại cảm thấy mình là người có lỗi.
Còn hơn thế. Đó là cảm giác của người ở nhà nhìn người khác vì mình mà đi ra mặt
trận. Thật đau khổ và nhục nhã. Sau khi Ngọc vác xe đạp khuất hẳn xuống thang,
hắn đi ra đi vào, hút thuốc lào, gấp máy bay cho thằng Dương, làm ngựa cho nó
cưỡi, nằm sấp cho nó tẩm quất. Hắn muốn sống lại những ngày lũ con còn bé. Rồi
hắn xem sách học của hai đứa lớn. Và giục con đi nấu cơm. Đến lúc sắp tan tầm,
mấy bố con mê mẩn dọn dẹp, lau nhà cho bóng nữa để làm vui lòng Ngọc.
Những hôm mậu dịch bán thịt, bán gạo sang kỳ… những hôm ấy hắn
mới lập được tý chút công lao với vợ với con. Hắn mong đến những ngày ấy, vì mấy
lạng thịt phiếu, mấy cân gạo hút, mấy cân ngô… mang từ cửa hàng về là một sự kiện
trong cuộc sống của nhà hắn, thổi vào mỗi người một luồng sinh khí, vì nó là
cái để mọi người bàn tán chuyện trò. Đó là sự kiện xáo động cả số nhà hắn ở. Họ
chuyện về những miếng thịt họ mua, ngon hay không, cân thiếu hay đủ nhiều mỡ
hay nhiều nạc, ba chỉ hay mông sấn, lợn to hay lợn nhỏ, có bà còn vớ phải cả miếng
thịt lợn hoi nữa. Thật đau khổ. Họ bình luận về cô bán thịt, về cái sự xếp
hàng, về dự định chế biến mấy lạng thịt này. Người lọc hết mỡ rán ăn dần, người
bảo có ít thịt nạc giã ruốc cho cháu, người tuyên bố sẽ luộc hết cho mấy bố con
nó một bữa. Thèm nhạt đến khổ. Rồi ăn rau cả tháng cũng được. Ngày ấy nhà nào
cũng có mùi. thịt thơm lừng. Họ chuyện về chỗ gạo đong ngon hay không, xúc ngay
dưới đất hay dốc từ bao nguyên ra, hột vàng nhiều hay ít, gạo tấm hay gạo dẻo.
Có bà còn xúc lẻ gạo trên lòng bàn tay đi so đọ với các nhà, mặt mũi hớn hở vì
được mẻ gạo ngon hơn các nhà khác. Cũng gạo “mậu” cả đấy, nhưng bao nhiêu loại.
Mình không quen, ăn may thôi. Có một ông quen mậu dịch viên, được họ chỉ cho
bao ngon, nhưng ông ta không lấy hết cả bao, mình lấy sau vớ được chỗ mấy cân
thừa ấy. Sự may mắn ấy không xảy ra hai lần trong một đời người. (Ngọc đã một lần
được may mắn như vậy. Nửa đêm thức dậy, nàng cứ thấy vui. Nghĩ mãi mới nhớ ra rằng
nàng đong được 20 ký gạo ngon. Niềm vui thấm vào giấc ngủ). Rồi đến khoản độn.
Nếu là ngô thì đơn giản thôi. Nếu là mì, thật cả một vấn đề. Ai bị mì vụn, mì
gia công chua lòm. Ai được mì đóm, mì sò, mì trắng… Những câu chuyện phấn khích
nói đến tận tối mịt chưa hết.
Những ngày được mua ấy (mậu dịch có lên lịch cẩn thận) cả nhà
hắn gọi là “ngày cá mè ô 5”, chẳng riêng xóm hắn, cả khu phố đều tất bật, vất vả,
lo lắng, bận rộn, âm sâm: rộn ràng, ríu rít, rôm rả, râm ran.
Những ngày ấy, hắn dậy từ lúc còn tối đất. Chiến công bao giờ
cũng được bắt đầu một cách thầm lặng như vậy. Hắn cùng Ngọc đã tính toán từ tối
hôm trước lượng gạo, lượng độn, hay lượng thịt được mua hết bao nhiêu tiền để
khỏi nhầm lẫn. Nhưng hắn chỉ ra đi người không. Còn lâu mới bán. Khi đi làm Ngọc
sẽ cầm ra cho hắn tiền, phiếu và đồ đựng. Cửa hàng mậu dịch lúc hắn đến còn vắng
tanh. Nhưng ngoài khung cửa đóng im ỉm, những khuôn cửa bảo vệ kho tàng của cải,
niềm vui hạnh phúc mà mỗi người sẽ được chia theo khẩu phần và thang bậc xã hội
đã được tiêu chuẩn hoá bằng các loại phiếu bao giờ cũng có sẵn những cái lốt: Gạch
vỡ, mũ nón rách, bát mẻ, ống bơ gỉ, mảnh cạp rá gẫy, niêu đất thủng, mảnh giấy
xi-măng, đá củ đậu, cán ô gẫy… Mỗi thứ ấy là một sổ, một hộ, một người. Có khi
là hai ba sổ, hai ba người. Nhấc cái nón mê. bên trong bốn hòn gạch vỡ. Vậy là
năm người tất cả.
Đấy là những lốt người ta xếp từ tối hôm trước. Hắn tìm nhặt
một hòn gạch để vào cuối hàng rồi đứng sát cục gạch đó. Và thật sung sướng nếu
có ai đến đá tung tất cả những cái lốt ấy đi và quyết định một trật tự mới,
công bằng hơn:
– Xếp người. Ai có mặt thì xếp. Không có cái trò này.
Thật là một người dám chịu trách nhiệm, một anh hùng.
Những người đang lục tục tới cũng ủng hộ giải pháp công bằng ấy.
Hắn đứng vào hàng. Dòng người cứ dài ra, dài mãi, ngoằn ngoèo. Và vẫn cứ dài
thêm mãi. Hắn đứng chờ. Uất ức nhìn những người đến sau, nhưng thản nhiên, vênh
váo ném vào cửa quầy cái sổ ưu tiên. Rồi ngẫm ngợi. Thấy mình đã giúp được vợ
con tý chút. Không có hắn, Ngọc, con Thương phải làm việc này. Chờ. Lâu. Lâu lắm.
Trời rạng dần. Rồi sáng bạch. Rồi mặt trời lên. Rồi người đi làm. Đường đông. Rồi
vắng. Mới thấy những người mình mong đợi đến. ôi! Những thiên thần. Những cô
gái, có cả những bà đã đứng tuổi, ý thức được tầm quan trọng của mình, phẩm giá
đức hạnh cao quí của mình, vị trí chót vót trong xã hội của mình, nghiêm nghị dắt
xe lên hè, mở khoá. Không thèm nhìn ai, họ gọi nhau, họ dựng xe, họ đi mua nước
uống, họ bật quạt, họ cười nói oang oang.
Thấy họ đến đám đông đang bồn chồn nôn nóng, sốt ruột, cau
có, làu bàu trong miệng tự nhiên thay đổi hẳn. Họ chỉnh đốn lại hàng ngũ. Họ giấu
biệt vẻ mạt lúc nãy, làm ra vui vẻ tươi tắn, thú vị vì được xếp hàng để “các cô
mậu”khỏi phật ý. Dừng để các cô ấy mếch lòng. Đừng để các cô ấy thấy mình sốt
ruột. Cũng có người không kìm được, ngọt ngào:
– Tới giờ rồi, bán thôi chị ơi…
Thật là một sai lầm tai hại. Không ai thèm trả lời kẻ hỗn xược
ấy. Người ta lại giờ sổ ra,cộng trừ. Người ta lại ra uống nước và cười nói to
hơn. Cứ phải nén cái gì từ cổ xuống. Cứ chờ. Mãi cũng phải được chứ.
Thế rồi tất cả mở cờ trong bụng, reo lên từ đáy lòng khi
thiên thần bước ra ghế ngồi trước bàn ngay chỗ cửa ghi-sê. Tiếng reo ấy làm
thiên thần khó chịu. Bằng chứng là thiên thần lại quay vào phía trong một lúc rồi
mới ra, lật sổ xem xét, im lặng, chăm chú hệ trọng, trang nghiêm. Thiên thần ngẩng
lên nhìn vào đám đông vô liêm sỉ, hay quấy rầy, không để ai yên nhưng đã biết lỗi
và đứng im phăng phắc:
– Lào! Đưa sổ đây! Lăm người một. Từ từ chứ lào. Đã bảo lăm sổ
một. Ai là Tẩm!
Một ông già móm mém bật trả lời không chậm một giây:
– Em đây! Dạ! Em là Tẩm đây.
Tất cả nhìn cô mậu dịch viên. Cô lật sổ gốc. Cô ghi định lượng.
Cô ký vào sổ gạo của ông già. Cô không nói một câu. Ông già khe khẽ:
– Cô cho em đong 6 ký được không? Em vay nhiều quá rồi. Tháng
vừa rồi 1ắ m khách quá. Có chú em ở Hà Nội về chơi, lại có mấy đứa cháu từ quê
ra.
– Sang kỳ chỉ bán mỗi sổ một phần ba định lượng.
Ông im lặng. Sổ của ông, hộ độc thân có 13 ký ríỡi (các con
ông đã đi chiến trường cả). Được đong bốn ký rưỡi. Một phần ba ngô là ký rưỡi.
Ba ký gạo. Cô mậu nhìn vào ba rem tính tiền và nói: l đồng 47. Ông già đưa ra
hai tờ giấy một đồng.
– Có tiền nẻ không?
– Dạ. Em không ạ. – Ông già nói như người có lỗi.
Ba bốn người chạy từ dưới lên:
– Tiền lẻ đây ạ.
Một em bé trạc tuổi con Thương nhanh chân đến trước tiên. Nó
đưa cho cô mậu dịch viên những đồng một xu hai xu năm xu bằng nhôm và những đồng
tiền giấy một hào. Tiền lẻ hơn thẻ thương binh. Nó sẽ được đong trước. Chẳng ai
dám ghen tỵ với nó. Hắn sợ nhất những sổ ưu tiên, những bao tải có buộc túi
ni-lông đựng sổ gạo kèm theo tiền. Hắn sợ nhất những cái túi vải có đựng phiếu
thịt và tờ giấy xin mua bao nhiêu thịt. Những suất ấy được cắt trước. Lại toàn
chỗ ngon. Có khi đến lượt mình chỉ còn ít bạc nhạc. Một lần hắn đến cửa hàng từ
sớm để mua thịt mà không mua được. Phiếu TR của thằng Dương ctĩng không mua được.
Phiến BĐ cũng không mua được. Hôm ấy cửa hàng chỉ về có mấy cân thịt mà có đến
ba người cầm phiếu bán máu đứng chờ. Thịt bà đẻ không bán. Thị trẻ em không
bán.
Thịt chỉ bán cho những người bán máu. Hắn về tay không và nghĩ đến Vũ Mạc. Thịt hiếm thế này Vũ Mạc kiếm được đây. Vũ Mạc bán máu và bao giờ cũng bán nốt mọi thứ phiếu bồi dưỡng.
Vạn vật biến chuyển. Đúng như vậy. Năm năm tù trở về, hắn ngạc
nhiên nhất là bể nước của số nhà hắn ở đã cạn khô. Một cái bể ngầm gần mười khối,
ống chì, lúc nào nước cùng đầy tràn mà nay chẳng còn một giọt. Người bảo tại
cây bạch đàn của ông Tri giồng ngay trên đường ống. Rễ nó vặn vẹo ống chì làm tắc
ống. Rễ nó đâm thủng ống chì và thút nút ở trong ấy. Đó là ý kiến của bà Bượng.
Cũng có thể thế. Dọc từ tường hoa vỉa hè vào đến bể nước, ông Tri, một ông làm ở
viện kiểm sát đã giồng một rặng bạch đàn từ ngày hắn chưa đi tù. Giờ đây những
cây bạch đàn ấy chọc thẳng lên trời xanh. Có lẽ đúng tại dãy bạch đàn ấy thật.
Chứ không làm sao ống nước lại hỏng?
Nhưng ông Tri thì lại bảo tại bà Bượng giồng rau, giồng chuối,
cuốc vào đường ống đặt ngầm dưới đất. Không còn biết đâu mà lần nữa. Chỉ biết rằng
tự nhiên bể nước cạn khô. Cái bể nước khi trước lúc nào cũng đầy, trong vắt.
Không có nước cả xóm phải đi gánh. Ngọc đặt một cái thùng chứa
con con trong bếp, nguyên là thùng đựng đất đèn, quà tặng của Thao và Bình. Nước
thì xách ở ngoài máy công cộng, cũng gần thôi. Khi máy khoá phải đi sang phố
khác, xa hơn. Ngọc trích trong khoản tiền hắn được anh em bạn bè cho, mua một
đôi thùng tôn đen, quét sơn hắc ín. Hắn hai tay hai thùng xách băng băng. Chỉ
có giặt là hơi phiền. Phải mang ra vỉa hè, giặt ngay ở vòi nước. Năm năm đi xa
về, hắn thấy trong số nhà của hắn một thanh niên lạ mặt, da thiết bì, tiếng
oang oang như lệnh vỡ, con rể gia đình ông bà Bượng, công an bên dưới. Anh ta
cũng là công an. Hắn rất sợ chất giọng nam trung sang sảng của anh ta, nhất là
tiếng anh ta quát:
– Trên gác lại giội nước đấy hở? Ai giội đấy?
Hắn giội nước vào cái hố tiểu trên gác. Từ cái hố tiểu ấy, nước
xuống một đường ống đặt sát tường phía trong nhà xí bên dưới. Anh thiếu uý công
an thét làm hắn rụt tay lại.
– Đang ngồi ỉa thì giội nước, bắn hét cả người đây này.
Hắn thò đầu ra cửa sổ xin lỗi:
– Vâng, vâng, tôi không biết.
– Chết thật, các bố…
Bà Bượng, bà mẹ vợ anh thiếu uý thấy cần phải chen vào cuộc đối
thoại:
– ống nó bục đấy, chú ạ.
Thế là lại phải thuê người đục tường, gắn lại cái ống. Hắn
cũng chẳng hiểu tại sao cái ống lại bục, nếu không có người đập.
Hắn sợ nhà ông Bượng. Ông Bượng là công an. Con gái là công
an. Con rể là công an. Nhưng chính ông Bượng lại thông cảm với hắn. Trong một lần
gặp nhau ở cầu rửa, nơi hắn đã nghe lời tuyên bố lịch sử “Hôm nay chúng tôi đến
bắt anh đây”, ông Bượng bảo hắn:
– Tôi đã đọc hồ sơ của chú. Bây giờ chúng nó khốn nạn thế đấy.
Đảng viên cũng còn hại nhau đến nơi.
Ông Bượng làm ở phòng hồ sơ. Hắn nghe ấm cả lòng. Nhưng ông
Bượng chẳng có tác dụng gì ở số nhà này. Mọi công việc, mọi tác động đều ở bà
Bượng. Bà là người ghê gớm. Một cái bóng bao trùm lên tất cả. Bà không biết chữ,
chỉ ở nhà cơm nước. Một công việc vất vả, khó khăn, vì đồng lương của ông có hạn.
Bà phải đảm bảo cho cả gia đình tám người. Sáu đứa con và hai ông bà. Cuộc sống
của gia đình bà cực kỳ eo hẹp. Lũ con bà chưa đứa nào học hết cấp hai. Sáu đứa
con gái. Đứa lớn, xinh đẹp, đứa làm khổ hai ông bà nhiều nhất, cái đứa bây giờ
là vợ anh thiếu uý công an ấy. Nó sống với những bản năng, không ai có thể ngăn
cản được. Bố đánh, mẹ khuyên, nó nghe, nhưng đâu vẫn đóng đấy. Nó đi chơi, cả
ngày lẫn đêm. Có khi nó về nhà, nhưng sợ bố mẹ, định đi nữa. Thương nó nhịn
đói, Ngọc gọi lên, cho nó ăn cơm nguội. ăn xong, nó lại đi.
Có nhiều chàng trai đến nhà ông bà Bượng, nửa như con nhận nửa
như cháu họ xa, ý định lăm le làm rể ông bà. Nhưng rồi chính chàng rể tương lai
lại phải cùng với ông bố đi lùng sục cô con gái cả đêm (có khi cả hắn cũng được
ông Bượng huy động vào việc ấy)
Dáng người thon thả, eo nhỏ ngực nở, da trắng, má non bễu, mắt
đen long lanh, nó có vẻ đẹp của tuổi trẻ tuyệt vời, tuổi trẻ không gì sánh được.
Bây giờ hẳn ông bà đã yên tâm về nó. Cả nhà chỉ có cô gái lớn
ấy ít nói. Ông Bượng cũng đã xin cho nó làm công an.
Còn năm cô gái sau, cô nào cũng học được tính chua ngoa của
bà. Mẹ con bà chỉ chua ngoa với những người dám chống lại bà thôi. Chứ với hắn
thì không. Hắn và Ngọc vốn biết điều. Tránh mọi va chạm. Có miếng ăn cũng ý tứ,
biết kín đáo. Hắn không nấu ở bếp chung dưới nhà. Bếp của hắn là cái lò sưởi,
ngay trong buồng. Hắn vừa nấu vừa viết, nói chuyện với Bình: cùng với Ngọc tiếp
Phượng. Sau này hắn nấu trong cái xép đựng rượu của Tây ngay trên gác. Lũ trẻ
đã lớn, phải nấu nồi to, lò sưởi bị chật. Thi thoảng Ngọc lại cho lũ trẻ nhà bà
quả chuối, quả ổi… Nhiều tối bà lên gác chuyện với Ngọc về cuộc đời gian lao của
bà, vất vả từ bé, gánh vã, buôn rau, đánh nhau với cảnh binh… Bà còn dạy lũ trẻ
nhà hắn một bài hát chơi đi trốn đi tìm. Cả nhà nhập tâm ngay vì nó rất lạ: Xi
bà loong toong cà. Xi bà các tùng bê. A lê đi ra. Búp-bê đi ra. Con kiến đi ra.
Con ma bắn bùm. Cào cào bám đít. Bọ xít thối tai. Mời anh đi ra!
Công bằng mà nói, bà cũng có vài tác dụng tích cực trong cuộc
sống của số nhà đông hộ này: Như sáng chủ nhật, đôn đốc vệ sinh. Chỉ đích danh
những người đi ỉa mà không chịu giội nước (hệ thống giật nước thời Tây để lại
không dùng nữa, vì không có máy bơm, bơm lên bể trên sân thượng). Tiếng bà sang
sảng, như tiếng anh con rể, cả khi dạy dỗ con cái, nói cạnh nói khoé, hay chửi
nhau tay đôi. Hắn trước đây chỉ nghiên cứu bà một cách không tự giác, theo cái
vô thức của người viết, mà không bao giờ nghĩ rằng sẽ có lúc viết về bà, vì điều
đó sẽ là bôi đen chế độ, bịa ra những nhân vật xa lạ với hiện thực.
Giờ đây hắn sợ bà. Như sợ ông an, nh sợ những người cần phải
sợ, phải giữ gìn cẩn thận.
Ngoài một hộ độc thân, một công nhân lái cần cẩu chân đế ở cảng
đi làm ca kíp như một cái bóng, dưới nhà có ba gia đình, và cả ba gia đình luôn
bất hoà, luôn cãi nhau. Hắn cũng chẳng nhớ được vì sao họ cãi nhau. Có thể vì
con ngan của bà Tri ỉa một bãi ngay cửa nhà bà Bượng. Hay vì nấu chung bếp, nắm
mùn bị mất. Vì nồi cá đang kho bị vẹt di. Vì mùi xào nấu của một nhà nào đấy
thơm quá. Hình thành một thế chân vạc. Như Ngụy, Thục, Ngô. Khi Nguỵ, Thục liên
kết. Khi Thục, Ngô liên kết. Khi Ngụy, Ngô cùng chống Thục. Nhưng bà Bượng dù
có liên minh hay không, bao giờ cũng vững như bàn thạch.
Cái nhà ở gần bể nước, nhà ông Tăng, cán bộ liên hiệp xã, một
gia đình thuộc loại có máu mặt, thế đang lên (cán bộ thủ công nghiệp cả một khu
phố cơ mà) cũng đã tưởng có thể coi thường bà như coi thường những người khác,
như coi thường hắn. Và ông ta đã phải nhận một bài học. Một bài học nhớ đời.
Ông Tăng là người chiếm đất làm căn nhà đầu tiên ở khu vườn
mênh mông của cái biẹt thự này. Ngôi nhà xinh xinh gần hai mươi mét vuông thôi.
Ông chẳng nói với ai, nhưng phải nói với bà Bượng, vì bà giồng ở đó mấy khóm
chuối. Ông Tăng phải đền tiền và chị chị em em ngọt xớt với bà. Rõ ràng cái nhà
ấy làm được là do của đút lót.
Thế, một người quen hắn, viết lách tạm tạm cũng muốn đi vào sự
nghiệp văn chương, sau phát hiện ra mình nhầm lẫn, bèn chuyển hẳn sang làm nhựa,
một ngành nghề mới mẻ, dễ phất. Thế đã biếu ông Tăng toàn bộ chỗ ngói lợp, lại
còn thuê xe bò chở đến tận nhà cho ông. Mỗi người, mỗi tổ hợp tác lo một tý.
Còn bao nhiêu người làm thủ công khác nữa.
Dạo ấy Thế bắt đầu giàu. Từ một máy đùn nhựa, Thế dựng thêm một
máy đùn nữa. Chuyên sản xuất guốc nhựa, dép nhựa. Thế có một bọn lau nhau làm
thuê. Hắn ngỏ ý xin làm ở chỗ Thế, nửa đùa, nửa thật:
– Mình với cậu đều đã học Mác. Hiện nay mình đang không có ai
bóc lột. Cậu bóc lột mình đi.
Nói có vẻ đùa thế thôi, chứ trong bụng hắn rất muốn Thế nhận
lời. Giá Thế thuê hắn. Giá Thế bóc lột hắn. Sung sướng biết bao. Nhưng Thế bảo:
“Thợ thừa rồi”. Chỉ có điên mới nhận một người bạn hơn tuổi, vốn là bậc đàn anh
vào làm công cho mình. Thế không điên. Dạo ấy Thế đã biết phải tránh những người
nào và giao dịch với những người nào. Ông Tăng là một nhân vật quan trọng, phải
mời đi ăn, phải nhớ những ngày rằm tháng Tám mà đem bánh nướng bánh dẻo đến, Tết
phải có gà thiến, gạo nếp (dạo ấy chưa sính rượu ngoại, thuốc lá ba số biếu
ông…
Nhà ông Tăng lúc nào cũng đông người lui tới.
Sau khi xây nhà xong, ông Tăng tổ chức gả chồng cho con gái.
Khách khứa nườm nượp. Xe đạp chật vườn. Mượn cả nhà cô đồng hồ trên gác để
khách lên ăn uống. Ông mời tất cả hàng xóm. Trừ nhà hắn.
Pháo nổ mù mịt. Thuốc lá thơm lừng. Giày bóng loáng lên xuống
thang rầm rập. Ông Tăng đưa đón khách, luôn miệng cám ơn. Khách say sưa. Cười
ha hả. Nói to tát. Ông Tăng nhận tiền mừng. Toàn những món sụ. Những dân thủ
công coi dây là dịp may để lấy lòng ông Tăng. Những cán bộ khu phố, thành phố,
công an, những bạn nhậu với ông, những hàng chức sắc, hái ra tiền…
Hắn đóng chặt cửa. ở trong nhà, hút thuốc lào khan. Cảm thấy
nhục. Hắn và vợ con hắn không thể quên được nỗi nhục trong ngày hôm đó.
Cũng như hắn không thể quên được sáng hôm sau. Cả nhà ông Bượng,
nói đúng hơn là bà Bượng, các cô con gái và anh con rể là người đàn ông duy nhất
trong số đó, khiêng cái chuồng gà to, lợp lá từ phía trong chạy ra. Người
khiêng, người đỡ mái, đỡ cột cho nó khỏi đổ, vừa chạy, vừa í ới “hai ba nào”,
“đỡ đỡ cái cửa… “và đặt ngay cạnh căn nhà mới xây của ông Tăng, nơi cô dâu chú
rể còn đang thiêm thiếp. Đó là một hình thức khẳng định chủ quyền đất đai, vùng
biên giới”.
Bà Bượng giồng chuối, rau dền, rau cải, dây khoai lang ở mọi
chỗ. Phải đến vài trăm mét vuông. Ông Tri chiém được một ô con và trồng một dãy
bạch đàn sát tường. Về sau ông còn quây sân lại. Bà Bượng đã nhiều đất. Bà đành
phải nhìn phần đất ngon lành rơi vào tay người khác. Mọi người đều ghét bà Bượng.
Ghét nhưng sợ. Đã có nhiều cuộc vùng lên chống lại bà, nhưng đều thất bại. Bà kể
vanh vách những chuyện trong gia đình người khác. Bà lôi cả danh hiệu đảng viên
của ông bà Tri ra chửi.
Bà chửi ông Tăng. Chửi hiện đại. Bà không dùng những câu kinh
điển, chửi thằng rải chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế nhà
mày. Hay con gà nhà bà là con gà, về nhà mày nó là con hùm tinh đỏ mỏ.
Bà có cách chửi của bà. Vừa hiện đại vừa mang tính thời sự
nóng bỏng. Bọn sâu mọt. Bọn đục khoét. Bọn ăn đút lót. Bọn khốn nạn rồi sẽ bị
truy tố. Tưởng rằng vơ vét được mà khinh bà ư? Bà nghèo, nhưng bà trong sạch.
Xã hội chủ nghĩa mà khốn nạn (ôi! Hắn chưa bao giờ nói nàng bậy bạ như vậy mà
đã vào tù rồi. Có lẽ vì hắn là người có học. Làm sao có bọn khốn nạn trong xã hội
xã hội chủ nghĩa được).
Trong đầu ỏc đã mụ mị đi của hắn vẫn còn văng vẳng tiếng chửi
của bà. Có lẽ vì nó đã làm hắn vui lên một chút trong những năm tháng cùng cực ấy.
– Cha tiên nhân nhà mày. Bà giồng hai cây chuối ở đây thì có
động mồ động mả nhà mày không, mà mày xui con xui bố mày ra vặn cho nó chết.
Cái cây nó có tội tình gì. Thằng cha mà bẻ cây chuối của bà thì cũng như vặn cổ
thằng con. Thằng con vặn cây chuối của bà thì cũng như vặn cổ thằng cha nhà
chúng mày. Bà ở nhà, không có việc làm thì bà giồng cây chuối để cho con bà
thêm miếng ăn, mà có bao giờ bà ăn một mình bà đâu. Đất của nhà nước bà giồng.
Đến khi nào chính phủ đòi thì bà giả. Có phải đất từ đường hương hỏa nhà mày
không, mà mày làm như vậy. Cứ bảo làm sao lắm mồm. ở với cái quân khốn nạn thế
làm sao mà không nói được. Nó lại bảo như ở đây bao nhiêu năm, ai thế nào thì
người ta biết. Bà báo cho thằng già, thằng trẻ, con trai, con gái nhà mày biết,
bà không ăn cắp, không ăn hối lộ của ai, bà làm còm cọm bà nuôi con, hai cây
chuối này mà chết thì bà bắc ghế chửi ba tháng mười ngày. Bà nói trước cho mà
biết. Sáng ra bà chưa súc mồm súc miệng bà đã chửi cho nó độc. Chửi đủ ba tháng
mười ngày. Ai lại cái cây như. thế mà nó làm chết, có khác gì Mỹ – Thiệu không”
Hôm nay là ngày mồng bốn tháng sáu năm Bính Thìn . Tao còn chửi đủ ba tháng mười
ngày. Sáng ra chưa súc mồm súc miệng tao chửi một chập. Trưa tao chửi một chập.
Tối về tao chửi một chập. Thằng già bẻ của tao là nó bẻ cổ con, cổ cái nó, thằng
trẻ bẻ của tao là nó bẻ cổ cha nhà nó. Tao nghèo, tao tăng gia tao ăn. Bác Hồ dạy
như thế tao làm. Tao không ăn hối lộ. Tao không bòn rút mà chúng nó phải ghen
ghét.
Bà thực hiện đúng những lời mà có lẽ trong lúc hăng lên, ngẫu
hứng bà tuyên bố. Chửi liền ba tháng mười ngày. Sáng ra chưa súc mồm, súc miệng
đã chửi cho nó độc. Nhưng bà chỉ chửi có một chập buổi sáng, bớt đi hai chập
trưa và tối. Bà không chửi đứng. Bà xách cái ghế đẩu ra, ngồi cho nó đàng
hoàng. Có lẽ bà nghĩ thế cũng đủ vì buổi sớm mai bao giờ cũng là quan trọng nhất.
Chửi vào buổi sớm mai lời rủa của bà sẽ ám suốt cả một ngày.
Sáng sớm từ trên giường xuống bà đã xách chiếc ghế đẩu ra ngồi
chỗ gần cửa sổ nhà ông Tăng, bắt đầu những lời kể tội và những câu nguyền rủa:
– Cha tổ thằng chồng không biết dạy con vợ, con vợ không biết
dạy thằng chồng. Thằng con không biết bảo thằng bố. Thằng bố không biết bảo thằng
con. Nhân dân lao động còn khổ vì chúng mày. Bao nhiêu chiến sỹ hy sinh ở Trường
Sơn để chúng mày như thế à? ăn ngập mồm ngập miệng. Bòn rút của nhân dân. Dân
chủ mà lại khốn nạn.
Cả nhà hắn nín thở lắng nghe, không dám gây ra một tiếng động
mạnh, không dám thò đầu ra cửa sổ lấy khăn mặt, không dám xuống nhà đánh răng rửa
mặt, nhịn cả ỉa vì sợ bà trông thấy, bà lôi vào cuộc. Trong xà lim hắn phải luyện
mãi mới có thói quen đi đồng buổi sáng trước khi đổ bô để đỡ mùi hôi thối ướp
vào xà lim, vào người, vào nội vụ. Trong đợt ba tháng mười ngày này hắn đã điều
chỉnh ngay tắp lự thói quen ấy vào buổi chiều. Chả cứ gì hắn. Cả số nhà lúc ấy
đều lặng ngắt như tờ, như còn đang ngủ mê ngủ mệt.
– Cha tiên nhân thằng già thằng trẻ nhà mày. Bà nghèo bà lao
động nuôi con nuôi cái bà. Bà không ăn hối lộ. Mày như con bọ hung thấy đống
phân là rúc vào. Nào. Cả nhà ra đây xem cây chuối này bị bẻ hay là nắng nó chết.
Bà giồng mày bẻ thì bà phải chửi. Mày không bẻ thì làm gì mày động lòng. Mày ăn
hết cả phần phúc đức của bố mẹ mày. Mở miệng thì toàn là cách mạng đạo đức, mà
việc làm là bòn rút hại người. Tuần rằm nào cũng hương khói nguyện cầu, mà lòng
dạ mày toàn rong rêu. Hay là bà giồng ở đây là giồng vào mả tổ mẫ tiên mả cụ mả
kỵ nhà mày. Thì mày cũng bảo với bà một câu. Rằng đây là mả tổ nhà tôi…
Liền ba tháng mười ngày như vậy. Mỗi ngày được tái bản, câu
chửi đều có bổ sung và phát triển. Sáng sớm, chửi liền nửa tiếng xong bà về.
Rót nước súc miệng. (Bà không đánh răng. Chỉ súc miệng). Gọi con cái bằng một
giọng khác hẳn, “Hà ơi”. “Loan ơi”. “Dậy. Dậy”. Rồi ra quét sân. Giục lũ con ăn
cơm nguội đi học. Bình thường như đã quên hẳn chuyện chửi nhau. Chủ nhật bà đi
người không. Không cầm ghế. Bà đủng đỉnh lẹp kẹp đến chỗ bà vẫn đến, chõ vào cửa
sổ nhà ông Tăng, dõng dạc tuyên bố..
– Hôm nay ngày 14 tháng 6 năm Bính Thìn, chủ nhật. Bà nghỉ.
Rồi lẹp kẹp đi vào. Hắn chỉ chờ tiếng dép ấy để sinh hoạt trở
lại bình thường, chấm dứt cảnh nín thở toạ sơn quan hổ đấu.
Có một lần Bình sang nhà hắn sớm vì một việc gì đó đúng vào
thời gian bách nhật, Bình đã nghe thấy bà Bượng chửi. Bình cười:
– ái chà. Lại chửi cả làng Vũ Đại.
Hắn phải giơ tay ra hiệu cho Bình nói khẽ. Bình thì thào:
– Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: Chắc nó chừa mình ra.
Và Bình đánh giá tương quan lực lượng nếu Bình thi đấu với bà
Bượng. Anh nói chỉ vừa đủ nghe:
– Tao thua. Tao hàng. Tiết mục “ngày hôm nay mười bốn tháng
sáu năm Bính Thìn, chủ nhật, bà nghỉ” thì vô địch rồi. Võ sĩ hạng nặng. Poids
lourd. Mình chỉ loại ruồi thôi. Địch sao được.
Nhà hắn bây giờ chỉ còn Bình lui tới. Đúng thôi. Không phải
người ta sợ đâu mà vì hình như tất cả đều đã đọc Nítsơ: “Thật khủng khiếp khi
nhìn thấy kẻ không mang gánh nặng nào khác ngoài sự bất công họ phải chịu”. Hắn
nhếch mép cười khi nhớ lại những ngày rầm rập bạn bè. Bao nhiêu người đến với hắn.
Người ta đến vì hắn là một người đang nổi lên. Đến với hắn, để
nhờ hắn đọc cho một truyện ngắn. Để hắn giới thiệu với một người bạn hắn ở nhà
xuất bản. Đến với hắn để có thể nhìn thấy Nguyên Hồng đang nằm phe phẩy cái quạt
nan, hoặc uống rượu với lạc rang ở sàn nhà hắn. Để có thể nói với cô bạn gái mới
quen rằng đã gặp Quang Dũng đang ngồi vẽ ở cửa sổ nhà hắn. Để có những thông
báo dí dỏm, nhưng chính xác và nhất là độc đáo về lớp viết văn trẻ…
Nghĩa là đến nhà hắn để được kích thích làm việc, được sống
trong không khí văn chương và lấp lánh đồ trang sức làm bằng văn nghệ. Trong số
những người thành thật quý mến, tin tưởng và phục tài năng của hắn, có một
thông tin viên trạc tuổi hắn. Đó là một người bạn tốt, trăn trở với nghề viết
và đang hoàn thành một tập truyện ngắn. Nhiều chủ nhật, hai người ngồi với
nhau, kể cho nhau nghe những dự định, những chi tiết…
Khi hắn về đã được vài tháng, nghĩa là chuyện được tha của hắn
không còn là thời sự nữa và những người hăng hái, sĩ diện cao nhất, đều đã đến
thăm hắn một lần lấy lệ để sau đó có chạm trán ngoài đường cũng giả cách không
trông thấy, hắn gặp anh thông tin viên ham viết lách, quý mến hắn, đang sửa đồng
hồ ở cửa hàng cô đồng hồ đầu ngõ. Lúc ấy anh ta đang đứng ở một tư thế làm hai
người nhìn thẳng vào nhau. Anh ta luống cuống:
– Tuấn! Về bao giờ?
Và giơ tay định bắt tay hắn.
Hắn nhếch mép, nhìn anh ta, khinh bỉ và hét lên:
– Vâng! Chào anh!
Anh thanh niên càng luống cuống hơn:
– Sao? Khoẻ chứ? Mình không biết cậu về…
Hắn nhắc lại câu nói với đầy đủ sắc độ như người bật lại máy
ghi âm:
– Vâng! Chào anh!
Và hắn đi lên gác. Hắn cảm thấy nghẹt thở. Cái câu chào như
chửi vào mặt người ta ấy hắn không chỉ nói với anh ta. Đó là những gì dồn nén lại
trong lòng hắn đối với cuộc sống tráo trở và bẩn thỉu. Là sự lợm giọng đối với
chất người sa sút mà anh thông tin viên kia chỉ là đại diện.
Bình là những gì tốt đẹp nhất cuộc đời vẫn dành cho hắn. Bè bạn
có ai lên thăm hắn, ngoài Bình. Hắn chuyển trại nào, Bình lên trại ấy trong
hoàn cảnh chính Bình cũng đang khốn nạn. Điều đó là khiêu khích nền chuyên
chính. Là thách thức về lập trường quan điểm. Là coi thường nguyên tắc. Là đem
sinh mạng chính trị của chính mình ra đùa cợt. Là một cách lên án đám đông bè bạn.
v. v… và v. v…
ở thành phố này hắn vẫn còn một nơi để đến: Nhà Bình. Sau này
khi Bình đã chuyển về Hà Nội, hắn hiểu được cái khủng khiếp có thật của nhân vật
trong Đostoiepski khi con người không có nơi nào để đi đến nữa. Không có ai để
than thở về nỗi khủng khiếp ấy, hắn lại lẩm bẩm một mình như gần đây hắn hay lẩm
bẩm một mình:
– Không còn nơi nào để đến thì khủng khiếp thật! Không ai hiểu
được điều ấy đâu.
Hắn lắc đầu khiến Ngọc ngơ ngác nhìn hắn. Ngọc xót xa thấy rõ
con đường hắn đang đi, cái đích hắn sẽ đến. Nàng đau khổ hiểu rằng: Cả hắn, cả
nàng không có cách gì thoát khỏi cái mà cuộc đời đã dành cho hai người. Nàng
thương chồng, nàng thương nàng. Nàng cam chịu. Nàng tìm nguồn an ủi ở những nơi
thờ cúng, ở khói hương…
Nàng lập bàn thờ ở nhà. Và nàng đi lễ…
Chương 42
Không ai hiểu được như hắn về nỗi mệt mỏi, ê ẩm của sự không
được làm việc. Đó chính là tra tấn. Cứ lờ vờ, chờ đợi. Nhen lên trong mình hi vọng.
Rồi lại tự mình gạt đi. Xác nhận hiện tại đáng buồn. Rồi sống bằng thì tương
lai. Temps futur. Je vivrai. Tu vivras. Il vivra. Như hắn đã học ngày xưa. Cái
temps présent của hắn bao giờ cũng u ám. Điều sung sướng trong thì hiện tại của
hắn là được nghĩ đến thì tương lai. Không ai cấm được hắn mơ mộng. Cũng như
không ai cấm được hắn nhớ lại những thầy giáo Thứ , những nhân vật của Nguyên Hồng,
thất nghiệp, đi rạc cả cẳng xin việc mà không để mất đi trong lòng mình tia hi
vọng cuối cùng.
Dần, anh lái xe kẹp chết người được giảm án ba tháng nên đã
được về, cho hắn cái mỏ hàn điện có buộc vào đầu một mảnh đồng làm dụng cụ dán
túi ni-lông. Bí quyết dán túi ni-lông là: Đặt tờ giấy bóng kính đè lên túi nhựa,
ở giữa đệm một miếng vải mỏng. Miết miếng đồng nóng lên trên giấy bóng là được.
Nhiệt phải vừa đủ. Thiếu nhiệt túi sẽ bị bong. Nóng quá túi cháy quăn lại.
Có cái mỏ hàn của Dần hắn tập dán. Đưa thẳng một nhát, với tốc
độ vừa phải. Nhanh quá cũng không dính.
Nhưng mỏ hàn truyền nhiệt sang miếng đồng đỏ rất kém. Vì nó
không được hàn liền mà chỉ buộc bằng mấy vòng dây đồng xuyên qua những cái lỗ
phía trên. Dần hứa sẽ xoay cho hắn một mỏ hàn dán túi ni-lông thật sự. Và Dần
đã giữ lời hứa.
Hắn đã đến nhà Dần. Dần cũng chưa biết làm gì. Định đi bốc
vác, nhưng ngại chứng sút lưng sau kỳ nhổ sắn năm nọ ở trại Q. N. Thỉnh thoảng
giờ giời nó vẫn hơi nhoi nhói. Có lẽ đi đạp xích-lô. Hai người ngồi hút thuốc
lào. Vợ Dần đi làm chưa về. Chỉ có hai đứa con quanh quẩn trong nhà. Mà nhà Dần
cũng còn tuềnh toàng lắm. Chưa đâu vào đâu. Cả dãy người ta đều làm lại rồi, chỉ
còn nhà Dần và hai hộ nữa.
Hai người ngồi xa-lông, bộ xa-lông Đức sang trọng hồi đó. Dần
bảo:
– Vừa đóng xong bộ này thì đi Hintơn đấy. Ngồi xa-lông nhìn
vào gầm giường, lủng củng những chậu men, chậu nhôm, phần thưởng của nhà máy sắt
tráng men, nơi vợ Dần “công tác”. Hắn nhìn tấm ảnh đôi trên tường: Dần và vợ Dần
còn rất trẻ… ánh đèn của ông thợ chụp ảnh làm mái tóc hai người có những chỗ trắng
ra, đôi môi của vợ Dần mọng lên hạnh phúc. Dần trong ảnh là một thanh niên bụ bẫm,
có đôi mắt sáng, tin tưởng ở bản thân, ở cuộc sống.
Dần cười:
– ảnh chụp sau khi cưới đấy. Mười năm rồi.
Hắn cầm lấy cái điếu, hút thuốc. Dần hỏi:
– A Tuấn không mang được cái điếu nào về à? Hắn lắc đầu.
Dần vẫn gọi hắn bằng “A”. Là kiểu gọi trong tù. Gọi theo cách
gọi của những người tù dân tộc. A có nghĩa là anh. A Tuấn. A Phủ. A Thềnh. Thềnh
Pác… Hắn chỉ có cái lược. Cái lược hắn giắt trong bụng và đưa cho vợ hắn, khi
còn ở trại Q. N, trong lần được gặp mặt hai bốn tiếng. Khi hắn về vẫn thấy còn,
nhưng rồi không hiểu dứa nào lấy trộm mất. Chắc là lũ trẻ dưới nhà.
Hắn không sưu tầm lược, sưu tầm điếu như Dần. Dần say mê với
những báu vật ấy. Cái điếu của Dần là cái điếu được làm ra với một tâm hồn. Một
quyết tâm đạt tới sự hoàn thiện. Thân điếu là một gióng dùng già đã được chuốt
bóng tới mức không chê vào đâu được. Không một vết xước. Không một vết lồi lõm.
Tuy vẫn có cả hai đầu mặt phía trên, phía dưới, nhưng ở đó là hai vòng nhôm đai
lại sáng bóng. Lại không phải vòng trơn. Nó có hoa văn. Một dây hoa như hoa cúc
nổi ở hai cái đai, kiểu “mình khô hoa ướt”. Và tấm lá đề úp vào chỗ cắm nõ điếu
không phải bằng nhôm đâu nhé. I -nốc chính hiệu dấy. Ngay hình cái lá đề cũng
đã điệu. Không phải hình bầu dục, hình thoi thông thường. Đoạn giữa có những nếp
uốn lượn vì đó là những khúc uốn lượn của hai con rồng, hai con rồng cách điệu,
đuôi rồng quẫy lên phía trên, xoè ra hai bên, và ở phía dưới cái nõ một quãng
cân đối, vừa phải, đầu rồng chụm lại, với những mắt rồng đổ nhựa long lanh, những
vây rồng, những vuốt rồng, những mây, những râu, những răng… dữ dội trên một nền
i-nốc sáng loáng. Cái nõ nữa. Bằng nhôm thôi. Nhưng không tròn như bình thường.
Nó được đúc mặt gồ mâm xôi và có hình ngũ giác.
Vừa trông thấy cái điếu ấy trong tay Ba Đen, Dần đã mê tít. Dần
mân mê ngăm nghía. Giá bốn “biêu” hơi căng. Chưa có cái điếu nào quá ba “biêu”.
Nhưng đến khi thử cái nõ, Dần không suy nghĩ gì nữa. Cái nõ này có thể thay đổi
âm điệu. Khi là “chuột rúc bồ thóc”. Khi là “sơn ca ngang trời”.
Bốn biên. Dần nổi tiếng vì cái điếu. Vì dám bỏ ra bốn biêu
cho Minh Ba Đen lấy cái điếu. (Chác ngay hôm gần tết khi hắn sang toán lâm sản,
gọi già Đô về ăn xôi lạc với Giang.)
Dạo ấy vợ Dần mới lên tắc cho Dần một tút Tam Thanh. Dần đang
rằm. Và những chủ nhật. những ngày nghỉ, để quên đi nỗi nhớ vợ, nhớ con, Dần
đem điếu ra súc, đánh rửa lau bóng từ ống điếu bằng dùng, tới các bộ phận bằng
kim loại. Dần lấy ngón tay cái bịt nõ điếu và móp má hít: không lọt tí hơi nào.
Lỗ khoét ở đốt dùng rất khéo, cắm nõ rất khít. Tuy vậy Dần vẫn xòe các ngón tay
ra, lấy lòng bàn tay ấn ấn, day day vào nõ cho nó khít thêm. Dần lại xùn nước
ra. Rồi Dần đặt chếch vào một bên mép, hít những hơi ngắn. Pơ róp. Pơ róp. Róp.
Róp. Dần xùn nước. Nước trào xuống lá đề uốn cong, ốp vào thân điếu. Dần lại lấy
giẻ lau. Rồi Dần cầm cái lông gà ấn vào nõ. Dần xoay xoay cái lông gà, xoắn nó
kéo nó ra, ấn nó vào…
Và Dần xách cái điếu sáng bóng, tiêu chuẩn hoá ấy đi các
toán, la cà, trò chuyện. Dần hút bằng điếu của Dần. Ai muốn hút Dần cũng cho.
Cú kéo cuối ctìng ở cái điếu ấy nghe thật sướng. Đúng là “hoạ mi ngang trời”.
Giòn tan. Trong lanh lảnh. Trại cũng có từng phong trào, như ta bây giờ gọi là
cơn sốt. Cơn sốt điếu. Ai cũng phải có một cái. Những cuộc triển lã m tự phát về
điếu. Những hội chợ điếu. Đủ các loại. Rồi đến cơn sốt lược. Lược cong. Lược
hình chữ nhật. Lược i-nốc. Lược đuya -ra. Lược nhôm có đổ nhựa v. v…
Phải nói đó là những sản phẩm tuyệt diệu, kết quả của một quá
trình phân công lao động, từ khâu khai thác vật tư, tới khâu thiết kế gia công.
Cuối cùng là khâu lưu thông phân phối. Nghĩa là chác.
Chạy vật tư là các toán tự giác, chủ yếu là các toán chăn
nuôi, lâm sản. Nhôm các loại: vụn, thỏi, lá đều được. Đuya ra dày, mỏng đều được.
Nguyên vật liệu được bí mật đưa vào cho toán quản chế. Có nhiều phương thức
trao đổi nguyên vật liệu: Đặt hàng gia công. Mua đứt, bán đoạn. Bán nguyên liệu,
mua thành phẩm. Trong khu hàng rào vây kín, ba toán quản chế với xưởng may, xưởng
mộc, xưởng rèn kia có đến ba ông áo vàng, ba ông áo xanh đi lại quan sát. Nhưng
mọi việc vẫn cứ diễn ra. Nấu lại, đổ lại nhôm. Cán lại nhôm. Xẻ đuya-ra cho mỏng.
Cưa cắt hình theo thiết kế. Cắt răng lược. Khoan nõ điếu. Đánh bóng. Dũi hoa. Đổ
nhựa trang trí.
Có khi làm giấu các ông công an. Có khi làm ngay trước đôi mắt
tò mò thích thú thèm thuồng của các ông ấy. Nếu các ông ấy cho phép làm là phải
trả giá đấy. Hoặc “làm hộ cái lược, được không?”. Hoặc “làm lại cho cái lá đề
nhé”. (Khi các ông ấy nhờ thì có tiếng được không, tiếng nhé ở cuối câu. Tiếng ấy
làm mình thấy trở lại là người trong chốc lát). Có ông không có đuya-ra những vẫn
phải có lược cho ông áy. Thế là mất cả chì lẫn chài. Có ông đưa một nguyên liệu
lấy một sản phẩm (chỉ mất chài thôi, không mất chì). Tốt lắm thì đưa hai nguyên
liệu lấy một sản phẩm (coi như được trả công đàng hoàng). Lắm khi cả toán còn
được nhờ vào một sản phẩm. Tỷ như nhận một cái lược vừa ý và cảm thấy hài lòng,
cán bộ cho toán tắm lâu hơn một tý. ở đây các ông công an cũng phải theo chế độ
đổi chác nguyên thuỷ. Và hoá ra các ông ấy cũng giống bọn hắn. Cũng lây nhiễm bọn
hắn. Cũng cảm thấy mình đang ở một nơi chốn mịt mù. Cũng nhớ gia đình. Cũng muốn
có một món quà gửi về cho người phương xa. Tuy nhiên bọn hắn đã tổng kết: Cán bộ
áo xanh bao giờ cũng thông cảm với bọn hắn hơn cán bộ áo vàng, tuy không nói ra
miệng. Nhưng đâu cứ phải nói thành lời. Chỉ nhìn kiểu ngồi ôm súng dài dưới gốc
cây của ông áo xanh suốt thời gian bọn hắn lao động, cách phẩy tay của các ông.
ấy khi bọn hắn khúm núm lễ phép đến báo cáo đi ỉa và cặp mắt vời vợi của cán bộ
áo xanh là bọn hắn hiểu các ông ấy chẳng thú vị gì sống ở cái lòng chảo này. Có
ông còn nói hẳn với phạm nhân:.
– Tôi có khác các anh là mấy đâu.
Bởi thế nên các ông áo xanh rất thích làm lược, không nhờ làm
điếu, làm lồng chim như các ông áo vàng. Làm lược gửi về cho người mình thương
nhớ là vấn đề tình cảm. Làm lồng chim, làm điếu đã thuộc phạm trù hưởng thụ rồi.
Trong khu tù quản chế lao động có đủ dụng cụ. Cưa. Giũa. Lò.
Bễ. Khuôn đúc. Khoan. Và những cái dũi chuyên dùng. Đó là dụng cụ để khắc vào
nhôm, vào đuya-ra, to hơn que diêm, dài hai mươi phân, một đầu bẹt và sắc, làm
bằng thép cứng. Cầm cái dũi ấy nghệ nhân tỳ ấn xuống, chuyển trọng tâm sang
trái, rồi sang bên phải dũi. Mặt miếng kim loại đã được đánh bóng bị bóc lên
thành những đường gờn gợn và những hình vẽ nổi lên. Nếu là đuya-ra thì phải lấy
hết sức dồn xuơng dũi. Đuya-ra cứng như thép. Nhưng dù nhôm, đuya-ra hay i-nốc,
cái dũi thể hiện được tất cả. Từ một mặt hồ với con thiên nga đang bơi. Một cây
trúc quân tử. Hay một cánh cò cô đơn lặng lẽ bay về phía mặt trời lặn.
Nội quy trại tạm giam hay trại cải tạo nào cũng có câu: “Cấm
mua bán đổi chác!” nhưng không ở đâu thực hiện được điều đó. Vì nó trái tự
nhiên. Dù ở trại tù, nhưng trái tự nhiên cũng vân không thực hiện được. Trong
cơn sốt lược, cơn sốt điếu, trại như một xã hội đặc biệt có phân công. Anh em
quản chế, cánh đói nhất, nay là lực lượng sản xuất quyết định, cũng cải thiện
được vị trí về cả chính trị lẫn kinh tế. Được coi trọng, được săn đón, được no.
Có sữa. Có thuốc. Có chè. Có cả rau.
Giang vào loại nghệ nhân điêu luyện. Giang làm cho hắn cái lược,
do một anh tù án hai năm, vẽ mẫu. Anh này cũng ở toán quản chế, chuyên vẽ các
loại điếu, lược, lồng chim, hộp thuốc lá, là người vẽ mẫu đẹp nhất trong những
người vẽ mẫu của các “tờ-rớt” công nghệ.
Hắn quý anh ta vì anh ta vẽ cho hắn một cái mẫu tuyệt vời. Nắm
lược là một con sư tử phực trước một quyển sách để mở, một cây nến đang cháy,
sáp chảy thành một đường viền gồ ghề cuối chỗ tay cầm. Lược thẳng, tạo dáng khoẻ.
Phải hiểu hắn lắm mới vẽ được mẫu ấy.
Giang đã chác được một miếng đuya-ra to bằng hai cái quạt. Của
Cương bên toán lâm sản, người sĩ quan Đà Lạt có hai má hóp giống sọ đầu lâu
trên bảng “Nguy hiểm chết người”. Cương đã bồng về buồng lâm sản. Cuộc mặc cả
diễn ra đơn giản. Cương bảo Giang: “Tuỳ mày, giả anh bao nhiêu thì giả. Ai chứ
mày, anh không nghĩ ngợi gì”. Cương vốn là người thoải mái, phóng khoáng, lại
có cảm tình với hội của hắn và Giang. Giang chỉ hỏi: “Anh thích gì? Ken hay
chè?”. “Ken. Thích ken. Thèm lắm rồi!”. Giang đưa Cương ba bao Tam Thanh, một
bao Nhị Thanh. Trả như vậy là phẫi chăng. Không rẻ, không đắt. Dạo ấy Giang nhiều
thuốc. Thuốc chác được, không nghiện, nhưng cũng phì phèo. Có ken là có tất cả.
Nếu chè là dollar thì ken là sterling hay mark. Giang đã đưa được mảnh đuya-ra
từ buồng lâm sản về buồng toán mộc. Giang bảo hắn: “Em đánh gập nó để quấn được
vào người. Mảnh đuya-ra dày lắm. Hình như là một miếng cánh máy bay. Mai em bồng
ra chỗ làm. Lúc uốn nhiều thằng biết quá. Em chỉ sợ có thằng bẩm, bị thu mất
thì “điếng”.
Bồng vào. Bồng ra. Thật đến khổ. Rồi cưa. Mảnh đuya-ra quá
dày. Phải bóc vát đi. Chỗ bóc ấy cũng làm được một cái lược nữa. Tóm lại toàn
những việc cần đến sự kiên nhẫn của những người tù khổ sai. Thật may, chính họ
là những người như thế. “Mảnh máy bay ấy quá rắn. Gia công cực khó”. “Em cắt
xong rồi. Giũa cứ lỳ ra. Trời, chỗ mấy giọt sáp làm mới chết người chứ. Mai em
đánh bóng, rồi cưa răng”. “Em đánh bóng rồi. Hết hai tờ giấy nháp. Tưởng đánh
bóng nhanh, hoá ra lâu quá. Chưa cưa được. Cưa xong còn phải đánh lại. Bóng lắm.
Soi gương được. Đẹp lắm. Đuya-ra sáng chói mắt”. “Em cưa rồi. Đuya-ra vừa rắn vừa
giòn. Phải cẩn thận từng tý một. Gãy một răng là thôi đấy. Thay mấy lưỡi cưa.
Em chác một nửa miếng to cho thằng. Lập ba-tai rồi. Con ấy thích lắm. Coi như
chỉ mất một biêu mà được nửa mảnh”. “Em chưa thấy cái lược nào như thế. Đánh
bóng lại rồi. Công nhận hắn Ninh hắn ấy vẽ cho anh cái mẫu mô-đen thật đấy. Em
đã định mô-đi-phê khắc một dây hoa chìm dọc sống lược, nhưng lại thôi. Để trơn
đẹp hơn”.
Suốt một tuần, cứ chiều chiều đi làm về trại hai anh em gạp
nhau trước lúc khoá buồng, Giang lại thông báo cho hắn diễn biến của quá trình
làm lược, mà chẳng thấy lược đâu.
Cho đến một hôm Giang bảo:
– Còn đổ nhựa nữa là xong. Em phải kiếm bằng được cái nhựa
màu đỏ tươi này đổ vào mắt con sư tử. Anh xem màu nào đẹp?.
Giang chìa ra một mẩu cán bàn chải đánh răng và một cái cúc
áo nhựa bé xíu chắc là ở một cái áo hoa trẻ con nào, như áo con Thương, con
Nguyệt nhà hắn. Cũng màu đỏ tuy sắc độ có chênh nhau một tý. Hôm Giang hẹn sẽ
mang lược về, gặp Giang sau buổi làm chiều, mỗi người một hàng trước cổng trại,
trước mặt ông Quân, hắn nhìn Giang dò hỏi, nhưng Giang như không nom thấy hắn.
Hay có trục trặc gì. Cho đến khi vào trại, lấy nước xong, Giang mới sang, bám
sàn nhảy lên chỗ hắn:
– Pít-xơ-mô!
Đó là lời chào của Giang trong những lúc phấn khởi. Kể cả
chào gặp gỡ, chào từ biệt. Nó còn là lời dặn bí mật nữa. Thực ra pixmô theo tiếng
Nga có nghĩa là bức thư, nhưng Giang dùng với nghĩa như vậy Giang nằm sấp xuống
cạnh hắn, quay đầu ra cửa sổ. Chỗ ấy nhìn ra bờ rào cao, không ai đi lại. Chỉ
sáng sáng có con chim báo bình minh kêu lên như tiếng lợn bị chọc tiết vút qua
phía ngoài hàng rào thôi. Giang rút từ bụng ra cái lược. Hắn hoa mắt trước miếng
kim loại đã được gia công sáng loá ấy. Và vồ lấy. Dày. Nặng. Như một thứ hàng mỹ
nghệ đẹp nhất. Không ai có thể chê nó một điều gì. Đạt tới trình độ tuyệt mỹ.
Còn hơn cả hàng mỹ nghệ. Đó là một tác phẩm nghệ thuật. Cái bản vẽ trên giấy
không thể so sánh được với tác phẩm của Giang. Nó sống. Nó có hồn. Có chiều
sâu. Có ánh lửa của ngọn nến. Có bóng tối mà con mắt đỏ độc nhất của con sư tử
dữ dội và buồn rầu nhìn vào đăm đăm bất động. Phần sống lược dày trên mức bình
thường, không uốn cong mà thẳng như một đường kẻ. Bóng. Bóng lừ. Bóng đến mức
không tin được. Càng về phía đầu răng càng mỏng đi. Những chiếc răng đều tăm tắp.
Hắn gại thử răng lược. Kêu như chuông ngân nga. Già Đô cũng phải trầm trồ, xuýt
xoa. Giang bảo:
– Phải làm giấu. Sợ mấy ông quản giáo thấy, xin. Không cho, họ
tịch thu. Làm gì được họ. Anh chải thử xem răng có nhọn quá không. Có đau
không? Không hở? Làm lược khó nhất là cái ấy. ăn da đầu, nhưng lại không đau.
Báu vật ấy hắn không dùng. Hắn cho vào đáy hòm. Sợ quản giáo
biết, các ông ấy tịch thu. Sợ mất cắp. Sợ không gửi ra được cho Ngọc. Cái lược,
cái điếu, quả là đẹp, dường như là tất cả cuộc sống của những người tù, được
làm ra bằng lòng kiên nhẫn, ý chí, tình cảm và đôi tay của những nghệ nhân ra đến
ngoài đời có thể trở thành lạc lõng, hoạc ít ra nó không hiểu được đúng mức. ít
người hiểu được những gì người tù gửi gắm vào trong đó. Như cái điếu của Dần.
Như cái lược của hắn.
Khi về nhà, nhìn thấy cái lược ấy, hắn như gặp lại người bạn
cũ. Ngọc, con Thương vẫn dùng. Chải xong để trên nóc tủ, cái tủ nửa tủ nửa quan
tài. Thế mà bỗng nhiên không cánh mà bay. Có thể những lần mẹ con xuống nhà gội
đầu, nhà dưới họ biết. Hắn nghĩ đến lũ con gái ông Bượng. Chuyên ăn cắp guốc,
dép..
Mất cái lược, hắn tiếc ngẩn ngơ. Cho đến hôm Giang về, Giang
hỏi hắn:
– Cái lược còn không anh?
Giang cũng buồn khi biết cái lược Giang làm để hắn gửi về cho
Ngọc đã mất.
Giang về, đến thăm hắn không chỉ một mình. Giang đi với bà
Phê Đô Thớt. Hắn đang lúi húi dán túi, thì Giang hiện ra ở cửa, kêu to:
– Pít-xơ-mô!
Hắn vứt mỏ hàn, chạy ra. Hai anh em ôm chầm lấy nhau. Một cô
gái trẻ đứng nép ngoài cửa, lí nhí “Em chào anh”. Giang bảo: “Bà Phê Đô Thớt đấy”.
Rồi Giang cười sung sướng, dụi dụi đầu vào vai hắn.
Không. Lúc này hắn không quan tâm đến bà Phê Đô Thớt. Hắn
không quan tâm đến một ai. Hắn chỉ biết một người bạn thân thiết quý mến của hắn
vừa thoát khỏi tù ngục. Vừa trở về với cuộc sống con người. Một người bạn nhỏ,
nhưng đau khổ lớn lao, sánh ngang với những người đau khổ nhất trên cuộc đời
này. Một người bạn sinh ra để đau khổ. Để đi tù. Đi tù từ bé. Một người sa ngã
đáng thương xót, khiến mỗi người phải tự hỏi mình đã làm gì cho những người như
vậy vợi bớt khổ đau. Mình có trách nhiệm gì với sự đau khổ ấy. Một người bạn mà
nhân cách sống trong tù thật đáng kính trọng. Đã cùng nhau chia sẻ đến giọt tận
khổ cuối cùng. Và đã cùng nhau thoát nạn.
– Về bao giờ?
– Em về hôm qua. Cứ tưởng anh chưa được về.
– Anh về mấy tháng rồi!
– Bọn bọp ở Q. N, cả số chẵn, số lẻ đã ai được về đâu. Em tưởng
đến đây gặp chị. Hoá ra gặp anh.
Giang cười sung sướng.
Đến lúc ấy hắn mới để ý đến bà Phê Đô Thớt. Hắn không ngờ bà
Phê Đô Thớt đẹp thế. Như trong mơ. Cao vừa phải. Nở nang. Da trắng mịn. Trong
tù Giang đã đưa cho hắn xem ảnh cô gái này. Cái hình cắt ra từ tấm ảnh chụp
chung nào đó. Bé xíu. Chỉ thấy một khuôn mặt đầy đặn đang cười giữa một làn tóc
xoã.
Len – tên thật của cô gái – chuyện với hắn như với một người
trong nhà. (Hẳn là Giang đã nói về hắn với Len). Hắn hơi ái ngại cho Len. Vì
khuôn mặt cô phúc hậu, đầy đặn và xinh đẹp. Đó là khuôn mặt của những người xứng
đáng được hưởng hạnh phúc, yên ổn. Mà Giang thì sóng gió. Giang hồ. Dữ dội. Và
cho đến bây giờ vẫn hoàn toàn là con số âm. Rồi hắn lại mong Len, chính Len,
chính nhờ có len mà số phận Giang sẽ được đổi khác. Trong tù hắn đã nghe bao
chuyện Giang kể. Giang không giấu hắn những chuyện chơi bời. Giang sống rất bụi.
Có biết điều gì Giang chưa trải qua. ăn cắp. ăn trộm. Đánh nhau. Cở bạc. Trai
gái. Có lần Giang ghé sát tai hắn, thì thầm, mặt đỏ lên vì xấu hổ:
Thằng Thông cháy ấy mà. Anh có biết không, mẹ nó bán chè
chai. Em đã ngủ với mẹ nó. Hôm em, đến nhà, nó đi vắng. Thế là mẹ nó cứ kéo em
lên giưởng.
Thông cháy cùng một bang với Giang. Đánh cờ rất giỏi. Khi sắp
hết án sinh ốm. ốm thật vì lo. Cơm tù quý thế mà nó không ăn được. Mồm miệng đắng
ngắt. Mất cả ngủ nữa. Càng gần đến ngày mãn án càng lo. Rộc đi. Quị hẳn. Đi
khám, ông Chắn cho nó nghỉ thật, không phải “ấm vồ “(ốm vờ). Nó sợ không được về.
Nó thấy nhiều bạn nó bị bắt, tập trung cải tạo lên đây. Nó sợ bị gí thêm cái bọp
nữa thì tàn đời. Cái thằng này rất buồn cười. Một hôm quản giáo vào buồng gọi:
– Lê Đình Thông. Ra gặp mặt.
Quá phấn khởi, sung sướng, Thông cháy đang nằm, bật dậy kêu
lên:
– Bố chờ con mãi!
Quản giáo giận tím mặt, quát:
– Anh bố con với ai thế? Anh kia?
Cả buồng cười rộ. Thông sợ hãi:
– Dạ, thưa ông, không, tôi quen miệng ạ. Xin ông tha lỗi cho ạ.
Tôi đội ơn ông lắm ạ.
– Mẹ anh lên tiếp tế cho anh. Tôi vào báo cho anh, anh bố con
với ai?
Ông giận dữ đi ra. Và tất nhiên Thông bị cắt gặp mặt, cắt tiếp
tế. Nhưng Thông không chịu thua.
Ngay lập tức Thông phác một kế hoạch: Nhắn bà mẹ chè chai gửi đồ tiếp tế cho những người nhà bạn tù nhận hộ mỗi người một ít. Kết quả Thông cháy có đủ quả tắc tuy không được gặp mặt. Bạn bè của Giang là như vậy. Phương ngôn Pháp có câu “Hãy cho tôi biết bạn của anh, tôi sẽ nói anh là người thế nào”. Bởi thế hắn lo cho Len và lo cho Giang.
Thỉnh thoảng Len lại cùng với Giang đến chơi nhà hắn. Len xin
hắn dán túi và nhìn những bó túi ni-lông óng ả đã dán hoặc chưa dán nằm ở một
góc nhà. Cái giống này nặng. Ba bố con phải xuống tận quá Bốt Vuông xe về. Hai
chuyến xe cải tiến đầy. Dễ đến mấy tạ. ông Quỳnh nhận thế nào giao thế ấy.
Nghĩa là giao theo bó. Mỗi bó một trăm túi. Thôi thì đủ loại. Có loại hình ống
chỉ đưa một đường là thành túi Có loại thành từng miếng chữ nhật dài, phải gấp
lại dán hai đường hai bên. Có loại là hai mảnh rời, phải dán ba đường. Loại to.
Loại nhỏ. Loại đút vừa chiếc áo sơ-mi. Loại to bằng nửa cái bàn, ni-lông dày
dán đến khổ. Mỗi đường dán dài gấp đôi. Mỏ hàn phải đưa rất chậm mới “ăn” vì
ni-lông dày, cứng.
Hắn dán. Kiên nhẫn. Sung sướng. Được làm cho mình. Được làm
góp phần với vợ, nuôi con… Dù đang là mùa hè, mồ hôi nhễ nhại. Thằng Hiệp, con
Thương cũng dán thay cho bố. Chúng nó thích làm vì công việc này có tính chất kỹ
thuật. Nhưng ngồi lâu, người mỏi nhừ. Dán nhiều, khoản giấy bóng kính hao lắm.
Nó cong, nó giập, khô gãy vì mỏ hàn nóng bỏng cứ miết đi miết lại. Giấy bóng
kính trở nên đục và giòn, bẻ gãy như bánh đa.
Ngọc mang về giấy can in. Cái này cũng được. Không tốt bằng
giấy bóng kính, chóng hỏng và dán lâu hơn. nhưng không sao. Điểm chính là không
phải bỏ tiền mua.
Trong một lần hắn đang dán túi như vậy, Len tiến đến đống túi
ni-lông, nhấc lên một cuộn hỏi hắn và Ngọc với vẻ vô tư nhất đời:
– Cái này bán tốt lắm. Sao anh chị không bán đi mấy bó?
Hắn cười ngượng nghịu, hắn thấy Len đang cho rằng hắn là một
tên ăn cắp. Len tròn mắt nhìn hắn:
– ở hàng người ta bán lẻ mỗi túi năm hào đấy Mình giao cho họ
rẻ cũng được ba hào.
Lúc đó Ngọc cũng ở nhà. Ngọc bảo:
– Chị sợ rồi thiếu…
Ngọc cũng cười ngượng nghịu. Như bị bắt quả tang mình đang ăn
cắp. Chưa bao giờ họ bàn với nhau chuyện ăn cắp như vậy. Điều Ngọc lo hắn lại
không lo. Hắn cố gắng để giải đáp cho Ngọc:
– Thiếu thì không sợ.
Hắn nhìn những bó túi ni-lông to bằng nửa cái bàn một:
Cắt đôi bó này ra. Một trăm thành hai trăm ngay. Len bảo:
– Họ chỉ đếm bó chứ không cân, phải không chị? Mỗi bó một
trăm túi, hả anh?
Len cứ nói, hỏi và đếm thử một bó. Rồi Len chọn ra một bó đẹp:
loại túi mỏng, 35 x 50 (xăng-ti-mét). Len đếm lại:
– Họ đếm đúng lắm. Chẵn một trăm đấy, anh chị ạ! Anh chị cho
em xin một cái túi lẻ nữa nào.
Hắn đưa cho Len mấy túi lẻ nữa. Thực sự hắn không quan tâm
nhiều đến việè Len bán hộ hắn. Cái trò ăn cắp thế này không bền. Một bữa ăn cắp
để sống. Mười bữa khác không ăn cắp được thì sao? Hắn không sống bằng nghề ăn cắp.
Hắn muốn sống bằng sức lao động của hắn, dù có kham khổ, nhưng được đảm bảo bằng
công việc làm, bằng mồ hôi của hắn. Điều đó mới bền, mới quan trọng. ăn cắp ở
trong tù thì được. Vì đó là phản kháng, là giành lại cái mình bị tước đoạt. Là
biện pháp tồn tại, là để có những hồi hộp lo âu, niềm vui mà quên đi thời gian
tra tấn, mà vượt được từng ngày. Nhưng ở cuộc đời, ở ngoài xã hội thì không thể
ăn cắp mà sống. Nhục. Xấu xa. Đê tiện. Và không ai có thể sống cả đời bằng của
ăn cắp.
Hắn không ngờ cuộc đời hắn sau này gắn chặt với việc ăn cắp.
Không ăn cắp trắng trợn, không thò tay móc túi người khác. Không phá kho nhà nước.
Nhưng vẫn là ăn cắp. Bởi vì không ăn cắp khó mà tồn tại Không
phải chỉ mình hắn. Chung quanh hắn bao nhiêu người ăn cắp. ăn cắp bí mật. ăn cắp
công khai. Bàn nhau ăn cắp. Khoe của ăn cắp. Chia nhau của ăn cắp. ăn cắp mọi
thứ có thể ăn cắp được. Phá một triệu chỉ để ăn cắp một hào. Ai không có gì ăn
cắp thì ăn cắp thời gian. Và nếu thời gian của mình chứ không phải của nhà nước,
thì đành rơi vào số phận hẩm hiu, đói nghèo, do đó đáng khinh bỉ: Làm người
lương thiện. Có biết bao loại ăn cắp, bao kiểu ăn cắp. ăn cắp bẩn thỉu. ăn cắp
sang trọng. ăn cắp trèo tường khoét ngạch. ăn cắp đi xe hơi, bệ vệ, đĩnh đạc,
đường hoàng. ăn cắp kiểu gà què. Kiểu chuột. Kiểu mèo. Kiểu sói. Kiểu hổ. ăn cắp
để sống, để đỡ đói. ăn cắp để làm giàu. Để ngoi lên một địa vị cao sang. Càng
ăn cắp càng giàu có, càng được mọi người kính trọng. Tệ hại nhất là ăn cắp,
nhưng vẫn dạy dỗ mọi người chống ăn cắp, vẫn thuyết giảng lý tưởng một cách rất
thành thật, thiết tha.
Nhưng đó chỉ là số ít (tính theo tỷ lệ phần trăm, chứ con số
tuyệt đối thì nhiều lắm lắm). Phần lớn ăn cắp để tồn tại. ăn cắp, mà không muốn
mình phải ăn cắp. Như hắn. Hắn ăn cắp, mà ý thức được mình đang làm một việc
đau khổ. Mà mong muốn, mà khao khát chấm dứt được cảnh này. Hắn muốn làm người
lương thiện. Ai? Ai đã nói như thế nhỉ? Chí Phèo! Chí Phèo thét lên với Bá Kiến:
“Tao muốn làm ngttời lương thiện”. Cả nước này có bao nhiêu người muốn được như Chí Phèo, thét lên như thế. Cả nước này có bao nhiêu người muốn kêu to: “Tôi muốn làm người lương thiện. “
Cái khoản ba mươi đồng, tiền bán túi ni-lông Len và Giang đưa
như một quả tạ ném vào cán cân kinh tế nhà hắn. Ngọc đi đến một quyết định táo
bạo: Tổ chức một bữa liên hoan nhân dịp Giang về. Tất nhiên phải có cả bà Phê
Đô Thớt. Chỉ bỏ ra dăm đồng thôi là có được một bữa kha khá.
Len nhận lời, nhưng không đến. Lũ trẻ hỏi Giang:
– Cô Len đâu, hả cậu Giang?
Chúng không gọi Giang bằng chú. Chúng gọi Giang bằng cậu.
Giang muốn thế. Gọi bằng chú nó thường, nó nhàm. Gọi bằng cậu nghe thân hơn.
Giang bảo. “Cậu là em mẹ. Cậu Giang có họ về đằng mẹ Ngọc”.
Ngọc cũng hẫng. Ngọc bảo Giang:
– Hôm nào cô ấy đến đây, chị phải mắng cho một trận.
Giang cười:
– Kệ nó. Hôm nay nó phải về Nam Định.
– Về Nam Định làm gì?
– Bà cô ông bác gì ốm.
Bữa ăn không phải vì thế mà kém vui. Một đĩa thịt gà mua chợ.
Một ít thịt lợn (phiếu trẻ em của thằng Dương) làm chả nem. Và bún. Thằng Dương
cả thèm chóng chán. Nó giành hai cái gọng. Mặc cho thằng Hiệp tán tỉnh:
– Xương đấy. Cho anh một cái. Em ăn sao hết hai cái. Đi!
Dương!
Hắn đã ăn mấy bữa cơm khách: ở nhà anh chị Thân, nhà Bình,
nhà anh út thợ gò, em nhận của anh Chân… Ngon. Cá chép hấp. Tôm rán. Mực xào…
Thịt gà thịt lợn… Mỗi bữa ăn một thực đơn khác nhau, nhưng cùng có một điểm giống
nhau: Không ai hỏi hắn về chuyện hắn đi tù, vì sao hắn bị tù và hắn đã ở trại
tù nào… Không ai đả động đến điều chí cốt khiến hắn phải đi xa gần năm năm và
bây giờ trở về (do đó nên mới có bữa cơm vui này). Người ta lảng tránh, người
ta không hỏi, người ta sợ cái đề tài cấm kỵ ấy. Phải. Đó là một đề tài cấm kỵ.
Chính vì vậy mà bữa ăn ngon, đầm ấm, nhưng thiếu sự đồng cảm tinh thần.
Bữa ăn với Giang thì khác. Dù không nói đến kỷ niệm tù vì có
lũ trẻ, hắn và Giang vẫn hoàn toàn đồng cảm.
Hai người bàn nhau cách kiếm sống. Giang định đi làm mộc. Cái
nghề Giang học được ở trong tù.
Thế rồi Giang kể chuyện chị Giang. Chị Hiên đi buôn bột dong
riềng. Lãi lắm. “Anh chưa gặp chị em. Chị em đẹp lắm. Không như em đâu”.
– Hay là anh em mình làm miến?
Đó chỉ là một câu hỏi vu vơ sau bữa ăn, nhưng rồi hoá ra
thành sự thật. Thời gian đó làm miến đang phát tài. Nhiều người xây nhà.
Đã có những thuận lợi đầu tiên. Địa điểm, nhờ Phu, người bạn
chuyên đi tiếp tế cho Giang. Nhà Phu dưới An Thái, chỗ hồ bơi đi vào. Phu có một
mảnh vườn rộng, một căn nhà đã xây tường, nhưng chưa có mái. Giang đưa về nhà hắn
một người tên là Ky, ở phố Huyền Trân, hình như do Len giới thiệu với Giang. Ky
trông thấy hắn, mê tít:
– Anh Giang có nói với em: Anh em mình thành lập một tổ hợp
tác làm miến Về mặt thủ tục anh lo. Tuy mới gặp anh, nhưng em thấy chị và các
cháu thế này là em tin. Anh làm tổ trưởng rất tốt. Tuổi anh giao dịch rất đẹp.
Với người trẻ cũng được. Với người già cũng được…
Sau này hắn mới biết Ky có nhà mặt đường, nhưng còn bố mẹ. Ky
muốn tự lực. Nghề làm miến rõ ràng sống tốt. Nhất là Ky có hai thông tin “chính
xác”: Chị Giang buôn bột dong riềng, hắn có một người em làm miến rất giỏi.
Điều thứ nhất đúng, nhưng điều thứ hai Ky bị lừa. Mà chẳng
riêng Ky. Giang bị lừa. Hắn cũng bị lừa.
Chính hắn cũng tin rằng “em” hắn biết kỹ thuật miến. Đó là một
người họ Đoàn, lớn tuổi hơn hắn, nhưng về vai vế trong làng, họ nội ngoại gần
xa lại là em. Gọi hắn là bác. Hắn gọi là chú. Chú Mai. Chú Mai, một trong số ít
ỏi người làng ra thăm hắn khi hắn đi tù về. Chú Mai đã từng đi bộ đội hồi kháng
chiến chống Pháp, rồi đi dạy học. Và bị ta bắt ít ngày. Rồi được tha. Nhưng bị
thải hồi. Dạo đó hắn cũng chẳng quan tâm đến những số phận như Mai. Hắn chỉ biết
Mai về làng, làm bún nuôi lợn, con cái buôn gồng bán gánh, nay chợ này mai chợ
khác. Đoàn Mai thăm hắn và rủ hắn đến một người bạn học của hắn: Huynh, giám đốc
một Công ty xây dựng. Hắn cũng không hiểu vì sao, bằng những nguồn tin nào, Mai
lại biết Huynh là bạn hắn. Thật là kỷ tài. Mai cả quyết:
– Nhưng có đúng Huynh cụt tay, Nguyễn Văn Huynh trước ở Uỷ
ban kế hoạch, có vợ là bà Nguyên, mới li dị là bạn bác không nào?
Thế thì đúng rồi. Thế là Huynh và Nguyên đã li dị. Thời gian
còn làm báo, hắn vẫn gặp Huynh và được Huynh rất tôn trọng. Tôn trọng về sức học.
Tôn trọng về tài nàng. Đám cưới Huynh – Nguyên ở Hà Nội, hắn có tới dự. Nguyên,
một cô gái xinh đẹp và cho tới năm nám trước vẫn còn là một thiếu phụ xinh đẹp,
ăn mặc đúng thời trang.
Nhìn thấy hắn, giám đốc Huynh reo lên:
– Tuấn. Tớ chưa đến được, đừng chửi nhé.
Những người ngồi quanh thấy giám đốc nói với hắn như vậy,
ngoái lại nhìn cả vào hắn. Hắn cảm thấy tự tin hơn. Hắn đã chuẩn bị sẵn thái độ.
Nếu Huynh có lời nói hay cử chỉ gì trịch thượng hắn sẽ bỏ về ngay. Mai bấm tay
hắn, vẻ tin tưởng. Huynh tiếp:
– Ông này là bạn học từ bé. Nay phó thường dân thôi. Nên càng
quí. Chờ mình một tý được không? Huynh đứng lên đưa bao thuốc lá cho hắn.
Huynh xử dụng một bàn tay phải còn lại rất thành thạo. Vẫn
cái kiểu vừa giữ bao diêm vừa bật diêm như thế. Một cánh tay áo rỗng nhét vào cạp
quần như thế.
Huynh trở lại bàn làm việc. Bao nhiêu người xin chữ ký. Hợp đồng
san nền. Xin nhượng lại xi-măng. Thanh toán thuyền cát. Ký quyết định biên chế
chính thức cho những người hợp đồng. Duyệt giá chữa cần cẩu…
Huynh vừa giải quyết công việc, vừa nói to những lời giải
thích: Tại sao được, tại sao không được. Vừa kêu ca chửi bới khâu cung cấp
nguyên vật liệu, chửi bới cả một ông uỷ ban quan liêu nào đó. Hắn nghe thấy một
người cười hề hề với giọng nịnh ra mặt:
– Thủ trưởng cứ như Phidel Castro ấy.
Cuối cùng chỉ còn bọn hắn.
– Lại đây. Uống nước. Sao? Ngọc có khoẻ không? Thời gian mày
đi, tao đến nhà mày mấy lần, nhưng không gặp Ngọc. Mày vẫn khỏe đấy chứ? Trông
thì sức khoẻ tốt đây. Đến chơi hay có việc gì? Nhiệt tình. Tốt. ủng hộ ngay khi
biết lý do. Và cho qui cách. Nhưng lại nói thêm:
– Phải đi gặp trưởng phòng cung tiêu. Nó trực tiếp làm. Hay
là thôi. Chờ một tý. Mình gọi điện cho nó. A lô, Thi đấy phải không? Kế hoạch cọc
tre còn không nhỉ? Sao? Đủ rồi à? Phải chờ à? Mấy tháng nữa? Thế hả? ừ! ừ! Được!
Thế có nghĩa là không thành rồi. Mai rất tiếc. Hắn cũng không
hỏi Mai vì sao Mai biết Huynh là bạn học với hắn. Chỉ riêng một điều ấy hắn đã
tín nhiệm Mai. Hắn tâm sự với Mai về ý định làm miến của hắn. Mai cười thản
nhiên:
– Tưởng gì chứ làm miến thì được. Tôi làm mãi rồi. Lập cả một
tổ hợp tác bên Xuân Lãng. Nhưng kích rích quá, lại thôi. Tôi có thể giúp bác về
kỹ thuật được. Không những thế tôi còn mua cho bác đủ số phên phơi với giá rẻ.
Chỉ bằng nửa giá phên mới, ngay bên Xuân Lãng thôi.
Mai nói vậy. Cứ như chuyện dễ ợt. Hắn thấy só hắn thật may.
Thế là cái ý làm miến càng được khẳng định. Hắn làm đơn lên tiểu khu, lên phòng
thủ công. Tất nhiên cũng phải có dủ các mục: Tên tôi là… số nhà… hoàn cảnh gia
đình khó khăn (cụ thể) xin được cấp phát đăng ký lập tổ hợp tác (phải là hợp
tác, cá nhân thì đừng hòng.) Làm miến tại… Tôi hứa sẽ… v. v…
Hắn rất hồi hộp. Không biết người ta có duyệt đơn không? Hắn
đã nhờ anh Thân và Bình tác động, nói hộ, nhưng cả hai không quen ai ở tiểu
khu. Anh Thân bảo. “Cứ làm ở tiểu khu, xong lên phòng thủ công thì anh quen. Thằng
Ngoãn, em ông Trần ấy mà”. Anh động viên hắn “họ cho chứ làm gì không cho, làm
miến chứ làm gì đâu mà không được”. Hắn cũng nghĩ thế nhưng hắn vẫn lo. Cuộc đời
chẳng biết đâu mà lường. Điều gì cũng có thể xảy ra.
Hắn làm đơn xin sản xuất ngay tại nhà mình cho đỡ lôi thôi.
Sau khi có giấy phép rồi thì xin chuyển địa điểm sau. Ông tổ trưởng nhận đơn và
hẹn hai hôm nữa hắn sang trụ sở. Hai ngày ấy thật là lâu. Ông tổ trưởng này hiền
lành không như ông tổ trưởng trước. Có vẻ ông ấy không gây khó khăn gì đâu.
Ông tổ trưởng xác nhận hoàn cảnh hắn. Tiểu khu đồng ý. Ký
tên. Đóng dấu. Với lời ghi: Không được làm ảnh hưởng đến trật tự trị an chung,
bảo đảm sinh hoạt trong xóm… v. v…
Được giấy tờ, cả nhóm ba người (Bình bảo: “Ngõ ba nhà”) họp
nhau ở nhà Giang và quyết định đẩy mạnh mọi hoạt động. Quyết tâm cao: Có miến
bán vào dịp rằm tháng Bảy. Hôm ấy đã là mồng 2 tháng Bảy rồi. Chỉ còn hai tuần
nữa thôi. Hắn, Giang và Ky ngồi ở phía sân sau, nơi trông ra dòng sông Nhị Bạc.
Mẹ Giang, một bà già nhỏ, gầy đanh quánh, cứ mon men ra sân sau, lại bị Giang
đuổi:
– Bà đi vào đi
Hắn biết mẹ Giang muốn nói với hắn mấy câu, nhờ hắn trông
nom, dạy dỗ, kèm cặp Giang… Hắn biết mẹ Giang đặt rất nhiều tin tưởng vào hắn.
Hắn nhìn dòng sông xám trôi mải miết. Dòng sông loang loáng
những gợn đèn từ các căn nhà hắt ra. Dòng sông hắn đã viết trong bản trường ca
Đầu cầu, đang nằm ở một két hồ sơ tối tăm, bụi bặm, ẩm thấp của Sở Công an:
Em buông lưỡi câu không mồi
Bên dòng sông loang loáng dầu trôi
Không hay thuyền qua nước gợn
Không hay tàu qua nổi còi
Em chở con cá vàng vây đỏ
Giật lên cá biến thành hoàng tử
Như chuyện bà kể đêm xưa ôm bé vào lòng.
Đầu cầu.
Cổ tích thành dòng sông
Dòng sông thành cổ tích.
“Mình đã ca ngợi thực lòng. Mình đã tô hồng đến thế. Lãng mạn
có cánh bay đến thế. Còn gì nữa nhỉ?
Ván gỗ trồi hàng đinh dài nhọn hoắt
Một chiếc thuyền tan bom nổ chậm đáy sông
Hết rồi, thuyền ơi!
Tiếng cười sang ngang
Bên bồi, bên lở
Đêm triều lên, nghe đại dương thở quanh ván gỗ
Ván gỗ trôi, mặt sóng đục ngầu
Nón bài thơ trôi băng băng vô tình hối hả
Nón tráng đẹp như gương mặt ai vừa đây đã không còn nữa
Nón che nghiêng gò má rám hồng
Chán mắt ai nhìn trái tim cuống quít
Nón trôi vun vút
Nón trôi từ đâu
Nón trôi về đâu
Nón trôi giữa những mố cầu
Bom chém dầy thân khắc nghiệt
Nón trôi nước xiết
Như mộ ai trôi
Trôi giữa dòng sông
Một cuộc sống không quen
Mà thân thuộc vô cùng.
Mình làm thơ cũng không đến nỗi nào. Mình đã làm những câu
thơ ấy trên yên xe đạp. Trong lúc đợi phà. Trong những đêm một mình xa Ngọc, xa
các con. Mấy năm rồi nhỉ?!
Hắn lại mộng du. Vì vậy Giang lại phải nhắc lại một lần nữa:
– Thế nhé. Mỗi người tạm đóng bảy yến . Ngày mai mang tiền đến
anh Tuấn. Mua giấy dầu, mua luồng, đắp lò…
Bảy chục. Một món tiền to. Gần bằng cái cán sự bốn. Hơn lương
hắn. Hắn chỉ cán ba thôi. Bảy chục.
Hắn đào đâu ra những bảy chục. Hắn nghĩ đến mấy bó túi
ni-lông. Đã dán rồi, nhưng chưa giả hàng. Chưa xe xuống ông Quỳnh. Hắn yên tâm.
Hắn chọn ra được ba bó. Loại như Len đã bán lần trước. Hắn cắt
những túi to, dày ra làm hai, dán lại một lần nữa, cho vẫn đủ số bó. Hắn đếm lại
mỗi bó đúng một trăm túi. Nhưng bà phê Đô Thớt không đến. Bà Phê Đô Thớt có trục
trặc gì với Giang. Hỏi Giang, Giang không nói.
Hắn phải mang đi bán. Bình bàn bán cho Thế, cái anh viết vàn
không được đã chuyển sang nghề làm nhựa. Vợ Thế có một mẹt dép nhựa, túi
ni-lông ở phố Ông ích Khiêm. Hắn cho cả ba bó vào trong một cái làn. Buổi trưa,
hắn lò mò đến nhà Thế.
Thế khi đó còn đang ở trên gác, một căn gác hẹp. Thế đang nằm
ngủ trên đi-văng. Hắn ngồi im lặng. Hắn biết mình đang làm phiền người khác.
Giá như trước đây hắn khẽ hắng giọng, hay e hèm một tiếng và cười bảo Thế:
– Dậy đi. Ngủ thế trộm nó khiêng hết cũng chẳng biết đâu.
Và Thế choàng dậy, thấy hắn, hẳn Thế vui và niềm nở, chuyện
như pháo nổ.
Bây giờ hắn ngồi im lặng nhìn Thế ngủ, ý thức được ràng mình
đang quấy rầy người khác. Còn hơn thế. Hắn nhìn ba bó túi ni-lông trong làn mà
nghĩ rằng hắn giống như một người đem cái tin đầu tiên của mình đến nhà riêng
ông tổng biên tập báo uyên bác và từng trải. Giấc ngủ của Thế có vẻ mệt nhọc của
người vật lộn với đời. Hắn đã nghe Bình nói: Thế nhờ Bình viết bài trên báo phê
bình guốc nhựa, dép nhựa của hợp tác xã Bình Minh chất lượng xấu. (Hợp tác xã
Bình Minh là Thế. Phải là một hợp tác xã mới được đăng ký sản xuất. Thế tổ chức
một hợp tác xã mà thực chất là Thế và một số người làm thuê)
– Sao nó nhờ mày làm thế. Hàng bán cho ai được.
– Nó được miễn thuế mấy tháng. Nó bảo không bán được hàng vì
bài báo.
Thế là bậc đàn anh trong ngành nhựa. Hẳn Thế sẽ giúp hắn
trong lúc hoạn nạn này. Nhưng Thế vẫn ngủ. Hắn hy vọng Thế chỉ chợp mắt một
lúc. Thế nằm trên đi-văng. Hắn ngắm cái quạt Marelli tuốc- năng hẳn hoi. Quay
nhè nhẹ êm ru. Cần mẫn, tận tuỵ, im lặng làm phận sự và vững tin ở giá trị của
mình. Hắn ngắm nồi miến gà ăn dở nguội tanh nguội ngắt, cái muôi cắm vào nồi,
những sợi miến trương lên. Có cả lòng gà, và những miếng mộc nhĩ thái nhỏ đen
đen. Hắn nhìn nồi miến gà ăn dở như nhìn biểu tượng của thiên đường sung túc, một
sự thừa mứa, một viễn ảnh ngoài tầm tay, hắn không bao giờ dám nghĩ tới, dám ao
ước. Hắn nghĩ đến vợ con, đến bát canh nấu muối trên mâm cơm nhà hắn. Hắn nghĩ
đến cái quạt đi-na-mô xe đạp ở nhà Bình mà hắn vẫn thèm khát, đến những cái quạt
nan phì phạch suốt đêm ở nhà hắn.
Hắn thở dài.
Không biết Thế còn ngủ đến bao giờ, nếu không có thằng con Thế
đi đâu về chào hắn.
Thế tỉnh giấc, ngồi dậy, bảo:
– Sao không gọi tôi? Đến lâu chưa”
Hắn ngượng nghiụ, ấp úng mãi mới lôi ra một bó ni-lông, mặt đỏ
gay vì xấu hổ, hình như cả nhục nhã nữa, vì nó tố cáo bước đường cùng của hắn
và hắn là một tên ăn cắp.
-Bình nó bảo ông tiêu thụ hộ được cái này.
Thế đỡ lấy bó ni-lông ngắm nghía:
– Cái này không phải mình, mà là bà xã.
Hắn thở dài nghĩ đến cơ đận phải xách làn về:
– Bà ấy ngồi ở phố Ông ích Khiêm à?
– Không, bây giờ bà ấy ra cửa chợ. Tối mới ngồi ở Ông ích
Khiêm.
Hắn trầm ngâm, không giấu được vẻ lo lắng, bồn chồn.
– Uống nước đi. Sao? Đã làm ăn gì chưa.
Hắn cười, đau khổ:
– Làm gia công mấy thứ cho công ty bà ấy, hết là nghỉ.
Thế thông cảm:
– Thôi, đưa cho mình cũng được.
Vẻ mặt hắn sáng lên, nhẹ nhõm lên, tươi tắn lên.
Thế nhìn vào cái làn:
– Còn nữa à?
– Ba bó cơ.
Hắn nói như người có lỗi. Thế giật mình trước tình thế khó
khăn phức tạp ấy.
Hắn sợ hãi vội nói trước:
– Ông lấy được bao nhiêu thì lấy.
Thế thở dài như thấu hiểu trách nhiệm nạng nề của mình với bạn
trong lúc bạn lâm vào bước đường cùng. Anh nhíu mày suy nghĩ rất lung:
– Tôi lấy cho ông hai bó. Mỗi bó hai nhăm đồng. Năm chục tất
cả.
Thế đếm tiền. Hắn ngớ ra. Vì hắn tưởng mỗi bó ba chục. Len đã
bảo bán lẻ những năm hào. Nhưng thôi. Cũng được. Biết bán ở đâu bây giờ. Mang
ra chợ thì hắn không dám rồi.
Hắn cầm năm chục từ tay Thế. Thế bỗng lục lục tủ, miệng lẩm bẩm.
“Xem còn tiền không, tôi lấy nốt cho ông, ông đỡ phải mang về. à còn đây! Xem
nào. Còn hai chục. Hai chục, được không?”…
Hắn thở dài cám ơn Thế ra về. Thế dặn: Lần sau có cứ mang
lên. Ba trăm chứ nữa cũng được. ăn xuống thang. Xong ba bó túi poliester. Bảy
chục tất cả. Vừa một suất đóng cổ phần làm miến. Tuy khi đi, han và Ngọc đã
tính được chín chục. Sẽ còn thừa hai chục để Ngọc chi tiêu. Hơi đau. Hơi hẫng
vì mình đã tính trước. Đã lên kế hoạch. Đã vào sổ trong óc. Đã chắc chắn có chỗ
dôi ra.. Nên mới buồn. Thế đúng là loại người như Mác nói, chỉ nghĩ đến lợi nhuận.
Mọi tình cảm đều để lên cán cân lợi nhuận. Hắn oán và khinh Thế. Nhưng hắn lại
nghĩ: Không có Thế hắn biết bán cho aì? Của ăn cắp được, tốt lắm rồi. Thế còn
phải chi nhiều. Cống nhiều. Như cái mái ngói cho ngôi nhà của ông Tăng bên dưới
nhà hắn. Luật đời như vậy. Trấn người này nộp người khác.
Giang, Ky đều có tiền góp đúng hạn. Ba người đi mua tre luồng,
gác lên bốn bức tưởng làm mái, mua giấy dầu… Hắn đang cởi trần cưa cắt leo trèo
thì thằng Hiệp đến. Đi theo thằng Hiệp là Đoàn Mai, người em họ, kỹ thuật viên
làm miến đại tài của hắn. Mai sang nhà hắn, nghe Ngọc nói chuyện, vội bảo thằng
Hiệp đưa đến. Nhìn tất cả công việc đang diễn ra với một tốc độ khẩn trương vui
vẻ và tin tưởng, Mai sững người. Hắn reo lên:
– Chú Mai Chú thấy được không. Mặt bằng này phơi miến thì vô
địch rồi còn gì.
Mai tần ngần nói khẽ:
– Tưởng nói thế thôi. Hoá ra làm ngay à?
Hắn biết có trục trặc gì rồi. Hắn kéo Mai đi uống nước chè
ngoài quán. Thì ra Mai không biết làm miến, nhưng cái chỗ phên phơi Mai vẫn bảo
đảm cho, giá rẻ thôi. “Họ đang làm, nhưng tôi lấy là họ phải nhượng lại. Dăm chục
chiếc giá cũng không được lấy cao”.
Hắn “báo cáo”ngay với nhóm diễn biến ấy. Nhưng Giang bảo
“không cần kỹ thuật, chỉ cần phên thôi”.
Hắn về quê gặp Mai. Và cùng Mai sang Xuân Lãng mua phên, chất
lên xích-lô, chở qua bến Tắm, về nơi làm miến. Qua lần đi này, hắn hiểu sâu sắc
rằng Mai là người nói phét. Đó là toàn bộ số phên của một người làm miến đã giải
nghệ lâu rồi. Và đang cần bán. Không biết sao Mai hay nói rộng thế. Bố hắn biết
chuyện cũng bảo:
– Cái thằng nói một tấc đến giời.
Khi còn là giáo viên Mai không mẵc chứng ấy. Bị bắt, rồi bị thải
hồi, Mai mới sinh ra như vậy. Mãi sau hắn mới biết lí do Mai bị bắt. Mai bị
nghi vấn nằm trong một tổ chức phản động. Cái tổ chức phản động ở làng Cầu này
bị phát giác là do một ông công an ở Sở về tìm thấy mấy cải kíp mìn giấu trong
gầu tát nước treo dưới bếp nhà một tên lính nguỵ. Từ đó lôi ra cả một tổ chức.
Hàng chục. Hàng mấy chục. Có cả người họ hàng gần với Đoàn Mai. Mai bị quơ. Rồi
được tha. Nhưng bị thải hồi, bị đuổi khỏi ngành giáo dực. Đó là thời gian xảy
ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Củng cố, gìn giữ hậu phương đang là vấn đề sống còn của
cách mạng.
Người khám phá ra vụ án này từ chỗ không ai chú ý, bỗng được
tín nhiệm, được cất nhắc. Một cái bàn đạp để ông ta đi lên. Trong tù hắn đọc
báo thấy ông ta được tham gia phái đoàn hội nghị bốn bên ở Tân Sơn Nhất. Ông ta
là tượng trưng cho ngành an ninh thành phố. Là sự sắc sảo chính trị, vững chắc
như đá tảng về lập trường. (Chính sự vững chắc về lập trường đã quyết định tất
cả). Là kiến thức rộng rãi, là nghiệp vụ siêu đẳng, là tinh thần cảnh giác cách
mạng tuyệt vời. Là sự thông minh ửng xử không chê vào đâu được với bọn địch ở hội
nghị bốn bên. Là niềm tự hào của thành phố, là vinh dự cho những ai quen ông
hay chỉ được nói chuyện cùng ông, nói chuyện về ông. Ông là cánh tay phải của
ông Trần.
Tên ông là Lê Cộng.
Hệt như cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, khi bộ chỉ huy Cộng Hoà
hay tin đối phương đã biết trước cuộc tiến công và đã đề phòng, lẽ ra họ phải dừng
chiến dịch lại, nhưng không được nữa. Guồng máy đã khởi động rồi.
Chương trình làm miến của ba anh em cũng giống như vậy. Biết
rằng không có người làm kỹ thuật, mà thời ấy kỹ thuật cũng là then chốt – nhưng
không thể dừng được nữa. Mái nhà đã lợp. Bếp đã làm. Lò đã đắp. Chảo gang đã
mua. Chậu hoà bột- một cái chậu nhôm to phế phẩm vì bị móp một chỗ do Thao mua
hộ ở mậu dịch giá 25 đồng- chum ngâm bột. Điện đã mắc. Một cái giường và bộ ấm
chén đặt trong căn nhà rộng, vừa lợp xong giấy dầu. Cửa sổ, cửa ra vào làm tạm
bằng tre. Mấy cái đòn ngồi uống nước. Cái điếu cày… Và năm mươi cái phên phơi hắn
đã xe về, tập kết về dựng ở tường khu vườn hoang. Lại cả một đống than to tướng.
Thế là nhẵn. Nhẵn cả hai trăm mốt của “ba anh thợ da thối”đang
lăm le trở thành Gia Cát Lượng. Còn thiếu hai khoản quan trọng nhất. Hai khoản
khổng lồ: Bột dong và máy thái. Ngày rằm tháng Bảy sắp tới nơi rồi. Chưa kể một
điểm vô cùng quan trọng: kỹ thuật.
Giang báo một tin phấn khởi: Giang đã nói với chị Hiên, chị đồng
ý bán chịu cho cả bọn một tạ bột dong.
Còn khó khăn về kỹ thuật thì thật không ai ngờ được người giải
quyết lại là bà Phê Đô Thớt.
Len đến. Len và Giang làm như không trông thấy nhau. Len đứng
nói chuyện với hắn. Giang bỏ đi nháo than. Len bảo: “Em lại nhà, chị bảo anh ở
dưới này”. Khi biết cả bọn không biết kỹ thuật, Len nói:
– Hình như ngày mai các anh định nhóm lò phải không? Em thấy
chị bảo thế. Chị đã đi xem ngày rồi. Dạo ấy hắn chưa tin điều Ngọc đã tin. Trên
trốc cái tủ Bình đóng như quan tài dựng đứng, Ngọc đặt bàn thờ, ngày rằm, mùng
một hương khói nghi ngút.
Đây lại là một nét mới nữa ở Ngọc, cùng với cái nét sợ hãi,
lo lắng về bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra mà hắn đã biết từ ngày hắn được
tha về.
Ky bảo:
– Mai mồng mười tốt ngày. Mà cũng phải làm mới có miến bán
vào rằm chứ. Chưa có máy cắt thì đi thuê.
– Còn bột? – Hắn nêu một trở ngại – Chưa có bột, chị Hiên đã
về đâu?
Len bảo:
– Chị Hiên chiều nay ở Nam Định về. Anh bảo anh Giang về nói
chị Hiên để lại cho hai bao. Ngâm bột đi, em tráng cho.
Hắn ngạc nhiên:
– Em tráng được không? Em biết tráng đấy à? –
Hắn mừng quá gọi:
– Giang ơi
Giang đang bì bọp giữa đống than ở gần đấy, hai ống chân đen
nhánh, giả cách không nghe thấy. Hắn bảo Ky ra nháo than cho Giang để Giang về
nhà. Giờ này ô-tô Nam Định sắp về rồi. Giang đi ra ao rửa chân tay. Chỉ còn hai
người, hắn hỏi khẽ:
– Cô cậu giận nhau đấy à?
Len mặt lạnh đi một tý, rồi nói:
– Em có con bạn làm miến mà. Em vẫn sang nhà nó, tráng hộ nó.
Anh cứ yên tâm.
Hắn cười:
– Thế mà cậu Giang không nói gì cả.
– Anh ấy cũng không biết em tráng được đâu.
Thế là ổn rồi. Còn mỗi chuyện thái.
– Cứ tráng đi cái đã.
Giang rửa chân tay xong quay lại, vẫn không nhìn Len:
– Em về xem bột bạch thế nào nhé.
Chờ Giang đi một quãng, Len nói với hắn khe khẽ:
– Anh bảo anh Giang hễ có bột xe luôn lại đây, em chờ.
Hắn gọi to:
– Có bột thì đem lại đây ngay nhé.
Giang không quay lại, cũng không trả lời. Hắn hỏi Len:
– Có chuyện gì thế, em?
Len sa sầm mặt. không nói. Một lúc sau Len thở dài:
Chúng em… thôi nhau rồi.
Hắn hoảng hốt:
– Sao? Sao lại thế
Bố mẹ em không cho em quan hệ với anh ấy.
– Thế còn em?
Len rơm rớm nước mắt. Hắn còn nhớ rõ lúc đó.
Chưa bao giờ hắn thấy cô gái ấy xinh dẹp và đáng yêu như vậy.
Len cúi nhìn xuống. Răng cắn lấy môi.
Cô cố giữ, nhưng vẫn để rơi những giọt nước mắt. Thế là Len
nói. Rời rạc. Lộn xộn. Nhưng hắn hiểu. Len vẫn yêu Giang. Giang đã đối xử thô bạo
với Len khi biết bố mẹ Len không muốn Giang đến nhà, khi thấy Len lỡ hẹn. Mà
Len không thể đúng hẹn được. Vì bố mẹ Len… Hai ông bà đều làm ở nhà máy cơ khí
Thống Nhất. Phân xưởng đúc. Hắn đã đến làm việc ở đấy nhiều lần. ở đó cái pông
ru-lăng chạy chung quanh phân xưởng. Cái pông ru-lăng ấy đã nằm trong một trang
của quyển truyện dài Làn sóng thứ nhất mà Sở Công an đã thu.
Không thể trách hai ông bà. Cũng không thể trách Giang, hay
trách Len. Nhưng thương. Thương Giang. Thương Len.
Chiếc xe xích-lô bột đến lúc chiều tà. Giang nói:
– Chị Hiên cho chịu. Sau rằm tháng Bảy mới phải trả tiền.
Len bảo phải ngâm bột ngay. Phải có ít hàn the.
Cứ ngâm đầy vại. Tráng không hết để đến ngày hôm sau. Thay nước
đều không việc gì hết. Càng trắng bột. Phải có người ở lại trông. Hắn và Giang ở
lại. Ky về, Len bảo: “Em lại chị đây. Báo cho chị biết anh không về được”. “Bảo
cháu mang cơm cho anh, cho cậu Giang luôn nhé!”. “Vâng!.
Buổi tối, cơm xong, hai anh em ngồi ôn chuyện tù. Chẳng thiếu
chuyện gì không nói. Hoá ra là một đêm thức gần tới sáng. Náo nức với những dự
định. Náo nức với những phép cộng trừ, giữa tiền bán miến và tiền mua bột, mua
than, cái bây giờ ta gọi là đầu vào, đầu ra, là hiệu quả. Náo nức vì có thể có
một công việc lâu dài.
Khi quen nhau cả hai là những thằng tù, muốn nói với nhau một
câu phải hẹn nhau và làm như vô tình gặp nhau trong nhà mét. Giờ đây thoải mái
chuyện trò. Cả hai đã tự do. Là những người tự do. Cái cảm giác ấy rất lạ. Như
quen nhau từ cuộc đời trước, từ kiếp nào rồi. Lại cũng như mới quen. Rất lạ. Vì
mình đã trở thành những con người. Dù vẫn chưa thoát khỏi nỗi lo con vật: Nỗi
lo kiếm sống.
Muỗi vo ve, đốt ở chân, ở mặt, ngọn điẹn trong buồng hắt ra mảnh
vườn có ươm dây khoai lang, chơ vơ một cây nhãn khẳng khiu. Bọn hắn ngắm trời.
Trời này còn nắng, không mưa. Trời cũng ủng hộ bọn hắn đây. Giang xem lại cái
vàng bàng vải pô-pơ-lin trắng úp lợp lên trên vòng tròn bằng tôn tráng kẽm đặt
trên chảo gang.
Bánh đa sẽ được tráng ở đấy. Hắn cạo cạo lại cái muôi b ằng sọ
dừa nhẵn bóng. Rồi lại nhòm vào vại bột.
Khuya lắm rồi. Một con chim săn mồi vụt qua quầng sáng ngoài
cửa sổ. Chính lúc ấy hắn nhớ đến Sơn, đến những con vắt đo rào rào trong buổi hắn
và Sơn đi tìm ráy. Con chim đêm bay không một tiếng động. Cuộc sống không lúc
nào ngưng nghỉ. Cuộc sống dù khốn nạn đến đâu cũng vẫn đẹp. Người ta chỉ làm giảm
đi vẻ đẹp của nó thôi.
Tự nhiên hắn hỏi Giang:
– Trong tù, Giang sợ nhất cái gì?
Giang ngẫm ngợi:
– Em sợ nhất khám trại.
Hắn cười khoái chí:
– Đúng. Anh cũng vậy. Anh cũng giống Giang, sợ nhất khám trại.
Khám trại. Bình thường thôi. Còn được nghỉ buổi làm nữa. Mà
sao sợ thế.
Tất cả mang nội vụ ra sân, ngồi ngả nghiêng với đống quần áo
chăn màn, gô, ống bương, hòm, cặp lồng, bát, cùi dìa, khàn mặt, điếu, đóm… chờ
đến lượt mình được khám. Cán mắt loà, ngả người vào đống chăn màn ít ỏi, vê đi
vê lại trên cái đàn mandoline:
Tôi hát ngàn lời ca
Nồng nàn như nắng ban mai
Tiếng đàn rót vào tai những người tù chờ khám trại.
Họ cứ ngồi chầu hẫu với những thứ nội vụ ấy, trong khi ông
công an và người tù trật tự trại còn ở mãi đầu kia khám những toán khác. Thật
không khác gì con vật. Nắng vẫn phải ngồi. Mưa thì liều liệu dạt vào các hè buồng
giam. Lúc đó không ai được vào buồng. Lúc đó trong các buồng đều có công an
khám xét từ mái nhà đến gầm sàn. Cả trong nhà mét. Buồng nào cũng lôi ra được
bao thứ: Dao, than, nứa, muối, rau, sắn… (Họ bảo ở Hà Giang có lần khám trại thấy
ở trên mái nhà toàn dao phay – Thật là cả một kho vũ khí).
Những toán khám xong được trở về buồng. Nghe rầm rầm trong buồng.
Họ quét bụi ở sàn, kê lại sàn. Giải chiếu. Đặt nội vụ. Họ kiểm tra những thứ đã
yểm xem còn hay mất.
Những người tù chưa được khám vẫn còn vạ vật ngoài sân. Lo
nghĩ tới củ su hào đã vùi vào đống mùn cưa trong nhà mét. Nắm than đã chôn xuống
đất, tận gầm sàn dưới, con dao đã giắt trên mái nhà… v. v… Và chờ. Chờ đến lượt
mình được khám. Chờ các ông ấy đến. Mặc cho tiếng đàn của Cán nỉ non:
Hùng thiêng như núi sông dài
Là một niềm tin…
Cứ thoải mái mà chờ. Mà hút thuốc lào. Nằm co quắp trên mảnh
chiếu. Nhắm nghiền mắt tránh nắng. Lột thêm mấy cái đóm ké. Lấy cát đánh lại
cái gô bị nhọ… Cuối cùng các ông ấy cũng đến. Tiếng đàn của Cán im bặt. Các ông
dừng lại trước một anh tù. Anh ta đứng lên giũ tung chăn màn, bị bọc, mở nắp gô
đậy nắp cặp lồng trước con mắt soi mói và cái đầu gật gù của ông công an.
Những bộ quần áo vá víu, những cái chăn, cái màn, vừa giũ một
cái, rệp đã bàn tung ra như vãi mạ, khiến ông công an giật thót người lùi lại,
còn anh em thì cười rộ lên. Rồi giơ hai tay để các ông công an nắn vuốt người.
(Hắn thấy rõ các ông công an nhăn mặt lại khi nắn vì sợ bẩn, sợ rệp).
Hắn chẳng quên được cái cảm giác mình là súc vật trong lúc
đó, suốt từ lúc ngồi theo từng toán với đống nội vụ, chờ được khám cho đến lúc
khám xong. Phổ nói: Cách hành hạ tù nhân tốt nhất là cho ăn nhiều món để chỉ
chia cũng chết, không còn thời gian nghỉ. Hắn nghĩ phải bổ sung thêm một biện
pháp nữa: Tăng cường khám trại.
Đến khi được trở về buồng và ổn định nội vụ, lấy nước xong và
chỉ còn chờ cơm, Tất Tình giằng lấy đàn của Cán. Tiếng đàn của Tất Tình cất lên
như vừa tai qua nạn khỏi. Như sung sướng được trở lại thành người. Như vui mừng
vì còn được nghỉ ngơi. Nhí nhảnh một làn dân ca Phần Lan. Gợn sóng một khúc
sông Danube. Bát ngát đồng quê quan họ.
Bao nhiêu năm tháng đã qua đi. Bao nhiêu sức lực bọn hắn đã bỏ
ra trong các trại tù. Làm mà không được một cái gì. Làm cho đến kiệt quệ, cho đến
rã rời. Đó là điều mà người ta gọi là “cải tạo lao động”. Bây giờ mới được làm
cho mình. Làm để bù lại những ngày tháng đã mất, bù lại quãng thời gian đẹp nhất
của cuộc đời. Hắn chẳng bao giờ có ý định làm giàu. Hắn chỉ muốn làm để có tiền
nuôi con, giảm nhẹ phần nào những thiệt thòi của Ngọc. Nhưng Giang thì say sưa
với những dự định, những viễn ảnh.
Khi hắn ngủ dậy, mặt trời đã lên. Giang đã nhóm lò nước đã
nóng già. Một lúc sau Ky đến. Và Len. Len làm toàn bộ công việc. Chắt nước
trong chum ra. Rồi xắn bột. Bột trắng mịn, rắn như đanh. Hắn xắn thay Len. Chùn
cả ngón tay mới được một miếng. Nhưng chỉ khó miếng đầu thôi. Miếng sau dễ hơn.
Miếng bột mới xắn có góc cạnh để trong thau một lúc thì chẩy ra. Ky gánh nước.
Cả bọn chăm chú nhìn Len hoà bột. Đó là kỹ thuật: Dừng loãng quá, đừng đặc quá.
Cho vào một ít hàn the. Để giòn miến. Và một ít muối nữa. Để bánh đỡ vỡ, miến đỡ
gẫy và ít hao vì muối hút ẩm.
Rồi Len đưa cái muôi bằng sọ dừa múc bột đổ vào văng. Đậy
vung lại. Như tráng bánh cuốn. Chỉ có khác là xeo lá bột chín tròn tròn lấy ra,
đặt lên phên, còn một công đoạn nữa: dùng tay kéo căng lá bột cho mỏng, đều. Lá
bột co giãn như cao-su. Phải kéo sát ra hai bên mép phên, vắt chúng về phía
sau, giữ cho miếng bánh đa không co lại. Mọt tay Len kéo, một tay Len ấn vào giữa
lá bánh, ép làm cho nó giãn đều. Ngón tay Len cong cong, đỏ hồng vì nóng giữa
lá bánh nghi ngút khói. Làm xong quay lại bếp mở vung, đã thấy muôi bột tráng
trên tấm vải pô-pơ-lin đổi từ màu trắng đục sang màu trắng trong, hơi nước làm
phồng lên từng chỗ. Len đưa cái que gợi gợi xung quanh miếng bánh đa, rồi luồn
que vào giữa lá bánh, hất mạnh lên và đưa ra phên. Hãy để lá bánh khói ngùn ngụt
ở đấy, múc một muôi bột đổ vào văng láng đều và đậy vung lại đã. Rồi mới kéo lá
bánh. Lá bánh tròn thành lá bánh vuông. Một cái phên cao hai mét chỉ được ba lá
bánh.
Hắn đem phên ra dựng ghếch vào bờ tường chỗ dãi nắng. Và trở
vào. Cả bọn nhìn Len làm. Xúm vào căng kéo lá bánh Len mới tráng đặt lên phên.
Hơi than, hơi nước. Gò má Len đỏ ửng. Trán Len lấm tấm mồ hôi. Hắn thấy Giang
nhìn Len như người mất hồn. Biết mọi người đổ dồn mắt vào mọi cử động của mình,
Len vẫn hoàn toàn tập trung cho công việc. Đến phên thứ tư hắn bảo Len:
– Em nghỉ đi anh làm cho. Anh làm được mà.
Len đứng lên. Hắn ngồi xuống chiếc ghế đẩu đặt trước bếp.
Cái hợp tác xã làm miến chính thức sản xuất không quá một tuần
lễ. Tráng, phơi, gỡ bánh da (thao tác này khó, bánh giỏn quá thì bị vỡ). Xếp xuống
đất cho nó ẩm lại để chờ đem đi thái.
Hắn ở lì dưới đó, không về nhà. Buổi trưa ăn nhì nhằng cái
bánh chưng, buổi chiều thì Ky về nhà, còn hắn và Giang được con Thương hoặc thằng
Hiệp mang cơm đến (lúc bấy giờ mới có xe đạp). Cứ như những ngày chủ nhật trong
tù, một người được quả tắc và hai anh em ăn chung.
Bây giờ đến một việc bọn hắn không thể làm được: Thái miến.
Phải dúng số bánh đa đã phơi khô ấy xuống nước, cho nó mềm trở lại. Rồi cho vào
máy thái. Đó là hai quả lô bằng đồng có những đường lõm xuống làm thành răng
cát. Có một cái vô-lăng to. Quay tay. Chưa kể những vô-lăng, những bệ, những
vòng bi… Chỉ hai quả lô bằng đồng cũng đủ làm bọn hắn không dám nghĩ tới. Đắt lắm.
Gần một nghìn đồng mới được một cái máy cắt.
Lại Len. Len đã gỡ cho bọn hắn khỏi những khó khăn ấy.
Len đến bảo bọn hắn: “Các anh cho bánh vào bao, đèo đi với
em”. Lúc bấy giờ đã là chiều, hết nắng. Cần một người ở nhà ủ lò, dẹp phên… và
trông nhà.
Giang bảo:
– Anh Ky ở nhà nhé. Hôm nay có khi ông phải ngủ ở đây đấy. ưu
tiên ông nhiều quá rồi, chưa ngủ lại hôm nào.
Mặt Giang khó đăm đăm. Chẳng biết Giang nói thật hay đùa. Ba
bao bánh đa đặt lên cái xe đạp của Ky cao chất ngất. Lồng cồng nên nhẹ. Ba anh
em, người dắt xe, người đỡ bao. Họ đi im lặng, không ai nói một câu.
Quanh co, đường hẹp giữa những ruộng muống, những ao tù. Ra
phố. Rẽ vào một ngõ khác. Hai bên đường rải những rác, những xỉ than… Hắn ngoan
ngoãn theo Len như theo một người chị lớn tuổi, người đưa bàn tay dắt hắn đi những
bước đầu tiên, chập chững. Đã trông thấy những phên phơi bánh đa, phơi miến,
tín hiệu sắp đến nơi định đến. Cả ba bước vào nhà một người làm miến, bố cô bạn
của Len. Lò. Bột. Chậu. Và cái máy cắt. Bây giờ hắn mới nhìn thấy cái máy, nhìn
thấy hai quả lô với những răng vuông sắc bằng đồng đỏ sáng loáng. Nhìn thấy cái
vô-lăng bằng sắt, to bóng vì tay người. Nhìn thấy cái khát khao của bọn hắn.
ở mảnh sân hẹp, dựng những phên phơi. Thoang thoảng mùi chua
của nước bột chua, của những miếng bánh vụn ngâm từ những vại gần đấy. Và ở một
cái chái góc sân, tiếng những con lợn trầm hộc lên. Thật là cơ chỉ, nền nếp.
Đâu vào đấy. khép kín. , Phải nuôi được lợn, tận dụng bột bẹt rơi vãi, nước
chua… “
Cơ ngơi người làm miến không quen biết mà Len đưa đến là lý
tưởng của hắn, mơ ước của hắn. Hắn kính cẩn nhìn ông bố niềm nở đón tiếp hắn. Gặp
ông, hắn sống lại cảm giác hồi hắn hai mươi tuổi lần đầu tiên gặp nhà vàn
Nguyên Hồng. Và cái cơ ngơi của ông làm hắn khao khát giống như hắn đã từng
khao khát viết được những trang Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu…
Hắn nhìn cô con gái ông, bạn của Len như nhìn một siêu sao.
Cô con gái ít tuổi hơn Len, chỉ vừa thoát khỏi tuổi thiếu nữ thôi. Với vẻ chân
thật, giản dị của một người lao động từ tấm bé, cô bắt tay ngay vào việc. Lấy
nia đạt bên dưới máy cắt. Chọn những lá ẩm nhất thái ngay. Và Len nhúng những
lá bánh khác vào chậu nước gần đó.
Cô gái xoay vô-lăng. Giang đưa lá bánh vào giửa hai quả lô,
nó cuốn vào cả lá bánh làm dăn dúm và ùn lại ở khe răng, nhưng nó nhả ra những
sợi miến ở phía sau. Những sợi miến sóng nhau, đều tăm tắp, với những vết cắt
vuông, một màu ngà ngà. Không kìm giữ được niềm vui, hắn vớ lấy một túm miến
giơ lên. Hoá ra không chỉ có những sợi dài. Có những sợi ngắn và miến vụn nữa.
Nhưng túm miến hắn giơ lên là một túm miến sóng, đều, mềm oặt
chẳng thua kém bất kỳ một loại miến nào. Màu nó hơi ngả vàng, chứ không trắng
nõn, như vậy càng được khách hàng ưa chuộng. Nó chứng tỏ miến không pha bột gạo
hay bột sắn, dù nấu xong để lâu mới ăn miến vẫn giòn.
…Hắn nhoài người quay vô-lăng. Quả là một công việc nặng nhọc.
Lá bánh càng to, máy ăn càng nặng. Có những lá bánh quá cỡ phải lấy dao cắt làm
hai, làm ba. Mồ hôi dính áo hắn. Len bảo:
– Để em!
Len quay. Giang quay. Ông bố mời hắn lên uống nước, nhưng hắn
xin phép. Hắn không thể nào ngồi uống nước, khi chính Len quay máy thái cho hắn.
Chỉ riêng một chuyện này hắn đã thấy Len là người tuyệt diệu. Chỉ qua Len bọn hắn
đã được ông bố cho sử dụng máy, lại còn cử cô con gái giúp đỡ bọn hắn.
Tối mịt bọn hắn mới cho miến vào bao xe về. Hôm sau lại như vậy.
Vẫn có Len đi cùng. Hắn cảm thấy không thể làm phiền gia đình người làm miên
lâu hơn nữa.
Khi chỉ còn hai anh em trong căn nhà chơ vơ giữa một mảnh vườn
hoang hắn bảo Giang:
– Làm thế nào có máy thái, Giang nhỉ?
Giang như đã có một quyết định. Giang đứng lên đi đến cái chiếu
để miến mới thái ở giữa nhà, lấy hai tay quơ cho hắn một túm miến sóng nhất, phải
đến hai ki-lô. Giang bảo:
– Anh cầm về đưa cho chị. Để đấy. Kệ em. Bán hết chỗ này đã.
Rồi tính sau. Em lo việc bán cho. Mai 14 rồi. Bán mười tư. Rằm là hết.
Hắn cho chỗ miến vào một cái bao, xách đi. Đi bộ dọc vỉa hè.
Qua anh Thân hắn sẻ cho anh một nắm. Khi về đến nhà, hắn đổ miến ra rổ, khoe với
Ngọc, với các con, như khoe quyển tiểu thuyết vừa mới xuất bản. Còn hơn thế.
Quyển tiểu thuyết hắn có thể làm được. Hắn đã làm. Đó là nghề của hắn. Đây là
toàn bộ cố gắng, quyết tâm của hắn làm lại cuộc đời từ cái vạch ngang xuất phát
là nơi mình đã bị tiêu diệt. Không chịu thua. Phải sống. Người ta muốn hắn chết.
Nhưng hắn vẫn sống. Dù đối với hắn, khi không viết văn nữa thì cuộc sống chỉ
còn là tồn tại sinh vật. Biết làm sao. Cái bản năng sống của con người rất mạnh.
Phải sống qua được cơ đận này. Rồi sẽ minh oan. Sẽ đi các nơi. Pháp luật xã hội
chủ nghĩa quang minh chính đại. Chế độ xã hội chủ nghĩa là công bằng nhất thế
giới. Có thể có những đám mây đen che phủ mặt trời, nhưng rồi mây sẽ tan, mây sẽ
bay đi. Khong ai có thể làm cho hắn mất được niềm tin vào chân lý giản đơn: Có
công thì thưởng, có tội thì phạt.
Phải tìm cách gạp được ông Trần!
Hơn một năm sau hắn mới gặp được ông Trần. Giờ đây nhớ lại
hai năm mới ra tù cơ cực ấy mà sởn gai ốc, mà kinh ngạc không hiểu làm sao vẫn
sống được. Hắn nghĩ: May mà dạo ấy mình mới 40 tuổi. Còn sức khoẻ. Còn chưa ngại
công việc. Ngọc cũng vậy. Ngọc cũng còn sức bật. Năm ấy Ngọc mới 35 tuổi.
Những năm tháng sống trên trái đất này là quà tặng quý nhất
mà tạo hoá dành cho mỗi sinh vật có cái may mắn được gọi là người. “Người ta chỉ
sống có một lần. Cho nên đời sống quý giá vô cùng. “Vậy mà người ta lại thích
thú đi tiêu diệt đời sống kẻ khác”.
Hắn đã bị cướp mất cuộc đời. ít nhất đến lúc đó, hắn cũng đã
bị cướp mất những năm tháng đẹp nhất. Hắn mụ mị đi vì kiếm sống.
Sản xuất được tạ bột đầu tiên, cái hợp tác xã làm miến tan.
Do Giang. Giang nói với hắn:
– Em không làm nữa đâu!
Hắn choáng váng. Thật bất ngờ. Nhưng thực lòng hắn thấy như
trút được gánh nặng. Suốt ngày đêm ở giữa mảnh vườn này. Cơm cháo chểnh mảng,
ngủ vạ ngủ vật, xa vợ, xa con, như một thứ tù giam lỏng. Vốn không có. Không thể
mua chịu bột mãi. Không thể thái miến nhờ mãi. Ai bán miến cho? May mà Len (lại
Len) bán giúp. Len bán hàng có duyên lấm. Len bán được một buổi thì bố mẹ ra chợ
lôi về. Mắng, chửi. ầm ĩ. Cô bạn Len bán hộ. Chỗ miến vụn cô bán cho những nhà
bán bún chả. Được giá. Họ cho miến vụn vào nhân chả nem. Bao nhiêu cũng hết.
Một buổi hắn đang ngồi xếp lại chỗ miến cuối cùng thì Len đến.
Len bảo:
– Em trốn bố mẹ em, đi được một tý thôi. Em đến chào anh. Anh
Giang có về anh nói với anh ấy đừng trách em. Vĩnh biệt các anh!
Len khóc, chạy qua vườn ra cửa, không quay lại nữa.
Nguyên nhân cái tổ làm miến tan chắc chắn có phần câu chuyện
của Len. Khi nghe hắn thuật lại chuyện Len đến chào, mặt Giang tái đi. Môi đã mỏng
mím lại chỉ còn là một vệt thẳng. Nét mặt ấy của Giang hắn đã trông thấy ở trại
Q. N, khi Giang cầm lưỡi bướm đứng trước Triều Phỉ cao lớn. Và hôm sau hắn lại
thấy khi Giang làm bốc thăm chia tài sản. Có ba vật đáng giá nhất phải chia:
Cái chảo gang, cái chậu nhôm, và cái chum. Tiền bán phên, bán miến đủ trả tiền
bột cho chị Hiên. Hắn bốc được trúng cái chậu nhôm. Giang bốc được cái chảo
gang. Và Ky: Cái chum.
Hắn nhìn theo Ky bnồn bã ngơ ngác vác cái chum trên vai đi ra
đường, hai bắp chân gầy cong cong của Ky bước qua vũng nước, đầu nghiêng lệch
đi vì cái chum to cong đè một bên vai. Tiếng Ky rên rỉ:
– Tiền có phải vỏ don đâu.
Chờ Ky đi khuất sau bụi chuối phía ruộng muống, Giang bảo:
– Anh có lấy cái chảo làm gì không?
Hắn lắc đầu. Giang xuống bếp, cầm cả một hòn gạch ném mạnh
vào chảo. “Choang”. Cái chảo vỡ vụn.
Giang trở vào ngồi ôm mặt. Hắn hút thuốc lào, lặng im. Một
lúc sau Giang bảo:
– Anh em mình tính kế khác thôi.
Mỗi người tính một kế sinh nhai khác nhau.
Hắn chưa tính được kế gì thì gạo đã hết. Thao, vợ Bình xúc
cho mấy bơ. Cô Linh, thủ kho chính, vợ ông đại uý đi B cho Ngọc mấy bơ. (Giờ chỉ
còn Linh “goá sống” thôi. Ngọc đã có chồng ở bên rồi). Thao còn giúp được hắn
nhiều hơn. Bình bảo hắn: “Mày bảo Ngọc xin giấy giới thiệu đến cửa hàng bà Thao
mua giày ba-ta nhé”. Ngọc xin giấy giới thiệu mua một đôi, rồi thêm vào đó con
số 0, thành mười đôi.
– Sáng mai bà Thao chờ mày ở cửa hàng. Chuẩn bị tiền, bà ấy
bán cho chục đôi giày ba-ta.
Thao là kế toán ở cửa hàng mậu dịch. ở cửa hàng ấy có bà vợ
ông Lê Cộng cũng tên là Thao nên gọi là Thao phồ, vì bà to lớn. Là cửa hàng
phó, bà Thao phồ là một trong nhưtng người được quyền cấp giấy cho mua hàng. Uy
tín của bà còn lớn hơn cửa hàng trưởng vì bà là vợ ông Lê Cộng. Sau khi dự hội
nghị bốn bên về, tiếng tăm ông lên như sóng cồn, được cả hành phố bàn tán với một
niềm kiêu hãnh.
Bà Thao phồ nể Thao vì bà nhờ Thao “theo dõi anh hộ chị”. (Chả
là ông Cộng rất máu gái và bà Thao phồ rất ghen. Có lần ông đã rút súng bắn chỉ
thiên giữa phố để dẹp bà Thao phồ đang đánh đu lấy ông mà xỉa xói). Thao, vốn
là người đại hài hước và triệt để kinh doanh những phi vụ ấy, cười rinh rích
thuật lại:
– Ông có biết tôi làm gì không? Thế là tôi lại đi gặp anh tôi
nói: Chị đang nhờ em theo dõi anh đấy. Anh chỉ có tín nhiệm tôi quá thôi.
Thao hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ gián điệp hai mang. Cả anh,
cả chị đều quý Thao, vì Thao không phát hiện được ở anh hành vi xấu xa đĩ bợm
nào. Chị cho rằng anh đã biết sửa chữa, biết nghĩ lại và ghi cho Thao mảnh giấy:
Đoàn chiền thanh xí nghiệp 10 đôi ba-ta.
Với Thao thì được đoàn chiền thanh xí nghiệp do bà viết vào một
mảnh giấy trắng, còn hắn phải có giấy giới thiệu xin mua để bà Thao phồ phê duyệt
ở bên lề. Có giấy rồi, vợ chồng hắn phải lo chạy tiền vốn. Hắn chẳng vay ai được.
Lại Ngọc. Ngọc lên công ty, giật nóng mỗi người dăm ba đồng.
Hắn cầm tiền lên cửa hàng mua giày. Và không biết bán ở đâu.
Mua được hàng đã khó. Bán được hàng lại khó nữa. Không thể ôm một bọc giày lang
thang ở chợ. Người ta có thể túm lấy anh. Ông bảo vệ chợ có thể hỏi: “Này anh
kia, cho xem cái bọc. Giày à? Anh lấy đâu ra số giày này? Mua à? Mua ở đâu? Chỉ
cho tôi. Hàng này là hàng nhà nước. Buôn gian bán lậu hả?” Thế là người xúm lại.
Đông nghịt. Chỉ có độn thổ. Cứ cho là thoát được, vào được trong chợ, rụt rè đi
đi lại lại, tia những hàng vàng khách, sà vào hỏi: “Chị có mua giày ba-ta
không?” Để rồi nhận được một câu trả lời khinh khỉnh: “rẻ lắm. Mới lấy hôm qua
rồi. Hôm khác đem lại nhé”. Hoặc phải mặc cả từng hào. Họ ấn bọc giày vào gầm
quầy, (dù chưa ngã giá, chưa giả một đồng nào) giơ lên từng chiếc, chê bôi, lại
nói to, ầm cả chợ. Bao nhiêu người qua lại nhìn mình như nhìn một con buôn (thật
đáng khinh bỉ bọn buôn bán, chẳng sản xuất ra của cải vật chất, mà chỉ mua rẻ
bán đắt, làm giàu). Tệ hại hơn, họ nhìn mình như nhìn một con sâu mọt, rút hàng
của nhà nước.
Thật là một việc ngoài sức của hắn. Lại chính Thao đã giúp đỡ
hắn. Thao hẹn hắn buổi tối sang nhà. Thao đưa bắn đi bán. Hai người đạp xe đi
xa. Xa lắm. Hắn kêu lên:
– Sắp đến Phủ Lý chưa, bà Thao ơi!
Hắn phấn khởi đấy. Phấn khởi vì sắp có tiền đã hẳn. Lại phấn
khởi vì có vợ chồng Bình, những người bạn không chê vào đâu được.
Thao đưa hắn đến một nhà quen có mặt hàng ở chợ Chính, bán
hàng và nhận tiền.
Thi thoảng Bình lại sang. Bình nói cách khác: Chín giờ mai
lên cửa hàng gặp bà Thao. Đoàn chiền thanh xí nghiệp đấy.
Cũng như cá mè ô 5, có nghĩa là kiên trì vượt mọi khó khăn, xếp
hàng mua thực phẩm của mậu dịch trở thành câu nói Đoàn chiền thanh xí nghiệp
mang nội dung lấy giấy giới thiệu ở xí nghiệp Ngọc làm, cầm lên để bà Thao phồ
duyệt bán mười đôi giày ba- ta, trừ vốn đi, được lãi mười lăm đồng. Hắn đã hỏi
Thao lai lịch cái chữ Đoàn chiền thanh xí nghiệp. Thao cười ngặt nghẽo:
– Ai mà biết được. Hình như có một đoàn cán bộ truyền thanh
xuống cửa hàng một lần.
Hắn cãi:
– Không phải truyền thanh. Mà chiền thanh. Chiền thanh xí
nghiệp. Là cái gì? Cả Ngọc, cả Bình đều cười. Lũ trẻ cũng cười làn.
Thao nghiêm túc:
– Ông biết không. Nguyên tắc viết những loại giấy tờ này là
không được rõ ràng. Càng khó đọc càng tốt. Cần là cái chữ ký, cái số hàng.
Chữ ký của bà Thao phổ nguệch ngoạc; loằng ngoang. Chắc bà học
chưa quá lớp hai. Nhưng chữ ký của bà thật giá trị. Mảnh giấy con con, một hai
hàng chữ xiên xẹo và chữ ký như lò-xo của bà có giá to lắm.
Hơn mọi tờ giấy bạc. Tờ giấy bạc mệnh giá to nhất lúc đó là tờ
mười đồng, tờ cụ mượt. Tờ giấy của bà đưa cho hắn giá mười lăm, hai mươi đồng.
Tờ bà đưa cho người khác có giá năm, bảy chục. Tờ bà tự viết và ký cho mình lên
tới tiền trăm.
ôi! Cái chữ đoàn chiền thanh xí nghiệp yêu quý ấy hắn đã được
mấy lần. Mỗi chừ có giá trị thật cao. Vượt cả nhuận bút của Kipling chứ chơi
đâu. Đến khi ấy Bình mới công nhận nhuận bút của ông thợ cắt tóc cho Bình chỉ ở
hàng thứ hai. Đầu đuôi là thế này: Bình vào hiệu cắt tóc. Sau khi ngồi xuống ghế
và được quàng khăn, Bình bảo ông thợ:
– Ông cắt cao lên nhé
– Vâng. Đuổi.
Bình nhắc lại:
– Ông cắt cao cho.
– Vâng! Đuổi.
Đến khi trả tiền. Bình đưa ba hào, ông cắt tóc nhã nhặn:
– Của ông cắt đuổi. Năm hào
Bình phải trả năm hào. Bình bảo: Đó là nhuận bút cao nhất. Một
chữ hai hào.
Rõ ràng, “Đuổi, hai hào” chẳng thể nào bằng đoàn chiền thanh
xí nghiệp tiền chục được.
Chỉ đáng tiếc là hắn được đoàn chiền thanh vỏn vẹn có ba lần.
Hắn chỉ được hưởng hương hoa của ngành thương có ba lần. Để cấp cứu những lúc
quá khó khăn mà sống.
Thế rồi một hôm Dần đến. Dần bảo Dần lập một hợp tác xã cơ
khí, nhưng chưa có tài khoản.
– Giá có tài khoản thì có thể có hợp đồng làm quanh năm.
Dần rủ hắn vào vì Dần là một trong những người sáng lập. Hắn
hứa sẽ lo được tài khoản. Đó là một việc cực kỳ khó khăn. Cả thành phố chỉ có
trên chục hợp tác xã được mở tài khoản. Toàn những hợp tác xã danh tiếng. Quy
mô như một xí nghiệp và thực chất cũng là xí nghiệp. Đảng, tổ chức chính quyền
cử người làm chủ nhiệm, làm kế toán, làm bí thư đảng uỷ. Những hợp tác xã Hồng
Minh, hợp tác xã Quyết Tiến. Kiểu hợp tác xã như bọn hắn đừng hòng nghĩ đến có
tài khoản ở ngân hàng.
Nhưng Dần tin ở hắn. Hắn tin ở anh Thân. Công việc thuận lợi.
Anh Thân bảo hắn đến nhà ông Ngoãn, trưởng phòng thủ công khu phố.
Hắn đến con người nổi tiếng này, lòng lo lắng, dù anh Thân đã
bảo: “Ngoãn đồng ý cấp giấy lên ngân hàng. Chú đến đi. Rồi ở ngân hàng có gì
khó khăn, tôi nói cho”.
Hắn lo vì Ngoãn là em ruột ông Trần, vì hắn đến nhà Ngoãn với
hai bàn tay trắng. Mà hắn đã nghe nói nhiều về người phụ trách thủ công khu phố
này. Về phạm vi ông ta cai quản, về những hợp tác xã ăn nên làm ra. Về dòng của
cải đổ vào nhà ông ta. Về thanh thế của ông Trần mà ông được hưởng. Về những dịp
lễ tết, nhà ông như ngày hội. Về những người chầu chực xin gặp ông mà không được
ông cho gặp v. v… Tóm lại toàn những tin đồn ghê gớm. Ông là người ghê gớm.
Hắn đến nhà ông, nhờ ông, xin ông một chuyện tày đình: Cấp
tài khoản cho một hợp tác xã chưa có trụ sở, chưa có một tý máy móc, chưa ký được
một hợp đồng sản xuất nào. Hắn đến ông, bao thuốc lá cũng không, chỉ mang theo
một bộ mặt khó đăm đăm.
Thật may. Hắn vừa đi vào thì gặp hai người khách bước ra. Một
nam, một nữ. Chỉ thoảng trông cũng biết là những người giàu có, sang trọng. Quần
áo của họ rặt những thứ lý tưởng, tiêu chuẩn hoá. Nam sơ-mi xanh nhạt, quần
xi-mi-li màu mực Cửu Long. Nữ quần xa tanh là phẳng, áo phin nõn. Mặt họ bừng
sáng lên những nụ cười. Hai xe đạp Peugeot líp kêu giòn tanh tách. Thoảng qua hắn
một làn khói thuốc thơm.
Hắn bước vào nhà ông Ngoãn, rụt rè, sợ sệt gần như tuyệt vọng,
với niềm an ủi duy nhất: Chỉ có một mình ông. Khách khứa đã về hết. Hắn sẽ nói
được thoải mái hơn. Kể lể khó khăn và van nài dễ hơn. Dù có bị khước từ cũng đỡ
nhục nhã.
Ngoãn nhận ra hắn ngay. Chả hắn giống anh Thân. Và chắc Ngoãn
vẫn nhớ lời hẹn với anh Thân, nhắn hắn đến.
Ngoãn bắt tay hắn, cái bắt tay nhiệt tình chờ đợi.
Ngoãn mời hắn ngồi xuống ghế ở hành lang cho mát.
Rồi Ngoãn vào nhà, xách ra nào bia, nào bánh ngọt, nào thuốc
lá, đặt cả lên cái bàn vuông con.
Ngoãn mở bia rót ra cốc và nói với hắn một cách chân tình:
– Ông ăn đi. Uống đi. Của người ta cho tôi đấy. Tôi không mất
tiền đâu mà ông sợ.
Hắn ra về với bộ mặt đỏ ửng vì bia, cái công văn của phòng thủ
công nghiệp gửi ngân hàng thành phố đề nghị cho hợp tác xã Đồng Tâm được mở tài
khoản đút trong túi áo sơ-mi trắng, cái áo sơ-mi anh Diệu cho mà hắn mặc rất vừa.
Hắn không ngờ Ngoãn đối với hắn nhiệt tình như vậy Tốt và thông cảm như vậy. Ngược lại hẳn với những lời đồn đại. Hắn nghĩ: Hay là Ngoãn biết ông Trần đã gây đau khổ cho hắn. Và Ngoãn muốn làm giảm một phần nỗi đau của hắn chăng?
Suốt thời gian loay hoay lo tài khoản, chạy hợp đồng và thực
hiện hợp đồng đầu tiên, hắn không gặp Giang. Giang lặn mất tăm. Len cũng không
lại. Chẳng biết Giang sống bằng gì. Hắn đã tới nhà Giang. Không gặp mẹ Giang.
Không gặp chị Hiên. Gọi “Chị Hiên” là gọi theo cách của Giang thôi. Chứ Hiên
còn ít tuổi hơn hắn. Hắn chưa gặp người phụ nữ này nhưng nhà Giang có một bức ảnh
Hiên phóng to treo trên tường. Đó là một thiếu phụ trẻ, ngoài ba mươi, cằm tì
lên hai bàn tay đan vào nhau mềm oặt, má bầu bĩnh, cặp mắt đen và tư lự. Một
ngón tay đeo nhẫn. Thõng xuống ngực một sợi dây chuyền mảnh. Một kiểu mặt khác
hẳn Giang và mẹ Giang. Giang giống mẹ. Người nhỏ, mặt gầy, môi mỏng. Chắc Hiên
giống bố.
Hiên trong ảnh thật tương phản với chồng: Anh Tuỳ, một công
nhân xây dựng hơn tuổi hắn đã nghỉ mất sức và đi xây thuê. Đầu cắt bốc, mặt đen
đủi và chất phác, bàn tay nứt nẻ vì vôi vữa. Người anh lúc nào cũng toả ra mùi
của các bức tường đang xây. Anh pha nước mời hắn và bảo:
– Cậu Giang đi hơn tuần nay rồi.
Lũ trẻ con chữa lại câu nói ấy:
– Đến hôm nay là đúng mười ba ngày, bác ạ.
Hắn đạp xe về, lòng nặng trĩu. Giang đi đâu? ắt hẳn Giang lại
tham gia vào một băng nào đấy. Điều đó thật nguy hiểm. Như có một cái gì đang sắp
nuốt chửng lấy Giang.
“Nếu câu chuyện giữa Len và Giang thành thì đâu đến nỗi”. Hắn
lại lẩm nhẩm một mình. Cái đó đã thành tật rồi. Nhưng hắn chưa biết hắn mắc
thói quen ấy. Bởi vì khi hắn lẩm nhẩm là lúc hắn đắm chìm trong suy nghĩ.
“Nhưng không thể trách Len”. Hắn lại lẩm nhẩm. Không thể
trách bố mẹ Len. Nếu có ai đáng trách thì người ấy là Giang. Mà trong chuyện
này, Giang cũng không đáng trách hoặc chỉ đáng trách một phần…”
Phải đến khi bắt đầu thực hiện hợp đồng làm khay hấp mì sợi,
Giang mới ở đâu về. Giang đến nhà, không gặp hắn. Hắn đang ở chỗ làm. Đó là một
cái sân rộng, cũng của môt anh đi tù về mà hắn và Dần quen. Giang đến, khi hắn
đang ngồi xổm giữa sân giơ búa đập mạnh vào cái đột. Hắn dừng tay. Giang ngắm
nghía công trình hắn đang làm dở: Một lá tôn tráng kẽm đã đục thủng những hàng
lỗ tròn (phi tám) đều tăm tắp. Mấy người nữa cũng đang làm như hắn… Tiếng búa,
tiếng lá tôn bị va chạm kêu nhức óc. Ngổn ngang mặt sân, những mảnh tôn tròn
xoe bị đục ra như những đồng xu nhỏ. Hắn ghé sát tai Giang:
– Lặn lâu thế.
Giang ngắm nghía hắn đục một lúc, rồi bảo:
– Tối em lại nhé. Bây giờ em đi đây.
Hắn nhìn theo bóng Giang nhỏ, gầy, dáng phong trần. Cũng giống
Gorki, Giang không có tuổi thiếu niên. Từ thời thơ ấu Giang bước thẳng vào tuổi
thanh niên, tuổi trưởng thành. Trưởng thành trong tù đày, trong lớp người cặn
bã.
Hắn lại đục tiếp. Dần đi đi về về, dốc ở túi ra những cái đột
bằng sắt. Đột mới sắc, đục còn dễ. Đục được vài hàng là nó chùn lại. Hắn cảm thấy
không thể đột được. Không đảm bảo kỹ thuật. Miếng tôn tròn bị cắt ra không có lối
thoát. Nên nó không đứt hẳn. Nghiêm trọng hơn là đột như thế, lá tôn phẳng bị
biến dạng.
Dần tần ngần:
– Phải có máy ép. Đặt lá tôn lên trên bàn ép…
Hắn dừng đột, ngắm nghía công trình của mình:
– Lá tôn chưa đục, phẳng là thế, đực đến đâu cong uốn lên đến
đó.
– Thế này chưa chắc họ đã nhận đâu.
Dần đi. Đến chiều Dần về. Hắn và mấy nhân công thuê mượn nữa
đang đục. Dần đá vào chân hắn:
– Đi đi! Dục làm chó gì. Đi với tôi!
Dần và hắn đi uống nước chè chén. Dần bảo đã tìm được một
công nhân xưởng đóng tàu sẵn sàng bảo đảm hết hợp đồng cho mình.
– Nhưng còn giá cả ra sao?
Hắn lo lắng hỏi. Dần xì một tiếng:
– Bây giờ làm sao đừng để nó phạt lỡ hợp đồng là tốt lắm rồi.
Và Dần tính toán:
– Đ.mẹ. (Dần văng tục) Thằng Thăng chém mạnh quá. Mười phần
trăm hợp đồng. Mất đứt với nó bốn trăm. Có thế nó mới cho ký. Nó là trưởng phòng
kế hoạch mà lại…
Dần nói những con số… Tiền gia công của anh thợ xưởng đóng
tàu, tiền thuế, tiền vận chuyển là vừa xoẳn.
Hắn cũng thấy cái hợp đồng sản xuất khay hấp mì sợi đâu có dễ
nuốt, đối với một hợp tác xã như hợp tác xã Đồng Tâm. Tên là Đồng Tâm đấy,
nhưng đâu có đồng tâm. Hợp tác xã có hơn mười xã viên, chỉ có hắn đục và Dần đi
đi về về, dốc ra nhưtng cái đột. Còn mấy đứa choai choai quanh xóm ra đục thuê.
Những xã viên khác biến đi đâu hết. Hoá ra cũng toàn những người đi tù về, nghề
nghiệp người biết, người không. Vốn liếng không. Không ai phải góp. Có công nhất
là Dần, người đã đứng ra tổ chức, lo hợp đồng và hắn chạy được tài khoản.
Hắn đồng ý với Dần. Sao cho không bị phạt là tốt. Tất cả việc
thu xếp chuyển hợp đồng cho anh Thọ xưởng đóng tàu, hắn mặc Dần. Hắn nghĩ: Có
thể những con số Dần đưa ra chưa thật chính xác. Nhưng hoàn cảnh Dần cũng khốn
nạn, có khi còn khốn nạn hơn hắn. Dần không có ai giúp đỡ. Hắn còn bố mẹ, anh
em, bạn bè. Hắn mong Dần sân siu được tí chút ở cái hợp đồng này. Dần ba đào
quá. Còn hắn, hắn cũng chẳng mất gì. Chỉ mất ít thời gian. Mà thời gian hắn nhiều.
Lại khỏi phải nằm một mình ở nhà, suy nghĩ. ít ra cũng có một cái gì đó để mình
bận rộn, lo lắng và hy vọng.
Buổi tối hôm ấy Giang đến nhà hắn như đã hẹn. Giang thay đổi
hẳn: Sơ-mi trắng là phẳng, cho vào trong quần. Quần xi-mi-li pha ni-lông màu be
cũng là phẳng. Vừa trông thấy Giang, Ngọc đã reo:
– Cậu Giang. Đi đâu mà lâu thế?
– Em đi Tùng Dương, chị ạ.
– Anh đến nhà mấy lần đấy. Dạo này cậu làm ăn gì?
Giang cười: “Em nhùng nhằng”. Ngọc nhìn Giang dò xét. Nàng biết
Giang chẳng có công việc gì làm ăn. Nàng thương Giang như nàng thương chồng
nàng. Mỗi người một con đường đi đến tù đày. Một số phận đi đến tù đày và bây
giờ cùng chung cảnh ngộ. Giang vẫy thằng Dương:
– Lại đây, cậu cho cái này.
Giang rút túi cho nó một gói nhỏ kẹo lạc. Và một cái còi. Nó
đưa lên mồm thổi “toét toe”. Mắt nó sáng lên. Hết nhìn mẹ lại nhìn bố. Hai đứa
lớn ngừng học.
Thang Hiệp giơ tay:
– Dương, cho anh xem nào.
Thằng Dương giấu vội về phía lưng và lại đưa cỏi lên mồm thổi.
– “Em đang làm cái này đấy, chị ạ!”.
Giang trỏ vào cái còi trong tay thằng Dương, bảo Ngọc.
Khi hai anh em đã xuống thang, Giang cười:
– Nói đùa đấy. Của anh Vũ em làm.
– Vũ nào?
– Con bà cô em. Anh chưa biết.
Giang đèo hắn đi chơi phố.
– Anh em mình vào đây uống nước chanh di.
– Sang thế
– Em có tiền.
Quán giải khát ở đầu đường Quang Trung, nơi trông ra chỗ Phúc
mù chữa xe đạp ngày nào. Phúc đâu rồi? Phúc làm gì?
Họ vào trong nhà. Họ không muốn ngồi ngoài hè. ở đó có mấy
thanh niên đang uống nước. Họ muốn yên tĩnh chuyện trò.
– Len đâu?
Giang châm điếu thuốc.
– Em không gặp.
Hắn thở dài.
– Thôi, anh đừng nói chuyện ấy nữa.
Hắn biết chuyện giữa Len và Giang thế là hết. Hắn kể chuyện hắn
làm hợp tác xã Đồng Tâm.
– Anh không làm được đâu.
– Hợp tác không có gì cả thì làm ăn sao được.
– Giang đi Tùng Dương thật đấy à?
– Em đi thật.
– Em làm gì trên ấy?
Em buôn bán lằng nhằng.
– Khá không?
– Cũng được.
Đúng là trông Giang có vẻ có tiền. ít nhất là hai anh em cũng
vào quán giải khát như những người sang trọng. Giang uống nước và nhìn hắn,
nhìn vẻ mặt, dáng người được đúc từ cái khuôn đúc cán bộ công nhân viên nhà nước
của hắn, mà dù thế nào cũng vẫn để lại dấu tích trên con người hắn, từ cử chỉ,
kiểu tóc, cách ăn mặc. Dù năm năm tù, gần một năm thất nghiệp rồi, dấu vết cán
bộ vẫn chẳng phai đi.
Giang cười rinh rích:
– Trông anh giống tây thật đấy.
Giang nhìn ra ngoài, chợt Giang kêu lên:
– Chết rồi, cái xe dựng đây đâu mất rồi?
ở chỗ vỉa hè ngay trước cửa, cái xe của Giang, bóng loáng, đứng
trên chân chống, không còn nữa. Hai anh em chạy vội ra.
– Em vẫn tia đấy chứ. Vừa nãy vẫn còn.
Hai người nhìn về phía đầu đường, phía cuối đường hun hút.
Không. Không ai đạp xe vội vã. Có mấy người đều đi thong thả với dáng bình thường
nhất.
Hắn và Giang lặng lẽ quay vào. Giang đi đến sát tường nơi dựng
bốn, năm cái xe của khách.
Giang hỏi từng xe và reo lên:
– Đây rồi. Ai lại dắt vào đây.
Bà chủ quán cười xoà:
– Em dắt vào đấy cho nó gọn.
Mấy anh ngồi uống nước cũng cười:
– Công nhận hai ông này bình tĩnh.
Giang giải thích:
– Căn bản là xe đi mượn mà. Nên không nhận ra.
Sau lần gặp ấy, Giang hay lại nhà hắn hơn. Trên nét mặt khó đảm
đăm của Giang không hằn lên dấu hỏi to tướng: Làm gì sống đây. Giang như đã có
hướng rồi. Cứ vậy mà làm. Rồi đến đâu thì đến. Chính vì thế mà hắn lo cho
Giang. Lo, nhưng không dám nói, không dám hỏi. Vả lại biết khuyên Giang gì đây?
Liệu có là đạo đức giả khi không tìm được một lối thoát nào cho Giang, mà chỉ
đưa ra những điều thuyết lý. Lâm vào những hoàn cảnh này mới biết cuộc sống khó
khăn tới mức nào. Điều hắn nghĩ về Giang, lo về Giang đã được xác định là đúng.
Điều hắn phỏng đoán đã thành sự thật.
Một vòng xoáy mà Giang không thể thoát. Một hôm hắn và Bình
đang ngồi nói chuyện thì Giang đến. Giang và Bình quen nhau qua hắn. Giang vác
một chiếc xe đạp Thống Nhất cũ lên gác, bảo hắn:
– Anh cho em gửi cái xe. Của một thằng bạn em. Nó đi tàu Hà Nội
bây giờ.
Hắn gật đầu. Giang mang xe dựng vào cạnh lò sưởi.
– Em để vào đây cho gọn.
Hắn hỏi Giang khi Giang xuống thang:
– Gửi lâu không?
– Một hai ngày thôi, anh ạ.
Việc gửi đó là rất bình thường thôi, nhưng hắn và Bình nhìn
nhau. Im lặng. Và hiểu. Bình cũng nghĩ như hắn: Giang lại đi đánh nghẽo. Hắn đứng
dậy, lùi ra xa để nhìn cái xe đạp cũ kỹ trong toàn cảnh. Chưa bao giờ hắn nhìn
thấy một đồ ăn cắp nào giá trị như vậy Hắn hiểu rằng có một người nào đó vừa mất
cả gia tài, mất cả cần câu cơm, phương tiện kiếm sống đây Họ đang trình báo
công an. Họ đang tìm. Họ đang nguyền rủa kẻ ăn cắp. Họ không thể biết được cái
xe thân yêu, quen thuộc, trung thành của họ đang nằm ở chỗ nào đâu.
Chủ của chiếc xe này cũng giống hắn, không chăm chút, ít lau
chùi, đi là đi, thế thôi… Không ai bảo ai, hắn và Bình cùng bước lại, cúi xem
biển số. ở tấm biển sắt có hàng chữ nổi: TD. Xe ở Tùng Dương. Giang chuyển địa
bàn, lên Tùng Dương nhập với một băng nào đó trên đấy. Cái khoá vòng vẫn còn,
nhưng ổ khoá đã bị phá, long ra. Thật vô cùng nguy hiểm. Lao vào trò này, sớm
muộn cũng sa lưới. Sớm muộn cũng trở lại Hintơn. Bên cạnh nỗi lo cho Giang, hắn
còn lo Ngọc và lũ trẻ biết.
– Xe của bạn cậu Giang.
Lũ trẻ tin ngay. Còn Ngọc, không hiểu Ngọc có nghi ngờ gì
không. Hắn không dám hỏi. Chỉ mong Ngọc thông cảm cho hắn. Và cho Giang nữa.
Cũng may Giang chỉ gửi hắn hai cái xe tất cả. Chiếc sau là xe Favorit. Cũng lại
dựa vào lò sưởi, ngay góc nhà. Ai vào cũng trông thấy. Chẳng lẽ lại đắp chiếu
lên xe. Không tự nhiên. Mà để trơ ra thế này, thật nguy hiểm. Đập vào mắt mọi
người. ở đời ai học được hết chữ ngờ. Có khi chính người quen của hắn lại nhận
ra cái xe này của một anh bạn mới mất cách đây vài hôm. Lũ trẻ không hỏi han
gì. Nhưng Ngọc nói: “Lại xe cậu Giang hở?”. Hắn nhìn Ngọc, đón nhận điều trách
móc. Hắn thấy Ngọc cắn môi, tránh cái nhìn của hắn.
Bình sang. Bình ngồi xổm, lặng lẽ ngắm chiếc xe. Nó chỉ là sắt
thép. Nhưng Bình cảm thấy nó côi cút. Anh xót xa cho chủ nó. Đó là một chiếc xe
đã cũ. Và ở bộ phận nào cũng thấy rõ bàn tay chăm sóc của người chủ xe. Xe nam.
Sơn đã sứt ở một số chỗ. Những chỗ sứt đó được chấm lại cẩn thận bằng một thứ
sơn gần như cùng màu. Gác-đơ-bu gãy đã được nối lại rất khéo, chắc và khít. Yên
xe rách đã được khâu. Một bên pê-đan gẫy được cưa ngắn đi và làm lại, nhưng vẫn
đủ cả bi, côn… Bằng chứng là khi Bình lấy tay quay cái pê-đan ngắn, nó xoay
tít. Lốp đã mòn nhiều, lốp sau trơ vải, nhưng không chỗ nào bị giập, chứng tỏ
lúc nào cũng được bơm căng… Phanh, chuông vẫn còn đầy đủ…
Bình đứng lên, ra bàn uống nước: “Công nhận tay này giữ cái
xe tuyệt diệu”. Hắn cứ hình dung người mất xe có khuôn mặt vuông vức, dáng cao
lớn như anh lái cần cẩu chân đế ở dưới nhà. Anh ta cũng có một cái Favorit cũ.
Giang bị bắt trở lại vào mùa đông năm ấy. Mùa đông đầu tiên
được tự do dài không kém gì một mùa đông trong trại.
Khi đó hắn đã thôi không làm hợp tác xã cơ khí nữa. Hắn bảo Dần:
– Thôi, ông xoay xoả thế nào tuỳ ông. Tôi không làm nữa đâu.
Hợp tác xã Đồng Tâm cho đến lúc đó mới thực hiện được một hợp
đồng duy nhất: Làm khay hấp mì sợi. Hắn còn đi giả hàng cho Dần. Xếp khay lên một
cái xe bò do Dần thuê. Dần đưa hắn mười đồng. Vừa trả tiền thuê xe, vừa ăn
trưa…
Hắn, Dần đến nhà anh Thọ từ sớm. Toàn bộ công việc phải chuyển
cho anh Thọ, một công nhân cơ khí. Anh lấy sắt thép dựng một cái bàn ép thủ
công và thuê người làm ở nhà anh. Có dưỡng để tính lỗ. Có cần vít xuống là
xong. Chất lượng không chê vào đâu được. Những hàng lỗ đều tăm tắp trên miếng
tôn vẫn cứ phẳng lỳ.
Xe đi. Chiếc xe cao chất ngất những khay mì, đã được chằng buộc
kỹ. Chú bé đánh xe (lớn hơn thằng Hiệp) ngồi trên cái ngáng buộc giữa hai càng
xe. Hắn đạp xe theo. Dần còn nói lại một lần nữa:
– Có một số khay mình đục bị méo. Ông yên tâm. Cứ bảo thằng
Thăng là tôi đã nói với nó rồi.
Tưởng nhanh, hóa ra quá trưa vẫn chưa xong giấy tờ. Đúng như
lời Dần nói: Khay xấu khay đẹp Thăng nhận hết. Thăng ký hợp đồng với Dần. Thăng
có suất. Dần thì chửi:
– Đmẹ. Thằng Thăng chém nặng quá.
Thăng lấy cho hắn bốn cái bánh mì nóng hổi, vừa ra lò (lò
ngay gần đấy). Hắn hai. Thằng đánh xe hai.
Hắn đang dạt vào chỗ giọt gianh, tránh nắng, nhai bánh mì thì
có người gọi hắn:
– Nhà báo! Làm sao đến nông nỗi này?
Hắn nhìn lên: ông Hưng giám đốc nhà máy cơ khí nay là giám đốc
nhà máy mì sợi, một người quen từ lâu. Ông là cộng tác viên tích cực của hắn.
Nhờ hắn, xí nghiệp ông được nhiều người biết. Nhờ ông, hắn hoàn thành mọi yêu cầu
đột xuất của báo. Hắn thuộc từng phân xưởng của xí nghiệp, biết tên từng tổ trưởng
sản xuất và thân cả với tổ trưởng tổ khá, các cá nhân có tay nghề có thành
tích… Hắn viết nhửng tin những bài đạt yêu cầu, nếu không nói là sâu sắc. Giữa
ông Hưng và hắn còn có cả một sự hợp đồng tác chiến mà đôi bên rất hiểu vai
trò, nhiệm vụ của mình. Ví dụ như buổi tối, ông Hưng đang ngồi ở nhà với vợ con
thì hắn đến. Hắn bảo ông:
– Anh đã đọc chỉ thị của thành uỷ về đợt thi đua chào mừng Quốc
khánh mồng 2 tháng 9 chưa?
– Rồi. Mới nhận được buổi chiều, sao?
Hắn trình bày. Ông Hưng hiểu ngay:
– Các ông cần tôi phát biểu hưởng ứng đợt thi đua chứ gì?
Và ông sốt sắng đi vào ngay vấn đề. Ông biết cái gì hắn cần.
Ông bảo:
– Mục đích ý nghĩa đợt thi đua tỏi không nói. Cái ấy phần nhà
báo. Thành tích thì chưa có vì chỉ thị mới nhận, chưa phát động, triển khai.
Tôi phải nói xí nghiệp tôi sẽ hưởng ứng như thế nào. Đúng không?
Hắn gật đầu lia lịa: “Đúng, đúng, chủ yếu là biện pháp”.
Ông Hưng cười: “Nhất định rồi. Biện pháp là phần của chúng
tôi”… Và hắn ghi. Cứ thế ghi. Ông nói về khâu yếu trong xí nghiệp. Đó là ngành
đúc. Bên tiện, phay, bào thao diễn, năng suất tăng nhanh, nhưng thiếu phôi. Tại
sao? Vì chất lượng. Trong khâu yếu này phải tìm ra khâu yếu nhất. Khồng thể
chung chung được. Vì sao phôi hay bị rỗ? Cát? Hay gang? Hay kỹ thuật? Tức là
không thể nói khâu yếu chung chung mà phải tìm ra khâu yếu của khâu yêú.
Sáng hôm sau báo đã có ngay bài hưởng ứng phong trào thi đua
của giám đốc Đào Đình Hưng, in trên trang nhất. Cứ có việc đột xuất, cần gấp, hắn
đến ông. Cũng có khi do mải chơi, nước đến chân mới nhảy. ông hiểu ngay việc
ông phải làm. Ông giúp hắn, hắn giúp ông. Cơ quan báo tín nhiệm hắn. Thành phố
tín nhiệm ông. Hắn và Bình gọi ông là “Giám đốc sở biện pháp”. Đúng, ông là con
người của những biện pháp.
Ông đang đứng nhìn hắn. Hắn đang ngồi dạt vào vỉa hè tránh nắng
và nhai bánh mì với thằng bé đánh xe bò. (Hắn giữ thằng bé lại để xem có phải
chở cái khay nào về sửa không?).
Hắn vẫn ngồi. Hai tay hai cái bánh mì, một chiếc ăn dở, cười
thản nhiên như những người biết tự trọng khi lâm vào hoàn cảnh tương tự:
– Anh Hưng Tôi giả khay mì.
Hắn cố giữ vẻ mặt của người bằng lòng, hơn nữa, bất cần số phận.
Ông giám đốc nhìn hắn. Hắn tin là ông đã biết chuyện hắn đi tù. Ông ngần ngừ một
chút: “Chưa xong à? Hay vào phòng tôi mà nghỉ?”. Hắn thật sự cám ơn ông. Cả một
tình bạn ngày xưa còn lại câu mời thân tình ấy.
Ông đi. Hắn lại nhai. Và kéo thằng đánh xe bò ra quán uống nước.
Nó đã khiêng với hắn mấy trăm cái khay mì… Mãi đến chiều mới xong mọi thủ tục.
Có phiếu nhập kho. Có hoá đơn nhận hàng… Thằng bé cùng con bò đã về trước. Hắn
đạp xe thong thả trên con đường nhựa vào thành phố. Hắn dành ra được mấy đồng
trong số tiền Dần đưa. Hắn đưa cho Ngọc. Buổi tối, ăn cơm xong, Bình đến rủ hắn
đi chơi phố. “Heo may. Lâu lắm mới được đi chơi heo may với nhau”. Hắn ngớ ra. ừ,
heo may thật. Heo may đã về.
Cuộc sống khó khăn làm hắn không còn cảm thụ được thiên nhiên
nữa. Thật khốn nạn quá. Mà làm sao hắn lại không thấy heo may nhỉ? Hắn chỉ thấy
lành lạnh. Và Ngọc lấy khăn ra quấn cổ cho thằng Dương. Thế mà trong tù hắn nhận
biết được heo may, lòng xao xuyến khi heo may xao xác đầy rừng, đầy trại. Heo
may xao xác trời mây, xao xác mặt đất sân trại…
Heo may là phép mầu làm sống lại kỷ niệm. Như lúc này đạp xe
với Bình, hắn nhớ tới một đêm trăng thu thời chiến tranh bắn phá. Hắn về quê
thăm con và sang phà muộn. Thành phố vắng. Đèn điện tắt. Đường phố tràn ngập
gió heo may bất chợt và ánh trăng lu.
Hắn đạp xe trên đường phố Hồng Bàng hun hút, lòng ngân nga
bài “Con thuyền không bến”. Đường phố dài thăm thẳm chỉ có một mình hắn đạp xe
ngược chiều với những chiếc lá khô gió cuốn xào xạc.
Bỗng hắn nghe thấy từ phía đối diện, dưới bóng những cây me,
một tiếng huýt sáo rất trong bài hát hắn đang thầm hát:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Tiếng huýt sáo vang, trong trên đường phố như tiếng ngân
trong lòng hắn. Một người vừa huýt sáo vừa đạp xe từ trong bóng tối những cây
me đi ngược lại Đó là tiếng của trời, của gió, của lá, của thành phố vào thu. Hắn
nhìn theo mãi con người đồng điệu trên đường phố vắng tanh mà lòng càng thêm
yêu đời, yêu người, yêu thành phố có một người không biết mặt, không biết tên
đang đạp xe về phía xa với tiếng huýt sáo nhỏ dần.
Hắn kể cho Bình nghe kỷ niệm ấy trong quán cà-phê và bảo:
– Hôm nay nếu không có mày tao cũng không biết là heo may nữa.
Bình cười ha hả:
– Mày ơi! Chính tao cũng có một thời quên Tết tháng Giêng,
quên rằm tháng Bảy
Hắn cũng cười và tự nhủ sẽ cố gìn giữ khả năng quý báu ấy của
mình: Biết cảm xúc trước thiên nhiên. Không thể để cảm xúc ấy bị tiêu diệt. Hắn
hiểu nó đang mòn mỏi. Đối với hắn heo may hay một trận mưa đêm chợt tỉnh chỉ là
những thứ xa xỉ. Như nồi miến lòng gà ăn thừa ở nhà Thế (hôm hắn đến bán ba bó
túi ni-lông) mà hắn không thể nàocó được. Đó là những thứ không dành cho hắn.
Nhưng hắn vẫn tự nhủ: Đừng lãng phí, đánh mất khả năng cảm thụ thiên nhiên, món
quà trời phú của hắn. Cho tới mãi về sau, trong cuộc chiến đấu dai dẳng để giữ
lấy khả năng ấy, hắn lại phát hiện ra một điều khác. Hắn chẳng lòng dạ đâu hưởng
thụ thiên nhiên. Hắn làm sao tĩnh tâm được mà ngắm vầng trăng thu thăm thẳm,
hay im lặng nhìn bầu trời chuyển từ đêm sang ngày, dìu dịu, nhàn nhạt, sự im lặng
lúc đó luôn nhắc hắn nhớ tới biển ì ầm…
Lòng người phải yên tĩnh. Điều ấy không phụ thuộc vào hắn.
Làm sao người ăn mày què, lê trên phà bằng hai đầu gối bê bết đất có thể nhìn
sóng đang dào dạt quanh phà. Làm sao một người suốt ngày phải bịt miệng một ngọn
núi lửa nghẹn ngào sôi sục trong lòng mình, lúc nào cũng lo kiếm sống, lại nghe
được âm điệu, cung bậc thánh thót của con chim chích choè tinh mơ bay tới đỗ ở
đầu nhà gọi mọi người dậy bằng khúc hót tự ngàn xưa:,
– Thiếu tiểu tu cần học (Còn nhỏ tuổi phải chăm chỉ học
hành).
Hắn có bao việc phải lo nghĩ. Và bây giờ tất cả sự suy nghĩ
là hướng tới việc đi làm bốc vác phân đạm ở Cảng. Chính Bình xin cho hắn. Bình
có một người quen làm ở công ty phân bón cấp I. Hắn chẳng tin sẽ được đi làm
chút nào. Nhưng Bình bảo: “Mày đi làm lao động có gì mà không xong”. Thực sự
Bình cũng không tin. Bình nói vậy để tự trấn an mình. Bình không tin vì điều
khó nhất là công việc phải làm ở cảng. Hắn làm sao ra đó được.
Bởi vậy một buổi tối khi người bạn ở công ty phân bón cầm đến
nhà tờ giấy hẹn hắn đi làm hợp đồng ngắn hạn và giấy đề nghị công an Cảng cấp
cho hắn thẻ ra vào Cảng, Bình bổ đến ngay nhà hắn.
Bình cười:
– Mày được đi làm rồi.
Và lục túi áo bông, nơi Bình đã đút hai tờ giấy của công ty
phân bón. Túi áo bông rỗng. Hai tờ giấy đã biến mất. ôi! Hắn đã biết mà. Làm gì
có sự may mắn quá như thế. Làm gì có cái sự xin mà được ngay. Số hắn là như vậy.
Bình hoảng. Lo. Bình mượn đèn pin soi dọc đường. Tìm đi tìm lại. Lật từng mẩu
giấy bẩn. Vẫn không thấy. Bình lồng ngay đến nhà người bạn đã giúp đỡ anh. Một
tuần sau, Bình đem sang cho hắn hai tờ giấy với nội dung như hai tờ giấy đã bị
mất. Anh cười: Lần này thì không thể mất được.
Anh moi ra từ trong túi áo sơ-mi, tận bên trong chiếc áo len
và phía ngoài cùng là chiếc áo bông… Và bây giờ mới thật sự là nỗi lo lắng của
cả hai: Cái giấy ra vào Cảng. Ai người ta cho hắn ra vào Cảng. Đó là các tàu quốc
tế. Đó là biên giới. Mà hắn lại là một tên phản động.
Hắn đã được cấp giấy phép ra vào Cảng như mọi người bình thường
khác. Như mọi người được tín nhiệm chính trị khác. Như những sự mất cảnh giác hồn
nhiên khác. ở đồn công an Cảng, người ta làm việc đó một cách đơn giản bình thường
và ghi rõ hắn được ra Cảng từ cổng nào, làm ở phạm vi kho nào, cầu số mấy. Bước
qua cổng Cảng, đi làm, hắn thấy phẩm giá mình được nâng lên. ít nhất là so với
bọn Giang, Min, Dự. Hắn thấy hắn vẫn có sự tín nhiệm chính trị. Và thoáng một
chút tự hào vì lại được hoà vào dòng người lao động của nhà nước.
Phân đạm trắng xoá mặt sân, trong kho.
Cùng với mọi người (toàn nữ) hắn làm một công việc kì cục nhất
đời: Lấy liềm bổ vào bao giấy, xé ra, dốc cho hết đạm và quẳng vỏ bao rách vào
một đống. (Công ty xuất phân rời, nên phải làm như vậy). Làm thông trưa. Con
Thương mang cơm đứng ngoài cổng chờ bố. Hắn ra lấy cặp lồng cơm vào. Đang là
mùa cá nục ướp muối của mậu dịch. Hắn ăn cơm với cá nục muối kho dưa, cà chua,
ngọt thỉn. Hắn làm việc đúng một tuần lễ thì hết việc. Trong một tuần ấy Ngọc
đã bán cái áo len ngắn tay cải hoa dâu của con Thương đttợc hai mươi đồng. (Cái
áo Linh bảo Ngọc lấy cắp len vụn ở kho đan cho nó). Hắn cung lập được thành
tích: cuộn chặt và yểm về được hai cái vỏ bao u-rê lành (hắn đã tháo chỉ cẩn thận)
để dán vào những ô cửa kính đã vỡ, chống gió mùa đông bắc. Người ta đưa hắn năm
mươi đồng tiền công một tuần lễ làm việc, và bảo hắn tạm nghỉ, chờ việc. Lương
quá cao.
Nhưng hắn biết là hắn không làm lâu được. Rất nặng nhọc. Bao
đạm xếp thành hàng trong kho, đổ những bao trên thì dễ, nhưng phải moi cả những
bao bên dưới. Bới, móc, kéo. Sút cả lưng. Điều đáng sợ nhất là hơi đạm phả vào
mũi, vào cổ. Rát như khía. Có lẽ cũng vì thế, nên hắn ăn cơm cứ thấy ngọt thỉu.
Chờ mãi không được gọi đi làm tiếp, hắn chuyển nghề: Cuốn thuốc
lá. Hắn nhờ Giang đóng cho cái bàn cuộn. Dễ thôi. Vài thanh gỗ thông. Mấy cái
đinh. Căn bản là có một que hàn để làm que cuộn. Giang xem hắn căng giấy, tập
cuộn. Cuộn bằng thuốc lào, bàng giấy pơ-luya. Bóc ra, cuốn lại, cứ vậy. Giang rất
thích. Giang bảo có khi Giang cũng làm việc này. Giang mách hắn chỗ lấy thuốc.
Cô Miên, cô ruột Giang buôn chè và buôn thuốc lá. Cô không đi đâu, cô chỉ ngồi
nhà. Người bán, người mua đều tới nhà cô. Hắn được cô và anh con giai làm còi rất
quý. Hẳn Giang đã nói nhiều về hắn. Cô Miên bảo:
Nhiều người cuộn làm. Họ lấy thuốc của cô, nhưng cô không
buôn nhiều. Mặt hàng chính của cô là chè cơ.
Nửa tháng sau khi cuộn thuốc, mẹ Giang đến báo tin: Giang bị
bắt ở Tùng Dương. Hắn chết lặng. Điều hắn lo đã trở thành sự thật. Mới về được
nửa năm. Lại đi. Lần này gay đây. Tiền sự, tiền án cộng cả vào. Lĩnh đủ.
– Cậu ấy tạm giam ở Tùng Dương hay di lý về đây rồi.
– Em vẫn ở Tùng Dương
Người mẹ héo hắt. Mặt xám, quắt lại, môi mỏng dính. Da sát
xương. Bé nhỏ. Hắn cảm thấy có lỗi với bà: “Giá anh cứ cố duy trì cái hợp tác
làm miến thì đâu thế này!”. Hình như bà muốn nói với hắn như vậy. Bà chẳng biết
thêm gì về Giang. Hắn lên nhà bà.
Lần này gặp Hiên, chị Giang. Hiên rất giống bức ảnh phóng to
treo trên tường nhưng giẫn dị hơn và sống động hơn nên xinh đẹp hơn. Khổ người
cân đối, nở nang, mặt mũi đầy đặn, má bánh đúc, mắt đẹp và khao khát dục vọng.
Khác hẳn Giang, khác hẳn mẹ và càng khác lạ với người chồng làm thợ nề của
Hiên. Hiên nhìn hắn chăm chú, thân mật như nhìn một người mình đã nghe nói tới
rất nhiều, rất quý trọng mà nay mới gặp.
Nghe Hiên nói, hắn lại hy vọng Giang có thể được xử nhẹ.
Giang chỉ tiêu thụ xe đạp ăn cắp. ít ra trong trường hợp này là như vậy. Lại
Thông cháy. Thông cháy có người mẹ bán chè chai đã kéo Giang lên giường. Thông
cháy bật lên khi được gọi ra nhận tiếp tế: “Bố chờ con mãi”. Thông cháy mãn án,
chuyển địa bàn hoạt động về Tùng Dương. Thông cháy nhận hết về mình. Và khẳng định
Giang chỉ là người tiêu thụ. Hắn nghĩ Giang chẳng phải chỉ tiêu thụ, Giang còn
tham gia vào nhiều công đoạn khác, nhưng Thông cháy đã nhận hết cho Giang,
Thông cháy sẽ không bao giờ nói khác. Cánh hình sự rất giữ lời hứa, có khí tiết
trước bạo lực. Sẵn sàng chấp nhận. Trong tù đáng sợ nhất và đáng phải cảnh giác
nhất là mấy ông cán bộ tham ô, ăn cắp… đi tù. Những người này hay bẩm, hay sớ,
hay bán anh em để mưu cầu một chút tín nhiệm chính trị. Để được lọt mắt xanh,
các ông quản giáo tin, cho làm việc nhẹ, hoặc cao hơn, được trại ghi tên vào
danh sách “Cải tạo tốt, đề nghị giảm án”.
Vợ chồng Hiên, mẹ Giang quây lấy hắn, kể lể. Ai cũng than thở
về sự bất hạnh, cũng nói Giang được chiều, Giang muốn làm gì thì làm, chẳng phải
lo nghĩ gì. Hiên bảo:
– Cậu ấy muốn lấy mấy tạ bột làm miến cũng có. Em có đòi tiền
ngay đâu. Cậu ấy làm cho vui thôi, chứ nhà này có để cho cậu ấy đói đâu.
Hiên thừ người. Vẻ thừ thượi càng làm cô hàng chuyến trắng trẻo,
áo phin nõn, búi tóc đen lánh này xinh hơn. Bà mẹ quắt queo thở dài, giọng như
mếu:
– Lại mấy năm nữa! Còn gì là người. Khổ!
Giang vẫn bị giam ở Tùng Dương. “Cũng phải ba gậy”. Hắn nhẩm
tính: Chỉ tiêu thụ, tội có nhẹ hơn, nhưng đã sẵn có tiền án, tiền sự thì chẳng
nhẹ tí nào. Nó chứng tỏ “y không chịu hối cải, ngựa quen đường cũ, phải cách ly
khỏi xã hội một thời gian để y ăn năn, hối lỗi”.
Tuy nhiên Giang có lợi thế là con liệt sĩ”. Cha y đã hy sinh
để bảo vệ chế độ khi y còn rất nhỏ, mẹ lại đi lấy chồng khác. Thế là y rơi vào
hoàn cảnh không người nương tựa, dạy dỗ!!. Ông ấy muốn nhấn mạnh, muốn phân
tích kiểu gì cũng được, nặng cũng xuôi, nhẹ cũng xuôi. Hắn cứ lấy con số trung
bình: Ba gậy. Vậy phải đến cuối năm 1976 mới về. Lựa lúc trẻ con xuống nhà, chỉ
còn hai người, hắn mới báo cho Ngọc tin khủng khiếp ấy. Ngọc với hắn thống nhất:
“Không cho trẻ con biết”. Ngọc bảo:
“Nhìn cậu ấy gửi xe là em biết ngay”. Rồi Ngọc lại bảo: “Thảo
nào em nằm mơ thấy người ta đến bắt anh đi nữa. Em không dám nói với anh. Chỉ sắm
lễ lên đền cầu xin các ngài được tai qua nạn khỏi…” Hắn lại đạp xe lên nhà mẹ
Giang, gửi cho Giang một trăm điếu thuốc do chính tay hắn cuốn.
Rồi đến nhà cô Miên.
Người cô sọm đi. Có lẽ cô là người đau khổ nhất khi Giang bị
bắt trở lại. Cô nhận hết lỗi về mình. Cô nhận lỗi với em ruột cô, liệt sĩ Giang
Văn Khoát. Cô nhận lỗi trước dòng họ Giang Văn. “Tại cô. Lẽ ra cô phải bắt nó ở
với cô. Nó ở với cô thì không đến nỗi”.
Cộ dằn vặt, đau khổ, ân hận. Cô thương Giang, giận Giang.
Trong cơn đau xót thấm thía, cô nguyền rủa mẹ Giang. Tất cả là do con mẹ Thơi.
Tại con mẹ Thơi không chịu đựng được như cô. Chồng chết không ở vậy được. Đi lấy
chồng khác, thằng Giang mới bỏ đi.
Nó mới chán, mới không về nhà. Từ ấy cô có thèm đặt chân đến
nhà con mẹ Thơi bao giờ đâu. Giỗ tết cô làm ở nhà cô. Lũ con có xuống thì xuống,
chứ con mẹ không dám. Cũng biết sợ đấy. Những người đàn bà như vậy rồi xem có
ra gì không. Cái loại đàn bà. Con gái có chồng, con rể ở ngay trong nhà mình,
mà còn đi gọi giai về cho con gái. Để nó trả công, để nó cho một đồng đi hút
thuốc phiện.
Điều cô nói làm hắn kinh hoàng. Thảo nào trong đôi mắt Hiên
có những ánh lửa. Và giờ thì hắn đã biết nước da xin xỉn, sát xương, môi thâm của
mẹ Giang là nước da của người nghiện thuốc phiện. Mẹ Giang nghiện, thảo nào mẹ
Giang hút thuốc lào nặng thế.
Hắn nghĩ đến anh Tùy chất phác, đen đủi, đầu cắt bốc, người
toả ra mùi vôi vữa, khi cô Miên nói: “Cả nhà ấy được mỗi thằng Tuỳ kéo lại
thôi. Không có nó thì còn đốn nữa, hết cả phúc phận”. Cô tiếp: “Tướng thằng
Giang giống y con mẹ nó. Mắt trắng, mội thâm, cô sợ rồi cũng không ra gì đâu”.
Hắn vẫn chưa bình tĩnh ngay được về chuyện cô Miên nói. Và hắn càng thương Giang. Bởi vì đến bây giờ hắn mới biết Giang sống trong một gia đình như thế.
Mỗi nghề đều có chuyên môn của nó. Cái chuyên môn quấn thuốc
lá này nghe chừng hợp với hắn. Trước tiên là nhẹ nhàng. Và ở trong nhà. Không
phải phơi mặt ra ngoài đường. Qua từng cân thuốc lá, hắn học tập, đi sâu vào
nghề nghiệp. Và thấy thú vị. Thú vị vì kiếm được tiền là chủ yếu. Nhưng bên cạnh
đó cũng có nhiều cái hay. Từ cách căng giấy trên bàn quấn, điều chỉnh điếu thuốc
to, nhỏ tuỳ theo thời điểm khan thuốc hay ế thuốc, tới việc dùng hai bàn tay vặn
vặn, tãi cả xếp giấy, tờ nọ so le tờ kia thành một hình van vát mà phết hồ, mỗi
tờ giấy mỏng tang và nhỏ xíu chỉ dính một đường hồ nhỏ, thẳng như kẻ chỉ. Rồi bốc
thuốc. Hắn đã đạt trình độ điêu luyện. Cho tay vào đống thuốc rứt một cái đưa
lên bàn quấn là vừa một điếu thuốc. Không thừa. Không thiếu. Hắn quấn. Ngọc quấy
hồ, ngồi cắt hai đầu điếu thuốc, xếp ra hộp. Cửa đóng kín mít. Ngọn đèn sáng…
Căn phòng hoàn toàn yên lặng. ôi, hạnh phúc là như thế này đây! Ngày Noél năm ấy
(thời đó còn nghỉ Noél) lũ trẻ về quê với ông bà, vợ chồng hắn phải ở lại làm
mê mải vì có hai đám cưới đặt thuốc (do cô Miên nhận cho). Một nghìn điếu tất cả.
Một ki-lô thuốc. Hắn quấn như máy. Chỉ nghe tiếng que hàn lăn trên bàn quấn. Và
tiếng kéo lách cách của Ngọc cắt đầu điếu thuốc. Rồi Ngọc, áo bông xo ro, bịt
khăn tu hú đi chợ mua tim gan lợn về xào. Như những ngày hắn có nhuận bút. Lũ
trẻ về quê hết. Chỉ còn họ với nhau. ăn. Nhìn nhau. Giống như những ngày xưa. Hắn
biết Ngọc đang hạnh phúc. Không kìm giữ được trong lòng, Ngọc bảo hắn lúc cơm
xong, hai vợ chồng ngồi uống nước:
– Ước gì cứ như thế này mãi, anh nhỉ?
Hắn kéo Ngọc về phía hắn. Người Ngọc toả ra toàn mùi thuốc
lá. Ngọc dụi dụi vào vai hắn. Im lặng. Chỉ có ngọn đèn toả sáng ấm áp trong căn
phòng đóng kín các cửa tránh gió mùa và vợ chồng hắn.
Đây vừa là quá khứ trở về, vừa là khát vọng tương lai. Lẽ ra
em không nên gắn bó với anh. Và cuộc đời em đã rẽ khác rồi. Rút cuộc anh chỉ là
người đem đau khổ đến cho những người mình yêu quý. Bố mẹ, vợ con… Hắn vuốt tóc
nàng và muốn nâng mật Ngọc lên mà nhìn vào gương mặt ấy, nhưng Ngọc cứ ép chặt
vào vai hắn. Hắn hơi ngờ ngợ. Điều phỏng đoán của hắn là đúng: Khi lấy hai tay
nâng đầu Ngọc dậy, hắn thấy gò má nàng đầm nước mắt. Ngọc vội lấy khăn lau mặt
và nói như người có lỗi:
– Em đi rửa bát nhé. Anh cứ nghỉ một lát hãy cuộn.
Hắn không nghỉ. Hắn cuộn. Hắn lấy một điếu thuốc phế phẩm
(làm hàng săng, chết bó chiếu) ra hút. Và gại giấy phết hồ…
Có rất nhiều loại giấy, cũng như có rất nhiều loại thuốc. Thuốc
Lạng Sơn. Thuốc Hà Bắc. Sợi nâu. Sợi vàng. Giấy có gân ngang. Giấy không có
gân. Giấy mậu dịch là tốt nhất. Gân nổi. Rất rõ. Hắn nói về loại giấy “vua chiến
trường” ấy là gân cốt nổi lên ầm ầm. Điếu thuốc đẹp. Giao dễ. Nhưng đắt. Nói
theo cách nói của các giám đốc bây giờ là giá thành đội lên. Khó giao. Phổ biến
là giấy Trung Quốc. Giấy Hồng Đăng là loại giấy kém nhất. Không có gân. Tàn đen
cứ ôm lấy điếu thuốc. Kông chịu tan vụn đi. Giấy Sơn Thuỷ tốt hơn. Có gân. Trắng.
Tuy còn lâu mới bằng giấy cuốn những điếu Tam Thanh, Nhị Thanh, Trường Sơn,
Hoàn Kiếm… (những điếu này vạch gân ngang điếu thuốc rõ làm sao. Và trắng. Trắng
như trứng gà bóc. Kỹ thuật cuộn thuốc bao gồm mấy công đoạn.
Thứ nhất là sao thuốc. Hắn đặt cái chậu nhôm hoặc mâm nhôm
lên trên bếp dầu vặn nhỏ lửa, cho thuốc vào đảo. Đảo bằng tay. Lấy tay ấn nắm
thuốc xuống đáy chậu hoặc mâm, vét cho hết thuốc vụn đọng ở dưới lật lên phía
trên, kẻo thuốc cháy. Thuốc mua về thường bị ẩm. (Cho nặng cân, lại dễ nén, dễ
giấu, không bị vụn gẫy). Khi sao, hơi thuốc bốc đầy nhà nồng nặc. Rồi phun rượu
hoà lẫn với nước cam thảo, nhưng căn bản phải có ít đường hoá học, cho ngọt
môi, ngọt khói và ngọt lưỡi. Hắn không gọi là sao tẩm. Hắn nói với Bình là
Aromatiser. Thuốc đã aromatisé ủ hôm trước, hôm sau mở ra mùi như mùi nho. Đúng
“gout Virginia!”
Khó khăn nhất trong việc cuộn thuốc không phải là sản xuất mà
là tiêu thụ. Hàng nước nào cũng có thuốc lá cuộn cả rồi. Như bố hắn nói “Đố nào
vào ngàm ấy cả rồi”. Ôi! Lòng người cha già thương con xót cháu chỉ nói được có
vậy, khi thằng Hiệp mang thuốc lá về làng giao cho mấy bà bán quà vặt ở đầu chợ
mà cũng khó khăn. Ông thương hắn, thương thằng cháu trai còn bé mà đã phải nai
ra kiếm sống. Hắn mang túi thuốc đi lang thang ngoài phố, rụt rè và đỏ mặt hỏi
các chủ hàng nước. Cái khổ là hàng nước nào cũng có vài thanh niên rỗi việc ngồi
lê la. Họ cứ nhìn cả vào hắn. Mà nào có bán được cho cam. Người ta lắc đầu. Người
ta bảo còn, và đã có chỗ lấy rồi.
Bình phải đi với hắn. Đến những hàng nước Bình quen. Cũng
không hơn. Bình lại rủ hắn vào quán cà- phê quen thuộc ngày xưa. Ông bà chủ
quán nhìn hắn. hình như muốn hỏi điều gì, lại thôi. Hắn ngồi uống cà -phê. Ông
chủ quán kéo ghế ngồi bên. Và khi Bình nói về công việc hắn làm, ông sốt sắng:
– Để tôi giao họ một ít. Mấy bà bán nước quanh đây này. Họ vẫn
lấy đấy.
Hắn như mở cờ…
Hôm sau hắn lên tiệm cà-phê theo lời hẹn, nhận tiền và đưa
thêm thuốc. Cái nghề “giao hàng” (danh từ của thằng Dương) bao giờ cũng phải nhận
tiền sau. Ông chủ tiệm cà-phê đưa hắn ra gặp bà hàng nước cạnh đó để!hai người
trực tiếp!. Hắn đưa thuốc cho bà được mấy lần, thì một lần bà nhất định không
chịu trả tiền trăm thuốc hắn giao hôm trước. Hẳn là bà quên. Bà quên, chứ bà
không định ăn quỵt của hắn, ăn xít của hắn. Bà nhớ rành rành đã trả tiền cho hắn.
Hắn đỏ mặt lên, thì thầm với bà:
– Chưa. Bà nhớ nhầm đấy. Bà đã đưa cho tôi đâu.
Thế là bà mất bình tĩnh. Vì hắn đã coi thường trí nhớ của bà,
hắn định đòi tiền bà những hai lần. Bà thét lên:
– Tôi nói cho anh nhé. Tôi giả tiền nhà anh từ hôm qua rồi.
Anh nhớ lại đi. Không ai thèm lấy của nhà anh mấy đồng bạc đâu.
– Anh ăn nói lạ nhỉ? Tôi đưa tiền cho anh ở chỗ này.
Những người thợ chữa xe đạp, đám khách đang ngồi uống nước,
cô bán bánh bao quay nhìn vào hắn. Hắn muốn nói với bà: “Bà nhầm. Tôi nhớ. Tôi
chỉ giao cho mỗi mình bà. Bà đưa, tôi nhớ. Không. Bà chưa đưa cho tôi”. Nhưng
bà đâu có ý định nghe.
Bà tiếp tục:
– Nể ông cà-phê tôi lấy thuốc cho anh, chứ tôi vẫn có chỗ rồi.
Ai ngờ lôi thôi thế này.
Hắn xách cái túi đựng thuốc lá cuộn, quay ra, cảm thấy mình
là tên lừa đảo, là một thằng ăn cắp.
Đó là kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc sống bám lấy vỉa
hè của hắn. Cùng với một kỷ niệm nữa: Thằng cháu Côn, con anh Chân có một tút
thuốc Tam Thanh. Dạo ấy đang khan thuốc. Hắn vay, đem bán để có thêm tiền đưa
Ngọc. Hắn mang ra vỉa hè. Hắn đòi 22 (đồng), tuy giá gốc có bốn đồng. Người ta
giả 20, hắn đồng ý. Tút thuốc được chuyển qua tay mấy người, mỗi người mấy bao.
Họ trả tiền chỉ có mười đồng. Hắn ngơ ngác và phẫn nộ:
– Trả lại thuốc cho tôi. Các bà mua bán kiểu gì đấy?
Thế là một cô bán hàng thét lên:
– Giá mậu dịch bốn đồng, người ta giả mười đồng, còn gì nữa?
ăn gì mà ăn lắm thế? Cũng phải để mỗi người một tý chứ?
Một cô khác cong cớn chỉ vào mặt hắn:
– Trông mẽ cũng biết là được phân phối cơ quan đây. Bòn hàng
nhà nước được thế, chứ còn được đến đâu nữa
Mọi người lại nhìn cả vào mặt hắn. Và những bao thuốc của hắn
đã biến mất dưới những vỉ, những rổ rá… Hắn cúi mặt như người phạm pháp, như
người ăn cắp bị bắt quả tang… Hắn lỉnh nhanh khỏi chỗ ấy, còn nghe tiếng dè bỉu
sau lưng: “Lại quen ai ký giấy phân phối đây”, “lại moi được ở chỗ nào đây”…
Dạo ấy hắn đã biết áp dụng cơ chế thị trường, biết cách tiếp
thị sau một thời gian cuộn thuốc. Hắn thực hiện giảm giá, bán thấp hơn giá thị
trường. Những cân thuốc đầu tiên không lấy lãi. Người ta giao bốn đồng (một
trăm), hắn giao ba đồng rưỡi, ba đồng. Giấy Sơn Thủy đàng hoàng. Để nguyên khổ
giấy cho điếu thuốc dài. Không xén ngắn như những người khác. Rồi lại nối giấy,
cuốn những điếu dài gấp đôi mời những ông chủ quán. Bên mua, bên bán mỗi người
một điếu thuốc lênh khênh trên miệng. Hắn đã chen được vào mấy hàng nước quanh
nhà hắn. Hắn đạp xe về nông thôn, qua phà để mở rộng mối hàng. Cái lần giao
hàng có cu Dương, hắn mua cho con hai hào củ ấu của bà hàng nước phố Kỳ Đồng.
Đó là món quà đầu tiên hắn mua cho nó từ khi nó sinh ra, từ khi hắn đi tù về.
Món quà đầu tiên thằng Dương nhận từ tay bố. Thằng bé mắt sáng lên, nhưng không
cắn được vỏ ấu dày. Hắn phải lấy răng cắn hai đầi gai nhọn và tách sẵn cho con.
Hai bố con ngồi vỉa hè, hắn uống nước chè chén và nhìn con ăn ấu”. Con chịu quá
nhiều thiệt thòi so với các anh chị con, nhưng bố chỉ đền bù được có vậy thôi”.
Hắn phủi phủi những vụn củ ấu trắng rơi trên áo bông thằng bé. Nó chẳng biết bố
nghĩ gì. Nó thích được đi giao hàng. Có củ ấu cũng thích. Không có cũng thích.
Nó thích được ngồi sau xe đạp, đi phố với bố. Cứ thấy bố lục thùng sàt tây lấy
ra những bó thuốc đã cuộn cho vào túi, nó lại sán đến năn nỉ:
– Bố đi giao hàng đấy hở? Cho con đi với.
Chữ “giao hàng” thông dụng trong nhà là nhờ nó.
Công việc nghe chừng thuận lợi. Sau khi “đố đã vào ngàm! hắn
mới nâng giá thuốc. Hắn chỉ cần năm nhà lấy thuốc thôi là mỗi ngày cũng được một,
hai trăm thuốc. Đã thành quy luật, cứ gần Tết là khan thuốc. Lúc đó thả sức
giao. Thả sức cuộn. Bình, Thao cũng cuộn. Sang nhà Thao cũng thấy Bình
aromatiser, nghĩa là phun phì phì cả rượu cả nước bọt vào đám thuốc đã sao.
Thao bàn đi mua thuốc vụn của nhà máy thuốc lá Thăng Long độn
vào giữa điếu thuốc. Và xén ngắn.
Thằng Hiệp cuộn thuốc tới khuya. Hắn phải thuê đóng thêm cầu
(Giang không còn tự do để hắn nhờ nữa). Nó cuộn dẻo tay, nhanh hơn hắn. Nhưng
thằng bé cố tình quấn lỏng để đỡ tốn thuốc. Ngọc phải lấy tăm nhồi thêm thuốc
vào những điếu quá lỏng. Hắn giơ những điếu thuốc lỏng ấy lên không, soi soi một
lúc và kết luận:
– Không khí thì nhiều mà thuốc thì ít.
Cả nhà cười vang. Đó là câu nói của những du kích Tây Ban Nha
nói về điếu thuốc lá Robert Jordan mời họ trong tiểu thuyết của Hemingway.
– Chặt chặt tý nữa, Hiệp ạ.
Ngọc vừa cắt điếu thuốc vừa bảo nó. Nó cuộn tới khuya. Không
có cả thì giờ học bài. Nó cuộn như vậy cho tới năm cấp ba. Hắn cũng không hiểu
nó học vào lúc nào mà vẫn nhất nhì lớp. Lại là lớp chọn. Được đăng cả bài giải
những bài toán khó trên báo “Toán học và tuổi trẻ “ ở Hà Nội. Không những thế
báo còn đăng đề toán của nó nghĩ ra nữa. Có lẽ nó học trên đường đi tới trường.
Như hắn hồi chống Pháp. Đến lớp nó ngáp. Ngáp nhiều. Cúi đầu ngáp để thầy cô
không biết. Bạn bè bảo nó:
– Thằng này thiếu ô-xy.
Cái cơ chế thị trường tự phát và cứ tồn tại không chịu chết
dù bị dẹp đi dẹp lại ấy đã dạy cho hắn biết rằng: Tháng Chạp âm lịch là tháng
căng thẳng nhất về thuốc. Từ đầu tháng mậu dịch đã không bán thuốc ra nữa. Để
chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán. Thuốc đắt vọt.
Nhị Thanh, Trường Sơn cũng đắt như tôm tươi. Khi đó nếu được
“Đoàn chiền thanh xí nghiệp “ một tút thuốc Đrao coi như đã có gần nửa tháng
lương rồi. Đó là thời gian hốt tiền của mậu dịch viên bách hoá, của những người
ký giấy phân phối. Mỗi ngày một cửa hàng lọt ra thị trường vài chục cây thuốc
lá là có cả tiền nghìn. Mỗi mậu dịch viên có cả một đám “vệ tinh” là “con
buôn”. Cuối năm cái gì chẳng ra tiền. Chiếu, vải hoa, chỉ. Bát, chén. Ô S mua
xi-mi-li, ô nữ mua xa-tanh. Một vốn mười lời. Ai làm chủ hàng hoá, người ấy làm
chủ xã hội. Đến nhà các mậu dịch viên có cả những chủ nhiệm, giám đốc, uỷ viên
uỷ ban… Họ cũng cười nịnh các mậu dịch viên học lớp 7 dở dang, nói ngọng… Họ tự
nguyện xin việc: Chuyển cho chồng cô mậu dịch viên về du lịch, bố trí cho con
bà cửa hàng phó về bến xe khách, có cần xi-măng không, họ chạy cho vài tấn v.
v…
Nắm được quy luật khan hiếm trước Tết, nhưng hắn không có
cách nào khác. Hắn không có vốn mà dự trữ lấy mấy cân thuốc. Lúc đó giấy cũng
khan. Lại nhiều người hỏi thuốc. Có người ở tận quê cũng đến nhà hắn. Lúc ấy cuộn
thuốc thật tiếng tăm, danh giá.
Cô Miên cũng không có thuốc. Cô chỉ chạy được ít chè. (Chè
cũng khan). Cô bảo: “Phòng thuế, công an làm dữ lắm. Cả ngày hôm qua chỉ có mười
cân chè về đây thì cô được hai cân. Mất hết”. Rồi cô than thở về cuộc sống khó
khăn. Cô tiên đoán giá chè thuốc còn lên nữa. Cô nhắc đến Giang. Và thế là cô lại
bừng bừng nổi giận cái loại đàn bà chồng chết không ở vậy được. Nếu con mẹ Thơi
cũng như cô thì giọt máu cuối cùng của dòng họ Giang đâu đến nỗi.
Hắn nghĩ đến chuyện đi Hà Nội mua thuốc. Phải đi ngay. Le
temps c est de l or. Thời gian là vàng bạc.
Hắn thu xếp tiền nong, cầm hơn một trăm đồng lên Hà Nội. Vốn
liếng hắn khá khá. Nhưng có buôn bán mới biết: Vốn bao nhiêu cũng ít. To vốn nhớn
lãi. Một trăm cũng chỉ được vài cân thuốc, một nghìn (tờ) giấy là hết. Mà bây
giờ mỗi ngày chí ít cũng giao được một ki-lô thuốc.
– Chợ thuốc à? ờ… ờ.
Lê Bàn nhíu mày:
– Hình như ở phố Hàng Mã. Tao vẫn mua thuốc rời và giấy cuộn ở
đấy mà.
Thuốc rời là thứ thuốc vụn từ nhà máy Thăng Long. Bàn mua cả
gói. Mỗi gói một lạng. Hút bại. Hắn bảo: “Thứ rời này cũng cần. Độn ở giữa. Tốt
lắm”. Bàn đèo hắn đến đó. Không có thuốc sợi. Chỉ còn mấy lạng thuốc rời. Hắn
mua tất. Bà bán thuốc bảo: Sáng mai ra đầu chợ Bắc Qua đón tàu Bắc. Thế là hắn
có một buổi chiều đến thàm bố mẹ Phương và một đêm trò chuyện với Bàn, dù ruột
gan hắn nóng như lửa đốt.
Đến nhà Phương hắn hình dung được tất cả những gì bố mẹ hắn
phải chịu, Ngọc phải chịu khi hắn đi tù. Những người trong xớm nhìn cả vào
mình, khi mình đi thẳng vào phía trong, qua vòi nước, qua nhà xí tới hai gian bếp
mái lụp xụp tận trong cùng. Họ nhìn vì ở đây chỉ có bố mẹ Phương và một người
con trai phản động đã bị bắt. Chỉ nguyên việc họ dừng mọi công việc, nhìn Bàn
và hắn đi vào cũng đủ hiểu hai ông bà phải sống trong một không khí bao bọc như
thế nào.
Chưa vào ngay buồng hai ông bà, phải dừng trước cái xép
Phương ở đã. Cửa khép. Đẩy vào. Không còn Phương nữa. Nhưng vẫn còn cái giá
sách, tấm hình Xamôilôva, cái giường ba xà thì vẫn như nghe thấy tiếng Phương
cười, giọng nói của Phương và Phương đang quanh quẩn đâu đây. Vẫn là cảm giác
trống vắng của người bạn đã chết, đã mang đi mai táng để lại. Nụ cười sáng bừng
trên khuôn mạt héo hon, dăn deo, tàn tạ của mẹ Phương mới đau đớn làm sao. Nó
nói rằng từ khi Phương bị bắt, rất ít người lui tới Mẹ Phương cũng đứng ngoài cửa
im lặng nhìn càn buồng của Phương.
– Bác giai ngủ ở đây. Bác ngủ dưới kia.
Bố Phương không có nhà. Bố Phương đi tiếp tế cho Phựơng từ
hôm qua, chưa về. Phương đã chuyển lên trại trung ương. Trại PL. “PL”. Khi tập
trung anh em số lẻ về VQ. cũng có nhiều người từ PL. tới. Địa danh ấy không lạ
với hắn. Những địa danh loại ấy không lạ với hắn. “Nó bị tập trung cải tạo, mày
ạ”. Bàn bảo vậy ngay lúc đang đèo nhau trên xe đạp đến nhà Phương. Quả là tin
chết người, nhưng hắn cũng đã lường trước cả. Bởi vì một khi không có chứng cứ
cụ thể thì chỉ có cái rọ ấy để bỏ vào thôi.
Arrester sans preuve . Chẳng lẽ lại nhận có rải truyền đơn để
được đem ra xử, rồi phản cung trước toà. Chẳng lẽ cứ nhận. Nhận hết. Cái gì
cũng nhận. Bịa ra mà nhận… Đến thăm nhà có người đi tù, mà lại là tù tập trung
cải tạo thật quá nặng nề, vì chẳng biết động viên gia đình ra sao. Bây giờ hắn
mới hiểu điều đó. Bây giờ hắn mới hiểu cái nặng nề của những bạn bè đến thăm Ngọc
ngày trước.
– Nó có khỏe không, bác?
Mẹ Phương lắc đầu:
– Thấy bác giai bảo khoẻ. Khoẻ làm sao được!
– Trại PL. cũng không căng lắm dâu. Cháu đã ở với nhiều anh
em PL.
Hắn lại nói dối. Những lời nói dối vô tác dụng, vì hắn biết mẹ
Phương cố tin lời hắn mà không tin được.
Vẻ mặt rầu rầu của bà như bảo hắn: “Trại nào mà không khổ. Đi
tù là khổ rồi, con ạ”.
– Nó về toán nào?
Thấy Bàn và mẹ Phương ngơ ngác, hắn vội nói rõ hơn:
– Nó làm việc gì ở trên ấy?
– Gánh vệ sinh.
Thế nghĩa là được tin. Được là tù tự giác. Được ra vào trại tự
do. Nhưng phải làm cả ngày nghỉ, ngày lễ, ngày Tết. Vất vả. Hôi thối. Cực nhọc.
Gánh phân tươi cứ kìn kĩn, nặng trĩu bên vai, ám hết cả vào người. Ngày Tết lại
càng khổ, lại càng vất vả. Anh em nghỉ làm, có bao nhiêu trút hết ở nhà xí trại.
Nhưng không chỉ có vậy. Nhịn lâu, quanh năm đói chất, bỗng có món lòng trâu, tiếp
đến món xương trâu, lại ba lạng thịt trâu già kho, đó là chưa kể món da trâu rắc
vôi bột vất ở bờ suối được đem về bếp bung lên, tanh khắm buồn mửa, anh em đi ỉa
chảy rất nhiều. Cánh trẻ no bụng, đói con mắt, khợp hết ngay một bữa. Những anh
được bạc đu càng hăng. Không như hắn. Hắn ăn dè. Vừa kéo dài cuộc sống vừa đảm
bao bụng dạ. Hắn, Chí Lồng Sếnh, một anh tù người dân tộc và già Gọi, người đã
dám đứng lên xin ông Lâm, chánh giám thị trại QN. được quăng lên rừng cho hổ
báo ăn thịt hay vứt xuống sông trầm hà đáy biển nếu như có tội, ba người chống
đòn gánh đứng phía sau nhà xí.
Không sao kéo được thùng ra. Người đứng xếp hàng đi ỉa ở đằng
trước. Ôm bụng. Đứng chéo chân. Gập người. Nhăn mặt. Anh này vừa đứng lên, anh
kia đã chen vội. Vứt vào thùng cả quần đùi, quần dài, chăn sợi. Bê bết cứt. Hố
xí bên này phân tuôn như giội nước. Bên kia nổ một tràng liên thanh xối xả và đột
ngột tắt lịm. Bên kia nữa lục bục, lẹt bẹt như gõ thúng, gõ mẹt đuổi gấu ăn
giăng.
Già Gọi rơm rớm nước mắt:
– Giờ này tuổi tôi là ngồi giữa nhà, bà con xóm làng, con
cháu đến chúc Tết. Pha trà, rồi bưng mâm lên đây.
Chí Lồng Sếnh không nói. Cậy răng Chí Lồng Sếnh cũng không
nói. Suốt thời gian ở cùng toán với Chí Lồng Sếnh, trừ cái tối xử án chuột, hắn
chỉ nghe một lần Chí Lồng Sếnh nói. Đó là một đêm nghe tiếng nai gộ ở thung
lũng. Chí Lồng Sếnh trở mình nằm sấp, nhìn ra phía bìa rừng ánh trăng bàng bạc,
khe khẽ một mình:
– Con nai về ăn lá sắn non đấy.
Hỏi Chí Lồng Sếnh ngày Tết có nhớ nhà không. Chí Lồng Sếnh chỉ
cười. Chí Lồng Sếnh cười rất đẹp. Mặt trái xoan, răng đều, lông mày thanh và
dài, cong cong. Lông mi rợp. Nhưng khi cười đôi mắt Chí Lồng Sếnh càng buồn.
Đôi mắt u sầu như đôi mắt Châu Ro .
Hẳn Phương cũng có một tổ gánh cứt. Một già Gọi nào đấy, một
Chí Lồng Sếnh nào đấy. Hắn bảo:
– Gánh vệ sinh được là Phương nó có sức khoẻ đấy, bác ạ.
Câu nói ấy có sức thuyết phục. Mẹ Phương tươi lên đôi chút. Hắn
lại bảo:
– Mong sao tình hình ổn định để nó chỉ ở đúng một lệnh ba
năm. Cũng gần được một năm rồi. Nhanh thôi.
Mẹ Phương nhất dịnh giữ hắn ở lại ăn cơm và ngủ ở đấy. Nhưng
hắn viện nhiều lý do để về chỗ Lê Bàn. Suốt dọc đường ngồi sau xe đạp của Bàn,
hắn bỗng thấy Hà Nội khác rồi. Hà Nội không còn là của hắn, của Phương, của Ngọc
của những người như hắn. Hà Nội vẫn đẹp biết bao, nhưng thờ ơ, xa cách biết
bao.
Câu chuyện ở nhà Bàn cũng không kém phần bi đát nhưng dẫu sao
hai người vẫn phá lên cười. Thì ra Bàn cũng đang bị treo giò. Và đã bị thẩm vấn
nhiều lần. Khi giấy gọi. Khi giấy báo. Chưa một lần được giấy mời. Có thể do
Bàn chơi với mấy người có vấn đề đã bị bắt. Trong đó có Nguyễn Vũ Phương. Họ nắm
được cả Bàn chơi với hắn, hắn đi tù về là Bàn đến thăm ngay…
Sau những buổi gọi hỏi dồn dập, bẵng đi ít ngày, họ đưa giấy
gọi Bàn đến vào buổi tối. Cái giấy gọi buổi tối làm Bàn sầu não, tuyệt vọng.
Anh nghĩ mình không có tội, nhưng như vậy thì Phương, hắn và nhiều người khác
anh quen đã bị bắt là có tội hay sao? Họ cũng như anh! Chính vì thế anh cho rằng
lần này rất ít khả năng anh trở lại căn buồng hẹp của mình ở phố Phùng Hưng.
Anh khóa cửa, đạp xe đến nơi hẹn đúng giờ. Không có ai gặp anh. Anh ngồi một
mình giữa căn buồng rộng và ngọn đèn tròn sáng quá mức. Anh ngồi. Lo lắng. Nghĩ
ngợi.
Rồi một người vào phòng. Anh đưa giấy gọi. Người ấy xem, giữ
giấy và mời anh đi theo. Anh đi. Qua một hành lang vắng. Một cánh cửa khép. Người
ấy đẩy cửa bước vào. Anh đứng ngoài chờ người ta bật đèn, vì trong đó tối om,
nhưng cái ánh sáng anh mong đợi không thấy hiện lên.
– Anh Bàn, vào đây.
Người dẫn đường nhô ra nói với anh bằng một giọng thân mật.
Anh bước vào căn buồng tối. Thận trong đưa chân ra phía trước dò đường.
– Anh ngồi xuống ghế.
Người dẫn đường bảo anh và khẽ ấn vai anh. Anh quờ tay chạm
vào cái thành ghế tựa. Anh lay lay ghế. Chân ghế chắc chắn. Anh ngồi. Người dẫn
đường bước ra, bỏ lại một mình anh trong căn buồng tối. Anh căng mắt nhìn và
khi đã quen với bóng tối, anh nhận ra những bức tường tràng mờ, một tấm rèm sẫm
đen, và hình bóng những chiếc bàn ghế.
– Chúng tôi…
Một giọng nói bất chợt vang lên. Bàn giật thót mình. Có một
người đã ngồi trước ở đây chờ anh. Anh hiểu ngay đó là thủ trưởng, là người đối
thoại với anh. Nhưng tại sao lại không bật điện. Sao lại như tiểu thuyết thế
này.
– Chúng tôi mời anh đến đây để nói với anh một số việc mà
theo chúng tôi là cần thiết.
Giọng trầm. âm vang. Rành rọt. Căn cứ vào giọng nói, anh đoán
người đó trạc tuổi anh, và đây là người phụ trách cơ quan an ninh, phụ trách cơ
quan điều tra. Một người có trách nhiệm, làm việc âm thầm vì an ninh Tổ quốc, bảo
vệ thành quả cách mạng. Một người có toàn quyền quyết định số phận của anh. Với
bản chất dễ xúc cảm, anh thấy như bóng tối trong phòng đặc thêm, mặc dù anh có
thể nhìn rõ màu sáng mờ mờ của những bức tường. Anh thấy như anh đang ở trong một
căn hầm và có tiếng xè xè của cánh cửa quay lộ ra một cầu thang thăm thẳm xuống
cửa đập sâu tít như trong Hầm bí mật bên bờ sông Ô- đê mà anh đã đọc. Da anh rờn
rợn lạnh.
– Trị bệnh cứu người là mục đích của chúng tôi. Ngăn chặn là
mục đích của chúng tôi. Chúng tôi chính thức báo cho anh biết: Anh đã tê liệt
tinh thần cảnh giác cách mạng. Không hiểu mình đang ở bậc thang nguy hiểm nào
đâu. Văn nghệ sĩ các anh là như vậy. Rất ngu ngơ về lập trường. Rất non nớt mà
cứ tưởng ta đây hiểu biết. Cái nguy là ở đấy. àm việc với anh, nhắc nhở anh, cảnh
giác anh, điều đó là cần thiết. Cần thiết cho anh. Cần thiết cho cách mạng.
Những lời nói đanh thép, không cho cãi, những lời của chân
lý, của đạo đức, của giai cấp, của sự cứu rỗi, khi xa xăm, như trên trời cao vọng
xuống, lúc lại như ở dưới đất dội lên. Anh vẫn cố đoán mục đích, ý nghĩa của
“pha ly kỳ” này. Và anh đã hiểu ra khi giọng trầm pha lẫn bi thương lại vang
lên:
– Chúng tôi đánh giá anh đúng mức. Anh đi theo cách mạng một
cách hồn nhiên của một anh tiểu tư sản bấp bênh. Phải liên tục rèn luyện để có
thể phục vụ cách mạng được nhiều hơn. Tôi nghĩ đó cũng là nguyện vọng của anh.
Chúng tôi mong muốn rằng từ nay anh sẽ cộng tác chặt che với cơ quan an ninh
(anh cảm thấy hết trọng lượng của các từ ấy, sự thiêng liêng của nó toả ra
trong từng âm sắc của người nói) để bảo vệ thành quả cách mạng. Anh cười nhạt
không thành tiếng trong bóng tối.
Giọng nói vẫn vang lên như một mệnh lệnh:
– Anh hãy suy nghĩ. Điều đó chỉ có lợi cho anh và phù hợp với
những gì anh vẫn nói về bản thân anh. Anh có thể từ chối, đó là quyền của anh.
Nhưng anh hãy cân nhắc cái gì sẽ đến với anh. Chúng tôi đánh giá anh trên cơ sở
việc anh làm chứ không phải lời anh nói.
Bàn cố nhiệt tình nói với bóng tối:
– Thưa các đồng chí. Dù tôi có bị cách mạng nghi ngờ thì dòng
máu trong tôi vẫn là dòng máu cách mạng. Điều đó tôi không cần ai tin. Một mình
tôi tin là đủ Bởi vậy tôi không bao giờ tha thứ hay bao che một tên phản cách mạng,
chống dối lại chế độ.
Mãi sau này Bàn mới nghĩ đến cái máy ghi âm ở nhà Bình và anh
đoán tối hôm đó họ cũng đặt máy ghi âm, ghi lại buổi nói chuyện. Anh thấy anh
trả lời như vậy là đúng, là khôn ngoan, là kín. Và anh nghĩ họ tuyển anh làm đặc
tinh thật cao tay. Ai cũng biết anh là người thẳng thắn, trung thực, có vấn đề
với công an, anh là người tạo được yếu tố bất ngờ. Do đấy anh sẽ nắm được tình
hình nhìều người khác, cung cấp cho họ rất nhiều về người khác.
Có một điều khốn nạn nhất là từ bấy đến nay không ai in của
Bàn nữa. Một bài báo cũng không. Cơ quan cho Bàn tạm nghỉ. Bè bạn ở các báo,
các nhà xuất bản đều tươi cười trả lại bản thảo của các anh với những lý do
chính đáng không chê vào đâu được.
– Thế nhưng việc của tao, tay hộ tịch lại không biết gì, mày ạ.
Bàn chồm dậy vì nhớ đến chi tiết ấy.
Đó là lúc hai người đã buông màn và chuyến tàu Bắc khuya đã sầm
sầm lao qua dốc cầu về phía Cửa Nam.
– Dạo rằm tháng Bảy vừa rồi, ông đại diện tiểu khu còn mời
tao đi kiểm tra một số gia đình buôn bán vàng mã. Có cả tay hộ tịch. Nửa đêm
chúng tao xộc vào các nhà. Tịch thu bao nhiêu thứ. Có cả cháo gà bồi dưỡng. Ông
tiểu khu còn đề nghị tao viết bài cho số báo tường. Tao viết ký tên đàng hoàng.
Hắn reo lên:
– Được ký nguyên tên trên số báo tường
Bàn nghiêm trang:
– Quan trọng đấy. Ký tên ở tiểu khu cũng quan trọng đấy.
Rồi Bàn rinh rích:
– Tay hộ tịch thỉnh thoảng vào chơi, kể chuyện nhà này, nhà nọ
trên đường phố. Ai chứa điếm. Ai nghiện. Ai có ba thằng con đều đi ăn cắp. Tay ấy
bảo: Nhà nào cũng như nhà bác thì chúng cháu yên tâm.
Bàn lại cười ré lên, thú vị: “à! Tao còn được dự họp tuyên
giáo tiểu khu mở rộng. Phong bao cẩn thận!”. Hắn cũng cười. Cười và mong chóng
sáng. Để ra chợ xem có thuốc không. Tàu Bắc đã về rồi.
Sáng hôm sau, ăn mỗi người một nắm xôi, đôi bạn chia tay. Bàn
lên cơ quan xem có lương chưa. (Không được giao việc, nhưng vẫn có lương). Hắn
đảo qua chợ. Vẫn không thấy lái thuốc về. Cả chợ Bắc Qua, cả chợ Đồng Xuân.
Đành phải ở lại đến chiều thôi. Hắn nhảy xe buýt về nhà anh chị Diệu. Hắn đã
chia tiền thành mấy món, đút ở cả hai túi quần, còn một ít đút ở túi ngực áo
bông, ấn mãi xuống sâu đáy túi. Đứng trên xe buýt đông người, chật chội, hắn
căng người ra mà cảnh giác. Hắn đang mang trong người tất cả vốn liếng, sản
nghiệp nhà hắn. Một cái đụng nhẹ của ai đó cũng làm hắn tập trung sự chú ý. Ai
đi lướt qua mạt hắn, hắn cũng chờ đợi một hành động gì đó tiếp theo. Như một
con thỏ lắng nghe gió đưa đến mùi của sói. Bằng tất cả mọi giác quan.
Bởi thế nên khi hắn chen ra cửa ô-tô để xuống xe ở bến đỗ phố
Bà Triệu và bị kẹt giữa đám đông ùn lại cửa xe, hắn cảm thấy ngay có ai chạm
vào túi ngực hắn. Hắn nắm chặt tay người ấy, thét lên:
– ăn cắp!
Đó là một người mặc quần áo Tô Châu, mũ tai bèo, lưng đeo
ba-lô từ phía bên bước ra. Người ấy hất tay hắn, lách lên đứng ngay trước mặt hắn,
cái ba-lô phồng căng đẩy hắn về phía sau. Người chen chân, hắn chỉ nhìn thấy
cái mũ tai bèo cụp xuống gáy. Và một tiếng gầm còn to hơn tiếng thét của hắn:
– Chính mày ăn cắp!
Nhảy được xuống đường rồi, anh bộ đội chưa đi ngay. Anh ta đứng
dưới lòng đường chờ hắn, chỉ tay lên phía cửa ô-tô nơi hắn đang bước xuống:
– Bà con! Chính nó là thằng ăn cắp.
Không ai bảo sao. Không ai muốn dây vào cuộc tranh cãi. Không
ai muốn vạch mặt tên ăn cắp. Mọi người nhìn vào hắn, nhìn vào người mặc quần áo
bộ đội một cách tò mò, rồi tản đi. Theo phản xạ, hắn đưa tay kiểm tra các túi
tiền, và vẫn thấy còn nguyên. Đúng là ngón tay của người ấy đã chạm vào ngực hắn.
ở đó hắn đút một ít tiền, nhưng nó chưa mổ được vì tiền nằm quá sâu.
Người ấy vẫn đứng dưới đường, xốc lại ba-lô, hất mũ tai bèo
ra phía sau, chờ đợi hắn, sẵn sàng làm cho ra nhẽ xem ai là kẻ cắp. Một khuôn mặt
loang. Một vết sẹo tràng chạy qua một bên má xuống tới cổ. Bàn tay anh ta giữ
quai ba-lô cũng bị vết sẹo loang. Kiểu cháy của bom na-pan. Một anh thương binh
ở trong B ra.
Người ấy gườm gườm nhìn hắn và reo lên:
– Anh Tuấn.
Hắn đã nhận ra. Họ nhảy bổ vào nhau trước sự ngạe nhiên của mọi
người. Hắn ôm chặt anh bộ đội, ôm cả cái ba-lô phồng căng, thì thầm:
– Dự! Dự!
Hai người đẩy nhau ra và nhìn nhau một lần nữa. Hắn cười.
Sung sướng, ngạc nhiên và thích thú vì anh thương binh bị bom na-pan ở B ra này
lại chính là Dự. Dự mặt loang tay loang vì bị cháy ở trại V. Q. Dự có con chuột
được đem xử án. Dự hay bắt tóp Dự đã xuống nhà hắn, ăn cơm một lần với hắn, xin
hắn bộ quần áo, hôm sau còn đứng mãi ở bên kia đường nhìn sang nhà hắn, thèm
thuồng một mái nhà, một gia đình như hắn, rồi bỏ đi. Hắn hỏi khi hai người đã
sóng đôi trên hè phố.
– Min đâu?
– Vào kho rồi.
Dự đáp thản nhiên. Hắn bị bất ngờ:
– Vì sao?
– Tý nữa. Tý nữa em nói anh nghe.
Hắn thấy Dự thay đổi hẳn. Nhanh nhẹn. Xốc vác. Tự tin trên đường
phố Hà Nội này. Họ đi ngược lên bờ hồ Hoàn Kiếm gió lộng. Rét xuýt xoa. Dự cười:
– Suýt nữa anh em mình xô xát.
Hắn nhìn Dự. Ngụ một câu hỏi. Dự hiểu:
– Em làm lính mổ. Chuyên trên tuyến xe buýt và tàu điện nội
thành.
Hắn ngắm nhìn bọ quần áo đại cán Tô Châu của Dự. Và cái
ba-lô, mũ tai bèo. Nhưng người ta còn có thể nghi anh bộ đội là giả cầy nếu
không có vết sẹo do bỏng ở trại V. Q. Dự đã hoàn toàn trở thành anh thương binh
từ trong khói lửa miền Nam trở về với gia đình miền Bắc. Dự hỏi:
– Giống không?
– Không chê vào đâu được.
Dự cười, rút trong túi áo đại cán bao thuốc lá.
– Tam Thanh đàng hoàng. Phải tới hai đồng rưỡi một bao đấy.
Hai anh em hút. ấm cả cổ.
Hắn không ngờ Dự lại là lính mổ. Vì trong trại Dự chậm chạp,
hiền lành, cù mì ít nói. Dự bảo hắn: “May mà em làm được nghề này. Lúc đầu cũng
lo. Sợ lắm. Nhưng rồi quen. Em với Min. Min bị bắt tháng trước. Có lẽ vì Min
không có sẹo như em”. Dự cười: “Có cái sẹo này hoá may, cái tay khoèo này nữa.
Chẳng ai nghi ngờ gì”. “Nhưng tay này thao tác có ổn không?”. Dự giơ bàn tay sẹo
loang trắng trắng hồng hồng có mấy ngón co quắp lên. Hắn chỉ thấy hơi gợn nhẹ ở
ngực áo, mấy tờ giấy bạc đã nằm gọn trong tay Dự. Dự cười và ấn trả lại vào túi
hắn. “Được không? Túi áo bông hơi khó. Túi áo sơ-mi dễ hơn”. Và Dự bảo hắn như
Giang đã bảo: “Anh đừng để tiền ở túi áo”. Dự rủ hắn đi ăn. “Anh em mình phải
có bữa liên hoan kỷ niệm chứ. Em mới thắng một quả đậm”. Thấy hắn ngần ngừ, Dự
hỏi: “Anh có bận gì không?” Khi biết mục đích của hắn đi Hà Nội, Dự reo lên:
“Thuốc lá à? Em sẽ đưa anh tới một nơi. Bảo đảm là có mà”.
Chương 50
Họ ngồi đối diện trong một góc nhà hàng Tiểu Lạc Viên. Phố Tạ
Hiện, Phúc Long, Phúc Châu thân thuộc với hắn từ những ngày làm ở báo T. Bọn hắn
hay lên đây uống trà buổi tối. ở đây bao giờ cũng đông đúc, tấp nập. Được hoà lẫn
vào đám người đông vui, bận rộn và vô tư thật là thú vị. Khi ấy hắn mới ngoài
hai mươi tuổi. Khi ấy anh Diệu bảo: “Các cậu tuổi hăm, sướng thật. Còn mình tuổi
băm rồi, chán quá”.,
Đã hai mươi năm trôi qua. Bè bạn ở báo còn nhiều đấy, nhưng hắn
nghiệm ra hầu hết những người có tài, có khả năng làm báo và sáng tác văn nghệ
đều chẳng ra gì. Chẳng được tin cậy. Chẳng ai lên được chức tổ trưởng, trưởng
phòng. Biên uỷ lại càng xa xôi. Xa xôi như ta ngắm nhìn sao Hoả vậy. Vì sao thế
nhỉ? Tại lãnh đạo. Đã hẳn. Nhưng anh em cũng có lỗi một phần. Anh em có một cái
gì đó không khớp với thước đo, với khuôn phép. Nó cứ vượt ra ngoài qui cách. Thừa
một tý. Lại thiếu một tý. Thừa nhiệt tình, xông xáo, lán lộn, nắm chắc thực tế,
hiểu quần chúng nghĩ gì, muốn gì. Nhưng lại thiếu cân nhắc khi phát biểu, đôi
khi dẫn đến mất lập trường.
Thừa khả năng viết phóng sự, bút ký, điều tra, những bài
phông cho số báo đặc biệt nên đi vào sáng tác văn chương là thứ làm ảnh hưởng đến
việc viết báo. Thiếu tính khiêm tốn, thiếu sự tôn trọng trưởng phó ban, biên uỷ
là cán bộ chính trị sang phụ trách duyệt bài. Cho họ là viết kém, không biết viết
mà không nhìn thấy cái cơ bản là lập trường tư tưởng, những cống hiến của người
phụ trách. Thừa quyết tâm cải tiến tờ báo, nhưng lại thiếu ý thức tổ chức và kỷ
luật, thích là rủ nhau lên Tạ Hiện này uống trà trong giờ làm việc. Thật ngược
đời. Những người tên tuổi gắn liền với những trang báo, được bạn đọc yêu mến lại
là những phần tử phức tạp, phải uốn nắn, đấu tranh trong nội bộ cơ quan.
Quán Tiểu Lạc Viên này hắn đã đến với bạn bè những khi lĩnh
nhuận bút, lĩnh tạm ứng. Bữa ăn cuối cùng trước khi bị bắt là khoản ứng trước hợp
đồng kịch bản phim “Những người đang sống” với Vũ Mạc, với Nguyễn Vũ Phương
cũng là ở đây. ăn xong Phương còn bảo: “Mày đưa tao mấy đồng. Tao mua xăng”.
Đúng ]à cái mô-bi-lét cũ của Phương ngốn xăng khá dữ…
– Anh ăn gì?
Dự hỏi làm hắn lúng túng:
– Gì cũng được.
– Không, anh gọi chứ.
Hắn nhớ tới thực đơn bữa ăn trước khi bị bắt với bạn bè:
– Chim quay.
Bữa ấy cũng có chim quay. Nguyễn Vũ Phương thích món chim quay.
Còn Vũ Mạc thích ba ba, bia ba ba. Ai nữa nhỉ? Lê Bàn. Lê Bàn bao giờ cũng giản
đơn: Thịt gà luộc.
Dự gọi to:
– Hai chim quay.
– Một thôi. Để còn ăn thức khác. Có đủ tiền không đấy.
– Anh yên trí. Đủ mà. (Gọi to) Một chim quay thôi nhé!
Hắn: – Ba ba tần đi.
Dự: – Một ba ba.
Hắn: – Gà luộc nhé.
Dự: – Một gà luộc.
Hắn: -Thế thôi. Đủ rồi đấy. Quá nhiều nữa là khác.
Dự:- Anh uống gì?
Hắn: – Bia.
Dự sung sướng rót bia:
– Anh ăn đi. Uống đi.
Đôi mắt Dự long lanh nhìn hắn. Hắn thì thầm:
– Nào. Khợp!
Dự cười tít mắt:
– Sột sệt.
– Có nhớ Q. N, V. Q không?
– Em gần như đêm nào cũng nằm mơ thấy mình vẫn ở trong ấy.
– Đêm nào cũng vậy à?
– Có đêm em cùng với Xìn Cắm thái da trâu ở bếp. Thái đến
toét cả tay. Một ngón tay lòi cả xương ra, đỏ hỏn. Da trâu ngập đầu, mùi khẳn
như cóc chết. Xìn Cắm béo hơn lúc còn sống. Em vẫn nhớ là Xìn Cắm chết rồi. Em
hỏi chuyện dưới âm, Xìn Cắm không nói. Cứ nhìn em, chảy nước mắt, buông dao đứng
lên, đi vào rừng biến mất. Em định đi theo mà không sao đứng được. Chân cứ nặng
như chì. Nhũn ra.
Hắn nhớ đến người tù lưng cánh phản, ngoại hình rất giống
Hemingway, hàm răng trắng đều và nụ cười thơ trẻ, cho hắn cái nắp ca. Hắn nhớ đến
đám ma Xìn Cắm, đến cái quan tài Xìn Cắm nằm trên xe trâu cùng với mai cuốc xuống
dốc trại lộc cộc, lộc cộc. Đi đầu là ông Chắn, công an y tá. Ba anh lâm sản đào
huyệt theo sau. ánh đuốc bập bùng hắt lên khuôn mặt Cương móm, trông càng giống
hình vẽ trên bảng Nguy hiểm chết người. Rồi Hỉn Sán đi cạnh bưng bát cơm lồng,
trên có quả trứng luộc, cắm một đôi đũa vót xù ra. Và một người nữa cầm một nắm
hương đỏ hồng. Hắn nhớ đến sáng hôm sau, khi đang đánh răng rửa mặt thì Cương
sang đưa cho hắn củ sắn luộc: “Này Xôi cúng Lỷ Xìn Cắm đây”. Hỏi ra mới biết mỗi
anh đào huyệt được bồi dưỡng hai ki-lô sắn luộc.
Hắn vội hỏi sang chuyện khác. Sực nhớ tới tài nghệ bắt chuột
của Dự trong trại, hắn hỏi vui để chấm dứt đề tài ấy:
– Dự có nằm mơ thấy chuột bao giờ không?
Dự ngạc nhiên:
– Sao anh biết? Em luôn nằm mơ thấy chuột. Không biết bao
nhiêu là chuột. Mới đầu em đuổi một con chuột leo. Nó chạy vào nhà mét. Em chạy
theo. Em đuổi mãi. Trong ấy khói um. Bao nhiêu người đang sột sệt. Khói không mở
được mắt. Em quát: “Khéo cháy trại bây giờ! Có dụi đi không?” Họ cứ rút mái xuống
đun. Rồi nhìn em cười. Răng cứ dài ra. Hoá ra toàn chuột. Phải đến hàng nghìn
con xông vào cắn em.
Dự tỏ vẻ hoảng.
Có lẽ vì em ăn nhiều thịt chuột quá. Phải đến hơn chục hôm
toàn mơ thấy chuột. Con to, con bé, con mẹ, con con. Con cười, con chơi, con chạy.
Em thì chết rồi, mà hai con chuột cứ khoét mắt em. Sợ thật đấy. Tỉnh dậy, toát
mồ hôi.
ăn mấy miếng Dự lại bảo:
– Cũng chưa kinh bằng một lần em nằm mơ không biết ở trại
nào. Hình như ở Cổng Giời. Hay Phố Lu, hay V. Q. Tất cả trại không còn một ai.
Vắng ngắt. Mấy chục buồng chỉ có mỗi mình em. Còn toàn quản giáo. Dễ đến mấy
trăm. Họ điểm danh. Họ gọi toán tăng gia. Mỗi mình em. Toán chăn nuôi. Lại mỗi
mình em. Toán lò gạch. Lại em. Toán lâm sản. Cũng em. Toán may. Cũng em. Em đã
ra khỏi cổng đi làm. Lại có một em – khác ngồi ở sân, mỗi mình. Chung quanh
toàn áo vàng đeo súng lục. Mà áo xanh cũng đông. Vòng trong vòng ngoài. Kinh lắm.
Dự cười. Hắn cảm thấy ghê ghê. Dự hỏi hắn:
– Anh có nằm mơ thấy nó không?
Hắn lắc đầu, buồn bã, nói một sự thật hắn đã nói với già Đô:
– Mình mất khả năng nằm mơ rồi. Không mơ thấy gì nữa.
Dự xuýt xoa:
– Anh sướng quá. Em chính thức mộng mị liên miên. Hết trại
này đến trại khác. Thành ra ngày đi hoạt động, còn đêm nào cũng lại vào tù. Hắn
nghĩ có lẽ Dự quá căng thẳng. Tác động đến thần kinh. Mà căng thẳng là phải
thôi. Cái sống cái chết chỉ trong gang tấc.
– Phải tìm cách chuyển nghề thôi, Dự ạ.
Dự như đã suy nghĩ kỹ về chuyện đó:
– Chưa được. Phải cố một năm nữa. Nếu thắng quả đậm thì chuyển
sớm hơn.
Và Dự cho hắn biết ý định: Dự cố dành dụm mua một cái túp ở
bên kia Gia Lâm. Một mảnh vườn. Thế là bắt đầu làm lại cuộc đời. Giồng rau
thơm. Nấu rượu. Nuôi lợn và lấy vợ nữa. Dự đã bàn với Min. Nhưng Min chưa thực
hiện được đã bị bắt.
– Bây giờ được kha khá chưa
– Khó khăn lắm, anh ơi. Kiếm không phải dễ đâu. Có hôm đi từ
sáng đến tối, vẫn Trần Văn Trều.
Bây giờ người ta cảnh giác lắm. Như anh đấy. Ai động được vào
túi anh. Em hết sức tiết kiệm mới để được hơn trăm.
– Tiền để ngay trong ba-lô này à? Ngộ nhỡ…
Dự gật gù:
– Min để trong ba-lô, bị bắt, mất hết đấy. Rút kinh nghiệm
Min, em chôn ở một nơi chỉ một mình em biết.
– An toàn không?
– An toàn. An toàn tuyệt đối.
– Chôn tiền à? Sợ mục mất.
– Em mua vàng. Anh yên tâm.
Hắn rụt rè hỏi Dự:
– Dự ơi, vì sao Dự bị bắt?
ở trong tù người ta không hỏi nhau điều ấy.
Không muốn tò mò, không muốn đi sâu vào bí mật của nhau.
Nhưng bây giờ hắn thấy cần phải hỏi. Dự trả lời thật bất ngờ:
– Em là dân công giáo. Đức cha xứ em giao cho em mang một số
giấy tờ tài liệu sang cho linh mục xứ đạo vùng bên. Trên đường đi thì em bị bắt…
– Sao không thấy Dự chơi với bọn Cân, Hoá nhỉ?
– Bọn họ bảo em khô đạo. Họ nói thế là nhẹ đấy.
Chứ em bỏ đạo rồi. Em không tín nơi Chúa nữa. Nếu có Chúa thì
Chúa đã chẳng để em và bao con chiên của Chúa như vậy. Chúa dạy khác với cuộc đời
nhiều quá. Làm theo lời dạy của Chúa cũng tốt, nhưng không sống nổi. Chẳng ai
cho mình sống đâu. Phải tự mình thôi. Em đã chầu chực ở ga làm bốc vác. Không đến
lượt. Em muốn làm xích-lô. Không có vốn mua xe. Em xin vào lò gạch đóng gạch.
Không ai mướn. Người đông quá. Dâu cũng thừa người, anh ạ. Phải làm việc này
thôi. Mà đã làm thì phải an toàn, phải thắng.
Họ vừa ăn vừa trò chuyện. Nhà hàng lúc ấy vắng, chưa đến giờ
cao điểm. Hơn nữa khách ăn có vẻ sộp, lại là thương binh, loại khách cần phải
chiều, đừng làm mất lòng họ, dù bất kỳ ở đâu, nữa là họ đang ăn uống. Dù bây giờ
họ đã ăn uống xong lâu rồi và chỉ ngồi hút thuốc.
ăn xong Dự trả tiền (hết hơn mười đồng tất cả), hai anh em đến
nhà người quen của Dự mua thuốc lá.
Lại quành ra phía đầu cầu. Ngoắt ngoéo vào sâu trong ngõ. Qua
một vòi nước có cầu rửa. Sát một hẻm con tường gạch mục, với những ô nhỏ hố xí
thùng. Thật không may. Chỉ có một đứa trẻ lên mười đang nấu cơm. Dự cười:
– Ngọ đấy à? Nấu cơm cho chú với nhé.
Thằng bé reo lên khi thấy Dự:
– Sao lâu quá chú không đến?
Nó pha nước mời khách và cho biết bố mẹ nó sắp về. Cách chuyện
trò giữa nó và Dự làm hắn yên tâm.
Căn buồng tối, hẹp. Ngổn ngang những bản in tiền, vàng âm phủ.
Rất thông thạo, Dự đi vào góc nhà tìm tìm, bới bới và đu người
lên gác lửng, sờ nắn…
– Yên trí. Anh yên trí.
Thằng bé con cười:
– Chú tìm gì?
– Có rồi. Bí mật. Bố mẹ đi có lâu không?
– Hai chú ngồi chơi. Bố mẹ cháu về bây giờ đấy mà.
Hai người ngồi hút hất mấy điếu Tam Thanh nữa. Dự hỏi thăm vợ
con hắn, tình hình làm ăn của hắn. Hắn ngắm nhìn Dự. Lanh lợi, tháo vát, từng
trải, xốc vác. Dự hôm nay và Dự hôm ngồi cho hắn cắt tóc ở trại Q. N thật khác
hoàn toàn. Dự đã lột xác để trở thành một người khác. Đúng là không thể nhận được
ra Dự… Chỉ đến khi biết rồi, nhìn kỹ vẫn thấy là Dự ấy.
Phải đến tan tầm chủ nhà mới về. Chỉ một anh chồng. Hơn tuổi
bọn hắn. Xách một túi nặng.
Trông thấy Dự ở cửa, người ấy reo lên:
– Lâu quá mới gặp. Cứ tưởng…
Chợt thấy hắn, câu nói dừng lại ở đấy. Dự cười:
– Tưởng em vào kho rồi phải không?
Và giới thiệu:
– Anh Tuấn bạn em. Đã ở Q. N, VQ. Anh Lợi cũng ở QN đấy. Toán
lâm sản. Lời giới thiệu ấy làm họ hiểu nhau ngay. Hai người hỏi nhau về thời
gian ở Q. N. Thì ra lúc hắn lên QN, thì Lợi đã được tha rồi.
– Nhà tôi còn ở lại chờ chuyến tàu sau. Thuốc lá à? Người ta
đặt hết cả rồi.
Mãi sau hắn mới biết vợ chồng Lợi bao thầu, mua lại những gì
mà tổ công an, phòng thuế trên tàu tịch thu. (Tất nhiên là những thứ không đưa
về trụ sở). Chủ yếu là chè, thuốc, những thứ nhẹ, còn sắn,. gạo, gà qué Lợi
không làm. Hàng Lợi mua không nằm trong sổ sách, để anh em bồi dưỡng riêng. Lợi
làm lâu rồi, đứng đắn và được tin cậy.
Tuy nói không còn thuốc, nhưng Lợi đã lại thoăn thoắt leo lên
gác lửng kéo xuống một bọc to.
– Tình hình chè thuốc năm nay còn gay. Họ làm căng lắm. Không
thoát một cân. Kiểu gì cũng không lọt. Để trong đàn ghi-ta cũng mất. Ba-lô cho
vào bao đổ sắn lên cũng mất. Mất mà không dám nhận. Bao này của ai? Cái đàn này
của ai Không dám ra xin. Cứ ngồi mà nhìn thôi. Chỉ béo bọn phòng thuế, bọn thị
trường. Thu cho nhà nước một, thu cho chúng mười. Nó cướp được của người ta mà
nó bán cho mình có rẻ đâu. Nhưng thôi, có hàng cho mình là tốt rồi. Tôi mua được
nhiều hàng là nhiều người chết lắm đấy anh ạ. Đây. Thuốc đây. Anh lấy được mấy
cân? Anh em mình với nhau cả. Anh bị bao nhiêu? Năm gậy à? Tôi chẵn mười niên.
Gấp đôi anh. May mà được cô vợ tốt. Tiếp tế đều đặn, chờ chồng, nuôi con. Bây
giờ còn đang phơi mặt ở ga. Chờ chuyến tàu sau. Kiếm miếng ăn vất vả lắm, anh
ơi.
Hắn lấy năm ki-lô. Sợi loại hai thôi. Giá rẻ không ngờ: Mười
bảy đồng một ki-lô. Lợi có cả giấy cuộn. Hắn làm một cây giấy Sơn Thuỷ. Thuốc
khô. Loại này một cân phải cuộn được nghìn mốt, nghìn hai trăm điếu. Cho thuốc
vụn quốc doanh vào giữa thì còn được hơn nữa. Thứ thuốc vụn ấy rất ngon, không
nóng, tàn trắng, đậm đà. Chỉ tội đen. Đen và vụn. Thuốc giao được năm mươi. Bằng
giá bán lẻ. Vậy là mỗi cân thuốc kiếm được đến ba chục bạc. Với thói quen nghề
nghiệp hắn nhẩm tính rất nhanh. Như nhẩm tính nhuận bút in sách ngày trước. Loại
mười tám đồng hay mười lăm đồng (một nghìn chữ). Tập sách khoảng bao nhiêu chữ.
Nhuận bút cơ bản. Số luỹ tiến. Hắn tính ngay ra con số cuối cùng. Hắn trả tiền,
cho thuốc vào túi, chân thành cảm ơn Lợi và cùng với Dự đi ra phố. Hắn nắm chặt
tay Dự bùi ngùi:
– Tìm Dự thì tìm ở đâu?
– Từ chín giờ tối trở đi em có mặt ở ga. Em ngủ ở đấy.
– Có khi nào xuống P không?
– Chưa biết được. Nếu xuống dưới đấy, em sẽ lại.
Hắn vừa đi vừa ngoái nhìn về phía Dự đang đứng đón ô-tô-buýt.
Dự tốt quá. Một tấm lòng vàng. Dù đang đi móc túi. Không biết có còn gặp nhau nữa
không. Mong Dự đừng như Min, đừng như Giang.
Kia rồi, một cái ô-tô-buýt vừa đỗ. Dự bám vào tay vịn nhảy
lên. Mũ tai bèo, ba-lô phồng. Quần áo Tô Châu bước khuất vào trong xe. Ô-tô
chuyển bánh ngoặt về một ngã tư.
Hắn đi về phía nhà anh chị Diệu. ở đó hắn đóng chặt cửa lại,
múc từng ca nước phun vào số thuốc lá mới mua được của Lợi. Hắn chia số thuóc ướt
đẫm nước ấy thành từng phần, rồi cho vào một túi ni-lông dày, lật ngược cái ghế
gỗ con như một thứ khuôn, hắn ép chặt thuốc lại, mới đầu lấy tay đấm vào túi
thuốc, sau đứng lên, nhún xuống, ghì xuống. Mấy cân thuốc bị nén thành những
bánh vuông vắn. Hắn lấy giấy báo gói riêng từng gói và đút vào túi lưới trông
như những cái bánh chưng. Kinh nghiệm trong tù dạy hắn: Hãy yểm một cách hớ
hênh nhất.
Hắn xin thêm anh chị Diệu tờ báo Cứu Quốc, cái bìa lịch mới,
đút áp vào mấy cái “bánh chưng”và buộc trên quai túi chiếc khăn mặt. Mua được
thuốc lá đã khó. Giữ được thuốc lá khó hơn nhiều. Còn quãng đường từ đây về P nữa.
Bao nhiêu trạm thuế, bao nhiêu công an, bao lần khám xét. Mà hắn phải đem được
tài sản này về cho vợ con hắn. Hắn dung dăng dung dẻ xách túi đi lại trong buồng
và cười toe toét hỏi chị Diệu:
– Trông em giống cán bộ đi công tác chưa, hở chị?
Chị Diệu đã bao lần thấy hắn lên nhà chị để làm việc với nhà
xuất bản, để nhận sách bản quyền mới in; nhận tạm ứng tiền nhuận bút, đem phác
thảo bìa sách về ngắm nghía và góp ý với hoạ sỹ. Chưa bao giờ hắn hì hụi một
mình như thế này. Trước đây hắn vừa đặt chân lên Hà Nội là tất cả bọn bạn hắn đều
biết ngay. Chốc lại có người gõ cửa nhà chị:
– Chị Diệu ơi. Thằng Tuấn nó đâu rồi, hở chị?
– Chị Diệu ơi. Thằng Tuấn nó mới lên, hở chị?
Cũng có khi chẳng thấy hắn đâu, vẫn tưởng hắn đang ở P, nhưng
nghe bọn bạn hắn hỏi, chị biết hắn đã ở Hà Nội và y như rằng một lát sau hắn đã
có mặt tại nhà chị.
Chị biết đám bạn hắn giờ đây cũng đang gay go, tan tác cả. Những
Lê Bàn, Trịnh Bão, Vũ Mạc, Phạm Văn Định, những Nguyễn Vũ Phương… Nhìn hắn đánh
vật với mấy cân thuốc lá, nhìn hắn hí hởn đi lại trong buồng, chị cười chua
chát:
– Rõ vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay.
Vào nửa cuối năm 1974 hắn có ba cuộc gặp gỡ quan trọng. Với
ba người. Một người bạn tù. Và hai người khác mà cả hai đều có thể quyết định số
phận của hắn. Người bạn tù là già Đô. Hai người kia là ông Hoàng và ông Trần.
Ba người đại diện cho ba thế giới.
Già Đô là người của thế giới bên kia, thế giới thống khổ hắn
vừa trải qua và còn đang bám theo hắn. Bám riết không rời. Như đuôi sao chổi
bám vào nhân sao chổi. Hắn thích hình ảnh này. Dù sao hắn cũng trót dại đi viết
văn. Hắn thích tư duy hình tượng.
Và hắn thấy hình tượng ấy được. Con người nhỏ bé mà đau khổ
quá lớn. Không chạy đâu thoát. Dù có trốn vào đêm đen vũ trụ mịt mùng, nỗi khổ
đau vẫn bám theo, mênh mông như vũ trụ.
Ông Hoàng đại diện cho thế giới của một số ít người (chắc là
như vậy – càng về sau hắn càng tin như vậy) muốn làm được những điều mình nói.
Một người trung thực. Muốn thực thi luật pháp, muốn trả lại cho hắn tất cả những
gì hắn đã bị tước đoạt. Tóm lại ông là người tốt bụng, có trách nhiệm, nhưng
lãng mạn và không tưởng.
Người thứ ba là ông Trần, người có phép màu làm thay đổi thế
giới này của hắn. Đúng. Ông Trần có một chiếc gậy thần. Ông cầm gậy chỉ một
cái, thế giới của hắn thay đổi hẳn. Với một số người, ông là tiên ông. Với hắn,
ông là phù thuỷ. Ba cuộc gặp gỡ xếp theo trình tự thời gian: ông Hoàng, già Đô,
ông Trần.
Mùa thu năm ấy mưa ngâu rả rích. Ngọc thắp hương cúng ràm từ
mấy hôm trước. Ngọc bảo rằm tháng Bảy phải cúng sớm, để những cô hồn không nhà
không cửa, đói khát, lang thang vào nhà mình ăn uống được no một bữa, rồi lại
đi nhà khác kiếm ăn trong dịp xá tội vong nhân.
Hắn thấy Ngọc đã bước vào tuổi già, tuy nàng mới ngoài ba
mươi. Bạn bè cùng lớp tuổi, Ngọc chỉ chơi với Linh. Nhưng chính Linh cũng như
Ngọc, cũng bước qua tuổi trẻ của mình. Họ không chạy trốn tuổi ba mươi, tuổi
chín nhất của người phụ nữ. Chỉ giản đơn là cả hai đã ở tuổi già trong lúc còn
đang trẻ. ở cơ quan, hai người chỉ có nhau là bạn. Cả hai cùng có những người bạn
mới ngoài cơ quan, tuổi bốn mươi, nám mươi, sáu mươi, cùng họ đi lễ các đền,
các hội. Ngọc và Linh thuộc lòng ngày kỵ Đức Thánh Mẫu, ngày mở hội Phủ Giày,
ngày mưa rửa cửa đền Kiếp Bạc. Những gì dính dáng đến thế giới này không hấp dẫn
được họ ngoài chồng con, bố mẹ và các loại tem phiếu.
Họ đã nhìn thấy quá nhiều điều ở vào tuổi ấy. Họ đã chờ đợi
quá lâu rồi. Họ đều mong mỏi được hưởng may mắn trong số phận, tuy mỗi người một
hoàn cảnh đối lập nhau. Chồng Linh đi chiến đấu trong tự hào vinh dự, chồng Ngọc
đi tù. Giờ đây người nọ thèm số phận của người kia.
Ngọc quá hiểu nỗi khổ trăm đường của người có chồng đi tù,
túng thiếu nhục nhã, đau đớn ê chề, nàng thèm được như Linh. Còn Linh nhìn Ngọc
có chồng ở bên mà nghĩ đến chổng mình trong B, cái sống là rất ít. Linh bảo Ngọc:
“ Chẳng làm gì mà suy nghĩ, mà xấu hổ. Chồng mày không ăn trộm, ăn cắp, không
tham ô, hủ hoá…” Thực sự Linh cho là Ngọc cũng như Linh, cả hai đều phải chịu mất
mát, hy sinh cho cuộc kháng chiến này, cả hai đều phải chịu mất mát hy sinh cho
chiến thắng.
Điều Linh nghĩ cũng là điều hắn nghĩ. Với hắn đó là sự thật.
Chồng Linh vào rừng, xông pha bom đạn, đói khát, vất vả cho chiến thắng. Còn hắn,
hắn hy sinh cái quý nhất: Tự do. Là cũng để cho chiến thắng. Hắn chịu đựng khổ
nhục, đau đớn là để cho chiến thắng. Chiến thắng cần phải được đảm bảo bàng sự
an toàn tuyệt đối ở hậu phương, hậu phương pha-lê hoá… ít nhất việc bắt hắn
cũng có tác dụng răn đe những người khác, nếu hắn không có tội. Đóng góp vào việc
răn đe, hướng mọi người toàn tâm toàn ý vào một mục tiêu duy nhất là sự đóng
góp tích cực. Có nhiều cách đóng góp. Cách đóng góp của hắn đáng kể lắm chứ. Nó
cũng được làm bằng đời người. Nó cũng được làm bằng nước mắt. Thực lòng hắn
không tin chuyện hương khói. Hắn nghĩ: Chuyện con người là của con người. Đó là
cuộc đấu tranh muôn đời giữa cái thiện và cái ác, nỗi thống khổ muôn đời của những
kiếp người bị giày xéo, bị đày đọa, bị làm những hòn chèn cho cái ghế ngồi của
các ông quan và các vị vua chúa. Tuy vậy nhiều lúc thấy Ngọc thành kính đứng
trước bàn thờ, hắn mong những điều nguyện cần của nàng biến thành sự thật. Hắn
không tin, nhưng hắn vẫn cứ mong muốn có các thánh để các thánh ban cho một
phép mầu, để thánh thần thực hiện luật công bằng, vay trả, trả vay, đã được thể
hiện trong truyện cổ tích và trong các chủ trương của Đảng, có công thì thưởng,
có tội thì phạt. ờ hiền gặp lành. Kẻ ác bị trừng trị.
Bàn thờ nhà hắn vẫn đặt trên nóc chiếc tủ Bình đóng, sơn
xanh, nom như cái quan tài dựng đứng. Dịp rằm tháng Bảy năm ấy, trời đang mưa
ngâu, ẩm ám, bỗng nhiên bát hương nhà hắn bốc cháy. Buổi tối Ngọc kê ghế đứng
lên, đặt hương hoa, bày đồ lễ, thay nước thắp hương, thì thầm khấn vái. Rồi Ngọc
bước xuống sàn, đến ngồi ở giường đan len. Đan thuê phải tranh thủ từng phút.
Đan ngay cho công ty Ngọc. Một lúc sau bát hương nhà hắn tự nhiên bốc cháy. Ngọn
lửa sáng bập bùng căn nhà hẹp.
Ngọc buông que đan bật dậy ra đứng trước bàn thờ, kính cẩn chắp
hai tay vái xuýt xoa “Lạy ngài, con chắp tay con lạy các ngài hiển linh, phù hộ
độ trì cho chồng con là Nguyễn Văn Tuấn, quê quán… trú tại số nhà… được tai qua
nạn khỏi, có công ăn việc làm, phù hộ cho con là Lê Thị Ngọc 35 tuổi…” Vẻ mặt
nàng còn hơn cả sự ngạc nhiên và thành kính. Đó là vẻ mặt con chiên thấy Chúa
hiển hiện. Và nàng chờ đợi. Nàng không dám nói trước, mà im lặng chờ đợi điều
gì đó đang đến. Không phải điều bình thường. Một điều tốt lành to lớn. Hệ trọng.
Có thể thay đổi cuộc sống của vợ chồng nàng. Cho mãi khi ông Hoàng đã tới nhà,
đã ra đi, Ngọc mới nói: Thế là diềm báo trước của việc hoá bát nhang đã được ứng
nghiệm.
Ông Hoàng đến vào buổi tối. Mất điện, nhìn bóng người cao cao
của ông đi ngoài hành lang, hắn ngớ ra, không tin vào mắt mình và bật lên:
– Anh Hoàng…
Ông Hoàng không đi một mình. Có một thư ký cùng đi. Người thư
ký trạc tuổi hắn, khuôn mặt thông minh, cặp mắt sắc sảo, cái cằm vểnh kiểu cằm
Maiacôpski khiến hắn lại nhớ tới Nguyễn Vũ Phương đang gò lưng gánh vệ sinh ở
trại P. L (Phương cũng có cái cằm Maia). Đó là phó tiến sỹ Huỳnh, sau này là thứ
trưởng kiêm Tổng giám đốc của hắn. Nhà chỉ có hai cái ghế. Hắn mời khách ngồi
ghế còn hắn ngồi trên cái hòm giấy nện, nơi vẫn để những túi ni-lông đựng số
thuốc lá sợi đã aromatisé của hắn.
Ngọc và lũ trẻ ngồi cả ở giường. Hắn cảm động đến mức luống
cuống và mãi mới pha được nước mời khách. Ông Hoàng cầm chén trà, người thư ký
nói với hắn, nhưng chính để nhắc ông Hoàng:
– Anh Hoàng tối không uống trà.
Ông ngoan ngoãn đặt chén xuống. Ông nhìn quanh căn buồng
nghèo nàn. Nhìn mấy mẹ con Ngọc ngồi túm tụm ở giường, khuôn mặt rạng rỡ vì sung
sướng và xúc động. Thiên thần hiện ra ở nhà Lọ Lem cũng chỉ có thể tạo cho Lọ
Lem khuôn mặt như Ngọc mà thôi.
Ông Hoàng sẽ làm thay đổi đời hắn, thay đổi đời nàng và trong
lúc chờ đợi, bằng vào việc đến thăm nhà, ông đã đem lại cho vợ chồng nàng niềm
hy vọng lớn lao, sự nâng đỡ tinh thần và một cái vốn chính trị to lớn biết chừng
nào. Nhà nàng từ ngày ấy còn có mấy ai đến. Thế mà đây không phải một người
khách bình thường mà là một ông bộ trưởng, một ông bí thư thành uỷ…
Ông hỏi thăm việc học hành của lũ trẻ. Ông chỉ vào từng đứa.
Thằng Hiệp lí nhí “Cháu học Chín ạ!” Ngọc sẽ còn mắng nó nhiều vì câu trả lời ấy:
“Thưa bác, cháu học lớp Chín ạ. Chứ ai lại nói cháu học Chín ạ”. Ông chỉ vào
con Thương, rồi thằng Dương: “Thằng này đẻ khi bố đi xa đây phải không?” Lại
thêm một ví dụ về những nỗi khổ đau của nhân dân bày ra trước mắt ông. Những
quyền cơ bản của dân đang bị vi phạm. Nhiều khi rất nghiêm trọng. Mà chính vì
những quyền ấy của nhân dân, Đảng đã ra đời, đã chiến đấu. Chẳng cứ gì dân
chúng, ngay trong số cán bộ, đảng viên, những đảng viên có cỡ cũng có người chịu
bao đắng cay, nhiều khi là những tai hoạ hiểm nghèo. Họ đến ông, xin ông với
cương vị của mình hãy tìm mọi cách giúp họ. Ông đã làm hết khả năng mình vì
chân lý, vì trách nhiệm trước con người, vì lý tưởng của Đảng, dù nhiều khi phải
chống lại cả một thế lực, một tập thể nhân danh tổ chức, nhân danh Đảng, dù ông
biết sẽ rất phức tạp, khó khăn và nguy hiểm nữa..
Nhưng ông không chọn con đường khác, cách xử sự khác. Ông
không trốn tránh. Ông nhận diện được kẻ thù nguy hiểm nhất của một Đảng cầm quyền.
Đó là sự xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mất đi sự nhạy cảm với phong trào,
với ước nguyện của nhân dân. Và mất đi điều quan trọng nhất của người dẫn dắt:
Khả năng dự báo. Ông vẫn giữ được mối liên hệ ấy một cách dễ dàng, tự nhiên,
không phải cố gắng chút nào. Ông đến với mọi người, mọi người đến với ông, cởi
mở, chân thành, tin cậy và yêu quý. Trái tim ông vẫn còn nhạy cảm. Khối óc ông
vẫn còn nhạy cảm. Hình như ông làm cán bộ lãnh đạo là một sai lầm. Trong ông có
máu của một nghệ sĩ. Lẽ ra ông phải là một nhà thơ hay một nhà văn mới đúng.
Ông nhìn lên nóc tủ. Nơi ấy là bàn thờ. Một ngọn đèn con. Một nải chuối… Khói
hương. Ông biết cách đây không lâu Ngọc còn là một nữ sinh kháng chiến, theo chồng
từ Hà Nội về đây với hy vọng, tin tưởng sẽ được góp sức mình xây dựng cuộc sống
mới, cuộc sống tốt đẹp chung cho mọi người và cho riêng họ. Mất lòng tin ở thế
giới này thì phải đặt lòng tin vào thế giới khác. Sống cần được trao gửi niềm
tin của mình vào đâu đó vì thuộc tính của con người là cần được dẫn dắt. Cuộc sống
bị những người trần thế xô đẩy vào bước đường cùng thì chỉ còn trông cậy vào những
thế lực huyền bí thay đổi lại. Ông nói vui với Ngọc:
– Một con bệnh mà mời những hai ông lang chữa chạy thì không
được đâu. Ông lang này tự ái đấy.
Ông cười. Thoải mái, tự tin. Ông rút trong túi áo khoác ra
năm mươi đồng (một xấp giấy bạc một đồng còn mới). Ông lại cười:
– Tôi sẽ lo in sách cho anh. Và trong khi chờ đợi, tôi cũng ứng
trước tiền nhuận bút đây.
Hắn còn đang ngớ ra, thì ông hỏi hắn:
– Này Nhà xuất bản vẫn ứng trước tiền nhuận bút. Có phải
không nhỉ?
Cả nhà đều cười. Hắn đỡ lấy xấp tiền. Thật ngoài sức tưởng tượng
của hắn. Năm mươi đồng bạc dạo ấy rất lớn, nhưng còn lớn hơn nhiều là tấm lòng
ông. Hắn biết không nên nói lời cám ơn vì điều ấy sẽ làm bình thường món quà
này. Không, món quà của ông là vô giá. Tuy nhiên hắn vẫn nói: “Xin anh. Cám ơn
anh”. Mãi sau này khi về xí nghiệp đánh cá, đi làm ở đó hắn mới biết đây là khoản
tiền ông vay của công đoàn xí nghiệp. Ông nói với đồng chí thư ký công đoàn và
ông giám đốc cũng đang có mặt trong phòng làm việc của công đoàn:
– Các anh có lên nhà, đừng nói gì với nhà tôi và các cháu số
tiền này nhé. Tôi sẽ trả sau.
Ông nghĩ số tiền này chỉ để cấp cứu hắn thôi. Nó có giá trị động
viên nhiều hơn. Cái chính là phải khôi phục lại công lý. Việc đó khó khăn,
nhưng dù sao cũng trong tầm giải quyết của ông. Nhưng một lần nữa ông nhầm.
Sau này hắn nghĩ, ông Hoàng cũng có nhiều điểm giống bọn hắn.
Sự ngây thơ, nhẹ dạ đáng yêu. Ông không nên làm chính trị. Chính trị đôi lúc hiện
ra trước mảt hắn như những mưu mô, thủ đoạn, kiểu nói nước đôi, giấu đi những ý
nghĩ thực của mình. Chính trị còn là lý trí. Rất nhiều lý trí. Để có thể lạnh
lùng cầm bút tính toán số xương máu phải bỏ ra cho một trận đánh, dự trù tổn thất
cho một chiến dịch. Cần thiết thì chấp nhận một sự hy sinh không tính toán. như
nhữllg chi phí phải trả cho chiến thắng.
Hình như ông Hoàng không có những phẩm chất ấy ông lại càng
không nên làm chính trị, khi ông có thể nghe được nhịp đập trái tim người khác,
cảm thấy tiếng than thở trong mỗi nụ cười, hiểu rõ một câu hỏi nghi ngờ, câm lặng
trong một cánh tay giơ lên tán thành nghị quyết. Và điều cuối cùng khiến ông là
người lận đận vì ông vốn trung thực, ông gọi sự vật bằng tên của nó.
Hắn đưa đơn gửi ông một buổi trưa, nhờ Cao, một người cháu
ông, cùng làm báo T. với hắn mang đến nơi ông làm việc. Khi đó ông đứng đầu một
ngành của chính phủ. Hắn đưa đơn cho ông với danh nghĩa ông nguyên là bí thư
thành uỷ.
Hắn đưa đơn và có bao nhiêu hy vọng trong lòng hắn vận ra cho
hết. Bởi vì việc này không liên can gì đến ông Hoàng. Ông thôi không làm bí thư
đến hơn chực năm rồi. Không biết ông có còn nhớ hắn không? Chẳng bao giờ ông lại
vì hắn mà đi gây chiến với ông K, ông Trần, xông vào những việc trong vương quốc
của các ông này. Bởi vì hắn đã viết không biết bao nhiêu đơn. Trước tiên là đón
đường, chờ ở cổng để đưa đơn cho các ông thường vụ, phó bí thư, bí thư, chủ tịch…
thành phố. Cũng là để bảo đảm nguyên tác trước khi kêu lên trên thôi, chứ trong
thành uỷ chẳng có một người nào ngu ngốc đi bới chuyện của ông Trần, một ông
thường vụ phụ trách nội chính bao gồm cả ba ngành công an, toà án, viện kiểm
sát. Các ông thành uỷ nhẵn mặt hắn khi hắn còn làm báo, nay tránh mặt hắn.
Không ăn thua nhưng cứ phải làm.
Âu cũng là để các ông ấy tự đánh giá mình trước lương tâm. Thế
thôi. Mong rằng lương tâm các ông ấy chưa bị móm. Nó vẫn còn răng, nó vẫn còn cắn
rứt. Rồi đơn lên Trung ương, lên các cơ quan quyền lực cao nhất, lên Ban Thanh
tra… Cầm tay trực tiếp. Chầu chực mà chẳng gặp được người cần gặp. Và những đơn
gửi qua bưu điện… Có lẽ đơn hắn không đến tay các vị ấy. Cũng như Ngọc, hắn lại
kêu vào thăm thẳm. Chắc chắn đơn của hắn đọng ở văn phòng cùng với rất nhiều
đơn khác. Vì vậy lần gửi đơn sau hắn kèm theo một đơn riêng tới các ông bí thư,
thư ký, lời lẽ thống thiết. Đại loại: Xin ông thương đến, xin ông quan tâm, xin
ông hiểu cho rằng sau những dòng chữ này là một cuộc đời, là sáu con người một
lòng theo Đảng, là oan khuất, là sự tái sinh vân vân và vân vân. Hắn muốn lay động
lòng trắc ẩn của những vị ấy, nhưng hình như họ đã quá quen với những lời van
xin dù tha thiết đến đâu.
Nói cho đúng hắn cũng được người có trách nhiệm tiếp một lần ở
Bộ Công an. Khi đưa đơn lên ông Bộ trưởng và ban thanh tra bộ, hắn chẳng mảy
may tin tưởng. “Bố nào chẳng bênh con”, “Người trên nào không bênh thuộc hạ”.
Ai cũng muốn nói với hắn những câu ấy, rằng kêu thì cứ kêu, chẳng ăn thua gì
đâu.
Kể cả Ngọc và Bình, những người thương hắn nhất, hiểu hắn nhất,
mong muốn điều tốt đẹp đến với hắn nhất. Họ khách quan hơn hắn. Họ biết rằng sẽ
không có ai đứng ra giải quyết. Người ta nhận, người ta hứa hẹn và người ta xếp
xó. Ai quan tâm đến đơn kêu, đơn khiếu, trong tình hình này hẳn nhiều như nấm
sau mưa. Họ biết trước rằng tất cả chỉ là việc mình đánh lừa mình. Tốn kém mà
chẳng ích gì. Hắn cũng biết vậy. Nhưng vẫn đánh lừa “sự tỉnh táo để không bị lừa”
của mình. Mọi người hãy thử đứng vào địa vị hắn. Không có tội, bị bắt tù, khẽ
thôi cũng năm năm. Tịch thu hàng nghìn trang bản thảo của mười năm lao động miệt
mài. Vợ đang học đại học, bị gọi về. Còn con nữa, chắc chắn vào đại học sẽ khó
khăn… Những điều đó xảy ra trong chế độ ta, chứ đâu ở chế độ cũ. Điều không chịu
được chính là chỗ ấy. Nó xảy ra trong chế độ ta, chứ không phải chế độ cũ.
Nhức nhối lắm. Uất lắm. Hận lắm. Đau lắm. Người ta chỉ sống
có một lần, sự tồn tại của trái đất đã là một xác suất vô cùng hiếm hoi trong
hàng tỷ thiên hà. Được sinh ra trên trái đất lại là một xác suất hiếm hoi của một
xác suất hiếm hoi. May mắn. Vô cùng may mắn. Kết quả của bao nhiêu ngẫu nhiên,
thần bí. Đó là ân thưởng lớn nhất của số phận của trời đất. Con người là kết quả
của toàn vũ trụ và có trách nhiệm sống trong vũ trụ.
Sống là gì. Có lẽ hắn không nói được rạch ròi. Nhưng chắc chắn
sống không phải là Xìn Cắm cúi cúi trên những luống rau, cái lưng đồng hun đẫm
mồ hôi loá lên dưới nắng, giờ đã tan biến trong thinh không, có còn chăng là cô
hồn đang múa võ trên trời, Dự hỏi cũng chẳng nghe thấy, lẳng lặng vào rừng. Sống
không phải là anh Mán, chăn choàng phấp phới, đôi guốc mộc to quá khổ kẹp ở
nách, hẳn bây giờ đã quên tiếng mõ trâu và vẫn ngơ ngác lang thang tìm kiếm một
điều gì chính anh cũng không biết, không hiểu nhưng anh vẫn đi tìm trên những vạt
rừng chưa tàn lửa đốt nương.
Sống cũng không thể là già Đô luôn mang một gánh nặng trên
vai, lẫn lộn trong bị bọc hành trang tàu Commerce Maritime, Khải Hoàn Môn, tiếng
vang động ì ầm của Địa Trung Hải, tiếng gọi quê hương, cái ca dùng làm ấm pha
trà, nhà máy giấy, con rồng đất túi lạc tiên chín thơm lừng và lúc nào cũng cô
đơn như người xà lim, người dưới mộ.
Sống cũng không phải là Nguyễn Văn Phố tù 18 năm không án.
Càng không phải là vợ Phố chờ chồng từ năm 33 tuổi đến năm 5l tuổi vẫn còn chờ
đợi và không chịu tuyệt vọng…
Sống đâu phải như hắn. Đêm đêm gặm nhấm nỗi đau, ngày lo bữa
ăn sinh vật và sợ hãi nghĩ đến tương lai. Sống vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền được
sống trên trái đất này. Hắn không thể chấp nhận sự tiêu diệt đời hắn. Giống như
Đỗ, người cùng giam một dãy xà lim với hắn, được ăn một bữa cơm có cả rượu, thịt
gà, cá chép, rồi bị bịt mắt, trói và bắn chết, nhưng cho đến phút cuối cùng vẫn
không chịu chấp nhận cái chết. Hắn biết hắn đang vác gậy chống trời. Luật pháp
bây giờ trông mong vào sự quan tâm tốt bụng của một số người. Luật pháp bây giờ
trông mong vào sự tình cờ, may mắn. Thì hắn đi kiếm sự quan tâm, lòng tốt bụng.
Hắn đi kiếm sự tình cờ may mắn. Kiếm trong tuyệt vọng. Để có thể nhen lên được
một chút hy vọng. Mà sống cho đến khi chỗ hy vọng cỏn con ấy đã cạn thì lại cầm
đơn đi. Để lại nhen lên chút hy vọng mà gặm nhấm mút mát, ăn dè qua ngày đoạn
tháng… Biết làm sao, con người ta cần hy vọng để sống.
Cái lần ấy hắn trở lại Bộ để xem đơn từ của hắn kêu đã được
giải quyết đến đâu. Lang thang ngoài phố thôi. Chẳng đến nhà ai nữa. Đi bộ thì
mệt. Mất thời gian. Đi xích-lô thì không có tiền. Hắn lễ phép trình chứng minh
thư và trình bày với người thường trực. Người ấy quay điện thoại. Có tiếng trả
lời trong máy. Người ấy gác máy, nói với hắn: “Bên Thanh tra hiện nay không có
ai ở nhà”. Hắn im lặng ngồi chờ. Có nhiều người đến. Hai phụ nữ từ khu Bốn ra
thăm chồng công tác ở Cục kỹ thuật cười nói rní rít và rủ nhau đi. Ba ông ăn mặc
lịch sự, lấy chứng nhận để làm hộ chiếu đi nước ngoài. Họ nói chuyện cởi mở, tự
tin, thân ái và bình đẳng. Vẻ thân ái bình đẳng của những người đồng chí cùng
nhau giải quyết việc chung. Họ đến và họ đi, cố nén niềm vui sướng trong lòng
mà khuôn mặt cứ người lên.
Còn hắn. Hắn ngồi im lặng như cái ghế. Không ai chú ý đến hắn.
Chờ người thường trực ngẩng nhìn, hắn đứng lên, xin đồng chí (được gọi công an
là đồng chí rồi. Không phải báo cáo ông nữa) gọi lại giúp xem. “Tôi là Nguyễn
Văn Tuấn, đã có đơn từ đầu năm…” Chắc là vẻ mặt hắn khổ não lắm. Nên lại quay
điện thoại. Lại nói: “Nhưng người ta ở mãi P lên. Tuấn. Nguyễn Văn Tuấn”. Lại
những tiếng nói trong ống nghe như từ nơi tung thâm, huyền bí nào. Chắc chắn
nơi ấy quyết định số phận của hắn. Người thường trực nghe và bảo hắn:
– Bác chờ một tý.
Hắn hồi hộp quá. Hắn đă làm bao đơn. Đây là lần đầu tiên đơn
của hắn được người ta cứu xét. Một người cao gầy, quần bộ đội Tô Châu cũ vá, áo
sơ-mi trắng cũng vá và nhàu, khoảng năm mươi tuổi bước vào phòng. Chỉ trông
cũng biết con người khổ hạnh liêm khiết. Người thường trực hất hàm vào hắn ra
hiệu. Người ấy hỏi:
Anh là Nguyễn Văn Tuấn ở P?
– Vâng.
– Anh theo tôi.
Hắn đi theo người ấy vào phía trong. Tạt vào một phòng bất kỳ,
bàn ghế chỏng chơ. Bụi. Không có cả ấm chén. Rõ ràng là người ta tiếp hắn tạm bợ,
được chăng hay chớ.
– Anh có mang giấy tờ cá nhân gì không?
Hắn đưa cái chứng minh. Người ấy nghiêm khắc nhìn hắn:
– Anh không có giấy tờ gì khác à? – Và không che giấu sự nghi
ngờ, vì nghi ngờ là một biện pháp nghiệp vụ: – Lấy gì chứng tỏ anh vừa bị bắt
ra.
Hắn sợ. Sợ ông ta nổi giận, hắn đã làm phiền đến ông. Hắn nói
để ông hiểu hắn chỉ có mỗi tờ lệnh tha, đã nộp cho công an thành phố để làm hộ
khẩu. Người ta đã thu tờ lệnh tha ấy. Hắn không dám man trá, bịa đặt ra chuyện
hắn bị tù năm nám để quấy rầy các nhà chức trách. Ngay đến tờ giấy mời hắn ra đồn
gặp ông Lan do bà Nguyễn Thị Yên ký cũng phải nộp lại cho công an nữa là.
Người ấy cố giữ bình tĩnh, nhưng vẫn lộ vẻ bất bình trong giọng
nói để hắn tự biết rằng hắn là kẻ có tội, sự trừng phạt là đích đáng, hai năm
rõ mười nhưng hắn vẫn ngoan cố, không thành khẩn, không biết điều, kiện cáo,
khiếu nại, làm phiền đến cơ quan Nhà nước.
– Chúng tôi đã đọc đơn kêu oan của anh. Trong đơn anh nói anh
công tác tốt, không vi phạm pháp luật.
Người ấy cười nhạt và không kìm giữ được nữa:
– Anh nói vô lý. Thế thì ai dám bắt anh. Anh lại không phải tề
ngụy. Đang là phóng viên báo Đảng. Tự nhiên sao người ta bắt anh? Điên à?
Hắn sợ. Ông ấy đã nổi giận. Người trực tiếp thanh tra vụ án của
mình nổi giận thì không còn chút hy vọng nào. Hắn thấy như đang ngồi ở phòng hỏi
cung, nghe ông Lan quát tháo, rồi lại giở mặt mềm mỏng. Thất vọng, chết lặng
đi, không nói được một lời hắn ý thức được đầy đủ thân phận sâu kiến của hắn.
Và hắn nói. Lễ phép, rản rỏi, kiên quyết. Hắn nhìn thẳng vào
người đối thoại:
– Thưa ông Cho đến bây giờ chưa ai buộc tội tôi. Chưa ai nói
cho tôi biết tôi mắc tội gì. Nếu tôi có tội, tôi xin tình nguyện đi tù một lần
nữa.
Người ấy cười nhạt:
– Vậy theo anh vì sao công an bắt anh? Người ta thù ghét anh
à?
Thù ghét thì không. Còn tại sao người ta bắt hắn thì chỉ có
những người ấy mới trả lời được. Hắn chỉ có thể phỏng đoán. Hắn phỏng đoán trên
cơ sở những gì đã xảy ra và những gì các ông ấy đã hỏi hắn trong các cuộc hỏi
cung.
Thời gian đó ở Hà Nội đã phát hiện một tổ chức chống Đảng.
Toàn những cán bộ đảng viên. Có cả cán bộ cao cấp. P cũng phải có ở mức độ nhẹ
để hưởng ứng Hà Nội. Chúng tôi đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn. Chúng tôi đã
bóp chết từ trong trứng. Người ta chọn hắn vì hắn chẳng mở miệng chửi phim “Khi
đàn sếu bay qua” và vẫn coi “Bài ca người lính” là một kiệt tác. Hắn chẳng thể
nào khen được cách mạng văn hoá Trung Quốc. Tóm lại hắn không nói dối được. Hắn
ngượng với chính hắn. Hắn lại có những yếu tố để dễ bất mãn. Hắn mâu thuẫn với
bí thư chi bộ. Hắn không muốn vào Đảng, hắn trọn đời là một nhân sĩ yêu nước và
tiến bộ. Hắn không giống mọi người. Hắn lại còn nói sẽ bẻ bút không viết nữa. Bất
mãn quá rồi còn gì. Hắn chơi bời với một số người ở Hà Nội, người bị bắt, người
đang bị theo dõi. Hắn bấp bênh về lập trường. Hắn tự kiêu, tự đại. Hắn mất cảnh
giác và dễ bị lôi cuốn. Sau này hắn còn được biết ông bí thư thành uỷ K rất
ghét hắn. Vì ông nghe tin là hắn khinh ông, coi thường ông. (Không biết có kẻ
nào đặt điều bảo rằng hắn nói ông K mồm thối. Điều ấy đến tai ông K. Thật là một
sự bịa chuyện bẩn thỉu, giết người). Thực ra hắn chẳng có khái niệm gì về ông,
ngoài sự coi ông như mọi người lãnh đạo khác của địa phương mà hắn chẳng mảy
may quan tâm…
Hắn thấy phải trả lời ông thanh tra một cách thành thật nhất:
– Thưa ông, tôi không biết vì sao.
Chừng như hiểu rằng không nên đi quá xa trong việc làm hắn hoảng
sợ (phải giữ đúng vẻ cần thiết của một cơ quan tiếp dân – hắn cũng là dân chứ),
ông cán bộ thanh tra quần áo tồi tàn, cẩu thả và chắc là rất nghèo và rất liêm
khiết kia dịu giọng, vỗ về hắn, động viên hắn về nhà, yên tâm chờ đợi”. Chúng
tôi sẽ làm việc lại với những nơi hữu quan. Hãy tin tưởng ở pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Không để lọt một kẻ gian, không bắt nhầm một người ngay”.
Ông thanh tra làm một điệu bộ như sắp đứng lên. Hắn biết cuộc
tiếp hắn đã kết thúc. Mặc dù ông đã gập sổ, cài bút vào túi ngực, hắn vẫn ngồi,
lấy hết can đảm, lí nhí:
– Xin lỗi ông, ông cho tôi được biết tên ông ạ.
Hắn đã dùng quá nhiều tiếng ông trong một câu nói. Lối đặt
câu ấy đã thành tật trong những ngày bị tù khi nói với công an và bây giờ vẫn
được dùng để nói với các nhà đương cục. Hắn cần biết tên ông để những lần kêu cứu
vô tận trong tương lai hắn có thể nói với người ta rằng hắn đã gặp những ai, ở
đâu. Cho nên dù ông có cho là xấc láo hắn vẫn cứ phải hỏi. Hiểu ngay lý do, người
ấy nghiêm mặt, văng ra một cái tên như một lời thách thức:
– Vũ Chí. Anh ghi đi. Vũ Chí.
Hắn không ngờ đơn của hắn gửi ông Hoàng lại được ông giải quyết
nhanh như vậy. Cao, người cầm đơn hắn đến chỗ ông Hoàng, hơn một tiếng sau đã lại
có mặt ở nhà anh chị Diệu. Cao phấn khởi thuật lại: Nói đến hắn, ông Hoàng nhớ.
ngay và kêu lên Nó bị bắt à. Năm năm cơ à? ông lắc đầu tỏ vẻ không tin.
Ông bảo Cao ngồi uống nước. Ông đọc ngay đơn. Gọi ngay điện
thoại về P.
– Ông Hoàng sắp về P đấy. Thế nào ông Hoàng cũng gặp mấy ông
dưới ấy.
Hắn cứ ngồi ngây ra. Thật hoàn toàn không ngờ được. Cao lại bảo:
– Này. Tối nay ông Hoàng mời cậu đến nhà. Bảy giờ.
Hắn không nói được vì xúc động. Cao nói số nhà, còn nhấn mạnh:
– Đây đi xuống, qua nhà ông.. (Cao nói tên một vị lãnh đạo có
tên tuổi). Rồi đến nhà ông Hoàng. Hai nhà sát nhau. Nhà trước cửa có bốt gác là
nhà ông Hoàng.
Và cười:
– Bốt gác ở nhà ông Hoàng, mà cũng là gác cả nhà bên cạnh. Hắn
đến nhà ông buổi tối. Phố vắng, cây rợp. Rải rác những bốt gác ở hè… Nhìn kỹ số
nhà mờ mờ, hắn lễ phép nói với đồng chí bộ đội đứng gác:
– Tôi đến gặp anh Hoàng. Anh Hoàng có hẹn tôi tối nay.
Hắn ấn chuông. Cổng sắt mở. Chính bà Hoàng ra mở. Hắn đi theo
bà qua một cái sân, bà dẫn hắn đi dọc sườn nhà, tới một cái ga-ra ô-tô thì rẽ.
Hắn không đi lối cửa chính. Hắn đi cửa dành cho người nhà người thân thuộc
trong gia đình. Vào trong nhà rồi, hắn lại quành trở ra phòng khách. Ông Hoàng
đang ngồi xem ti-vi.
ở đây tĩnh lặng. Cảm giác hắn nhớ nhất là hắn đang đi vào một
khu phố Hà Nội ngày mới tiếp quản. Vắng. Rộng rãi. Cây cối in bóng trong ánh điện
càng thêm huyền ảo. Quá khứ ấy đã qua rồi, nhưng vẫn còn ở đường phố này, ở những
biệt thự êm đềm, rộng rãi, vắng vẻ này. Một cái gì mong manh như kỷ niệm, như
truyện cổ tích của thời đại mới. Điều hắn nhớ nữa là ở một góc nhà những quả
tên lửa cháy sáng rực đang lao lên trời, kèm theo tiếng rít của bom đạn. Cảm
giác ấy rất lạ đến nỗi khi ngồi nói với ông Hoàng về chuyện hệ trọng nhất của đời
hắn, hắn phải cố gắng lắm mới không liếc mắt về phía ấy, nơi đặt chiếc ti-vi
Neptun. Lần đầu tiên hắn thấy sản phẩm ấy của trí tuệ con người. Màn hình sáng
xanh của nó có thể hiện ra tất cả. Ông Hoàng đứng lên đón hắn. Ông nhìn hắn:
“Ngồi đây”. Ông đã qua các nhà tù. Ông hiểu, hay ít nhất ông cũng cảm thông được
với hắn. Ông bảo hắn:
“Tôi không biết, tôi không biết gì cả”. Hắn lễ phép trình bày
với ông về vụ án của hắn, nếu có thể nói được như vậy. Bởi vì hắn có án từ gì
đâu. Ông Hoàng gạt đi: “Thôi. Tôi biết rồi, tôi đọc đơn của anh rồi. Tôi sẽ điện
về thành uỷ P. Sắp tới tôi về P, tôi sẽ làm việc với các anh ấy”.
Ông nhìn hắn, muốn tìm trên người hắn những dấu vết tù đày.
Ông thấy ngay điều ấy. Đây là một phóng viên trẻ, tài năng, xông xáo, là cây
bút xuất sắc trong thành phố của ông. Là người ông đã chăm chú theo dõi, đọc của
anh ta từ những bài trên báo tới các sáng tác in ở trung ương, ở địa phương. Anh
ta là gương mặt tiêu biểu về văn học, báo chí của địa phương. Ông đã bảo với
Cao – cháu ông khi Cao ở Hà Nội về P công tác: “Thằng Tuấn sẽ viết được tiểu
thuyết lớn về công nhân đấy”. Ông tin như vậy. Đó là lời dự báo của ông về hắn.
Ông nhìn hắn và se lòng. Dấu vết của tù tội, của sự tiêu diệt
hiện lên quá rõ. Không còn là một thanh niên tràn đầy sức sống, nghị lực, quyết
tâm, khiêm tốn, tự tin, cởi mở. Không phải là cặp mắt yêu đời hăm hở. Không còn
dáng điệu của một phóng viên trong các cuộc họp do thành uỷ triệu tập, rút bút,
lật sổ ghi chép, nắm bắt và suy nghĩ… Hắn ngồi trước mặt ông xo xúi, khép nép,
sợ sệt, ấp úng… Hắn lễ phép một cách hơi quá mức, gần như khúm núm với chính
ông. Dù ông biết rằng hắn quý ông, tin ông, bấu víu vào ông và ông dành cho hắn
sự tiếp đón thân tình nhất mà, ông nghĩ, hắn chưa bao giờ được hưởng từ lúc đi
tù về. Một lần nữa ông nhìn vào đôi mắt hắn. Xưa thông minh, trong trẻo, mà nay
sao buồn thảm, u tối. Ông cố động viên cho hắn vui lên, nhưng nụ cười của hắn mới
gượng gạo thảm thiết làm sao. Ông bảo hắn: “Khổ lắm phải không?” Hắn cắn môi lễ
phép: “Thưa anh, khổ lắm!”. Ông khuyến khích hắn: “Kể đi. Kể chuyện tù cho tôi
nghe đi!”. Hắn ngớ ra. Biết kể gì cho ông bây giờ. Bao nhiêu chuyện. Xà lim 76.
Xà lim 75. Toán tăng gia. Trại QN. Tịch thu bản thảo. Chúng tôi có đủ kiên nhẫn.
Lê Bá Di cho hắn bãi phân trâu. Xìn Càm cho hắn nắp ca. Già Đô nằm cạnh hắn.
Anh Mán nằm trên xe công nông. Vợ hắn bị đuổi học…
Hắn quên không nhớ được đã kể những gì cho ông. Đụng đến chuyện
tù đày là nó ập đến như một thác nước làm lẫn lộn hết cả. Hắn chỉ nhớ khi ở nhà
ông về nhà anh chị Diệu thì đã muồn muộn. Anh chị Diệu là những người quý mến,
kính trọng ông Hoàng. Anh Diệu kể lại một cuộc họp phóng viên các báo. Ông
Hoàng nói chuyện về kinh tế và những biện pháp giải quyết. Giữa lúc các ngành
đang đẩy mạnh chiến dịch làm sạch vỉa hè, dẹp hết tư thương. Ông nói quan điểm
của ông: Buôn thúng bán mẹt còn tồn tại vì đó là yêu cầu của cuộc sống. Chỉ dẹp
được khi mậu dịch làm được nhiệm vụ ấy, làm tốt hơn những người buôn bán nhỏ…
Anh chị Diệu đều mừng cho hắn. Ông Hoàng can thiệp nhất định hắn sẽ được giải
quyết. Với P, ông là người có uy tín lớn. Những người phụ trách thành phố hiện
nay đều là cán bộ của ông…
Hắn thuật lại cho Ngọc và lũ trẻ nghe về kết quả tốt đẹp của
chuyến đi Hà Nội, hắn ôn lại những kỷ niệm giữa hắn và ông khi hắn còn làm báo
và phập phồng hy vọng.
Hy vọng tăng thêm khi sau đó mấy ngày, Phan Lâm, nguyên tổng
biên tập báo, đương kim giám đốc Sở Văn hoá, thành uỷ viên cho người mời hắn đến
cơ quan. Cái cơ quan văn hoá này trước đây hắn chẳng để ý gì đến, nay khinh khỉnh
nhìn hắn. Hắn bước vào phòng giám đốc. Phan Lâm bắt tay hắn. Phan Lâm đã đến
nhà thăm hắn khi hắn được tha về ít hôm. Đó là một người tốt bụng, hiểu biết những
oan khuất của hắn, nhưng đành ngậm miệng. Giữa lẽ phải và sự cầu an, như tất cả
mọi người, ông chọn cái thứ hai. Ông cũng đã khốn đốn trong cải cách ruộng đất,
bị đình chỉ công tác. Ông biết thảm hoạ của những ai vướng vào mạng lưới vô
hình…
Phan Lâm tươi cười, sung sướng vì được báo tin này cho hắn:
– Anh Hoàng gọi điện về cho mình. Mình báo cáo với anh ấy rất
trung thực về cậu. Và mình bảo đảm với anh ấy rằng: Chắc chắn cậu không phải là
một tên phản động. Anh Hoàng có ý định sẽ giải quyết cho cậu. Giải quyết toàn bộ
đấy. Như vậy thì phúc cho cậu, phúc cho vợ con cậu.
Phan Lâm nhấn mạnh chữ phúc. Hắn cảm thấy trước mắt là những
lời hứa hẹn, hứa hẹn thôi. Khi ông Hoàng, Phan Lâm tin thì hắn lại nghi ngại.
Ông Hoàng giờ đây đâu còn là bí thư thành uỷ. Mặc dù Bình bảo: ông Trần sợ ông
Hoàng lắm. Ông Trần chỉ là một trưởng phòng khi ông Hoàng đã là một cán bộ cao
cấp của Đảng. Hắn hoài nghi tất cả. Vì hơn ai hết hắn biết người ta không muốn
hắn vô tội như thế nào. Người ta quyết tâm tìm tội của hắn như thế nào. Người
ta có đủ kiên nhẫn để bắt hắn phải nhận tội, người ta tàn bạo với hắn, với vợ hắn
như thế nào.
Ông Hoàng là một chuỗi liên tiếp những bất ngờ với hắn. Ông
đã làm cho hắn quá nhiều. Quá nhiều trong một thời gian ngắn. Rất ngắn. Ông là
người duy nhất hắn từng biết, từng gặp – có trách nhiệm với con người, thực hiện
được điều nhà thơ Roma cổ đại viết và Mác đã nhắc lại: “Tất cả những gì liên quan
đến con người không xa lạ với tôi”. Ông là một mẫu người khác hẳn với “những
hàng chức sắc”hiện nay. Không phải chỉ với hắn, ông Hoàng còn giơ tay nâng dậy
nhiều người bị đánh ngã. Một thường vụ thành uỷ đang khốn đốn vì dám chống lại
bí thư và phó bí thư đã được ông nhận về làm tổng cục phó. Thành uỷ đã gửi đơn
lên Ban bí thư khiếu nại, nhưng ông đã bảo vệ thắng lợi quan điểm của mình. Ông
nhảy vào trận chiến, phá vỡ thế gọng kìm của lãnh đạo một bộ và một quận uỷ để
cứu một anh hiệu trưởng trường kỹ thuật vô tội sắp bị tiêu diệt… Lòng thương
yêu con người ấy của ông đã hại ông. Ông có nhiều kẻ thù. Đó là thói vô trách
nhiệm trước con người. Đó là những vị thủ trưởng tìm mọi cách tiêu diệt cán bộ
dưới quyền để bảo vệ cái ghế của mình. Những kẻ cơ hội tham quyền, cố vị. Những
quan cách mạng lộng hành, những người như ông K, ông Trần đã cho căng khắp
thành phố những khẩu hiệu đỏ tươi để mọi người thực hiện, trừ họ:
“Sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật “
Già Đô xuất hiện ở hành lang cũng bất ngờ như ông Hoàng xuất
hiện ở hành lang. Cái hành lang vô thức in bóng những con người vóc dáng khác
nhau (ông Hoàng cao lớn áo khoác ni-lông Đức loạt soạt, già Đô còm róm áo bông
vá víu) ở hai cực đối nghịch nhau, nhưng cả hai cùng từ những điểm xuất phát giống
nhau, đã từng có những tương đồng và giờ đây vẫn có những tương đồng.
Lúc đó là trưa, cả nhà đang quây quần quanh mâm cơm. Bữa cơm
trưa bao giờ cũng vội. Để tranh thủ ít phút nghỉ ngơi trước khi Ngọc đi làm và
lũ trẻ di học buổi chiều. Thằng Dương bưng bát tự ăn, không phải bón nữa. Nó bỗng
ngừng ăn, nhìn ra cửa. Cái cùi dìa cầm tay lơ lửng bên trên đùi. Cũng chẳng ai
để ý đến nó. Nó cứ nhìn chằm chằm ra ngoài, hai bàn tay (có cả cái cùi dìa)
nâng nâng ngang ngực.
– Dương! ăn đi con!
Ngọc dịu dàng bảo nó. Nàng gỡ cái cùi-dìa trong tay nó, lấy
thêm thức ăn vào bát nó, đảo đảo và ấn vào tay nó. Nó vẫn nhìn ra cửa, mắt long
lanh thích thú, bàn tay bé tí chạn chặn ở ngực như đang ước lượng một cái gì.
Cả nhà quay ra, nhìn theo nó. Một ông già nhỏ bé, mũ bông, áo
bông rộng thùng thình dài tới gối, quần màu gụ còn mới, khoác trên vai một cái
túi vải to, râu tuôn từ cằm xuống ngực.
Già Đô!
Già đứng đấy tự bao giờ, im lặng nhìn vào bữa cơm, không dám
gọi. Đã có nhiều bạn tù đến chơi nhà hắn (Giang, Dự, Min, Dần) và sau này còn
nhiều người đến nữa như bọn Kỷ Mình, Vũ Lượng… nhưng chẳng ai như già Đô Không
ai đi đâu cũng mang theo cả gia tài trên lưng như già. Già ở đâu thì đó là nhà
già. Có nghĩa già chẳng có nơi nào đặt cái túi vải chứa toàn bộ tài sản của già
ngoài hai vai của mình.
Già vẫn như vậy. Mặt hằn những rãnh sâu chằng chịt. Những
rãnh sâu khiến khuôn mặt già có một vẻ tạo hình riêng, rất hấp dẫn các nhà nhiếp
ảnh. Râu già cuồn cuộn chảy che kín cổ tới ngang ngang ngực. Lông mày chổi sể rợp
trên đôi lắt nhỏ, mệt mỏi, đăm chiêu, ngơ ngác, những vẫn còn sót lại vẻ lanh lợi
ngày xưa. Có thể nói khuôn mặt già là tập hợp những râu, tóc, lông mi đã hoa
râm che gần kín, ở những chỗ nào không được che hết, lộ ra những mảnh nhăn chằng
chịt, hằn những rãnh lõm sâu. Già vẫn như vậy cả về sắc diện nữa. Rõ ràng già
chẳng vui lên tí nào khi đã được tự do. Chỉ nhìn qua người khách đứng ở hành
lang, Ngọc đã biết đó là già Đô. Hắn đã nói với nàng về già. Và chỉ nhìn qua,
nàng cũng biết già đang ở trong tình trạng khốn cùng, không có lối thoát. Còn tệ
hơn cả bọn Min, Dự đến đây hồi năm ngoái. Nàng và vội bát cơm ăn dở, đứng lên.
Nhà cửa quá chật hẹp. Có một người khách là đã phiền rồi. Ngày xưa hắn bảo:
– Chúng mình ở sang đấy. Một phòng ăn, một bếp, một phòng khách,
một phòng ngủ cho chúng mình, một phòng ngủ cho con. Tất cả đặt trong một căn
buồng hai mươi mét vuông.
Nàng nhìn chồng dắt tay già vào buồng. Lại một người có số phận
khốn nạn, có cuộc đời khốn nạn. Tất cả nhìn già ái ngại. Kể cả thằng Hiệp, con
Thương. Chỉ trừ mỗi bé Dương. Nó cứ dán mắt vào chòm râu cuồn cuộn của già. Nó
giơ tay vuốt vuốt chòm râu tưởng tượng trên ngực nó.
Nàng pha nước mời già. Nàng xuống thang… Nàng muốn để hai người
được chuyện trò thoải mái. Vả lại có bao nhiêu việc đang chờ nàng dưới ấy: Xách
nước, giặt giũ, mua rau… Nàng nghĩ: Phải mời già Đô ăn bữa chiều với vợ chồng
nàng. Nàng cảm thấy phải thế. Vậy là phải mua một cái gì đó. Mấy miếng đậu phụ,
áp chảo qua loa (chẳng có mỡ đâu mà rán đậu). Rồi đem kho cà chua. Nấu bát canh
dưa. ăn rau sống. Và một ít hành chẻ. Cố mua lấy hai quả trứng vịt. Rán lên, được
một da. Nàng phác nhanh thực đơn và trở về với những thứ đó trong rổ, rồi đi thẳng
vào bếp. Đoạn nàng gọi chồng ra, thì thào dặn dò. Hắn sung sướng gật đầu lia lịa.
Bây giờ chỉ còn bé Dương và hai người bạn tù đã bao đêm nằm cạnh
nhau. Khi tiếng kẻng cấm, tiếng kẻng thu hồn dóng dả, ngân nga dội vào rừng
xanh, mỗi người đều im lặng với nỗi đau của mình, cô đơn nghiền ngẫm nó, cũng
như cô đơn chiến đấn với đêm dài, một mình vật lộn với giấc ngủ, sự tập dượt
hàng ngày dể sau này sẽ một mình vật lộn với cái chết. Chẳng ai giúp được ai
trong lúc lâm chung hàng ngày và lúc lâm chung vĩnh viễn ấy.
Bé Dương đi lại phía bàn vịn vào đầu gối bố, áp má vào đấy,
ngước nhìn lên ông khảch lạ. Giờ thì thoải mái mà nhin mà ngắm bộ râu của già.
Bộ râu ấy che kín cổ, xuống tới ngực và động đậy mỗi khi già nói. Chưa bao giờ
bé được nhìn thấy một cái gì tuyệt đến thế. (Ông nội cũng để râu, nhưng bộ râu
của ong nội chỉ bình thường như những bộ râu khác, bé chẳng quan tâm).
Già Đô trông như người từ trong truyện cổ tích bước ra. Già
đưa cặp mắt hiền hậu nhìn bé. Già biết nỗi khát khao của bé: Được sờ vào bộ râu
già. Già cũng biết ngay đây là thằng bé hắn vẫn kể chuyện trong tù, ngày ấy hắn
chưa biết mặt. Thằng bé lên năm làm già xúc động. Thật chẳng có gì sánh được với
những sinh vật như vậy. Nhìn chúng, lòng ta dịu lại. Nhìn chúng, tâm hồn ta thư
thái, nó làm ta có thêm nghị lực, có thêm tình yêu để sóng. Nhất là với những
người cô độc như già. Già bế bé lên, hít mùi thơm của dứa trẻ. Trong giây lát
già tưởng như mình đang ở Mácxây hai mươi năm trước. ôi. Mùi của trẻ thơ. Già
nhận ngay ra nó. Đã mấy chục năm, già vẫn nhận ngay ra nó. Dù ở Địa Trung Hải
hay ven Tháí Bình Dtơng thì cũng giống nhau cả mà thôi. Già nắm bàn tay xinh
xinh của bé đứa lên chòm râu cửng, điểm bạc của già. Già cười hồn hậu vì biết rằng
đã làm thằng bé toại nguyện.
Thật ra mới đầu bé sợ. Rồi được già khuyến khích, bé vuốt cả
chòm râu. Bé xoè tay như cái lược chải bộ râu của già. Bé vuốt từng sợi. Bé hoảng
lên khi có một sợi râu rụng xuống…
– Dương. Để bác uống nước. Ra đây với bố.
Nó ngoan ngoãn sang ngồi lòng bố và chỉ lát sau hai mắt đã
díp lại ngoẹo đầu vào ngực bố.
Già Đô về từ hôm qua. Nghĩa là được tha từ hôm kia. Cũng chẳng
biết rằng mình được tha. Khi xếp hàng đi làm, người ta bảo ở lại… Về tới Hà Nội
thì đã tối Ngủ ở ga Hàng Cỏ một đêm.
– Cụ có gặp Dự không? Nó vẫn ngủ ở ga Hàng Cỏ đấy
– Thế à? Nó ngủ ở đấy à? Đông lắm. Chẳng biết ai vào ai cả.
– Thế đêm qua già ngủ ở đâu?
– ở ga đây thôi. Nhưng ở đây họ đuổi quá. Trên kia đông. Dưới
này mỗi mình tôi, họ đuổi. Già thở dài. Rõ ràng cuộc sống trước mắt của già
chưa biết ra sao.. Lành ít. Dữ nhiều. Già suy nghĩ nhiều hơn trước.
Già cởi áo bông. Chính cái áo bông hắn cho. Già đã kịp vá đè
lên chỗ ghi số tù ở sau lưng và ở ngực bằng hai mảnh vải xám, xé từ một quần
tù. Già toát mồ hôi. Cái áo bông dày quá. Mặc thì nóng, không mặc thì lạnh. Già
giở túi vải phồng căng như cái bao tải, rút ra một gói vải con con đựng khoảng
hai lạng chè búp.
– Trại cho được bốn mươi hai đồng. Mua lạng chè.
Cụ cầm lấy uống.
Đó là món quà của người dù thế nào cũng nhớ tới bạn bè.
– Chẳng có gì, – già Đô vừa buộc lại vừa ấn ấn cái túi Có cái
chăn bông cụ cho. Cái cặp lồng cũng cụ cho Dự. Nó được về nó lại cho tôi. Với
cái ca con của tôi Bộ quần áo…
Hắn bảo già lấy ra cái cặp lồng, cái ca. Hắn đặt những thứ đó
lên bàn. Lại nhìn thấy rừng. Lại nhai lá sắn non. Cái bếp than bé xm, ca chè
sôi rim rim.
Lại nghe thấy tiếng kẻng thu hồn, tiếng kẻng mặc niệm tới gia
đình. Hắn hiểu ngay rằng cái ca, cái cặp lồng, cái áo bông, chăn bông là toàn bộ
tài sản của già và sẽ theo già cho đến lúc chết. Với hơn ba mươi đồng còn lại
trong túi, già sẽ sống ra sao?
– Thật là một sai lầm lớn, cụ ạ.
Già nhắc lại câu tổng kết ấy. Già nói với vẻ cam chịu. Câu ấy
hắn đã nghe già nói trong tù rất nhiều lần. Hắn sẽ còn nghe già nói nhiều lần nữa.
Như bao nhiêu người đã phải nghe hắn nói chuyện hắn đi kêu oan. Hắn bỗng nhớ đến
chị Tường Lâm của Lỗ Tấn, bị sói ăn thịt mất con, gặp ai cũng than thở: “Tôi
ngu dại quá, không biết khi trời có tuyết thì sói nó ra…”
Nỗi đau quá lớn, chị nói để mọi người thông cảm, để vợi bớt sự
giày vò trong lòng, để lên án chính bản thân mình. Mới đầu người nghe còn
thương cảm. Nhưng khi cứ thấy chị nói mãi, nói mãi cái điệp khúc ấy người ta
không chịu được. Đến nỗi vừa trông thấy chị người ta đã nói ngay với chị những
điều chị định nói cùng họ: “Tôi ngu dại quá, không biết khi trời có tuyết…” và
cười phá lên trước vẻ mặt ngây ngô của chị.
Không. Hắn không để mình thành kẻ ngớ ngẩn, không để mọi người
giễu cợt sự đau khổ của mình như chị Tường Lâm. Mong sao già Đô cũng đừng như vậy.
Cán chưa về. Lượng chưa về. Cân chưa về. Lê Bá Di cũng chưa về.
Kỷ Mình, Hỉn Sán chưa về… Phố đã về. Toán chăn nuôi về nhiều nhất. Sáu người,
toàn những người trên bốn lệnh. Cái mandoline của Cán vẫn còn. Tất Tình chưa về.
ăn thì vẫn thế thôi. Ông chánh giám thị hình như lên cục phó cục lao cải. Ông
thượng uý lên thay. Ông phó giám thị thượng uý lâu lắm rồi. Quân hàm bạc hết rồi…
à! Nhưng mà cụ có nhớ Sáng không nhỉ. Sáng năm lần trốn trại ấy.
Sáng ấy đấy. Sáng, hôm sau cụ về thì đêm trước trốn trại ấy. Sáng được xử. Khoảng
ba bốn tháng sau thì có phiên toà xử Sáng. Xử ngay ở sân trại. Cũng có công tố,
chánh án, luật sư bào chữa. Đủ cả. Người dự toàn tù. Sáng đầu cắt trọc, gầy lắm,
đứng trước vành móng ngựa. Toà đọc cáo trạng. Toà hỏi. Toà luận tội. Toà bào chữa.
Toà tuyên án Sáng tám năm tù về tội trốn tránh cải tạo. Sáng chỉ nói: “Thưa quý
toà. Tôi thấy tôi chẳng có tội gì nên tôi trốn về. Các ông ở xã ghét tôi”. Anh
em người bảo Sáng may. Hết lệnh bọp ba năm, ở thêm tám năm nữa là chỉ có mười một
năm thôi. Người bảo nếu vậy Sáng bở quá. Phải cộng cả án cao-su lại với án tám
năm. Ai cũng có lý. Chẳng biết ra làm sao.
Đó là những thông tin của già về những người trong trại.
– Yên trí rồi, cụ ạ. Có sao chúng mình cũng không chết trong
tù nữa.
Hắn cười bảo già. Hắn vẫn nhớ đến điều già sợ nhất ấy Cứ mỗi
đám ma tù, già lại thì thào vào tai hắn: Chúng mình cố đừng để chết trong tù
nhé. Mà kinh thật những cái đám ma tù. Đến bây giờ nghĩ lại vẫn còn kinh. Những
đám ma không tiếng kèn, tiếng khóc, không người đi đưa mà chỉ có người đi chôn
thôi.
Đám ma A Thềnh, đám ma Xìn Cắm, rồi đến đám ma anh Mán… Khác
với Xìn Cắm, A Thềnh đi xe trâu, anh Mán ôtenlô đi xe công nông ra huyệt. Xìn Cắm
đang khoẻ mạnh lăn đùng ra chết chứ, anh Mán ốm lâu, ngay khi còn sống nhìn đã
sợ rồi. Ai cũng biết anh sẽ chết. Người vàng như nghệ. Phù nề trương nứt, rồi
tóp lại. Ôtenlô nằm cạnh già Đô khiến già càng sợ. Đi làm về thì Ôtenlô đã chết.
Tấm chăn sợi đắp trên người như dán xuống chiếu, chỗ hai bàn chân vút lên như
cánh buồm. Hai lỗ mũi sùi ra hai đống bong bóng như bong bóng con cua đồng óng
ánh màu quang phổ. Nó không vỡ dù anh chết được nửa ngày. Có lẽ nó đã biến
thành thuỷ tinh. Chiếc xe công nông nổ lạch bạch lồng lên sòng sọc hất quan tài
từ bên này sang bên kia thùng xe khiến hắn tự hỏi: “Không biết xóc mạnh thế kia
những cái bong bóng ấy có vỡ ra không? “
Hắn định nói với già Đô – lúc ấy đương nằm sấp cạnh hắn, nhìn
ra cửa sổ – một câu gì đó, nhưng già Đô đã thì thầm vào tai hắn:
– Cố dừng để chết trong tù, mang cái tiếng chết rũ tù, cụ ạ.
Sau khi chôn Ôtenlô, già hoảng thực sự. Suy sụp thực sự.
Già rất gầy. Mặt teo lại. Ho. Tức ngực. Hắn lục hòm quấy cho
già một ít nước đường. Có mấy viên APC Ngọc gửi vào, hắn đưa cho già. Già uống
thứ thuốc trị bách bệnh ấy. Nhưng vẫn dằn dọc. ít ngủ. Trở mình suốt. Già bảo
già đau hết mình mẩy. Già nghỉ việc. ăn không hết suất cơm. Cứ bưng cơm về già
lại nghiêng bát sẻ cho hắn một góc. Hắn nài nỉ già: “Cụ cố mà ăn đi”. Già lắc đầu:
“Tôi không muốn ăn. Sức khoẻ dạo này kém quá”. Già không nói đến chuyện chết với
hắn nữa. Vì vậy hắn biết già đang nghĩ đến chính điều ấy. Già đang sợ chính điều
ấy.
Già chiến đấu với nó hay già đã thoả thuận rồi. Có cách gì cứu
được già không? Gầy gò, mắt trũng sâu, lông mày cũng bạc. Già nằm ngửa, mắt đăm
nhìn mái nhà. Ngoài cái chết ám ảnh, già đang nghĩ gì?
Già nằm như vậy hơn tuần lễ. Rồi già nghe lời hắn gượng đi
làm. Cho vui. ở trại buồn lắm. Họ dồn người ốm vào một buồng khoá lại. Suốt
sáng, suốt chiều. Quá thời gian giam cứu. Đã ốm lại càng ốm thêm.
Đi làm có anh có em. Thay đổi không khí. Già xới rau. Già thở.
Già ngồi bên đống lửa. Vặt ngồng cải ninh húp nước cho mát ruột, có chất. Xuống
suối giặt bộ quần áo đã nặng mùi. Già bắt nhái. Kiên trì moi chộp từng con núp
sau chùm rễ si rậm rịt. Già chồm đuổi con thằn lằn bò trên tường kho dụng cụ.
Già chộp hụt nó phía đuôi. Già nhảy đón dầu, chẹn được nó giữa những tiếng hò
hét ầm ĩ. Già ngồi thở dốc rồi nướng con thằn lằn trên than hồng. Mỡ xèo xèo.
Thơm phức. Cá rô cạn đấy. Hắn không ăn. Để già tẩm bổ. Rồi già nhận dao quắm di
lấy phân xanh. Khi trở về người già thơm lừng mùi lạc tiên. Mùi lạc tiên sao
quyến rũ. Đó là mùi của quá khứ, của làng quê, của thời thơ ấu tràn trề niềm
vui sống. Già đưa cho hắn một túi lạc tiên chín ngọt lịm. Già vớ được một chỗ
toàn lạc tiên. ăn no. ăn đến đâu tỉnh đến đấy
Cái giống lạc tiên thơm rất dai. Bàn tay hắn cứ thơm mãi mùi
lạc tiên. Suốt đêm hắn ngửi mùi lạc tiên thơm mát từ người già, từ râu già, từ
quần áo già toả ra qua hai lượt màn sang chỗ hắn. Và thật bất ngờ già khoẻ lại
từ hôm ấy. Khoẻ từ hôm ấy cho đến tận hôm nay, đến ngày về như già đang ngồi
trước mặt hắn. Hắn cầm tay già lắc lắc.
Già rầu rầu:
– Gay quá. Tôi khác cụ. Chẳng biết sống sao đây.
Hết sợ chết già lại lo sống. Sống quả thực khó khăn vất vả,
nhất là với những người như già, không một ai thân thích. Không nơi nương tựa.
Không một chỗ đặt ba-lô một chốn dung thân. Người bình thường đã khó. Với cái
lý lịch đi tù, lại là tù chính trị, với tuổi tác như già, cuộc sống thật là một
con đường hầm tối tăm, tắc tị. Hắn chẳng thể giúp gì được già. Hắn đã quá khó
khăn. Thuốc lá cuốn có thời vụ. Đúng thời vụ cũng chỉ được đồng rau, suất gạo sổ…
Mùa hè thì nghỉ, treo cầu lên tường. Không ai hút thuốc quấn. Nóng. Lại phải đợi
đến mùa dông. Suốt mùa hè vừa rồi hắn chạy chọt khâu được vài chục cái bao tải
của Công ty phế phẩm.
Chầu chực lĩnh bao, chầu chực đóng thuế, chầu chực lĩnh tiền
công. Chao! Đại khổ cực mà chẳng được mấy đồng (Công khâu ba hào một cái bao.
Khâu cả ngày đêm cũng được chục bao đấy, nhưng có bao đâu mà khâu).
Bây giờ đang là mùa cuộn thuốc đây. Nhưng người khôn, của
khó. Lắm người cuộn quá. Mãi không giao hết một ki-lô thuốc.
Không cần hắn nói, chỉ nhìn qua, già cũng biết hắn sống chẳng
dễ chịu gì. Già uống nước và kéo ghế nhích lại gần hắn, nói với hắn bằng một giọng
rụt rè ấp úng:
– Tôi định nói với cụ một việc..
Già ngừng lời, ngồi thẳng người lên và nhìn xuống bàn đăm
chiêu. Không biết có việc gì mà đắn đo, ngần ngại như vậy. Nhưng hẳn là việc hệ
trọng.
Rất hệ trọng. Già nhìn quanh căn buồng một lúc, mặc cho hắn
giục. Già rào đón:
– Thế này. Tôi cứ nói, nếu không được thì thôi, cụ đừng ngại
gì.
– Nhưng mà có chuyện gì hở cụ?
Khuôn mặt già đau khổ. Rõ ràng số phận già tuỳ thuộc vào việc
này, tuỳ thuộc vào câu trả lời của hắn. Già cũng rất khổ tâm vì già đã cùng đường
rồi. Thực lòng già không muốn thế. Hắn đọc trên nét mặt già những điều ấy. Và
cũng không hiểu hắn thì có thể giúp gì cho già.
– Tôi muốn nói với cụ, tất nhiên là không phải một mình cụ
quyết định mà cả cụ bà nữa (ý già muốn nói tới Ngọc). Tạm thời thôi. Vì tôi
chưa thu xếp đừợc. ở ga này không như ga Hàng Cỏ. Ga Hàng Cỏ ngủ được. Còn ở
đây người ta đuổi.
Chuyện ấy già đã nói rồi, nhưng nghe nhắc lại hắn lờ mờ hiểu
được điều già định nói.
– Với lại rồi cũng phải đi kiếm ăn. Chẳng lẽ đi đâu cũng mang
cái túi này.
Già lấy hết cam đảm nhìn thẳng vào mặt hắn:
– Cụ bàn với cụ bà xem có cho tôi ngủ nhờ được không. Tôi biết
các cụ cũng chật chội khó khăn… Tôi chỉ về ngủ buổi tối thôi. Còn ăn, tôi tự
lo.
Hắn nhìn vào mắt già. Không thể nào từ chối được vẻ mặt ấy,
đôi mắt ấy. Dù là chật chội. Chật chội đã đành, nhưng còn phiền phức, phiền phức
trong sinh hoạt gia đình, đã hẳn. Lại còn chung quanh, toàn những người ghê gớm,
nhưng người coi sự bất hạnh của mình là hạnh phúc của họ. Và sau cùng, còn
chính quyền, còn công an. Hắn chẳng có tội gì mà còn bị công an bắt, bị chính
quyền coi là một phần tử nguy hiểm cho cách mạng. Chính quyền sẽ nhìn nhận thế
nào nếu hắn, một tù chính trị lại đi chứa chấp một tù chính trị khác. Chắc chắn
họ nhận định về hắn: Nếu trước đây nó không phản động thì bây giờ nó phản dộng.
Cũng như hắn biết chuyện một người có gia đình bị xử lý oan trong cải cách ruộng
đất giờ đây không được đề bạt vì “trước đây bố nó bị bắn oan trong cải cách, nó
thâm thù cách mạng…” Già Đô cũng hiểu tất cả những điều ấy trong vẻ mặt hắn.
Già gần như nói một mình:
– Tôi bí quá. Nếu cụ giúp được thì tôi cũng chỉ dám nhờ một
thời gian ngắn thôi. Hắn rầu rầu:
– Vâng. Kể ra thì hơi chật chội, nhưng cụ cứ về tạm đây. Nhà
tôi chắc cũng không có vấn đề gì đâu. Để tôi nói thêm. Chiều nay cụ cứ ở lại
đây ăn cơm.
Lâu lắm anh em mình không ăn với nhau rồi. Hắn đỡ thằng Dương
đã gục xuống gối bố, ngủ lăn, ngủ lóc, bế nó ra giường. Và bảo già xuống nhà rửa
mạt mũi chân tay. Lại những cặp mắt tò mò của những người trong xóm nhìn già.
Mà sao không nhìn cho được. Già còn lạ hơn ông già Vitali trong “Không gia
đình” lúc khổ cực cơ hắn nhất. Hai người nói chuyện và đi thổi cơm. Trước khi
đi làm Ngọc đã dặn nấu những món gì.
Ngọc tiếp đãi những bạn tù của chồng mình một cách đầy cảm
thông và quý mến. Không ai có thể gợn một chút mặc cảm về hoàn cảnh của mình,
khi nói chuyện với nàng. Nàng nhận lời ngay về việc già Đô ngủ lại ở nhà nàng.
Nàng cư xử đúng như một người có đạo, dù Giatô giáo, Phật giáo hay đạo lý của
những người cộng sản: Hãy thương yêu con người. ăn ở sao để đức lại cho con.
Phúc đức tại mẫu. Cách cư xử của nàng với mọi người khiến hắn kính phục, học tập.
ít nghĩ đến bản thân mình, rộng lượng, không có việc gì giúp đỡ được người khác
mà lại không làm.
Hắn hiểu rằng cô nữ sinh kháng chiến ngày nào trong nàng chết
hẳn rồi. Hắn chết. Cái chết của hắn kéo theo cái chết của cô nữ sinh ấy. Nhưng
hắn chưa chịu chết. Hắn còn phải cựa quậy. Còn phải kiện. Phải kêu oan. Còn phải
sống. Và còn phải viết nữa. Hắn phải viết vì đó là lý do hắn có mặt trên cuộc đời
nay. Hắn phải viết về những gì hắn đã quý, đã yêu, đã sống, đã căm thù. Phải lồng
vào khung kính những ngày rực nắng của tuổi ấu thơ. Cái tuổi mình đã biết có
mình trên cuộc đời này để bây giờ nhớ lại mà buốt lòng. Phải đóng đinh lên
trang giấy những kẻ sát nhân Bắt chúng đứng ngàn năm trên giá nhục hình. Mà mỗi
lời thơ, sôi sục lòng anh, là một sợi dây treo cổ”.
Nghĩ vậy thôi chứ biết đến bao giờ. Khi biết bao chính sách
không được cuộc sống chấp nhận “cứ trượt đi” như cách nói của Bình.
Những điều ấy hắn không dám nói với ai. Ngoài Bình. Bình bảo:
“Trật tự xã hội này có cả phần của chúng mình xây dựng. Chúng ta đã một thời tự
hào về nó. Bây giờ tao cố gắng bào chữa cho nó, nhưng không nổi. Chúng ta cũng
phải chịu trách nhiệm một phần”.
Biết tin già Đô đến ngủ ở nhà hắn, Bình đã cố tình gặp già,
nhưng không được. Bình chỉ nhìn đóng nội vụ của già như nhìn những gì cỏn đó của
một cuộc đời oan khuất. Bình không gặp già vì già về rất muộn. Tắt đài một lúc
mới thấy già về. Già đi lên thang gác khẽ như một con mèo. Những bước chân mịn
như nhung. Già khẽ xoay nắm đấm cửa. Không một tiếng động, cánh cửa nhẹ nhàng
he hé, già rón rén bước vào, tay cầm cái túi xách giả da cũ mà Ngọc đã cho già.
Trong ấy có một cái cặp lồng, cái ca con, quai túi buộc cái khàn mặt cũng của
Ngọc đưa. Lúc ấy màn đã mắc. Nhưng ở cái bàn kê ngay nơi cửa bước vào chỗ hắn
đã tiếp ông Hoàng – ngọn đèn có khoanh mảnh giấy vỏ bao phân đạm vẫn sáng. Lúc ấy
có thể thằng Hiệp vẫn còn học bài. Có thể hắn vừa quấn xong thuốc lá. Ngọc đang
thu dọn, hắn ngồi uống nước, chờ già. Hắn rót nước mời già. Chén nước nóng. Khi
trà mới pha. Khi thì đã nhạt. Già đỡ chén, xách túi đi thẳng vào góc nhà. ở đó
cái chiếu một đã trải. Tận phía trong cùng là cái chăn bông vải vụn gấp vuông vắn.
Già uống chén nước nóng. Sụp. Soạp. Rõ ràng chén nước làm già thích thú. Nhưng
già chỉ uống một chén. Già rón rén di ra bàn, đặt chén vào khay và lùi về chỗ
già trùm chăn nằm ngủ.
Cũng có hôm cả nhà đã nằm, hắn dể ngọn đèn dầu vặn nhỏ. Già lặng
lẽ đi đến chỗ của già, không có chén nước nóng, nhưng căn buồng đóng kín, ấm sực
hơi người làm già dễ chịu. Già nằm im lặng. Hẳn già vẫn cô đơn chiến đấu với
đêm dài. Già vẫn thức. Bởi vì khi ngủ, già rên. Nên khi già im lặng, hắn biết
già thức. Hắn rất muốn biết già làm gì, ăn uống ra sao, có no không. Nhưng già
không để cho hắn hỏi. Cứ về đến nhà là già mau chóng bước vào góc ấy và trùm
chăn. Sáng hôm sau khi cả nhà tỉnh dậy, già đã đi rồi. Chăn đã gấp, chiếu đã cuộn
ấp lên cái chăn. Giống cách xếp nội vụ trong trại. Già đi từ lúc còn tối đất.
Già mở cửa rất khẽ, xách túi, xuống thang nhẹ như một con mèo. Già ra đường.
Gió thốc lạnh buốt. Nhưng già đã có cái áo bông to lắm. Già thụt người trong
áo. Già mở vòi nước công cộng, súc miệng, rửa mặt. Buộc khăn vào quai túi. Và
đi. Như một người đang theo đuổi mục một đích lớn lao, một người đang có một
công việc phải chịu vất vả, phải gấp lên mới kịp.
Cái chu trình ấy hình như không thay đổi. Hắn phát hiện ra
sau hai lần lạng lẽ dậy theo già. Cho đến khi thấy già lững thững đi về phía
trung tâm thành phố hắn mới quay lại. Gần như không ai trong số nhà này biết hắn
chứa chấp một người như già. Tắt đài già mới về. Già đi lâu rồi cái loa công cộng
ở Ngã Bảy mới nổi nhạc thể dục buổi sáng. Cũng may lại là mùa đông. Người ta ngủ
sớm và người ta dậy muộn.
Một hôm, già Đô đi được lâu lâu, trời đã rạng, hắn nghe có tiếng
gõ cửa. Chả lẽ lại là già Đô quay về Hắn mở cửa và không tin ở mắt mình: ông
Hoàng. Gọn gàng trong bộ quần áo thun có sọc ở tay và ống chân mà bây giờ người
ta gọi là “xét-tô măng” trông ông thon thả, uyển chuyển và trẻ hẳn ra. (Năm ấy
ông mới ngoài năm mươi tuổi. Thế mà hắn cứ nghĩ ông đã già lắm rồi).
Hắn lúng túng vì những cái màn cũ rách, màu nước dưa rủ trên
giường dưới sàn. Ông cười:
– Phê bình nhé. Dậy muộn. Dậy muộn.
Cả nhà nháo nhào trở dậy. Ông hỏi hắn gịong nghiêm túc:
– Sao thành phố bây giờ không thấy ai tập thể dục buổi sáng
là thế nào nhỉ? Đã có một thời phong trào tập thể dục theo đài buổi sáng phát
triển khá rộng rãi. Đến phố nào cũng có một số người tập. Nhưng bây giờ cái loa
công cộng có vang lên nhịp điệu quen thuộc ấy thì cũng chỉ để cho chính nó mà
thôi. Sau đó sẽ là chương trình giới thiệu giọng hát mới ở địa phương. Ngoại trừ
một vài giọng hát tàm tạm, toàn bộ những giọng đơn ca nam nữ cùng với dàn nhạc
đệm đều là sự tra tấn lỗ tai mọi người. Sự tra tấn kéo dài ngày này sang ngày
khác, năm này sang năm khác. Có những lần chị Diệu về ngủ ở nhà hắn, chị nghe
và bảo “Sao kêu đường sớm thế, chú?”
Lúc ông Hoàng đến nhà hắn là lúc đang “kêu đường”. Ông Hoàng
lắng nghe:
– Ca sĩ nào chán thế mà cũng phát.
Sau khi nghe hắn nói về những ca sĩ lượm lặt ở các xí nghiệp,
công ty, cửa hàng, chương trình này mở đầu một ngày mới cho mọi người, ông
Hoàng lắc đầu:
– Tập luyện thì cứ tập luyện, nhưng không nên làm khổ tai mọi
người. Cũng chẳng phải thế mới là đề cao văn nghệ quần chúng, đề cao văn nghệ
nhân dân.
Trong buồng, mấy mẹ con gấp chăn màn, dọn dẹp với một tốc độ
phi thường. Nhưng ông bảo hắn:
– Thôi, cứ đứng ngoài hành lang này nói chuyẹn. Hắn biết có một
hội nghị gì đó ở thành phố, ông Hoàng về dự. Như vậy là ông đã gặp ông K, ông
Trần.
– Tôi có gặp các anh ở đây. Việc của anh phải làm từng bước.
Thế nghĩa là ông đã vấp phải một vật cản. Cản được ông phải
là một vật cản ghê gớm. Ông phải chịu lùi một bước. Nghĩa là ông K, ông Trần
đoàn kết chặt chẽ chống lại ông.
Hắn hơi bị hẫng. Một thoáng thất vọng. Dù vẫn nghĩ rằng công
việc chẳng dễ dàng. Ông K, ông Trần chẳng dễ dàng lùi bước. Đó là những người
giờ đây lừng lững như những cây đại thụ, chỉ sông, sông cạn, chỉ núi, núi tan.
Thân phận hắn chỉ là bèo bọt. Hắn chỉ biết “vâng” để đáp lại. Với những người
như ông Hoàng không cần phải nói nhiều. Ông nhìn tháu lòng mình. Ông vẫn còn
đau nỗi đau của người khác. ôi! Giá như ông vẫn còn làm bí thư thành uỷ kiêm chủ
tịch ở đây. Việc của hắn thật dễ ợt. Ông Trần trước đây không dám vào gặp ông
Hoàng, cứ đứng nép ngoài cửa…
– Tôi nghĩ phải giải quyết việc làm cho anh trước đã.
Ông trao đổi ngay ở hành lang dự định của ông: Xếp hắn về một
xí nghiệp nào đó ở trong ngành mà ông thấy hắn có thể phát huy tác dụng. Rồi
ông xuống thang. Hắn tiễn ông ra tận đường, nhìn mãi theo ông chạy dưới hàng
phượng vĩ mùa này rụng hết lá. Hai bàn tay xoắn xoắn vào nhau ngang ngực.
Những bước chân hất lên. Toàn người ông một màu xanh lá cây của
bộ xét-tô măng có những sọc trắng. Và đôi giày vải trắng. Ông chạy về nhà khách
thành uỷ. Ông tiếp tục việc tập thể dục buổi sáng. Thật là một người có trách
nhiệm với con người, tự nguyện mang những nỗi đau khổ của người khác.
Hôm sau, phó tiến sĩ Huỳnh lại ghé nhà hắn. Một mình phó tiến
sĩ đi trên chiếc xe Vonga đen:
– Anh Hoàng mời anh ăn cơm trưa. 11 giờ 30 tại khách sạn Hùng
Vương.
Hắn hỏi Bình về khách sạn ấy. Phố Hùng Vương những ba bốn
khách sạn. Đoán mãi nơi ông Hoàng hẹn. Và đoán không nhầm. Hắn đến khách sạn
dùng làm nhà ăn cho khách của thành uỷ.
Hai người ngồi một bàn. Bao nhiêu người nhìn hắn đối diện với
ông. Ông Hoàng là một bí thư đã để lại trong lòng các cán bộ thành phố niềm quý
mến, lưu luyến, sự kính trọng mà sau này nhiều bí thư khác không có được một phần.
Có lẽ vừa do tài năng, vừa do đức độ của ông. Mọi người dồn mắt nhìn ông và
nhìn hắn. Có nhiều người biết hắn. Và hắn ao ước: Giá ông Lan, ông Quảng, ông
Trần trông thấy cảnh này.
Viên giám đốc khách sạn đến lễ phép hỏi ông Hoàng:
– Thủ trưởng dùng bia không?
– ờ! Bia. Cho tôi hai chai.
Đích thân viên giám đốc đem bia đến, hai chai Hữu Nghị. Ông
Hoàng lục các túi. Túi áo khoác, túi áo trong, ông đứng lên lục túi quần. Thấy
hào nào, xu nào ông xếp cả lên bàn ăn.
Những đồng tiền hào giấy, những đồng năm xu, hai xu bằng
nhôm. Ông đếm được bốn hào bảy. Ông đưa tiền cho ông giám đốc và khất:
– Để chuyển sau về tôi trả nốt. Còn thiếu bao nhiêu nữa. Thiếu
ba hào cơ à. Ghi nợ nhé.
Ông rót bia. Bia vàng óng trong cốc pha-ìê. Ông giơ cốc, cười
thoải mái:
– Nâng cốc.
Tiếng pha-lê chạm nhau ngân trong. Bia mát lạnh. Ông nói cho
hắn biết nơi hắn sẽ về công tác. Đó chính là một xí nghiệp khi còn làm báo hắn
đã theo dõi, đã xuống công tác, lấy tin viết bài.
– Anh sẽ làm thi đua. ở đấy có một anh thi đua rồi, nhưng anh
này không làm được.
ăn xong, ông rủ hắn đi bách bộ. Hè phố buổi trưa vắng và lạnh.
Đó là một phố đẹp nhất P. Ông nói về nhà máy cơ khí mà ông theo dõi chặt chẽ và
là một ngọn cờ thi đua trong cả nước mà hắn cũng rất am hiểu. Hai người ôn lại
kỷ niệm một buổi đi tắm biển. Ông mời những ngưòi phá kỷ lục trong các đợt thao
diễn kỹ thuật đi nghỉ mát. Hắn cũng có mặt trong buổi gặp mặt ấy của đồng chí
bí thư thành uỷ. Ước gì trở lại ngày ấy. Ước gì ông lại về đây làm bí thư. Hắn
lại nghĩ: Giá các ông công an qua đây nhìn hắn và ông Hoàng đang sôi nổi trò
chuyện. Để các ông ấy hiểu rằng: Hắn không chết. Không phải ai cũng như các ông
ấy. Vẫn còn những người tốt cứu hắn.
Buổi tối hôm ấy hắn kể lại cho Ngọc nghe tất cả. Nàng rất phấn
khởi vì hắn sẽ được đi làm trong một ngày gần đây. Chẳng thể nào có được ngày
xưa nữa, nhưng như thế đã là đổi đời rồi. Lại được đi làm. Có lương đều đặn. Dù
ít ỏi nhưng ổn định. Và quan trọng hơn, đi làm, lại là cán bộ công nhân viên
Nhà nước. Khôi phục được một phần về mặt chính trị. Cho hắn. Cho nàng. Và nhất
là cho lũ trẻ. Nàng xúc động, nói với hắn, như người có lỗi:
– Tại em. Em nặng số lắm. Anh lấy em, khổ lây.
– Nhưng anh có quý nhân phù trợ.
Hai vợ chồng ngồi nói chuyện đến khuya. Ngủ sao được khi một
tương lai khác đang đến giúp mình vợi bớt khổ đau. Giúp mình sống với một niềm
hy vọng. Giúp mình ngoi lên được khỏi đáy, nó như cái hố phân sầu mà Sáng đã ngụp
lặn.
Hắn còn muốn thức để chờ già Đô về. Tắt đài rồi. Lũ trẻ đã nằm
trong màn, trùm chăn. Cái nắm đấm cửa bằng sứ khẽ xoay. Già Đô bước vào. Hắn gật
gật khe khẽ:
– Cụ ngồi đây.
Ngọc về màn. Già Đô cảm thấy hôm nay có gì khác. Hắn rót nước,
ghé sát già, thì thào:
– Mấy hôm nay, cụ làm gì?
Già trả lời ngay, không suy nghĩ:
– à! Nhùng nhằng.
Rõ ràng câu trả lời này già đã nghĩ sẵn từ lâu rồi.
Hắn thấy người già bốc lên một mùi nằng nặng. Như mùi thiu. Lại
như mùi đống rác ngoài đường chưa kịp xúc lên xe…
– Có nước nóng. Già có rửa ráy không?
Già lắc đầu. Hắn kéo già đứng lên và cầm phích cùng già xuống
nhà. Hai người đi rất khẽ. Hắn pha nước (rất khẽ). Già cởi áo bông và khẽ khàng
vớt nước nóng lên mặt, lên tay…
Hắn biết già thoải mái và dễ chịu. Hắn dành cho già một bất
ngờ nữa khi đã lên buồng: Hai khúc sắn luộc đúng quy trình ở trong ấy, khi toán
đi làm chủ nhật được bồi dưỡng. Bóc vỏ, đun sôi, chắt nước, rắc muối lên để âm ỉ
một lúc. Miếng sắn đậm đà, chỉ tội hơi nguội. Già ăn. Không từ chối như mọi
hôm. Đó là lần duy nhất già ăn khi về nhà hắn buổi tối. Già cảm thấy hắn có điều
gì vui. Hắn nhìn già, khe khẽ:
– Trông cụ gầy đấy.
Già gật gù:
– Gầy là phải thôi.
Có lẽ chỉ già mới biết già đã sống như thế nào, ăn những gì.
Cái cặp lồng già mang đi có được dùng đến hàng ngày không.
Già đi nằm, không mắc màn như mọi tối.
Khi hắn chợp được một lúc mà hắn tưởng như đã lâu lắm rồi, có
tiếng đập cửa và tiếng gọi to như ra lệnh:
– Mở cửa nhé! Kiểm tra hộ khẩu đây
Đó là điều hắn vẫn chờ đợi. Và hắn đã chuẩn bị sẵn câu trả lời.
Hắn bật điện, mở cửa. Anh hộ tịch đi cùng ông tổ trưởng dân phố (nguyên tắc nó
phải như vậy). Đêm hôm đập cửa vào nhà người ta đánh thửc cả nhà người ta đang
ngủ phải dậy để đếm từng người mà sao họ không thấy phiền phức, bất tiện nhỉ?
Có lẽ chẳng ai muốn, nhưng biết làm sao. Đây là công việc cần thiết, làm vì
cách mạng, cái khổ tâm giảm đi được chín chín phần trăm. Công tác an ninh là một
mặt trận sống còn, âm thầm lặng lẽ phải chịu khó và chịu khổ nữa.
Những nhà đương cục đứng chứ không ngồi. Họ đếm:
– Ai kia?
Cái nhìn hướng vào lùm chăn ở góc nhà, góc trong cùng cạnh chỗ
thằng Hiệp.
Cái chăn lùng nhùng cọ quậy và một người ngồi nhỏm dậy. Già
Đô râu dài, tóc xoã, dăn deo, sợ sệt, mắt nheo nheo vì chói ánh đèn.
Người ta nhìn vào hắn. Ngọc cũng đã ngồi dậy. Nàng cố chỉnh đốn
y phực, vuốt tóc tai cho đỡ bù xù, bước ra:.
Dạ thưa các anh, đây là bạn nhà tôi ạ.
– Có đăng ký tạm trú không?
– Dạ, chưa ạ.
Im lặng. Người hộ tịch gật gù:
– Đưa sổ hộ khẩu đây.
Ngọc tìm quyển sổ ghi hộ khẩu, phát minh của ông Thương ưởng
thời Chiến Quốc mà bây giờ toàn nhân loại đều học, nhưng thật đáng buồn cho
Thương ưởng, chính ông ta đã chết vì phát minh ấy của mình.
– Còn một cháu nữa đâu?
– Dạ, thưa anh cháu về quê ạ.
– Có báo tạm vắng không
Thưa anh cháu bé về với ông bà cháu ạ.
– Tức là không báo tạm vắng chứ gì?
Hắn im lặng. Ngọc im lặng.
– Bác khách có giấy tờ gì không?
Già Đô hất hẳn chiếc chăn bông ra. Già tìm trong đống bùng
nhùng chăn màn, áo, túi, lấy ra một tờ giấy. Đó là tờ lệnh tha.
Anh hộ tịch xem rất lâu. Lật mặt trước, mặt sau tờ lệnh tha
như có sự gì giả mạo và nói một cách bí hiểm và hăm doạ:
– Mai, anh chị và bác lên dồn nhận sổ hộ tịch, nhận giấy.
Rồi đi ra. Hắn nghe xem họ có gõ cửa nhà ai, vào nhà ai nữa
không. Tất cả im lặng. Người ta chỉ kiểm tra nhà hắn. Lũ trẻ ngồi trong màn đã
lăn xuống chiếu, kéo chăn trùm kín đầu. Già Đô ra bàn định nói chuyện gì đó. Hắn
bảo:
– Thôi, muộn rồi. Anh em mình đi ngủ đi. Có gì sáng mai bàn
thêm.
Mọi người đi nằm. Nhưng nào ai ngủ được. Hắn không muốn bật
điện khuya. Rì rầm khuya không có lợi.
Lo lắng. Suy nghĩ. Không biết người ta có thu sổ hộ tịch không? Có giữ giấy tha của già không? Và điều suy nghĩ nữa là: Bao nhiêu nhà, chỉ kiểm tra mỗi nhà hắn. Vì nhà hắn là nhà trọng điểm, người ta vẫn theo dõi, biết những ai đến với hắn. Biết cả già Đô về rất khuya và ra đi từ lúc còn tối đất.
Già Đô tự nhận hết về phần mình. Già cho rằng chỉ do già hắn
mới bị lôi thôi. Nhưng hắn nghĩ khác. Hắn biết vụ kiểm tra, thu sổ hộ tịch này
có dmh dáng đến việc ông Hoàng đã làm và đang làm cho hắn. Điều hắn đoán khá
chính xác. Càng về sau thời gian càng chứng tỏ điều ấy. Những đơn từ hắn gửi
đi, nếu có hồi âm đến P, người ta lại tổ chức kiểm tra hộ khẩu ngay sau đó. Ngọc
cũng nghĩ như hắn. Với bản năng của những con thú bị săn đuổi, họ hiểu được cái
ngôn ngữ của những hành động người ta làm với họ. Già Đô nghỉ đi làm sáng hôm
sau. Ngọc chần mì, hoà nước mắm giấm ớt cả nhà ăn. Một bữa sáng đặc biệt sang
trọng dãi già. Hắn ép già ăn hai bát. Già đói.
ăn xong, già mời Ngọc ngồi xuống để già nói chuyện. Già nhìn
nhìn đăm đăm vào một điểm nào đó ở mặt bàn, những rãnh sâu phía đuôi mắt xoè
hình nan quạt. Già nói chậm rãi, nghiêm trang:
– Hoàn cảnh tôi có khó khán, được cô chú giúp đỡ không biết lấy
gì câm ơn cho được. Tôi cũng chỉ định nhờ cô chú dăm ba ngày. Nhưng hoá ra lâu,
cũng gần hai tuần rồi. Cô chú quá tốt với tôi. Tôi cũng biết chẳng thể nào ở
đây lâu được. Chỉ tạm thôi. Tạm thế là quá rồi. Nhà cửa cô chú chỉ có mấy bước
chân, riêng gia đình ở đã chật. Lại còn tôi nữa. Các cháu mỗi ngày một lớn. Phải
có chỗ cho chúng sinh hoạt, học hành. Thế rồi xảy ra cái chuyện hôm qua. Tôi thật
ân hận, nghĩ mình lạm dụng lòng tốt cô chú…
Đúng như già nói. Hắn phải cố gắng rất nhiều trong việc thu xếp
cho già ở đây. Dù già chỉ ở nhà hắn có bốn năm tiếng đồng hồ một ngày đêm. Dù
già đã xếp gọn gàng các thứ vào góc nhà. Dù già đi về lẳng lặng như một cái
bóng. Dù già đã hạn chế đến mức thấp nhất mọi nhu cầu: Từ chén nước uống, điếu
thuốc lào (già đã cai thuốc) hoặc quả chuối hắn phần già, già cũng kiên quyết từ
chối. Cuộc sống thật ghê gớm. Không ai có thể nghĩ được đến ai. Không ai có thể
mở tấm lòng mình ra với người khác được.
– Hôm nay, xin phép cô chú tôi đi. Nói thật với cô chú, tôi
cũng chưa có chỗ nào. Nhưng chẳng lẽ cứ ở đây mãi. Không có chỗ thì rồi cũng phải
có chỗ chứ.
Rõ ràng già rất quyết tâm. Già băn khoăn:
– Liệu họ có thu hộ tịch, thu giấy không nhỉ?
Già nói như vậy để chia sẻ trách nhiệm đó thôi. Tất nhiên là
phiền phức, nhưng sẽ nhận lại được sổ, được giấy. Có điều phải lễ phép, tỏ ra
biết thân, biết phận, biết khuyết điểm, thiếu sót của mình. Đừng bao giờ khiêu
khích những áo vàng. Hắn dị ứng với màu quần áo ấy, nhưng chưa bao giờ hắn coi
những người mặc quần áo vàng là thủ phạm gây ra mọi đau khổ cho hắn. Hoặc cho
già Đô. Họ chỉ là những người thừa hành. Những người bị sai phái làm việc này,
việc nọ. Ngay cả những người như ông Lâm, trại QN, ông thiếu tá chánh giám thị
VQ mà già Đô bảo đã được lên cục phó. Chẳng qua màu ấy gắn quá chặt với chuỗi
ngày súc vật của hắn, nên hắn sợ mà thôi.
Già Đô chào Ngọc khi nàng xách xe đi làm. Già ôm thằng Dương.
Đến hôm nay thằng Dương mới biết già vẫn ngủ ở nhà nó. Cái ông có bộ râu dài mà
nó rất muốn được sở vào. Giờ thì nó thoải mái sờ. Nó chẳng ngửi thấy mùi chua từ
người già, từ quần áo, râu tóc già bốc ra (Ngọc là người cực nhạy, nhiều lần lợm
giọng vì cái mùi cống rãnh ấy. Nàng chỉ lặng lẽ lấy dầu xoa lên mũi). Nó vuốt
râu già từ cằm, nhè nhẹ xuống chỏm râu dưới ngực. Già nắm bàn tay bé xinh của
nó. Già thơm nó. Lại cái mùi của trẻ thơ. Cái mùi cuộc sống ven Địa Trung Hải.
Mắt già đẫm lệ. Thấy già khóc, thằng bé sợ hãi rụt tay lại. Già vụt đứng lên,
khoác bị bọc, chăn, chiếu, túi:
– Thôi, tôi đi!
Hắn theo già xuống thang:
– Thỉnh thoảng cụ lại nhé, thật đấy.
Sau này, ôn lại những kỷ niệm về già Đô hắn thấy đó là những
kỷ niệm nặng nề nhất trong cuộc đời hắn. Hắn nghĩ: Chính hắn đã ích kỷ, chỉ biết
mình và đã góp phần vào tội ác. Tất nhiên hắn thấy lời buộc tội ấy là vô lý, bất
công, nhưng sao nó vẫn cứ dai dẳng thế. Chẳng làm sao rũ được ý nghĩ mình đã vô
trách nhiệm với già. Khoảng một tháng sau, già Đô trở lại nhà hắn. ở nhà hắn đi
ra như thế nào, già trở lại cũng y như vậy. Một Vitali cô đơn, bị bọc, rách rưới,
mang xách, nặng mùi. Có một điều khác: Tàn tạ hơn, mệt mỏi hơn, nhưng ẩn một
tia hy vọng vì đã tìm ra lối thoát.
Già hỏi hắn: “Cụ có giấy bút không? “Và nhanh nhẹn đỡ lấy những
thứ đó từ tay hắn. Già đeo kính.
Cái kỉnh lão mắt tròn tròn cổ lỗ hồi đầu thế kỷ, một mắt lại
vỡ rạn hẳn là quá nhẹ với già, nên già phải ngửa đầu ra phía sau mà nhìn vào tờ
giấy. Già viết rất khó khăn. Bé Dương lại sán đến để chạm tay vào chòm râu rễ
tre, cuồn cuộn của già, nhưng già khẽ khàng bảo nó:
– Đi chơi, để bác làm nhé.
Nó đi ra chỗ bố. Thì đành đứng đó nhìn chòm râu già vậy.
Bỗng già buông bút, nhìn hắn:
– Hay là cụ viết giúp tôi.
Hắn vui vẻ nhận lời. Già đọc:
– Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Kính gửi Sở Công an.
-à, gượm đã. Hay là kính gửi Ban giám thị trại VQ nhỉ?
– Nhưng mà nội dung đơn là gì cơ?
– Tôi xin trở lại trong ấy.
Hắn choáng người, đặt bút xuống, nhìn già chăm chăm.
– Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cụ ạ. ở trong ấy tốt hơn.
Già chớp chớp mắt:
– Đời tôi là không gia đình. ở đâu cũng vậy thôi.
Hắn hiểu. Cuộc sống trong tù đối với già dễ chịu hơn rất nhiều.
Nhưng phải chết ở trong ấy. Già không sợ nữa sao?
– ở ngoài này tôi không chịu đựng nổi nữa rồi.
Hắn cảm thấy già có lý: Với già sống ở ngoài đời đáng sợ hơn
chết ở trong tù nhiều lắm.
– Thế thì phải làm đơn gửi Sở Công an. Trại người ta không nhận
đâu. Phải là từ Sở đưa lên. Trại đã xuất kho mình rồi, ai người ta nhập kho
mình nữa.
– ý tứ thế. Cụ viết giúp tôi.
Hắn viết. Già ngồi im lặng. Hắn bảo già:
– Cụ nghe tôi đọc lại nhé.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Đơn xin vào lại trại cải tạo…
Già nghe, gật gù… “Được. Được”. “Già ký vào đây”. Già ký. Ký
xong vẻ mặt già bỗng thay đổi. Từ hy vọng chuyển sang lo lắng. Không biết người
ta có nhận đơn không? Già bảo hắn, giọng bi quan:
– Làm đơn thì làm, chứ chưa chắc đã ăn thua gì đâu, cụ ạ.
Đó là lần cuối cùng già lại nhà hắn. Việc nộp đơn xin vào trại
của già không được chấp nhận. Già đi bới rác. Già lê la ở các cửa hàng mậu dịch,
khách sạn. Dồn dịch những bát phở, vét đa, nhặt những mẩu bánh mỳ thừa. Già làm
những việc đó vừa để nuôi sống mình, vừa với một hy vọng lớn lao: Già sẽ bị bắt
lại, vì là một phần tử du thủ du thực. Già sẽ được tập trung cải tạo, nhưng lần
này là tập trung hình sự, số chẵn như ông già Táy vét đĩa ở các cửa hàng mậu dịch,
bi bắt chung cùng một dịp với già. Nhưng già không gặp may. Ngày ấy đang cần
pha-lê hoá thành phố. Giờ đây thành phố đã trong sạch như pha-lê rồi, hoặc đã đục
trở lại nhưng không cần pha-lê hoá nữa. Chủ trương ấy phát ra, đã thu kết quả
và đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó.
Già đành phải ở lại ngoài xã hội.
Cái áo bông rách rộng thùng thình không còn biết nó là màu gì
nữa. Trong lần đi giao thuốc lá ở một hàng nước tại cửa rạp hát cải lương gần
chợ Chính, hắn đã thấy già, túi vải to tướng đang bới bới đống rác ở bên kia đường.
Đó là mùa xuân năm 1975, cũng đang mùa mưa dầm, hắn đã ra tù được hai năm, đã
được gặp ông Trần và quân ta sắp đánh Buôn Mê Thuột mở đầu công cuộc giẫi phóng
toàn thể miền Nam, thu giang sơn về một mối.
Hắn gọi già. Già không đáp, vẫn cứ cham chú vào công việc của
mình. Hắn đi đến cạnh già. Già nặng mùi đến mức ở ngoài đường hắn cũng ngửi thấy.
Trong chiếc áo bông đã mọc rêu, già nhìn hắn như nhìn một người lạ và lại bới bới.
Già không nói một câu. Chẳng lẽ già không nhận ra hắn. Có thể già lú. Nhưng
cũng có thể già quyết định không còn quen biết một người nào ở thế giới này để
được hoàn toàn cô đơn. Nỗi cô đơn ấy cần thiết cho sự tự quên mình đi, để chính
mình cũng không biết mình là ai nữa, nhờ đó mà kiếm lấy tý chút yên tĩnh tinh
thần. Thế rồi sau đó ở các phố xuất hiện một ông già được bọn trẻ con chào đón
nhiệt liệt. Một ông già nhỏ bé, râu dài cuồn cuộn. Túi vải to đeo lệch vai. Ông
đi vào các nhà, ăn cắp. Ông chỉ dám kéo ít quần áo, tã lót phơi ở sân. Hoặc thó
một đôi dép hớ hênh ngoài cửa. Nhưng chưa một lần ông lão thành công. Có một điều
kỳ lạ là già bị lộ khi đang ăn cắp, nhưng không ai ghét bỏ già. Cũng chẳng riếc
móc, đánh đập. Chẳng báo công an. Tới khi công an biết cũng chẳng đưa đi tập
trung cải tạo. Thật là thất bại thảm hại. Chỉ có lũ trẻ là cứ làm ầm lên. Già
vào một ngõ có nhiều quần áo căng ở dây phơi. Vừa thấy già, lũ trẻ trong ngõ đã
reo ầm ĩ. Chúng mừng rỡ, vỗ tay hoan hô vang dậy. Già đi đến đâu ở đó dậy lên
tiếng reo trong trẻo hồn nhiên của lũ trẻ chẳng một chút ác ý với già. Chính sự
thích thú và có phần nào quý mến già của chúng đã khiến cho người lớn nhìn già
bằng con mắt thương hại chứ không căm ghét. Nó đã hại già, làm già thất bại,
già không được đi tập trung cải tạo, cũng như không ăn cắp nổi một đôi dép cũ.
Có lần già đi vào khu nhà Bình. Hạnh phúc thật quá bất ngờ với lũ trẻ ở đó.
Chúng vội nấp kín vào những chỗ khuất, nín thở nhìn ra sân. Khi già giơ tay định
kéo cái áo may-ô của ông Tung phơi ngay đầu sân, cả lũ xô ra, reo lên ầm ầm. Tiếng
reo đồng loạt bật lên, phấn khởi, vui sướng tự đáy lòng (như sau này chúng reo
mỗi khi có điện) làm già giật thót mình. Già rụt tay lại.
Già bước những bước xiêu xiêu trở ra. Lũ trẻ ùa tới nhảy
nhót, nghịch ngợm chung quanh. Chúng chế giễu già là không biết ăn cắp, là ăn cắp
hạng bét và hoan hô già. Già chỉ mỉm cười độ lượng.
ở những ngõ khác, lũ trẻ hồi hộp chờ già tới với chúng. Chúng
buồn bã, thất vọng khi già đi thẳng. Chúng vụt biến mất như chui xuống đất khi
già rẽ vào nhà chúng. Với vẻ mặt sung sướng háo hức ranh mãnh, chúng chuẩn bị
cho trò chơi vô cùng thú vị sắp xảy ra.
Như ông già Noel, già mang niềm vui đến cho đám trẻ. Nhưng
khác với ông già Noel bất tử, già đem những ngày cuối cùng của cuộc đời già ra
làm trò vui ấy.
Già cũng không nhớ được bữa ăn gần nhất của già cách đây đã mấy
hôm rồi. Và già ăn cái gì vào bụng. Già không thấy đói nữa. Già đi như người mộng
du. Già cảm thấy người già rất nhẹ. Già đi mà chân như không chạm đất.
Rồi đến một ngày già không đi được nữa. Già thấy mình đang
phiêu diêu. Thật là một cảm giác khoan khoái dễ chịu, già chưa từng biết tới.
Già đã chọn cho mình chỗ nằm để phiêu diêu: Một ngôi đình khá rộng sát nội
thành, nơi thờ vị thần cách đây mấy trăm năm đã cắm lưỡi gươm làm mốc khai phá
bãi sú để vùng đất chua mặn này ngày nay trở thành thành phố.
Ngôi đình đổ nát và bị bỏ quên. Thời sau Genève, thời già đi
làm nhà máy giấy, ngôi đình là nơi tập kết lợn của Công ty thực phẩm. Người ta
quây, ngăn dình thành từng ô. Những xe ô-tô chở lợn từ các nơi đổ xuống đấy để
giết ngay hay nuôi mấy ngày rồi giết. Dạo ấy ngôi đình khá sầm uất. Ô-tô gầm
rú. Xe đạp ghếch chật sân. Xe cải tiến lộc cộc chở gạo nếp đổi lấy phân lợn. Một
dãy bếp lò nấu cám, nấu nước… Lợn sống đã vui. Cắn nhau. Gầm. Kêu. Eng éc. Hộc
hộc. Nhưng lợn chết còn vui hơn. Lợn chết được tính vào tỷ lệ cho phép, được giải
quyết nội bộ, không vào sổ sách kế toán, không phải bỏ tiền mua mà lại có thịt
đem về nhà ăn hay bán.
Từ khi chiến tranh bắn phá, thành phố sơ tán, người ta không
đưa lợn về đây nữa. Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một dấu vết thờ phượng.
Cứt lợn cũng hết lâu rồi. Chỉ còn dơi treo mình lủng lẳng.
Thật là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng ai
quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ lùng. Chẳng nhớ được một
điều gì, chỉ thấy mình đang tan đi và đang bay…
Già không chết trong tù, đúng như có lúc già mong ước. Già
cũng. không đến được với lũ trẻ nữa. Những ngày đầu chúng luôn nhắc tới già.
Chúng nhớ già, chờ già, mong già.
Và chúng nhanh chóng quên già.
Quên hẳn.
Trước khi gặp già Đô lần cuối cùng cạnh đống rác gần cửa nhà
hát vài tuần lễ, hắn đã được yết kiến ông Trần. Đó là điều hắn ao ước mong đợi
từ ngày hắn được ra khỏi trại. Cũng như ở trong tù hắn đã mong mỏi biết bao về
cuộc gặp giữa ông và anh Chân. Bởi vì ông là người quyết định số phận của hắn.
Ông là người đã ký vào bản án tử hình của hắn. Có thể ông không định khai đao.
Nhưng rồi ông đã phải khai đao. Ông không định trói hắn vào cọc và hạ lệnh cho
đội hành quyết siết cò. Nhưng rồi ông lại làm như vậy. Tình thế xô đẩy. Có lúc
chính ông cũng không làm chủ được hoàn cảnh. Hắn mong mỏi được gặp ông cũng chỉ
vì ông có phép mầu, làm cho đầu hắn đã bị chặt lìa khỏi cổ dính lại với thân
mình, làm cho lồng ngực hắn bị dạn bắn thủng lỗ chỗ, máu phun phè phè, bỗng dưng
lành lại, da thịt mịn màng.
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Bố hắn vẫn dạy hắn như vậy.
Điều mình không muốn thì đừng bắt người khác phải chịu. Hắn không muốn bị quy
chụp, bởi vậy hắn đứng về phía ông Trần để cắt nghĩa những việc làm của ông đối
với hắn. Hắn muốn lý giải ông một cách khách quan. Kết luận cuối cùng rút ra chỉ
có thể là một trong hai trường hợp sau đây:
1- Những thông tin về hắn đến với ông bị bóp méo, sai lạc.
2- Ông bắt hắn vì cách mạng. Nhưng khi ông biết bắt hắn là
sai, ông không có cách nào sửa lại được. Ông đành phải hy sinh hắn. Giá hắn làm
ở một xí nghiệp nào đấy, bị bắt vì tình nghi tham ô, ăn cắp, nay biết là oan có
thể ông sẽ trả hắn về cương vị cũ. Đằng này hắn lại là phóng viên, một cán bộ
có máu mặt, miếng không có nhưng có tiếng, quen biết rộng, khi bắt đã tạo thành
dư luận ầm ĩ. Nếu thả lại càng ầm ĩ hơn.
Hắn đành phải chịu hy sinh thôi. Bao nhiêu người còn phải hy
sinh tính mạng mình nữa kia. So sánh với hàng triệu người đã ngã xuống để bảo vệ
Tổ quốc, hàng vạn người bị bắn oan trong cải cách ruộng đất và với cả nhiều người
bị bắt oan nữa chứ, chắc chắn là như vậy, dù ngành có công minh đến mấy, thì sự
hy sinh mất mát của hắn thật không đáng kể. Chỉ là hạt cát trong sa mạc. Ông
không muốn hắn phải hy sinh, nhưng tình thế này ngoài ý muốn của ông. Ông phải
kiên quyết để bảo vệ uy tín của ngành, của tập thể, một điều rất cần thiết cho
nền chuyên chính.
Uy tín của ông là uy tín của ngành. Nó không còn là của riêng
ông, của riêng ai nữa. Uy tín của ông là để phục vụ cách mạng. Nó thuộc về cách
mạng, thuộc về nền chuyên chính, hơn lúc nào hết đang phải trấn áp thù trong giặc
ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng. Ông lúc nào cũng toàn tâm, toàn ý phục vụ
cách mạng.
Vì cách mạng ông phải xử sự như một người bíết rằng hơi quá
tay nhưng vẫn phải làm. Lưỡi gươm trấn áp phải tỏ ra sắc bén, hiệu quả. Ông
thanh thản trước lương tâm vì cái động cơ của việc làm đó. Động cơ là xuất phát
điểm của hành động, là tính mục đích của công việc. Nó biện minh cho hành động.
Động cơ của ông trong sáng. Hoàn toàn trong sáng.
Điểm nữa, ông biết chắc mọi đơn từ của hắn gửi các nơi, các cấp
đều trở lại nơi ông. Ông thừa biết cái cung cách người ta xử lý các đơn từ loại
ấy như thế nào. Kiến trong miệng chén có bò đi đâu. Ông lại là người giải quyết.
Mọi đơn từ đều được kính chuyển về thành phố. Nghĩa là về ông. Ông giao lại cho
đám cấp dưới của ông. Họ là những người thông minh, họ biết phải làm gì với những
đơn ấy. Họ biết phải làm gì với hắn để đè bẹp ý chí của hắn. Điều quan trọng là
phải đè bẹp ý chí của hắn. Khi ông cho đưa hắn về 75, ông đã định tha hắn. Của
đáng tội, bắt con em một gia đình cách mạng có công với nước vì những chuyện có
vấn đề tư tưởng như vậy tù bốn nảm là đủ cho việc ngăn chặn rồi. Nhưng hắn
không biết điều. Ông cần phải cho hắn đi một tăng nữa. Hắn vẫn không hiểu được
những điều tối thiểu, còn đang trong tù mà đã phát biểu khi ra sẽ khiếu nại.
Quá tự tin và hung hăng. Nếu hắn biết thân biết phận, biết cách xử lý, nhận vài
khuyết điểm nào đó – ai mà chả có khuyết điểm- hắn sẽ được ông đối xử một cách
khác. Một cách đối xử chứng tỏ Đảng luôn mở đường cho những kẻ biết hối cải, chứng
tỏ sự rộng lượng của riêng ông. Và dẫn dần ông lại cho nó những điều ông có thể
cho được. Chỉ cần nó biết mình, biết người. Nó biết nó. Nó phải biết nó. Nó định
lấy cái cương của cá nhân nó chọi lại cái cương của cách mạng. Húc đầu vào đá
thôi, con ạ. Trứng chọi đá, chọi sao nổi. Cách mạng sẽ đè bẹp tất cả. Cái tăng
bổ sung sau này là dành cho mục đích ấy. Chí ít thì cũng có thêm thời gian cho
câu chuyện của hắn thành dĩ vãng. Để lâu cái gì chẳng hoá thành bùn. Ông chẳng
bao giờ được chủ động trong xử sự. Ông xử sự, ông hành động theo cách bọn địch,
bọn bất mãn, bọn phá hoại bắt ông phải hành động.
Cũng có thể ông chẳng nghĩ ngợi gì. Ông không nghĩ vì ông đã
quen rồi, quen nhìn thấy máu rồi. Với lại chẳng qua ông không bắt được quả tang
hắn mà thôi. Hơn nữa nếu trước khi bị bắt, hắn chống đối một cách không tự
giác, vô ý thức, thì bây giờ ở tù ra hẳn là hắn đã và sẽ chống đối một cách triệt
để, có ý thức. Điều đó phù hợp với biện chứng, với logic. Đối xử với hắn như đối
xử với một tên phản cách mạng là điều buộc ông phải làm.
Hắn cũng công nhận rằng ông bắt hắn không phải vì tư thù, ác
ý. Số cán bộ trung gian đã xuyên tạc hắn với ông. Những thông tin ban đầu của họ
là không đúng (như: Hắn là người bất mãn, bẻ bút không viết nữa, đả kích chế độ
trong nói năng, phát ngôn..). Những thông tin này có thể do bọn Bách ở báo, bọn
xấu, bọn đố kỵ cung cấp. Cũng có khi chỉ là những câu chuyện vui của những người
chẳng ác ý gì. Hắn lại không chịu ca ngợi Mao chủ tịch, không vẽ râu vào ảnh
Khrusôp, không mạt sát phim “Bài ca người lính”. Đó là chưa kể hắn giao du rất
rộng với bao nhiêu phần tủ đáng nghi ngờ ở Hà Nội. Những hiện tượng ấy ghép lại,
được kết dính bằng một nhận định toàn bộ cho một ý đồ. Một sợi chỉ đỏ xuyên suốt
như thường nói. Thế là ông Trần duyệt bắt thôi. Bởi vậy, hắn đã bao lần tìm gặp
ông Trần nhưng không được, vì ông ở ngay trong sở. Có lính gác. Hắn chỉ đưa được
đơn vào phòng thường trực. Hắn hỏi Bình:
– Ông Trần trông thế nào nhỉ? Thời còn làm báo, hắn chưa tiếp
xúc với ông. Vì hắn không theo dõi nội chính. Hắn theo dõi khối công nghiệp. Có
một lần ông Trần đến cơ quan báo cáo tình hình trật tự trị an cho anh em phóng
viên, ông mở đầu bài nói cùng với một ý khi ông kết luận:
– Các đồng chí nghe để biết thôi. Ngành chúng tôi càng ít nói
trên báo càng tốt. Hễ nói nhiều là tình hình không hay rồi đấy.
Hắn chỉ trông thấy ông có mỗi lần ấy. Hắn không nhớ được nét
mặt ông. Bình bảo: “Mày có nhớ thằng Thanh Nhàn không? Ông ấy có kiểu người của
thằng Thanh Nhàn”, “Thanh Nhàn nào?” “Thanh Nhàn xi- măng. Vẫn viết tin cho
chúng mình ấy”. Hắn lắc đầu: “Quên rồi”. Bình nhăn trán suy nghĩ và bật kêu
lên: “Trông ông Trần giống Lâm Bưu. Đúng. Đúng. Giống Lâm Bưu”.
Thật là một so sánh bất ngờ và kỳ lạ.
ấy thế mà khi gặp ông, hắn hiểu Bình có lý: Thấy ông người ta
liền nghĩ đến Lâm Bưu, nhất là lúc Lâm Bưu đứng cạnh Mao chủ tịch, quyển sách đỏ
cầm tay, Lâm Bưu ở cái tư thế profil nhìn bao quát cả đám quần chúng mênh mông
Thiên An Môn ấy.
Dáng người ông nhỏ nhắn, lông mày rậm hơi chổi sể, khuôn mặt
xương xương, hóp lại về phía cằm và cặp mắt nhỏ, hẹp ẩn dưới hàng lông mày rậm,
lại càng nhỏ hơn mỗi khi ông cười. (Thực ra ông có cặp mắt lươn ti hí, nhưng hắn
không muốn dùng chữ ấy).
Ngoại hình của ông làm hắn thất vọng. Nó chẳng chứng tỏ điều
gì, ngoài cái cảm giác đó là một con chạch, rất khó nắm bắt, còn ngoi lên, còn
ngoi lên nữa. Thật đối lập với ông Hoàng. Cao lớn, đẹp đẽ, khoan thai. Hắn hiểu
ngay ông Hoàng không phải là đối thủ của ông Trần. Ông Hoàng tin ở lẽ phải, ở
chính nghĩa, tuyên chiến trước khi giáp trận. Còn ông Trần sẵn sàng đánh trộm
sau lưng, hạ đối thủ ngay từ nhát dao đâm trộm ấy.
Không phải hắn ghét ông Trần hay yêu ông Hoàng mà gán ghép
cho mỗi ông một vẻ xấu đẹp thích ứng. Hắn chỉ trung thành với hiện thực. Hắn vẫn
phản đối kiểu xuyên tạc hiện thực, dẫn đến công thức nhàm chán: Về ngoại hình
chính diện bao giờ cũng đẹp đẽ, còn phản diện thì tha hồ bôi bác.
Có một chi tiết nữa ở ông Trần mà hắn rất nhớ là trong lúc
nói chuyện, thỉnh thoảng đồng tử mắt ông lại thu nhỏ lại. Hắn quả quyết như vậy
vì hắn có thói quen nhìn thẳng vào mat người đối thoại, và hắn thấy điều ấy rất
rõ. Khi ông Trần xúc động, đồng tử ông hơi co lại theo hình bầu dục, một hình bầu
dục dựng đứng giữa lòng con mắt như nứt ra giữa hai mí mắt. Thật là dị tướng!
Hắn cũng không ngờ được gặp ông (đời hắn quả là liên tiếp những
chuỗi bất ngờ). Lang thang tìm cách kiếm sống, đến nhà một người quen ở vùng
ven đô để hỏi việc gia công sợi buộc lạp-xường, hắn thấy ông Trần bước vào sân
cùng với mấy người nữa. Ngay lúc ấy hắn nghĩ đến Lâm Bưu và hắn biết đã gặp ai.
Ông Trần đang đứng trước mặt hắn. Tiên ông và phù thuỷ đang đứng trước mặt hắn.
Hắn lảng vảng ở vườn, chờ cho chủ, khách uống hết một tuần trà, mới vào nhà lễ
phép tự giới thiệu và xin được gặp ông vào một ngày nào đó. Cố che giấu, nhưng
vẫn để lộ một chút ngạc nhiên, ông nhận lời.
Hôm ấy ông Trần đến đấy ăn thịt chó, và sau đó anh chủ nhà
cho hắn biết anh bị ông ấy căn vặn mãi: Có phải anh ta bố trí mời ông tới nhà để
hắn gặp không? Đúng là ông nhìn sự việc không đơn giản xuôi chiều, rất trí lự
và dưới nhiều góc độ.
Hắn ra về ngay để khỏi phiền anh chủ nhà, khỏi đưa anh vào thế
khó xử. Hắn xúc động vì quá bất ngờ. Hắn đạp xe về chỗ anh Thân, thở hổn hển:
– Em vừa gặp ông Trần xong.
Hắn thuật lại chuyện và nói:
– Ông Trần hẹn cho em gặp rồi.
Anh Thân bảo:
– Gặp một ông thường vụ làm gì mà cứ cuống lên thế. Binh thường
thôi.
Không bình thường đâu anh ơi! Đây là lần đầu tiên một ông thường
vụ gặp hắn. Mà lại chính là ông Trần, người bắt hắn, người có cái gậy thần, người
đã làm thay đổi cuộc đời hắn. Ông Trần nhận sẽ gặp hắn. Hắn chờ, chờ mãi. Ông
Hoàng đã về nhà hắn hai lần rồi, ông Trần mới cho người đưa giấy mời hắn tới Sở.
Không phải giấy gọi, giấy hẹn, mà giấy mời. Thật là tôn trọng và lịch sự.
Hắn đã chuẩn bị kỹ cho cuộc gặp này. Bình, Ngọc và hắn đã thống
nhất: Phải rất linh hoạt. Đừng cứng nhắc đòi phục hồi, đòi bản thảo. Không ăn
thua gì đâu. Phải tùy tình hình.
Hắn đến Sở. Cùng tiếp hắn có cả ông Quảng, trưởng phòng đặc
trách văn hóa. Vậy là hôm nay hắn được gặp cả hai ông. Khác hẳn ông Trần, ông
Quảng cao lớn, béo tốt, dầy đặn, phúc hậu và toàn nói những điều nhân đức. Ngoại
hình và ngôn ngữ ông Quảng đáp ứng điều hắn vẫn suy nghĩ về những đao phủ thời
hiện đại. Ông Trần mời hắn ngồi xa-lông, ông Quảng đóng vai người tháp tùng.
Ông Quảng pha trà, rót nước, bóc bao thuốc lá Điện Biên bao bạc mời hắn. Bình đẳng,
lịch thiệp, văn hoá, tôn trọng và hiếu khách.
Ông Trần ngả lưng vào xa-lông, nhìn hắn cười thoả mãn như một
người lâu quá không được gặp hắn và vẫn mong gặp hắn như cái kiểu “bấy lâu vắng
mặt khát khao”. Ông hỏi hắn thân mật như hỏi một cán bộ dưới quyền mà ông hiểu
từ chân tơ, kẽ tóc:
– Thế nào? Thắc mắc lắm phải không?
Rõ ràng ông biết hết ruột gan hắn. Đã bao năm rồi hắn chưa được
một ông công an nào hỏi một câu như vậy. Với giọng điệu cởi mở thông cảm như vậy.
Hắn cố nặn ra một nụ cười tươi tỉnh và khiêm tốn:
– Thưa anh, tôi như một đứa con bị bố mẹ đánh. Cảm thấy bị
đánh oan, rất mong có dịp thưa lại cùng bố mẹ.
Câu trả lời ấy làm vừa lòng ông Trần. Hắn chờ câu nói tiếp
theo của ông để đoán biết ông định giải quyết cho hắn vấn đề gì.
– Chúng tôi đã nhận được đơn của anh. Tôi nghĩ bây giờ trước
hết phải lo việc làm cho anh đã. Có đúng thế không?
“Thế là ông khoanh lại vấn đề ấy: Việc làm! “
Hắn hiểu và tin chắc như vậy. Việc làm. Nhưng là việc gì chứ?
Bảo hắn đi quai búa hay đi phụ nề?
Hắn nghĩ tới những công việc khổ sai hắn đã trải. Phải nói
rõ. Không thể chung chung được.
– Thưa anh. Tôi bị thiệt thòi nhiều. Chẳng riêng tôi. Vợ tôi
được cơ quan cử đi học đại học, đang học thì bị Sở Công an gọi về làm phụ kho
trong khi bạn bè vợ tôi đều đỗ đại học và…
Ông Trần bật ngồi thẳng lên, ông ngắt lời hắn:
– Ai? Ai? Sao lại gọi chị ấy về?
Giọng ông ngạc nhiên, sửng sốt. Thật bất ngờ với hắn. Hắn vẫn
tưởng chính ông Trần quyết định việc ấy Và lần đầu tiên hắn thấy đồng tử của
ông co lại thành hình bầu dục dựng đứng giữa con mắt nhỏ. Ông nghiêm khắc nhìn
ông Quảng như muốn hỏi: “Sao lại có chuyện ấy? Sao tôi không biết gì cả? Ai cho
phép các anh làm như vậy?”
Ông Quảng với vẻ nhẫn nhục cao cả của một người làm điều thiện,
nhưng buộc phải mang cái vỏ độc ác mà người ta dễ hiểu lầm, nhìn ông Trần với vẻ
biết lỗi:
– “Báo cáo anh, dạo ấy anh Tuấn đang ở trong trại. Phải đưa
chị ấy về vì các cháu không ai chăm sóc. Cả bốn cháu còn quá nhỏ.”
Sự tiêu diệt cuộc đời vợ hắn đã được người ta giải thích như
vậy. Hắn căm thù và ghê tởm nhất sự dối trá mà đây lại là sự dối trá trắng trợn
nhất với hắn. Sự đê tiện đến vậy là giớí hạn, là tận cùng. Hắn uất ức nhìn ông
Quảng, cái nhìn ngây ngô như một con vật bị giết trước lúc chết. Nghĩa là hắn
nhìn ông mà chẳng nhìn thấy gì. Hắn nhìn ông ma còn cố nén, cố giữ cho mạch máu
khỏi vỡ toác ra. Ông Trần khinh khỉnh nhìn ông Quảng, cái nhìn chứa đựng dông
bão, làm vơi đi rất nhiều bóng tối trong lòng hắn. Hắn tin rằng khi hắn về, ông
Trần sẽ trút lôi đình và ông Quảng sẽ lãnh đủ, sẽ hiểu thế nào là những hành động
vô nguyên tắc, tư thù cá nhân, phá hoại chính sách của Đảng. Hắn nói mà chính hắn
cũng ngạc nhiên ở giọng điệu bình tĩnh của mình:
– Báo cáo anh đấy là sự đau khổ lớn thứ hai của chúng tôi. Về
chuyện các cháu, chúng tôi đã thu xếp cho chúng về ở với bố mẹ tôi. Vợ tôi rất
quyết tám khắc phục mọi khó khăn để học đại học.
Ông Trần trầm ngâm, tư lự. Rõ ràng ông đang gánh nỗi đau khổ
của hắn. Như được ông khuyến khích, hắn nói tiếp:
– Bạn học của vợ tôi học xong đều là kỹ sư, trưởng phó phòng.
Có người còn là chủ nhiệm. Vợ tôi về Công ty làm phụ kho. Tôi nói vậy để báo
cáo với anh là chẳng cứ tôi bị thiệt thòi mà cả vợ tôi. Mong anh thông cảm với
hoàn cảnh của tôi, cho tôi làm một việc gì đó hợp với khả năng và sức khoẻ của
tôi, để tôi có thể có thu nhập.
Lời xin thật khiêm tốn, thiết tha. Ông Trần như chỉ mong hắn
đề nghị điều gì đó để ông giúp hắn vợi bớt được khổ đau. Ông sốt sắng có pha chút
long trọng để hắn hiểu ràng đây là những lời nói chính thống hắn có thể hoàn
toàn tin tưởng:
– Tôi hôm nay nhân danh lãnh đạo thành phố, giám đôc Công an
nói với anh rằng: Anh sẽ được làm một việc phù hợp với khả năng để từ đó có thu
nhập.
ôi! Thật tuyệt vời! Ông Trần thương hắn. Dù sao ông cũng biết
hắn đau khổ nhiều, mà hắn lại là em một người cùng cấp uỷ với ông, là con một
gia đình cách mạng. Chưa một người công an nào nói với hắn như vậy. Người ta
toàn răn đe hoặc nói như đánh đố.
Trong không khí cởi mở ấy, hắn dấn thêm một bước, cụ thể hơn:
– Thưa anh, tôi có thể làm thi đua được không ạ?
Hắn nói vậy vì hắn nhớ đến ông Hoàng. Ông Trần nhướn cặp mắt
nhỏ lúc đó trông rất nhân từ bao dung và lấp lánh:
– Được chứ. Sao lại không. Thay mặt lãnh đạo thành phố tôi
nói với anh là anh được làm thi đua. Thay mặt lãnh đạo thành phố tôi nói: các
con anh được vào đại học. Anh hoàn toàn yên tâm.
Đó chính là điều hắn định sẽ hỏi ông. Là một nội dung cốt yếu
hắn muốn được nói cùng ông. Hắn biết hắn đã gây đau khổ cho con cái. Cái lý lịch
đi tù, phản cách mạng của hắn là một gia tài ghê gớm mà chúng nó sẽ thừa kế.
Con địa chủ, con tư sản không được vào đại học. Đã hẳn. Ngay nông dân lao động
không vào hợp tác xã, con cái dù học giỏi đến mấy cũng không được vào đại học.
Nói gì đến con một thằng. phản động hiện hành. Hắn còn đang lựa lời tìm cách
nói với ông chuyện con cái thì ông đã chủ động nói trước. Ông Trần quả đã nhìn
thấu tim gan hắn. Hắn nhìn ông, cái nhìn kính trọng, biết ơn. Hẳn ông Trần đã
hiểu lời nói của đôi mắt hắn, ông hỏi hắn:
– Thế, được chưa?
Hắn cám ơn ông, cám ơn lãnh đạo thành phố và ý thức được ràng
đây là lần gặp duy nhất trong đời hắn với ông Trần, bởi thế cần phải tranh thủ
làm cho ông hiểu hắn:
– Thưa anh, tôi nghĩ việc xử lý tôi là quá nặng. Tôi sợ rằng
anh nhìn tôi qua những lăng kính trung gian. Tôi cũng phải báo cáo với anh rằng:
Chưa ai nói tôi mắc tội gì.
Hắn im lặng. Ông Trần khuyến khích:
– Cứ nói tiếp đi.
– Thưa anh, tôi nói điều gì có thể anh không tin. Nhưng tôi
nói điều này chắc là anh tin. Đó là tôi rất muốn ở nhà với vợ, với con, tôi rất
sợ đi tù một lần nữa. Muốn vậy tôi phải biết những khuyết điểm của tôi để tôi
rút kinh nghiệm, để tôi tránh. Cho đến bây giờ trong cơ quan an ninh, chưa ai
nói cho tôi biết tôi có những khuyết điểm gì.
Hắn muốn nói rõ hơn: Thưa anh tôi chưa biết tôi mắc tội gì,
tôi xin được biết để tôi tu dưỡng. Nhưng sợ rằng câu nói ấy ngụ vẻ khiêu khích,
bôi nhọ cơ quan an ninh. Làm gì có chuyện đi tù năm năm mà chẳng biết mình mắc
tội gì. Hắn phải thay chữ tội bằng chữ khuyết điểm. Thì khuyết điểm cũng là tội
chứ sao. Hắn nói và nghiêm trang nhìn ông Trần, dò xem phản ừng trên nét mặt
ông. Ông gật đầu như kiểu đã biết tình huống này từ lâu rồi. Ông nói với vẻ nhẫn
nại, cam chịu của một Chúa cứu thế:.
– Tôi biết. Tôi biết anh thắc mắc nhiều. Phương pháp tư tưởng
của anh khá chủ quan. Về chuyện ấy chúng tôi sẽ làm việc với anh vào một dịp
khác. Chắc chắn anh sẽ được thoả mãn.
Lại những điều muôn thuở, những lời nói kiểu đánh đố làm hắn
dị ứng. Nhưng hắn vẫn lễ phép vâng vâng. Hắn đã thực hiên được phương châm tự đề
ra cho mình từ khi bị bắt. Thái độ mềm dẻo, khiêm tốn, nhưng cứng rắn về nguyên
tắc. Không lùi bước trước bất kỳ ai, bất kỳ sự dung doạ nào. Như vậy, dù sao buổi
gặp ông Trần cũng đạt được mục đích: Thay mặt lãnh đạo thành phố, Sở Công an,
ông Trần đồng ý cho hản đi làm trở lại, hắn được làm thi đua, con hắn được đi học
đại học. Đó là nhửng thắng lợi quan trọng. Đó là những yếu tố pháp lý mà hắn sẽ
nắm lấy để nói chuyện với những người còn muốn giết hắn, đầy đọa hắn. Hắn đã
làm ông Trần hiểu hắn hơn. Hiểu những gì hắn đã chịu, đang chịu, hiểu tâm tư
nguyện vọng chân thành của hắn. Hiển nỗi đau của vợ hắn. Và hắn cũng hiểu ông
Trần hơn. Hắn hiểu bọn cán bộ trung gian đã xuyên tạc hắn với ông. Chỉ bằng vào
việc họ gọi vợ hắn về không cho học nữa là đủ biết bọn ấy thật độc ác và lộng
quyền. Chính bọn ấy đang phá chế độ, phá Đảng, đang phá hoại lòng tin của quần
chúng. Họ làm những việc tầy đình trắng trợn mà lãnh đạo không hay biết gì cả.
Việc của hắn nếu ông Trần hay biết từ đầu thì đâu đến nỗi. Hắn tin rằng cùng với
thời gian, ông Trần sẽ hiểu hắn hơn nữa và sẽ đối xử với hắn, với vợ con hắn
không đến nỗi nào. Tất nhiên hắn chẳng mong ông kỷ luật, khiển trách mắng mỏ
cái làng kính trung gian ấy, nhưng ông sẽ không đến nỗi khắt khe với hắn như
chính bọn “lăng kính”, bọn ông Lan, ông Quảng.
Nghĩ đến Ngọc bị đuổi học, nghĩ đến lời giải thích của ông Quảng
về chuyện gọi Ngọc về để trông nom con cái và sự sửng sốt của ông Trần, hắn căm
thù vị trưởng phòng đặc trách ván hoá phương phi, phúc hậu và nghĩ hẳn ông Trần
đã thấy được hắn bị đối xử quá đáng như thế nào. Hắn tin ông Trần bắt đầu nhìn
thấy sự thật. Sẽ thay đổi cách đối xử với hắn. Ông đã hứa với hắn về công việc,
lại có sự giúp đỡ của ông Hoàng, hắn sẽ thuận lợi. Điều đó là tối thiểu. Hắn phải
được hưởng điều tối thiểu ấy. Hắn muốn được giải quyết tận gốc cơ. Hắn có tội
hay không có tội. Bản thảo hắn tốt hay xấu? Bởi thế hắn lễ phép nói với ông Trần
trước khi ra về:
– Thưa anh, tôi rất cám ơn anh đã cho tôi được gặp, cho tôi
được đi làm và các con tôi sẽ được vào đại học. (Phải nhấn lại một lần nữa những
điều quan trọng ấy chứ). Tôi tha thiết đề nghị anh chỉ thị cho tôi xin lại bản
thảo của tôi. Đó là tất cả gia sản, công sức mười năm lao động miệt mài của
tôi. Thực sự tôi đã bị tịch thu tài sản.
Hắn nói với giọng đau khổ van xin cầu khẩn của một kiếp giun
dế nhỏ mọn để tăng thêm sức thuyết phục, để lời đề nghị của hắn không hàm một ý
hỗn xược, xấc láo nào có thể làm ông phật ý. Ông Trần gật đầu và nhiệt tình
đáp:
– Được, anh cứ yên tâm. Bản thảo của anh là của anh.
Hắn thuật lại cho Bình nghe. Bình gầm gừ, uất hận:
– Đã đành phải nhấn mạnh với bọn ấy để chúng nó hiểu không phải
chỉ cái xe đạp, cái áo sơ-mi mới là tài sản, nhưng bản thảo của mày không chỉ
là tài sản của mày, đó là tài sản quốc gia.
Đụng đến điều ấy là Bình uất hận. Đó là chỗ nhạy cảm nhất
trong thần kinh của anh. Anh lầu bầu:
– Bọn phá hoại văn hóa.
Điều ấy hắn cũng thừa biết, hắn còn nghiền ngẫm nhiều hơn,
nhưng hắn không dám nói ra. Hắn sợ với cả Bình, sợ với chính hắn. Hắn sợ cứ nói
thế thì đâm quen đi, mà muốn không nói thì trước hết phải đừng nghĩ. Hắn rụt rè
với mọi người và đâm ra rụt rè với chính mình. Rụt rè cả trong suy nghĩ. Thực
ra hắn rất muốn nói với ông Trần: “Tôi không xin anh sự chiếu cố, sự khoan hồng.
Tôi chỉ muốn được hưởng luật pháp. Tôi xin anh một lời buộc tội”.
Đó là những lời thẳng thắn, là bản chất của sự việc, là sự chân thành và cũng là mục đích của luật pháp, mục tiêu của Sở Công an nữa mà sao nghe cứ như khiêu khích. Nên chỉ đến khi ngồi một mình hắn mới nghiền ngẫm vụng những câu đối thoại ấy trong chốc lát. Cho nó hả trong đầu tí chút. Rồi thôi.
Tiếng lành đồn xa. Chuyện hắn gặp ông Trần và những lời ông
Trần hứa hẹn với hắn đã được nhiều người biết. Chắc chắn anh Thân và Bình là những
người háng hái phổ biến tin này, kèm theo vài lời bình luận về sự giải quyết có
lý có tình của thường vụ – tức là của ông Trần, cũng có nghĩa là hắn chẳng có tội
tình gì.
Sau buổi đó ít lâu, nghĩa là đã bước sang năm 1975, năm được
ghi vào lịch sử đất nước và lịch sử đời hắn như những cái mốc quan trọng: Năm
toàn thắng ở miền Nam, năm hắn được đi làm. Một người bạn thân của anh Thân, một
người quen hắn, yêu quí hắn, đến nhà hắn mang theo nửa ki-lô chè búp loại ngon
nhất, một xếp giấy trắng, một mớ những bản báo cáo đã đánh máy, bảo hắn:
– Lãnh đạo thành phố cho ông đi làm rồi, phải không? Ông về
chỗ tôi. Trong khi chờ đợi, ông giúp tôi! Tôi phải báo cáo điển hình ở hội nghị
tổng kết của Bộ Lao động. Ông cố giúp tôi. Chè đây.
Và lấy từ trong túi ra nửa cây thuốc Tam Thanh.
– Thuốc đây.
Đó là món nhuận bút đầu tiên khi hắn ra tù, khoản thù lao của
ông Thưởng, trưởng phòng lao động khu phố. Ông cũng là một người khét tiếng với
những dư luận bao quanh như ông Ngoãn, trưởng phòng thủ công, em ruột ông Trần.
Người ta thêu dệt rất nhiều chuyện không hay về ông Thưởng.
Chuyện ông ăn đút lót, chuyện ông giàu có, chuyện gặp được ông còn khó hơn gặp
bí thư thành ủy. Chuyện ông gây khó khăn cho mọi người trong việc cấp giấy đi
làm… vv và vv…
Có lẽ chỉ hai điều đúng thôi: ông không biết đi xe đạp. Và từ
sáng sớm đã có nhiều xe đạp đón ông đi ăn sáng. Ai mời được ông ngồi sau pooc –
ba – ga chở ông đi thì đã có thể vênh mặt lên với người khác được rồi.
Hắn chỉ thấy ông là người tuyệt vời. Ông trước đây cũng là một
cộng tác viên của báo. Hắn không để ý gì đến ông. (Vì ông thì chẳng bao giờ có
thể là nguyên mẫu cho một tác phẩm văn nghệ được. Phải là những công nhân lò
nung, những người thợ cơ khí, những người gác đèn ngoài đảo xa). Nhưng ông Thưởng
biết hắn, để ý đến hắn, quí hắn. Lòng quí mến của ông là hoàn toàn thành thật,
không vụ lợi. (Hắn thì đem lại cho ông mối lợi gì mới được chứ). Ông quí hắn,
vì ông có viết lách chút ít (một quí viết vài ba cái tin thôi). Ông thấy rõ cái
khổ của nghề cầm bút và tài năng của hắn. Ông quí hắn, vì ông là bạn với anh
Thân. Ông thương hắn, vì ông biết hắn chẳng có tội tình gì mà trong ông vẫn còn
sót một chút đặc tính của dân tộc: Sự thương vay.
Hắn đỡ các thứ trong tay ông, cảm thấy mình trở lại làm người
khi cầm xếp giấy và những bản báo cáo ông đưa hắn làm tài liệu. Có lẽ Ngọc nói
đúng: Hắn có quí nhân phù trợ. Ông Thưởng – cái ông trưởng phòng không biết đi
xe đạp và chỉ quen biết bình thường này – bỗng trở thành ngôi sao chiếu mệnh
cho hắn. Hắn nghĩ: Đời hắn nếu không có ông Hoàng, ông Thưởng thì sẽ ra sao? Đã
bao lần hắn nói: Trên có ông Hoàng, dưới có ông Thưởng. Đó là những người hắn
mang ơn cứu mạng. Những người sống tết, chết giỗ. Đấy mới thật là những “người
thay đổi đời tôi”.
Thỉnh thoảng đến thăm và cũng là để xem bản báo cáo viết đến
đâu rồi, ông Thưởng nhắc lại:
– Ông về chỗ tôi làm. Về với tôi. Đời ông có khốn nạn thế này
ông mới phải về với tôi. Chứ không làm sao tôi dám nói vậy.
Đó là những lời có thể làm người ta khóc được. Vì vẫn được
đánh giá đúng. Vẫn được coi trọng. Và muốn vợi cho nhau khổ đau…
Hắn viết cho ông cái báo cáo về giải quyết lao động ở một khu
phố. Đây sẽ là báo cáo minh hoạ, bổ sung cho báo cáo tổng kết của Bộ trưởng. Hắn
lại lúi húi ngồi viết. Lại thức khuya khuya một tý. Lại pha trà. Lại đốt thuốc.
Lại bơm thêm mực vào cái bút Pilot ngòi cánh sẻ bằng vàng 14 cara, người bạn
trung thành không rời hắn suốt năm năm tù tội, theo hắn vào tù từ ngày đầu
tiên, ở xà lim 76, xà lim 75, lên đến tận V. Q. Hắn viết báo cáo công phu như
viết một truyện ngắn. Đó là sáng tác đầu tay của hắn trong khúc đời mới. Ông
Thưởng ghé lại đọc những trang đã viết và rất hài lòng. Một đệ tử đèo ông bằng
xe đạp đến nhà hắn, và đúng giờ hẹn lại đón ông. Hắn nghĩ hắn sẽ làm quân của
ông Thưởng thôi. Có một thủ trưởng như vậy, còn ao ước gì hơn. Ông Thưởng bảo:
ông đã đặt vấn đề xin hắn với tổ chức khu phố rồi. Tất cả đều ủng hộ. Ông Trần
đã bật đèn xanh thì cứ thế mà làm, chẳng ai nghi ngại điều gì.
Hắn làm đơn xin việc gửi ông Thưởng. Xin vào chỗ ông Thưởng
có một điều thuận tiện là chỉ cần lá đơn ấy thôi. Làm đơn xin vào nơi khác phải
qua chỗ ông Thưởng, phải qua phòng lao động. Ông Thưởng nhận đơn tại nhà hắn,
nói cả với hắn về dự kiến phân công nữa. Hắn mong quá. Mong từng ngày. Càng mừng
càng mong. Càng mong càng sốt ruột. Năm ấy lại mưa dầm. Mưa xuân ảo não, thúc
giục. Thứ mưa xuân mịt mù trời đất, tê cóng trong lòng. Những ngày mưa xuân đầu
năm 1975, già Đô quần áo lên rêu cắm cúi trên những đống rác mà hắn gạp lần cuối
cùng ở cửa nhà hát. Hắn đã nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Hắn sắp đi hết
đoạn đường của hắn. Già Đô cũng sắp đi hết đoạn đường của già. Bằng cách của
già. Bằng cách nằm phiêu diêu và thấy mình như tan đi…
Vào lúc đó cả miền Bắc bàng hoàng vì chiến thắng.
Khi quân ta bắt đầu chia cắt quân địch, bao vây Đà Nẵng thì hắn
nhận được giấy mời ra đồn của công an khu phố. Hắn nghi ngại. Hắn cảm thấy có một
điều gì rất xấu đến với hắn. Linh tính mách bảo hắn. Và hắn đã không nhầm. Đích
thân ông Khuổng, thiếu tá trưởng khu công an tiếp hắn. Cái quân hàm thiếu tá, lại
là thiếu tá công an, thời đó giá trị lắm. Ông thiếu tá có dáng cao, gầy răng trắng,
sít nhau rất đẹp. Ông tiếp hắn như một thiếu tá trưởng khu tiếp kẻ phạm tội đã
hết hạn cải tạo: Bề trên, nghiêm khắc, lạnh lùng, khinh khỉnh vv
Ông chỉ ghế cho hắn ngồi:
– Thế nào” Mấy hôm nay anh có nghe đài không?
– Thưa thiếu tá, có ạ. Tôi nghe tin tức qua cái loa ở Ngã Bảy.
– Phấn khởi chứ?
Câu hỏi ấy có nghĩa là: Bọn chống Đảng, bọn phản cách mạng
các anh còn hoài nghi, còn mất lòng tin nữa không. Cách mạng đang tiến bước, những
bước quyết định. Các anh đã mở mắt ra chưa?
– Thưa ông, phấn khởi ạ.
Sao lại không phấn khởi khi cuộc chiến đẫm máu kéo dài ba
mươi năm có thể sẽ chấm dứt. Quả là không ngờ tình huống xảy ra nhanh như vậy
cùng với phương châm chiến lược nổi tiếng của ta: “Thần tốc” và phương châm chiến
lược nổi tiếng của Thiệu: “Tuỳ nghi di tản!”. Đã có lúc tưởng chiến tranh sẽ
kéo dài như Nam – Bắc phân tranh thời Trịnh-Nguyễn, như cuộc chiến trăm năm của
Pháp. Hy vọng đây là lần đổ máu cuối cùng. Để lại sống trong hoà thuận. Để người
đất mũi Cà Mau và người vùng biên giới Lạng Sơn gặp nhau có thể vỗ vai nhau, gọi
nhau là người anh em. Bởi vì chẳng bao giờ một người đánh cá Phan Thiết lại
nghĩ phải đi giết chết người thợ sơn tràng Bắc Giang và ngược lại. Chiến tranh
là kế tục của chính trị. Đây là cuộc chiến của hai ý thức hệ, của hai hệ thống,
đã có những lúc tưởng không có ngày cuối cùng, cuộc chiến dài nhất thế kỷ này
có thể sắp kết thúc. Để có thể chấm dứt canh vay tuổi quân, cảnh làng xóm vắng
ngắt thanh niên, cảnh xương máu trộn với bùn đất Trường Sơn. Những bà mẹ khóc
con, những người vợ trẻ goá chồng đã là nhiều quá rồi trên dất nước này. Chiến
tranh còn kéo theo nó bao nhiêu thứ. Chiến tranh ắt phải có người bạn đồng
hành: Tù đầy. Không thể nào khác được. Dù nó xảy ra ở đâu. Hắn khẳng định phát
hiện của mình. Chân lý ấy hắn đã khám phá ra bằng chính cuộc đời hắn. Sau này
khi nghe tin ở nước nào trên thế giới đang có chiến tranh, hắn nghĩ ngay đến những
nhà tù tất nhiên phải có ở nơi ấy nghĩ đến rất nhiều người đau khổ và oan khuất
bị lưu đầy tăm tối, dù màu da nào, dù chưa biết mặt, nhưng đều là anh em, những
người như hắn đã âm thầm góp vào cuộc chiến cái quí giá nhất của đời mình: Tự
do.
Chính lúc đang ngồi với ông Khuổng, hắn lại nghiền ngẫm và khẳng
định “công lao” của hắn đã đi tù để đóng góp vào chiến thắng. Không ai có thể
bác bỏ được điều ấy. Không ai có thể tước đi của hắn niềm tự hào nhục nhã hắn
có. Ông Khuổng chuyển giọng:
– Hôm nay chúng tôi mời anh ra đây để thông báo với anh một
việc.
Đó là giọng nói của nhà đương cục. Ông lạnh lùng nhìn hắn:
– Chúng tôi đã quyết định: Anh không được đi làm.
Hắn choáng váng. Lúc đó hắn choáng váng.
Nhưng sau này nghĩ lại hắn lại thấy đó là những lời thành thật,
dễ nghe. Hắn vẫn thường ao ước được nghe một câu nói thẳng thắn của các ông
công an:
“Tao giết mày đây. Tao đang giết mày”. Thế là gọi sự việc bằng
tên của nó. Là sự thẳng thắn, thành thật. Không giả dối, không đạo đức giả. Dù
sao cũng dễ chịu hơn nhịều so với giọng điệu bi thương: “Chúng tôi giúp dỡ anh,
cảnh tỉnh anh, để anh khỏi trượt sâu vào con đường tội lỗi”. “Chúng tôi để chị
Tuấn về không học nữa vì các cháu còn bé, không ai bảo đảm”.
Hắn ngồi lặng đi.
Đã nghĩ rằng việc gì cũng có thể xảy đến với mình mà vẫn cứ lặng
đi. Những việc tốt đẹp thế làm sao lại có được. Bây giờ mới thật không ngạc
nhiên về bất cứ vấn đề gì nữa.
– Thưa thiếu tá, anh Trần thay mặt lãnh đạo thành phố, thay mặt
Sở Công an đã nói với tôi là tôi được đi làm ở cơ quan nhà nước, được làm những
việc phù hợp với khả năng…
Hắn nói và đau khổ nghĩ rằng: Lẽ ra trong buổi gặp ông Trần hắn
phải viết ngay vào một tờ giấy nội dung quan trọng ấy và xin ông Trần ký ngay
vào đó. Dù như vậy có lố bịch đi chăng nữa, có biểu hiện thiếu lòng tin đi
chăng nữa, bất lịch sự chăng nữa. Ông Khuổng không che giấu sự giễu cợt:
– Điều ấy anh đi mà hỏi anh Trần nhé. Còn tôi nói: Anh!
Không! Được! Đi! Làm!
Ông nói dằn từng tiếng, để nhấn mạnh tính xác thực, trọng lượng
của quyết định, giống cách nói của A Thềnh: Tôi! Không! Lậm!Cậm! Đâu! ông còn bồi
thê-m một đòn nữa. Hình như ông đoán được hắn đang nghĩ gì.
– Tôi đã chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không được ký giấy
cho anh đi làm.
Đúng là lúc ấy hắn đang nghĩ đến ông Hoàng. Ông Khuổng không cho hắn đi làm, ông Thưởng chịu bó tay, nhưng ông Hoàng thì chẳng đời nào. Ông Khuổng là ai, hẳn ông Hoàng không biết tới sự tồn tại của ông. Hắn nghĩ là hắn vẫn được đi làm, bất chấp ông Khuổng không cho hắn đi. Nhưng điều ông Khuổng vừa nói làm hắn hoảng sợ. Đúng là hắn phải chịu ông. Ông Hoàng cũng phải thua ông. Tiểu khu không xác nhận, không ký vào đơn, phòng lao động không thể nào cấp giấy cho hắn được. Một đòn chết tươi, không thể chống đỡ. Cái gót chân Asin mà các ông ấy đã nghiền ngắm rất kỹ. Hắn chỉ còn một con đường: Chết trong khi sống.
Hắn không thể chấp nhận điều ấy. Hắn tìm gặp ông Trần, nhưng
sao gặp được ông. Hắn vẫn tin rằng nếu gặp được ông Trần, mọi sự sẽ được giải
quyết. Hắn bảo với những người thân:.
– Chính ông Trần đã đồng ý cho tôi đi làm mà ông Khuổng lại bảo
thế.
Nhưng anh Thân lắc đầu:
– Ông Trần nói vậy thôi. Việc này là do chính ông Trần.
Hắn ngớ ra:
– Sao? Anh bảo gì?
Anh Thân cắm phẫn:
– Bố thằng Khuổng sống lại cũng không dám làm trái ý ông Trần.
– Nghĩa là…
– Nghĩa là ông Trần nói với chú thế thôi, sau đó ông Trần chỉ
thị cho thằng Khuổng những việc ngược lại để nó làm với chú.
Hắn cố bám vào một dẫn chứng khác:
– Cũng có thể chỉ là bọn trung gian. Như nhà em đang đi học bị
bọn Quảng, Lan gọi về dấy, ông Trần có biết đâu. Em nói, ông ấy cứ ngớ ra.
Anh Thân càng căm phẫn hơn:
– Cũng là ông Trần hết. Không có lệnh ông Trần, thằng Quảng
sao dám tự tiện gọi thím ấy về. Bố bảo!
Lúc bấy giờ hắn chưa tin ngay lời anh Thân. Hắn chỉ ngờ ngợ
thôi. Nhưng khi bình tĩnh lại, hắn suy xét và thấy anh Thân đúng. Nhất là sau
này khi ông Bượng đã về hưu, ông nói với hắn hết. Đúng là mọi điều đều ở ông Trần.
Sao ông ác thế Hắn không hiểu nổi. ác và xảo quyệt. Hắn chưa từng gặp một người
như ông.
Nhưng vậy sao ông lại gặp hắn, hứa hẹn với hắn?
Hắn suy nghĩ và thử đi tìm nguyên nhân. Tại ông Hoàng, nên
ông Trần phải làm động tác giả ấy. Cũng có thể đơn giản là ông muốn gặp hắn,
nhìn con người đã bị ông hại, nhìn cái xác chết còn muốn gượng gạo ngồi dậy.
Cũng có thể ông muốn tạo một dư luận tốt về mình trong thành phố, chuẩn bị cho
kỳ đại hội Đảng tới. Ông thâm hiểm thế, nào ai biết được vì sao ông gặp hắn. Chỉ
có điều chắc chắn là ông Khuổng không thù oán gì hắn chẳng bao giờ lại làm một
việc ngu ngốc là chống lại ông Trần, chống lại lãnh đạo thành phố. Điều ấy rõ
ràng như ông Khuổng không là một người điên vậy.
Đúng như hắn dự đoán. Ông Trần lên như diều. Từ giám đốc Sở Công an ông lên làm bí thư thành uỷ. Rồi ông lên trung ương, làm thứ trưởng. Ông đi thăm các báo. ảnh ông in trên trang nhất, ngay dưới măng-sét. Hắn hiểu đời hắn không còn chút hy vọng gì nữa. Và hắn buồn rầu nghĩ: Những người như ông Trần mà được tín nhiệm như vậy thì chẳng riêng gì đời hắn, đời bao người khác cũng không hy vọng nhiều nhặn gì đâu
Thế là hắn đã bị bịt kín mọi lối. Chỉ còn một chút ánh sáng ở
con đường dẫn đến ông Hoàng. Lại một lần nữa hắn được gặp ông Hoàng ở nhà khách
thành phố vào một buổi tối. (Gần như những dịp về công tác tại P, có điều kiện,
ông lại gặp hắn). Hắn thuật cho ông nghe mọi chuyện, từ chuyện ông Trần tới
chuyện ông Khuổng. Ông nghe và im lặng.
Hắn không thấy vẻ bực bội trên khuôn mặt nhân hậu của ông, mặc
dù rõ ràng như vậy là những người cán bộ cũ của ông gây ra việc oan trái nhưng
không chịu sửa. Hơn thế, họ còn quyết chống lại ông, tuyên chiến với ông. Hắn
lo sợ, vì hắn, ông đã bị xô đẩy vào một tình thế khó xử. Hắn nhìn ông như người
có lỗi.
Ông giở cặp, lấy bút giấy ra viết. Đó là bức thư gửi giám đốc,
bí thư đảng uỷ xí nghiệp đánh cá, nơi ông đã dự kiến cho hắn về làm việc. Là thủ
trưởng của ngành, việc ấy với ông không gặp khó khăn. Nhưng còn cái giấy của tiểu
khu. Ông hiểu chuyện ấy. Có lẽ chính ông sẽ phải xuất tướng để giải quyết cái
việc cỏn con mà quan trọng này. Người ta đi làm mà cũng không cho. Thật không
thể hiểu được. Cuộc sống sẽ ra sao, chế độ sẽ ra sao, nếu những việc như vậy tiếp
diễn, bất chấp đạo lý, dư luận và lý tưởng của Đảng… Đồng chí Tổng Bí thư nói nếu
nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà trong lòng không xúc động thì không còn là người cộng
sản nữa. Ông nghĩ tới điều ấy vì ông bỗng thấy mình đơn độc. Lòng con người với
con người xơ cứng lại rồi. Người ta dửng dưng trước những đau khổ xảy ra với
người khác. Hoặc ít nhất, người ta im lặng. Chẳng có bộ luật xử những người im
lặng trước nỗi đau khổ của người khác. Nhưng phải thấy đó là điều đáng sợ đối với
xã hội. Đó là sự đồng loã, là môi trường để cho cái ác phát triển”. “Thương người
như thể thương thân”. Câu ấy không thấy nhắc lại nữa. Vì nó không mang tính
giai cấp. Hay xã hội ta tốt đẹp, không có những con người đáng thương nữa?
Đôi mắt ông đượm buồn, và hắn biết hắn là nguyên nhân nỗi buồn
của ông. Hắn đỡ lá thư ông vừa viết gửi lãnh đạo xí nghiệp đánh cá, nghe ông
căn dặn, động viên. Hắn muốn quì xuống cám ơn ông. Ra về, hắn nghĩ về ông. Ông
như một nốt nhạc lạc lõng trơng dàn nhạc. Hẳn nhiều lúc ông thấy mình rất cô
đơn…
Ngọc không nói gì khi xem bức thư của ông Hoàng. Nàng lại thắp
hương. Bên cạnh cái nhìn trần thế giờ đây nàng có cái nhìn xa vắng. Cái nhìn hướng
về một nơi nào đó xa vời, thăm thẳm. Nàng bảo hắn:
– Mai anh xuống xí nghiệp, đưa thư của ông Hoàng đi. Ngày mai
tốt ngày đấy.
Giờ thì Ngọc tính toán rất kỹ ngày tốt ngày xấu. Hắn đi về
phía cuối thành phố, nơi đặt trụ sở của xí nghiệp đánh cá với bức thư của ông
Hoàng. Và những kỷ niệm lại đến với hắn. Hàng phi lao, nơi đây một lần hắn đã
mua mấy cân cá mực vào dịp mồng hai tháng Chín do anh thông tin viên của xí
nghiệp đã làm sẵn hoá đơn. Hàng phi lao đã to thế này, nhưng hắn vẫn nhận ra nhờ
khúc đường nhựa lượn cong và con lạch dẫn nước thải đen chảy về phía bờ sông. Hắn
cân mực chính ở chỗ này, chỗ có cái cống này. Và bãi sú bỗng hiện ra. Một dòng
sông mải miết trôi xuôi.
Những cánh hải âu bay lượn. Đó chính là điều hắn vẫn nghĩ tới
những trong ngày đêm bị nhốt ở một lòng chảo giữa rừng. Hắn như ngửi thấy mùi
thoáng đãng của biển cả.
Điều đó chỉ tăng thêm sự hồi hộp khi hắn tới gặp ông giám đốc,
ông bí thư đảng uỷ để đưa bức thư của ông Hoàng. ở đây người ta đã biết mọi
chuyện về hắn. Ông Hoàng đã nói chuyện. Họ nhìn hắn dưới góc độ của ông Hoàng.
Thật vô cùng thuận lợi.
Ông trưởng phòng tổ chức tiếp hắn, tôn trọng, cởi mở và thông
cảm. Thật khác với những ông trưởng phòng tổ chức được miêu tả trong các sách
thời đó. Thời đó người ta bắt đầu chán kiểu viết xuôi chiều. Người ta viết và cũng
muốn gai góc trong những điều mình viết. Bí thư đảng uỷ, giám đốc thì không dám
đụng đến vì giám đốc đại diện cho chính quyền, bí thư đại diện cho Đảng. Đụng đến
các ông ấy là đụng đến chế độ, là khốn khổ cả đời. Các ông ấy không thể có khuyết
điểm nhất là khi đã được điển hình hoá trong văn học. Nếu có đáng phê bình thì
chỉ có thể là “đồng chí quá thẳng thắn thành ra đôi khi hơi nóng nảy”, hoặc như
Bình nói: “Đồng chí làm việc nhiều quá, khuya quá, ít chú ý giữ gìn sức khoẻ để
làm việc lâu dài. Sức khoẻ của đồng chí không còn là của riêng đồng chí. Nó thuộc
về nhân dân. Nó là tài sản của nhân dân. Tôi thẳng thắn phê bình đồng chí. Dù đồng
chí có hiểu nhầm tôi, nhưng tôi có bổn phận…” Vậy thì đành lôi mấy ông trưởng
phòng tổ chức ra hành, vì ông là lãnh đạo, nhưng chỉ ở mức độ nào thôi. Trên
ông đã có những người mẫu về đạo đức, về trí tuệ, về tác phong. Đó là giám đốc,
là bí thư, những người đại diện toàn năng cho chế độ.
Ông trưởng phòng tổ chức nói rất thành thật:
– Có chỉ thị trực tiếp của anh Hoàng, chúng tôi chấp hành
thôi. Không có vấn đề gì đâu. Anh không phải lo lắng gì cả. Anh về làm cho
chúng tôi cái đơn và giấy giới thiệu của phòng lao động khu phố.
ắn chết lặng. Hắn đã biết đó là thủ tục bắt buộc phải có,
nhưng vẫn hy vọng mình được ngoại lệ, vì ông Hoàng giới thiệu và đảm bảo. Hắn
càng hiểu cái đòn của ông Khuổng (thực ra là của ông Trần – Ông Trần đánh chưởng
qua tay ông Khuổng) là hiểm. Ngón đòn hắn không thể nào đỡ được. Đứng trước
ngón hiểm đó hắn chỉ có thổ huyết. Cuộc đấu này giữa hắn và mấy ông không đồng
cân đồng lạng. Hắn đã bị đo ván, không gượng dậy được, mà mấy ông còn xúm lại
chơi đòn hội chợ diệt cho đến chết. Biết rằng không bao giờ ông Trần cho hắn gặp
nữa, nhưng hắn vẫn đến Sở, đăng ký xin gặp. Còn biết bấu víu vào đâu. Khi ông
Khuổng nói: “Tôi chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không được ký giấy cho anh
đi làm”, thì chỉ có ông Trần mới giải được câu bùa chú đó thôi. Hắn không được
gặp ông và hắn nghe tin ông đi học Nguyễn ái Quốc. Đó là cửa ải ông bắt buộc phải
qua, là Vũ Môn để cá chép hoá rồng.
Một chút hy vọng mơ hồ, mỏng manh mà hắn cố nhen nhóm đã tắt
lịm.
Thôi. Đành chết trong cuộc sống.
Chương 59
Tôi tin lời ông bác sĩ nào đó đã nói với Chủy, nhưng tôi nghĩ
đó còn là vấn đề khác nữa. Đó chính là sự sống đã thắng cái chết. Cuộc sống mới
đủ sức xoá đi những đau khổ cũ. Cuộc sống mới tuy còn cả lo âu và những khó
khăn, nhưng có rất nhiều niềm vui lớn.
Hắn đọc lại một lần nữa những câu cuối cùng trong truyện ngắn
Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương của hắn. Truyện kể về một chị công nhân
xi-măng hoạt động bí mật bị Pháp bắt, tra tấn dã man. Đến lúc lấy chồng (một
anh thợ lò nung) mỗi khi mang thai chị lại bị ngất và thai sẩy. Trong những lần
ngất đi ấy những vết giày đinh phòng nhì Pháp giẫm lên chị năm nào lại hiện về
rõ mồn một, tím bầm trên người chi những lỗ tròn nhỏ của đầu đinh, cái gót hình
vành cung có cá sắt và cái mũi bè bè của đôi giày lính. Những vết giày đinh ở bắp
tay, ở lưng, ở cổ, ở ngực chị. Chiến tranh qua đi nhưng cái bóng dáng ghê tởm của
nó chưa chịu buông tha người ta ngay đâu. Sau nhiều lần sa sảy, cuối cùng chị
cũng đã vượt qua được tất cả, cái mầm sống trong người chị cũng vượt qua được tất
cả. Chị sinh con. Mẹ tròn con vuông. Và từ ấy những vết giày đinh trên người chị
biến mất. Những cơn ngất bất thình lình biến mất. Ông bác sĩ bảo đó là sự chuyển
hoá trong cơ thể người phụ nữ sau khi sinh đẻ. Nhưng hắn nghĩ đấy là sự sống đã
thắng cái chết, cuộc sống mới đủ sức xoá đi những đau khổ cũ…
Truyện viết lấy ý từ một cô gái Lâm Động, bí thư chi đoàn khi
hắn từ báo T về Lâm Động viết bài cho số báo xuân. Cái chi tiết những vết giày
đinh tuồng như bịa đặt, nhưng lại là sự thật với cô bí thư chi đoàn, cô gái
cùng quê, bạn hắn. Thời ấy cứ cùng lứa tuổi cùng chí hướng gặp nhau là bè bạn…
Hắn nhìn lại dòng ngày tháng hắn đã ghi khi hoàn thành truyện
ngắn. Năm tháng ấy chẳng gợi một ý niệm gì. Một ngày nắng hay một ngày mưa. Lúc
viết xong là chiều, sáng hay đêm khuya. Chẳng làm sao nhớ được.
Ngồi mơ màng một lúc, hắn gấp mấy tờ giấy đánh máy lại, cho
vào túi ni-lông đựng thư từ. Đó là những trang bản thảo của hắn còn giữ lại được
trong số trên một ngàn trang đã bị tịch thu. Nhớ Phượng. Phượng đánh máy thêm một
bản mà không ngờ đó là bản duy nhất còn lại đốl với chính người đã viết ra nó.
Hắn đọc Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương lần này là lần thứ
ba. Ba lần đọc. Mỗi lần một ý nghĩ khác nhau. Đã đành “văn mình, vợ người”,
nhưng hắn đọc lại không phẫi để thưởng thức, nhấm nháp văn chương của hắn. Hắn
đọc để trở về quá khứ. Đời hắn bây giờ chỉ còn quá khứ. Truyện ngắn ấy như hắn
nghĩ, nói được hắn. (Viết bao giờ cũng là sự tự thể hiện mình, dù viết về ai, về
điều gì. Hắn lúc nào cũng tin như vậy). Nó nói được khát vọng của hắn, của mọi
người về một cuộc sống tốt đẹp hơn, niềm tin vào cuộc sống mới đó. Khi hỏi
cung, các ông công an có vặn vẹo hắn về quan diểm, lập trường, nhìn đời den tối,
kêu ca, bất mãn… hắn đã dẫn chứng phản bác lại bằng những trang viết của hắn mà
các ông ấy đã tịch thu, trong đó có “Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương”. (Hắn
rất muốn nói thẳng với các ông ấy rằng, hắn có quyền bất mãn với những cái xấu
và sự bất mãn đó là tích cực, là cách mạng, nhưng không dám. Thôi, đừng khiêu
khích các ông ấy làm gì).
“Cuộc sống mới tuy còn cả lo âu và những khó khăn, nhưng có rất
nhiều niềm vui lớn”. Ngày xưa hắn thành thật tin như vậy. Bây giờ đọc lại hắn
thấy mình quá ngây thơ. Nỗi đau còn quá nhiều. Nỗi đau còn quá lớn. Nó chỉ thay
đổi vẻ mặt, thay đổi y phục mà thôi. Nhiều người đã nhận ra điều ấy, trong đó
có hắn. Nhưng còn rất nhiều người chưa nhìn thấy. Lại có vấn đề “đôi mắt” .
“Đôi mắt ngày ấy còn là đôi mắt trẻ thơ mà đã bị qui là phản
động rồi. Và đó chính là cái mày gọi là cuộc sống mới”. Hắn chua chát nghĩ. Hắn
lẩm bẩm rằng chính bọn hắn phải chịu trách nhiệm về những gì đang xảy ra trái với
những mục tiêu của cách mạng. Hắn cùng bao người đã thành thật ca ngợi cách mạng.
Đẩy lên thành sự tô hồng. Rồi đẩy quá nhanh tốc độ của sự tô hồng mà thành thật
tin rằng mình chỉ nói sự thật hoặc báo trước sự thật. Để sau này nhìn ra thì
không hãm được nữa. Tốc độ ấy cuốn theo cả những người đã tạo ra nó. Bọn hắn vừa
là thủ phạm vừa là nạn nhân. Và hắn lại thấy đổ vỡ, trống rỗng. Một lỗ sâu hoác,
không đáy. Cảm giác trống rỗng của thất vọng, của niềm tin sụp đổ. Thà cứ được
là con chiên loá mắt trước Chúa, trước nước thiên đàng, còn hơn bỗng nhiên chẳng
thấy ảo ảnh đâu mà chỉ có thực tế trần trụi. Và hắn bỗng nhớ tới Dự. Hẳn Dự
cũng đã trải qua những cảm giác ấy. Cho dù có đơn giản hơn, nhưng vẫn là những
cảm giác ấy.
Đó là những gì hắn nghĩ khi đọc lại truyện hắn viết lần thứ
nhất…
Lần thứ hai hắn đọc để rồi đem đốt đi. Sau khi xuống xí nghiệp
đánh cá trở về, hắn ra phòng lao động gặp ông Thưởng, hỏi ông về cái giấy giới
thiệu đi làm. Ông Thưởng nói như người có lỗi:
– Thằng Khuổng hiểm quá. Nó rất cáo. Nó không dám đặt vấn đề
với tôi, mà nó nói với tiểu khu chúng tôi không thể làm được hồ sơ cho anh. Đó
là nguyên tắc.
Rồi ông tiếp:
– Tôi cũng đã xuống tiểu khu. Đúng là thằng Khuổng đã chỉ thị
cho họ như vậy, nhân danh khu uỷ. Bậy bạ thế chứ. Tôi cũng ở trong khu uỷ . Khu
uỷ nào có nghị quyết như vậy.
Hắn cũng đã làm đơn lên tiểu khu, xin được đi làm. Ông phụ
trách tiểu khu nhìn hắn vừa như ái ngại, vừa như khinh bỉ:
– Hiện nay chưa có việc gi cho anh đi làm đâu.
Hắn nói rõ là có nơi nhận hắn. Ông tiểu khu như đã biết mọi
chuyện:
– Đâu thế mà được. Cơ quan, xí nghiệp nào cần người phải có
chỉ tiêu về phòng lao động. Phòng lao động phân bổ cho các tiểu khu. Trên cơ sở
ấy tiểu khu mới tuyển. Anh hiểu không? Không thể làm sai nguyên tắc được.
Hắn lại xuống xí nghiệp, chầu chực gặp ông trưởng phòng tổ chức.
Ông trưởng phòng tổ chức khẳng định một cách rất vô tư rằng không có giấy của
phòng lao động thì không thể tiếp nhận hắn dù có chỉ thị trực tiếp của Tổng cục
trưởng.
– Với lại tôi cũng không giấu anh làm gì. Bên an ninh họ can
thiệp vào chuyện của anh dữ lắm. Chưa đâu vào đâu, họ đã xuống đây hỏi han, dò
xét và nói dứt khoát anh chỉ đựợc đi lao động.
Hắn chân tình nói với ông Thưởng:
– Tôi biết anh đối với tôi rất tốt, nhưng việc này ngoài ý muốn
của anh. Tôi chẳng bao giờ quên được tình cảm của anh dành cho tôi.
Hắn hoàn toàn tuyệt vọng. Nguyền rủa cuộc đời, nguyền rủa số
phận, nguyền rủa những người rượt theo đánh hắn khi hắn đã ngã gục, hắn quyết
làm lại từ đầu. Hắn phải quên hắn đi. Phải chính mình cũng không biết mình là
ai như già Đô đã làm. Cài trái cửa, hắn lấy bộ quần áo tù ra ngắm nghía, mặc
vào người và đứng trước gương. Tấm gương tây vuông vắn mà thằng Hiệp đánh vỡ hồi
nó lên ba, hắn giữ lại mảnh to nhất, vẫn dựng trên bệ lò sưởi. Trong mảnh gương
vỡ, một anh tù CR 880 viết bằng sơn đỏ trên ngực. Chiếc quần dải rút xám, số đỏ
ngang đùi CR 880. Đây mới thật là hắn. Là cái cuộc đời dành cho hắn. Là cái đã
tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại cùng với hắn. Thành thật thú hết tội lỗi
còn giấu giếm hoặc chưa nói hết. Thật thà tố cáo tội lỗi của đồng phạm và bọn
phản cách mạng mà mình biết dù chúng đã bị bắt vào trại hay còn ở ngoài xã hội…
Nội quy đấy. Nào. Thử xem còn thuộc nội qui không. Hắn lẩm nhẩm
trong óc và lẩm nhẩm thành lời lúc nào chính hắn cũng không biết.
Điều 8. Không được trao đổi tội lỗi cảa mình với người cùng
giam. Không được trao đổi khi đi khai cung về hoặc nói những điều đã khai cho
người khác biết.
Điều 9. Cấm mang vào trại những loại kim khí, dao, que sắt, vật
nhọn sắc, gạch đá, dây thừng, thuốc nổ, dây cháy chậm, mìn, kíp mìn, các loại
chất độc nước hay bột, quần áo bộ đội, cảnh sát, rượu, thuốc phiện. Không mang
vào buồng giam những loại giấy bút, sách vở, diêm, bật lửa, dao cạo râu nếu
không được phép của ban giám thị.
Điều 10. Không được lén lút mang giấy thông hành, chứng minh
thư, các loại giấy chứng nhận khác, tiền nong vàng bạc vào trại. Ai có tiền,
vàng bạc phải ghi lưu ký, lấy biên lai. Nêú có thể thì cho gửi về gia đình.
Điều 11. Không được tự ý đổi chỗ nằm và đi quá phạm vi đường
cấm qui định ở trong trại. Không được sang khu vực khác, buồng khác. Không được
đứng hát, nói chuyện, gọi tên người khác cùng giam ở khu vực khác trong trại.
Không được tự ý mở cửa sổ con ở buồng giam riêng (xà lim).
Điều 12. Không được dùng bất cử hình thức gì để thông cung
liên lạc giữa người nọ với người kia ở trong và ngoài trại.
Điều 13. Không được chuyển thư từ đồ vật cho bất cứ ai…
Hoá ra hắn vẫn nhớ rất rõ từng điều trong bản nội qui. Thì đã
bao đêm mất ngủ, hắn cứ đứng ở buồng giam, trước cái bể đựng nước uống, cạnh chỗ
nhóin trung tâm nằm, nơi sạch nhất, xa nhà mét nhất, thoáng đãng nhất, học 37
điều nội qui ghi kín một bức tường. Không phải một mình hắn. Nhiều người nữa. Đứng
im lặng trong đêm khuya dưới ánh điện vàng vọt lầm rầm như người cầu nguyện. Đứng
im lặng ở lối đi giữa hai sàn gỗ, hai bên là hai dãy màn thấp sít nhau. Lúc thì
tất cả buồng như thiếp đi. Lúc rộ lên những tiếng mê sảng: “Khéo ngã! Khéo ngã!
Con!”. “ối giời ơi! Lạy các ông. Đau quá! ự. ự”. “Mẹ ơi! Con ăn nhé!”. Lạ nhất
là mọi người cùng thi nhau nói mê một lúc. Rồi những tiếng lầu bầu, tiếng nghiến
răng, tiếng thở dài, chóp chép mồm khi trở mình. Và lại im bặt cùng một lúc. Những
khi tù vào nhiều (thường là trước Tết) phải nằm ngủ dưới nền xi-măng ẩm ướt gầm
sàn, chân thò ra cả chỗ người đứng học nội quy, nơi ấy có một rãnh nước chạy dọc
buồng giam.
Chỗ trước bể nước ấy lúc nào cũng có nhiều người đứng. Đứng một
lúc tê chân lại về chỗ, chui vào màn. Nằm ê ẩm lại ra đấy đứng. Đứng đó khi đã
có kẻng cấm là phạm nội quy. Nhưng đứng đó học nội quy thì được, thì không phải
là vi phạm nội quy. Và dù bất kỳ lúc nào dậy ra đấy lẩm nhẩm “sôi kinh nấu sử”
cũng thấy hai ảnh tù trực ca ngồi giữa buồng giam. Cạnh cái sọt đựng điếu cày,
gục đầu xuống gối im lặng. Hắn quên nhiều thứ. Trí óc hắn mụ mị, nhưng những điều
trong bản nội quy hắn vẫn nhớ rành rành vì nó nhập tâm rồi! Hắn còn nhớ những
điều ấy được viết như thế nào trên tường, đến chữ nào thì xuống dòng, chữ nào
đã tróc sơn. Hệt như hắn vẫn nhớ cả tranh vẽ minh hoạ đi kèm theo những bài học
trong các sách “Đồng ấu”, lớp Dự Bị khi hắn mới lên bảy, lên tám đi học ở trường
làng và giờ đây vẫn có thể đọc thông một mạch: “Năm nay tôi lên bảy. Tôi đã lớn.
Tôi không chơi đùa lêu lổng như những năm còn bé…” “Thầy bảo anh Xuân đọc. Anh
đứng dậy, hai tay cầm quyển sách…” Hay Nhà ga. “Nhà ga là nơi xe lửa đậu để cho
khách lên xuống. Ga nào cũng có chỗ bán vé, chỗ cân hàng…”
Hắn phấn khởi vì trí nhớ hắn vẫn khá, dù chỉ khá ở mặt nhớ nội
quy nhà tù. Và hắn lại tìm cách thử trí nhớ một lần nữa. Hắn tự bảo: Không đọc
thứ tự Đọc thứ tự thì ai chả thuộc. Đọc ngay điều 25 Cấm ăn những thức ăn thiu,
sống, rau sống quả xanh và các thứ mà ban giám thị cấm. Đúng! Điều 18 Cấm không
được tự ý sửa chữa quần áo của trại phát hoặc cho mượn. Đúng rồi. Nhân đôi lên
xem nào 18 nhân 2 là 36. Điều 36! Bị can là phạm nhân nào vi phạm nội quy này
tuỳ theo mức dộ nặng nhẹ mà xử lý theo các hình thức sau:
– Cảnh cáo ghi hồ sơ.
– Đình chỉ viết thư, nhận quà có thời hạn.
-Phạt giam buồng riêng. Cùm một chân từ l đến 7 ngày.
– Truy tố trước pháp luật.
Đọc luôn điều 37 đi. Điều 37. Điều cuối cùng. Chính dòng này
chữ M hoa ở đầu câu bị tróc sơn đây. Mỗi bị can và phạm nhân được vào trại
trong vòng hai ngày phải học tập nội quy này để nghiêm chỉnh chấp hành, tuân theo.
Rõ ràng thừa chữ được. Được bị bắt. Được vào trại giam. Được
đóng thuế. Được đi dân công. Nhưng đứng ở góc độ nào mà phân tích thì chữ được
dùng đúng, chứ không sai đâu, không thừa đâu. Được vào trại giam nghĩa là được
cứu vớt, được ngăn chặn. Để khỏi mắc những tội to hơn, khỏi phải tù lâu hơn. Đó
là vì lợi ích chính mình. Được đóng thuế xây dựng đất nước. Đất nước của ai? Của
mình. Đóng thuế là xây dựng cuộc sống cho chính mình. Đây là vấn đề chỗ đứng.
Là lập trường. Có lập trường đúng mới phân biệt được hiện tượng với bản chất.
Cùng là hiện tượng đóng thuế nhưng khác nhau về bản chất. Cùng là việc đi phu,
nhưng với ta là nghĩa vụ công dân. Cũng là hiện tượng đi tù. nhưng khác nhau về
bản chất. Mình đi tù cho chính mình. Vì tương lai của mình. Mà cũng không phải
là đi tù. Đấy là đi cải tạo. Chính xác lắm. Không cãi vào đâu được. ở nước ta
ai cũng là nhà ngôn ngữ học.
Tự tra khảo mình về bản nội quy, lan man sang chuyện chữ
nghĩa, hắn lại lấy thư ra đọc. Thư con Nguyệt năm nó lên 6 tuổi. Thư đầu tiên của
Ngọc gửi vào xà lim 76 báo tin Ngọc mang bầu thằng Dương. Thư ông Chân gửi vào
trại cho hắn. Và đọc lại Vợ chồng người thợ xóm Chiêu Thương một lần nữa. Rồi đốt.
Phải chặt bằng được quãng đời trước quăng đi. Quên đi. Đừng luyến tiếc làm gì.
Hắn đưa xếp giấy đánh máy bản thảo vào gần ngọn đèn không có thông phong. Tay hắn
run lẩy bẩy. Một góc giấy bắt lửa. Hắn nhìn ngọn lửa vàng đang liếm vào góc giấy
mà thấy người bỏng rát lên như chính hắn đang bị đốt cháy. Mồ hôi đầm đìa, hắn
vội vàng lấy – cả bàn tay ấp lên lửa. Hắn gục đầu im lặng.
Hôm đó nhà vắng. Ngọc đi làm. Lũ trẻ đi học. Bé Dương về quê
với ông bà từ tuần trước. Hắn xem lại những trang bản thảo. Ngọn lửa mới bắt
vào phần lề. Cũng có trang mất ít chữ.
Hắn hiểu rằng hắn vẫn cứ là hắn. Chẳng thể nào khác được. Chẳng
thể nào đốt cháy quá khứ thành tro. Chẳng thể nào thay hết máu trong người,
thay cả tim, cả óc. Không thể đầu hàng. Hắn bỗng nhớ đến già Đô và nghĩ: Không
biết già có đầu hàng không? Hay chỉ thua thôi. Đi trên đường phố hắn để ý tìm
bóng dáng quen thuộc của già, nhưng không thấy. Hắn đau xót nghĩ: Có thể già đã
chết rồi. Đám ma già có những ai? Có đông bằng đám ma Xìn Cắm, đám ma Ôtenlô
không?
Hắn đang định bàn với Ngọc, bán mấy cân mì lấy tiền đi Hà Nội
gặp ông Hoàng, thì Bình tới. Bình bảo Bình nhận cho hắn một suất hợp đồng với
nhà xuất bản về tập sách những điển hình tiên tiến, mà trong đó không thể thiếu
được người gác đèn biển. Hắn viết cái bút ký về người gác đèn. Hắn đọc Vợ chồng
người thợ xóm Chiêu Thương một lần nữa để tìm lại cái hơi văn đã quên đi.
“Kỷ niệm về biển, kỷ niệm về người”. Anh Lê. Bình xuýt xoa với
cái tít.” Khá quá. Mày vẫn là thằng đặt tít vô địch”. Không phải ngẫu nhiên có
cái tên ấy đâu Bình ơi. Biển chỉ còn là kỷ niệm. Người cũng chỉ còn là kỷ niệm.
Kỷ niệm xa vời và đã chết hẳn rồi. Hắn viết. Say mê. Dồn nén. Không giống cái
truyện ký trước cũng viết về người gác đèn, nặng về thuật thành tích, đây là những
khao khát khi còn đang trong lò lửa luyện đan thèm một ngọn gió mát rượi hơi nước
từ chân trời thổi đến. Là hôm đi lấy than trong rừng ở trại QN, nhìn thấy hai
cô gái Mán váy áo hoa văn sặc sỡ, vòng bạc sáng loá, lông mày cạo nhàn nước da
vàng vọt, bỗng nhiên thấy xao xuyến, hiểu rằng một nửa thế giới là phái đẹp và
mình đã đánh mất cuộc đời. Là hôm lấy phân xanh ở VQ, tự nhiên nghĩ tới con cá
mòi khô và ao ước nhặt được nó trên đường. Bài viết có con chim hải âu bị chém
cánh bay đến thả mình cạnh nhà đèn. Anh gác đèn nhận ra nó giữa hàng trăm nghìn
con hải âu khác. Có nỗi nhớ cồn cào một bàn tay bật công-tắc điện những lúc nhá
nhem để căn buồng sáng bừng lên… Hắn viết và biết rằng đây là lần cuối cùng hắn
còn viết được, viết hay. Hắn như bị hút vào trang giấy.
Và cũng trong một đêm khuya ngồi viết, hắn bỗng cảm thấy Ngọc
đứng sau lưng. Hắn ngửa người về phía sau, chạm đầu vào ngực nàng. Nàng ôm lấy
đầu hắn. Hắn nói như người bị bắt quả tang đang làm một việc xấu xa:
– Anh chỉ viết lần này nữa thôi.
Ngọc nói, thương xót:
– Không hay gì cái nghề này đâu. Nó đã làm chúng ta khổ cả đời
rồi.
Hắn viết rất nhanh. Chưa đầy một tuần lễ. Vừa nháp vừa chép lại.
Bình kêu lên:
– Trong sáng quá. Tao không ngờ mày vẫn trong sáng như vậy.
Bình ơi! Lòng chúng ta có bao giờ không trong sáng. Có bao giờ
chúng ta không yêu mến con người. Có bao giờ chúng ta căm ghét cuộc đời này. Có
bao giờ chúng ta thù ghét ca dao Bình nhìn tên tác giả: Anh Lê. Anh bảo:
– Đến một lúc nào đó phải công bố đây là sáng tác của mày. Phải
trả cho Xêda những cái gì của Xêda.
Có biết bao Xêda trên cuộc đời này. Hắn phải viết văn chui, đội
cái tên phải đổi của Bình. Bình phải đổi tên. Anh Lê. Và Lê Bàn thì đang cố làm
cho tên mình xuất hiện ở mọi nơi để nó trở thành quen thuộc. Báo tường ở tiểu
khu. Vài dòng lượm lặt gần xa đăng ở góc trang về những ai béo nhất thế giới,
ai nhổ nước bọt xa nhất thế giới. Bình được nói rõ: Vẫn được in nhưng phải đổi
tên. Còn Bàn thì không ai nói gì. Người ta chỉ không in của anh thôi. Tức là một
án treo lơ lửng. án treo có cái nguy hiểm là người ta lảng tránh anh như ngày
nay người ta xa lánh người bị bệnh AIDS nhưng cũng có cái lợi là không chính thức
tuyên án. Anh tận dụng điều này. “Nụ cười”, “Lựợm lặt gần xa”, ý kiến bạn đọc
yêu cầu không vứt chuột chết ra đường. Ký Lê Bàn. Tiến lên viết những bài nếp sống
văn hoá mới trên đài phát thanh. Cái loa Ngã Bảy thỉnh thoảng lại vang lên những
bài của Lê Bàn dạy mọi người cách chào hỏi, cách cảm ơn, cách xin lửa hút thuốc
lá, cách vào bệnh viện thăm bệnh nhân. Dù đang khốn nạn nhưng vì cái tính hài
hước chưa chết hẳn, hắn bảo Ngọc và lũ trẻ:
– Im. Nghe bác Lê Bàn dạy mọi người cách hỏi thăm đường…
Chương trình “Phục hồi nhân phẩm”của Lê Bàn còn kéo dài kiên
trì, dai dẳng.
Phải nói Lê Bàn có một khả năng vô tận về mặt này. Tiến lên một
bước cao hơn, anh viết bài dự thi do Mặt trận Tổ quốc tổ chức. Giữa những bài
viết của các vị hoà thượng, linh mục, các nhân sĩ, vàn chương anh cứ lấp lánh
lên. Anh trúng giải và so với các vị cai quản các xứ đạo các thượng thư triều
Nguyễn, anh còn là con nít. Anh ăn thêm một giải nữa, giải dành cho những người
viết văn trẻ vì anh chưa đến sáu mươi hai. Trong thời gian ấy anh vẫn viết
chui, đứng tên những người mới viết. Giao dịch với nhà xuất bản là họ, lĩnh nhuận
bút là họ, anh được một phần họ đưa cho. Đã có người nhờ anh mà trở thành tác
giả quen thuộc, những uỷ viên chấp hành chi hội văn nghệ địa phương. Làm thuê
cho những tác giả mới, anh có giọng văn của người mới viết, anh biết phải viết
như thế nào trong một đoạn để nhà xuất bản có thể góp ý yêu cầu sửa chữa.
Hẳn là có nhiều Xêda. Những gì phải trả cho Xêda hẳn là không
ít. Nhưng đến bao giờ điều ấy được thực hiện? Nó quá xa vời, nó huyền viễn theo
cách nói của bố.
Bình đánh giá cao sáng tác mới của hắn, nhưng hắn lại coi là
một thứ tầm phào. Ai cũng viết được cái hắn vừa viết xong. Hắn vẫn có tật ấy.
Suy nghĩ về những điều đã viết và thể hiện nó trên giấy giống như một trò thi đấu
thể thao. Thích thú. Say sưa. Và như mê mụ đi. Nhưng tới khi viết xong thì
chán. (Khi in xong lại càng chán nữa). Chán mình vì mình chỉ làm được có vậy.
Thấy rõ khả năng hạn chế của mình. (Rổi đi tuyên bố sẽ bẻ bút, không viết nữa để
bị kết luận là bất mãn và biến thành tội phạm).
Đưa bản thảo cho Bình, hắn coi như việc ấy đã kết thúc. Giờ đây có mong là mong sách in ra để được ít đồng nhuận bút. Bài này nhà xuất bản có tính mạt hạng cũng phải trên trăm đồng. ý nghĩ ấy động viên hắn nhiều hơn.
Rừng lại đang ở trước mặt hắn. Không phải một khu rừng thông
thường. Rừng già QN đang ở trước mặt hắn. Hai năm sống ở QN hắn chỉ nhìn thấy
nó từ góc độ đứng trong lòng chảo của trại. Hôm nay đi từ dốc U vào hắn nhận
ngay ra nó. Một dải xanh thẫm, chất ngất, nhấp nhô, uyển chuyển giàng hàng,
trùng điệp. Hơi nước, hơi sương hay mưa bụi mờ mờ. Những sắc độ thẫm nhạt tuỳ
theo nhưng đoạn uốn lượn của rừng. Rừng già nào chẳng vậy. Thế nhưng dù lần đầu
tiên đi từ phía U này, lần đầu tiên từ góc độ ấy, hắn vẫn nhận ra nơi hắn ở
trong lò nung luyện. Bên kia nếp rừng lượn này là lòng chảo đã lưu đầy bọn hắn,
ở nơi ấy rừng vút lên bốn chung quanh, ở nơi ấy Dần khi ngồi lê nhổ cỏ đã hỏi hắn:
– Thế này là làm cỏ vê đây phải không?
Hắn đã nói về từ corvée mà ta phiên âm là cỏ vê dùng để chỉ một
công việc khổ sai. Chẳng cứ gì nhổ cỏ, chẳng cứ gì trong tù, ngoài đời cũng có
bao người phải làm cỏ vê.
Đỉnh núi chất ngất kia là nơi Sáng đã ở năm ngày liền khi trốn
trại mà không sao vượt được. Chỗ nào cũng có người, có chó. Và những viên đạn
đã lên nòng. Cứ lối này đi vào là đến trại cá. Nhà bò ở phía bên kia. Chỗ Gò-Thằng-Công
đi xuyên qua một rẻo rừng, một nương sắn, tới cái dốc xoai xoải cạnh tường rào
trại, Lê Bá Di đã cho hắn bãi cứt trâu ở đó. Còn lối ra trại, lối ấy qua lò
vôi, tới một con đường rải đá đối xứng với con đường hắn đang đi tới. Hắn đã mấy
lần đi lối ấy. Một lần từ 75 đi vào. Một lần từ đó về 75, tưởng được tha. Rồi lại
từ 75 trở lại, sau mấy ngày nằm khàn ở 75. Một lần nữa đi ra, khoá chung tay với
già Đô, ngược lên VQ.
Hắn vừa đi vừa nhớ lại. Đường mòn ăn vào bìa rừng xoai xoải.
Cỏ quệt vào chân. Lá cây vờn ra, có những cành tưởng đánh vào mặt làm hắn quay
vội đi tránh theo phản xạ tự nhiên.
Một bên là rừng cao vút. Một bên là suối. Suối QN không trộn
đi đâu được. Nước trong và cạn. Chảy nhanh trên những hòn sỏi, hòn cuội như xếp
ở đáy suối. Những hòn đá to rải rác rẽ nước làm hai. Những cây cao bên bờ xoè
tán lá. Thấp thấp bên suối là những cây vú bò, cây lưỡi hổ, mua và dương sỉ.
Lần theo con suối này sẽ đến được khu nuôi cá. ở đó có một
người tù huyền thoại mà hắn đã gặp một lần cách đây ba năm, khi hắn được làm
chân coi vườn. Trời ở đó rộng ra. Đất ở đó rộng ra. Núi thấp dần khiến có cảm
giác rừng như nới rộng vòng vây. Một mình hắn từ vườn trong đi tới. Nghe rõ tiếng
chân dội vào rừng. Hôm ấy là chủ nhật. Chặt ít cải bắp cho bếp trại và hái nửa
lồ su su cho bếp cán bộ, hắn về bếp lấy cơm. ăn xong, lẽ ra cầm màn xuống suối
đơm cá, hắn băng rừng về phía trại cá, về phía người tù huyền thoại.
Hăm hở quên cả mệt nhọc, quên cả thân phận tù đầy hắn đi và
nghĩ đến Cần, người tù lâu nhất nhì trong cả nước. Người tù cùng một trại nhưng
mấy ai biết mặt. Anh ta cũng giống như châu úc hồi đầu thế kỷ người ta nói đến
mà không đi đến bao giờ. Hắn chỉ biết anh ta người miền trong. Họ Ngụy Như, một
dòng họ nổi tiếng. Anh ta tù từ ngày đầu chống Pháp. Trước cả Nguyễn Văn Phố.
Anh ta không có khái niệm gì về mậu dịch, về tem phiếu, những sản phẩm của chế
độ đến với từng người mà thiếu nó cuộc sống không còn là cuộc sống. Khi lên trại
VQ hắn mới biết tiếng tăm của Cần vượt khỏi trại QN đến tất cả các trại. Bao
nhiêu người hỏi hắn:
– Anh có tù với Ngụy Như Cần không?
Dự còn vênh mặt lên:
– Tôi cùng một toán với Ngụy Như Cần, ở với Ngụy Như Cần mãi
đây.
Dự bốc phét đấy. Thấy người sang bắt quàng làm họ đấy. Dự
chưa hề cùng toán với Cần. Khi Dự từ Phố Lu về đây thì Cần đã trông trại cá rồi.
Dự nhận vơ thế để cho oai, để được anh em kính nể.
Người ta nhắc đến Cần vì Cần vượt ra ngoài khuôn khổ. Cần là
tận cùng của sự chịu đựng. Là nguồn an ủi cho những ai sa vào tù tội. Cần như
ngọn đèn Long Châu xa xôi, mù mịt tít chân trời đêm đêm toả sáng mà những người
gác đèn rải rác cửa sông trong này hướng về để tự động viên mình. Có ai tù lâu
như anh? Hai mươi ba năm. Không gia đình. Không người thân thích. Anh vẫn sống.
Mỗi người tù ít nhiều đều nhận ở anh một nguồn sức mạnh động viên, một lời an ủi
mà anh không biết.
Anh lại càng được nhiều người nhắc đến vì gần như không ai biết
mặt anh. Vì những con lợn rừng anh bẫy được khiêng về sân cơ quan, những gánh
cá tươi rói gánh về bếp cán bộ, những con rết to bằng cái đũa cả dài hơn gang
tay bò dựng đứng lạo xạo trong những cái chai cán bộ xách từ chỗ anh về để ngâm
rượu. Người ta bảo anh là gián điệp Pháp. Có người lại bảo là người của Mỹ, nắm
mạng lưới tình báo cả miền Trung. Có người bảo anh đã vận động thanh niên chống
lại cách mạng… Nhiều tin. Khác nhau. Nhưng giống nhau ở một điểm: Anh chống lại
cách mạng. Và không được xử. Hẳn những người bắt anh cũng không ngờ sẽ giữ anh
lâu đến thế. Và anh cũng không ngờ anh bị tù lâu như thế.
Hắn đến gặp anh. Vượt qua một cánh rừng. Tới con suối bên kia
rừng. Là cứ xuôi theo suối. Vừa nhô ra khỏi vạt rừng, bắt gặp con suối chặn
ngang, con suối dẫn tới Ngụy Như Cần, hắn bỗng khựng lại vì suýt vấp phải đàn
bướm. Một dải bướm vàng bay ngang qua mặt hắn. Hàng triệu con bay dọc suối. Những
cánh bướm màu hoa cải như một dải lụa dập dờn trên không trung uốn lượn theo
con suối ngoằn ngoèo. Nó từ đâu trôi tới và còn đi đâu nữa. Nó trôi giữa những
hàng cây bên suối cành lá khum khum làm thành một đường hầm. Nó cong xuống sát
mạt suối để tránh một tán cây xoè ngang. Nó bốc lên vì một cành cây khô gẫy nẳm
chỏng chơ trên suối. Những cánh bướm vàng tươi, mỏng manh giống hệt nhau bay
theo một hướng như trảy hội, quấy động không khí, lấp lánh lấp lánh trên nền
xanh đen nghiêm nghị của rừng.
Im lặng quá.
Như không có cả tiếng suối chảy róc rách. Như một huyền nhiệm
của vũ trụ, như sự bình yên thuở sơ khai. Và như một lời trách móc đối với hiện
tại. Lời trách móc của quá khứ gửi về hiện tại. Hắn đứng nhìn đàn bướm, những
cánh bướm xinh đẹp, mỏng manh giống hệt nhau diễu qua và bước theo chúng. Đàn
bướm dẫn hắn đi mãi theo suối. Chúng bay như đã có một chủ định, náo nức và kỷ
luật. Không một con nào đỗ lại dọc đường. Rõ ràng chúng phấn khởi với nhiệm vụ
rừng giao: Dẫn hắn đi dọc suối. Dẫn hắn tới một người đã biến thành cổ tích
ngay khi đang sống.
Đã tới cái đập ngăn dòng suối. Hắn biết sắp tới trại cá. Nước
dâng cao, mặt nước rộng ra, trong leo lẻo, hút về một con mương nhỏ xẻ dọc sườn
núi. Đó là con đập dẫn nước đến những ao cá. Trời ở đây như rộng ra. Vì núi thấp
xuống. Vì cây cối bị đốn quang. Hắn đã nhìn thấy bảy cái hồ hình bậc thang nối
tiếp nhau. Đó là ao cá. Là nơi Cần ở. Là sào huyệt của Cần. Như vui mừng vì đã
dẫn hắn tới nơi, đàn bướm vàng tản ra, loãng ra, quẩn lại toả trên bầu trời rộng
như một đám mây vàng lớn để chào từ biệt hắn. Rồi chúng thu lại, đậm đặc lại
thành một dòng suối vàng lơ lửng chui vào tán lá rừng, trôi trên dòng suối bạc,
lẩn mình trong đó.
Hắn đã tới được nơi con người đau khổ nhất trong những người
đau khổ. Những ao cá vuông vắn ăn vào sườn núi, chạy dài, nối nhau, công sức của
những người tù đã vạc núi, khiêng đá, làm đập, xẻ mương… Nước róc rách tràn từ
ao nọ xuống ao kia theo những cửa xây. Ao cao nhất nhận nước từ suối qua một
con mương nhỏ, chảy xuống những ao dưới. Đó là một phương pháp thay nước để nước
luôn có ô- xy. Những đàn cá rô phi, cá mè… ăn nổi, miệng ngớp ngớp, đứng xa
nhìn như những giọt mưa rơi.
Lại càng tĩnh lặng.
Khi đàn bướm đã mất hút trong ngàn, lại càng tĩnh lặng.
Nhà người coi ao cá đặt ở trung tâm, gần ao thứ ba, thứ tư. Hắn
đã nhìn thấy ngôi nhà con con dưới gốc cây lim to còn sót lại. Cạnh đó là mấy
luống rau mà khi tới gần hắn thấy một nửa là su hào, cải bắp, một nửa là rau muống
đầu mùa. Hắn bước tới căn nhà – nửa nhà nửa lều ấy. Không có một ai. Có thể anh
ta đã vào rừng. Hắn đứng nhìn quanh. Và hú. Có tiếng chim ríu rít vọng lại, rồi
một tiếng hú trả lời. Hắn nhìn về nơi ấy, một lùm cây nhỏ rậm rạp ven rừng. Lại
một tiếng hú từ đó. Một đàn chim từ đó bay lên. Và một người rẽ lùm cây đi ra,
bước về phía hắn, dáng đi quen thuộc của những người tù vừa đi vừa chúm miệng
thả vào không trnng những tiếng chim thánh thót. Đàn chim rừng ríu rít lượn
trên đầu anh ta bay theo anh ta tới giữa ao cá mới vút vào rừng. Đó là một người
xương xẩu, cao lớn. Hắn khung xương anh ta rất to. Và anh ta có một sức khoẻ kỳ
lạ để chịu đựng nhiều năm tháng đến thế. Nhưng cũng phải nói điều ấy là nhờ trại.
Anh được trại giao công việc sao cho có thể sống đến ngày về. Tóc bạc, râu đã
hoa râm, mắt lờ đờ, nhưng hàm răng còn tốt, trắng đều. Đấy mới thật là điều lạ.
Hắn nhìn dòng chữ số đỏ trên ngực áo và ống quần anh ta: AB077. Nghĩa là đã qua
Cổng Giời trước tất cả mọi người hắn gặp. Người ấy nhìn hắn:
– Lấy cá à? Giấy đâu?
Giọng miền Nam khiến hắn lại nhớ đến anh tù cắt tóc cho hắn hồi
còn ở xà lim 76.
Người ấy là Ngụy Như Cần. Hắn lắc đầu:
– Không. Tôi coi vườn trong. Ra thăm anh, chơi thôi. Đứng một
lúc Cần bảo:
– Vào trong này.
Chẳng ra nhiệt tình, chẳng ra lạnh nhạt. Hắn cứ tưởng Cần ở
biệt lập thế này, có người ra chơi hẳn sẽ thích lắm, nhưng hình như Cần đã quen
sống một mình. quen đối thoại một mình.
Lần đầu tiên hắn bước vào lán của một anh tù tự giác (Chỉ có
ba cái lán như vậy. Của Cần nuôi cá, của Thắng nuôi ong, và của Quí nhà bò). Một
cái giường, nội vụ gấp vuông vắn để ở đầu giường. Một cái hòm gỗ kê ở chân giường.
Quần áo tù cái gấp, cái treo. Dao quắm, cuốc, xẻng. Bếp, than, tro. Củi. Bát
đũa. Nồi to nồi nhỏ. Gạo đựng trong vại sành. Chum nước… Như một hộ độc thân
ngoài đời. Cần đun nước bằng nồi. Chè có mùi ám khói. Khi biết hắn chính là người
trại đã tha, rồi lại trở lại trại, Cần nhìn hắn một lần nữa:
– Thì ra anh.
Hoá ra dù ở biệt lập mãi đây. Cần cũng biết chuyện của hắn và
có vẻ có thiện cảm. Uống đi anh. Con người ta có số cả. Tránh không khỏi số
đâu. Anh cứ nghiệm mà xem. Biết được số mệnh của mình rồi thì cứ vậy mà sống. Đỡ
phải suy nghĩ. Đỡ được đau khổ. Thế ra anh là nhà báo à. Vâng. Tù lâu chưa. Bốn
năm rồi. Bốn năm còn khổ. Mười năm cũng còn khổ. Trên mười năm thì không khổ nữa.
Nhưng phải bặt vô âm tín gia đình cơ. Được thế, không khổ nữa đâu.
Hắn nghe mà rùng mình. Tôi thì tù đến mấy chục nă m cũng vẫn
khổ như ngày mới bị bắt thôi, anh ơi. Anh ở một mình thế này có buồn không? Mới
đầu thì buồn, nhưng quen rồi. Lắm lúc cũng thèm được về một toán, được nhốt,
cho nó có anh có em. Bọn tôi chỉ mong được như anh. Tự do lại không thiếu thốn.
Thì cái gì cũng thế. Được cái này mất cái khác. Anh có nhớ nhà không? Không.
Quên hết rồi. Anh có nhận được tin nhà không? Không, may thế đấy. Họ không có
tin mình. Có lẽ họ cũng chết hết cả rồi. Cũng có thể còn một số người. Nhưng
mình đã quen nghĩ là họ chết rồi. Họ cũng nghĩ mình chết rồi. Đừng để họ biết
mình còn sống. Họ chỉ khổ thêm. Họ quen nghĩ là mình chết rồi. Như thế tốt cho
mình, tốt cho họ. Anh vẫn còn nhớ nhà? Thế thì còn khổ đấy. Nhà không còn ai
thì ở đây cũng được, cũng tốt. Hoặc nhà còn người nhưng quên đi được ở đây cũng
tốt. Anh quên đi sẽ thấy ở được đấy. Nhưng chưa quên ngay được đâu. Phải trên
mười lăm năm, mà phải bạt vô âm tín gia đình cơ. Quen chứ. Sao lại không quen?
Cái gì cũng quen được hết. Họ đã quen mình chết rồi thì đừng để họ biết mình
còn sống. Thì chính tôi đã quen đây. Bây giờ nghĩ về ngày trước lại thấy mình
không quen cơ đấy.
Những điều ghê gớm ấy Cần nói với vẻ thản nhiên như nói về một
người nào khác. Chẳng xúc động, đau khổ, hoặc sầu não, than thân trách phận. Cần
đã quen với sự không có họ. Họ cũng đã quen với sự không có Cần. Chẳng bao giờ
đôi bên còn nghĩ đến chuyện gặp lại nhau. Cần chẳng một lời kêu ca oán trách rằng
Cần đã tù quá lâu. Rằng bao nhiêu đợt tù vào, tù ra Cần vẫn ở trong trại. Mọi
người đều quên Cần. Và Cần thì chẳng nhớ được gì. Cần cứ thế sống. Chẳng nghĩ.
Chỉ có buổi tối vẫn còn buồn tý chút. Mười mấy năm nay đêm nào cũng một mình
mình với rừng già. Anh không sợ à? Chẳng có gì mà sợ. Chỉ có rừng cây tối đen
sâu thẳm thôi. Hổ không có. Báo cũng không. Ma cũng không có đâu anh ơi. Giọng
Cần nuối tiếc vì một hy vọng đã tắt ngấm. Hắn hiểu sự thất vọng của Cần. Vào thời
gian ấy, từ 75 trở lại QN hắn cũng mong có ma. Mưa phùn như nén rừng xuống. Như
gói rừng lại. Hắn gọi ma. Gọi con ma ở vườn trong vẫn ngoáy mũi trêu chọc anh
chăn bò ra trò chuyện. Nhưng chỉ có rừng không biết xót thương, cũng chàng biết
chuyện trò. Rưng trĩu mưa phùn thản nhiên với nỗi cô đơn mênh mông của mình, chẳng
chú ý gì đến hắn. Hắn hiểu những đêm dài của Cần, của Thắng, của Quý. Cái khổ
nhất là con người không thể biến thành cây cỏ được.
Cần không nhìn hắn. Cần kể chuyện con khỉ cách đây chục năm.
Cần bắt được nó khi nó còn bé tý, khi nó còn bú mẹ. Sau một đêm mưa bão, sáng
ra Cần thấy nó nằm co quắp dưới một gốc cây, mắt nhắm nghiền. Nó ướt và lạnh
cóng. Cần ủ nó vào ngực, sưởi ấm cho nó. Nó cựa quậy. Nó mở mắt, chớp chớp. Sẵn
có hộp sữa chác được của một anh lâm sản, Cần pha vào bát, lấy cùi dìa bón cho
nó. Rồi nó liếm láp được sữa trong đĩa men. Cần nuôi nó lớn. Cần bắt rận cho
nó. Nó bắt chấy cho Cần. Cần dạy dỗ nó, quát bảo nó. Nó biết nhặt rau, cho thêm
củi vào bếp. Nó biết cầm đũa, ăn cơm bằng bát. Biết gắp cả thức ăn. Anh chẳng
hiểu khi có nó ở nhà, khi có nó ăn cùng, khi có nó bé con con ngồi đối diện ở
mâm vui thế nào đâu. Như có một người nữa ở với mình. Đi đâu cũng có nó. Nó ra
ao cá với tôi. Ra vườn rau với tôi. Tôi mắng mỏ, bảo ban, giảng giải cho nó mọi
chuyện.
Thế rồi việc đến tai ông giám thị. Ông ra tận đây xem và
thích con khỉ lắm. Tôi thì tôi sợ. Tôi chỉ muốn nó chuyền vào rừng, hay ẩn vào
bụi cây nào đó, nhưng nó cứ quanh quẩn trong nhà. Rồi lại nhảy lên vai tôi, nhổ
tóc bạc cho tôi trước mặt ông giám thị. Thấy ông ấy cười tán thưởng nó càng trổ
tài, cầm rổ chạy ra vườn hái rau, vặt ớt. Tất cả là tại tôi. Tại tôi không biết
dạy dỗ nó đến nơi đến chốn. Quả nhiên ông ấy bắt tôi nộp cho ông ấy con khỉ.
Khi ấy con khỉ đã to rồi. Lông vàng mượt. Nó nằm yên cho tôi đai vào cổ nó cái
vòng dây da mà ông giám thị đem đến, lim dim thích thú như được đeo một đồ
trang sức. Tôi nói thầm trong lòng: “Chạy đi. Trốn đi khỉ con” Và chỉ muốn bấu
mạnh vào nó, cho nó đau, nó sợ: nó chạy đi nhưng không dám. Thấy sợi xích sắt
nó còn thích, còn nghịch nữa cơ chứ. Mãi tới khi ông giám thị cầm xích lôi đi
nó mới hiểu. Nó cắn xích, giằng ra, không chịu đi. Nó cứ quay lại nhìn tôi. Nó
khóc. Nó chảy nước mắt thật anh ạ. Tôi cũng khóc. Nhưng phải quay đi, giấu ông
giám thị. Đừng để ông ấy biết mình khóc. Đừng để ông ấy biết mình tiếc mình
thương con khỉ.
Thế là lại lũi cũi một mình. Đi một mình. Về một mình. Ngủ một
mình. Nấu nướng một mình. ăn cơm một mình. Chẳng có nó ngồi bên xem mình làm,
nghe mình giảng cho nó. Rồi tôi nuôi con trăn… Mắt Cần nhìn đăm đăm vào những
ngày đó trong quá khứ. Cần nuôi con trăn đã gần chục năm. Chỉ sau khi con khỉ bị
bắt vài tháng. Trước con cá chép ba năm (đúng một lệnh). Có lẽ nó chết chứ nó
không bỏ Cần đâu. Anh có biết trăn sống được bao lâu không. Con trăn này ít nhất
cũng gần mười tuổi. Tôi nuôi nó gần mười năm. Nó ở đây. Trong nhà này. Có hôm
nó vào rừng chơi. Cả ngày. Cả đêm. Nhưng vẫn về. Trước còn phải buộc dây dắt
nó. Rồi tôi đi đâu nó đi đấy. Chỉ vỗ vào nó là nó hiểu. Nó ngủ với tôi. ăn với
tôi. Như con khỉ. Nhưng rút kinh nghiệm con khỉ, tôi dạy nó biết sợ người lạ. Bất
kỳ ai đến là nó luồn vào rừng, không để cho nhìn thấy nó. Anh em phạm cũng thế.
Cán bộ cũng thế. Vì vậy nó mới an toàn ở với tôi được gần mười năm. Giá tôi
cũng dạy con khỉ như vậy thì đâu đến nỗi. Con trăn chẳng thể bằng con khỉ được,
nhưng nó cũng biết nghe tôi. Nó không biết nói thôi. Chứ cứ như người vậy. Có
nó tôi đỡ bao nhiêu.
Hắn thấy Cần như đã biến được thành cây cỏ. Quên hết gia đình
nhưng lại thương con khỉ, tiếc con trăn. Con trăn vào rừng rồi không về. Chắc
nó chết ở đâu. Chẳng con gì bắt được nó. Nó to lắm. Mới đầu cứ bần thần cả người.
Như chết một đứa con. Rồi cũng quen. Đêm đêm ngồi một mình ở bờ ao nghe cá đớp.
Nhìn vào rừng tối đen thỉnh thoảng lại rào rào con thú chạy. Rồi nhìn sao đổi
ngôi. Mỗi ngôi sao đổi ngôi là một người chết phải không anh? Nếu vậy nhiều người
chết. Đêm nào cũng có người chết. Tự nhiên thèm một tiếng người, được về một
toán. Được nhốt cho có anh có em, có câu chuyện câu trò. Đấy là nghĩ như vậy chứ
sao thực hiện được. Phải quen thôi. Tất cả là quen. Nhưng này, anh ăn cơm chưa?
ãn rồi à. ăn thêm với tôi cho vui. Quay vào bờ vách ăn một mình chán lắm rồi.
Bây giờ tôi mới nấu đây. à, mà bóng nắng đã tới giọt gianh rồi. Chờ tý đã nhé.
Cần cầm nồi ra ao cá gần nhất, ngay trước lều. ở đó anh bắc một
cầu rửa bằng hai thân cây gỗ đâm ra ao. Anh cầm nồi gõ liên thanh rồi nhìn xuống
ao chờ đợi Hắn theo ra nhìn xuống ao chỉ thấy bóng hắn, bóng Cần lộn ngược trên
ao sân lờ lờ nước ngán. Cần xua tay:
– Anh đi vào quá trong kia. Có người. Nó sợ.
Không hiểu một chút gì, hắn lùi vào, ngồi xuống, nấp sau một
lùm cây nhỏ cạnh ao, chờ đợi, Cần lại gõ vào nồi và bắt mổm mấy tiếng như người
chép miệng khan. Mặt ao bỗng nhiên rung rinh. Một bóng đen dài loang loáng cạnh
cầu rửa làm mặt nước càng chuyển động mạnh. Cần cười. Nụ cười ngây thơ, như nụ
cười con trẻ trên gương mặt đen đủi phong sương. Anh lấy tay vét cơm, đặt chìm
cả bàn tay đựng cơm dưới nước. Hắn nín thở. Cố căng mắt ra nhìn. Và thấy một
cái đầu xanh bóng cong cong nhô lên. Một hàng vây lưng của một con cá dài dễ đến
gần một mét từ từ dựng lên cắt mặt ao và cái đuôi của nó ở phía sau quẫy nước
sôi sục.
Cần dịu dàng mắng bảo:
– Khe khẽ chứ. Làm gì mà tớn lên thế.
Nửa phần đuôi nhô lên mặt nước xoè ra như một cái quạt hồng hồng
dịu hẳn lại. Nó đưa đi đưa lại đều đặn làm gợn lên một làn nước mỏng. Anh bóp
nát một khúc sắn trong nồi và dìm hẳn nồi xuống nước. Một tay cầm nồi, tay kia
luổn xuống (hẳn là xuống dưới bụng nó) và nâng nó lên dần dần. Thoạt đầu là cả
bộ vây lưng xoè ra với những gai sắc nhọn, vẩy lưng xanh thẫm, cái lườn cong
ròng ròng nước, hai vi ở mang đỏ hồng mềm mại đung đưa, sợi râu dài bên mép
lõng thõng và cái bụng trắng xoá như bạc. Con cá đổ kềnh, nằm ngang trên tay Cần,
ngoan ngoãn và thoả mãn. Cả đời hắn chưa trông thấy con cá nào như vậy. Nó là
siêu phàm. là nghệ thuật, lại là một cái gì hư ảo hoang đường.
Con cá nằm im cho Cần vuốt ve. Cân lẩm bẩm những điều gì hắn
cố nghe nhưng không rõ. Rồi Cần hạ dần con cá xuống nước, vỗ vỗ vào nó, vuốt dọc
thân nó xoai xoải như một cái gò nhỏ đang chìm xuống sâu. Hắn chỉ nhìn thấy
loáng cái sóng lưng xanh đen của nó uốn lượn và mất hút trong nước. Như chẳng để
ý gì đến vẻ ngạc nhiên của hắn, Cần rửa nồi, vo gạo. Về khoản gạo, Cần có vẻ dư
dật. Anh được lĩnh một suất gạo hai mốt cân, ngang với anh em lâm sản, lò vôi.
Anh lại có một nương sắn riêng, một vườn rau riêng. Anh có nồi đựng nước tiểu.
Anh có nhà xí, lấy phân tăng gia. Thỉnh thoảng anh làm một đợt phân nhà bò, ném
xuống ao cá, bớt lại vài gánh thì cứ thoải mái mà giồng.
Cần ăn khá sang. Cá. Thịt. Cá dưới ao, muốn ăn thì câu. Thịt
thì chịu khó làm bẫy. Món thường xuyên là sóc. Sóc thì nhiều lắm. Coi như không
bao giờ hết. ăn đến phát chán. Hôm nay lại trúng bẫy ba con sóc. Cần và hắn ăn
với nhau một bữa cơm thịt sóc. Vừa so xong đũa, Cần như sực nhớ ra điều gì, vào
rừng ngắt mấy búp lá để trên mâm. Và lấy ra hai cái chén. Lại bước ra cửa, ngay
chỗ bậu cửa phía ngoài ngó trước ngó sau lấy ngón chân đá đá và cày dũi xuống đất.
Đất ở đó tơi như bột tung lên bụi mù. Cần cúi xuống moi lên một bi-đông nhựa,
cùng loại với cái bi-đông của hắn. Anh phủi bụi, mở hai lần nắp và nút nhựa,
rót ra chén thứ nước trắng trong veo, toả mùi thơm, chỉ ngửi cũng đã thấy say
ngây ngất. Anh lại vặn nắp bi-đông, vùi lại chỗ cũ, chỗ mà ai ra vào cũng phải
đặt chân lên. Thật là một nơi yểm bất ngờ và kín đáo. Đó là biểu hiện của lòng
tin, hơn thế lòng quý mến.
Xong xuôi Cần mới ngồi vào mâm. Hớp rượu tan ra đến tận đầu
ngón chân, ngón tay hắn. Cần đưa búp lá rừng cho hắn:
– Anh ăn đi. Để hết hơi rượu.
Cần cũng vặt mấy lá cho vào mồm nhai và cầm hai cái chén đi rửa,
rồi mới trở lại mâm. Sự cẩn thận đó không thừa. Rượu là thứ phạm qui rất nặng.
Thịt sóc nướng ngọt và thơm. Xương sóc giòn. Cần chọn một miếng nạc nhất, miếng
thịt đùi gắp cho hắn và cũng để riêng ra cạnh mâm cho mình một miếng như thế,
nhưng không ăn.
Cơm xong như những người độc thân, Cần xếp bát đũa vào nồi, để
đấy. Anh ngồi thẳng người, mồm chúm lại, cổ nổi gân và chăm chú nhìn lên mái
nhà. Từ cổ họng Cần bật ra những tiếng:
– Kắc… Kè è…
Hắn nhìn lên mái nhà, nơi ánh mắt của Cần đạt tới. Kề với cây
cột gỗ sát vách là những con sóc nhồi bông.
– Kắc… Kè…
Tiếng tắc kè kêu lần thứ hai. Con sóc nhồi bông động đậy. Và
hình như có một đôi mắt ló ra.
Những tiếng “kắc kè” tiếp theo ngắt quãng và như môi lúc một
đuối hơi. Hai con gì đó nhô hẳn ra, phóng theo cột, xuống giường và bò vào mâm,
một miếng gỗ vuông có gờ ở bốn chung quanh. Không phải thằn lằn. Hai con tắc kè
loại bự. Sau này hắn đã đi nhập tắc kè cho ngoại thương, qua tay hắn hàng nghìn
con tắc kè, nhưng không có con nào to như vậy. Có lẽ chúng to gần bằng con rồng
đất già Đô bắt được ngày nào. Nếu lắp cho mỗi con một cái vây lưng nhấp nhô như
riềm cờ hội chạy từ gáy xuống giáp đuôi thì hệt con khủng long bé tí… Chúng
giương cặp mắt nhìn Cần, hai cái đuôi dài thõng thượt, ve vẩy. Cần nhìn chúng
trìu mến. Anh lấy tay vuốt trên lưng mỗi con. Lưng chúng khi mới xuống màu xám
tối đã sáng hơn một chút. Những mảng mốc trên mình trắng thêm một chút. Có sắc
xanh thẫm từ phía lưng và nhạt dần về phía bụng. Một con đập đập một chân trước.
Con kia ngọ nguậy cái đầu, bước một hai bước về miếng đùi sóc còn lại trên mâm.
(Thì ra Cần để phần cho nó). Cần lấy ngón tay khẽ đặt lên mình nó, giữ nó lại,
miệng quát:
– Ki! Hư nhé. Ai cho ăn mà ăn. Trông bạn mày kìa, Tô nó ngoan
thế chứ.
Mỗi con một tên. Hai con giống hét nhau, nhưng Cần vẫn nhận
ra con nào là Ki, con nào là Tô.
Con tắc kè có tên Ki ngoan ngoãn nằm im, dù anh đã nhấc ngón
tay khỏi lưng nó.
Hài lòng, anh xé miếng thịt sóc thành những sợi nhỏ. Chúng
ăn. Cách chúng ăn giống cách con thạch sùng bắt mồi. Toàn thân không động đậy.
Cái đầu hơi lúc lắc, lưỡi từ trong miệng bật ra phía trước rất nhanh, và kéo
theo sợi thịt sóc vào miệng. Chúng ăn cả cơm. Cần chăm chú nhìn chúng ăn, vẻ âu
yếm và hài lòng. Khi miếng thịt sóc đã trơ xương, anh bảo chúng:
– ăn thế thôi nhé, no quá rồi đây này.
Hai cái bụng mỏng đã càng mọng. Anh dẹp nốt xương sóc, cơm
vãi còn trên mâm. Và nhấc hai con tắc kè về một góc mâm..
– Nào tập luyện một tý nhé.
Anh lấy đũa gõ vào bát một tiếng. Hai con tắc kè chạy quanh
mâm, con nọ chèn con kia để vượt lên trước hệt những tay đua lành nghề, cảnh tượng
trông thật ngộ nghĩnh.
Hết ba vòng mâm, anh cầm đũa gõ xuống mâm một tiếng “cạch!. Chúng dừng lại thở
phập phồng. Anh nhấc từng con lên xem chân, xem bụng nó, rồi reo:
– Hình như mang trứng rồi đây này. Anh xem giúp tôi có phải
con Tô mang trứng dây không? Quả là có cái gì đó tròn tròn nhỏ xíu phồng lên dưới
làn da bụng con Tô.
– Chỉ tuần nữa đẻ thôi. Ngoan lắm, con ạ. – Anh nói với nó và
lại đặt hai con xuống mâm, con nọ trước con kia. Tay anh cầm đuôi con trước quệt
quệt vào mồm con sau. Nó biết nó phải làm gì. Nó há mồm ngậm lấy đuôi bạn nó.
“Keng”. Hiệu lệnh từ cái bát vang lên. Chúng đi bước một, con sau ngậm đuôi con
trước, một kiểu diễu hành. Hắn hết nhìn cảnh tượng kỳ lạ đó, lại nhìn khuôn mạt
Cần đang chăm chú vào hai con vật hoang đã anh nuôi. Nét mặt anh dãn ra, thơ trẻ
say mê. Hắn cả quyết lúc ấy anh chẳng nhớ mình là ai, đang ở đâu, đã bao nhiêu
tuổi. Trò cuối cùng Cần bắt hai con tắc kè biểu diễn là chạy thi dưới đất. Cũng
có vạch xuất phát: Sát tường phía trong. Và cái đích phải tới: Bậc cửa ra vào.
Anh thưởng cho chúng theo cách của anh khi cả hai con đã tới
đích: Anh giơ bàn tay khum khum che lên hai con vật. Chúng phóng thẳng vào ống
tay áo anh, lục sục chui qua nách, tụt xuống bụng, vòng lên ngực và ló đầu ở
sau gáy. Anh bảo chúng:
– Thôi, về chỗ. Hôm nay có khách, chơi thế thôi. Và lại một
tiếng tắc kè từ bụng anh âm u phát ra nơi cổ, hoang đã, cô đơn, gọi bạn. Con tắc
kè ở gáy anh đáp lại… Đó là những điều kỳ lạ nhất về loại vật mà hắn biết. Cần
bảo hắn:
– Loài nào cũng vậy. Mình yêu mến chúng, cho chúng ăn, mình
quí nó là nó quí mình. Nó biết hết đấy!
Hắn chỉ gặp Cần có mỗi lần vào hôm ấy. Chủ nhật 9 tháng 4. Hắn nhớ rõ ngày vì chủ nhật sau là 16 tháng 4, hắn đang lùa cá dưới suối thì máy bay Mỹ ném bom ồ ạt trở lại, bay vòng qua QN. Ngọc và con Nguyệt kẹt dưới phà. Và ít ngày sau hắn chuyển lên VQ, chung một khoá tay với già Dô, gặp Phố, tù 18 năm mới chuyển từ Phú Sơn về đó.
Khi đi qua cây vả mọc bên suối, nhìn thấy cái ao cá đầu tiên
loá nắng, hắn khựng lại. Đã tới nơi. Đây là cái ao thấp nhất. Cái ao cuối cùng.
Nhưng từ phía này đi lại nó là cái ao đầu tiên.
Xin đi làm không được. Nắng mới lên, không ai hút thuốc cuộn
nữa, hắn theo người ta vào rừng lấy lá găng. Một thứ lá nhỏ vò ra, lọc, để đông
lại, làm thạch. Cái thời ở QN hắn đã được ăn thạch găng mấy lần, của Cương,
toán lâm sản, lấy ở rừng về, và của Giang chác được. Hắn cùng mấy người chặt
cành gàng, để héo và đập đập cho lá rụng rồi cho vào bao. Vất vả lắm. Lá khô, lồng
cồng một bao chẳng được mấy tý. Nhưng có việc gì không vất vả? ăn ngủ tại ngoài
ấy, nhờ người quen của một người cùng đi. Thế rồi qua trò chuyện hắn biết hắn
đang ở gần QN, rất gần ao cá, những cái ao cá nổi tiếng cả một vùng. Khi mọi
người chở lá găng về thành phố, hắn vào rừng. Hắn nhận ra phương hướng bằng mỏm
rừng cao nhất, nơi Sáng đã trốn mấy lần và bị bắt trở lại. Hắn đi. Một mình hắn
đi ngược sâu nữa vào rừng. Như có một ma lực, không sao cưỡng được. Hắn muốn
vào trại cá gặp lại Cần. Hắn muốn vào vườn trong. Vào đấy thôi, chứ chẳng ra
khu vườn ngoài làm gì. Rồi hắn lại nghĩ: Thôi, gặp lại Cần, nhìn trại cá một tý
là đủ… Cũng chẳng thích thú gì trở lại nơi mình vừa bị đày đoạ (Chỉ tới trại cá
xem Cần đã được ra chưa? Thế thôi). Đó là chưa kể ra vườn trong có thể gặp lại
các ông bà cán bộ. Chỉ nguyên chuyện xưng hô thôi đã khó rồi. Gọi họ là ông là
bà thì hắn không muốn. Mà gọi là anh là chị nghe có vẻ thế nào, cứ như một kiểu
qua sông đấm b. vào sóng. Hắn đã nhìn thấy trại cá. Nhìn thấy cái lều của Cần.
Vẫn là rừng rậm ấy. Thăm thẳm. Xanh đen. Những dây leo gốc đẫy một vòng tay, lá
to như cái nón với những đốt dài đầy lông măng nhoai ra hung dừ, hăm doạ, khiến
hắn có cảm giác nếu Sáng trốn tù mà leo lên cây cao, đứng im trên ấy chỉ một
ngày thôi là sẽ bị dây leó quấn chết, những dây leo vươn lên cao mãi, ngọn nọ
xoắn bện vào ngọn kia, đổ xuống phủ thành một tấm thảm dày trên tán lá, rủ xuống
bìa rừng, tưởng chừng một con chim không thể hạ cánh. Vẫn tiếng nước rỉ rách
tràn từ ao nọ xuống ao kia như tiếng suối. Hắn bước đến gần và gọi to:
– Anh Cần ơi! Anh Cần ơi! Hú.
Tiếng hú đập vào rừng sâu, vọng lại từng đợt từ gần đến xa.
Một người bước ra. Quần áo xám, số chắn, cao gầy, cổ ngẳng lộ
hầu, má hóp, nét mặt đau khổ và cam chịu..
Hai người nhìn nhau trân trân và cùng ngạc nhiên như nhau..
– Ông hỏi anh Cần ạ?
Người ấy lễ phép hỏi hắn. Đúng là kiểu cách của những người
tù, kiểu cách của hắn mấy năm trước.
– Anh Cần được tha rồi, hả anh?
– Báo cáo ông, anh Cần được tha tháng trước ạ.
Hắn không giấu được mừng vui, vì điều hắn mong đợi đã thành sự
thật. Hắn nói to ý nghĩ: Thế là cuối cùng anh ấy cũng được tự do. Anh ấy tù đến
bây giờ là hai mươi nhăm năm.
Người ấy chắp hai tay vào nhau kính cẩn:
– Ông là người nhà anh Cần?
– Đừng gọi tôi là ông. Tôi cũng tù ở đây.
– Ông… Anh được tha lâu chưa?
– Tôi được tha hơn hai năm rồi. Nhưng tha ở trại khác. Trại
VQ.
– Anh với anh Cần…
– Tôi là bạn tù với anh ấy.
Người tù khe khẽ:
– Thế thì… Anh ấy chết rồi.
Như bị đánh mạnh vào sọ, hắn đứng lặng một lúc, rồi ngơ ngác:
– Sao? Anh Cần được tha rồi cơ mà.
– Vâng. Anh ấy đã có lệnh tha, nhưng chưa ra khỏi trại.
Lại càng không hiểu ra sao nữa. Hắn đứng ngây ngô, nhìn anh
tù như muốn nuốt chửng anh ta.
– Anh ấy tự tử chết.
– Có lệnh tha mà lại tự tử. Anh nói sao, tôi không hiểu?
– Lệnh tha đưa anh ấy sáng hôm trước. Mọi người tưởng anh ấy
đã ra ngoài xã hội. Thì hôm sau một anh lâm sản thấy anh ấy treo cổ lủng lẳng
trong rừng, chết cứng từ bao giờ.
Thật khủng khiếp. Không thể nào tin được. Hắn bàng hoàng:
– Chuyện anh ấy tự tử giữ kín lắm, nhưng rồi ai cũng biết.
– Anh ấy chôn ở đâu?
– Khu Gò-Thằng-Công.
Lại khu Gò-Thằng-Công. Lại một cái mả mới cạnh mả Lỷ Xìn Cắm.
Anh ấy là người tự do rồi. Sao vẫn chôn ở đấy?
Có tiếng tắc kè rúc ở đâu đó. Hắn ngẩng lên nhìn mái nhà. Mấy
con sóc nhồi bông đã biến mất. Đó là tiếng kêu của con tắc kè Cần nuôi vẫn nhớ
ánh, gợi anh hay con tắc kè hoang dã. Hắn hỏi:
– Con tắc kè còn không?
– Con tắc kè nào?
– Còn con cá chép?
Anh tù càng không hiểu. Hắn đứng lên vớ lấy cái xoong nhôm và
cái đũa, mang ra cầu ao gõ gõ… Anh tù chợt kêu lên:
– Con cá chép đưa về bếp cán bộ rồi.
Lại một bất ngờ nữa. Anh tù giải thích:
– Anh Cần chết. Tôi ra thay. Mấy hôm liền nó cứ nổi lên bơi dọc
ao, rồi há mồm ngớp ngớp ở chỗ cầu rửa này. Trông như một thằng bé con. Ông quản
giáo thấy nó. Ông ấy rút súng bắn. Máu đỏ ao. Con cá to thật đấy. Dài gần quết
đất, hai người khiêng mới nổi.
Hắn dường như không nói được nữa. Họ đi vào nhà. Mãi sau hắn
mới hỏi:
– Anh bọp hay án”
– Tôi án bốn năm. Giam cứu một năm. Lên đây hai năm, còn một
năm nữa thôi. Liệu có được giảm không? Tội tôi khó giảm lắm. Tôi biết.
– Anh mắc tội gì?
– Tôi chỉ là đuôi vụ thôi. Đầu vụ lĩnh án tử hình. Thằng Cảnh
ăn cắp gạo. Tôi chỉ tiêu thụ cho nó một ít. Nào tôi đâu có biết nó đánh chìm cả
một thuyền gạo để phi tang…
Hắn vét túi đưa cho anh tù tất cả số thuốc cuộn còn lại, chào
anh, rồi ngược trở ra, vẫn chưa hết bàng hoàng về cái chết của Cần. Cần chết
khi được tự do. Vì sao? Nó làm anh choáng ngợp. Nó làm gia đình anh phải đau khổ
lần nữa? Nó ném anh vào một thế giới khác lạ, không phải của anh mà anh đã từ bỏ
được trong mấy chục năm qua? Nó làm anh phải xa rời thế giới đích thực của anh,
cuộc sống cây cỏ rừng sâu của anh? Hay đơn giản chỉ là anh thấy mình không cần
sống nữa? Sống thế đủ rồi. Đến đây là giới hạn, là đã trả xong món nợ đời, chết
được rồi.
Không dám nói với Ngọc chuyện kinh hoàng ấy, hắn thu thập tiền
nong bán lá găng, định đi chuyến nữa, thì ông Thưởng, trưởng phòng lao động đến.
Lại một đệ tử đèo ông, và khi ông lên gác gặp hắn. Anh ta vui vẻ ngồi chờ ông ở
cổng với cái xe đạp. Ông Thưởng ôm lấy hắn:
– Cuộc đời là thế đấy. Ai cũng hiểu anh bị oan khuất, nhưng
có ai dám cứu anh ngoài ông Hoàng? Tôi cũng là một thằng hèn. Tôi thật lòng muốn
giúp đỡ anh, nhưng bị chúng nó bao vây. Thằng Khuổng không nói làm gì. Đây là
chủ trương của ông Trần, của lãnh đạo thành phố. Không thể vi phạm nguyên tắc.
Tôi không thể cấp giấy cho anh khi không có giấy tiểu khu. Tôi biết anh chẳng
oán trách gì tôi. Anh thông cảm với tôi điều ấy. Nhưng chỉ mình tôi biết tôi có
lỗi với anh. Chỉ tôi biết rằng tôi vẫn có thể giúp được anh mà tôi sợ.
Ông rút trong túi áo ngực ra một tờ giấy in theo mẫu, ông đã
viết vào đó những dòng chữ cần thiết, ký tên đóng dấu. Tờ giấy phòng lao động
khu phố giới thiệu hắn đi lao động ở xí nghiệp đánh cá. Tờ giấy mà hắn không
dám nghĩ tới nữa. Hắn cầm tờ giấy, không tin ở mắt mình. Hắn nhìn ông Thưởng.
Ông Thưởng nói như giải thích cho hắn:
– Tôi biết thằng Khuổng làm theo lệnh ông Trần. Hẳn anh cũng
biết như vậy. Nhưng tôi giới thiệu anh đi lao động. Không có giấy tiểu khu tôi
vẫn cứ ký cho anh. Tôi không ký cho anh đi ăn trộm, ăn cắp. Tôi ký giấy cho anh
đi lao động.
Ông nói to, giọng khẳng định như đang nói với ai đó. Đúng là
không phải ông chỉ nói với hắn. Ông còn nói với một người vô hình nào nữa cũng
đang có mặt ở đây ông nhấn mạnh mấy tiếng đi lao động, rồi nói tiếp với giọng
gay gắt như thách thức người vô hình đang đứng trước mặt ông:
– Kỷ luật tôi thì kỷ luật. Tôi không sợ. Tôi không ký giấy
cho người ta đi ăn trộm ăn cắp. Tôi ký giấy cho người ta đi lao động. Người ta
có quyền lao động.
Rõ ràng đây không phải lần đầu tiên ông nói điều này với người
vô hình. Ông đã rất nhiều lần lẩm nhẩm một mình, tranh cãi với người vô hình
toàn năng đang im lặng buộc tội ông trước khi ông ký giấy cho hắn. Và dù đưa giấy
cho hắn rồi, sự việc đã xong rồi, ông lại càng phải nói, phải trình bày rằng
mình vô tội vì người vô hình càng lừng lững trước mạt ông, mím môi nghiêm khác,
giận dữ nhìn ông. Hắn hiểu rằng ai cũng có một người vô hình để mà trình bày, để
mà sợ sệt và thầm cãi lại sau lưng. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như
hình với bóng, cả trong giấc ngủ. Nhưng thật ít người dám như ông vùng lên chống
lại vì cái giá phải trả thường là cuộc đời, là sinh mạng. Vẫn cầm tờ giấy trên
tay, hắn im lặng nhìn ông. Rồi vội quay đi. Không giữ được rồi. Hai giọt nước mắt
tròn to đã bị mi mắt hắn kẹp vỡ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét